CHÁNH VĂN



21.-Ẩn tu Không có, Có mà Không !

Phương tiện, từ bi khó biết lòng !

Ngôn thuyết hãy còn Thân thuyết-pháp

Sấm mưa ẩn hiện bóng Thần Long.

 

22.-Ẩn tu mây trắng nhẹ phiêu diêu

Uốn khúc sông-in giãi lụa chiều

Thanh thoát gió chim reo nhạc Phật

Lầu-Tần không lại lắng hơi tiêu.

 

23.-Ẩn tu an tĩnh chốn cao nguyên

Hoa cảnh lòng trăng đẹp dịu hiền

Mây núi điệp trùng đêm tịch tịch

Câu Kinh tiếng Phật lại triền miên !

 

24.-Ẩn tu tịnh thấy cảnh am mây

Thanh tuấn thiền sư dáng huệ gầy

Kiếp trước Đạo Dung là tớ đó

Mà nàng Thiên Thụy hỏi ai đây ?

 

Ẩn tu dũng-tướng nhớ thời xa

Hoàng-tộc triều Lê điện Thái-Hoà

Vì Trịnh – Tú – Loan duyên trái khiến

Nửa chừng xuân gảy gánh tài hoa !

 

25.-Ẩn tu lại thấy ở am mây

Lâu trượng Tay cầm kiếm qủy thần

Mật phái Lạt-ma y mão lạ

Quê xưa trúc tạng tợ xa gần 

 

 

GIẢNG GIẢI

 

BÀI SỐ 21


 

Ẩn tu Không có, Có mà Không !

Phương tiện, từ bi khó biết lòng !

NGÔN thuyết hãy còn THÂN thuyết-pháp

Sấm mưa ẩn hiện bóng Thần Long.

 

NHƯ Ý : Kẻ ẨN-TU tuy thấy dường như Tự-lợi, không giáo hóa độ ai nhưng thực ra trong hành động, chính là đã DÙNG THÂN MÀ NÓI PHÁP rồi, Có không Không có chỉ nói  riêng về ý này.



DỰ BỊ VỀ TINH THẦN

NGÔN thuyết

 

Cách dự bị ấy như thế nào?

 

Trên đường tu, hành giả phải có tinh thần giải thoát, xem từ tiền của ruộng vườn cho đến thân tình quyến thuộc đều là duyên giả tạm, sống tùy cảnh huyễn, chết rũ sạch không.

Nếu chẳng hiểu lẽ này, tất nó sẽ ngăn trở sự giải thoát, có khi phải đọa làm loài bàng sanh như chó hoặc rắn để giữ nhà giữ cửa. Đã có nhiều người vì nắm níu tiền của hoặc thân nhơn, mà khi sắp chết phải khó khăn, không yên tâm nhắm mắt được.

Từ Chiếu đại sư nói: "Người tu Tịnh Độ khi lâm chung thường có ba điều nghi, bốn cửa ải, hay làm chướng ngại cho sự vãng sanh, phải dự bị suy nghĩ trước để phá trừ 3 ĐIỀU NGHI là:

 

1- Nghi mình túc nghiệp sâu nặng, thời gian công phu tu hành ít, e không được vãng sanh.

2- Nghi mình bản nguyện chưa trả xong, tham sân si chưa dứt, e không được vãng sanh.

3- Nghi mình niệm Phật, Phật không đến rước, e không được vãng sanh.

 

4 CỬA ẢI là:

 

1- Hoặc nhân bị bịnh khổ mà trở lại hủy báng Phật không linh.

2- Hoặc nhân tham sống mà giết vật mạng cúng tế.

3- Hoặc nhân uống thuốc mà dùng rượu cùng chất máu tanh hôi.

4- Hoặc nhân ái luyến mà tự ràng buộc với gia đình."

 

Đại sư nêu ra thuyết Tam Nghi Tứ Quan ở trên, bậc trí huệ có thể suy nghĩ tìm PHƯƠNG PHÁP giải quyết.

 

 

DỰ BỊ VỀ TINH THẦN

hãy còn THÂN thuyết-pháp

 

 

Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,

Trần thế vinh-hư sá kể gì.

Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,

Mừng nay được thấy đức A-DI.

 

HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM

PHÁT NGUYỆN 1 ĐỜI VÃNG-SANH

BẤT THOÁI CHUYỂN LÀM TÔNG

 

( tức là PHÁT BỒ ĐỀ TÂM của HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM  )

 


DỰ BỊ VỀ NGOẠI DUYÊN

NGÔN thuyết

 

Người đã nghe pháp môn Tịnh Độ của Như Lai, phải TÍN NGUYỆN NIỆM PHẬT dự bị tư lương, để khi lâm chung được vãng sanh an thuận. Như thế mới mong sớm thoát nỗi huyễn khổ của sống chết luân hồi, chứng vào cảnh chân lạc của Niết Bàn thường trú.

Lại người đã tu Tịnh Độ, chẳng những chỉ lo riêng vì mình, mà đối với cha mẹ quyến thuộc cùng những thân bằng quen biết, nên phát lòng hiếu thuận từ bi, khuyên cho đồng niệm Phật, và TRỢ NIỆM cho khi bịnh nặng, lúc lâm chung. Đó là công hạnh lợi tha, cũng là việc gây phước báo duyên lành cho mình đời sau vậy.

Nếu là người XUẤT GIA thì phải đem việc chùa chiền phó chúc đệ tử, chỉ định kẻ thay thế mình điều hành Phật sự.

Như người TẠI GIA thì đem tài sản ruộng vườn tương phân cho con cháu, sắp đặt trước mọi duyên.

Lại phải dặn trước người quyến thuộc, khi mình ĐAU NẶNG hoặc LÂM CHUNG, không được KHÓC lóc hoặc lộ nét BI sầu. Nếu có thương thì nên bình tĩnh, vì mình niệm Phật cầu nguyện, hoặc hộ trợ cho sự vãng sanh, đó mới là TÌNH THƯƠNG chân thật.

 

 

hãy còn THÂN thuyết-pháp

TÍN NGUYỆN NIỆM PHẬT

 


TỰ CẢM



Sáu tám nhọc nhằn kể xiết chi,
Thăng trầm nhiều nổi chi không đi.
Mài giũa cho thành ra ngọc quý,
Mới hay châu nọ thiệt “Ma ni”.                                  
Một niệm công thuần hai bốn chẵn,
Cõi tạm khứ hồi mấy kẻ tri!
Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,
Trần duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.

Sáu tám năm qua việc đáng kinh,
Thăng trầm vùi dập, lắm tai tinh.
Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
Mà kiếp phù sinh tạm múa hình.
Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT NIỆM,
DI ĐÀ sáu chữ phóng quang minh.
Hôm qua tin tức trời TÂY báo,
GIỜ MẸO MAI ĐÂY TẠ THẾ TÌNH.


( Vô Nhất Tăng-Liên Du – Thích Thiền Tâm)


 

TRỢ NIỆM

(cho khi BỊNH nặng, lúc LÂM chung)

 

Đêm đó Hòa thượng ngồi trước bàn Phật trì niệm suốt buổi. Đến 3 giờ sáng, ngài biết thời khắc vãng sanh sắp đến nên mở mắt ra, truyền lịnh cho ni sư trưởng tử triệu chúng vào trong tịnh thất HỘ NIỆM.

Kế đó Hòa thượng bước xuống lầu rửa mặt, nghiêm chỉnh y hậu xong ngài an tọa vào trên chiếc ghế nơi mà ngài vẫn thường ngồi để tịnh niệm thường nhật, tay trái kết ấn “Di Đà định”, tay mặt lần chuỗi niệm Phật.

 

 

XUẤT GIA

(thì phải đem việc chùa chiền phó CHÚC đệ tử)

 

 

LỜI DI CHÚC TẠM

 

Đề bút:

 

Tuyền nhiễu sơn hoa thào mộ nhàn,
Huyễn thân hà sự hựu đa đoan?
Ưng tri vô tận trầm luân hải,
Vị xuất luân hồi khổ diệu mang!

 

Tạm dịch:

Suối quanh núi bọc cỏ hoa-nhàn!
Thân giả mọn này, lắm việc toan?
Vì biển trầm-luân vô-lượng khổ!
Nên đành nhẫn-nhục xuất nê-hoàn!
Luân-hồi ra khỏi không vương nạn.
Bi-nguyện triển-khai nhập Niết-bàn.
Thị tịch Ta-bà về Phật quốc.
Độ toàn sanh-chúng ngự sen vàng.


 

Tôi tăng sĩ Thích Thiền Tâm, pháp hiệu Vô Nhất, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, hiện cư ngụ tại tịnh thất Phương Liên I, thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

 

Nay tuy tôi thường đau yếu, nhưng tâm não còn minh mẫn sáng suốt, xin viết di chúc tạm gồm mấy điểm để phú chúc lại cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia.

 

Nói di chúc tạm, vì thấy một số tăng ni cho đến cư sĩ: Kẻ đã có chùa, thất vì uy tín không bằng, nên ganh tỵ cố ý phá hoại dìm xuống cho bản thân được nổi lên, dù đối tượng là bậc Thầy Tổ đã từng dạy dỗ mình. Hoặc người chưa đủ tư cách để làm đệ tử cầu pháp hay xuất gia, vì bị phủ nhận nên cũng sanh tật đố ganh đua. Họ liên kết nhau, tìm đủ cách tố cáo hủy phá, tung ra nhiều tin thất thiệt như: Phá trai, phạm giới, liên hệ với các hàng ngũ chánh trị khác, tuyên truyền mê tín dị đoan, trị bịnh, soi căn, đoán kiếp, nói quá khứ vị lai, thốt ra những lời phá chánh quyền, xúi giục làm loạn.

 

Tóm lại họ kết họp nhau, tìm đủ cách gài bẩy dìm che sự thật. Nếu không bắt làm bình phong được để thủ lợi họ sẽ liên tục tố cáo nhờ cháh quyền bắt, hoặc có thể ám sát. Vì thế nên mới có mấy lời di chúc bất thường nầy.

 

Nay tôi xin tỏ bày tâm nguyện, gồm mấy điều đại khái như sau:

 

I. Trọn đời tu, nguyện không dính dáng đến chánh trị, không để ai lôi cuốn vào chánh trị, bởi sức khỏe suy kém, và đó không phải là khả năng của mình.

 

II.  Chỉ mong được yên ổn tu hành để cầu giải thoát, ai gọi là Hòa thượng cũng được, ai kêu ông đạo cũng xong.

 

III. Không mượn danh Tam Bảo để tổ chức làm tiền, hoặc quyên tỏi đóng góp, mỗi ngày được ăn rau luộc cơm thì là đủ.

 

IV. Dứt cả sắc, tài, danh, lợi, thị phi, mặc ai dèm siễm, đàm tiếu, chê bai, vì những điều đó không liên hệ gì đến sự giải thoát.

 

V. Không ra làm Phật sự với giáo hội nào nữa, vì mình bẩm sinh gầy yếu, nay đau mai bịnh, không còn đủ sức hoạt động. Vả lại trước kia đã có thời gian dạy dỗ chư tăng, ni diễn dịch kinh sách, khuyên tu để đền đáp sự cúng dường của hàng tín chúng tự nghĩ đã làm Phận sự báo ân tam Bảo rồi.

 

VI. Sau khi tôi mãn phần, mọi việc hậu sự đều do trưởng tử của tôi là Ni sư Thanh Nguyệt sắp đặt. Chư tăng ni khác hoặc thuộc tịnh viện Hương Nghiêm không được quyền can dự vào lấy cớ đem về tịnh viện xây thất thờ cúng để làm bình phong cầu danh lợi. Bởi họ chỉ: học chúng tạm nương nhờ, không phải là đệ tử thế tôn xuất gia, cũng không phải là đệ tử cầu pháp, vì nếu đệ tử cầu pháp, phải có pháp phái do tôi ký tên chứng nhận. Tôi cất chùa cho họ ở, họ lại nhờ uy tín của tôi mới được sự cúng dường để tu học nên không có quyền mượn danh nghĩa của tôi để bành trướng rồi lần lần chiếm luôn Tịnh viện. Việc xây cất tu viện cả Hòa thượng Bửu Huệ và Bửu Lai chỉ là người hỗ trợ trên danh nghĩa, bởi mỗi vị đã có chùa chiền đệ tử riêng, sau đều xin rút lui giao lại cho tôi, vả lại hai ngài cũng đã viên tịch rồi.

