CHÁNH
VĂN
6.- Ẩn tu bền chí giữ công phu
Ba cõi không an lửa ngục tù
!
Ngũ-dục, Hoàng-lương say
gối mộng
Kiếp người dường một thoáng
phù du !
7.- Ẩn tu riêng chạnh nỗi riêng
mình
Túc trái gây nên, mối
bất-bình
Tích phước tu-hành rồi tạo
nghiệp
Cánh bèo trôi giạt biển phù
sinh.
8.- Ẩn tu tưởng lại quả đời nay
Bao lớp gian truân nỗi đoạ
đày !
Ẩn nhẫn trả xong tròn
nghiệp trước
Dấu hồng chuyện cũ tuyết mờ
bay !
9.- Ẩn tu nhớ đến đức sanh
thành
Lắm lúc vì con chẳng tạo
lành
Con lớn Mẹ Cha oằn gánh
nghiệp
Bảo châu đền đáp cũng mong
manh !
10.- Ẩn tu nguyện trả nghĩa song
đường
Hồi hướng công phu mỗi khoá
thường
Lại khuyến nghiêm-từ tâm
đạo phát
Nương thuyền Phật huệ đến
Tây-phương.
GIẢNG GIẢI
Ẩn tu bền chí giữ công phu
Ba cõi không an lửa ngục tù
!
Ngũ-dục, Hoàng-lương say
gối mộng
Kiếp người dường một thoáng phù du !
NHƯ Ý :
KINH PHÁP HOA nói : “ TAM GIỚI VÔ AN, DO NHƯ HỎA TRẠCH”. Dịch, ba
cõi không an dường như nhà lửa.
NHÀ LỬA có nghĩa là ngoài lửa ĐỊA
NGỤC còn có lửa THAM, SÂN, SI và tất cả PHIỀN NÃO, lúc nào cũng thiêu đốt THÂN
TÂM của chúng sanh.
NGỤC TÙ chỉ cho sự luân hồi không ra khỏi TAM
GIỚI.
Như tại
sao chúng ta phải ra khỏi nhà tù trong TAM GIỚI?
Vì ở trong nhà tù tam giới, qủa thật chúng ta
đã chịu sự đau khổ trong trăm, ngàn muôn ức A-TĂNG-KỲ
KIẾP không biết khi nào mới ra khỏi được? Thật là buồn thay !!!
Ba cõi không an dường
hỏa-trạch
Đâu miền chân-lạc khỏi
tang thương?
Người vô thường,
Cảnh vô thường!
Khuyên gọi cùng nhau
tỉnh mộng
Quay về bể giác thanh
lương.
Khởi lòng BI TRÍ
Nguyện độ mười phương.
Ba tăng-kỳ kiếp tu muôn
hạnh.
Bền lòng không thối
chuyển
Cầu
ngôi vị Pháp-Vương!
BA A-TĂNG-KỲ KIẾP = 3 X (1027 X 1.280 triệu
năm )
A-TĂNG-KỲ =1027 = 10 lũy thừa 27 = 1.000.000.000.000.000.000.000.000.000
KIẾP thì theo thông lệ, nếu trong kinh không nói rõ là
TIỂU kiếp hay TRUNG kiếp, thì là “ĐẠI KIẾP”.
1 tiểu kiếp = 16 triệu năm = 16.000.000
1 trung kiếp = 20 tiểu kiếp = 320 triệu năm = 320.000.000
1 đại kiếp = 4 trung kiếp = 1.280 triệu
năm = 1.280.000.000
Ba tăng kỳ kiếp tu muôn hạnh là chỉ cho Bồ-tát BẤT THOÁI
CHUYỂN, trải qua năm mươi lăm (55) ngôi vị như sau:
1. Thập tín (10)
2. Thập trụ (10)
3. Thập hạnh (10)
4. Thập hồi hướng (10)
5. Tứ gia hạnh (4) : Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế
đệ nhất
6. Thập địa (10)
7. Đẳng giác (1)
Nếu tính lúc đầu
là CÀN HUỆ ĐỊA (1) và sau cùng là DIỆU GIÁC (1)
THÌ PHẢI LÀ NĂM MƯƠI BẢY (57) NGÔI VỊ MỚI THÀNH VỊ PHÁP VƯƠNG,
TỨC LÀ THÀNH PHẬT.
Cũng như, một
vị TU-ĐÀ-HOÀN CHỈ CÓ 7 ĐỜI SANH TỬ THÌ THÀNH A-LA-HÁN,
KHÔNG CÓ ĐỜI SANH TỬ THỨ 8. VÌ SAO? VÌ KHÔNG BỊ SẮC, THANH, HƯƠNG, VỊ, XÚC
VÀ PHÁP CHI PHỐI NỮA, NÊN KHÔNG BỊ THỐI CHUYỂN.
NGŨ DỤC là 5 điều dục nhiễm lớn của chúng sanh,
gồm TÀI, SẮC, DANH, THỰC, THÙY. (Tiền-tài, Sắc-đẹp, Danh-vọng, Ăn-uống, Ngủ-nghỉ)
HOÀNG LƯƠNG, một thư sinh thi rớt về nằm ngủ
trong quán, mộng thấy mình đậu TRẠNG NGUYÊN cưới công nương, làm đến TỂ TƯỚNG
hưởng NGŨ DỤC, đầy đủ phú quý vinh hoa.
Về sau bị vua PHÁN phải lâm nạn mất chức, TÙ
ĐÀY. Thương khóc Giật mình tỉnh dậy thì chủ quán nấu nồi KÊ VÀNG là hạt bo bo
vừa chín tới.
Tóm lại, vì tham ngũ dục mà nhân sanh mê trong
GIẤC MỘNG ĐỜI, không biết thức tỉnh tu hành.
HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM
PHÁT NGUYỆN 1 ĐỜI VÃNG SANH
CHỨNG BẤT THOÁI-CHUYỂN LÀM TÔNG
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-DI.
TỈNH GIẤC MỘNG ĐỜI
I
DẪN NHẬP
Non xanh lặng lẽ tợ ngùi
than !
Kiếp tạm phù du, chớp điện quang.
Người theo nhau mất, non còn đó
Kết cuộc Nam Kha giấc mộng vàng !
II
MỘNG NAM KHA
Nam Kha mộng
Mộng Nam Kha!
Nam Kha mộng tưởng biết bao là !
Quyến thuộc của tiền đều bỏ lại
Tay không theo nghiệp đến Diêm La !
Từ đây tỉnh
Chớ dần dà !
Niệm Phật về Tây biển ái qua.
III
MỘNG XUÂN TIÊU
Xuân tiêu mộng
Mộng Xuân tiêu !
Xuân tiêu mơ mộng tối mai chiều !
Ngày trước tuổi thơ dong ngựa trúc
Hôm nay mái tóc điểm sương tiêu.
Từ đây tỉnh
Chớ mê nhiều !
Một kiếp thăng trầm chỉ bấy nhiêu !
IV
MỘNG DƯƠNG ĐÀI
Dương đài mộng
Mộng Dương đài !
Mộng trần ai nghĩ thoát trần ai ?
Kẻ chết kinh hoàng theo tội nghiệp
Người thân mờ mệt luống bi ai !
Từ đây tỉnh
Gác sầu hoài.
Gặp nhau âu chỉ mộng Dương đài !
V
MỘNG TRANG CHU
Trang Chu mộng
Mộng Trang Chu !
Trang Chu mộng hóa bướm ngao du !
Đậu tưởng Trang Chu thành cái bướm
Ai hay cái bướm thật Trang Chu !
Từ đây tỉnh
Chớ mê cầu!
Mưa qua nắng lại Hạ rồi Thu.
VI
MỘNG HOÀNG LƯƠNG
Hoàng lương mộng
Mộng Hoàng lương !
Một giấc Hoàng lương mộng đẹp dường !
Áo tím đai vàng mờ bóng cũ
Mồ xanh cỏ ấy bạc màu sương !
Từ đây tỉnh
Chớ lo lường !
Phú quý công danh cũng mộng trường !
VII
MỘNG VU SƠN
Vu sơn mộng
Mộng Vu sơn!
Vu sơn mơ mộng nặng THƯƠNG hờn !
Vợ yêu con quý rồi ly biệt
Phách lạc hồn mê cách cõi dương !
Từ đây tỉnh
Gắng tìm đường.
Niệm Phật về Tây thoát khổ ương !
KIM QUANG TIỀN
Cư sĩ Kim Quang Tiền,
người đời Thanh, gốc Mãn Châu, xuất thân trong hàng QUÂN NGŨ. Ông ưa làm thiện,
hằng răn cấm các binh sĩ:
1. Không được chém giết
bừa bãi.
2. Không được hiếp dâm phụ nữ.
3. Không được cướp một món đồ vật của ai.
4. Không được đốt nhà của dân chúng.
Nếu phạm pháp, sẽ theo
quân luật nghiêm trị.
Vợ ông là Cũng thị, biết
chữ nghĩa, thường thích tụng kinh.
Năm Thuận Trị thứ mười
đi bình định tỉnh Phước Kiến, đường ngang qua Hàng Châu, cư sĩ nghe biết Cụ Đức
Hòa thượng đang thuyết pháp tại chùa Linh Ẩn. Hai vợ chồng liền đến tham bái,
được Hòa thượng khai thị về pháp môn Tịnh độ. Từ đó cả hai đồng tinh tấn niệm
Phật và đều có chỗ tâm đắc.
Mùa hạ năm Thuận Trị thứ
mười hai, sau khi từ miền Bẳc trở về tạm ngụ bên sông Tiền Đường, Kim Quang
Tiền bỗng nhiễm bịnh. Cũng thị định sai người tìm rước lương y, ông ngăn lại
bảo:
“Thuở trước ta cùng phu
nhơn đã đi tham phỏng ở Linh Ẩn. Nay nhân đây chỉ muốn chuyển thân về cõi an
lành, cần chi dùng thuốc!”
Cũng thị cả cười nói:
“Chẳng dè tướng công
cũng được đến ĐỊA VỊ ấy, thật là hân hạnh!”
Liền sai sắm hai chiếc
quan tài, rồi bảo:
“Thiếp cũng sẽ đi, nhưng
xin chậm lại để lo liệu hậu sự cho tướng công mà thôi!”
Quang Tiền nghe nói,
liền chắp tay niệm Phật mà vãng sanh.
Cũng thị sai gia nhơn
đem lễ vật đến Linh Ẩn, cầu xin thắp hương đèn cúng Phật, cùng trai tăng tu sám
để truy tiến cho hai vợ chồng.
Đến bảy hôm lễ xong, phu
nhơn tuyệt ẩm thực, ngày đêm chẳng nằm, chỉ một lòng niệm Phật. Lại trải qua
bảy hôm nữa, vào lúc xế, phu nhơn tựa quan tài nhắm mắt dưỡng thần, giây phút
tỉnh lại bảo:
“Thời khắc đã đến!” Liền
ngồi ngay niệm Phật mà hóa.
LỜI BÌNH: – Soạn giả cố ý sắp HÀNG QUAN LIÊU được vãng sanh ở
trước, vì so thường dân, bậc quan quyền vào đạo rất khó. Phần đông, người đời
gấp về công danh, lấy sự học hành đỗ đạt làm trước. Và kẻ đã bước vào cửa quyền
quý, đa số lại cho sự thanh tu là khổ. Nếu chẳng phải những người kiếp xưa đã
trồng sẵn căn lành, giữ chắc tâm nguyện giải thoát, thì mấy ai trước mùi chung
đỉnh mà biết quay đầu?
Như các vị trên đây, ở
cảnh trần lao, hướng về tịnh quốc, há chẳng đáng gọi là HIỆN THÂN TỂ
QUAN MÀ THUYẾT PHÁP đó ư! Xét lại các vị:
Liễu Tử Hậu, Bạch Lạc
Thiên, Tô Đông Pha, Triệu Tử Ngang, tuy cũng quy y tu niệm, song khi lâm chung,
CHẲNG THẤY ĐIỀM LÀNH.
Ấy cũng bởi: TRÍ
NĂNG LẠC THEO NHIỀU MÔN, căn bịnh sanh nơi niệm ái. Tập quán của tài tử văn
nhơn từ xưa vẫn thế, khi vô thường chợt đến, khó nỗi cầu may! Bậc quân tử đời
sau, cần nên biết răn dè vậy!
BÀI SỐ 7
Ẩn tu riêng chạnh nỗi riêng
mình
Túc trái gây nên, mối
bất-bình
Tích phước tu-hành rồi tạo
nghiệp
Cánh bèo trôi giạt biển phù
sinh.
NHƯ Ý : Chư THIỀN ĐỨC của Trung Hoa và Nhật Bản đều nói, các
bậc chư hầu khanh Tướng, Anh Tuấn Tài Năng hầu hết là từ cửa TAM BẢO mà
thác Sanh, bởi tu hành Tất có PHƯỚC HUỆ hưởng quả quyền quý cao sang, trong
hoàn cảnh đó dễ đam mê tạo nghiệp, gây mối oan trái bất bình, rồi bị Luân Hồi
khổ lụy, nên nếu không được GIẢI THOÁT thì sự tu của ĐỜI NÀY là mối thù của
KIẾP THỨ 3.
Tiên đức hằng răn nhắc:
"Nếu tu mà không
chuyên cầu giải thoát, thì sự tu nơi kiếp này là MỐI THÙ TRONG KIẾP THỨ
BA."
Sở dĩ có việc ấy, bởi
kiếp thứ nhứt lo kham khổ tu hành, nên chuyển sanh qua kiếp thứ nhì được hưởng
quả báo thông minh giàu sang quyền thế. Trong kiếp thứ hai này, do giàu sang
nên dễ mê theo cảnh quyền quý, vợ đẹp con xinh, cùng các thú vui vật chất nơi cõi
trần.
Đã nếm mùi dục lạc tất
dễ sanh đắm nhiễm, càng đắm nhiễm càng đi đến chỗ sa đọa tối tăm, dám làm nhiều
điều ác để củng cố lợi quyền và thỏa lòng tham vọng. Kiếp thứ nhì đã gieo nhân
như thế, kiếp thứ ba làm sao khỏi bị đọa lạc tam đồ?
Có kẻ gạn:
"Kiếp trước đã có
công tu gieo nhân tốt, không lẽ sang kiếp thứ nhì trí huệ căn lành đều mất, để
đến nỗi phải bị đọa hay sao?"
- Xin đáp:
"Căn lành tuy có,
nhưng nghiệp ác từ vô lượng kiếp chưa phải đã tiêu trừ. Mà trong cảnh trần,
việc lành rất khó làm như leo lên cây cao, điều ác rất dễ phạm như tuột xuống
dốc lở.
Người xưa đã chẳng bảo:
“Trọn đời làm lành, lành
còn chẳng đủ; một ngày làm ác, ác tự có dư” đó ư?
Như những người giàu
sang quyền thế mà chúng ta hiện thấy, kiếp trước họ đều có ít nhiều công đức bố
thí tu phước làm lành, nhưng kẻ hướng về nẻo thiện không bao nhiêu, người say
đắm danh lợi vinh hoa lại chiếm phần đa số.
Thử hỏi có mấy vị đỗ cao
quyền quý chịu xuất gia, sống một cuộc đời khắc khổ đạm bạc, hướng về mục đích
giải thoát thanh cao?
Ngay như người xuất gia,
khi chưa có địa vị còn kham nhẫn tu hành, lúc đã được quyền danh, nhiều kẻ lễ
bái tôn trọng cúng dường, lại dễ bị cảnh phù trần ràng buộc. Hiện tại ta thấy
có biết bao hàng Tăng Ni thiện tín, trước còn tinh tấn hành trì, sau lần lần
biếng trễ bỏ tu hoặc hoàn tục thối đạo, nói chi đến kiếp sau?"
Kinh nói:
"Bồ Tát còn mê khi
cách ấm,
Thanh Văn còn muội lúc
ra thai."
"Cách ấm" là
trải cách từ ấm thân này sang ấm thân khác. Như thân hiện tại là tiền ấm,
chuyển sanh thân kiếp sau gọi là hậu ấm; trải qua sự xen cách từ thân trước đến
thân sau như thế, bậc Bồ Tát chưa đắc đạo phải bị hôn mê.
Trong kinh, có nơi khác
lại nói:
"Hạng phàm thường
khi nhập thai, trụ thai và xuất thai đều hôn mê.
Bậc Chuyển Luân Thánh
Vương do phước báo, lúc nhập thai thì biết, khi trụ thai, xuất thai phải bị hôn
mê.
Hàng Thanh Văn lúc nhập
thai, trụ thai đều có thể tỉnh biết, song khi xuất thai lại hôn mê.
Duy có bậc Bồ Tát chứng
Vô Sanh Nhẫn, lúc nhập thai, trụ thai và xuất thai đều tỉnh giác."
Đôi khi hạng phàm phu do
nghiệp duyên đặc biệt cũng nhớ được kiếp trước, nhưng đây chỉ là trường hợp ít
có trong muôn một. Hoặc đó là Bồ Tát thị hiện để cho chúng sanh biết có luân
hồi, ngoài ra tất cả khi chuyển sanh đều bị mê muội.
Khi đã hôn mê, thì bao
nhiêu sự hiểu biết về đạo lý và những tâm nguyện nơi kiếp trước, đều vì vô minh
che lấp khiến cho lãng quên.
XÓA SẠCH DUYÊN TRẦN
(Phỏng dịch “Thất Bút Câu” của ngài LIÊN TRÌ )
I
XÓA SỰ
HIẾU DƯỠNG THEO ĐỜI
Công ơn
sanh dưỡng
Biển thẳm
non cao
Gấm vóc
trân tu đáp được nào ?
Cha mẹ
lìa trần cấu
Đạo con
mới thành tựu !
Ôi chà
chà !
Giải
thoát xuất trần nhân lớn lao
Phàm tình
đâu đã hiểu !
Cháu hiền
cùng con thảo
Chân
không, lẽ diệu mau tham cứu !
Bởi thế
nên đem
Năm sắc
kim chương xóa sạch làu !
II
XÓA TÌNH
VỢ CHỒNG ÂN ÁI
Vợ chồng
duyên đẹp
Loan
phượng mến yêu
Mối giây
ân ái thuở nào tiêu ?
Mộng tình
theo lẽo đẽo
Duyên hết
lìa đôi nẻo !
Ôi chà
chà !
Vấn vương
vui hết lại buồn đau
Tam đồ
thêm khổ não !
Xét rõ
phá oan gia
Tìm của
đạo mầu mau thoát tháo.
Bởi thế
nên đem
Cá nước
duyên kia xóa sạch làu !
III
XÓA LÒNG
QUYẾN LUYẾN CON CHÁU
Cháu con
đeo đẳng
Như thịt
bứu thừa.
Vì con
cháu chịu kiếp trâu lừa !
Họ Đậu
non Yên xưa
Ngày nay
còn đâu nữa ?
Ôi chà
chà !
Nghĩ lo
trăm kế lại ngàn mưu
Cũng về
nơi Ô hữu !
Trở lại
tánh Bản lai
Dẫu rằng
vạn kiếp trường xuân hảo !
Bởi thế
nên đem
Con cháu
kim lan xóa sạch làu !
IV
XÓA BỎ
NIỆM CÔNG DANH
Công danh
khoa bảng
Riêng
chiếm ngao đầu
Vui mừng
đắc ý buổi thanh thu !
Ấn vàng
ngời tinh đẩu
Danh đẹp
thơm trường cửu
Ôi chà
chà !
Bao nhiêu
thanh thiếu những mong cầu
Tóc xanh
thành bạch thủ !
Khi tỉnh
giấc hoàng lương
Một tiếng
cười khan đời mộng ảo !
Bởi thế
nên đem
Quý hiển
công danh xóa sạch làu !
V
XÓA BỎ SỰ
THAM SANG GIÀU
Của tiền
giàu có
Xe ngựa
nhà lầu.
Lẫy lừng
thanh thế sánh vương hầu.
Khi cầu
nhiều kiếp khổ
Lúc được
lo nghiêng đổ !
Ôi chà
chà !
Đạm thanh
biết đủ thắng trân tu !
Áo gai
dường cẩm tú !
Khoảng
trời đất tiêu dao
Nhà rộng
của nhiều đâu đủ báu?
Bởi thế
nên đêm
Tài sản
điền viên xóa sạch làu !
VI
XÓA TÂM
MÊ ĐẮM SẮC TÀI
Cầm kỳ
văn họa
Tài sắc
phong lưu
Gieo vàng
tỏ ngọc vