SƯ TỔ ĐẠI NINH
(VÔ NHẤT ĐẠI SƯ
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-DI.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Kính thưa đại chúng,
Tôi bẩm chất gầy yếu,
trong vài năm trở lại đây, tinh thần cùng sức khỏe thật ra đều suy kém. Vì ngại
cơn vô thường chợt đến, nên nguyện an thất tịnh dưỡng, trì niệm cho mãn kiếp gởi
tạm sống thừa! Trước kỳ tự tứ vừa qua, vào ngày 12 tháng 7 Âl năm Nhâm Thân
1992, Tôi có viết thư cho thầy Minh Tánh và Toại Châu nhờ thầy thay lời, xin đại
chúng gồm chư Đại Đức Tăng ni và Phật tử, vui lòng thứ miễn cho việc tiếp xúc
cùng làm lễ khánh tuế sau khi mãn hạ. Nhưng khi hỏi lại, thì thầy Toại Châu nói
đã đánh mất bức thư ấy, nên chẳng tuyên bố. Do đó mà nhiều người đến thăm không
được gặp, nên sanh lòng phiền muộn.
Kỳ Bồ Tát vừa rồi Sư
Cô Phương Liên (Thích nữ Thanh Nguyệt) có nhắc qua việc ấy (2-8-1992) nhờ thầy
Toại Châu trùng tuyên lại những lời của tôi, mà thầy cũng quên luôn. Trong ngày
giỗ Tổ này e đại chúng trách rằng: Tôi bỏ quên, không để tâm nhắc nhở, nên xin
có ít lời khuyên tấn, tạm gọi là giữ cho xong phần nào vai trò của người lớn
trong đạo. Nhưng vì còn lo thầy Toại Châu đau yếu, rồi quên trước quên sau, nên
nhân tiện nhờ Sư Cô Phương Liên (Thích nữ THANH NGUYỆT) là người thân
cận (Trưởng tử tôi) thay nhọc chư tăng ni, đọc qua mấy lời phụng khuyến cho đại
chúng được rõ:
Thưa chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni :
Trước tiên, tôi kính thăm tất cả đều được an lành và siêng năng tiến đạo. Thứ đến, xin có đôi lời phụng khuyến.
Từ xưa đến nay, trong
nhà chùa vào trong những ngày vía Tổ chư Tăng Ni thường có lời phục nguyện:
“Tông phong vĩnh chấn,
Tổ ấn trùng quang”.
Nói riêng theo pháp
môn “NIỆM PHẬT” tức là nguyện cho tông “TỊNH ĐỘ” do chư Tổ tuyên dương, được chấn
chỉnh và hưng thạnh phải như thế nào? Tôi xin nêu ra mấy chi tiết. Như trong “Bồ
Tát Giới Kinh” đã dạy: “Già chết gần kề. Phật, pháp sắp diệt. Các Phật tử vì muốn
đắc đạo phải nên nhứt tâm cần cầu tinh tiến”. Câu kinh này đưa ra ba điều kiện:
1.- Phải nghĩ đến sự già
chết gần kề.
2.- Phải thương lo cho Phật
pháp suy vong sắp diệt.
3.- Phải siêng năng tinh tiến
tu hành.
Giữ được ba điều kiện ấy,
tức có thể làm cho: “Tông phong vĩnh chấn – Tổ
ấn trùng quang”.
Về điều thứ nhất:
– Kiếp người giả tạm,
nào có bao lâu? Trong ấy biết bao nhiêu sự vui buồn, nhục, vinh, lo phiền, nhọc
nhằn, già yếu, đau bịnh! Nếu ta không nghĩ đến thân người mong manh nhiều khổ lụy,
mà cố gắng tu thiện, cứ mãi tạo nghiệp, để rồi bị chìm đắm, có phải là hờ hững
mê lầm chăng?
Về điều thứ hai:
– Đức Phật ra đời và
chánh Pháp của ngài rất khó gặp, như hoa “Ưu Đàm Bát La” trong thời kiếp lâu
xa, mới nở một lần. Nay đã đi sâu vào buổi mạt pháp, đạo Phật sắp suy tàn rồi ẩn
một. Chúng ta là hàng con Phật, phải kính mến thương lo, hộ trì mối đạo và muốn
cho đạo pháp trường tồn, phải thương xót nâng đỡ nhau, đừng vì lợi quyền danh vọng,
hoặc tài, sắc, mà bôi nhơ, tàn hại lẫn nhau.
Kinh Phạm Võng nói:
“Phật pháp không phải thiên ma, ngoại đạo
có thể hủy phá, chỉ có người con Phật, mới phá hoại được mà thôi!”
Đau buồn thay!!
Điều này hiện nay, khắp
nơi đã nhan nhãn thấy xuất hiện. Các bậc hữu tâm trong đạo thấy thế chỉ còn biết
yên lặng ngậm ngùi!
Nhớ lại thời cận đại ở
nước Việt Nam ta, có hai bậc túc nho vừa có tài danh, lẫn đức hạnh. Vì thấy
luân thường đảo lộn, nho giáo suy đồi, hai vị ấy, đành cam bề ẩn dật. Nhưng đã
có danh đức, tất có nhiều người tìm đến, nên cũng vì thế mà bị người ganh ghét
bôi nhơ! Những kẻ làm việc đó, là người trong đạo KHỔNG mà mỉa mai thay! phần
đông lại là hàng mô đệ của hai bậc tôn túc nho kia! Sau khi được người thuật lại
đầy đủ về việc hủy báng ấy, trong hai bậc lão nho, một vị mĩm cười khẳng khái
nói:
“Rắn rết gớm ai lòng độc kia!
Rồng mây phó mặc chuyện huyên thiên”
Còn một vị kia chỉ rơi
lệ bảo:
“Việc đời thà khuất đôi con mắt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”.
Nơi đây, ta nhìn xét
thấy hai trạng thái:
“Một nụ cười can đảm,
an nhẫn, bất chấp, gác qua mọi chuyện thị phi …
“Và một nét khóc,
thương xót ai mê lầm gây tội lỗi mà mình bất lực không thể can ngăn, khuyên bảo,
cứu vãn được, chỉ còn biết tự tỉnh, bền giữ đạo tâm, như gương tròn sáng.
Nụ cười cùng tiếng
khóc, của hai bậc lão nho xưa, đã hàm ẩn đầy đủ tinh thần BI – TRÍ – DŨNG của đạo
Phật, thật đáng cho hàng Phật tử, chúng ta phải suy gẫm.
Còn về điều thứ ba:
Thì ý kinh, khuyên ta
phải siêng tu. Siêng tu đây, không phải chỉ tụng kinh, niệm Phật, để khoe
số nhiều, mà tụng niệm với tâm thanh tịnh, an lành, với lòng chí thành trong
sáng, mới được diệt tội sanh phước.
Lại chẳng phải chỉ có
tụng niệm suông, mà phải giữ tâm niệm, lời nói và hành động, theo điều
giới thiện Như thế, mới xứng hợp là người tu Phật. Và tu như thế mới mong có
ngày được lên bờ giải thoát.
Trước khi dứt lời, để
tóm lược, tôi xin trân trọng nhắc lại cùng đại chúng ba điều trên là:
1.- Phải nghĩ đến sự già,
chết, vô thường.
2.- Phải thương mến đạo,
biết nâng đỡ nhau.
3.- Và phải biết siêng
năng tu tập.
Nếu trái với lời kinh
dạy, thì ngôi nhà Phật, Pháp sẽ bị sụp đổ, bởi sự hủy phá của những người mang
danh nghĩa là hàng “CON PHẬT”. Những vị chân tu, tự nhiên phải thật hành theo
ba điều kiện trên.
Còn trái lại, những kẻ
giả tu, muốn nhận diện cũng không khó, quý vị chớ vội nghe lời trau chuốc bên
ngoài, hãy xét kỹ, nơi ngôn ngữ… cùng hành động của họ, tự khắc sẽ biết.
Xin Kính chúc chư Thượng
Tọa, Đại đức Tăng Ni, chư quý Phật tử, một mùa kỷ niệm Tổ, đầy tình thương và đạo
hạnh.
THÍCH THIỀN TÂM
TB: Bức thư này nên tùy phương tiện đọc
cho những vị hữu duyên nghe mà thôi!
Những kẻ vô duyên, chắc
họ không tỉnh ngộ, trước lời thiết tha khuyên nhắc!!!
Các vị Lão thành xưa
thức lượng sâu xa, cũng đều phải cam bề ẩn mình giữ đạo, trước tình thế không
thể khuyên ngăn được.
Thầy cũng không hơn nổi những bậc tiền bối ấy đâu.
THÂN THẾ
Cố Hòa-Thượng pháp-danh là THÍCH THIỀN-TÂM, pháp-hiệu LIÊN-DU, pháp-tự VÔ-NHẤT, quý-danh NGUYỄN NHỰT-THĂNG, xuất-gia vào năm ẤT-DẬU (1945) vừa đúng 20 tuổi với đại-lão Hòa-Thượng THÍCH THÀNH-ÐẠO tại chùa Sắc-Tứ Linh-Thứu (Xoài-Hột, Mỹ-Tho), thuộc dòng Lâm-Tế chánh-tông đời thứ 43.
Hòa-Thượng sanh vào năm ẤT-SỬU (1925) tại xả
Bình-Xuân, quận Hòa-Ðồng, tỉnh Gò-Công (hiện nay là tỉnh Tiền-Giang). Thân-phụ là
cụ ông Nguyễn Văn-Hương, thân-mẫu là cụ bà Giác-Ân Trần thị-Dung.
Ngài là người con trai thứ ba trong số bốn con trai
của gia-đình. “...Theo lời cụ bà Giác Ân, thân mẫu của Ngài kể lại, thì trong một
đêm đó, bà đang ngủ mơ màng, chợt thấy ngoài sân có ánh sáng chói rực, trong
khi bà còn đang ngạc nhiên ngó qua lại để tìm kiếm thì bỗng nghe có tiếng gọi rằng
:
-
Người nữ kia đến đây ta bảo.
Giọng nói rất oai nghiêm vang ra từ phía trên đầu
làm cho bà giật mình ngước mắt nhìn lên thì thấy giữa không trung có một lão bà
đang từ từ giáng hạ xuống đất. Cụ bà nghĩ đây chắc là tiên, hay Phật gì giáng hạ
nên lật đật quỳ xuống lạy dài. Bà lão khen tốt, bảo đứng dậy đoạn kêu bà tới gần
và trao cho một hài nhi khoảng chừng 3, 4 tháng mà nói rằng:
-
Ngươi hãy nhận lấy và nuôi dưỡng đứa bé này cho ta.
Cụ bà ngần ngại không muốn lãnh vì cụ đã trải qua
nhiều lần sanh nở, dưỡng nuôi, sự đau đớn và cực khổ đã làm cho bà ngán ngẩm
nên chần chờ, do dự sự quyết định. Bà lão trợn mắt, ra oai mà bảo:
-
Đây là La Hầu La quý tử (Đây không phải thiệt là La-Hầu-La
con của Phật đâu, mà ý nói là 1 người con quý, sau nầy có thể tu thành đạo như
La-Hầu-La con của đức Thích-Tôn khi xưa vậy) chẳng phải người thường, bởi ta thấy ngươi là một người hiền đức nên mới
trao cho, sao dám từ chối. Hãy nhận lấy mà nuôi dưỡng, sau này sẽ được nhờ nó độ
thoát cho về với Phật.
Phần thấy bà lão trợn mắt, ra oai, lớn giọng, phần
nghe nói quý tử nên cụ bà cũng ham, đưa tay bồng lấy đứa bé, thấy nó trắng trẻo,
dễ thương nên bà cũng vừa ý đẹp lòng. Vừa bồng hài nhi vào tay xong thì bà lão
thăng bổng lên cao đi mất, ánh sáng kia cũng theo bà lão mà tắt đi luôn.
Cụ bà giật mình thức dậy thì ra chỉ là một giấc
chiêm bao, trong lòng lấy làm lạ lắm, sáng ra cụ mới kể lại cho chồng nghe giấc
mộng hồi khuya. Cụ Ông bảo:
-
Chắc có lẽ trời Phật sẽ cho mình sanh con “quý tử” không chừng.
Kể từ đó bà mang thai và điều đặc biệt là kể từ khi
cấn thai đứa con này, cụ bà không chịu được mùi thịt cá, nên ăn chay trường. Ở
miền quê thì việc chay lạt rất là đạm bạc chớ không cầu kỳ như ở thành phố nên
thức ăn chỉ có toàn là rau luộc, tương chao thôi, ấy vậy mà bà vẫn khỏe mạnh,
khác hẳn với mấy lúc trước kia đau ốm rề rề.
Trong xã Bình Xuân có một ngôi chùa làng xưa nho nhỏ, không sư trụ trì, chỉ có một ông từ già giữ chùa thắp nhang, tụng kinh, ông có gia đình bên ngoài nên chùa ít khi mở cửa, chỉ trừ vào các ngày 14, rằm, 30, mồng một mới đến chùa tụng niệm mà thôi. Vì thế nên chùa thường bị lâm vào cảnh nhang tàn, khói lạnh. Cụ bà thấy vậy nên mỗi ngày dành ít thời giờ đến chùa quét dọn, đốt nhang, dộng chuông. Việc này từ trước đến nay cụ chưa bao giờ biết hay phát tâm làm cả, thế mà kể từ khi có mang đứa con này, đối với các việc chùa chiền, công quả cụ bà lại hăng hái và siêng năng hơn bao giờ hết. Âu cũng là do thiện căn, phúc đức của đứa con mà bà đang mang trong người chiêu cảm ra vậy.
Cụ ông là một bậc thâm Nho, có đọc nhiều sách vở xưa
(viết bằng chữ Hán) vì thế nên cụ biết rằng đứa con tương lai của mình chắc sẽ
có một cái gì đó đặc biệt hơn các anh chị của nó, cho nên việc mà cụ bà phát
tâm làm công quả, đi chùa, lạy Phật, chẳng những cụ ông không ngăn cản chút
nào, trái lại cụ còn khuyến khích thêm nữa.
Ngày cụ bà khai hoa, lúc đó vào khoảng rạng đông, bỗng
dưng có một cơn mưa nhỏ, hài nhi chào đời nhẹ nhàng chớ không có làm cho cụ đau
đớn nhiều như những người con trước. Cụ ông chiếu theo ngày giờ và vài ba triệu
chứng khi sanh ấu nhi ra, tra cứu trong sách toán mệnh học chữ nho xong rồi bảo
cụ bà rằng:
- Đứa con này nguyên nó là căn tiên, cốt Phật đầu
thai, chớ không phải là con thường như mấy đứa trước đâu. Có điều nó tuổi Ất Sửu
mà sanh ra vào buổi rạng đông tức là nhằm lúc con trâu sắp sửa ra đồng cày ruộng,
nên lỗi giờ sanh e sau này nó sẽ tha hương khổ cực, nhưng bù lại khi mới sanh
có một đám mưa nhỏ, sách nói về sau, khi lớn lên nó không bị nhiễm vào trong đường
tình ái, vợ chồng, và nếu như đi tu ắt sẽ được đắc thành chánh quả.
Ví có các sự việc như vậy nên cả hai cụ đều đặc biệt để ý và rất yêu quý đứa con này...” ( Trích trong quyển: Vô Nhất Đại Sư Thích Thiền Tâm - Một Cao Tăng Cận Đại - tác giả Btg Bảo Đăng).
THUỞ ẤU THỜI
Niệm PHẬT niệm TRỜI công đức huân
Mẫu từ lời dạy trẻ liền tuân
Mưa nắng hai mùa chuyên gắng niệm
Tứ thánh, kiệu vàng giáng hạ “KHUÂN”
Thương trẻ bị lầm, chơn PHẬT hiện
Ấn vàng in trán khiến “Đình KHUÂN”
Từ nay thôi niệm trời con nhé,
Niệm PHẬT sống hoài bất biến xuân.
Nhựt Thăng
Đạo lý "Cơn vô
thường mau chóng, sự sống chết lớn lao" duy có Phật Giáo đề cập và giải
quyết một cách rốt ráo. Thế gian chỉ nói đến vấn đề sinh hoạt sau khi sanh,
trước khi chết; đến như vấn đề sanh tử trước khi chưa sanh, sau khi đã chết thì
không nghiên cứu tận cùng.
Đạo Nho tuy có luận bàn việc sau khi chết, nhưng với mục đích hoàn
thành hiếu đạo, trọn vẹn lễ nghi. "Thờ chết như thờ sống, thờ mất như thờ
còn" mà thôi. Khi xưa có một lúc thầy Tử Lộ hỏi về việc chết, đức Khổng Tử
đáp: "Sống còn chưa biết, đâu đã biết chết!"
Đạo Tiên giải quyết cái chết bằng cách kéo dài sự sống, gọi là trường
sanh. NHƯNG TRƯỜNG SANH TUY CÓ, MÀ BẤT TỬ
THÌ KHÔNG, vì mọi pháp tạo tác hữu vi đều
ở trong vòng sanh diệt.
Trong đạo lý Thập
Nhị Nhân Duyên, đức Phật đã truy nguyên cho thấy rõ "sự sanh già bịnh
chết, lo thương sầu khổ", đều do một niệm mê mờ đầu tiên, gọi là vô minh.
Phá vô minh trở về bản tánh, mới đoạn hẳn nguồn sanh tử. Nhưng đó chỉ dứt phân
đoạn sanh tử thuộc nhơn ngã chấp mà thôi; còn phải trừ biến dịch sanh tử thuộc
pháp ngã chấp, mới đi đến chỗ toàn giác. Tuy nhiên, dứt được phân đoạn sanh tử,
trụ nơi Vô Dư Niết Bàn, thoát khỏi sự khổ luân hồi trong ba cõi, đã quý hóa hy
hữu lắm rồi. Và đó cũng là giai đoạn đầu tiên, mà người tu Phật cần phải giải
quyết.
Như lời Phật huyền ký, thời mạt pháp bậc ngộ đạo còn
ít có, huống chi là chứng đạo, và chưa chứng đạo tất còn phải chịu luân hồi.
Cho nên muốn giải quyết vấn đề sanh tử ngay đời hiện tại giữa thời mạt pháp
này, chỉ có phương tiện duy nhất là cầu đới nghiệp vãng sanh về Cực Lạc. Tại
sao phải như thế?
Vì nếu không chứng
đạo mà lại không được vãng sanh, tất phải đọa luân hồi. Khi luân hồi trong cõi
ngũ trược, lại ở sâu vào thời mạt pháp đạo đức lần lần suy tàn này, nghiệp dữ
dễ tạo, duyên lành khó tu, kết cuộc vẫn phải đọa trong ba đường ác. Cho nên
sống chết là vấn đề lớn lao, mà những vị tu hành quyết cầu giải thoát đều phải
thao thức.
Ngài Bát Chỉ Đầu
Đà, một bậc cao tăng cận đại bên Trung Hoa, khi còn trẻ chưa xuất gia, thấy
những đóa hoa héo rụng trước nhà, liền suy tư rơi lệ. Đó là vì ngài có trí huệ,
biết ý thức sâu đến sự sống chết của kiếp người.
Một mảnh phương tâm không chỗ gởi.
Giàn hoa chầm chậm ánh trăng soi.
Có thể mượn hai câu này, để diễn tả tâm trạng người
tu với mối tư lương thao thức ấy.
NỔI LÒNG TU SĨ
Trong mơ biết mình tên TU SĨ.
Họ TRẦN niên kỷ khoảng năm mươi.
Xuất gia từ thuở mười ba tuổi.
Nhập tự tòng sư học Kệ Kinh.
Ba mươi năm lẻ say mùi đạo,
Lỡ một ngày kia phạm sát sinh.
Công quá một đời như bọt nước,
Thức giấc lệ buồn đẫm ướt mi.
Hôm
qua nhìn thấy cảnh vô thường,
Tang
quyến khóc buồn dạ thấy thương.
Tu
sĩ nghe lòng dâng đau xót,
Ý
niệm thoát trần mãi vấn vương.
Ra
trước bàn thờ thắp nén hương,
Cúng
dường Phật tổ chốn Tây Phương.
Tu
sĩ biết đời ai tránh khỏi,
Vùi
thân huyệt lạnh cạnh bên đường!
Nghe
tiếng chuông chùa bên kia sông,
Thanh
âm ngân suốt mấy từng không.
Kêu
người du tử lìa cơn mộng,
Hướng
chốn thiền môn tách bụi hồng.
Nhớ
tiếng chuông chùa bên kia sông,
Đêm
ngày con trẻ ngóng cùng trông.
Thầm
hỏi mẫu từ ơi có thấu.
Tu
sĩ chiều nay CÓ NỖI LÒNG.
Nhựt Thăng Tu sĩ
Qua nhiều ngày đêm suy nghĩ, đắn đo, lòng hiếu thảo của một người con hiểu điều đạo lý đã khiến cho trong tâm của ngài nảy sinh ra một ý niệm là đi học Đông y (tức là thuốc Bắc – Hồi xưa thì ngành Đông y và thuốc Bắc phổ cập trong dân chúng nhiều hơn Tây y) để trị lành bệnh cho mẹ trước, hầu lấy đó mà đền đáp lại phần nào thâm ân dưỡng sanh cao rộng của đấng mẫu từ.
Ngài đem ý định nay trình bày với thân phụ để xin lên tỉnh học và được cụ ông chấp thuận. Vì bản quận Hòa Đồng nằm trong tỉnh lỵ Gò Công, nên ban đầu cụ ông định đưa ngài lên Gò Công để học và tạm trú nơi nhà của một người quen làm nghề buôn bán tôm cá ngoài chợ.
Nghe thân phụ nói lại là sẽ ở trọ nơi nhà của một người làm nghề buôn tôm bán cá tức là buôn bán sanh mạng, máu thịt của chúng sanh để sống – thì ngài không được vui và có ý bần dùng (chậm trễ), ba bốn ngày trôi qua mà cũng chưa quyết định được chi hết nên trong dạ lo buồn.
Bỗng dưng sáng sớm hôm đó ngài nói với anh năm của ngài là ngài sẽ lên Mỹ Tho để học thay vì đi xuống Gò Công như đã dự tính.
Anh
năm ngài nói:
-
Chú muốn học ở Mỹ Tho thì cũng được nhưng mà cậu đâu có quen ai ở trên đó.
Ngài
mạnh dạn nói:
- Cậu không có người quen, nhưng tôi có, chẳng những có người quen không thôi mà tôi còn có nhà sẵn để ở trọ nữa.
Anh năm ngài nghe xong lấy làm lạ tưởng ngài nói đùa, vì từ bé đến giờ ngài chưa hề cất chân đi ra khỏi làng một bước thì làm gì có người quen và nhà ở sẵn trên chợ Mỹ Tho, nhưng rồi thấy vẻ mặt của ngài nghiêm trang, đứng đắn, vả lại anh năm của ngài cũng biết rằng người em trai “đặc biệt” này ít có bao giờ nói chơi (nói bá láp) lắm nên mới hỏi duyên cớ, thì ngài kể chuyện như sau:
- Hồi khuya này đang ngủ thì nghe có tiếng gõ cửa, thì tôi mới chạy ra mở thì thấy có một vị lão tăng mặc áo vàng đứng bên ngoài. Tôi mừng lắm lật đật cúi lạy rước vào nhà mời ngồi trên ghế và dâng nước trà cho ngài uống.Hòa thượng kêu tôi tới gần lấy tay vò đầu tôi 3 cái rồi nói:
- Con giỏi lắm và lúc nào cũng ngoan ngoãn dễ dạy.Tôi mới quỳ xuống thưa rằng:- Bạch đại sư ngài là ai và từ nơi chùa nào mà đến nay thăm con vậy?
Hoà
thượng đáp:
- Ta chính là bổn sư của con từ chùa cũ, ở phương xa kia, nay vì việc tu học của con mà ta đến nay.
Tôi
nghe nói vậy thì mừng lắm vội thưa:
-
Bạch Hòa thượng bổn sư xin từ bi dắt con đi tu vì lòng con ao ước đã từ lâu rồi.
Hòa
thượng nói:
- Tố hảo lắm, việc phải như vậy. Nhưng bây giờ chuyện đi tu ấy hãy tạm gác lại một bên, lo trị cho mẹ con lành bệnh trước đã, khi nào xong rồi ta sẽ tiếp độ cho.
Nói xong đại sư bước xuống ghế đi ra cửa, tôi lật đật chạy theo thì ngài lấy trong túi ra một bao thư màu đỏ đưa cho tôi và nói:
- Mọi việc thảy đều sẵn đủ. Con hãy y theo (lời dặn) trong thơ đó mà tiến hành thì sẽ được như ý chớ có lo buồn chi.
Nói xong rồi ngài bước ra ngoài đi mất. Tôi mới mở bao thư ra coi thì thấy bên trong có một tờ giấy nhỏ ghi bốn câu thơ rằng:
Đây
nào có phải mấy ai xa,
Tu
sĩ bổn sư chính thiệt ta.
Nhắc
Đó chớ quên lời PHẬT ẤN,
Vĩnh
tự Tràng kia vốn thiệt nhà.
Tôi xem xong vừa đi vừa suy nghĩ thì vấp phải ngạch cửa té nhào thức dậy, thì ra là chiêm bao chớ không phải thiệt. Vậy anh nghe và có biết ý của bốn câu thơ này ra sao chăng?
Anh
năm ngài nói:
- Ba câu trên thì dễ hiểu ví ý nó đã rõ ràng ra như vậy rồi. Còn câu thứ tư, ba chữ đầu thì chữ Tự là chùa Vĩnh Tự Tràng là Chùa Vĩnh Tràng. Vậy là sao, cái gì là Vĩnh Chùa Tràng, hay là chùa Vĩnh Tràng chăng?
Ngài
khen rằng:
- Anh cũng khá đó, Vĩnh Tự Tràng tức là Vĩnh Tràng Tự, là Chùa Vĩnh Tràng của Hòa thượng PHẬT ẤN ở Mỹ Tho đó. Anh còn nhớ năm rồi Hòa thượng Phật Ấn đã nói gì không?
Anh
năm ngài đáp:
-
Tôi còn nhớ chớ và tôi cũng có ghi chuyện ấy vào trong sổ tay nữa.
Sau khi nhắc lại việc của Hòa thượng PHẬT ẤN hứa
năm xưa xong. Cố Hòa thượng của chúng ta cười vui và có vẻ phấn khởi lắm, ngài ứng
khẩu đọc liền 4 câu thơ sau đây :
Đêm qua mơ thấy bổn sư ta,
Đến bảo nầy con chớ xót xa.
Phật Ấn năm xưa lời có dặn,
Vĩnh Tràng Tự kia vốn thiệt nhà.
LÊN TỈNH HỌC
Chẳng
vì phú quý lẫn cao sang,
Cám
cảnh mẹ hiền bệnh khổ mang.
Quyết
tâm lên tỉnh tìm phương thuốc,
Dứt
bệnh mẫu từ dạ mới an.
Việc
“thoát trần” kia nay tạm hoãn,
Nghiên
tầm y dược cứu lầm than.
Chắp
tay hướng đấng từ bi lễ,
Độ trì thân mẫu sớm an khang.
CŨNG
BỞI TRỐNG KÈN ĐÀO KÉP GỌI,
KHIẾN KẺ THIỀN MÔN NỔI TÁNH THAM.
Huynh
ơi, bị đánh chịu sao kham!
Sư
phụ hăm he lỡ sái làm.
Cũng
bởi trống kèn đào kép gọi,
Khiến
kẻ thiền môn nổi tánh tham.
Quỳ
trước bệ vàng xin “khấn nguyện”,
Hát
xướng từ đây dạ hết ham.
Hộ
pháp ngài ơi xin “cứu giá”,
Thần
nhãn hôm qua hại xác phàm!
Công
phu thường khóa nhớ hay chưa?
Mấy
tiểu vòng tay dạ kính thưa:
Sư
phụ yên tâm xin chớ ngại,
Y
lời dặn bảo dám “thưa mưa”
Mới
lỡ lần đầu xin bớt giận,
Cúi
dài chịu gậy mấy ai ưa
Úi
cha đau quá xin nhè nhẹ,
Nứt
đít từ nay hứa sẽ chừa.
NGÀY XUẤT TỰ
Bốn
năm nương bóng chốn am thiền,
Với
mọi duyên đời đã tịch nhiên.
Kinh
kệ, mõ chuông lòng thấy tịnh,
Cam
lồ rửa sạch mối oan khiên.
Chắp
tay kính bạch lên Hòa Thượng,
Vĩnh
kiếp lòng con dạ vẫn kiên.
Xuất
tự để lo tròn hiếu niệm,
Tạm
biệt hồi gia cứu mẹ hiền.
Nhựt
Thăng Tu sĩ
Trong
quyển “Nhựt
Thăng di cảo”
có ghi lại một sự việc như sau:
- Khoảng 10 ngày sau đó, một đêm khuya, thời gian vào khoảng giữa canh ba, lúc ấy ngài còn đang nằm mơ màng và niệm Phật thầm trong giấc ngủ bỗng nhiên nghe có tiếng ai gõ cửa.
Ngài vội vàng ngồi dậy và đi đền mở cửa ra, thì thấy có một sa di mình khoác áo nhật bình màu lam tuổi khoảng chừng 16, phong cách siêu phàm, dung nghi thoát tục, đang đứng đợi ở bên ngoài.
Ngài
lật đật cúi mình đảnh lễ, bái lạy và thưa rằng:
-
Bạch Đại Đức ngài từ đâu và có duyên sự chi mà đến nơi con?
Sa
di đáp:
- Ta đến trao thư của tôn sư cho người. Nói đoạn, lấy trong người ra một bao thư màu trắng đưa cho ngài và nói:
-
Ý của tôn sư đều ở trong đó.
Nói
xong chắp tay chào rồi bước ra ngoài đi mất.
Ngài trở vào nhà, mở phong thư ra xem thì thấy bên trong có một tờ giấy vàng, ghi bài thơ sau đây:
Khá
khen hiếu niệm chẳng quên lòng,
Mười
chín tuổi tròn vẹn ước mong.
Phù
tục lợi danh từ đấy lặng,
Sớm
đáo thiền môn tách bụi hồng.
Ơn
nghĩa mẹ cha đều báo bổ,
Thiên
đường, Phật quốc chép ghi công.
Bệnh
mẫu từ ngươi nay đã dứt,
Đò neo bến đợi kịp sang sông.
Sau
khi thức dậy ngài liền ghi bài thơ ra nơi giấy, suy nghĩ nghĩa lý và biết rằng
ngay từ bây giờ mình phải nên sớm lo liệu việc xuất gia chớ chẳng nên chần chờ,
trễ nải.
PHÚT PHÂN LY
Giã
từ cậu má con ra đi,
Ơn
đức sanh thành dạ khắc ghi
Bên
gối dập đầu con bái biệt,
Lạy
chào cha mẹ phút phân ly.
Phân
ly con biết nói lời chi,
Xuất
gia, xuất giá cũng đồng đi.
Bước
chân chẳng dám quay nhìn lại,
E
nổi thâm tình lệ ướt mi.
BẾN ĐÒ BÌNH XUÂN GIÃ TỪ
ANH NĂM
Từ
nay huynh đệ cách đôi nơi,
Xin
giã từ anh ở lại đời.
Phụng
dưỡng huyên đường trong bóng xế,
Thay
người em nhỏ chốn xa khơi.
Đã
chết cuộc đời trong nẻo đạo,
Cùng
bóng từ quang tỏa ánh ngời.
Bác
lái đò ơi qua cho kíp,
Rước
kẻ hồng trần bỏ cuộc chơi.
ĐỢI CHUYẾN ĐÒ NGANG
Nhớ
xưa Bồ Tát Tất Đạt Đa,
Trốn
cha, lìa vợ vượt tỳ La.
Sáu
năm tu tập nhiều gian khổ,
Đạo
quả tròn nên Phật Thích Ca.
Tôi
cũng theo gương đức Bạc già,
Bán
dạ độ hà trốn mẹ cha.
Vì
sợ tử sanh cam lỗi đạo,
Nguyện
đấng huyên đường chẳng xót xa.
SANG BÊN KIA SÔNG
Nương
thuyền bát nhã lướt sang sông,
Bỏ
cả huyên đường cả ước mong.
Song
thân giờ chắc còn an giấc,
Xin
hiểu cho con một tấm lòng.
Hướng
chốn thiền môn chân bước đến,
Duyên
trần xin tạ, việc đời không.
Đường
quê mờ khuất sau ngàn sóng,
Khuất
hết người quen chốn bụi hồng.
TRÊN ĐƯỜNG XUẤT GIA
Thôi
chào ngươi nhé bạn đường ơi,
Trần
thế nay ta bỏ cuộc chơi.
Một
bước chân đi không trở lại,
Phật
tự từ đây định chốn nơi.
Phai
bóng người thân, phai tục lụy,
Dặm
nghìn quê cũ tách xa khơi.
Đem
thân nương nép tòa sen thắm,
Rực
ánh hồng quang tỏa khắp trời.
HƯỚNG CHỐN AM THIỀN
Mỗi
bước mỗi gần thêm cảnh tịnh,
Xa
lìa tăm tối, lánh vô minh.
Trần
duyên rày dứt, người quen mất,
Tạ
chốn bụi hồng, đáo Ngọc Kinh.
ĐẾN LỄ CỔNG CHÙA
Sắc
Tứ Linh Thứu chính là đây,
Phú
quý, vinh hoa chẳng đắp xây.
Nhựt
Thăng Tu sĩ từ nay quyết,
Bỏ
đời an ẩn chốn am mây.
HỌ NGUYỄN, NHỰT THĂNG RÀY ĐÃ CHẾT
Từ
đây tôi chẳng phải là tôi,
Mà
cả trần gian cũng thế thôi.
Họ
NGUYỄN, NHỰT THĂNG rày đã chết,
Sau
cổng thiền môn đóng kín rồi.
Nhựt
Thăng Tu sĩ
THẾ PHÁT – QUY Y THÍCH MÔN CHI TỬ
Mỹ
Tho,
Vĩnh
Tràng Tự – THÍCH PHẬT ẤN Hòa thượng
Kính
gởi:
Sắc
Tứ, Linh Thứu Tự – THÍCH THÀNH ĐẠO
Đại
lão Hòa thượng pháp huynh,
Nam mô A Di Đà Phật
Kính
bạch pháp huynh tôn giả, Người mang thư này tên NHỰT THĂNG, họ NGUYỄN sanh quán
tại xã Bình Xuân, huyện Hòa Đồng – tỉnh Gò Công. Tuổi Ất Sửu (1925), cha tên
Nguyễn Văn Hương, mẹ tên Trần Thị Dung – năm nay vừa đúng 20 tuổi.
Là
một tục gia đệ tử của tôi pháp danh là Trí Hiền,
vì muốn tránh chướng duyên ngăn cản và truy tìm của song thân cùng với gia đình
trên đường xuất gia tu học cầu giải thoát, nên được tôi chấp nhận cho phép y rời
Vĩnh Tràng bổn tự đến nơi pháp huynh và quý tự để xin xuống tóc xuất gia.
Ngưỡng
mong pháp huynh thương xót lấy Trí Hiền và vì tôi mà mở lòng từ bi, chấp nhận
làm Thế độ sư và y chỉ sư để cho y được tăng thượng thêm pháp duyên trên con đường
tu học hiệntại và tương lai.
Nam
mô từ mẫn cố, đại từ mẫn cố.
Bái
bạch.
Trụ
trì Vĩnh Tràng Tự
Hòa
thượng THÍCH PHẬT ẤN
NGÀY THỌ GIỚI
Lạy
này tạ hết những niềm thương,
Phụ
mẫu đệ huynh khắp mọi đường.
Lạy
thứ hai, tay nâng dâng trả,
Tình
nhà, nợ nước, nghĩa quân vương.
Lạy
thứ ba con xin kính lễ,
Ơn
dầy sanh dưỡng mấy mươi sương.
Lạy
thứ tư, từ nay vĩnh biệt,
Chôn đời, theo Phật chốn Đoài phương.
Từ
nay tên gọi THÍCH THIỀN TÂM,
Chôn
vùi dĩ vãng chốn xa xăm.
Nguyễn
Nhựt Thăng kia rày khuất dạng,
Đã
chết lâu rồi, tự mấy năm!
Bởi trong “Tây liên Tùy bút lục” anh năm ngài có ghi lại một bài thơ cuối cùng nơi trang chót của quyển nhật ký như sau:
TỐNG BIỆT
NHỰT THĂNG HUYNH
Nếu chẳng chung nhau bước một đường,
Xui chi gặp gỡ khiến lòng thương.
Mấy năm mơ mối tình hương lửa,
Đơn bóng rèm thưa lạnh gió sương.
Cũng bởi em yêu người “thoát tục”,
Nên đời mang nặng khổ đơn phương.
Sầu cho mộng ước đầu dang dở,
Ôm khối tình si luống đoạn trường.
-Nguyên sau ngày cố Hòa thượng đi rồi, mấy tháng sau đó, do vì nhớ em nên anh năm của ngài mới soạn lại các áo quần, sách vở, đem cất để làm kỷ niệm. Lúc mở cặp táp ra thì trong đó chỉ có ba bốn cuốn tập và một vài quyển sách học khi ngài thi bằng Thành Chung còn sót lại mà thôi.
Vì nhớ em và cũng vô tình nên anh năm ngài lật ra xem, ban đầu cũng không lưu ý gì cho mấy nên chỉ xem sơ qua mà thôi. Mấy lần sau đó nhân có thời giờ rảnh rang nên mới xem kỹ và ngắm lại các nét chữ viết của em mình để “tìm xem kỷ niệm” thì bỗng trong quyển vở học của ngài rớt ra một phong thư, mà phong thư đó vẫn còn niêm kín chớ chưa có mở ra.
Bìa ngoài như có đề tên người gởi là Tạ Thị Kim Loan đây rõ ràng là tên của mỹ nhân mà! Cô này là ai nhỉ, là bạn, là người quen của em mình lúc còn ở học trên chợ Mỹ Tho chăng? Ủa, mà sao thư vẫn còn nguyên chưa mở ra xem nhỉ?
Như vậy là em mình chắc không bao giờ biết ở trong thơ đây người đẹp TTKL viết điều chi rồi, bây giờ “chú nó” đã đi tu, có lẽ đã cạo đầu trọc và trở thành một “tiểu hòa thượng” rồi cũng không chừng, thôi thì ta hãy “mạn phép” chú nó mở ra xem, coi cho biết có “cái gì” ở trong ấy.
Rồi anh năm của ngài khai thư ra xem, và khi xem xong thì chính người cũng phải chắc lưỡi mấy cái mà than thở rằng:
- Hỡi ôi! thiệt là tội nghiệp.
Thấy bài thư ấy hay và đượm nhiều tình ý đau buồn, thương cảm có liên quan đến em mình, nên anh năm của ngài viết luôn vào quyển nhật ký để lưu hậu.
NHỚ CON
Đường mây bặt dấu chim hồng,
Dặm ngàn khuất dạng, còn trông chi tìm.
Hỏi mây, mây cũng lặng im,
Hỏi trăng, trăng cũng an điềm mặc nhiên.
Sân chiều trời ngả bóng nghiêng,
Nhựt thăng biết đã về miền nơi nao!
Cả kêu rằng hỡi trời cao,
Con tôi giờ đã ra sao, chốn nào?
CHỜ ĐỢI TIN CON
Con đi áo để lại nhà,
Mỗi ngày nhìn ngắm lòng già quặn đau.
Buồn trong ngõ trước vườn sau,
Nhựt Thăng giờ ở nơi nào hỡi con?
Sớm hôm lòng dạ héo hon,
Chờ mong tin nhạn mỏi mòn nhạn ơi.
Sầu này biết thuở nào vơi!
BUỒN KHÓC NHỚ CON
Đêm nay sao khiến tôi buồn quá,
Trước ngọn đèn chong có một mình.
Rỉ rả ve sầu vang tiếng gọi,
Tỉ tê giọng dế suốt đêm thanh.
Ngoài hè gió thổi nghe xào xạt,
Trong trướng không an giấc mộng lành.
Trằn trọc thâu đêm không nhắm mắt,
Biết ai mà tỏ nổi lòng mình.
Lòng mình, mình biết chỉ mình hay,
Tâm sự này bày tỏ với ai.
Lặng lẽ mà nghe lòng thổn thức,
Âm thầm chịu đựng mấy ai thay
Nhớ con dấn bước hà phương tá,
Để khổ lòng già chịu đắng cay.
Sầu nọ, nổi kia thêm chất ngất,
Khôn ngăn giọt lụy suốt đêm dài.
Đêm dài thao thức nổi sầu quanh,
Thơ thẩn, thẩn thơ dưới bức mành.
Nghĩ nhớ trẻ thơ lòng đứt đoạn,
Bao giờ gặp lại hỡi cao xanh?
Thân yếu, tuổi già thêm quạnh vắng,
Một mình sầu khổ suốt năm canh.
Con hởi vì sao đành vội sớm?
Lá mới xanh non nở tách cành!
Tách cành đành bỏ mẹ cùng cha,
Canh vắng đường khuya khổ lắm mà.
Vì sợ tử sanh con lỗi đạo?
Hướng về Phật tự lướt xông pha.
Bỏ quê, bỏ xứ, bỏ người thân,
Lìa hết thương yêu, dứt ruột rà.
Cúi lạy Phật đà xin đoái tưởng,
Độ người qua khổ hải trầm kha.
PHÚT CUỐI ĐỜI
Chín năm cách biệt đứa con yêu,
Đếm bước vườn sau có những chiều.
Ngắm áo con thơ lòng nức nở,
Lệ sầu tuôn đổ biết bao nhiêu!
Lắm khi khóc lặng trong niềm nhớ,
Gan ruột dường như bị đốt thiêu.
Con ở phương xa giờ có biết?
Phút cuối cha nghe dạ nhớ nhiều.
Nguyễn Văn Hương
NẾU CÓ NHỚ CON XIN NIỆM PHẬT
Tụ
tán xưa nay lý vẫn thường,
Mất
còn, tan hợp bận chi thương.
Bình
tâm nghĩ lại đừng bi lụy,
Năm
tháng lạnh lùng bạc tóc sương.
Nếu
có nhớ con xin niệm PHẬT,
Phát
lòng quy hướng chốn Tây Phương.
Nguyền
cho cậu, má tâm thường nhớ,
Cực
Lạc là quê chỗ náu nương.
Cũng
biết từ khi vắng bóng con,
Huyên
đường sao tránh khỏi thon von.
Sớm
hôm tựa cửa chờ tin nhạn.
Tháng
lại ngày qua chắc mỏi mòn!
Nhớ
con xin niệm Di Đà Phật,
Nhờ
đức từ bi đỡ héo hon.
Lỗi
chẳng chung thân hầu sớm tối,
Vì
chưng muốn thoát chốn lồng son.
KHUYẾN TU
Dẫn nhập:
Xưa Nhan Bính. Như Như cư sĩ.
Dẫn luận kinh, ý ý khuyên cầu.
Bút nhàn khuyên giữa canh thâu,
Tỉnh ai trần lụy, đổi sầu làm tươi.
Thân bào ảnh lắm người yêu quý,
Yêu quý Thân cho lụy vì Thân,
Cuộc vui những ước vô ngần,
Nào hay vui vẫn là nhân chác sầu!
Kiếp phù thế bóng câu cửa sổ,
Vóc huyễn hư giọt lộ long hoa,
Đôi mươi trẻ, tám mươi già,
Số người yểu thọ, khó qua vô thường.
Dép dưới giường, trên giường bỗng biệt,
Sống ngày nay dễ biết ngày mai,
Mạng người hô hấp cho hay,
Nghĩ cơn vĩnh biệt, tuyền đài mà đau!
Xót duyên kiếp vì sao ngắn ngủi,
Chấp than chi để tủi cho thân,
Da bao những thịt, xương, gân,
Xác người như thể đóng phân sạch gì.
Tóc, răng, móng khác chi đất bợn,
Mũi, dãi, đờm ghê tởm xiết bao,
Bên ngoài rệp đút, muỗi đeo.
Bên trong sán, lãi lẫn vào nhớp chưa?
Nỗi nóng bức, ngày trưa tiết hạ,
Cơn lạnh lùng đêm giá trời đông,
Xét thân nhơ khổ vô cùng,
Xả lòng tham luyến, khởi long thoát ly.
Trách
người thế mê chi lắm nhẻ,
Sánh
phong lưu phô vẻ y quan,
Kẻ khờ cũng học đài trang
Để lòng điên đảo, theo đàng sắc thanh.
Đầu xương sọ cài trâm thắt lụa,
Đảy da hôi ướp xạ, xông hương,
Khéo đòi nhung gấm phô trương
Chỉ tuồng che lớp vô thường hôi tanh.
Những mãn tưởng ngày xanh muôn tuổi,
Lắm cơ mưu theo đuổi yên hoa.
Ngờ đâu tay điếc, mắt lòa,
Diêm vương sắp rước đến tòa U Minh.
Làn tóc bạc đưa tin quỷ sứ,
Góc răng long nhắn ý quy âm,
Càng tài, càng sắc, càng dâm,
Càng cho đọa lạc, càng lầm mà thôi
Cuộc hành lạc một thời tham tiếc,
Nẻo luân hồi muôn kiếp đắng cay,
Đến khi sắp xuống Diêm đài,
Thịt xương đau nhức, chân tay rụng rời,
Vợ lưu luyến, đầy vơi giọt lệ,
Con tiếc thương, kể lễ khóc than.
Dầu cho quyến thuộc muôn ngàn,
Có ai thay thế cho chàng được đâu!
Kẻ sống
nặng hoằng gánh tủi,
Người
chết đi dong ruỗi phách hồn,
Đường âm mờ tựa đêm hôm,
Trông ra quạnh quẻ bồn chồn chỉnh ghê.
Nại hà đến lạnh tê gió lốc,
Quỷ môn quan ghê gốc tiếng thương,
Bảy ngày lìa quá cõi dương,
Âm ty đã trải trăm đường khảo tra.
Tào quan xử thét la chẳng vị,
Ngục tốt hờn, xoa, chủy đâu tha.
Đài gương nghiệp cảnh chói lòa,
Soi tường thiện, ác chối qua được nào.
Người nhân đức đưa vào cõi phước,
Kẻ hung hoang giải trước hình ty,
Đọa đày thảm khổ xiết chi,
Mới hay nhân quả mấy khi sai lầm.
Rừng đao kiếm bao năm hết tối,
Kiếp lông, sừng nhiều nỗi đa mang,
Trả đền cho dứt nghiệp oan,
Mới mong thoát khỏi con đàng long đong.
Dù ai có to lòng, lớn mật,
Mặc chàng hay báng Phật, khinh Tăng,
Chẳng qua đối trước Diêm quân,
Cúi đầu, co gối chịu phần khảo tra.
Hồn
phách đã xa chơi âm giới,
Thi hài
còn nơi cõi dương gian,
Có tiền mua lớp áo quan,
Không tiền vùi chốn núi hoang lạnh lùng.
Chất da thịt sẽ cùng tan rã,
Tấm hình hài lần hóa tanh hôi,
Chỉ trong hôm sớm mà thôi,
Chầy năm bảy bửa, sớm thời ít hôm.
Nét kiều diễm chập chờn xuân mộng,
Kiếp tài hoa hình bóng bạch vân,
Khi xưa tài sắc mười phân,
Mà nay một nấm cô phần lạnh tanh.
Thời oanh liệt, anh hùng đâu tá,
Nỗi ái ân hư, giả còn chi,
Phất phơ cành liễu xanh rì,
Giấy tiền treo đó, đường ghi mối sầu.
Bóng chiều rủ xuống mầu cỏ biếc,
Bia mồ trơ một chiếc vắng không,
Nghĩ thôi rơi lệ chạnh lòng,
Đời người đến thế là xong cuộc đời.
Ví
chăng biết tìm nơi giải thoát,
Nương về ngôi chánh giác quy y,
Luân hồi dứt hẳn có khi,
Bên trời bát nhã còn chi lo phiền.
Lối ma quỷ đừng riêng sinh sống,
Đất từ bi có giống Hoa Đàm,
Giữ long thiến, dứt long tham,
Gái, trai, Tăng, tục đều ham tu hành.
Rõ cảnh mộng chớ quanh đường mộng,
Biết miền chơn hãy chóng tu chơn,
Dần dà tính thiệt so hơn,
Tuổi xuân qua mất để hờn về sau.
Sáu chữ Phật cùng nhau gắng niệm,
Chín phẩm đài sen, chiếm ngôi vinh,
Chớ nên mình phụ lấy mình,
Trách sao Diêm Lão vô tình chẳng dung.
Bỏ điều ác xin cùng tu thiện,
Chừa lỗi xưa, cải tiến đường sau,
Lại vì quyến thuộc bảo nhau,
Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì.
Khiến mỗi kẻ đồng quy bến giác,
Cho mọi người đều thoát song mê,
Dù cho lao khổ dám nề,
Đài sen đốt mảnh hương thề nguyền xin….
Xin dốc tưởng tin theo lời Thánh,
Đừng để cho rỗi rãnh, ưu du,
Kiếp này nếu chẳng chuyên tu,
Chỉnh e kiếp khác công phu lỡ làng.
TRÍ HIỀN THÍCH THIỀN TÂM
GIAI ĐOẠN ẨN TU
Đêm hôm đó, sau thời khóa trì niệm và nguyện cầu Phật gia hộ xong. Khoảng hơn 1 giờ sáng, khi vừa đặt lưng nằm xuống một chốc, ngài mơ thấy giấc mộng như sau:
… Nghe có tiếng gõ cửa và niệm A Di Đà
Phật bên ngoài, ngài nghĩ rằng:
– Ủa, khuya rồi mà còn có thầy nào tới
gõ cửa vậy kìa?
Ngài ngồi dậy đi ra mở cửa.
Và ngài thấy bên ngoài có 2 vị tăng mặc
hậu vàng, sắc diện thanh tú đoan nghiêm, đang đứng chấp tay cúi chào. Hai vị
này thấy lạ chớ không phải là tăng chúng của Phật học viện Huệ Nghiêm.
Ngài hỏi:
– Hai vị là ai, từ đâu lại và gõ cửa tôi
có việc chi chăng?
Một vị lớn tuổi hơn đáp:
– Tuân Giáo chỉ tôn sư, đến đây cung thỉnh
Thượng Tọa.
Ngài hỏi:
– Tôn sư của nhị vị là ai, và mời tôi có
việc gì?
Cả hai đều đáp:
– Tôn sư của chúng tôi cũng là tôn sư của
ngài, xin đến đó sẽ tự biết.
Cố Hòa thượng nghe nói vậy thì gật đầu,
mặc hậu, đắp y vào rồi đi theo hai vị tăng ấy. Thấy mình cùng với hai vị tăng
kia bay trên mây, vượt qua nhiều rừng, núi, sông hồ, sau cùng bay lướt lên trên
một sườn núi cao và hạ xuống trên sơn đỉnh.
Đất nơi đây rộng rãi, bằng phẳng, màu
xanh như cẩm thạch, cây cối thẳng hàng, hoa cảnh xinh tươi. Chính giữa đỉnh núi
là một ngôi đại tự hùng vĩ, uy nghiêm, mái cong, ngói đỏ … kiến trúc mỹ lệ phi
thường mà từ trước đến nay chưa từng trông thấy.
Hai vị tăng nói:
– Phận sự của chúng tôi đến đây là hết.
Xin thỉnh ngài vào trong đại điện sẽ gặp tôn sư.
Nói xong chắp tay bái chào rồi đi mất.
Hòa thượng chỉnh lại y hậu đoạn bước vào
trong đại điện. Các sự trang trí, bày biện nơi đây thảy đều cực kỳ siêu đẳng,
tuyệt vời, rực rỡ không sao tả xiết: trên có tôn tượng Tây phương tam thánh cao
vọi, xinh đẹp tuyệt trần đứng trong vị thế tiếp dẫn, dưới đến là thánh tượng của
Đức Chuẩn Đề Đại Sĩ đầy đủ ngàn tay, ngàn mắt, oai vũ tuyệt luân, trang nghiêm
đẹp lạ.
Ngài liền quỳ xuống cung kính đảnh lễ.
Đâu đó xong xuôi hết rồi ngài mới nghĩ rằng:
– Sao vẫn không thấy Hòa thượng tôn sư
trụ trì?
Đang khi có ý tìm kiếm bỗng nghe tiếng gọi:
– Thiền Tâm chớ tìm đâu xa, ta ở nơi
đây.
Ngài ngó lại và nhận thấy là tiếng gọi ấy
phát ra từ nơi thánh tượng của Đức Chuẩn Đề Đại Sĩ. Tuy lấy làm lạ nhưng ngài
cũng đến quỳ xuống đảnh lễ và chắp tay chiêm ngưỡng thánh tượng.
Ngài thấy thánh tượng ấy như sau:
– Tượng thì là tượng Chuẩn Đề Đại Sĩ.
– Ngàn tay, ngàn mắt là của Đức Thiên Thủ,
Thiên nhãn Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
– Bụng thì lại là bụng của đức Di lặc bồ
tát bụng bự.
Trong khi ngài còn đang suy nghĩ vì thấy
lạ, thì nghe từ trong tượng vang ra tiếng nói:
– Thiền Tâm chớ lấy làm lạ. Ta đây chính
là tôn sư của người. Sở dĩ ta hiện ngàn tay, ngàn mắt là vì ngươi trì chú Đại
bi và Chuẩn đề đã được chút ít thành tựu ngài
chuyên niệm Phật và trì chú. Đặc biệt là chú Đại bi và chú Chuẩn đề. Mỗi lần lễ
Phật thì ngài trì niệm 108 biến chú Đại bi, một muôn câu chú Chuẩn đề và
100.000 câu niệm Phật ngài có soạn ra một pháp thức tu tên là: “Chuẩn đề, Đại
bi, pháp nghi hợp thức” cho các đệ tử chuyên tu Mật tông hành trì.]. Còn ngươi
thấy bụng ta lớn như bụng của ngài Di lặc là vì Ta từ bi, thương xót tất cả
chúng sanh, hằng luôn mang mểnh để ở nơi lòng cho nên bụng mới lớn ra như vậy.
Cố Hòa thượng mới thưa rằng:
– Con nay được gặp Thánh tượng Tây
phương Giáo chủ và Bồ tát rồi thì lòng nguyện con đã thỏa mãn và rất vui mừng.
Xin ngài dạy con phải về nơi nào để nhập thất, ẩn tu hầu sớm được về bên Phật.
Bồ tát bảo:
– Ngươi hãy ra cửa, sẽ có người trao
thư. Chỗ trụ xứ sau cùng của ngươi có ghi rõ trong đó.
Vậy hãy đi mau cho kịp thời giờ.
Ngài tuân lời, cúi lạy một lần nữa đoạn
đi thụt lùi ra cửa. Sau khi ra đến ngoài sân rồi thì ngài nhìn ngó trước sau và rảo
bước vòng quanh để xem phong cảnh.
Đang khi đi ngài chợt nghe phía sau lưng
mình có tiếng gọi:
– Thiền Tâm đang kiếm ta phải không?
Ngài quay đầu ngó lại thấy đó là Hòa thượng
Bổn sư THÍCH PHẬT ẤN năm xưa, nên lật đật quỳ xuống đảnh lễ. Hòa thượng đỡ dậy
bảo:
– Ta mừng cho ngươi đạo quả gần thành.
Tuy nhiên cũng còn sót lại một ít nghiệp nhỏ phải chịu nữa, hãy cố gắng vượt
qua thì sẽ được “đắc kỳ sở nguyện”.
Đoạn lấy trong mình ra một phong thư, bảo:
– Đây là phần đời còn lại của ngươi. Chỗ
trụ xứ tương lai và kỳ hạn vãng sanh thảy đều có ghi đủ ở trong đó. Để ta cho
người đưa ngươi về.
Ngài quỳ xuống lạy và tiếp lấy thư, vừa
cúi lễ xong, ngước đầu nhìn lên thì thấy mình đã về đến nơi tịnh thất ở Huệ Nghiêm từ lúc nào rồi,
trên tay vẫn còn cầm lấy phong thư màu trắng với mùi hương lạ vẫn còn thoang
thoảng bay ra.
Ngài mở bao thơ ra xem, bên trong có một
tờ giấy vàng, ghi bài “kệ” sau đây:
“SÁU TÁM lắm gian nan,
Nhơn quả chớ than van.
Thấy NINH thời ĐẠI đến,
Gặp PHÚ ắt bình AN.
LIÊN HƯƠNG thơm sực nức,
Còn chút nghiệp phải mang.
Ngọt chua hai bốn chẳn,
THÂN xuất đáo LIÊN BANG”.
Đang khi ngài cầm bài thơ và suy nghĩ
thì tiếng chuông trống của thời
công chú Lăng Nghiêm sáng từ nơi chánh điện vang lên. Khiến cho
ngài giật mình tỉnh giấc, vẫn còn ngửi được mùi hương lạ từ nơi thân thể thoang
thoảng bay ra một hồi lâu mới hết.
Ngài vội ngồi vào bàn viết, lấy giấy bút
ra biên lại bài kệ để
suy tìm nghĩa lý.
Hôm đó nhằm ngày chúa nhật, khoảng hơn
10 giờ sáng, có một người tục gia đệ tử của ngài quê ở Bến Tre về
Sài Gòn và đến Huệ Nghiêm thăm thầy. Đạo hữu này pháp danh là Minh Thiện, trước kia làm nghề buôn bán cá từ Biển Hồ Cao Miên về miền lục tỉnh – có
một dạo đó, đạo hữu này vừa mua sỉ xong một số cá tươi rất lớn mới vừa được lưới
từ Biển Hồ lên, đang sửa soạn cho người để xuống ghe chài để chở đi bán lại cho
các vựa cá. Lúc ấy đâu khoảng gần 11 giờ trưa, đạo hữu này đang ngồi tại bàn viết
tính toán tiền bạc, sổ sách, … thì chợt thấy buồn ngủ quá, không sao gượng được
nên gục đầu xuống mặt bàn thiếp đi.
Vừa mới nhắm mắt chưa đầy một phút đồng
hồ thì đạo hữu Minh Thiện mơ thấy như sau:
– Từ bên ngoài cửa, có hơn 20 người, đủ
cả nam, nữ, già trẻ và con nít, đầu đồng đội mũ đỏ, mình mặc cũng đồng một thứ
áo màu xanh có điểm chấm vàng, thần sắc và dung mạo đều tiều tụy, ốm yếu xanh
xao, dường như bị mang bịnh nặng nên bước không muốn vững, người này phải nương
tựa nơi người kia mà đi. Tất cả các người đó đều bước vào trong văn phòng làm
việc, quỳ xuống trước mặt Đạo hữu Minh Thiện lạy mà thưa rằng:
– Chúng tôi toàn thể gia đình trên 20
sanh mạng, hôm nay rủi đi lầm đường nên bị bắt cả. Thân sẽ bị chết trong giây
lát đây thôi. Chỉ có ông là người duy nhất cứu được chúng tôi, xin ông mở lòng
rộng lượng, ơn ấy kiếp kiếp không quên.
Đạo hữu Minh Thiện mới hỏi:
– Mấy người là ai, ở đâu, bị nạn gì mà
nhờ tôi cứu, tôi làm sao có được khả năng để cứu cho quý vị.
Mấy người ấy lạy mà thưa rằng:
– Xin ông ra phía trước, chỗ các nhân
công của ông đang làm việc thì sẽ thấy chúng tôi ở đó. Chúng tôi đồng mặc áo
xanh điểm chấm vàng và trên đầu cũng đồng đội mũ nhọn màu đỏ như hiện giờ. Nhờ
ông mở lòng từ bi cứu độ cho. Sở dĩ chúng tôi dám mạo muội cầu ông cứu giúp bởi
vì được biết ông là đệ tử của một bậc nhục thân Bồ tát thời nay là Đại Đức THIỀN
TÂM, ngài ấy có lòng từ bi rất lớn, ông là đệ tử của người xin nguyện nương
theo đức cả mà thương tình cứu tử cho cha con, chồng vợ chúng tôi để được sống
thêm tu niệm cho thoát nghiệp trong kiếp lai sanh.
Đạo hữu Minh Thiện mới hỏi:
– Được rồi, thôi ra đi ta sẽ cứu
cho. Mấy người kia lạy tạ ơn rồi dìu nhau ra cửa đi mất. Minh
Thiện giật mình thức dậy, trán đổ mồ hôi, tim đập mạnh, lòng bắt đầu hồi hộp
không an, liền chạy ra ngoài cửa, nhắm theo hướng mấy người ban nảy bước đi mà
nom theo, thấy các người làm công đang đổ cá từ trong lưới xuống ghe, chài, lòng
bỗng nhiên động tâm, suy nghĩ:
– Có khi mấy người ban nãy là các thần ở
dưới biển hồ này, lội đi chơi bị dính lưới chăng? Chắc có lẽ như vậy nên mới lạy
mình và nói chỉ riêng mình là có đủ khả năng cứu được họ mà thôi, hơn nữa sao họ
lại còn biết được tên sư phụ của mình kìa? Do vì nghĩ như thế nên Minh Thiện vội
bước tới chỗ đổ cá để xem thì thấy có một mẻ lưới vừa đổ xuống một đống cá
tươi, trong đó có hơn 20 con cá, lớn thì bằng một đứa con nít 2, 3 tuổi, nhỏ
cũng bằng bắp vế, da của tất cả các con cá này đều cùng một màu xanh biếc, điểm
chấm vàng như hột bắp, trên đầu có một vết màu đỏ tươi lớn bằng bàn tay nằm vắt
ngang, mới xem qua dường như đội mũ đỏ vậy.
Các con cá này ngáp ngáp gần như muốn chết,
mắt nhìn Minh Thiện trân trân như đang cầu cứu. Vừa thấy mấy con cá này xong,
Minh Thiện sợ muốn bay hồn, cả mình mọc ốc, biết hơn 20 người cha con, chồng vợ
mà mình gặp trong mơ ban nãy chính là đây rồi, liền ra lệnh bắt lên thả xuống
nước hết.
Tối đến nằm ngủ, mơ thấy một lần nữa hơn
20 người đó đến lạy và tạ ơn cứu mạng.
Từ đó Minh Thiện bỏ luôn việc buôn bán
cá và chuyển sang nghề khác. Và cũng kể từ dạo đó, đạo hữu Minh Thiện này mới
biết thầy mình là một bậc Bồ tát thời nay, nên càng thêm kính trọng bội phần.
Hôm nay nhơn dịp có chút việc về Sài
Gòn, nhớ đến thầy nên ghé qua chùa Huệ Nghiêm để viếng thăm, đảnh lễ,…
Trong khi trò chuyện, cố Hòa thượng có hỏi:
– Lúc này còn làm nghề cũ không “Sao lâu
quá không gặp?”
Minh Thiện thưa rằng:
– Bạch Thượng Tọa, mấy năm nay vợ chồng
con đã đổi việc làm ăn rồi nên không còn làm nghề cũ nữa. Chúng con cũng đã dời
nhà đi nơi khác, xa xôi quá nên ít được dịp về thăm thầy mặc dù lòng con lúc
nào cũng luôn tưởng nhớ.
Cố Hòa thượng hỏi:
– Làm nghề gì và dọn nhà đi đâu?
– Bạch Thầy, làm nghề buôn bán rau cải
Đà Lạt và dọn nhà ra ngoài đó ở mấy năm rồi.
– Ở tại chợ Đà Lạt phải không, nghe nói
khí hậu nơi đó mát và tốt lành cho sức khỏe lắm.
– Bạch Thượng Tọa không, cách Đà Lạt khoảng
40 cây số, nơi con ở là một ấp nhỏ, cũng tương đối yên ổn và thanh tịnh.
Cố Hòa thượng hỏi?
– Chỗ đó tên gọi là chi?
Minh Thiện đáp:
– Bạch Thượng Tọa, nơi con ở tên là Đại
Ninh.
Cố Hòa thượng giật mình, liền hỏi tiếp:
– Đại Ninh có phải là Phú An không?
– Dạ, bạch Thượng Tọa phải rồi, Đại Ninh
là tên của vùng, còn tên của thôn, nhà con đang ở nằm tại thôn Phú An. Bạch Thượng
Tọa, bộ thầy cũng biết nơi này nữa sao?
Hòa thượng mỉm cười nói:
– Cũng biết chút đỉnh.
KIM-XÀ THÁNH-GIẢ
Sau đây là một vài chuyện liên-hệ mà khi
còn sanh tiền, cố hòa-thượng đã tự-thân kể lại cho ni-sư Thanh-Nguyệt và cháu là ĐĐ. bổn-sư Thích Hải-Quang nghe :
-Có lần đó, cố hòa-thượng đang ngồi làm
cỏ tranh và xới đất bên cạnh một gò-mối lớn ở phía sau thất Phương-liên của ngài – lúc ngài
quơ tay ra sau lưng để cầm cuốc thì ngài lấy làm lạ mà nói trong bụng rằng:
– Ủa, sao bửa nay cái cán cuốc có vẻ
là-lạ và bự quá vậy? Ngài mới quay đầu ngó lại thì té ra là mình đang nắm nhằm
cần cổ của một con rắn to bằng bắp chân người lớn, màu đen có sọc vàng, rắn ta
vì bị nắm cổ nên hả miệng, le lưỡi ra khè-khè năm sáu tiếng làm cho
ngài hết hồn vội-vã buông tay ra và bước lùi lại phía sau, niệm Phật cả mấy chục
câu mới định-thần được. Xong rồi ngài đứng ngó y ta một lúc và nói rằng:
– Ủa, nhà ngươi ở đâu mà ra đây, nằm
sau lưng ta hồi nào vậy? Thôi hãy đi đi. Rắn ta cũng ngó
ngài một hồi, gật đầu mấy cái rồi bò ra phía sau gò mối, ngài đứng ngó theo xem nó
bò đi đâu cho biết nhưng chờ hoài mà vẫn không thấy tăm hơi gì hết, ngài mới
nghĩ:
– Ủa, bộ nó còn nằm gần đây sao mà không
thấy bò đi đâu hết vậy kìa?
Đoạn ngài mới đi vòng-quanh gò-mối, tìm
kiếm mấy lần mà cũng không thấy y ta đâu hết, bỗng dưng mà nó biến-dạng mất
tiêu như là khói vậy – Tìm hoài mà cũng không thấy có cái miệng hang rắn nào hết.
Khuya lại, sau thời khóa trì-niệm gần 4 giờ sáng ngài đang
ngồi trên ghế bên cạnh bàn viết nghỉ mệt, định bụng chút nữa sẽ pha cà-phê uống
thì nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa. Ngài lấy làm lạ, trong bụng nghĩ rằng:
Ủa, giờ nầy còn sớm quá mà sao người Thượng lại tới gõ cửa vậy kìa?
Ngài mới đứng lên, đi ra mở cửa thì thất:
Bên ngoài, trước thất của ngài là hai người Thượng một nam, một nữ, tuổi chừng
50, dung-mạo rất đơn-sơ, mặt mũi sần-sùi, da-dẻ đen-đúa, cả hai đều mặc quần áo
màu chàm trông cũng rất sơ-sài, đầu hơi nhọn, đi chân đất, bàn
tay nhám-nhúa giống như có vảy, đang chắp tay, cúi đầu chào ngài, miệng niệm
Nam-mô A-Di-Đà Phật.
Ngài nghĩ bụng: -ủa, hai người Thượng nầy
ở đâu đến mà thấy lạ mặt,
mình ở đây cũng đã lâu rồi mà chưa quen với hai vợ-chồng nầy. Coi họ có vẻ
nghèo và giống như bị bịnh mới hết ! Thôi để ta giúp cho họ việc làm – ủa, mà
sao hai người Thượng nầy lại lễ phép quá, biết chắp tay chào và niệm Phật nữa?
Ngài hỏi: -Phải hai vị đến xin việc làm
hôn?
Hai người ấy đáp:
– Mô Phật, Kính bạch Hòa-Thượng không.
Ủa, vậy chớ có chuyện gì cần không mà
gọi cửa tôi sớm quá vậy?
– Người đàn ông đáp: Bạch Hòa-thượng, hai
vợ chồng con đến đây để xin lỗi Hòa-thượng về chuyện đáng-tiếc ban trưa, có đứa
cháu nội đã làm cho ngài giật mình. Xin Hòa-thượng từ-bi tha lỗi và cho vợ chồng
con sám-hối.
Cố Hòa-thượng lấy làm kỳ, trong bụng
nghĩ rằng: Ủa, chuyện gì mà họ xin-lỗi và sám-hối kìa, lạ hôn, từ hôm qua đến
nay mình có gặp hay thấy đứa nhỏ nào đâu mà họ lại nói như vậy. Nghĩ thế nên
ngài mới hỏi:
– Cháu nội của hai vị hả, hồi nào, nó
bao nhiêu tuổi? Tôi nhớ suốt cả ngày hôm qua có gặp đứa cháu nào đâu!
Người đàn bà đáp:
– Kính bạch Hòa-thượng, cháu trai của
con là đứa bé hôm qua mặc áo quần đen có sọc vàng nằm hầu phía sau lưng của
ngài lúc ngài làm vườn đó.
Ngài mới hỏi :
– Vậy hả, cháu bé bao nhiêu tuổi?
Người đàn bà đáp:
– Kính bạch Hòa-thượng, cháu được 95 tuổi!!!
Cố Hòa-thượng của chúng ta giật mình, sảng
sốt hỏi tiếp:
– Ủa, cháu nội mà được 95 tuổi thì hai vị
đây bao nhiêu tuổi?
Người đàn ông đáp:
– Dạ con được 842 tuổi và vợ của con 760
tuổi !
Đến đây thì Hòa-thượng đã rõ biết họ là
ai rồi, nên ngài mới hỏi tiếp:
– Hai vị ở đâu tới đây?
Người đàn ông thưa:
– Bạch Hòa-thượng, chúng con ở Huỳnh-Xà
thôn nằm về phía Đông của thôn Phú-An nầy cách nơi đây khoảng 9 cây số, gia đình con có khoảng một ngàn người.
Vừa nói tới đây thì người đàn bà nắm lấy tay của ông chồng dặt-dặt mấy cái như ra hiệu đừng nên nói nữa làm cho người chồng mới nói đến câu:
khoảng một ngàn người….thì làm thinh luôn.
Cố Hòa-thượng gật đầu nói:
– Thôi hai vị yên lòng về đi, không sao
đâu.
Nghe ngài bảo như vậy thi hai vợ chồng
người nầy đồng chắp tay cúi chào rồi quay lưng đi vòng ra sau thất của ngài.
Hòa-thượng mới nom theo xem họ đi đâu và làm thế nào cho biết, thì ngài thấy
khi họ ra đến phía sau rồi, cả hai người đồng hóa ra hai luồng ánh sáng màu
vàng nhạt lớn bằng cườm tay, bay bỗng lên không về hướng Đông đi mất.
Do đó nên ngài biết rằng:
– Đứa bé 95 tuổi mặc áo đen, sọc vàng là
con rắn đen có vằn vàng ngày hôm qua đã làm cho mình hết hồn !
– Hai vợ-chồng nầy là rắn chúa.
Hang Ổ chánh của họ nằm về hướng
Đông của ấp Phú An, cách đây 9 cây số có tên là “Huỳnh-Xà động” .
-Chắc có lẽ họ mới biết biến hình nên dung mạo còn thô-sơ chớ chưa được đẹp người. Và hơn nữa chắc mỗi đêm họ ít nhiều gí đó cũng có đến đây nghe kinh và tu theo mình nên mới có vẻ kính-trọng mình và biết chắp tay niệm Phật như vậy.
ÔNG SƯ MÕ-CÀY
Nguyên gần 10 năm về trước, lúc cố Hòa
Thượng còn nhập-thất ở Bến-Tre, ngài có quen với một vị tu-sĩ tên là “Ông sư
Mõ-Cày”. Sở-dĩ gọi là ông sư Mõ-Cày bởi vì vị nầy tuy có hình-tướng một nhà sư
Phật-giáo, nhưng thật ra là một người đạo-sĩ tu-tiên luyện-điển theo
phương-pháp xuất-hồn, địa danh nơi ông sư nầy ở tu tên Mõ-Cày, vì thế nên mọi người và
luôn cả cố Hòa-thượng nữa cũng gọi tên ông-sư Mõ-Cày mà thôi chớ không ai biết
được tên thật của ổng là chi hết. Ông sư nầy rất kính-qúy cố Hòa-thượng qua
phong-cách và đạo-hạnh của ngài, nên thỉnh-thoảng cũng có đến viếng-thăm và kể
lại cho ngài nghe vê một vài việc chứng-đắc trong đường tu của mình, còn cố Hòa-thượng
thì cũng có chỉ-dẫn thêm cho sư một vài pháp tu bổ-túc, vì vậy mà sư có một sự mang ơn ở nơi cố Hòa-thượng.
Lúc ngài về Sàigòn và làm Đốc-giáo ở Phật
Học-viện Huệ-Nghiêm rồi thì sư cũng có đến thăm một lần, đến khi cố Hòa-thượng
lìa Huệ-Nghiêm để ẩn-tu thì hai đàng biệt nhau. Mãi đến mấy năm sau, sư mới tìm
được lên Đại-Ninh để thăm cố Hòa thượng – và rồi sư qua đời vào mấy năm sau đó.
Lần đầu tiên sư lên thăm cố Hòa-thượng
vào năm 1970 và được Hòa-thượng cho phép ở lại thất của ngài
vài ba hôm để đàm-đạo giáo-lý và tu-tập.
Qua đêm đầu tiên, sáng lại sư có thưa với
cố Hòa-thượng rằng thất của ngài đang ở tu nằm trên miệng hang của một động rắn
“Kim-xà” rất lớn và xin Hòa-thượng hãy cẩn-thận vì đây là các loại rắn thần con
nào con nấy cũng sống trên mấy trăm năm hết. Cố Hòa-thượng gật đầu, nói với
sư là ngài đã biết việc đó từ lâu rồi, từ đó sư càng thêm kính phục cố Hòa-thượng lắm.
Qua ngày kế đó, sư nằm ngủ và xuất-hồn
ra đi “thăm” xà động nầy, khi thức dậy sư có thưa cùng ngài như sau:
– Nguyên từ mặt đất của nền thất
Phương-Liên đi thẳng xuống dưới sâu 800 thước có một động rắn lớn, trong đây có khoảng 200
“ông dài” đều sống từ hơn 100 cho đến gần 1000 tuổi hết. Động nầy có đường thông qua 3,4 động khác nữa
– Chúa tể của tất cả các động rắn nầy là một đôi Xà-Vương màu nữa đen, nữa
vàng và đều đã được trên một ngàn tuổi rồi – Cặp Xà-Vương nầy hiện đang ở ngay
dưới nền thất của cố Hòa-thượng cùng với các con cháu, mỗi đêm đều nghe ngài niệm-Phật,
trì-chú và tu theo cho nên biết biến-hóa và đồng thờ cố Hòa thượng làm thầy để
nương theo tu-tập.
Sư kể tiếp rằng, khi sư xuất-hồn ra gặp
hai vị Xà-vương động-chúa nầy rồi thì mấy vị đó có nhờ sư về thưa lại với ngài
là họ muốn được quy-y Tam-Bảo để cho được sớm thoát khỏi kiếp rắn, họ cũng nói
rằng trước kia họ chỉ có sống lâu thôi chớ không biết phương-cách tu-hành, cứ ban ngày thì ngó mặt trời, ban đêm thì ngó theo
trăng, sao nên mặc-dù sống hơn cả ngàn năm rồi mà vẫn không
sao biến-hóa được. Từ khi cố Hòa-thượng về ở đây tu, mấy năm trôi qua cũng nhờ
nương theo oai-lực chú-ấn và câu niệm-Phật của Hòa-thượng mỗi đêm, cho nên nay
đã bắt đầu biến-hóa được rồi và thân-mình cũng đã đổi từ màu đen ra màu hơi vàng. Hiện thời thì
hai vị đó đang cùng với các quyến-thuộc đều ẩn-hình ở tại đây để tu và ngầm bảo-vệ cho ngài là bậc đại-sư của họ.
Hòa-thượng gật đầu và nhờ sư xuất-hồn ra
chuyển lời lại cho các vị Xà-thần nầy biết là hôm sau Hòa-thượng sẽ truyền phép
Tam-Quy để cho họ được dự vào
hàng Phật-tử.
Và sư làm theo lời ngài dạy.
Hôm sau, Hòa-thượng đắp y, hậu ngồi trên
pháp-tòa bày sẵn giữa tịnh-thất, trì-chú và bắt ấn Triệu thỉnh, chỉ đích danh 2
vị Xà-vương chúa-động Huỳnh-xà thôn gọi về. Liền sau đó ngài thấy trước mặt
mờ-ảo ẩn-hiện ra hai vị xà-thần bò vào và hiện-hình ra hai người một nam, một nữ
trong lứa tuổi khoảng ngoài 60, cả hai đều mặc áo ngắn màu vàng luốc, quỳ trước
mặt chắp tay cúi đầu phụng-mạng.
Hòa-thượng mới thuyết Tam-quy cho nghe và
kế đó là quy-y cho họ cùng các quyến thuộc, đốt chú-ấn mà ngài đã vẽ sẵn trên giấy vàng để
pháp-thí cùng rải nước cam-lồ xoáy-tịnh, chú-nguyện cho họ sau khi thoát kiếp rắn
đều được sanh thiên, y như Phật-pháp tu hành.
Ngoài ra cố Hòa thượng cũng còn có quy-y cho chư-thần địa-phương như thổ-thần, sơn-thần, thọ-thần v.v…. Các
vị nầy cũng đều đồng nương theo ngài để tu-tập hết.
Đến năm 1974, Sư Mõ-Cày có lên thăm cố
Hòa-thượng một lần nữa và ở cùng với ngài một tuần lễ – Sư có thưa cùng với cố
Hòa-thượng mấy điều sau:
1/- Về tình-hình đất nước vào năm tới (1975) sẽ có một sự “đổi-đời” rất
lớn, vô số người chết…
2/- Sư có xuất-hồn ra gặp lại các
xà-thần, điều đặc-biệt nhất mà sư thưa cùng với cố Hòa-thượng là cặp Xà-vương Động-chúa
Huỳnh-xà thôn, mấy năm qua nhờ được quy-y Tam-bảo và tu theo phép của ngài truyền
cho khi trước nên bây giờ đều được biến-hóa linh-thông, từ
nơi Hắc-xà vương nay đã chuyển ra thân Kim-xà vương và thường
hay biến thành hình sư-tăng mặc áo vàng, mỗi đêm đều có đi kinh-hành niệm Phật
chung-quanh thất của Hòa-thượng hầu-hạ và bảo-vệ cho ngài trong tất-cả mọi
hoàn-cảnh để báo-đức
tôn sư.
Mấy đêm sau, qua sự trung-gian của vị sư Mõ-Cày, ngài mới cho triệu hai vị Chúa-động nầy về.
Đêm đó, cố Hòa-thượng chiêm-bao, thấy như sau:
– Bên ngoài có hai vị, một tăng, một ni
đều mặc áo vàng đi theo sau sư Mõ-Cày vào trong thất quỳ xuống cung-kính đảnh-lễ.
Ngài hỏi là ai và từ đâu đến?
Hai vị ấy thưa:
– Bạch tôn-sư chúng đệ-tử là động chúa
Huỳnh xà thôn, nghe lịnh triệu-thỉnh nên về phục mạng.
Hòa-thượng truyền cho đứng dậy thì thấy
hai vị ấy thân-tướng cũng quang-minh, thần-sắc sáng-sủa, nghiêm-chỉnh, trên
trán mỗi người đều có chữ Vạn màu đỏ, trước ngực mang một xâu chuỗi
lóng-lánh hào quang.
Ngài hỏi vì sao hai con lại có được các
món pháp-bửu nầy?
Hai vị ấy thưa:
– Bạch tôn-sư, chữ Vạn nầy là nhờ nơi
quy-y Tam-Bảo mà có, còn xâu-chuỗi nầy là do công tu-tập mà thành – Bất cứ người
nào ở
gần và
tu theo tôn-sư 3 năm đều cảm-hiện ra được cả. Trong hàng quyến-thuộc của con hầu
hết đều được chuỗi nầy.
– Kể từ khi chúng con có 2 món bửu-bối nầy trên người rồi thì mỗi khi chúng con đi dạo chơi đến nơi nào
cũng đều được chư-thần ở địa-phương đó kính-trọng, nhường đường và gọi chúng
con là Phật-tử.
Hòa-thượng gật đầu thuyết-pháp cho nghe
cùng khuyên nhắc tu-hành. Các vị ấy đều lạy tạ ơn và biến mất.
Mấy hôm sau “Sư ông Mỏ-Cày” ra về và có
thưa với cố Hòa-thượng rằng: -Lần nầy là lần cuối cùng gặp nhau. Sang năm (1975) sư sẽ dời về vùng
núi Thất-Sơn ẩn-tu và sẽ tịch vào năm 1980, không còn có dịp gặp lại ngài được
nữa.
Sau năm 1975, có một vài vị tăng-sinh của
Phật Học-Viện Huệ-Nghiêm lên Đại-Ninh thăm cố Hòa thượng và ngụ ở ngoài tu-viện
Hương-Nghiêm Nữa đêm thức giấc, sáng dậy nói với mấy thầy nơi tu-viện rằng:
– Cha-chả, ông già của tụi mình tu-hành
tinh tấn ác-ôn !
Mấy thầy Tu-viện hỏi:
– Sao biết là ông già tu-hành tinh-tấn ?
Khách tăng trả lời rằng:
– Hồi hôm nầy lúc 2 giờ khuya, tôi thức
dậy đi tiểu, lúc trở vào, ngó qua bên thất của ông già thấy ổng vẫn còn mặc hậu
đi kinh-hành ở ngoài lan-can trên lầu thất của Ổng, nên biết rằng ông-già
tu-hành suốt cả đêm, tụi mình thiệt không bằng. Nhưng thật ra thì người mặc áo vàng đi kinh-hành chung-quanh lều
đó không phải là ngài đâu, mà chính là một trong hai vị Kim-xà vương
đệ-tử hiện hình tăng-tướng đì vòng quanh thất để bảo-vệ cho “Sư-phụ” của mình được an lành nghỉ-ngơi và tu-niệm.
– Một lần khác, quý thầy bên Tu-viện Hương Nghiêm dọn đất trồng
lúa, bắp – nên gom các cỏ tranh, chà, bổi vừa mới làm xong lại thành một đống lớn
để trên gò mối gần đó, đốt bỏ. Hôm
ấy cố Hòa-thượng ngó qua, thấy thế ngài mới rầy, bảo là đốt như vậy lỡ chết
côn-trùng mang tội – Sau
này Đại-đức bổn-sư cũng bị ngài rầy hết mấy lần vì đốt rác ẩu ở trên gò mối.
Khuya lại, sau khóa-lễ gần 1 giờ sáng ngài chuẩn-bị
đi ngủ thì nghe có tiếng khóc ở phía trước cửa – Ban đầu ngài tưởng đâu vì mình
sớn-sác nên nghe lầm, nhưng khi lắng tai nghe kỹ lại thi rõ-ràng là tiếng con
nít khóc chớ không sai chạy chút nào hết, ngài mới mở cửa ra đứng bên ngoài
nhìn chung-quanh để tìm, đêm đó nhờ có trăng tỏ cho nên chỉ một chút sau thì
ngài thấy ở dưới gốc mít phía trước thất có một đứa nhỏ đang ngồi khóc và có vẻ
đau-đớn lắm. Ngài lại gần hỏi con là ai, sao ngồi khóc vậy, lại đây thầy biểu
coi.
Đứa nhỏ đứng dậy bước ra, đó là một em
bé trai khoảng 5, 6 tuổi gương mặt cũng dễ coi, mặc áo màu xanh , lại gần cố
Hòa-thượng nói con bị phỏng hết cả lưng, đau rát lắm.
Ngài hỏi vì sao mà bị như vậy ?
Bé đáp:
– Hồi trưa nầy con đang nằm ngủ thì bị lửa
ở đâu đốt cháy, vì ngủ mê nên không hay, đến khi nóng quá, giật-mình thức-dậy
thì chạy không kịp nên cả lưng bị phỏng hết, xin tôn-sư từ-bi cứu-độ.
Cố Hòa-thượng vừa nghe nói vậy thì ngài
biết “Bé” nầy thuộc vê giống gì rồi, nên ngài có lòng thương, dẫn nó vào trong
cốc, lấy chung nước cúng Phật trên bàn thờ xuống trì-chú A-Di-Đà Cam-lộ Chơn-ngôn vào
nước một hồi rồi rải trên lưng của nó, xong ngài mới bảo bé rằng thôi con về đi, không sao đâu mai sẽ lành.
“Bé” lạy tạ ơn, ra khỏi cửa rồi biến mất.
Đêm sau ngài nằm chiêm-bao thấy có một
người đàn-bà chắc là “má-mì” dắt nó đến cám-ơn, trong mơ thấy nó hết khóc rồi
và cười nói vui-vẻ
Một câu chuyện khác:– Nơi cốc Phương-liên 2, phía sân trước có một gò mối lớn bằng 5, 6 chiếc đệm, trên có tre gai mọc, choán cả một khoảng đất rộng. Đã mấy lần ni-sư muốn đốn bỏ, dọn dẹp cho có đất trống để trồng bắp, đậu, nhưng hễ ai vừa tới gần gò-mối, định đôn cây, phát cỏ thì đều cảm thấy xây-xẩm mặt mày và nhức-đầu hết. Riết rồi mấy người Thượng sợ quá, đứng ngoài xa chắp tay xá-xá vào gò mối thôi, chớ không dám đến gần nữa.
Họ nói chúng tôi không dám đâu, trong đó
có thần thánh ở đừng đụng chạm đến mà chết.
Mấy năm trôi qua rồi mà gò mối cũng
không sao phá được. Đối cùng ni-sư mới đem chuyện nầy trình lên cố Hòa-thượng
xin giúp-đở vì rất cần đất trống để trồng trọt hoa-mầu. Lúc ấy cố Hòa-thượng
chưa bế quan, nghe vậy nên ngài mới vào xem tự-sự. Sau khi làm phép và chú-nguyện
xong rồi, đêm đó ngài nằm mơ, vía thấy đi vào trong thất Phương-liên 2, lại gần
chỗ gò-mối, chỉ tay vào trong bụi tre, bảo:
-Vị nào trong đó hãy đi nơi khác ở, để đất
trống cho chư-ni trồng-trọt, sinh-sống và tu-hành. Nói xong một lát sau thì
ngài thấy từ trong gò mối và bụi tre gai có một con rắn màu đỏ, to bằng cây cột
nhà bò
ra ngó ngài một hồi, đoạn gật đầu mấy cái rồi xuống sông đi mất.
Sáng ra ngài nói cho ni-sư nghe và bảo rằng
gò mối nay đã phá được rồi….Trước sự hiện-diện của ngài mấy người Thượng mới
dám đến đốn tre và bang bằng gò-mối. Bấy giờ mới khám phá ra một việc hi-hữu, ấy
là trong gò-mối nầy có một bụi “Đơn-quy” rất lớn là một vị thuốc bắc đặc-biệt bổ máu rất
quý báu, củ to bằng bắp tay, bắp chân mấy trăm năm rồi nên củ mới lớn như vậy – nhiều đến
nỗi đem về phơi cả mấy chiếc đệm mới hết.
Cố Hòa-thượng nói với ni-sư rằng:
– Hèn chi mà không ai phá được cái gò mối nầy hết. Té ra vì trong đó tàng-ẩn vị thuốc quý nầy nên mới có rắn thần canh-giữ. Đây cũng là cái duyên của con đó, hãy giữ kỹ mấy củ đơn-quy nầy mà dùng từ-từ. Sau nầy con còn nhờ nó lắm.
HƯƠNG-GIANG THẤT
Trời
xanh-xanh,
Trăng thanh-thanh.
Xa đôi hạt trắng lướt bay nhanh,
Gió nhẹ khẽ rung cành.
Trên mặt nước,
Bóng trăng in.
Dịu-dàng buông ánh-sáng lung-linh,
Một niệm dứt bao-tình.
Dưới mái
tranh,
Giữ đạm thanh.
Chim chiều luyến ổ lượn chung-quanh,
Nguyện lòng tìm đến bến vô-sanh.
Nương-nép bóng cha lành,
Một dạ quyết tu-hành.
Trăng chiếu
long-lanh khe nước bích,
Gió đưa thoáng động nhánh hoa đào.
Rừng núi xanh-xanh cây phủ khắp,
Lòng nương mây bạc vút bay cao.
Thong-thả chốn
đầu non,
Trăm hoa tợ phấn son.
Đàn trúc nghe réo-rắt,
Thông già giọng véo-von.
Ráng đỏ vừa trông vầng nhật lặn,
Kế lại nhìn xem bóng nguyệt tròn.
Thanh-tịnh tấm lòng không tướng nghĩ,
Sắc, tài, danh, lợi, cháu cùng con.
Giấc
hòe tỉnh ngẫm-suy cuộc thế,
Bóng nguyệt-ngân đổ xế cành ngô.
Bồng-tiên cảnh đẹp mơ-hồ,
Niềm nhân-sự ngẫn-ngơ sanh khái-cảm.
Tri-âm ảnh-tuyệt linh-cầm đoạn,
Vân-tự chung hồi lạc-quốc du.
Lắng chuông khuya mà quyết chí tiềm-tu,
Tưởng sen nở thiên-thu miền Cực-lạc.
Vùng ngũ-trược cõi trời, người đổi khác,
Chưa vô-sinh e dễ lạc mê-trần.
Bâng-khuâng bể-giác non-thần.
Liên-Du Vô-Nhất
Thích Thiền-Tâm
Bao nhiêu tuổi,
biết bấy nhiêu nơi,
Dở dở, hay hay ở với đồi.
Nở giận hờn chi cho mệt dạ,
Tránh tranh đua miệng đở hao hơi.
Thế nhân suy-tính ngàn muôn lối,
Nhưng tính sao hơn được với Trời.
Chán biết nhân-tình là tệ-bạc,
Cũng trò, cũng chuyện cũng cười chơi!
Sóng nghiệp xa
đưa đến Đại-Ninh,
Thị-phi, thương ghét biết bao tình.
Lắm khi nhục-nhã, lòng câm nín,
U-uất khổ sầu cũng lặng thinh.
Thất nhỏ đêm ngày chuyên lễ-niệm,
Sớm mõ, chiều chuông tiếng kệ kinh.
Nguyện mong Tam-thánh trời Tây đến,
Đài kim rực chiếu ánh quang-minh.
Vô-Nhất Thích Thiền-Tâm
ẨN TU NGẪU VỊNH 2020 - YouTube
Ẩn-Tu Ngẫu Vịnh
Vào đêm RẰM, ngày 15/5/1989 Âm lịch (nhằm ngày
KỶ DẬU, tháng CANH NGỌ, năm KỶ TỴ), sau
thời khóa, HT
THÍCH THIỀN-TÂM bỗng
ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua
thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là ẨN-TU NGẪU VỊNH.
1.- Ẩn tu nào phải
cố xa đời !
Mượn cảnh u-nhàn học đạo
thôi !
Những thẹn riêng mình nhiều
nghiệp chướng
Bốn ân còn nặng nghĩa đền
bồi.
2.- Ẩn tu cảm xót biển trần-ai !
Sóng gió trầm luân mãi lạc
loài
Thân khổ kiếp người muôn
nỗi khổ !
Nghiệp đời vay trả, trả rồi
vay !
3.- Ẩn tu hôm sớm niệm Di Đà
Lòng lặng mười muôn chẳng
cách xa
Canh vắng giường thiền khi
mãn định
Hoa sương cười nụ dưới
trăng tà.
4.- Ẩn tu uổng tiếc bạn đồng hành !
Nói lý cao huyền đắm lợi
danh !
Già, bịnh, đoạ sa, không
phản tỉnh
Bóng câu mấy nỗi thoáng bên
mành !
5.- Ẩn tu cõi tịnh nhẹ buông
hồn !
Tưởng quán trời Tây nhớ
Bảo-thôn
Ráng đỏ sắp đưa, vầng
Nhật-lặn
Phất phơ tà áo gió hoàng
hôn.
6.- Ẩn tu bền chí
giữ công phu
Ba cõi không an lửa ngục tù
!
Ngũ-dục, Hoàng-lương say
gối mộng
Kiếp người dường một thoáng
phù du !
7.- Ẩn tu riêng chạnh nỗi riêng
mình
Túc trái gây nên, mối
bất-bình
Tích phước tu-hành rồi tạo
nghiệp
Cánh bèo trôi giạt biển phù
sinh.
8.- Ẩn tu tưởng lại quả đời nay
Bao lớp gian truân nỗi đoạ
đày !
Ẩn nhẫn trả xong tròn
nghiệp trước
Dấu hồng chuyện cũ tuyết mờ
bay !
9.- Ẩn tu nhớ đến đức sanh
thành
Lắm lúc vì con chẳng tạo
lành
Con lớn Mẹ Cha oằn gánh
nghiệp
Bảo châu đền đáp cũng mong
manh !
10.- Ẩn tu nguyện trả nghĩa song
đường
Hồi hướng công phu mỗi khoá
thường
Lại khuyến nghiêm-từ tâm
đạo phát
Nương thuyền Phật huệ đến
Tây-phương.
11.- Ẩn tu cửa đạo
trải bao năm
Kinh nghiệm nhiều phen vẫn
lạc lầm
Quen lắm lại càng thêm việc
lắm
Cung đàn Hạ-Lý, mấy tri âm
?
12.- Ẩn tu ngùi ngậm bạn chung
sơ
Nối gót ra đi chẳng hẹn chờ
Ngàn dặm cố nhân hồn lẫn
vẫn
Mười năm việc cũ nửa phai
mờ !
13.- Ẩn tu ưu cảm bởi nhơn tình
Điên đảo luân thường lại
sát sinh
Khiến lắm tai trời thêm ách
nước
Vầng hồng xế bóng sắp tây
khuynh.
14.- Ẩn tu xét thấy chốn
Tăng-Già
Ganh-hại thị-phi lắm bất
hoà !
Danh vị, chùa chiền tranh
đệ tử
Ưu Đàm, Lan Huệ héo mầm
hoa.
15.- Ẩn tu rõ biết chuyển cơ
trời !
Nhân-quả lọc thanh đạo với
đời !
Tai biến dập dồn trăm cảnh
chết
Núi xương sông máu, thảm
đầy vơi !
16.- Ẩn tu nghĩ muốn
thoát dòng mê !
Vững lái phong ba lúc nặng
nề
Niệm Phật, niệm Tâm, tâm
niệm Phật
Mây tan thấy rõ lối đi về.
17.- Ẩn tu Tín, Nguyện Niệm hồng
danh
Thời mạt chướng sâu đạo khó
thành
Chờ đến Liên-bang lên
pháp-nhẫn
Đem thuyền Bát Nhã độ quần
sanh.
18.- Ẩn tu Hoa Tạng mến môn
huyền
Muốn kết Dao-đài hội Thắng
Liên
Theo bước Đàm-Loan chơi
bảo-các
Bích Câu lạc dấu, Giáng-Kiều
tiên.
19.- Ẩn tu tế độ chẳng quên lòng
!
Bi, Trí đôi đường phải suốt
thông
Y sĩ nhân tâm dù đã sẳn
Còn rành nhân thuật mới
thành công !
20.- Ẩn tu chi quản nệ công-lao
Mà chẳng tuyên dương tiếng
Hải-trào
Sông lớn khơi nguồn từ núi
thẳm
Xuống trần càng đục biết
làm sao ?
21.-Ẩn tu Không có,
Có mà Không !
Phương tiện, từ bi khó biết
lòng !
Ngôn thuyết hãy còn Thân
thuyết-pháp
Sấm mưa ẩn hiện bóng Thần
Long.
22.-Ẩn tu mây trắng nhẹ phiêu
diêu
Uốn khúc sông-in giãi lụa
chiều
Thanh thoát gió chim reo
nhạc Phật
Lầu-Tần không lại lắng hơi
tiêu.
23.-Ẩn tu an tĩnh chốn cao
nguyên
Hoa cảnh lòng trăng đẹp dịu
hiền
Mây núi điệp trùng đêm tịch
tịch
Câu Kinh tiếng Phật lại
triền miên !
24.-Ẩn tu tịnh thấy cảnh am mây
Thanh tuấn thiền sư dáng
huệ gầy
Kiếp trước Đạo Dung là tớ đó
Mà nàng Thiên Thụy hỏi ai
đây ?
- Ẩn tu dũng-tướng nhớ thời xa
Hoàng-tộc triều Lê điện
Thái-Hoà
Vì Trịnh – Tú – Loan duyên trái
khiến
Nửa chừng xuân gảy gánh tài
hoa !
25.-Ẩn tu lại thấy ở
am mây
Lâu trượng Tay cầm kiếm qủy thần
Mật phái Lạt-ma y mão lạ
Quê xưa trúc tạng tợ xa gần
26.-Ẩn tu được biết
kiếp lâu xa
Từng ở Thiên cung cõi Đại
La !
Đại Phước Lão-tiên là bạn
cũ
Xuống tìm học Phật lạc mê
hà.
27.-Ẩn tu luân chuyển nghĩ bao
đời !
Thân-thế bèo đưa, sóng
nghiệp trôi !
Lỗi bởi tâm mình chưa
chuyển vật !
Những riêng thương thẹn khó
nên lời.
28.-Ẩn tu nương tựa ánh từ
quang
Lần lữa trần tâm lắng nhẹ
tan
Năm tháng luyện thuần trâu
hoá trắng
Sáo thanh một khúc cỏ hoa
nhàn.
29.-Ẩn tu gió mát toả gương nga
Tĩnh-thất cài then tụng
Pháp-Hoa
Bừng sáng thân tâm hoà ánh
nguyệt
Tầm Dương bổng dứt hận Tỳ
Bà !
30.-Ẩn tu niệm Phật cảnh sâu
huyền !
Trong sáng linh hư hợp
Tịnh, Thiền
Không hữu đều tan, Trung
đạo dứt
Hoa vàng chợt nở Bảo trì
liên !
31.-Ẩn tu niệm dứt
tướng vào ra
Không thấy thân tâm Phật
với ta
Thanh thoát rõ rành vang
Thánh-hiệu
Trăm hoa đua sắc tiếng Oanh
ca.
32.-Ẩn tu niệm chẳng thánh cùng
phàm
Mắt huệ can chi dính mạt
vàng ?
Hữu tướng tức đồng Vô tướng
niệm
Chân Không huyễn sắc khắp
bao hàm.
33.-Ẩn tu tuy biết ý cao siêu
Mà chẳng thích ưa lý luận
nhiều
Căn tánh người nay đà kém
loạn
Nói hay làm phỏng được bao
nhiêu ?
34.-Ẩn tu ngại lỗi luận đua
tranh
Nói cũng vì người thuyết
khác hành
Thái cực ai-phân nhơn-ngã
đó
Lạnh lùng huyễn lợi với hư
danh !
35.-Ẩn tu suối bạc ánh màu ngân
Muốn gẫm gần xa chuyện túc
nhân
Người cảnh ai bày vui với
khổ
Hoa trăng cười cợt ý bâng
khuâng.
Chỉ ước lâm chung dự biết
thời
Nương nguyện Phổ-Hiền sanh
Cực-Lạc
Rồi dong thuyền độ khắp nơi
nơi.
37.-Ẩn tu an phó bịnh suy già
Nhơn thế xưa nay vẫn thế mà
Giữ chắc hồng-danh thuyền
tế độ
Muôn trùng bao quản ngọn
phong ba !
38.-Ẩn tu suy gẫm sức hồng danh
Phước huệ tăng-kỳ kết tụ
thành
Sáu chữ chí tâm tiêu vạn
tội
Một câu chín phẩm thoát
siêu sanh.
39.-Ẩn tu tuy chửa đến Tây
Phương
Cành ngọc chim linh ứng
mộng thường
Rõ biết tâm lành sanh cảnh
tịnh
Quả nhân cảm hiện lẽ chiêu
chương.
40.-Ẩn tu niệm Phật suốt thâu
canh
Cam lộ từ răng đượm ngọt
thanh !
Khát nước đã nhờ công đức
thuỷ
Lam Kiều chi nhọc hỏi Vân
Anh ?
41.-Ẩn tu chợt nhớ
Hổ Khê xưa !
Suối bạc non xanh đệ nhứt
thừa
Một giống Bạch Liên truyền
đất Việt
Hương sen còn đậm hạt thu
mưa !
42.-Ẩn tu riêng mến đạo Đông
Lâm
Biển Phật thuyền Sen thật
chẳng lầm
Liên lậu trước chùa ghi
nhựt khoá
Đến nay còn dậy khúc Thanh
âm.
43.-Ẩn tu trần niệm chẳng còn
dư
Kinh điển dường quên, tám
vạn tư
Chẳng biết Lư Sơn mày mặt
thật
Chỉ nhân mình ở tại non Lư.
44.-Ẩn tu nghĩ chuộng sắc
thanh-duyên
Thanh sắc đâu bằng cõi Bảo
Liên
Sắc rực ánh vàng thanh suối
ngọc
Tô Đà hương phạn lại tham
thiền.
-Ẩn tu
nghĩ kẻ sắc thanh tranh
Thanh sắc đâu bằng cõi Thái
Thành
Sắc đẹp ba hai thanh phạm
tám
Ăn xong thiền duyệt lại
kinh hành.
45.-Ẩn tu khuyên khách mến
giang hồ !
Nên học Liên phương niệm
Phật đồ
Về cõi Bảo Hoa đi dạo khắp
Muôn trời tịnh diệu nét
Xuân tô !
46.-Ẩn tu lòng đạo
sáng gương rằm
Bạn Cúc quê vàng cảnh vắng
tâm
Cây biếc mây hồng che tĩnh
xứ
Khói sương vùi dập mấy mươi
năm.
47.-Ẩn tu Lan-Nhã ngắm tư bề
Ríu rít mây chim tiếng gọi
về
Dâu biển người đời thương
biến đổi
Đâu hay muôn cảnh vốn Bồ
đề.
48.-Ẩn tu nhớ dạy Tịnh Liên Hoa
Trí Giả nguyên là Phật
Thích Ca
Lại có Vĩnh Minh cùng Thiện
Đạo
Tương truyền thân hóa của
Di Đà
49.-Ẩn tu thấy nói Tổ bên Thiền
Long Thọ, Mã Minh chứng đạo
huyền
Đều tín Liên tông khuyên
NIỆM PHẬT
Sao hàng hậu học tạo khinh
duyên ?
50.-Ẩn tu thương nghĩ cánh Nam
tông
Tịnh độ cho là pháp viễn
vông
Bác phá Đại thừa phi Phật
thuyết
Yến Ly đâu biết dấu chim
hồng ?
51.-Ẩn tu ngẫm diệu
đạo Liên trì
Căn tiểu thừa nghi chẳng lạ
gì ?
Thượng đức năm ngàn Linh
Thứu hội
Thành quân bại Bắc rút lui
đi.
52.-Ẩn tu chán kẻ nói loanh
quanh
Đem hiệu Di Đà phối
ngũ-hành
Bao-tử giả là ao Thất-bảo
Phật lành niệm Phật để làm
danh !
53.-Ẩn tu than kẻ chấp ly kỳ
Không sắc thật quyền chẳng
biết chi
Bảo Phật gỗ, đồng không độ
lửa
Còn thân Phật đất, nước tan
đi.
54.-Ẩn tu chẳng ngại hung yêu
ma
Vì để biệt phân chánh với
tà
Chỉ sợ cửa không hàng phá
Kiến
Dắt người lầm lạc khó nhìn
ra.
55.-Ẩn tu thời mạt nhớ Kinh ghi
Học đạo muôn ngàn ít ngộ kỳ
Duy niệm Hồng-danh cầu
Tịnh-độ
Hiện đời giải thoát rất
ly-kỳ.
Thiền, Tịnh, thị phi chấp
trước dày
Kiên cố đấu tranh đà hiện
rõ
Đạo đời phân hóa cảnh thời
nay.
57.-Ẩn tu ý Tổ cảm thông tri
Bi trí tuỳ cơ độ Mạt-thì
Đâu phải chấp đua như thế
tục
Mà riêng khen Tịnh đạo
huyền vi.
58.-Ẩn tu thời mạt nhớ câu than
Đức Tín Tỳ Kheo kém
Thiện-nam
Cư-sĩ lại thua hàng tín-nữ
Thiên Như huyền ký để lời
vàng.
59.-Ẩn tu lòng đạo muốn tăng
cao
Phải quán tam đồ khổ lớn
lao
Phát ý Bồ đề siêng niệm
Phật
Bởi cơ nước lửa sắp dâng
trào.
60.-Ẩn tu nhìn khắp cảnh ban
mai
Người vật ra đường chim
nhảy bay
Tất cả chỉ vì lo vóc huyễn
Nhọc, già, bịnh, chết mấy
ai hay?
61.-Ẩn tu tục lụy thấy muôn mầu
Trong cảnh giàu sang dễ bạc
đầu
Việc đắc ý nên dừng nghĩ
lại
Kiếp trần tạm gởi được bao
lâu.
62.-Ẩn tu nhìn thế loạn đường
tơ
Các nước phân tranh rối
cuộc cờ
Đạo-pháp vang hồi chuông
cảnh tỉnh
Mộng thành sấm dậy chẳng
tan mơ.
63.-Ẩn tu niệm Phật gọi
Liên-hương
Khắp nguyện đồng lên
Tuyển-Phật trường
Hoàng Hạc lầu mây lòng
chẳng tưởng
Non Tiên ba cõi vẫn vô
thường.
64.-Ẩn tu thường thấy hạng ngu
thành
Niệm Phật thiện chung hoặc
vãng sanh
Khiến nghĩ làng tu huyền
luận giỏi
Bởi đâu khi tịch chẳng an
lành?
65.-Ẩn tu hằng tự nhủ riêng
lòng
Đã biết đường Tây phải gắng
công
Bình nhựt là nhân như chẳng
thật
Lâm chung quả có nở Sen
hồng.
66.-Ẩn tu quyết chí
gạt trần tình
Mặc nỗi khen chê lẫn bất
bình
Sức yếu phải cam phần kém
yếu
Tình đời ví nhẹ đạo tâm
sinh.
67.-Ẩn tu tưởng đến cảnh
Lê-viên
Điệu múa Nghê thường đẹp áo
Xiêm
Kim cốc sanh ca dìu dặt
trổi
Mà nay suông lạnh ánh thu
thiềm !
68.-Ẩn tu Chiêm-tộc nhớ
Mường-Lan
Nữ chúa rừng xanh đẹp khác
phàm !
Tướng sĩ trận voi uy-vũ
thạnh
Nhạc mờ Phan Thiết núi
sương lam !
69.-Ẩn tu liên tưởng dãy Giang
Đông
Xích Bích trống quân dậy
lửa hồng !
Tuyệt-đại song kiều, anh
kiệt mất
Tài tình mấy đoạn phút hoàn
Không.
70.-Ẩn tu Nguyễn Huệ nhớ
Anh-hào
Điệp-điệp quân thanh, chiến
cuộc thâu
Trúc kết sang sông mờ bóng
cũ
Mây ngàn cỏ nội đỉnh Tây
sầu !
71.-Ẩn tu tìm hỏi
truyện Tây Thi
Dư lại hồn mai ánh nguyệt
trì !
Hận nỗi ba sinh đâu vắng
tá?
Thương tình một mối có ra
chi?
72.-Ẩn tu tích cổ duyệt xa gần
Tan hợp bên trời áng
bạch-vân !
Biển nổi dâu chìm duyên
cảnh thế,
Bao giờ cảnh Phật tựa lầu
ngân.
73.-Ẩn tu bốn mặt khói sương
đầy
Hỏi gạn ai người niệm Phật
đây?
Cười mỉm Duy Ma không phúc
đáp
Song hồ nửa khép cánh am
mây !
74.-Ẩn tu trì niệm cảnh hồn
nhiên
Trong lặng âm-thanh vẫn dịu
hiền
Đoan-đích tìm chi tin-tức
thật?
Tiếng chuông đêm vắng đến
ngư thuyền.
75.-Ẩn tu niệm Phật nhẹ lâng
không
Hồn bướm Trang Chu tỉnh
giấc nồng !
Ý vị âm thầm trăng tỏa sáng
Hình dung lóng lánh tuyết
ngần trong.
Cao thấp đồi xa ủng hộ bày
Trước mắt rõ ràng chân cảnh
lộ
Màu thu lai láng nét thu
gầy.
77.-Ẩn tu mưa phới khắp ngàn
tiêu
Bát ngát lâm tuyền cảnh
tịch liêu !
Tiếng gió canh thâu hoà
tiếng Phật
Bên thềm hoa rụng ít hay
nhiều.
78.-Ẩn tu ca nhạc có chim rừng
!
Bay hót vần quanh tợ đón
mừng
Đủ sắc phi-cầm, tranh vẽ
đẹp
Điểm-tô cảnh Phật, một màu
Xuân.
79.-Ẩn tu hoa cỏ dáng thờ ơ
Thời mạt nhơn tâm đã khác
xưa
Lòng thú hình người, đầy
lớp lớp
Cảnh đời gió gió, lại mưa
mưa !
80.-Ẩn tu kham nhẫn cõi Ta Bà
Nỗi khổ muôn ngàn, khó kể
ra
Cực Lạc niềm vui vui bất
diệt
Khổ vui đều bởi tự nhân mà
!
81.-Ẩn tu đàn suối
cạnh triền non
Tươi tỉnh hoa ngàn tợ phấn
son
Sáng lạ vừa tan vầng ráng
đỏ.
Đẹp xinh lại hiện bóng
trăng tròn !
82.-Ẩn tu ai bảo chẳng Di Đà
Thiện Đạo quang-minh niệm
niệm ra
Khang Tổ mỗi câu sanh hoá
PHẬT
Cười hàng ngu chấp cố dèm
pha.
83.-Ẩn tu ai bảo niệm hồng danh
Không có Tây-phương chẳng
vãng sanh
Liên hữu xưa nay nhiều hiện
ứng
Thánh-Hiền-Lục đã chép ghi
rành.
84.-Ẩn tu chân thật chớ bề
ngoài
Tu dáng tu hình lạc-lối sai
Tu tánh tu tâm lên giải
thoát
Khuyên làng tu Phật chớ
khoe tài.
85.-Ẩn tu hiếu thuận niệm Di Đà
Siêu độ cửu huyền đến mẹ
cha
Hiếu đây mới là chăn thật
hiếu
Đời tươi như gấm, đạo như
hoa.
86.-Ẩn tu xót cảnh
đạo đời suy
Lý học Đông Tây đã dự tri
Thiên giáo chỉ rành cơ tận
thế
Tiên ghi tận diệt đến thời
kỳ.
87.-Ẩn tu lý đạo nói sao cùng !
Nhân-quả nghiêm minh xử
lạnh lùng !
Tài, sắc, giàu, sang âu
cảnh tạm
Sáng tươi chiều héo đoá Phù
Dung.
88.-Ẩn tu thế chiến biết kỳ ba
Nước lửa sơn lâm khắp hải
hà
Mấy cuộc lọc thanh đầy
huyết-lệ
Bay hồn thảm khổ, lướt khôn
qua
89.-Ẩn tu bom đạn, rõ điềm hung
Tan-tác thành đô quả đất
rung
Đổi cảnh, đổi người, thời
tiết đổi
Núi nhô, núi sụp, chuyện
khôn cùng.
90.-Ẩn tu mạt-kiếp thấy lời ghi
Trước mất Lăng Nghiêm pháp
diệu kỳ
Lần lượt các kinh đều diệt
hết
Duy còn Phật hiệu độ cơ-nguy.
91.-Ẩn tu khuyên
khắp sớm hồi đầu
Lìa khỏi dòng mê, sóng nước
sâu
Phước huệ đủ trong câu niệm
PHẬT
Tám muôn tư pháp cũng gồm
thâu.
92.-Ẩn tu chầm chậm bóng dương
đi
Ngoài cửa hoa nhàn liễu rũ
mi
Đại-mộng hỏi ai người sớm
tỉnh?
Ngày xuân chưa dễ hẹn
tiên-tri !
93.-Ẩn tu khẩn nguyện khắp
nơi-nơi
Niệm PHẬT xứng cơ lại hợp
thời
Biển mộng hỏi ai, thuyền
lạc bến
Sông mê này chút ánh sen
rơi !
94.-Ẩn tu nghĩ tiếc bậc tài cao
!
Biển luỵ trần ai đắm kiệt
hào !
Giọt lệ Tần-Đình thương đất
nước
Bên song kiếm ẩn thán công
hầu !
95.-Ẩn tu nhìn lắm kẻ chơi vơi
Gào khóc quên tu cũng huyễn
thôi !
Niệm PHẬT để cho tròn tánh
PHẬT
Kiếp người chẳng uổng được
thân người.
96.-Ẩn tu tâm PHẬT
hội Tào Khê
Kiếp ngoại trời xuân sáng
bốn bề
Hoa nở sắc hương thành
Chủng trí
Gió thông kim cổ đạo Bồ-Bề.
97.-Ẩn tu giải đạo phải dùng
lời
Biển lớp ngôn âm cảnh lẫn
người
Tự xét đã riêng không sở
đắc
Nói nhiều thêm lỗi vọng mà
thôi.
98.-Ẩn tu phương tiện mượn thi
ngâm
Thức ngộ mình người khởi
đạo tâm
Đâu nghỉ hoa đào ra động
bích
Mà mong Lưu Nguyễn ghé vào
thăm?
99.-Ẩn tu sống chết việc ưu tiên
Kinh cảm luân hồi trải khắp
miền !
Sa đoạ ba đường như đại địa
Móng tay cát bụi cõi nhơn
thiên !
100.-Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu
Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi
cầu
Thanh tịnh chí thành trong
mấy điểm
LỰC,HÀNH, NGUYỆN THIẾT với
TIN sâu.
101.-Ẩn tu niệm niệm bút sanh hoa
Thi-tứ nguồn tâm một mạch
ra
Danh-tự vị nguyên là
Phật-nhãn
Non Tây rực rỡ dệt hồng hà.
102.-Ẩn tu trắc trắc, lại bình bình
Niệm đạt vô-tình lẫn hữu
tình
Lầu tuyết rã tan ngàn thế
giới
Chân trời pháp nhãn lộ
bình-minh.
103.-Ẩn tu niệm vỡ chụp pha-lê
Muôn ổn ngàn yên lặng khắp
bề !
Riêng một bóng Tăng ngồi
tĩnh-tọa
Lâm-viên vừa bặt tiếng sơn
khê.
104.-Ẩn tu sừng-sửng cội cây khô
Một ngón Thiên Long, dứt
ý-đồ
Phật tử đến thăm như hỏi
đạo
A Di Đà Phật lại NAM MÔ.
105.-Ẩn tu nhơn cảnh chợt đều quên
Sáng-rỡ vầng-nga rọi trước
thềm
Mùi đạo Lan-thanh riêng tự
biết
Kêu mưa đã vắng giọng cưu
đêm.
106.-Ẩn tu suối lặng bóng chim qua
Chim nước đều như tự tại
hoà
Di Lặc trao cho xem túi vải
Dưới trên đều rỗng, giọng
kha kha !!!
107.-Ẩn tu bên viện tiếng chuông dồn!
Sấm nổ Oai âm tỉnh mộng hồn
Chồn nhảy vào hang Sư tử
chúa
Sư-Vương lại dạo dã hồ
thôn.
108.-Ẩn tu trì niệm tháng năm qua
Đạp lối Sen thanh trở lại
NHÀ
Tin-tức ngày nay vừa thấy
được
Tiếng chuông Sơn tự bóng
trăng tà !
Cố Hòa Thượng từ khi bắt đầu cắp sách đến trường là
đã được dạy chữ Nho một cách cẩn thận và đúng pháp từ nơi thân phụ (cũng như ở học đường), Ngài rất mực
thông minh, lại thêm chăm chỉ và hiếu học, cho nên căn bản chữ Hán của ngài rất
vững chắc và mau chóng tiến bộ vượt bực. Ngài học một mà biết hai, ba và hầu
như luôn luôn được điểm hạng ƯU tối cao trong suốt thời gian dùi mài kinh sử. Đến
năm lên 9 tuổi, trình độ chữ HÁN của ngài có thể đọc lưu loát được các sách HÁN
học và viết chữ NHO một cách thành thục, thông thạo. Ngài đọc nhiều sách truyện
tàu xưa, tích cũ vv…Song song với việc học chữ NHO, Ngài còn học thêm chữ TÂY
và QUỐC ngữ…tuy tuổi còn nhỏ mà đã sớm ngộ được nhiều điều đạo lý của Khổng
giáo rồi, kiến văn về đạo học của Ngài rất uyên bác, bao gồm luôn cả NHO,
THÍCH, ĐẠO (tức là Nho giáo, Phật giáo và
Lão giáo (tiên).
Ngài chính là người mà ngay từ trong lứa tuổi ấu thơ
đã sớm ngộ cảnh thế vô thường, duyên đời hư giả, nên chẳng những đã không bao
giờ xây đắp cho mình giấc mộng Hoàng Lương như bao chàng thanh niên khác, mà
trái lại, đã sớm xả bỏ tục trần, cắt ái từ thân, chân chánh tu hành, giữ tròn đạo
hạnh. Nêu tấm gương sáng chói cho các hàng tứ chúng trong hiện tại và lẫn cả về
sau quy ngưỡng.
Suốt 48 năm trong đường tu và hơn 30 năm hóa đạo,
qua cương vị của một Tôn sư, trước sau các hàng đệ tử xuất gia, tại gia cầu pháp,
y chỉ, học chúng, thế độ..vv…của ngài lên đến số hàng ngàn, hàng vạn khắp mọi
nơi trong nước, có người đã và đang đãm nhận những chức vụ quan yếu trong giáo
hội, lãnh đạo các hội đoàn Phật Giáo, tọa chủ các chốn già lam, nắm giữ các cơ
sở Phật giáo vv…trong cũng như ngoài nước và khắp cả năm châu.
THỜI GIAN HỌC ĐẠO
1945
: Xuất gia tại SẮC-TỨ LINH-THỨU TỰ
1948
: Thọ sa di giới
1950
: Thọ “Cụ-túc đại giới” tại giới-đàn Ấn-Quang (Sàigòn)
1951
: Hoàn tất chương trình Trung-đẳng Phật học tại Phật học
đường Liên-Hải và Ấn-Quang
1954
: Hoàn tất chương trình Cao-Ðẳng Phật-học tại Phật học
đường Nam-Việt với hạng “tối-ưu”
1955
– 1964 : Nhập thất tịnh-tu qua các trụ-xứ tại Cái-Bè,
Vang-Quới (Mỹ-Tho) và (Bến-Tre)
1965
: Tuân lệnh triệu-hồi của giáo-hội, Ngài trở về
Sàigòn đảm nhận việc thành lập và giữ chức-vụ Giám-đốc viện “Cao-đẳng chuyên-biệt
Phật-học” tại An-Dưỡng Ðịa, Phú-Lâm (tức
là chùa Huệ-Nghiêm hiện nay).
Phụ trách phân khoa Phật học tại Viện Ðại-học Vạn-hạnh.
(Giáo-sư dạy về Duy-thức học).
Giáo thọ sư tại các ni trường Dược-sư, Từ-Nghiêm.
1967
: Hòa-Thượng về Ðại-Ninh kiến lập Hương-Quang tịnh-thất,
chuẩn bị ẩn-tu
1968
: Chánh thức hoàn trả chức vụ lại cho Viện Hóa-Ðạo, về
hẳn tại Ấp Phú-An, Xã Phú-Hội huyện Ðức-Trọng, Tỉnh Lâm-Ðồng, bế quan tịnh tu.
1970
– 1974 : Qua sự tha-thiết thỉnh cầu của tứ chúng, Ngài tạm
thời ra thất, kiến-lập Hương-Nghiêm Tịnh-Viện (cho chư tăng) và Phương-Liên Tịnh-Xứ
(cho chư ni). Mở khóa tu-học “Tịnh Ðộ
chuyên-biệt” tại 2 đạo-tràng nầy trong 3 năm liên-tiếp.
1975 –1992 : Hòa-Thượng hoàn-toàn viễn-ly với bên ngoài, bế-quan tịnh tu nhập thất “vô thời-hạn.” Mặc dù ròng rặc chuyên tu, nhưng với bi tâm độ sanh của Ngài nghĩ thương đến các hàng hậu tấn về sau trên đường tu học khó khăn trong thời buổi ma nạn nhiễu nhương nầy, tu hành rất khó được vãng sanh cho lắm. Nên Ngài vẫn cố gắng dành dụm thời giờ rỗi rảnh để phiên dịch và soạn thuật thêm ít nhiều kinh sách dạy về MẬT CHÚ, một pháp môn mà Ngài hoằng hóa song hành cùng với môn TỊNH ĐỘ, dành cho các Phật tử có căn duyên MẬT TÔNG tu học. Ngài còn soạn riêng phần THẬP NHỊ DANH NHƯ LAI SÁM HỐI DIỆT TỘI gởi qua “chùa PHÁP HOA” cho người cháu ruột là Cố HT. Thích Hải Quang Viện Chủ PHÁP HOA PHẬT TỰ, cũng là pháp duệ của Ngài nơi hải ngoại.
NHẮN GỞI “HẢI
QUANG” MỘT CHỮ “NHU”
HẢI QUANG con gắng vững đường tu,
Ba cõi không an vốn ngục tù.
Mạt kiếp tâm người gian hiểm lắm,
Nhắn gởi về con một chữ NHU.
Thân khổ, cảnh đời bao nỗi khổ,
Câu PHẬT gìn tâm phá ám u.
Cõi tạm chớ ham điều huyễn ảo,
Trời TÂY, AN LẠC mới thiên thu.
CHỐN
CŨ CHÂN NHƯ LẮM NẺO VỀ
Chốn cũ chân như lắm nẻo
về,
Đường tuy khác lối vẫn
đồng quê.
Trong THIỀN có TỊNH trời
lư lãnh,
Nơi TỊNH gồm THIỀN nước
Động Khê.
Tiến bước nguồn tâm ngời
tuyệt sáng,
Quay nhìn bể tục ngát
hương thề.
Bao giờ học kẻ cười hoa
được,
Đem ý sen lành rải bến
mê.
Vô-Nhất Thích
Thiền-Tâm
Các tông đại khái chia ra làm hai, là Không môn và Hữu môn.
Không môn từ phương tiện lý tánh đi vào.
Hữu môn từ phương tiện sự tướng đi vào.
Nhưng đi đến chỗ tận cùng thì dung hội tất cả, sự tức lý, lý
tức sự, tánh tức tướng, tướng tức tánh, nói cách khác: “Sắc tức là
không, không tức là sắc, không và sắc chẳng khác nhau”.
Cho nên khi xưa có một vị đại sư tham Thiền ngộ đạo, nhưng lại
mật tu về Tịnh Độ. Lúc lâm chung, ngài lưu kệ phó chúc cho đại chúng, rồi niệm
Phật sắp vãng sanh. Một vị thiền giả bỗng lên tiếng hỏi: “Cực Lạc là
cõi hữu vi, sao tôn đức lại cầu về làm chi?”
Đại Sư quát bảo: “Ngươi nói vô vi ngoài hữu vi mà có hay sao?”
Thiền giả nghe xong chợt tỉnh ngộ. Thế nên Thiền và Tịnh đồng
về một mục tiêu. Hữu môn cùng Không môn tuy dường tương hoại mà thật ra tương
thành cho nhau vậy.
Mấy
vị đại đức sau khi nghe xong đều tỏ ý tán đồng. Nhân tiện, bút giả lại trần thuật
bài kệ của Tây
Trai lão nhơn
để kết luận, và chứng tỏ người xưa cũng đã từng đồng quan điểm ấy:
Tức tâm là độ lý
không ngoa
Tịnh khác Thiền đâu, vẫn một nhà
Sắc hiển trang nghiêm miền Diệu Hữu
Không kiêm vô ngại cõi hằng sa
Trời Tây sáng đẹp màu châu ngọc
Nguyện Phật bao la đức hải hà
Ngoảnh lại đường tu, ai sớm tỉnh?
Nỗi thương ác đạo mãi vào ra!
Thích Thiền Tâm
cẩn chí
NIỆM PHẬT PHẢI
DỰ BỊ LÚC LÂM CHUNG
Bên đường xe tang buồn đi qua
Chiều hôm mồ hoang sương trăng tà
Vô thường đời trần thương ôi mau!
Người đi rồi lần sang phiên ta.
Nghìn xưa xa vời trong mông lung
Tài hoa tan về nơi vô cùng!
Luân hồi không cầu đường siêu thăng
Dù cho hiền minh sao anh hùng?
Hoàng hôn mây hồng in non xa
Dung hoa thầm khô theo suy già
Di Đà chuyên tu phòng lâm chung
Tương tư mơ về trời Liên Hoa.
BÀI SỐ 21
Ẩn tu Không có, Có mà Không
!
Phương tiện, từ bi khó biết
lòng !
NGÔN thuyết hãy còn THÂN
thuyết-pháp
Sấm mưa ẩn hiện bóng Thần
Long.
NHƯ Ý :
Kẻ ẨN-TU tuy thấy dường như Tự-lợi, không giáo hóa độ ai nhưng thực ra trong
hành động, chính là đã DÙNG THÂN MÀ NÓI PHÁP rồi, Có không Không có chỉ
nói riêng về ý này.
DỰ BỊ VỀ TINH THẦN
NGÔN thuyết
Cách dự
bị ấy như thế nào?
Trên
đường tu, hành giả phải có tinh thần giải thoát, xem từ tiền của ruộng vườn cho
đến thân tình quyến thuộc đều là duyên giả tạm, sống tùy cảnh huyễn, chết rũ
sạch không.
Nếu chẳng
hiểu lẽ này, tất nó sẽ ngăn trở sự giải thoát, có khi phải đọa làm loài bàng
sanh như chó hoặc rắn để giữ nhà giữ cửa. Đã có nhiều người vì nắm níu tiền của
hoặc thân nhơn, mà khi sắp chết phải khó khăn, không yên tâm nhắm mắt được.
Từ Chiếu đại sư nói:
"Người tu Tịnh Độ khi lâm chung thường có ba điều nghi, bốn cửa ải, hay làm
chướng ngại cho sự vãng sanh, phải dự bị suy nghĩ trước để phá trừ 3
ĐIỀU NGHI là:
1- Nghi mình túc nghiệp
sâu nặng, thời gian công phu tu hành ít, e không được vãng sanh.
2- Nghi mình bản nguyện
chưa trả xong, tham sân si chưa dứt, e không được vãng sanh.
3- Nghi mình niệm Phật,
Phật không đến rước, e không được vãng sanh.
4 CỬA ẢI là:
1- Hoặc nhân bị bịnh khổ
mà trở lại hủy báng Phật không linh.
2- Hoặc nhân tham sống mà
giết vật mạng cúng tế.
3- Hoặc nhân uống thuốc mà
dùng rượu cùng chất máu tanh hôi.
4- Hoặc nhân ái luyến mà
tự ràng buộc với gia đình."
Đại sư nêu ra thuyết Tam
Nghi Tứ Quan ở trên, bậc trí huệ có thể suy nghĩ tìm PHƯƠNG PHÁP giải
quyết.
THÂN thuyết-pháp
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-DI.
PHÁT BỒ-ĐỀ-TÂM
NGUYỆN 1 ĐỜI VÃNG-SANH
BẤT-THOÁI-CHUYỂN LÀM TÔNG
DỰ BỊ VỀ NGOẠI DUYÊN
NGÔN thuyết
Người đã nghe pháp môn Tịnh Độ
của Như Lai, phải TÍN NGUYỆN NIỆM PHẬT dự bị tư lương, để khi
lâm chung được vãng sanh an thuận. Như thế mới mong sớm thoát nỗi huyễn khổ của
sống chết luân hồi, chứng vào cảnh chân lạc của Niết Bàn thường trú.
Lại người đã tu Tịnh Độ, chẳng
những chỉ lo riêng vì mình, mà đối với cha mẹ quyến thuộc cùng những thân bằng
quen biết, nên phát lòng hiếu thuận từ bi, khuyên cho đồng niệm Phật, và TRỢ
NIỆM cho khi bịnh nặng, lúc lâm chung. Đó là công hạnh lợi tha, cũng
là việc gây phước báo duyên lành cho mình đời sau vậy.
Nếu là người XUẤT
GIA thì phải đem việc chùa chiền phó chúc đệ tử, chỉ định kẻ thay thế
mình điều hành Phật sự.
Như người TẠI GIA thì
đem tài sản ruộng vườn tương phân cho con cháu, sắp đặt trước mọi duyên.
Lại phải dặn trước người quyến
thuộc, khi mình ĐAU NẶNG hoặc LÂM CHUNG, không được KHÓC lóc hoặc lộ
nét BI sầu. Nếu có thương thì nên bình tĩnh, vì mình niệm Phật cầu nguyện,
hoặc hộ trợ cho sự vãng sanh, đó mới là TÌNH THƯƠNG chân thật.
THÂN thuyết-pháp
TÍN NGUYỆN NIỆM PHẬT
Sáu tám nhọc-nhằn kể xiết chi,
Thăng trầm nhiều nổi chí không di.
Mài giũa cho thành ra ngọc quý,
Mới hay châu nọ thiệt “Ma-ni”.
Một niệm công-thuần hai bốn chẵn,
Cõi tạm khứ-hồi mấy kẻ tri!
Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,
Trần-duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.
Sáu tám năm qua việc đáng kinh,
Thăng-trầm vùi-dập, lắm tai-tinh.
Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
Mà kiếp phù-sinh tạm múa hình.
Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT-NIỆM,
DI-ĐÀ sáu chữ phóng quang-minh.
Hôm qua tin-tức trời TÂY báo,
GIỜ MẸO MAI ĐÂY TẠ THẾ TÌNH.
THỈNH BẬC TRI THỨC KHAI THỊ
Đại khái vị khai
thị nên y theo mấy chi tiết sau đây:
1. Nói cảnh khổ Ta Bà, cảnh vui Cực Lạc, nhắc cho
bịnh nhơn phát lòng hâm mộ. Lại nên đem việc lành, công tu của bịnh nhơn kể rõ
ra và khen ngợi, khiến cho người bịnh sanh lòng vui mừng không còn nghi ngại,
tự biết khi mình chết sẽ nương nơi nghiệp lành ấy sanh về Tây Phương.
2. Nếu bịnh nhơn có điều nghi ngờ gì, nên tùy cơ
giải thích như thuyết Tam Nghi Tứ Quan ở đoạn trên đã nói. Trong đây điểm cần
yếu là khuyên phải dứt trừ tâm tham tiếc tài sản và niệm ái luyến gia đình.
3. Nếu người sắp chết có di chúc trước thì thôi,
bằng không, vị khai đạo phải can ngăn, khuyên thân nhơn không nên hỏi han về di
chúc. Lại cũng khuyên đừng nói chuyện tạp vô ích khiến cho bịnh nhơn động tâm
niệm tình ái, quyến luyến thế gian, có ngại cho sự vãng sanh.
4. Khi có bà con hay thân hữu của kẻ bịnh đến thăm
nên ngăn không cho đến trước bịnh nhơn tỏ vẻ buồn thảm hỏi han. Nếu đã vì cảm
tình đến viếng thăm, chỉ nên đứng gần bên chắp tay niệm Phật ra tiếng một hồi,
đó mới thật là có lòng thương mến. Như kém hiểu biết chỉ dùng theo tục tình, đó
chính là xô người xuống biển khổ, tình tuy đáng cảm, mà sự lại di hại đáng
thương.
5. Nên khuyên bịnh nhơn đem những y phục vật dụng
của mình thí cho kẻ khác. Hoặc y theo phẩm Như Lai Tán Thán trong Kinh Địa
Tạng, đem vật liệu ấy cúng dường kinh tượng lại càng hay. Điều này cũng giúp
cho người bịnh thêm phước tiêu tội, được dễ dàng trong sự vãng sanh.
Những điều đại khái như trên, vị khai thị phải lưu ý. Ngoài
ra có thể tùy cơ ứng biến, ở đây không thể nói hết được.
Nên nhớ khi bịnh đã nặng, hành giả phải buông bỏ tất cả mọi
việc xung quanh, cho đến chính thân tâm của mình, chỉ chuyên nhứt niệm Phật, một lòng mong
cầu vãng sanh Tây Phương. Làm như thế, nếu thọ mạng đã hết, quyết được vãng sanh. Như
thọ mạng chưa dứt, tuy cầu vãng sanh mà trở lại mau lành bịnh, do vì lòng
mình chuyên thành, nên có thể diệt trừ nghiệp ác đời trước.
Trái lại, nếu chẳng buông bỏ mọi duyên nhứt tâm niệm Phật,
như thọ mạng đã hết quyết không được vãng sanh, vì mình chỉ chuyên cầu lành bịnh chớ không cầu
vãng sanh, nên không do đâu được về Cực Lạc. Nếu thọ mạng chưa dứt, chẳng
những không được mau thuyên giảm, mà bịnh lại tăng thêm, vì mình nhân cầu lành bịnh,
vọng sanh lòng buồn lo sợ hãi.
XUẤT GIA
(thì phải đem việc chùa chiền phó CHÚC đệ tử)
LỜI DI CHÚC TẠM
Đề bút:
Tuyền nhiễu sơn hoa thào
mộ nhàn,
Huyễn thân hà sự hựu đa đoan?
Ưng tri vô tận trầm luân hải,
Vị xuất luân hồi khổ diệu mang!
Tạm dịch:
Suối quanh núi bọc cỏ
hoa-nhàn!
Thân giả mọn này, lắm việc toan?
Vì biển trầm-luân vô-lượng khổ!
Nên đành nhẫn-nhục xuất nê-hoàn!
Luân-hồi ra khỏi không vương nạn.
Bi-nguyện triển-khai nhập Niết-bàn.
Thị tịch Ta-bà về Phật quốc.
Độ toàn sanh-chúng ngự sen vàng.
Tôi tăng sĩ Thích Thiền
Tâm, pháp hiệu Vô Nhất, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, hiện cư ngụ tại tịnh thất
Phương Liên I, thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.
Nay tuy tôi thường đau
yếu, nhưng tâm não còn minh mẫn sáng suốt, xin viết di chúc tạm gồm mấy điểm để
phú chúc lại cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia.
Nói di chúc tạm, vì thấy
một số tăng ni cho đến cư sĩ: Kẻ đã có chùa, thất vì uy tín không bằng, nên
ganh tỵ cố ý phá hoại dìm xuống cho bản thân được nổi lên, dù đối tượng là bậc
Thầy Tổ đã từng dạy dỗ mình. Hoặc người chưa đủ tư cách để làm đệ tử cầu pháp
hay xuất gia, vì bị phủ nhận nên cũng sanh tật đố ganh đua. Họ liên kết nhau,
tìm đủ cách tố cáo hủy phá, tung ra nhiều tin thất thiệt như: Phá trai, phạm
giới, liên hệ với các hàng ngũ chánh trị khác, tuyên truyền mê tín dị đoan, trị
bịnh, soi căn, đoán kiếp, nói quá khứ vị lai, thốt ra những lời phá chánh
quyền, xúi giục làm loạn.
Tóm lại họ kết họp nhau,
tìm đủ cách gài bẩy dìm che sự thật. Nếu không bắt làm bình
phong được để thủ lợi họ sẽ liên tục tố cáo nhờ chánh quyền bắt, hoặc
có thể ám sát. Vì thế nên mới có mấy lời di chúc bất thường nầy.
Nay tôi xin tỏ bày tâm
nguyện, gồm mấy điều đại khái như sau:
I. Trọn đời tu, nguyện không dính dáng đến chánh trị, không
để ai lôi cuốn vào chánh trị, bởi sức khỏe suy kém, và đó không phải là khả
năng của mình.
II. Chỉ mong được yên ổn tu hành để cầu giải thoát, ai
gọi là Hòa thượng cũng được, ai kêu ông đạo cũng xong.
III. Không mượn danh Tam Bảo để tổ chức làm tiền, hoặc quyên
tỏi đóng góp, mỗi ngày được ăn rau luộc cơm thì là đủ.
IV. Dứt cả sắc, tài, danh, lợi, thị phi, mặc ai dèm siễm,
đàm tiếu, chê bai, vì những điều đó không liên hệ gì đến sự giải thoát.
V. Không ra làm Phật sự với giáo hội nào nữa, vì mình bẩm
sinh gầy yếu, nay đau mai bịnh, không còn đủ sức hoạt động. Vả lại trước kia đã
có thời gian dạy dỗ chư tăng, ni diễn dịch kinh sách, khuyên tu để đền đáp sự
cúng dường của hàng tín chúng tự nghĩ đã làm Phận sự báo ân tam Bảo rồi.
VI. Sau khi tôi mãn phần, mọi việc hậu sự đều do trưởng tử
của tôi là Ni sư Thanh Nguyệt sắp đặt. Chư tăng ni khác hoặc thuộc tịnh viện
Hương Nghiêm không được quyền can dự vào lấy cớ đem về tịnh viện xây thất thờ
cúng để làm bình phong cầu danh lợi. Bởi họ chỉ: học chúng tạm nương nhờ, không
phải là đệ tử thế tôn xuất gia, cũng không phải là đệ tử cầu pháp, vì nếu đệ tử
cầu pháp, phải có pháp phái do tôi ký tên chứng nhận. Tôi cất chùa cho họ ở, họ
lại nhờ uy tín của tôi mới được sự cúng dường để tu học nên không có quyền mượn
danh nghĩa của tôi để bành trướng rồi lần lần chiếm luôn Tịnh viện. Việc xây
cất tu viện cả Hòa thượng Bửu Huệ và Bửu Lai chỉ là người hỗ trợ trên danh
nghĩa, bởi mỗi vị đã có chùa chiền đệ tử riêng, sau đều xin rút lui giao lại
cho tôi, vả lại hai ngài cũng đã viên tịch rồi.
VII. Khi tôi viên tịch, bởi nghĩ mình kiếp trước đã tạo lắm
nghiệp duyên, nên nay mới bẩm sanh suy yếu, ý chí muốn theo gương điểu táng ở
Tây Tạng.
Tôi xin chia làm tam
sách như sau:
1. Thượng sách là
đem xác thân để tựa cách rừng hoang bố thí cho loài chim, thú, hoặc treo đá dìm
xuống vực sâu bố thí cho loài thủy tộc, để đền trả nghiệp đời trước.
2. Trung sách là bó
chiếu chôn sâu, khỏa bằng để chỗ trồng thơm, chuối cũng có lợi cho người.
3. Hạ sách, nếu
hàng đệ tử không nỡ làm như vậy, nên đóng sơ mấy tấm gỗ thông, bên trong độn lá
chuối, trên để tấm pháp y, xây ngôi mồ cỏ đơn sơ. Trước mộ dựng tấm bia ghi câu
lưu niệm:
“Bất huệ nạp tăng, Thích Thiền Tâm hiệu Vô Nhất mai cốt xứ”.
Lời di chúc này phó cho
trưởng tử THANH NGUYỆT
Ngày 12-10-1992
Người di chúc: Thích
Thiền-Tâm
NGƯỜI DI CHÚC
Trưởng Giáo kiêm Giám
Đốc Phật học viện Huệ Nghiêm (Trước và sau trong thời gian làm việc), Giảng sư
Phật học Ni trưởng Dược sư.
Giáo sư về Duy thức học
trong đại học Vạn Hạnh.
Phiên dịch viên trong
ban Phiên dịch Tam tạng Kinh điển. Viện chủ Hương Nghiêm tu viện.
Thích Thiền
Tâm hiệu Vô nhất
Thế danh Nguyễn Nhựt
Thăng
Thích nữ
Thanh Nguyệt hiệu Phương Liên là đệ
tử trưởng do tôi làm lễ xuất gia và thế độ.
Tôi cho y chí với ba vị
Ni Trưởng:
Ni trưởng Diệu Ngộ
chùa Phổ Đức.
Ni trưởng Đạt Đạo chùa Pháp Quang.
Ni trưởng Huyền Học.
Tổng vụ Ni bộ Bắc
tông.
NGƯỜI LÃNH NHẬN LỜI PHÚ CHÚC
Thích nữ Thanh Nguyệt
hiệu Phương Liên (Theo tên Giáo hội Ni bộ, gọi là Tâm Nguyệt, theo thứ tự sau
khi thọ đại giới, lại gọi là Như Nguyệt – chữ
Tâm là lấy tên sau của thầy thế độ – chữ Như là thứ tự chung của người sau khi thọ Tỳ kheo ni Bồ tát
giới).
Trưởng tử Thích nữ
Thanh Nguyệt được toàn quyền quyết định về Am tự, Pháp bảo, đất đai và mọi tài
bảo pháp khí của tu viện.
Người lãnh nhận di chúc.
Xin nguyện chấp hành trước Tam Bảo
Thích nữ
Thanh Nguyệt,
(Ký tên)
Lược dịch chức vụ của
đương sự trong Ni bộ.
1.- Hiệu trưởng trường Bồ đề Văn Lang.
2.- Tổng thơ ký Tổng vụ Ni bộ Bắc tông.
3.- Giáo sư về thế pháp hai trường Ni bộ Từ Nghiêm và Dược sư.
3.- Y tá trưởng chùa Ni bộ Từ Nghiêm.
CÁCH THỨC TRỢ NIỆM
Cách thức trợ niệm
phải y theo những điều kiện như ở dưới đây:
1. Thỉnh tượng Phật
Di Đà tiếp dẫn để trước bịnh nhơn khiến cho họ trông thấy. Cắm một bình hoa
tươi và đốt lò hương nhẹ, khói thơm vừa thoảng để dẫn khởi chánh niệm cho bịnh
nhơn. Nên nhớ khói chỉ nhẹ thôi, đừng để nhiều vì e ngột ngạt khó thở.
2. Người trợ niệm tùy
theo nhiều ít nên luân phiên mà niệm. Ít thì mỗi lần một hoặc hai người, chia
thành ba phiên. Nhiều thì mỗi phiên có thể độ sáu hay tám người. Nên nhớ lúc ấy
bịnh nhơn sức yếu rất cần thanh khí, nếu để cho người ta vào đông, hoặc kẻ trợ
niệm quá nhiều, tất làm cho người bịnh ngột ngạt xao động, có hại hơn là có
lợi. Lại, các phiên phải canh theo đồng hồ mà im lặng luân chuyển nhau, để cho
câu niệm Phật tiếp tục không gián đoạn, đừng kêu gọi. Mỗi phiên niệm lâu ước độ
một giờ.
3. Theo ngài Ấn Quang, nên niệm bốn chữ để cho bịnh nhơn dễ thâu nhận trong khi tinh thần thể chất quá suy yếu. Nhưng ý kiến của Hoằng Nhứt đại sư, thì muốn niệm bốn chữ hay sáu chữ, tốt hơn nên hỏi bịnh nhơn, để thuận với tập quán ưa thích thuở bình nhựt của người bịnh, khiến cho họ có thể niệm thầm theo. Nếu trái với tập quán ưa thích, tức là phá hoại chánh niệm của người bịnh, tất mình cũng có tội.
Lại cách trợ niệm, không nên niệm to tiếng quá, vì mình sẽ tổn hơi khó bền; không nên niệm nhỏ quá, vì e người bịnh tinh thần lờ lạc, khó thâu nhận. Cũng chẳng nên niệm quá mau, bởi làm cho bịnh nhơn đã không nghe nhận được rõ ràng, lại không thể theo kịp; chẳng nên niệm quá chậm, bởi có lỗi tiếng niệm rời rạc khiến người bịnh khó liên tục nhiếp tâm. Đại khái tiếng niệm phải không cao không thấp, chẳng chậm chẳng mau, mỗi chữ mỗi câu đều rành rẽ rõ ràng, khiến cho câu niệm trải qua tai đi sâu vào tâm thức của người bịnh, như thế mới đắc lực.
Lại có điều nên chú ý, khi bịnh nhơn tâm thức quá hôn trầm, niệm ở ngoài
tất họ nghe không rõ. Trong trường hợp ấy, phải kê miệng sát vào tai họ mà
niệm, mới có thể khiến cho người bịnh được minh tâm.
4. Về pháp khí để dùng trong khi trợ niệm, thông thường nên đánh khánh. Bởi tiếng mõ âm thanh đục, không bằng tiếng khánh trong trẻo, dễ khiến cho bịnh nhơn tâm thần thanh tỉnh. Nhưng vấn đề đó cũng tùy, vì theo kinh nghiệm riêng, Hoằng Nhứt đại sư đã dạy: "Những kẻ suy yếu thần kinh, rất sợ nghe tiếng khánh và mõ nhỏ. Bởi âm thanh của mấy thứ này chát chúa đinh tai, kích thích thần kinh khiến cho người bịnh tâm thần không an.
Theo thiển ý, chỉ nên niệm suông là thỏa đáng hơn hết. Hoặc nếu có, thì chỉ nên đánh thứ chuông mõ lớn. Những món này âm thanh hùng tráng, khiến cho người bịnh sanh niệm nghiêm kính, thật hơn đánh khánh và mõ nhỏ nhiều. Thứ mõ âm thanh đục cũng không nên đánh, vì làm cho bịnh nhơn tâm thần hôn trược. Tuy nhiên, sở thích của mỗi người không đồng, tốt hơn là nên hỏi trước bịnh nhơn. Nếu có chỗ nào không hợp, phải tùy cơ cải biến, chớ nên cố chấp."
Trên đây là mấy điểm nên lưu ý về cách thức trợ
niệm.
(Cho khi BỊNH nặng, lúc LÂM chung
không được KHÓC LÓC hoặc lộ nét BI SẦU)
Đêm 20 rạng 21 Hòa thượng ngồi trước bàn Phật trì niệm suốt buổi. Đến 3 giờ sáng, ngài biết thời khắc vãng sanh sắp đến nên mở mắt ra, truyền lịnh cho ni sư trưởng tử triệu chúng vào trong tịnh thất hộ niệm. Kế đó Hòa thượng bước xuống lầu rửa mặt, nghiêm chỉnh y hậu xong ngài an tọa vào trên chiếc ghế nơi mà ngài vẫn thường ngồi để tịnh niệm thường nhật, tay trái kết ấn “Di Đà định”, tay mặt lần chuỗi niệm Phật.
Trước mặt Đại sư là ni
sư trưởng từ và các đồ chúng nơi Phương Liên tịnh xứ vân tập đầy đủ. Đồ tôn là
tỳ kheo Thích nữ Bảo Đàn thỉnh bức tượng tranh của đức A DI ĐÀ Thế tôn đứng
trong vị thế tiếp dẫn đặt nơi trước mặt ngài. Các môn đồ, pháp quyến vừa rơi lệ
khóc thầm, vừa cất cao tiếng hộ niệm …
Đại sư mỉm cười thốt lời
an ủi rằng:
– Hãy bình tâm lại, ĐỪNG
CÓ KHÓC NỮA. Ta được về Tây là điều hân hạnh, các con hãy theo đó mà cố gắng
niệm Phật chuyên cần. Nếu được như vậy, ắt một ngày kia sẽ cùng HỘI NGỘ nhau
nơi miền An dưỡng.
Còn các việc thành, bại,
vinh hư trên cõi đời này, chẳng phải là chỗ quan tâm đến của ta.
Đoạn ngài đọc bài kệ
rằng:
Đời ta chỉ gởi chốn Liên
trì,
Trần thế vinh hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A DI.
Tuyên xong lời kệ sau
cùng này, ngài ngồi yên trên ghế, nhắm mắt như vào trong định. Đại chúng biết
chắc. Đại sư sắp sửa quy Tây, nên đồng cất cao tiếng hộ niệm, mỗi lúc càng thêm
khẩn thiết.
Đến 6 giờ 15
phút Đại sư bỗng mắt ra, chấp tay nói:
TA ĐI ĐÂY – ĐẠI CHÚNG
NÊN BẢO TRỌNG
Đoạn nhắm mắt lại, tay
trái ngài vẫn kết ấn DI ĐÀ Định, tay mặt buông xuôi xuống, xâu chuỗi từ trên
tay ngài rơi xuống chiếu và ngài lặng im, an nhiên thoát hóa ngay trên bản tọa.
Cổ thi nói:
"Ta thấy người khác chết.
Trong lòng nóng xót xa!
Chẳng phải xót kẻ mất.
Vì sẽ đến phiên ta!"
Giữa đời, việc buồn thảm lớn
lao không chi hơn tử biệt.
KHI TẮT HƠI CHO ĐẾN
LÚC TRUY TIẾN
Người mới tắt hơi, điều thiết yếu là không nên vội
di động. Hoặc kẻ chết thân mình dính chất dơ cũng không nên gấp lau rửa, phải
đợi qua tám tiếng đồng hồ, hay ít nhứt cũng ba giờ, mới được tắm rửa thay đổi y
phục. Trước và sau khi chết, người thân không được khóc lóc. Bởi khóc là vô ích
mà lại có hại, vì làm cho kẻ mạng chung sanh niệm quyến luyến, không được giải
thoát. Chỉ nên gắng sức niệm Phật mới thật có ích cho vong nhơn. Nếu muốn khóc
lóc, phải đợi tám giờ sau. Tại sao thế? Vì bịnh nhơn tuy tắt hơi nhưng thức A
Lại Da còn chưa đi. Nếu khi ấy lay động, tắm rửa thay y phục, hoặc kêu khóc, họ
vẫn còn cảm giác đau đớn hoặc sanh buồn giận bi thương mà phải sa đọa. Điều này
rất quan hệ, rất cần yếu, nên để ý ghi nhớ kỹ.
Thuyết thăm dò hơi nóng để nghiệm xem sanh về đâu,
tuy có chứng cớ, song cũng không nên câu chấp. Nếu bịnh nhơn bình thời tín
nguyện chân thiết, khi lâm chung chánh niệm rõ ràng, có thể chứng nghiệm là
vãng sanh. Nhiều người không kỹ, cứ mãi thăm dò, rờ chỗ này chỗ kia, làm động
niệm kẻ mạng chung, cũng có hại rất lớn.
Sau khi bịnh nhơn tắt hơi, người trợ niệm vẫn phải tiếp
tục niệm Phật cho đến ba giờ đồng hồ sau, để cho sự vãng sanh được bảo đảm. Trợ niệm xong, liền đóng cửa phòng lại canh chừng cho kỹ, kẻo
loài mèo chó hoặc kẻ không am hiểu đổ xô vào xúc chạm, đợi mãn tám giờ sẽ tắm
rửa thay đổi y phục. Nếu luôn trong tám giờ, có người ở gần bên niệm Phật, là
điều rất tốt. Ngoài ra cấm tuyệt không nên làm điều chi khác. Xin nhắc lại
trong khoảng thời gian này, người chết vẫn còn cảm giác.
Sau tám giờ nếu tay chân người chết đã cứng không
thể chuyển động, nên dùng vải thấm nước nóng đắp bao quanh khớp xương. Làm như
thế giây lâu, có thể sửa tay chân co duỗi như thường.
Trong đám tang của người quá cố, thân nhơn nên làm
đơn giản, đừng quá rườm rà mà tốn vô ích. Điều cần thiết là phải nên dùng đồ
chay, chớ có sát sanh để đãi đằng cúng tế. Bất đắc dĩ cần có chút ít đồ mặn,
thì nên mua thịt cá chết, hoặc người ta đã làm sẵn bán ngoài chợ. Nếu sát sanh
để cúng tế đãi đằng, tất người mãn phần bị oan đối không được giải thoát. Dù kẻ
mạng chung đã được vãng sanh, phẩm sen cũng vì đó mà bị giảm thấp.
Trong thời gian trước, bút giả cùng chư tăng có đi
tụng kinh siêu độ cho bà kế mẫu người bạn là thượng tọa Bảo Huệ ở xã Tân Hội
tỉnh Long An. Nơi đám tang, bút giả thấy dùng toàn đồ chay, có khen ngợi và hỏi
thăm, thì thượng tọa đáp: "Sự cúng đãi đồ chay thật ra có do tôi khuyến
hóa, nhưng phần lớn cũng nhờ động lực bởi một chuyện đã xảy ra ở xóm trên.
Nguyên trên ấy có một nhà khá giàu, gia chủ mãn phần, người con cho giết nhiều
bò heo gà vịt để tiếp đãi họ hàng thân thuộc và kẻ quen biết gần xa, suốt cả
mấy ngày. Lúc sanh tiền gia chủ là người hiền lành phúc hậu thường ăn chay tụng
niệm, lại có giao du rộng. Sau đám tang ấy, vào buổi chiều hồn ông nhập vào đứa
cháu nội, mặt đỏ rần, nhảy lên ván ngồi, vỗ bàn, kêu gọi ngay tên đứa con lại,
và quát bảo: "Một đời tao tu hành làm phước, không tội lỗi chi nặng, đáng
lẽ được sanh đến chỗ giàu sang. Nay bị mày sát sanh quá nhiều để cúng đãi, nên
tao bị oan đối không được giải thoát. Hiện thời tao bị quản thúc phạt vạ, phải
chăn giữ một bầy bò heo gà vịt, chạy trong bùn lầy gai góc, thật khổ sở vô
cùng!" Thuật xong câu chuyện, Thượng Tọa cười bảo: "Chính nhờ việc đó
đồn vang ai cũng đều biết, lại mới xảy ra cách đây ít tháng, người nhà đã tin
tưởng kinh sợ, nên tôi mới vừa đề nghị là được chấp thuận liền." Việc sát
sanh đãi đằng cúng tế trong đám tang, Kinh Địa Tạng cũng đã có nói rõ sự nguy
hại, vậy hàng Phật tử nên để tâm ghi nhớ.
Khi làm Phật sự truy tiễn cho người quá vãng, thân
nhơn nên đem công đức ấy hồi hướng khắp chúng sanh trong pháp giới. Như thế,
công đức sẽ càng thêm lớn, mà sự phước lợi của vong nhơn cũng nhân đó được tăng
thêm nhiều.
Những điểm dự bị về lúc lâm chung trên đây, phần lớn
bút giả rút lấy ý kiến của các bậc danh đức như ngài Ấn Quang và Hoằng Nhứt đại
sư mà dung hội lại. Bởi buổi lâm chung chính là lúc quan yếu nhứt trong cuộc
đời người. Nếu trước chưa dự bị tư lương vãng sanh cho đầy đủ, đến chừng ấy khó
khỏi kinh hoàng bối rối, kêu cầu không kịp, nghiệp ác trong nhiều kiếp đồng
thời hiện ra, làm sao giải thoát?
Cho nên khi lâm chung tuy nhờ người y theo phương
pháp mà trợ niệm, nhưng chính mình lúc bình nhựt phải cố gắng tu trì chừng ấy
mới được tự tại.
Xin các bạn tu tịnh nghiệp sớm lưu tâm dự bị, để
đồng được dự phẩm sen nơi hải hội Liên Trì.
Khi Tắt-Hơi Cho Đến Lúc Truy-Tiến
Những Gương Đắc Thất Về Sự Trợ Niệm
LÚC LÂM CHUNG
“SÁU TÁM lắm gian nan,
Nhơn quả chớ than van.
Thấy NINH thời ĐẠI đến,
Gặp PHÚ ắt bình AN.
LIÊN HƯƠNG thơm sực nức,
Còn chút nghiệp phải
mang.
Ngọt chua hai bốn chẳn,
THÂN xuất đáo LIÊN
BANG”.
ĐẠO NGHIỆP
Phiên dịch :
1) Phật Đảnh Tôn Thắng Đà ra ni Kinh
2) Ðại bi tâm Ðà ra ni Kinh
4) Ðại nhựt Kinh (3 quyển Hạ, trung, thượng)
X23n0438 大Đại 日Nhật 經Kinh 義Nghĩa 釋Thích 14 quyển
5) Hương quê Cực lạc
6) Tịnh độ thập nghi luận
7) Thiện ác nhân quả báo ứng Kinh
8) Nhân quả luân hồi tạp lục ký
9) Tam bảo cảm ứng yếu lược lục
10) Lá thơ Tịnh độ
11) Niệm Phật Ba La Mật Kinh
12) Chú giải 108 bài NIỆM PHẬT kệ của
Triệt Ngộ đại sư.
13) Liên Tông Thập Tam Tổ (13 vị Tổ của Tịnh tông)
Soạn Thuật :
1) Duy thức học cương yếu
2) Phật học tinh yếu (1,2,3)
3) Tịnh học tân lương (1,2,3)
4) Niệm Phật thập yếu
5) Mấy điệu sen thanh (1,2,3,4,5,6,7)
6) Tây phương nhật khóa
7) Tịnh độ pháp nghi
Trước tác :
1) Thiền Tâm thi tập (gồm hơn ngàn bài thơ đạo đủ các thể
loại)
2) Ẩn tu ngẫu vịnh, bá bát thi (108 bài “Vịnh Ẩn tu”)
ÐÔI LỜI PHI LỘ
Ba tạng Kinh-điển của Phật-giáo hiện nay gồm có đến hơn vạn quyển. Trong ấy, những Kim-ngôn của Ðấng Ðiều-Ngự và huyền-nghĩa của chư Tổ, hàm ẩn Ðạo-lý thâm thúy vô biên. Muốn du ngoạn trong bể Phật-pháp bao la, hay lên đỉnh non thánh-giáo để nhìn khắp nơi bằng tầm mắt càn-khôn-nhất-lãm, phải phí nhiều thời giờ và tâm lực, mà giữa cuộc sống nhiều vướng bận ngày nay, ít ai làm nổi. Vì lẽ ấy, đã từ lâu bút giả có ý muốn gom góp phần tinh yếu của thánh-giáo viết ra thành tập, để giúp những vị mến đạo mầu của Ðức Thế-Tôn, có sự hiểu biết khái quát về pháp Phật. Và ý định nầy đã được thực hiện từ năm 1963, nhân lúc sắp sửa ra đảm nhận trường Phật-Học Huệ-Nghiêm.
Nội dung của toàn tập PHẬT HỌC TINH YẾU sau đây gồm có nhiều thiên, mỗi thiên phân thành nhiều chương, và mỗi chương bao hàm nhiều mục. Ðó là hệ thống phân biệt để duyệt giả dễ ghi nhận. Ðiều đáng chú ý là phần trích dẫn những Kinh-luận trong đây, nghĩa lý nó không có tánh cách nhất định. Tại sao thế? Bởi giáo pháp của thánh-nhân nói ra đều tùy thời tùy cơ để dắt dìu, phá chấp. Có thể một lời thuyết giáo đối với căn cơ nầy thích hợp nhưng với cơ khác không thích hợp, với thời gian trước tiện nghi song với thời nay không tiện nghi. Cho nên một vị tôn túc đã bảo: “Y theo Kinh giải nghĩa là oan cho chư Phật ba đời, nhưng lìa Kinh một chữ tức đồng với ma thuyết”. Vậy chỗ thu thập của người khéo học Phật là không chấp Kinh, không bỏ Kinh, như người đời đã bảo: “Khôn chết, dại cũng chết, duy biết mới sống”. Và người khéo học Phật cũng đừng chấp lý bỏ sự, hay chỉ theo sự quên phần lý. Về việc được ý quên lời nầy, duy mỗi người tự thể hội, không thể nói hết được.
“Trần chẳng tương quan, bể cả nương dâu mặc thay đổi.
Lòng không sở đắc, thông xanh mây trắng tự vui nhàn”.
Xin mượn hai câu nầy để chúc sự thành tựu của duyệt giả sau khi đọc xong toàn tập PHẬT HỌC TINH YẾU.
Ngày 12-8-1965
Tỳ-khưu Thiền Tâm, tự Liên Du
PHÁP-YẾU-TU-HÀNH
HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.
Yếu điểm của đường tu
Gồm hai phần Sự, Lý
Lý tu là sửa tâm
Cho hợp với chân lý
Sự tu chỉnh ba nghiệp
Giúp chứng cảnh chân như
Sửa tâm là dứt trừ
Nghiệp tham, ái, nóng, giận
Si mê cùng tật đố
Ngã mạn với kiêu căng
Chớ chạy theo hình thức
Say đắm nẻo lợi danh
Chuộng địa vị, quyền hành
Khoe thông minh, tài giỏi
Phải sanh lòng giác ngộ
Niệm thanh tịnh từ bi
Dõng tiến mà kiên trì
Sáng suốt mà khiêm hạ
Tự nghĩ mình xưa nay
Ðã tạo nhiều tội chướng
Chịu nhẫn nhục, sám hối
Biết an phận, tùy duyên
Duyên tốt chẳng kiêu khoe
Duyên xấu không thối não
Bình tỉnh mãi tiến tu
Như bơi thuyền ngược nước
Về biển Tát Bà Nhã
Ðến Bảo Sở an vui
Ðó là phần tu tâm
Hợp với lý giải thoát
Sự tu là thân nghiệp
Lễ kính Phật sám hối
Khẩu nghiệp trì chú kinh
Hoặc niệm Phật khen ngợi
Ý nghiệp giữ thanh tịnh
Mật tu môn Lục Niệm
Nguyện đền đáp bốn ân
Nguyện mình cùng chúng sanh
Sanh cõi vui thành Phật
Ðời đời gặp chánh Pháp
Tu sáu độ muôn hạnh
Tâm Bồ Ðề độ sanh
Trần kiếp không thối chuyển
Tu Sự mà bỏ Lý
Làm sao mở chân tâm?
Tu Lý mà phế Sự
Cũng không thể thành Phật !
Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG
Thì tức SẮC là KHÔNG
Tu Lý không bỏ Sự
Ðó tức KHÔNG là SẮC
Lý chính thật Chân-Không
Sự là phần Diệu-Hữu
Chân-Không tức Diệu-Hữu
Diệu-Hữu tức Chân-Không
Nếu chưa đạt lẽ nầy
Thà tu hành chấp CÓ
Ðừng cầu cao bác tướng
Mà lạc vào Ngoan-Không
Ðây chính hầm khổ đọa
Kẻ thông minh đời nay
Ða số mắc lỗi nầy
Xưa có sư Tông-Thắng
Tài huệ biện cao siêu
Vì ỷ giỏi kiêu căng
Nên bị nhục chiết phục
Hỗ thẹn muốn tự tận
Thọ thần hiện thân khuyên
“ Sư nay đã trăm tuổi
Tám mươi năm lầm lạc
May nhờ gặp Thánh nhân
Huân tu mà học đạo
Tuy có chút công đức
Mà lòng hay bỉ ngã
Ỷ thông minh biện bác
Lấn người không khiêm hạ
Lời cao hạnh chưa cao
Nên phải bị quả báo
Từ đây nên tự kiểm
Ít lâu thành trí lạ
Các THÁNH đều tồn tâm
NHƯ LAI cũng như vậy ”
Lại có kẻ đua tướng
Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư
Mượn thuyết pháp, tụng kinh
Ðể mưu cầu lợi dưỡng
Dành đệ tử, chùa chiền
Lập bè đảng, quyến thuộc
Thấy có ai hơn mình
Liền thị phi tật đố
Hại Thầy Bạn, phản Ðạo
Lừa dối hàng tín tâm
Lời nói thật rất cao
Việc làm thật rất thấp
Lý Sự đều sai trái
Hạng ấy hiện rất nhiều
Tạo biển khổ thêm sâu
Khiến đau lòng tri-thức
Lý, Sự đại lược thế
Công đức làm sao được?
Phật là ÐẠI-Y-VƯƠNG
Pháp là DIỆU-TIÊN-DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma , quỷ mị
Nạn động đất, xe, thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải thoát
Chuyên tụng một phẩm Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các nguyện
Thỏa mãn các mong cầu
Chỉ sợ người không tin
Hoặc tin mà không sâu
Lại ngại không thực hành
Hoặc hành không bền lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu
Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người, cảnh
Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
Không hành như trên đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là phàm Tăng
Giúp ích được gì đâu
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng thành kính
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
Lắng lòng suy gẫm sâu
Trời xanh tươi biếc một mầu
Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay
Mà sao đời đạo đổi thay
Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ
“Thuyết pháp bất đậu cơ
Chúng sanh một khổ hải ”
Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương
Sóng dồn bọt biển tà dương
Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên
Bụi hồng tung gió đảo điên
Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.
Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương
Như-Lai.
MỤC LỤC
1.- PHÁT NGUYỆN 1 ĐỜI VÃNG-SANH BẤT-THOÁI-CHUYỂN LÀM TÔNG
2.- KÝ SỐ NIỆM PHẬT
3.- VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
4.- TAM NGHI TỨ QUAN
5.- Bất huệ nạp tăng, THÍCH THIỀN-TÂM hiệu VÔ-NHẤT mai cốt xứ
6.- HUỆ VIỄN ĐẠI SƯ ( Liên Tông Sơ Tổ )
8.- TƯỞNG NIỆM CỐ HT. THIỀN-TÂM (21-11-92 ÂL)
9.- NIỆM PHẬT THẬP YẾU ( Buddhism of Wisdom & Faith )
10.- NGHI THỨC MẬT TÔNG
12.- ĐẠI BI LỄ SÁM
14.- Phật Học Tinh Yếu
15.- ẤN QUANG ĐẠI SƯ (1861-1940)
17.- KHUYÊN TU TỊNH ĐỘ (của Tỉnh Am đại sư)
Nhĩ căn không nhiếp niệm Phật.
Niệm Phật gồm nhiếp Nhĩ căn và thích hợp với cả ba cơ thượng, trung, hạ.
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN
KINH
PHẬT-ĐẢNH TÔN-THẮNG
ĐÀ-RA-NI
KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT
DUYÊN KHỞI
KHUYẾN PHÁT NIỆM PHẬT và ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN
(PHÁT NGUYỆN NIỆM-PHẬT THEO TRƯỞNG-GIẢ DIỆU-NGUYỆT)
LỜI SAU CÙNG
Bút giả cố gắng hoàn tất quyển cuối Mấy Điệu Sen Thanh nầy, giữa lúc sức khỏe suy kém, thêm bị sự khuấy rối lấn bức của cả ngoài lẫn trong rình rập bao vây. Nhớ lời Phật dạy trong kinh Pháp Hoa: “Vào lúc kiếp trược rối loạn, chúng sanh cấu nhiễm nặng nề, đầy niệm tham, sân, si, ganh ghét, thành tựu các căn chẳng lành”. (Kiếp trược loạn thời, chúng sanh cấu trọng, tham si tật đố, thành tựu chư bất thiện căn).
Lại xem trong Đà Ra Ni Tạp Tập thấy một đoạn, xin trích dịch nguyên văn như sau:
“Bạch đức Thế Tôn! Con là Thiện Danh Xưng Bồ Tát, từ cõi đức Phật Tịnh Nguyệt Âm Vương ở phương Bắc, nay đến thế giới Ta Bà. Con thấy nơi cõi nầy vào thời mạt, khi Phật pháp sắp muốn diệt, nhơn sanh phần nhiều tạo ác, tham đắm danh lợi, thị phi bôi xấu giết hại lẫn nhau. Giữa vua tôi, chủ tớ, cha con, thầy trò, chồng vợ, bè bạn, anh em, không còn đạo nghĩa, nước ngũ trược sôi trào, lửa tam tai bừng cháy. Các việc vừa nói, đều do chúng sanh kiếp trước chấp chứa nhiều tội ác, không tu đức lành, đời hiện tại mới bị cộng nghiệp sống trong hoàn cảnh như thế. Vào thời gian đó, nhơn loại tuy bề ngoài mang thân người, nhưng trong tâm ngu si độc dữ chẳng khác súc sanh ác quỉ. Thương thay cho thời mạt!
Trong năm ngàn người, may ra chỉ được vài kẻ lương thiện biết lo tu hành. Nay xin đức Thế Tôn hứa nhận cho con nói môn thần chú Vân Nhã Mật Tu, để chúng sanh đời sau được dứt trừ gốc tội nhơ, thân tâm trở nên trong sạch, xa lìa ách nạn”.
Sau khi được Phật chấp thuận, Bồ Tát liền thuyết chú rằng:
Ophú Ophú para téna Jũgu
jũgu para téna yujnamid yujnamid para téna Osuto. Chipaio Kujnãto Yamidto.
Kúrato. Thopato. Svaha.
”Bạch đức Thế Tôn! Đại thần chú nầy như chiếc lọng lớn che trùm tất cả. Lại cũng như cơn mưa to thấm nhuần tất cả, như cầu thuyền nổi thông chở tất cả. Chúng sanh hàng đạo tục đời sau, đều nương nhờ Đà ra ni đây mà nẩy mầm mộng lành, thắm nhuần mùi pháp vị. Công năng của đại thần chú nầy, hay cứu vớt muôn hạng căn cơ sai khác, đưa về cảnh giới nhứt không, khiến cho họ sớm chúng tam thừa thánh quả…”
Qua mấy đoạn văn trên, lời đức Phật dạy và Bồ Tát Thiện Danh Xưng trần thuật, dường như đã ứng hiện vào thời buổi nầy. Riêng trong nhà Phật còn có những cảnh:
Giường lau đèn tối tăng vào định
Trăng lạnh cành thông bóng hạc về!
(Mâu tháp đăng hôn tăng nhập định
Tùng chi nguyệt lãnh hạt phi hoàn!)
Hoặc
Chợt sang trúc viện cùng tăng luận
Trộm được phù sinh nửa buổi nhàn!
(Hối qua trúc viện phùng tăng thoại
Du đắc phù sinh bán nhựt nhàn!)
Lúc còn ở Phật học viện Huệ Nghiêm, ưong cuộc mạn đàm với một bậc tiền bối, vị ấy có nói với bút giả mấy lời vừa có tánh cách bông đùa vừa ngụ ý than thở như sau: “Hiện nay trong cửa đạo có nhiều việc phức tạp, trừ phi Bồ Tát ra đời chấn hưng lại, còn phàm Tăng như chúng ta không làm sao điều chỉnh nổi. Hoàn cảnh thật giống như hai câu thi của một danh nhơn thời xưa:
“Ca sa vị trước hềm đa sự.
Trước bãi ca sa sự cánh đa!”
(Chưa khoác ca sa chán việc nhiều.
Khoác rồi thêm việc biết bao nhiêu!)
Nhưng có điều không đúng với nguyên ý của vị danh nhơn kia, đây chẳng phải việc đạo mà lại là việc khác! Chẳng những riêng đạo Phật, mà tất cả các tôn giáo đều có tình trạng tương tợ như thế. Đây đều do lòng người, thật quả là thời đạo đức suy mạt!’
Trong đạo đã như thế, ngoài đời lại còn biến loạn hơn, từ quốc gia cho đến khắp thế giới cảnh bạo ác ngày thêm tăng mạnh, con người hầu hết sống trong vòng lường gạt, sa đọa, tranh đua, giết hại lẫn nhau. Cuộc diện kéo dài đến hiện tại, “buổi tận thế” hay “cơ tận diệt” mà các tôn giáo khác mô tả, đã có phần lấp ló lộ hình. Tuy biết đó là cộng nghiệp của nhơn sanh, nhưng khi nhìn thấy nỗi khổ đau khắp đồng loại, trải nhiều cơn biến đồi dập dồn, những kẻ hữu tâm cũng sanh niềm hoài cảm! Họ không biết tương lai sẽ đi về đâu, chán nản cho mình cùng người trong kiếp sống thừa cảnh tạm! Thỉnh thoảng nghe vài nhơn sĩ cao niên đã mượn lời của Nguyễn Du mà thầm lén than thở như sau:
Kể từ gây cuộc binh đao
Đống xương vô định đã cao bằng đầu!
Hay là:
Chân trời mệt bể linh đinh
Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào?
Và cho đến như:
… Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi
Đã không biết sống là vui
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
Trong hoàn cảnh ấy, muốn thoát mối nguy tương hoại tương tàn, nhơn loại phải hướng về đạo đức. Theo lời Phật dạy, ngày sau do chúng sanh buông lung theo nghiệp sát, đạo, dâm, vọng nên sẽ có Tam tai ác kiếp là: chiến tranh tàn phá, tật bịnh lan tràn và đói rách nghèo khó nổi lên. Kẻ nào muốn tiêu giảm nỗi thống khổ, phải giữ chắc bốn giới: không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, dối gạt, tùy sức mình mà gắng làm các điều lành. Những người ấy sẽ được thiên thần ủng hộ, khiến cho nạn khỏi tai qua. Nếu tiến thêm, muốn tìm nẻo thoát ly, phải tụng kinh hoặc trì chú và chí tâm niệm hồng danh đức A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc.
Căn cứ theo luật nhân quả, mọi sự khổ vui đều do nghiệp lành dữ và bởi vô minh gây tạo. Trong cảnh nóng bức của nhà lửa tam giới, phải bền lòng an nhẫn, phải thiết thật phụng hành đúng như lời Phật dạy Đùng nên mãi hờn trách thở than, vì kết cuộc sẽ hóa ra vô ích. Trên đây là lời phụng khuyến, là đường lối thoát ly duy nhứt, mà những kẻ học đạo muốn nhắn nhủ với đồng nhơn.
THÍCH VÔ NHẤT
(Lấy ý câu: Nhất sự vô thành thân tiệm lão)
Comments
Post a Comment