 

VII. Khi tôi viên tịch, bởi nghĩ mình kiếp trước đã tạo lắm nghiệp duyên, nên nay mới bẩm sanh suy yếu, ý chí muốn theo gương điểu táng ở Tây Tạng.

 

Tôi xin chia làm tam sách như sau:

 

1. Thượng sách là đem xác thân để tựa cách rừng hoang bố thí cho loài chim, thú, hoặc treo đá dìm xuống vực sâu bố thí cho loài thủy tộc, để đền trả nghiệp đời trước.

2. Trung sách là bó chiếu chôn sâu, khỏa bằng để chỗ trồng thơm, chuối cũng có lợi cho người.

3. Hạ sách, nếu hàng đệ tử không nỡ làm như vậy, nên đóng sơ mấy tấm gỗ thông, bên trong độn lá chuối, trên để tấm pháp y, xây ngôi mồ cỏ đơn sơ. Trước mộ dựng tấm bia ghi câu lưu niệm:

 

“Bất huệ nạp tăng, Thích Thiền Tâm hiệu Vô Nhất mai cốt xứ”.

 

Lời di chúc này phó cho trưởng tử THANH NGUYỆT

Ngày 12-10-1992

Người di chúc: Thích Thiền-Tâm

 


KHÓC LÓC

(không được KHÓC LÓC hoặc lộ nét BI SẦU)

 

Trước mặt Đại sư là ni sư trưởng từ và các đồ chúng nơi Phương Liên tịnh xứ vân tập đầy đủ. Đồ tôn là tỳ kheo Thích nữ Bảo Đàn thỉnh bức tượng tranh của đức A DI ĐÀ Thế tôn đứng trong vị thế tiếp dẫn đặt nơi trước mặt ngài. Các môn đồ, pháp quyến vừa rơi lệ khóc thầm, vừa cất cao tiếng hộ niệm …

 

Đại sư mỉm cười thốt lời an ủi rằng:

– Hãy bình tâm lại, ĐỪNG CÓ KHÓC NỮA. Ta được về Tây là điều hân hạnh, các con hãy theo đó mà cố gắng niệm Phật chuyên cần. Nếu được như vậy, ắt một ngày kia sẽ cùng HỘI NGỘ nhau nơi miền An dưỡng.

 

Còn các việc thành, bại, vinh hư trên cõi đời này, chẳng phải là chỗ quan tâm đến của ta.

 

Đoạn ngài đọc bài kệ rằng:

 

Đời ta chỉ gởi chốn Liên trì,
Trần thế vinh hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A DI.

 

Tuyên xong lời kệ sau cùng này, ngài ngồi yên trên ghế, nhắm mắt như vào trong định. Đại chúng biết chắc. Đại sư sắp sửa quy Tây, nên đồng cất cao tiếng hộ niệm, mỗi lúc càng thêm khẩn thiết.

 

Đến 6 giờ 15 phút Đại sư bỗng mắt ra, chấp tay nói:

 

TA ĐI ĐÂY – ĐẠI CHÚNG NÊN BẢO TRỌNG

 

Đoạn nhắm mắt lại, tay trái ngài vẫn kết ấn DI ĐÀ Định, tay mặt buông xuôi xuống, xâu chuỗi từ trên tay ngài rơi xuống chiếu và ngài lặng im, an nhiên thoát hóa ngay trên bản tọa.

 

Cổ thi nói:

 

"Ta thấy người khác chết.

Trong lòng nóng xót xa!

Chẳng phải xót kẻ mất.

Vì sẽ đến phiên ta!"

 

Giữa đời, việc buồn thảm lớn lao không chi hơn tử biệt.

 

Bên đường xe tang buồn đi qua
Chiều hôm mồ hoang sương trăng tà
Vô thường đời trần thương ôi mau!
Người đi rồi lần sang phiên ta.
Nghìn xưa xa vời trong mông lung
Tài hoa tan về nơi vô cùng!
Luân hồi không cầu đường siêu thăng
Dù cho hiền minh sao anh hùng?
Hoàng hôn mây hồng in non xa
Dung hoa thầm khô theo suy già
Di Đà chuyên tu phòng lâm chung
Tương tư mơ về trời Liên Hoa.

 

Niệm Phật Phải Dự Bị Lúc Lâm Chung


 

BÀI SỐ 22

 

Ẩn tu mây trắng nhẹ phiêu diêu

Uốn khúc sông-in giãi lụa chiều

Thanh thoát GIÓ CHIM reo nhạc Phật

Lầu-Tần không lại lắng hơi tiêu.

 

NHƯ Ý : Một TRI thức về tịnh độ đã bảo, muốn tăng cường NGUYỆN LỰC vãng sanh nên dùng phép GIẢ tưởng QUÁN : QUÁN nhà cửa cây cối là LÂU ĐÀI BẢO THỌ, tiếng chim hót lá reo là NHẠC TÂY PHƯƠNG.

 

Con gái TẦN MỤC CÔNG là LỘNG NGỌC Công Chúa. Một đêm ngồi thổi ống SINH trên lầu, chợt nghe tiếng kêu họa lại, kế đó thấy chàng TRAI đẹp cởi RỒNG bay xuống bảo: 

 

Ta là TIÊU SỬ vâng lịnh NGỌC ĐẾ, xuống chỉnh đốn lại  sử liệu nhà châu , nay công việc đã xong vì có tiền duyên với nàng, nên xuống đây hẹn sẽ đồng về cảnh cũ, sau hai người kết duyên, vào một đêm trăng sáng, chàng cởi RỒNG, nàng cởi PHƯỢNG, họa SINH tiêu cùng bay lên mây, từ đó về sau cũng đúng vào đêm ấy, TẦN MỤC CÔNG ngồi vuốt chòm râu bạc, ngẫn Nhìn lên trời lắng chờ nghe tiếng SINH TIÊU VỌNG LẠI.

 

 

KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ 


Đời Lưu Tống, Ngài Cương-Lương Gia-Xá Dịch
Việt Dịch : Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm

 

 5

BẢO TRÌ QUÁN

( Quán Ao Nước Bát Công Ðức )

 

KINH VĂN :

 

Kế lại quán tưởng nước các bảo trì. Cõi Cực Lạc có tám ao nước bát công đức, mỗi ao do bảy báu hợp thành. Những thứ báu công đức, mỗi ao do bảy báu hợp thành. Những thứ báu này tánh chất nhu-nhuyễn, từ như-ý-châu-vương sanh ra.

 

Nước ao phân thành mười bốn chi nhánh, mỗi dòng chiếu lộ sắc mầu bảy báu. Thành ao bằng vàng ròng, đáy ao trải cát kim-cương tạp-sắc. Mỗi ao nước có sáu mươi ức hoa sen thất-bảo, và mỗi hoa sen tròn rộng mười hai do tuần.

 

Nước ma ni trong ao chảy lên xuống theo cọng sen và luồn vào các cánh hoa, phát ra tiếng nhiệm mầu. Âm thanh này tuyên diễn những pháp khổ, không, vô-thường, vô-ngã, các môn Ba-La-Mật, hoặc khen ngợi tướng tốt của chư Phật.

 

Từ như-ý-châu-vương lại tuôn ra ánh sánh vàng mầu nhiệm, hóa thành CÁC SẮC CHIM bá-bảo. Tiếng chim thanh-diệu hòa nhã cùng trổi giọng khen ngợi niệm PHẬT, niệm PHÁP, niệm TĂNG.

 

Đây là môn tưởng ao nước bát công đức, thuộc về phép quán thứ năm.

 

SỚ GIẢI :

Cõi Cực Lạc có rất nhiều ao báu, trong đây nói tám ao là chỉ kể một khu phận và để cho vừa với cảnh của quán trí.

Theo lời giải của cổ đức, tám bảo trì có những lạch thông nhau, chia thành mười bốn dòng nước chảy qua lại các ao. Từ thành bực, các lót, cho đến nước trong ao đều là bảy báu do Như ý châu vương sanh ra.

Trong đây nói thành ao bằng vàng ròng, đáy ao trải cát kim cương tạp sắc, cho đến nói bảy báu, cũng là chỉ kể một phương diện. Thật ra các bảo trì hoặc thuần một chất báu, hoặc do hai, ba, bốn cho đến vô lượng chất báu xen lẫn tạo thành.

Nước ao đã từ Như ý châu vương sanh, tức là thuộc về như ý thủy. Nước này có tám công đức:

 

1. Trong sạch, trơn nhuần, nhiếp về SẮC nhập.

2. Thơm tho không mùi hôi, nhiếp về HƯƠNG nhập.

3. Nhẹ nhàng.

4. Mát mẻ.

5. Nhu nhuyễn; ba điều này nhiếp về XÚC nhập.

6. Ngon ngọt, nhiếp về VỊ nhập.

7. Uống vào điều hòa, thích ý.

8. Uống xong, tăng ích thân căn, tiêu trừ các bệnh; hai điều nhiếp

     về PHÁP nhập.

 

Đoạn nước ma ni chảy lên xuống, theo trong chánh văn có mấy chữ "tầm thọ thượng hạ". Ngài Nguyên Chiếu giải chữ "THỌ" là cọng sen, ý nói nước ma ni chảy lên cọng sen luồn vào các cánh hoa phát ra tiếng pháp, rồi theo cọng sen chảy xuống ao.

Ngài Thiện Đạo lại giải rộng hơn, là chẳng những nước chảy lên cọng sen mà còn lên bờ chảy lên xuống theo các cây báu quanh ao, vì đây thuộc về NHƯ Ý THỦY. Nước báu phát ra diệu âm không những chỉ nói bao nhiêu pháp, mà còn thuyết minh niệm mê vọng của chúng sanh, tâm BI-TRÍ của Bồ tát hoặc nói pháp nhơn thiên, pháp nhị thừa, pháp đại thừa về hàng địa tiền, địa thượng, hoặc nói tam thân của Phật; trong chánh văn duy dẫn phần đại lược.

"CÁC SẮC CHIM BÁ BẢO", ý nói chẳng phải một loài chim mà có nhiều thứ, như trong tiểu bản nói các hóa cầm: bạch hạc, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tần già, và những giống: phù, nhạn, oan ương theo kinh văn sau đây.

"PHẬT" là đấng Thầy Vô Thượng phá tà chấp, khuyên hướng thượng của chúng sanh.

"PHÁP" là thuốc mầu trừ bịnh độc phiền não, hồi phục pháp thân thanh tịnh cho loài hữu tình.

"TĂNG" là ruộng phước của quần sanh, nếu kẻ nào dùng lòng tín hướng cúng dường sẽ được quả phước nhơn thiên và gieo nhân giải thoát.

 

MA NI CHÂU đã sanh nước bát đức, lại phóng sắc kim quang, hiển rõ chẳng những có công năng phá trừ tối tăm, mà còn hay thi tác Phật sự.

 

Có lời khen rằng:

 

Trang nghiêm sáng sạch trời Thanh Thái

Ao báu mênh mang dường đại hải

Chim hót thanh âm giục tỉnh mơ

Nước diệu trong ngần trôi lững lờ

Ánh sáng thành ao buông rực rỡ

Nhiều sắc hoa sen đua hớn hở.

Bồ tát nhẹ đi tỏa bảo hương

Bảo hương tụ thành mây bảo quang

Bảo quang vân hiện nghìn bảo cái

Bảo cái hư không che bảo tràng

Bảo tràng phi phất vây kim điện

Kim điện lưới châu thần diệu biến

Diệu biến vô cùng bảo ngọc linh

Bảo linh bảo nhạc ngàn trùng chuyển.

Kim điện Phật tuyên pháp diệu thường

Hằng sa thánh chúng lắng tư lương

Hữu duyên mong kẻ đồng tâm nguyện

Xả thọ đồng sanh tịnh pháp đường.



6

TỔNG TƯỚNG QUÁN

( Quán Chung Về Ðất Cây, Ao, Lầu Báu )

 

Nơi cõi báu Cực Lạc mỗi khu vực có năm trăm ức bảo lâu. Trong những lâu các ấy có vô lượng chư thiên thường trổi thiên nhạc. Lại có vô lượng nhạc khí lơ lửng giữa hư không như bảo tràng ở cõi trời, không ai trổi tự nhiên phát thành tiếng. Những tiếng này đều diễn nói môn niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tỳ-Khưu Tăng.

 

Khi tưởng chung các tướng trên gồm bảo địa, bảo thọ, bảo trì, bảo lâu được thành rồi, gọi là thấy thế giới Cực lạc về phần thô.

 

Đây là môn tổng tưởng, thuộc về phép quán thứ sáu.

 

Nếu thấy tướng này, sẽ trừ được nghiệp ác rất nặng trong vô lượng ức kiếp. Khi mạng chung, kẻ ấy quyết định được sanh về cõi cực Lạc.

 

Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tướng sai khác, là tà quán.

 

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: "Hãy để tâm lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì các ngươi mà giảng thuyết phân biệt pháp trừ khổ não. Các ngươi nên ghi nhớ rồi giải nói rành rẽ lại cho khắp trong đại chúng nghe".

 

Khi đức Thế Tôn vừa nói lời ấy xong, thì Phật Vô-Lượng-Thọ đã hiện thân trụ lập giữa hư không, hai vị đại sĩ Quán-Thế-Âm, Đại Thế-Chí đứng đầu tả hữu. Ánh quang minh từ thân của Tây phương tam thánh tỏa ra rực rỡ, nhìn không thể xiết, dù cho trăm ngàn sắc vàng diêm phù đàn cũng không thể sánh ví được.

 

Vi Đề Hy phu nhơn được thấy Vô Lượng Thọ Như Lai, liền cúi đầu đảnh lễ Phật và thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn! nay con nhờ từ lực được thấy Phật A-Di-Đà và hai vị Bồ Tát. Chúng sinh đời sau phải làm thế nào để quán tưởng Tây phương tam thánh?"

 

SỚ GIẢI :

Nếu hành giả duy tưởng ĐẤT CÂY, AO, mà chưa quán LẦU CÁC, thì sự thấy cõi CỰC LẠC chưa được tinh, mà cảnh TỊNH ĐỘ cũng chưa gọi là trang nghiêm. Thế giới Cực Lạc rất rộng lớn gồm nhiều khu vực, mỗi khu vực có năm trăm ức bảo lâu. "Chư thiên thường trổi thiên nhạc" là lược thuật sự trang nghiêm bên trong lầu các; "nhạc khí lơ lửng giữa hư không" là nói sự trang nghiêm bên ngoài.

 

Đoạn chánh văn trên, trước tiên đức Phật dạy tưởng riêng về lầu các, sau bảo quán chung cả đất, cây, ao, lầu báu. Cho nên môn thứ sáu này có hai phương diện: phần RIÊNG là bảo lâu quán, phần CHUNG là tổng tưởng quán nay chỉ lấy tổng quán làm điểm chánh.

 

Đức Thế Tôn vì thương xót chúng sanh bị lửa TAM ĐỘC thiêu đốt, mãi trôi nổi trong biển luân hồi, nên mới bảo ngài A Nan và Vi Đề Hy phu nhơn thọ trì quán pháp sau đây rồi tuyên thuyết lại cho đại chúng cùng nghe. Bởi đấng Hóa Chủ cõi TA BÀ vì lợi sanh mà trụ tưởng nơi tây phương, nên bậc Từ tôn miền An Lạc cảm thông mới hiện thân ở trời đông độ.

 

Đây là đạo giáo hóa của hai bậc chí thánh tương ưng để mở đầu cho sự khai giảng pháp QUÁN PHẬT tam muội. Và cũng bởi thánh chúng trong pháp hội, phần nhiều căn cơ còn kém nên Tây phương tam thánh mới giúp duyên bằng cách trình tượng giữa HƯ KHÔNG.

 

Hỏi: Đức của Phật A Di Đà rất tôn cao, ngài đã vì bản nguyện mà đến Ta Bà, sao không thị hiện ngồi đoan chính trên hoa sen, lại hiện thân đứng?

Đáp: Đó là vì chúng sanh ở cõi này bị nhiều sự khổn ác vây quanh, kiếp sống lại vô thường ngắn ngủi, cần được mau vớt khỏi dòng mê, nên đức Vô Lượng Thọ Như Lai mới hiện tướng đại bi CẤP CỨU.

 

Hỏi: Y chánh cõi Tây phương quá nhiệm mầu, mà chúng sanh miền ngũ trược loạn tưởng phân vân, màn vô minh dày đặc, làm sao tác quán được tường tất?

Đáp: Nếu duy cứ theo vọng nghiệp của chúng sanh thì chỉ luống công mệt sức. Như hành giả biết chí tâm nương cầu sức Phật gia bị, tất tùy theo chỗ quán đều sẽ được thấy.

 

Muốn như thế, hành giả nên trang nghiêm đạo tràng, quì trước tượng Phật hết lòng hổ thẹn, bi thương rơi lệ, sám hối TỘI CHƯỚNG của mình. Lúc ấy nên khải thỉnh đức Thích Ca Mâu Ni và mười phương hằng sa chư Phật, lại niệm bản nguyện của Di Đà Thế Tôn, tâm nghĩ miệng nói:

 

"Đệ tử pháp danh.... là kẻ phàm phu, tội chướng sâu nặng. Nguyện Phật xót thương hộ niệm, khiến cho con được khai ngộ và thành tựu cảnh sở quán. Nay con nguyện xả thân mạng, nương về đức A Di Đà Thế Tôn, như được thấy cùng không đều nhờ ân lực của Phật".

 

Kế đó tiếp tục chí tâm lễ sám, rồi dẹp hết muôn duyên y theo phương pháp bền chí một lòng tu tập. Hành trì như thế lâu ngày tự sẽ ĐƯỢC thấy, bằng chẳng vậy dù tiêu hao nhiều năm tháng, quán hạnh cũng khó thành. Khi quán cảnh hiện ra có hai thứ:

 

1. Do tưởng mà thấy, vì còn có tri giác, nên tuy cảnh hiện sự thấy chưa được rõ ràng.

2. Do định mà thấy, bởi tri giác trong ngoài đã diệt, nên tịnh cảnh hiện ra nhiệm mầu không thể so sánh nghĩ bàn được.


 

Đông Chu Liệt Quốc

Chương 47

LỘNG NGỌC cưỡi phượng theo TIÊU SỬ

 triệu thuẫn bội tần lập di cao

 

….

 

Tần Mục công có một người con gái bé, lúc người con gái ấy mới sinh, gặp

có kẻ đem dâng viên ngọc phác.

 

Tần Mục công sai thợ dũa đi, thành một viên ngọc sắc biếc mà đẹp lắm. Đến lúc người con gái đầy tuổi, trong cung bày đồ toái bàn, người con gái nhặt ngay viên ngọc, rồi ngắm nghía mãi, bởi vậy mới đặt tên là Lộng Ngọc.

 

Lúc nàng Lộng Ngọc lớn lên, nhan sắc xinh đẹp tuyệt trần, lại thêm tính thông minh, có tài thổi ống sinh mà không học ai cả, mà thành âm điệu. Tần Mục công sai thợ làm một cái ống sinh bằng ngọc để cho nàng Lộng Ngọc thổi.

 

Nàng Lộng Ngọc thổi ống sinh ấy, tiếng trong như tiếng chim phượng. Tần Mục công yêu lắm, lại lập một cái lầu để cho nàng Lộng Ngọc ở, đặt tên là

Phượng Lâu; trước lầu có xây một cái đài, cũng đặt tên là Phượng Đài.

 

Năm Lộng Ngọc đã 15 tuổi, Tần Mục công muốn tìm một người giai tế, Lộng Ngọc thề rằng:

 

— Tìm người nào tài thổi ống sinh, có thể họa với ta được, ta mới chịu lấy làm chồng, còn ai thì ta cũng chẳng thiết. Tần Mục công sai sứ đi tìm, chẳng được một người nào tài thổi ống sinh cả.

 

Một hôm Lộng Ngọc đang ngồi ở trên lầu, cuốn rèm ngắm cảnh, trông thấy trời quang mây tạnh, vừng trăng sáng tỏ như gương, truyền cho thị nữ đốt một lò hương, rồi đem ống sinh ra thổi. Bấy giờ gió mát hây hẩy, bỗng nghe có tiếng người họa, lúc gần lúc xa, Lộng Ngọc lấy làm lạ, mới dừng ống sinh lại không thổi nữa, rồi lắng tai nghe thì thấy tiếng họa ấy cũng im đi, mà còn hơi văng vẳng.

 

Lộng Ngọc nghĩ ngẩn người ra, một mình lưỡng lự canh chầy, đem cái ống sinh đặt ở đầu giường rồi nằm xuống ngủ. Lộng Ngọc đang nằm ngủ, bỗng thấy về phía tây nam trên trời cửa mở rộng ra, hào quang ngũ sắc, rực rỡ như ban ngày, có một chàng trẻ tuổi, mũ lông áo hạc, cưỡi con chim phượng ở trên trời xuống, đứng trước Phượng Đài mà bảo Lộng Ngọc rằng:

 

— Ta đây làm chủ ở núi Họa Sơn, Ngọc Hoàng Thượng Đế sai ta kết duyên với nàng, đến ngày trung thu này đôi ta gặp nhau, ấy là duyên số đã định sẵn như vậy!

 

Chàng trẻ tuổi ấy nói xong, thò tay vào bên mình, cởi cái ống ngọc tiêu, rồi đứng tựa vào lan can mà thổi. Con chim phượng đứng bên cũng vươn cánh ra, vừa kêu vừa múa. Tiếng phượng kêu cùng với tiếng ngọc tiêu xướng họa ăn nhau như một, theo điệu cung thương, nghe rất êm ái, Lộng Ngọc mê mẫn tâm thần mà hỏi rằng:

 

— Khúc này là khúc ở đâu?

 

Chàng trẻ tuổi ấy nói:

— Đấy là khúc “Họa Sơn ngâm” đó!

 

Lộng Ngọc lại hỏi:

 

— Khúc này có học được không?

 

Chàng trẻ tuổi ấy nói:

— Khi ta đã kết duyên với nàng rồi thì khó gì mà ta không dạy nàng được!

 

Chàng trẻ tuổi ấy đến gần trước mặt mà cầm lấy tay Lộng Ngọc. Lộng Ngọc giật mình tỉnh dậy, thành ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, Lộng Ngọc thuật lại chuyện chiêm bao cho Tần Mục công nghe. Tần Mục công sai Mạnh Minh cứ theo như hình tượng người trong mộng mà đến dò tìm ở núi Họa Sơn.

 

Kẻ nông phu ở đấy trỏ lên núi mà bảo Mạnh Minh rằng:

 

— Từ hôm rằm tháng 7 mới rồi, có một người lạ mặt, đến làm nhà ở trên đỉnh núi này, ngày nào cũng xuống mua rượu uống, đến buổi chiều lại thổi chơi một khúc ngọc tiêu, ai nghe cũng lấy làm thích lắm, không biết là người ở đâu.

 

Mạnh Minh lên núi, quả nhiên thấy có một người mũ lông áo bạc, trông như một vị thần tiên. Mạnh Minh biết là không phải người thường, mới đến trước mặt vái chào mà hỏi họ tên người ấy.

 

Người ấy nói:

 

— Tôi họ Tiêu tên Sử. Chẳng hay ngài là ai? Đến đây có việc gì?

 

Mạnh Minh nói:

 

— Tôi là chức hữu thứ trưởng nước này, tên gọi Mạnh Minh. Chúa công tôi có một người con gái yêu, còn đang kén chồng. Người con gái Chúa công tôi, tài thổi ống sinh, muốn tìm được một người như thế nữa mà kết duyên; nay nghe ngài am hiểu việc âm nhạc, vậy Chúa công tôi sai đến đón!

 

Tiêu Sử nói:

 

— Tôi không có tài cán gì, chỉ gọi là hơi biết âm nhạc một đôi chút mà thôi, có đâu tôi dám vâng mệnh.

 

Mạnh Minh nói:

 

— Xin ngài cứ cùng tôi về yết kiến Chúa công.

 

Khi về đến kinh thành, Mạnh Minh vào tâu Tần Mục công trước, rồi sau đưa Tiêu Sử vào. Tần Mục công ngồi ở trên Phượng Đài, Tiêu Sử sụp lạy mà tâu rằng:

 

— Chúng tôi ở nơi thảo dã, chưa hiểu lễ phép, có điều gì sơ suất, xin Chúa công miễn thứ cho. Tần Mục công thấy Tiêu Sử hình dung thanh nhã, không phải người thường, cũng có ý hơi bằng lòng, mới cho ngồi ở bên cạnh mà hỏi rằng:

 

— Ta nghe nhà ngươi tài thổi ống tiêu, tất là cũng tài thổi ống sinh nữa!

 

Tiêu Sử nói:

 

— Tôi chỉ biết thổi ống tiêu, không biết thổi ống sinh.

 

Tần Mục công nói:

 

— Ta định tìm một người tài thổi ống sinh, nay nhà ngươi chỉ biết thổi ống tiêu mà thôi thì không làm rể ta được. Tần Mục công nói xong, bảo Mạnh Minh đưa Tiêu Sử ra.

 

Lộng Ngọc sai nội thị tâu với Tần Mục công rằng:

 

— Tiêu với sinh cũng là một loài, người ta đã tài thổi ống tiêu thì sao Chúa công không bảo dạo chơi một khúc, để cho người ta được phô tài.

 

Tần Mục công lấy làm phải, lại bảo Tiêu Sử thổi ống tiêu. Tiêu Sử mới thổi một khúc thì thấy có gió mát hây hẩy; thổi đến khúc thứ hai thì mây che bốn mặt; đến khúc thứ ba thì có một đôi bạch hạc múa lượn ở trên không, lại có mấy đôi khổng tước bay về, và các giống chim kêu ríu rít. Một lúc lâu rồi mới tan đi.

 

Tần Mục công rất bằng lòng. Bấy giờ Lộng Ngọc đứng ở trong rèm trông thấy, cũng bằng lòng mà nói rằng:

 

— Người ấy thật đáng làm chồng ta!

 

Tần Mục công lại hỏi Tiêu Sử rằng:

 

— Nhà ngươi có biết ống tiêu và ống sinh làm từ đời nào không?

 

Tiêu Sử nói:

 

— Ống sinh làm ra từ đời Nữ Oa, ống tiêu làm ra từ đời Phục Hi.

 

Tần Mục công nói:

 

— Nhà ngươi hãy thử kể rõ nguyên ủy cho ta nghe.

 

Tiêu Sử nói:

— Nghề tôi ở ống tiêu, vậy tôi xin kể nguyên ủy ống tiêu: Ngày xưa vua Phục Hi ghép trúc làm ống tiêu, chế theo hình chim phượng, tiếng thổi cũng giống tiếng chim phượng.

 

Thứ lớn gọi là Nhã Tiêu, ghép liền hai mươi ba ống, dài một thước bốn tấc; thứ nhỏ gọi là Tụng tiêu, ghép liền mười sáu ống, dài hai thước một tấc. Cả hai thứ ấy gọi chung một tiếng là Tiêu quản, còn thứ không có đáy thì là Đỗng tiêu.

 

Về sau vua Hoàng Đế sai Linh Luân lấy trúc ở Côn Khuê, chế làm ống địch; ống địch có bảy lỗ, cầm ngang mà thổi, cũng giống tiếng chim phượng, trông giản tiện lắm! Người đời sau thấy ống Tiêu quản phiền quá, mới chỉ dùng một ống địch rồi cầm mà thổi dọc.

  

Thứ dài gọi là tiêu, thứ ngắn gọi là địch, bởi vậy cái ống tiêu đời nay, không phải như ống tiêu đời xưa.

 

Tần Mục công lại hỏi:

 

— Sao nhà ngươi thổi ống tiêu mà lại có các giống chim bay đến?

 

Tiêu Sử nói:

 

— Ống tiêu dẫu mỗi đời một khác, nhưng tiếng thổi bao giờ vẫn giống tiếng chim phượng. Chim phượng là đầu các giống chim, bởi vậy các giống chim nghe tiếng phượng, đều kéo nhau đến cả. Ngày xưa vua Thuấn chế ra khúc nhạc Tiêu Thiều mà chim phượng còn bay đến, huống chi là các giống chim khác!

 

Tiêu Sử ứng đối trơn như nước chảy, tiếng nói lại sang sảng. Tần Mục công càng bằng lòng lắm, bảo Tiêu Sử rằng:

 

— Ta có một người con gái tên gọi Lộng Ngọc, cũng hơi biết âm nhạc, không muốn gả cho những đứa ngu ngốc, vậy xin cùng với nhà ngươi kết duyên.

 

Tiêu Sử nghe nói, nghiêm nét mặt lại, rồi sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng:

 

— Tôi vốn là người thôn dã, có đâu dám sánh với bậc tôn quí!

 

Tần Mục công nói:

 

— Con gái ta vốn có lời thề nguyện, muốn chọn được người nào tài thổi ống sinh thì mới lấy làm chồng, nay nhà ngươi thổi ống tiêu mà lại cảm động được đến trời đất và muôn vật, như vậy thì lại hơn người thổi ống sinh nhiều lắm. Vả con gái ta khi trước đã có điềm mộng, ngày nay lại chính là tiết trung thu rằm tháng tám, duyên trời định sẵn, nhà ngươi chớ nên chối từ.

 

Tiêu Sử lạy tạ. Tần Mục công sai quan Thái sử chọn ngày để làm lễ cưới.

 

Quan Thái sử nói:

 

— Hôm nay là ngày trung thu, trăng vừa tròn bóng, xin Chúa công cho làm lễ cưới, để hợp với cái nghĩa đoàn viên. Tần Mục công truyền cho Tiêu Sử tắm gội, thay mũ áo mới, rồi sai người đưa đến Phượng lâu, để cùng với Lộng Ngọc kết duyên.

 

Ngày hôm sau, Tần Mục công phong cho Tiêu Sử làm trung đại phu. Tiêu Sử dẫu làm trung đại phu, nhưng không dự gì đến quyền chính cả, ngày nào cũng vui chơi ở chốn Phượng Lâu; lại không ăn cơm, chỉ thỉnh thoảng uống mấy chén rượu mà thôi. Lộng Ngọc học được phép tiên của Tiêu Sử cũng không ăn cơm.

 

Tiêu Sử lại dạy Lộng Ngọc thổi ống tiêu. Vợ chồng ở với nhau ước được nửa năm, có một đêm, hai vợ chồng nhân khi bóng trăng vằng vặc, đem ống tiêu ra thổi, bỗng thấy một con phượng xuống đậu ở bên tả, và một con rồng xuống phục ở bên hữu.

 

Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc rằng:

 

— Ta vốn là người tiên trên trời, Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy sử sách ở trần gian, nhiều chỗ tán loạn, vậy nên giáng sinh ta xuống họ Tiêu ở nhà Chu để sửa sang lại. Người nhà Chu thấy ta có công về việc sử sách, mới gọi ta là Tiêu Sử, đến nay đã hơn trăm năm rồi.

 

Ngọc Hoàng Thượng Đế cho ta làm chủ ở núi Họa Sơn, vì ta cùng nàng có tiền duyên với nhau, nhờ một khúc ngọc tiêu mà được cùng nhau tác hợp, nhưng cũng không nên ở mãi chốn trần gian này! Nay rồng cùng phượng đã đến đón ở đây, chúng ta nên cùng đi.

 

Lộng Ngọc toan vào từ biệt cha, Tiêu Sử can rằng:

 

— Không nên! Đã là thần tiên thì chớ nên vì chút tình riêng mà còn quyến luyến!

 

Bấy giờ Tiêu Sử cưỡi con rồng, Lộng Ngọc cưỡi con phượng, cùng bay lên trời. Ngày hôm sau, nội thị vào báo Tần Mục công.

 

Tần Mục công thở dài mà than rằng:

 

Thế mới biết việc thần tiên cũng có thật! Giả sử bây giờ rồng phượng đến đón ta thì ta cũng chẳng thiết gì ngôi vua!

 


Cõi Phật Vô Lượng Thọ
Hàng Thanh Văn, Bồ Tát
Công đức và trí huệ
Không có thể khen nói!
Lại nơi cõi nước kia
Nhiệm mầu cực an vui.
Sự thanh tịnh như thế,
Sao không gắng làm lành
Mà niệm đạo tự nhiên?...
Đều phải siêng tinh tấn
Gắng sức tự mong cầu
Vãng sanh cõi An Lạc.
Tất lên chỗ siêu tuyệt
Vượt ngang năm nẻo ác
Ác đạo tự nhiên đóng
Thăng đạo không cùng tận.
Dễ sanh mà không người!
Cõi kia không cảnh nghịch
Tự nhiên thuận tiến lên.
Sao không xả việc đời
Siêng tu cầu đạo đức?


Để được kiếp sống lâu
Thọ, vui không cùng cực...

 

...

Giả sử có cơn lửa lớn cháy phừng đầy khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, vì cầu nghe kinh pháp này phải vượt ngang qua nơi ấy, cũng nên vui vẻ tin ưa mà cầu, để được thọ trì đọc tụng, như lời dạy mà tu hành. Tại sao thế? Bởi vì có rất nhiều bậc Bồ Tát muốn nghe kinh này mà không được nghe. Nếu có chúng sanh nào được nghe và tín thọ kinh này, tất sẽ không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng.

 

Kinh Vô Lượng Thọ

 

 

 

BÀI SỐ 23

 

Ẩn tu an tĩnh chốn cao nguyên

Hoa cảnh lòng trăng đẹp dịu hiền

Mây núi điệp trùng đêm TỊCH TỊCH

Câu Kinh tiếng Phật lại triền miên !

 

 

NHƯ Ý : Cùng trong một CẢNH mà sự NGỘ NHẬP của mỗi người đều có khác nhau. Khi xưa cùng vào một đêm trăng sáng diệu, ĐỨC MÃ TỔ hỏi 3 đồ đệ rằng: Lúc này nên thế nào?  

 

TRÍ TẠNG thiền sư Đáp: Nên dùng Hương nến hoa quả lễ Bái cúng dường, Ngài BÁ TRƯỢNG hoài hải Đáp: Chính là lúc nên lặng lẽ tu hành, Ngài NAM TUYỀN phổ nguyện không Đáp : Chỉ phất Tay Áo quây mình bước đi. Đức Mã Tổ phê KINH thuộc Trí Tạng,  THIỀN về hoài Hải, duy có phổ nguyện, TIÊU DAO VẬT NGOẠI.

 

Về sau có một vị TÔN ĐỨC lại phê,  sự cảnh chưa biết ai hơn vì còn thuộc nơi TÂM CẢNH CẠNG SÂU RỘNG HẸP.

 

 

 

TIÊU DAO VẬT NGOẠI

 

 

TRIỆT NGỘ ÐẠI SƯ

BÀI KỆ THỨ  67

 


Một câu A Di Ðà
Cảnh Vô Tướng tâm Phật
Cõi nước đẹp trang nghiêm
KHÔNG PHẢI LÀ NGOẠI VẬT.

 

 Nhứt cú Di Ðà
Vô tướng tâm Phật
Quốc độ trang nghiêm
CẢNH PHI NGOẠI VẬT.




LƯỢC GIẢI

HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM

 


Hành giả tu Tịnh Ðộ do chuyên trì câu hồng danh, lâu ngày nghiệp chướng tiêu trừ, sẽ chứng vào Niệm Phật tam muội. Ðây là cảnh Vô tướng tâm Phật. Vô Tướng không phải trống rỗng, chẳng hàm tướng trạng chi, mà chính vì các tướng sanh diệt như huyễn không có tự thể chắc thật, nên gọi là Vô.

TÂM KINH nói: "Huyễn sắc tức chân không, chân không tức huyễn sắc", chính là ý này.

Tâm Phật có nghĩa: Tâm tức Phật, Phật tức Tâm, CHÂN tâm là Phật CẢNH, Phật cảnh là chân tâm.


Thế thì cảnh CHÁNH báo, Y báo trang nghiêm ở cõi Cực Lạc, cùng tất cả quốc độ khắp mười phương đều chính là cảnh giới của chân tâm, của tâm mình, không phải VẬT chi NGOÀI khác.

Cho nên những kẻ bảo: "Niệm A Di Ðà, nguyện sang Cực Lạc là tìm cầu bên ngoài, chẳng hướng về tự tâm", đó là quan niệm sai lầm, chưa hiểu RÕ chân tâm, cũng như pháp môn Tịnh Ðộ.




TÂM CẢNH CẠNG SÂU RỘNG HẸP

 

 

Tht không ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh,
Tht không ngờ tánh mình vốn không sanh diệt,
Tht không ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ,
Tht không ngờ tánh mình vốn không lay động,
Tht không ngờ “TÁNH MÌNH” có thể sanh ra muôn pháp!

 

(KINH PHÁP BẢO ĐÀN)

 

 


Trúc Lâm Yên Tử Đệ Nhất Tổ  

Phật hoàng Trần Nhân Tông

 

 

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO

 

Mỗi người đều có Phật tính, như trong nhà ai cũng có của báu. Giáo pháp của đạo Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn tu, giống như nhiều dòng sông về chung một bến bờ giác ngộ và giải thoát.

 

Đức Vua Phật hoàng Trần NHÂN TÔNG là một vị vua không chỉ để lại những tấm gương chiến công lừng lẫy trong lịch sử dựng nước và giữ nước mà còn là sơ TỔ dòng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, đặc trưng của Việt Nam đã làm rạng danh Phật giáo đời Trần, như một trong những đỉnh cao hưng thịnh của Phật giáo dân tộc.

 

“Cư Trần Lạc Đạo” của Đức Vua Phật hoàng Trần Nhân Tông là một triết lý sống kết hợp đạo với đời, thổi thêm sức sống cho Phật giáo đương thời tăng  trưởng như tôn giáo nhập thế, luôn đồng hành cùng dân tộc ĐẠI-VIỆT.


“Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Ðối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.”

 

   

          )

 

      

    困則 

     

    莫問 

 

Tạm dịch:

Sống ở trên đời tùy theo hoàn CẢNH mà vui với đạo
Ðói thì ăn, mệt thì ngủ
Của báu sẵn trong nhà khỏi tìm kiếm
Ðứng trước cảnh vật mà vô tâm thì không phải hỏi THIỀN là gì

 

Dịch thơ:  

 

Ở  đời  vui đạo, hãy tuỳ duyên,
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền. 


“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên”(
       )

 

“Cư trần” Sống trong cõi đời, Đức Vua – Phật hoàng đã thừa nhận sự tồn tại của huyển thân. Cõi trần là một giả cảnh, chỉ là  một chặng đường trong luân hồi, nhưng lại là một giai đoạn không thể bỏ qua, chính là giai đoạn để giác ngộ chân lý.

“Lạc đạo”  vui với đạo là một tâm thể hành đạo, thuận theo lẽ đạo, tùy duyên mà hành đạo, tùy duyên nhưng BẤT biến.

 

“Cơ tắc xan hề khốn tắc miên” (    困則 )

Hễ đói thì ăn mệt ngủ liền. Chấp nhận những quy luật của cuộc sống, không chấp ngã, chấp không.

 

“Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch (     

Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.”       莫問 )

 

Mỗi người đều có PHẬT TÍNH, như trong nhà ai cũng có CỦA BÁU. Giáo pháp của đạo Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn tu, giống như nhiều dòng sông về chung một bến bờ GIÁC NGỘ và giải thoát.

Các giáo phái khác dựa vào kinh điển, giáo lý Phật dạy để tu trì, Giáo phái Thiền chủ trương dùng tâm mà truyền tâm. Phật tại tâm. Tâm tức Phật. Phật tức Tâm. Nếu ai thấy được tâm tịnh thì lập tức thành Phật.

Thiền phái cho rằng tất cả kinh điển chẳng qua như ngón tay chỉ mặt trăng. Đến như mặt trăng chân lý thì chúng ta không thể dùng văn tự ngôn ngữ mà diễn tả hay hiểu rõ được. Vì thế, người tu hành theo pháp môn thiền định đứng ngoài kinh luận.

Chỉ dùng phép tâm ấn của Phật tổ để làm phương pháp truyền tâm cho thế hệ sau. Chỉ khi nào đôi bên hiểu nhau, thông cảm đạo lý, truyền thụ được chân lý thì mới thực hiện được phép tâm truyền.

Người tu thiền đạt đạo có được những quyền năng siêu việt mà người thường không dễ gì có được. Truyền thuyết Phật giáo truyền rằng: Nhờ phép tu Thiền Định, Tôn Giả Mục Kiền Liên có khả năng xuất thần du hành các cõi Phật.

Xuống cả địa ngục để quan sát chúng sinh, bay qua mười ức cõi Phật đến quốc độ của đức Phật Thích Ca có tầm âm vang xa. Nhờ phép tu Thiền Định, Tôn Giả Phú Lâu Na cùng Mục Kiều Liên đã từng vâng mệnh của đức Phật Thích Ca xuât thân từ hư không bay vào trong ngục, giảng thuyết pháp yếu và truyền trao tâm pháp yếu cho Vua Tần-Đà-Ta La là vua nước Ma-Kiệt-Đà đang bị giam cầm.

Tôn Giả A Na Luật tuy bị mù lòa có khả năng thiên nhãn thông (nhìn xa ngàn dặm). Tôn giả Xá Lợi phất mắt có thể nhìn thấy 60 tiểu kiếp người về trước, Tôn giả A Nan Đà  nhìn thấy cõi Tây Phương cực lạc mà ở đó Đức Phật A Di Đà đã phóng ra muôn vàn ánh hào quang rực rỡ. Đức Thích Ca Mâu Ni có phép tha tâm thông nên từ xa đã đọc được tư tưởng của đại đệ tử Tu-Bồ-Đề.

Các nhà sư tu thiền khẳng định rằng: tuy ngồi thiền trong am cỏ NGỌA VÂN trên đỉnh núi Yên Tử. Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã dùng hào quang định lực của mình mà quán chiếu trong, ngoài, trên dưới, mọi sự với Ngài đều thông tỏ.

Trên đỉnh núi Yên Sơn, cách biệt với kinh kỳ. Vua Phật Nhân Tông vẫn rõ được triều chính, nhiều lần về triều khuyên bảo vua Anh Tông tu dưỡng tâm tính, kìm bớt lòng dục, xa rời tửu sắc, gìn giữ chân tâm… xứng đáng trở thành bậc quân vương tôn kính.

Ngài còn biết rõ được biên cương phương bắc, phương tây và phương nam, có được những quyết sách lớn lao và đúng đắn nhằm gìn giữ tình bang giao giữa các nước láng giềng và Đại Việt, giữ vững, nền an ninh chính trị nước nhà.

Ở Yên Tử, Ngài hoàn thiện hệ thống giáo lý của PHÁP PHÁI TRÚC LÂM Giáo lý, Trúc Lâm đã trở thành nền tảng tư tưởng và đạo đức của thời đại hoàng kim triều Trần, giai đoạn phật giáo là Quốc giáo. Cho nên, việc từ bỏ ngôi vua vào núi để tu hành của Vua Trần Nhân Tông tưởng chừng xuất thế, nhưng đích thực lại nhập thế tích cực.

Từ chức vụ cao sang của Nhà Vua, Vua Trần Nhân Tông trở về ngôi tôn quý của nhà Phật. Vua từ cái nhất thời, hữu hạn mà trở về cái vô hạn, vĩnh hằng. Không phải lúc băng hà, Vua Trần Nhân Tông mới hóa Phật. Danh hiệu Vua Phật Hoàng đã được tôn vinh cho Vua Trần khi Ngài còn tại thế.

Trẫm thầm nhủ: “Phật không chia Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm; tính người có trí ngu, cũng nhờ giác ngộ mà thành đạt. Vì vậy, phương tiện dẫn dụ đám người mê muội, con đường tắt sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là đại giáo của đức Phật. Đặt mực thước cho hậu thế; làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy là trách nhiệm của tiên thánh.”

"Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Tâm lặng mà biết đó chính là tâm Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi tìm cực khổ ở bên ngoài”.(Thiền Tông Chỉ Nam)

Cư trần lạc đạo” nghĩa là ở đời mà vui đạo, là giác ngộ ngay giữa cuộc đời, giác ngộ không phải xa lánh cuộc đời hay quên đời. “Cư trần lạc đạo” của đức Vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông đã, đang và sẽ sống mãi cùng dân tộc, trong lòng dân tộc.

Tưởng niệm 705 năm ngày Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn

 

Trí Bửu

 

 

PHẬT TRUYỀN TÂM ẤN

 

 

Ðại sư Vĩnh-Gia gặp Lục-tổ

và được Tổ ấn chứng

 

 

Hồi đó, Sư nghe nói lối truyền tâm ấn (Nhĩ đề diện mệnh, khẩu thọ tâm hội, tức là "đối diện rỉ tai, lời trao tâm lãnh") của phái Tào-khê, tức Lục-tổ ở Chùa Nam Hoa, được truyền thừa y bát từ Phật Thích Ca, Sư bèn không quản ngàn dặm đường xa, tới kiếm Lục-tổ để cầu ấn chứng.

Sư tới Chùa Nam Hoa thì gặp Lục-tổ đương thuyết pháp. Sư đắp y, tay cầm tích trượng tiến lên pháp tòa, đi nhiễu bên phải ba vòng, rồi đứng trước Lục-tổ, không cúi đầu đảnh lễ mà quát lên một tiếng lớn.

Tổ hỏi:

–Người xuất gia gọi là Sa-môn phải có phép tắc, phải đủ ba trăm oai nghi, ba ngàn tế hạnh. Tại sao ông tới đây mà lại có thái độ thô lỗ như vậy, một chút lễ phép cũng không có?

Sư đáp:

–Sanh tử là việc lớn, vô thường quá mau.

Sư muốn nói rằng việc dụng công tu tập quá cấp bách, làm gì còn thời gian để làm lễ nữa? Làm gì còn thời gian để lo những điều tiểu tiết? Ðể nghiên cứu cái gì là ba trăm oai nghi, ba ngàn tế hạnh? Chẳng còn chuyện gì to lớn bằng chuyện sanh tử, quỷ vô thường đến bất chợt lúc nào không hay, vậy tôi còn thời gian nào để hành lễ nữa?

Tổ bèn nói:

–Sao chẳng thể giải cái không sanh và liễu ngộ cái không mau chóng?

Ý Tổ muốn nói rằng sao không nghiên cứu pháp vô sanh? Sao không minh bạch đạo lý của cái không mau?

Sư thưa lại:

–Thể giải (tự tánh) tức là không sanh, liễu ngộ (tự tánh) rồi thì vốn không có mau chóng.

Ý Sư nói rằng đừng nói tới nghiên cứu, bởi nghiên cứu không kiếm ra sanh tử, khi minh bạch rồi thì không có cái gì gọi là mau chậm, cũng không có cái vô thường.

Tổ bảo:

–Nếu ông đã nói rằng thể giải tức vô sanh, ngộ rồi thì vốn không có mau, vậy ai là kẻ phân biệt?

Ý nói rằng ai là người có ý nghĩ phân biệt đó?

–Phân biệt cũng chẳng phải ý. Nghĩa là không có tâm niệm tại chỗ phân biệt.

Lúc đó, Lục-tổ bèn ấn chứng cho Ðại sư Vĩnh-Gia:
–Ðúng thế! Ðúng thế!

Sư thấy Tổ đã ấn chứng cho mình, bèn dùng đầy đủ oai nghi lễ tạ Tổ, sau đó Sư xin cáo từ.

Tổ thấy Sư tới nơi chỉ nói mấy câu rồi ra đi, mới hỏi rằng:
–Sao lại ra đi quá mau như vậy?

Sư thưa:

–Vốn tự không động, há có mau ư? Sư muốn nói bổn lai không đến, không đi, thì có gì là mau chậm.

–Ông thiệt đã chứng được ý vô sanh.
–Vô sanh có ý sao?

–Không ý, cái gì phân biệt được?

–Phân biệt cũng không phải ý.

–Ông có thể liễu, nhưng không nên đi.

Lúc đó Sư biết rõ Lục-tổ quả đã ấn chứng cho mình, nên Sư ở lại chùa Nam-hoa một đêm. Người đương thời gọi Sư là "Nhất-túc-giác" ngộ một đêm. Ðó là công án về chuyện Ðại sư Vĩnh-Gia gặp Lục-tổ và được Tổ ấn chứng.



Kiến pháp tràng, lập tông chỉ,
Minh minh Phật sắc Tào-Khê thị.

Ðệ nhất Ca-diếp thủ truyền đăng,
Nhị thập bát đại Tây thiên ký.
Pháp đông lưu, nhập thử thổ,
Bồ-đề Ðạt-ma vi Sơ tổ.

Lục đại truyền y thiên hạ văn,
Hậu nhân đắc đạo hà cùng số.

Chân bất lập, vọng bổn không,
Hữu vô câu khiển bất không không.
Nhị thập không môn nguyên bất trước,
Nhất tánh Như Lai thể tự đồng.

 

(Vĩnh Gia Chứng Ðạo Ca- Sa-Môn Huyền Giác soạn

Hòa Thượng Tuyên Hóa Thuyết Giảng tại Kim Luân Thánh Tự Los Angeles,

California, Mỹ Quốc, tháng 2 năm 1985)

 




LỜI BÀN :



Ta thấy rằng “PHẬT TRUYỀN TÂM ẤN”, không phải đêm “TÂM" người nầy truyền cho người kia, mà là “KHAI THỊ” để cho chúng ta “NGỘ NHẬP” TỰ TÂM BỔN TÁNH CỦA CHÍNH MÌNH. Cho nên, KINH LĂNG N
GHIÊM nói rằng : “CÓ ÂM-THANH hay KHÔNG CÓ ÂM-THANH, THÌ “TÁNH NGHE” CỦA MÌNH CŨNG KHÔNG SANH KHÔNG DIỆT” là vậy.( Phân biệt cũng không phải ý). TỨC LÀ TÁNH PHÂN BIỆT, KHÔNG PHẢI LÀ TÂM, Ý VÀ THỨC).


KHI THẦY VÀ TRÒ CÓ CÙNG 1 TÂM (NHẤT TÂM) NHƯ CHƯ PHẬT KHÔNG KHÁC BIỆT, THÌ GỌI LÀ PHẬT TRUYỀN TÂM ẤN.

ĐÂY LÀ DÙNG “TÂM ẤN TÂM” CHO NHỮNG NGƯỜI THƯỢNG CĂN, THƯỢNG TRÍ NHƯ VĨNH-GIA HUYỀN-GIÁC ĐẠI-SƯ CHẲNG HẠN.

CÒN TRUYỀN LÀM TỔ, THÌ TRONG ĐỜI CHỈ TRUYỀN CHO 1 NGƯỜI  MÀ THÔI. NHƯ 28 VỊ TỔ Ở ẤN-ĐỘ VÀ 5 VỊ TỔ Ở TRUNG HOA, VỊ SAU CÙNG LÀ TỔ HUỆ-NĂNG, THÌ KHÔNG CÒN “TRUYỀN TÂM ẤN”  VÀ Y-BÁT LÀM TỔ NỮA.

Còn “PHẬT TRUYỀN TÂM-ẤN CHUNG” cho tất cả chúng-sanh trong PHÁP-GIỚI, thì lấy “THẬT TƯỚNG” trong KINH VĂN ĐẠI THỪA (THÁNH NGÔN LƯỢNG) làm TÂM ẤN.

Như “THIỀN TÔNG” BỒ-ĐỀ ĐẠT-MA khuyên tứ chúng, lấy “KINH LĂNG GÌA” làm TÂM ẤN, LỤC-TỔ HUỆ-NĂNG khuyên tứ chúng, lấy “KINH KIM CANG” làm TÂM ẤN…

“TỊNH ĐỘ TÔNG” lấy KINH A DI ĐÀ, KINH VÔ-LƯỢNG-THỌ… làm TÂM ẤN.


“MẬT TÔNG” lấy KINH ĐẠI-NHẬT, KINH LĂNG-NGHÊM… làm 
TÂM ẤN.


“HOA NGHIÊM, PHÁP HOA TÔNG” lấy KINH HOA-NGHIÊM, KINH PHÁP-HOA làm 
TÂM ẤN.


Tóm lại, DẦU TU PHÁP MÔN NÀO, DẦU LÀM VIỆC THIỆN NHỎ NHƯ VI TRẦN, CŨNG HƯỚNG VỀ NHỨT TÂM, TỨC LÀ “NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ”. ĐÂY LÀ PHẬT TRUYỀN “1 ẤN  NHỨT THỪA” CHO TẤT CẢ CHÚNG SANH TRONG PHÁP GIỚI. 




Tuy nhiên, “LÝ” TUY đốn ngộ, “SỰ” PHẢI tiệm tu”. Nghĩa là chúng ta, phải Y theo “NHỨT THỪA” mà tu hành thì mới thành “NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ”.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng:“Nấu cát muốn thành cơm, dầu nấu đến nhiều kiếp cũng chẳng thể thành. Dùng thức tâm phan duyên phân biệt vô thường để tu hành mà muốn được “pháp thân Như Lai thường trụ” cũng đồng với ví dụ trên”.




Nguyện dĩ thử công-đức,

Phổ cập ư nhứt thiết,

Ngã đẳng dữ chúng-sanh,

Giai cộng thành Phật-đạo.

 

( KINH NHẬT TỤNG)

 

 

BÀI SỐ 24

 

Ẩn tu tịnh thấy cảnh am mây

Thanh tuấn thiền sư dáng huệ gầy

Kiếp trước ĐẠO-DUNG là tớ đó

Mà nàng Thiên Thụy hỏi ai đây ?

 

NHƯ Ý : ĐẠO-DUNG thiền sư là một vị cao tăng đời nhà LÝ, đến đời TRẦN vì kiêng tên quý của Trần Hưng-Đạo, người chép THIỀN quyển đổi lại là PHÁP DUNG.

 

Thiên-thụy Công-chúa là một tính nữ hộ pháp thường cúng dường Đạo-Dung thiền sư và sửa sang lại các ngôi  tự viện, truyện THẬT chưa biết ra sao cứ hiểu một cách trừu tượng, như hai câu thơ của Tô Đông-Pha: “ TIỀN KIẾP ĐỨC VÂN KIM NGÃ THỊ, Y HY DO KÝ DIỆU CAO ĐÀI.”  Dịch,  Kiếp trước Đức-vân nay chính Tớ, mơ hồ Còn Nhớ Diệu Cao Đài.



Thiền sư PHÁP DUNG

 

(Đời thứ 15, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

 

 

Sư họ Lê quê ở Bối Lý, là dòng dõi Châu mục Ái châu Lê Lương dưới thời

Đường. Trải mười lăm đời làm Châu mục, gia tộc vinh hiển. Cha là Huyền Nghi hiệu Tăng Phán. Sư hình thái đẹp đẽ, giọng nói trong thanh, đối với kinh văn ngọc kệ không đâu chẳng tán tụng.

 

Thuở bé, Sư theo Tăng thống Khánh Hỷ xuất gia. Khánh Hỷ thấy Sư khen là kỳ đặc, bèn đem pháp ấn trao cho. Từ đó, Sư mặc ý ngao du sơn thủy, tùy duyên hóa đạo.

 

Kế, Sư dừng ở chùa Khai Giác trên ngọn Thứu Phong. Hằng ngày môn đồ tìm đến tham vấn đầy thất.

 

 

Một hôm, đệ tử Pháp-Dung hỏi:

 

- Liễu đạt sắc không, sắc là phàm hay là Thánh?

 

Sư ứng thinh đáp bài kệ:

 

Uổng công thôi hỏi sắc cùng không,

Học đạo gì hơn phỏng Tổ tông.

Ngoài trời tìm tâm thật khó thấy,

Thế gian trồng quế đâu thành tòng.

Đầu lông trùm cả càn khôn thảy,

Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong.

Đại dụng hiện tiền tay nắm vững,

Ai phân phàm Thánh với tây đông.

 

 

(Lao sanh hưu vấn sắc kiêm không,

Học đạo vô như phỏng Tổ tông.

Thiên ngoại mích tâm nan định thể,

Nhân gian thực quế khởi thành tùng.

Càn khôn tận thị mao đầu thượng,

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.

Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ,

Thùy tri phàm Thánh dữ tây đông?)

 

Sau, Sư về núi Ma-ni ở phủ Thanh Hóa, dựng ngôi chùa Hương Nghiêm rồi trụ trì. Niên hiệu Thiên Cảm Chí Bảo thứ nhất (1174) nhằm năm Giáp Ngọ, ngày mùng 5 tháng 2, Sư không bệnh mà tịch.

 

Môn nhân là Đạo Lâm... làm lễ hỏa táng, xây tháp thờ Sư tại bản sơn.

 

 

THÍCH THANH TỪ

THIỀN SƯ VIỆT NAM

 

 

Chuyện tình buồn nhất triều Trần:

Công chúa THIÊN THỤY  Trần Khánh Dư

 

Câu chuyện giữa Công chúa THIÊN THỤY và tướng Trần Khánh-Dư vẫn luôn là 1 trong những mối tình oan trái nhất của lịch sử Việt Nam cho tới ngày hôm nay.

 

Công chúa Thiên Thụy có tên thật là Trần Quỳnh-Trân, con gái Vua Trần Thánh-Tông. Người đời ít biết tới Công chúa Thiên Thụy bởi những thông tin về bà trong sử sách không có nhiều.

 

Tuy nhiên, nếu nói tới 1 trong những mối tình ngang trái nhất triều Trần nói riêng hay của lịch sử Việt Nam nói chung, chắc hẳn người ta không thể bỏ qua chuyện giữa Công chúa Thiên Thụy và Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Trong câu chuyện tình yêu này, cuối cùng Công chúa Thiên Thụy vẫn là người đau khổ nhất.

 

Mối tình say đắm giữa Công-chúa và Tướng-quân

 

Tương truyền, Công chúa Thiên Thụy được Trần Thánh Tông vô cùng yêu mến bởi bà vừa xinh đẹp lại vừa dịu hiền. Ngày ấy, Trần Khánh Dư vì lập công lớn trong lần đầu quân Nguyên Mông xâm lược nước ta vào năm 1257 nên được vua nhận làm con nuôi, phong chức vụ thường chỉ có hoàng tử nắm giữ là Phiêu kỵ Đại tướng quân, đồng thời ban cho ông làm Nhân-Huệ vương. 

Trần Khánh Dư thường xuyên được phép ra vào cung cấm, vậy nên Công chúa Thiên Thụy và ông cũng có không ít dịp gặp mặt nhau. Công chúa cảm mến sự kiêu dũng của vị tướng trẻ, Trần Khánh Dư cũng có ý với bà, chẳng bao lâu sau, 2 người yêu nhau say đắm.

 

Bi kịch khi YÊU 1 người nhưng phải CƯỚI 1 người khác

 

Tưởng chừng chuyện tình công chúa và tướng quân sẽ đi đến 1 cái kết mãn nguyện, nhưng trớ trêu thay, 1 lời dạm hỏi từ Hưng-Đạo vương Trần Quốc-Tuấn đã khiến cho 2 người vĩnh viễn không thể ở bên nhau. Hóa ra, Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn cũng đem lòng say mê Công chúa Thiên Thụy, thế nên Trần Quốc Tuấn mới xin cưới Thiên Thụy cho con trai. Trần Thánh Tông không thể từ chối Hưng Đạo vương nên đành hứa gả con gái.

 

Vậy là Công chúa Thiên Thụy đành bước lên kiệu hoa, về với Hưng Vũ vương. Thế nhưng vì tình yêu quá mãnh liệt, cả Công chúa lẫn Trần Khánh Dư đều không thể dứt tình. Hai người vẫn lén lút gặp nhau và không may, việc này đã bị phát giác. Sự kiện chấn động hoàng cung này không thể che giấu nổi, khi ấy Vua Trần Nhân Tông đã lên nối ngôi, vì tình CHỊ em lại tiếc tướng tài, ông chỉ đành giả vờ ban lệnh đánh chết Nhân Huệ vương, tịch thu gia sản, tước bỏ chức quan rồi lén thả ông về quê.

 

Sau sự kiện ấy, Trần Khánh Dư ngày ngày bán than ở thái ấp của phụ thân, còn Công chúa Thiên Thụy trở về sống trong cung điện riêng. Đến năm 1282, quân Nguyên Mông lại xâm lược lần thứ 2, Vua Trần Nhân Tông đang sầu lo thiếu tướng tài thì thấy Trần Khánh Dư chèo thuyền than đi qua. Mừng rỡ quá, nhà vua vội vàng mời Trần Khánh Dư quay lại triều, phong làm Phó đô tướng quân để chuẩn bị chống giặc.

Trần Khánh Dư theo xa giá của vua về cung. Thế rồi "tình cũ không rủ cũng tới", ông gặp Công chúa Thiên Thụy, 2 người lại quấn quýt bên nhau. Đến nỗi chính sử còn phải ghi: "Rốt cuộc Trần Khánh Dư cũng không sửa được lỗi lầm cũ".

 

Giấy không gói được lửa, câu chuyện của 2 người vẫn bị phát giác, vì để giữ thể diện hoàng gia, Vua Trần Nhân Tông buộc phải khuyên CHị gái XUẤT GIA.

 

(Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)


 

Tống Biệt


NHỰT THĂNG HUYNH

 

Nếu chẳng chung nhau bước một đường,
Xui chi gặp gỡ khiến lòng thương.
Mấy năm mơ mối tình hương lửa,
Đơn bóng rèm thưa lạnh gió sương.
Cũng bởi em yêu người “THOÁT TỤC”,
Nên đời mang nặng khổ đơn phương.
Sầu cho mộng ước đầu dang dở,
Ôm khối tình si luống đoạn trường.

 

( Nguyên sau ngày Cố HÒA THƯỢNG đi rồi, mấy tháng sau đó, do vì nhớ em nên ANH NĂM của ngài mới soạn lại các áo quần, sách vở, đem cất để làm kỷ niệm. Lúc mở cặp táp ra thì trong đó chỉ có ba bốn cuốn tập và một vài quyển sách học khi ngài thi bằng Thành Chung còn sót lại mà thôi.

Vì nhớ em và cũng vô tình nên anh năm ngài lật ra xem, ban đầu cũng không lưu ý gì cho mấy nên chỉ xem sơ qua mà thôi. Mấy lần sau đó nhân có thời giờ rảnh rang nên mới xem kỹ và ngắm lại các nét chữ viết của em mình để “TÌM XEM KỶ NIỆM” thì bỗng trong quyển vở học của ngài rớt ra một phong thư, mà phong thư đó vẫn CÒN niêm kín chớ chưa có mở. Bìa ngoài như có đề tên người gởi là Tạ Thị Kim-Loan.)

 

( VÔ NHẤT ĐẠI SƯ THÍCH THIỀN TÂM MỘT CAO TĂNG CẬN ĐẠI)


 

Tiết 7

Muốn Sớm Thoát Khổ, Nên Tu Tịnh Độ

 

Nhiều vị học Phật, vì ưa chuộng huyền lý cao siêu, cho môn Niệm Phật là của ông già bà cả, hạng căn cơ thấp kém. Nhưng họ đâu biết Tịnh Độ là cửa mầu thâm diệu đi sâu vào PHẬT TÁNH, là con thuyền chí bảo để mau thoát khỏi luân hồi.

Cho nên có những bậc thượng căn vì chưa nhận thức Tịnh Độ, mà mãi bị trầm trệ trong nẻo mê tân. Và có kẻ căn tánh chỉ tầm thường, nhưng do tu Tịnh Độ mà sớm bước lên đường giải thoát. Xin thuật ra đây đôi chuyện để chư học giả so sánh.

 

Đời Đường bên Trung Hoa, nơi chùa Hương Sơn đất Lạc Dương có sư Thích Giám Không. Sư nguyên tục tánh họ Tề, người ở Ngô Quận. Thuở còn nhỏ ông nghèo khổ, tuy học hành siêng năng nhưng ít ghi nhớ. Lớn lên, ưa làm thi văn song chỉ tầm thường. Ông hay đi lại vùng Ngô, Sở yết kiến hàng hầu bá, nhưng không được sự giúp đỡ bao nhiêu. Khi có tiền đầy xâu thì sanh đau yếu, tiền hết bịnh mới lành.

 

Đầu niên hiệu Nguyên Hòa, ông dạo chơi xứ Tiền Đường, gặp năm mất mùa, nghĩ đến chùa Thiên Trúc để cầu thực. Nhưng vừa đi tới phía tây Cô Sơn Tự, ông đói quá không thể tiến bước nổi, liền lại ngồi bên bờ suối tuyết, rơi lệ ngâm vài câu bi phẫn. Thoạt có vị Phạn tăng theo dòng suối đến ngồi nhìn ông mỉm cười hỏi:

 

“Pháp Sư đã nếm đủ hương vị lữ du chưa?”

Ông đáp:

 “Hương vị lữ du có thể gọi đã nếm đủ, nhưng bỉ nhơn tục danh là Quân Phòng, đã từng làm pháp sư đâu?”

Phạn tăng nói:

“Ông không nhớ lúc giảng kinh Pháp Hoa ở chùa Đông Đức hay sao?”

Đáp: “Tôi từ khi sanh thân đến nay đã bốn mươi lăm tuổi, hằng bàng hoàng nơi vùng Ngô, Sở, chưa từng để bước đến kinh đô, đâu lại có chuyện giảng kinh ở miền Lạc Trung như thế?”

Phạn tăng bảo:

“Chắc ông bị lửa đói thiêu đốt, nên quên cả việc xưa rồi!”

 

Nói xong, liền lần trong đãy lấy ra một QUẢ TÁO lớn ước bằng nắm tay, trao cho và bảo:

“Quả táo này sản xuất ở nước của ta, bậc thượng trí ăn vào biết rõ việc quá khứ vị lai; người hạ căn cũng có thể nhớ được chuyện kiếp trước”.

Ông tiếp lấy quả táo ăn xong, vốc nước suối uống, thoạt mờ mệt muốn ngủ, liền tựa đầu, gối vào đá mà nằm. Giây phút tỉnh dậy, nhớ tiền thân làm pháp sư giảng kinh, cùng những bạn đồng tu, rõ rệt như việc ngày hôm qua, nhân rơi lệ hỏi rằng:

“Chấn Hòa Thượng bây giờ ở đâu?”

Phạn tăng đáp: “Công chuyên tinh chưa tới mức, nên chuyển sanh làm vị tăng ở đất Tây Thục, nay cũng đã dứt được vọng duyên”.

Lại hỏi: “Thần thượng nhơn và Ngộ pháp sư hiện thời ra sao?”

Đáp: “Thần thượng nhơn túc duyên trả chưa xong. Còn Ngộ pháp sư bởi đứng trước tượng đá Chùa Hương Sơn phát nguyện giỡn:

“Nếu kiếp này tu không chứng đạo, thân sau nguyện là bậc quý thần”, nên hiện đã sanh làm Đại Tướng.

 

Trong năm người bạn vân thủy khi xưa, duy ta được giải thoát, ba vị kia thì như thế, riêng ngươi còn đói khổ nơi đây!”

Ông thương khóc nói:

“Tôi kiếp trước hơn bốn mươi năm, ngày chỉ ăn một bữa, thân duy đắp một y, việc phế tục quyết dứt căn nguyên, cớ sao còn kém phước để đến nỗi hôm nay phải ra người đói khổ?”

Phạn tăng đáp: “Khi xưa ông ngồi trên pháp tòa hay nói nhiều việc dị đoan, khiến cho thính chúng sanh lòng nghi hoặc, lại giới hạnh còn có chỗ kém khuyết, nên phải bị báo ứng như hôm nay”.

Nói đoạn, lấy trong bát ra một chiếc gương hai bề đều trong suốt, bảo rằng:

“Việc đã qua ta không làm sao hơn được, nhưng ông muốn biết số phận sang, hèn, thọ, yểu về tương lai, cho đến việc đạo pháp hưng, suy, nên nhìn vào sẽ rõ”. Ông tiếp lấy gương xem hồi lâu rồi giao lại tạ rằng:

“Sự báo ứng, lẽ vinh khô, nhờ ơn đức của Ngài, nay đã biết được”. Phạn tăng cầm gương cất vào bát, nắm tay ông cùng đi, độ mười bước liền biến mất.

 

Đêm ấy, ông vào chùa Linh Ẩn xin xuất gia, hiệu là Giám Không, sau khi thọ giới Cụ Túc liền đi du phương tu hành, sự khổ tiết, cao hạnh ai cũng khen ngợi. Về sau Giám Không thiền sư gặp ông Liễu Sính ở chùa Thiên Trúc, tự trần thuật tiền nhân và bảo:

 

“Tôi sống được bảy mươi bảy, tăng lạp ba mươi hai, nay chỉ còn chín năm nữa là thọ số mãn. Sau khi tôi tịch, Phật pháp còn được như ngày hôm nay chăng?”.

Sính nghe nói lạ, gạn hỏi. Sư không đáp, chỉ đòi bút viết mấy hàng nơi vách bắc lầu Tàng Kinh như sau:

 

“Hưng hạt cát, suy cát sông Hằng. Thỏ đã bị lưới, chó vồ săn. Trâu cọp giao tranh sừng với răng. Ánh hoa đàm vẫn sáng nghìn năm”.

 

Đây là lời tiên tri của Sư. Câu trước nói về đạo pháp sẽ suy. Câu thứ hai chỉ cho sự phá đạo rất tàn khốc. Câu thứ ba ghi rõ thời gian hủy pháp ở vào năm Ất Sửu tiếp qua Bính Dần. Câu sau cùng nói: Tuy nhiên Phật pháp vẫn còn, ánh đạo không bị hủy diệt. Lời sấm trên ứng vào việc phá Phật pháp của Đường Võ Tông. Ông vua này đã ra lịnh hủy hoại bốn mươi bảy ngàn ngôi chùa, ép buộc hơn hai mươi vạn bảy ngàn tăng ni hoàn tục. (Trích Cao Tăng truyện, thiên Cảm Thông, tập 3)

 

Đời Nguyên bên Trung Hoa, vào năm Canh Ngọ niên hiệu Chí Thuận ở vùng Triết Tây bị thất mùa liên tiếp. Trong thành Hàng Châu, dân chúng đói chết nằm ngổn ngang đầy đường. Mỗi buổi sáng, quan phòng chánh mướn người khiêng tử thi chở đem bỏ xuống hang núi, sau tháp Thái Hòa. Trong số tử thi có thây một bà lão hơn mười hôm không hôi thúi, ngày nào cũng tự trồi lên nằm trên các thây chết khác.

 

Chúng lấy làm lạ, giòng giây kéo đem lên, soát trong người thấy có túi vải đựng ba bức đồ niệm công cứ A Di Đà Phật. Việc này truyền đến quan Hữu Tư, Ngài cho mua quan quách tẩn liệm và đem ra thiêu hóa. Khi củi đốt lên, trong khói lửa hiện ra tượng Phật, Bồ Tát, ánh sáng rực rỡ. Do nhân duyên đó, rất nhiều người phát tâm niệm Phật  (Trích Sơn Am Tạp Lục)

 

Xem sự tích trên, ta thấy như ngài Giám-Không kiếp trước từng làm giảng chủ; phù tục đã dứt căn nguyên, tu trì cũng nhiều tinh khổ, nhưng vì chưa chứng quả lại còn chút tỳ vết, nên phải chuyển thân làm kẻ sĩ đói khát khốn cùng. Kiếp xưa năm bạn đồng tu, chỉ một mình Phạn tăng được giải thoát.

 

( Niệm Phật Thập Yếu)

 

 

BÀI SỐ 25

 

Ẩn tu lại thấy ở am mây

LÂU TRƯỢNG Tay cầm kiếm qủy thần

Mật phái Lạt-ma y mão lạ

Quê xưa trúc tạng tợ xa gần

 

NHƯ Ý : LÂU-TRƯỢNG nói cho đủ là ĐỘC LÂU-TRƯỢNG , một pháp khí của Phật-giáo, chót gậy có chạm hình đầu lâu dùng để sai khiến, hàng phục quỷ thần.


 

Bạch cốt hoàn giao thổ vị mai
Hành nhân tu pháp thiết cung đài
Luyện thành Quỷ-thần tuân hiệu lệnh
Độc lâu trượng thủ bi nguyện hoài.


 

  Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp

    Thứ Hai Mươi Tám

 

   Y Hê Di Hê [36]

   Án-- độ nẳng, phạ nhựt-ra xá.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn sai khiến tất cả Quỷ-thần, nên cầu nơi Tay cầm

                               cây Gậy-Đầu-Lâu.”

 

Thần-chú rằng: Y Hê Di Hê [36]

Chơn-ngôn rằng: Án-- độ nẳng, phạ nhựt-ra .



Kệ tụng:

Bạch cốt hoàn giao thổ vị mai
Hành nhân tu pháp thiết cung đài
Luyện thành Quỷ-thần tuân hiệu lệnh
Độc lâu trượng thủ bi nguyện hoài.

Xương khô bỏ trên đất lâu đời không ai chôn cất,
Người tu lập một cái bàn thờ cúng dường QỦY THẦN trước TƯỢNG THIÊN NHÃN.
Bảy ngày chí tâm tụng THỦ NHÃN, Qủy-thần sẽ hiện thân theo lệnh triệu.
Phát BỒ-ĐỀ-TÂM, tu theo người trì ĐỘC LÂU-TRƯỢNG THỦ NHÃN ẤN PHÁP NẦY.



Lời bàn:

Thờ cúng QỦY THẦN là TÂM ĐẠI-BI của Bồ-tát  vì muốn cứu độ họ, còn nương theo PHẬT, PHÁP và TĂNG để tu học là một chuyện khác. Cho nên, muốn thờ thì phải để trước TƯỢNG  của BỒ-TÁT QUÁN-THẾ-ÂM có THIÊN THỦ THIÊN NHÃN  và  CHÍ TÂM TỤNG THỦ NHÃN NẦY TRONG 7 NGÀY LIÊN TỤC, để họ nương theo hạnh của Bồ-tát mà tu học. Cũng như các CHÙA THỜ VONG LINH để trước TƯỢNG PHẬT hoặc TƯỢNG BỒ-TÁT vậy.


Thật ra, ngay cả PHẬT, BỒ-TÁT  CHÚNG TA CŨNG KHÔNG BỊ LỆ THUỘC, VÌ NẾU BỊ LỆ THUỘC THÌ  KHÔNG THỂ ĐẠT ĐƯỢC CHƠN LÝ , KHÔNG THỂ NÀO THÀNH PHẬT và BỒ TÁT, NÓI CHI LÀ LỆ THUỘC QỦY THẦN. KINH KIM CANG nói :CHÁNH PHÁP CÒN XẢ HÀ HUỐNG PHI PHÁP ?



KINH VĂN:

 

Này thiện nam tử! Nếu người nào muốn sai khiến quỷ, thì tìm một chiếc xương sọ của kẻ qua đời, đem về rửa sạch. Kế đó lập đàn tràng để chiếc xương ấy trước tượng Thiên Nhãnchí tâm tụng chú, mỗi ngày đều dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống cúng tế vong linhđúng bảy ngày như thế, quỷ sẽ hiện thân, tùy theo mạng lịnh của người ấy sai bảo.

 


Ngày xưa, tìm một chiếc xương sọ của kẻ qua đời đã lâu rất là dẽ dàng, chỉ cần  tới nơi rừng vắng hay giữa đường, tìm một cái mà mình thích đem  về rửa sạch là được, không có vấn đề gì phải nói, nên BỒ-TÁT QUÁN-THẾ-ÂM DẠY CÁCH NÀY TRONG KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ-RA-NI.

TRONG “KINH ĐẠI BÁO PHỤ MẪU TRỌNG ÂN” có nói vấn đề này như sau:




Bây giờ, Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng Nam Phương tiến hành
Ðến giữa đường, rành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời




Nhưng, nếu ở trong thời đại ngày nay,  mà tìm một cái  xương sọ của người đã qua đời thì rất khó, lại trái với văn hóa đạo đức hiện hành, vì họ muốn giữ cho được toàn thân,  NÊN THƯỜNG ĐƯỢC CHÔN CẤT TỬ TẾ, nếu Qúy-vị lén lấy đầu của người thân họ, họ sẽ lấy đầu của Qúy-vị lại, hoặc kiện Qúy-vị ra pháp luật, Qúy-vị sẽ  bị tù tội.


Phật tử tin rằng, nếu Bồ tát ở trong thời này sẽ không dạy chúng ta tu theo cách này, mà sẽ tìm một cách khác để chúng ta tu thủ nhãn này.


Đây là bổn nguyện của Bồ tát, vì muốn cứu độ  tất cả chúng sanh sẽ thành PHẬT ĐẠO, đặc biệt là qủy, thần. Nhưng muốn độ qủy, thần thì phải cùng loại với họ thì mới độ được. Đây cũng có thể gọi là hoá thân của BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM để dạy tất cả qủy thần khác tu đạo.

Tại sao? Vì Bồ-tát do trì Chú đại bi và 42 thủ nhãn mà thành CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI. Cho nên, Qủy thần NGHE TRÌ  “Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp” TRONG 7 NGÀY LIÊN TỤC,  thì sẽ thành “PHẬT ĐẠO” như ngài không khác.

 

Có lẽ, đây là  chổ thần diệu nhất TRONG  42 THỦ NHÃN của KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ-RA-NI,  là có thể  Ngăn chặn tất cả việc ác không cho thành tựu, còn tất cả thiện căn công đức thì sớm được thành tựu viên mãn, lại làm cho thân tâm của QỦY THẦN thường an vui thanh tịnh.




KINH VĂN:

Tụng trì thần chú Đại Bi (Y Hê Di Hê…) tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi tâm đà ra ni, duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành.



Lại nữa, trong KINH LĂNG NGHIÊM dạy, không cần lập đàn thờ cúng, chỉ trì CHÚ LĂNG NGHIÊMthì công đức cũng như người lập đàn thờ cúng.

 

 

KINH VĂN:

 

Dù có mặc y phục cũ rách không sạch, thì việc đi, việc đứng thảy đồng như thanh tịnh; dù chẳng lập đàn, chẳng vào đạo tràng, cũng chẳng hành đạo mà trì tụng chú này, thì công đức cũng như vào đàn, hành đạo, chẳng có khác gì.

 


Giảng giải:

 


Dù có mặc y phục cũ rách không sạch, thì việc đi, việc đứng. Trong đoạn trước, nói về đạo tràng, Đức Phật có dạy phải mặc y mới, nhưng ở đây Ngài lại bảo điều đó không cần thiết. Nếu không có y mới thì cứ mặc y cũ. Khi quý vị thực hành tu tập trong suốt ba tuần, quý vị cũng sẽ trở nên trong sạch. Bởi vì năng lực thần chú sẽ làm cho y phục mới hoặc cũ đều được trong sạch. Quý vị sẽ ngạc nhiên – vậy tại sao Phật lại bảo phải mặc y mới khi vào đàn. 


Thực sự, chúng ta mặc y mới là thể hiện lòng tôn kính, sự tôn kính tuyệt đối và rất đỗi trong sạch. Dù chẳng lập đàn, chẳng vào đạo tràng. Quý vị không cần thiết phải vào đạo tràng, việc tu tập có thể bất kỳ nơi đâu, bất kỳ lúc nào. 




Cho dù cũng chẳng hành đạo, ngay cả không tu dưỡng, mà trì tụng chú nàyđấy là tất cả những gì mọi người có thể tu tập, thì công đức cũng như vào đàn, hành đạo, chẳng có khác gì. Nếu quý vị tụng chú Lăng Nghiêm thì công đức của quý vị chẳng khác gì vào đàn tràng hành đạo vậy. Thực sự, cái đức của thần chú này là hết sức phi thường.

 

(KINH LĂNG NGHIÊM  HT. TUYÊN HÓA lược giảng)

 


Tóm lại, Qúy-vị chỉ trì tụng ĐỘC-LÂU-TRƯỢNG THỦ NHÃN ẤN PHÁP này mà thôi, trong vòng 7 ngày trước TƯỢNG CỦA BỒ-TÁT QUÁN-THẾ-ÂM CÓ NGÀN TAY NGÀN MẮT như sau:-


 

Nam-mô Ðại-bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát

(3 lần)

 

Thiên-Thủ Thiên-Nhãn Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Quảng-Ðại

Viên-Mãn Vô Ngại Ðại-Bi Tâm Ðà-Ra-Ni

(1 lần)

 

 

 Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp

   Thứ Hai Mươi Tám 

 

(1 lần)

 

   Y Hê Di Hê [36]

    Án --độ nẳng, phạ nhựt-ra xá.

 

 (108 lần)

 



Rồi  trong 1 ngày đêm BẤT CỨ LÚC NÀO Ở ĐÂU CÓ THỂ, LIỀN NHIẾP TÂM TỤNG THỦ NHÃN NẦY , liên tục như vậy trong vòng 7 ngày, để cầu mau sớm thành tựu được ĐỘC-LÂU-TRƯỢNG THỦ NHÃN ẤN PHÁP, nếu thành tựu thì QỦY-THẦN SẼ HIỆN THÂN, nên BẤT CỨ TÂM NGUYỆN GÌ CHƯA ĐƯỢC THÀNH TỰU, QỦY-THẦN SẼ GIÚP CHO QÚY-VỊ ĐƯỢC THÀNH TỰU VIÊN MÃN.

SỰ THẬT, THÌ QỦY THẦN TRONG CHÚ LĂNG NGHIÊM VÀ CHÚ ĐẠI BI ĐỀU LÀ PHẬT, BỒ TÁT HÓA HIỆN RA, ĐỂ CỨU ĐỘ QỦY THẦN PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU THÀNH PHẬT ĐẠO.

ĐÂY MỚI THẬT LÀ TÂM BÌNH-ĐẲNG CỨU KHỔ BAN VUI CỦA PHẬT, BỒ-TÁT VẬY.

 

 

36. Y hê y hê

 

Y hê y hê là Độc lâu trượng ấn thủ nhãn ấn pháp. Hán dịch là “thuận giáo”.

 

Nghĩa là một khi quí vị nhờ ai làm việc gì đó, họ đều ưng thuận. Khi quí vị dùng chánh pháp để giáo hoá, họ đều vâng lời. Câu chú này còn dịch là “tâm đáo”. Nghĩa là trong tâm hành giả ước nguyện điều gì, nhờ năng lực của chú này đều được thành tựu.

 

Câu chú này khiến cho Ma – hê – thủ – la vương, là một Thiên ma ngoại đạo thường cho rằng mình là vĩ đại nhất, cũng phải cung kính chắp tay đến nghe lời chỉ giáo khi nghe có người trị tụng thần chú này, không dám trái nghịch.

 

Thế nên khi quí vị trì niệm câu Y hê Y hê, thì Ma – hê – thủ – la vương liền đến, bất kỳ tâm nguyện của hành giả như thế nào, vị này liền thi hành ngay, đáp ứng đúng như sở nguyện của người trì chú.

 

 

ĐẠI BI CHÚ

Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa

Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU

CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)

 

 

36) Y Hê Di Hê

 

Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúi vị trì tụng câu chú Y Hê Di Hê, thì “NGÀI MA-HÊ-THỦ-LA THIÊN-VƯƠNG” sẽ  “XUẤT HIỆN”. Đây là đấng đã thành tựu “ĐỘC-LÂU-TRƯỢNG THỦ NHÃN ẤN PHÁP.

 

Cho nên, có khả năng biết rõ “CĂN TÁNH” CỦA QÚI VỊ, MÀ LẦN LƯỢC CHỈ BÀY “GIÁO PHÁP”, ĐƯA QÚI VỊ VÀO CẢNH GIỚI “NIẾT-BÀN THƯỜNG TRỤ” NHƯ CHƯ PHẬT VẬY. 

 


NGÀI MA-HÊ-THỦ-LA THIÊN-VƯƠNG

 

 

( Thường TRÌ ĐỘC-LÂU-TRƯỢNG THỦ NHÃN ẤN PHÁP, để ĐƯA QÚI VỊ VÀO CẢNH GIỚI “NIẾT-BÀN THƯỜNG TRỤ” NHƯ CHƯ PHẬT VẬY. 

Và ngược lại nếu “QÚI VỊ” Thường TRÌ ĐỘC-LÂU-TRƯỢNG THỦ NHÃN ẤN PHÁP, thì Qúi vị là “HÓA THÂN” của NGÀI MA-HÊ-THỦ-LA THIÊN-VƯƠNG, nghĩa là cũng đạt được như Ngài vậy.)

 

Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG ĐỘC-LÂU-TRƯỢNG THỦ NHÃN ẤN PHÁP, thì NGÀI MA-HÊ-THỦ-LA THIÊN-VƯƠNG sẽ “XUẤT HIỆN” với HÌNH TƯỚNG  vừa “HUNG BẠO” vừa “UY MÃNH”, để hàng phục tất cả “TÀ MA VỌNG LƯỢNG”.

NGÀI LẠI PHÁT NGUYỆN ĐỘ TẤT CẢ CHÚNG SANH ĐỀU ĐƯỢC LÊN BỜ “GIẢI THOÁT AN VUI”, với  “THỜI-GIAN” KHÔNG CÙNG TẬN cũng như BỒ TÁT PHỔ HIỀN trong KINH HOA NGHIÊM vậy.

 

Kệ tụng :

 

“MA-HÊ-THỦ-LA” mãnh hựu hung

Thưởng thiện phạt ác kiến kỳ công

Phổ độ quần mê đăng bỉ ngạn

Hóa lợi hữu tình vô thủy chung

 

   

KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”

  HT. THIỀN-TÂM Dịch ra VIỆT-VĂN

 

  KỆ TỤNG

  HT. TUYÊN-HÓA Kệ-tụng

 

Comments

Popular posts from this blog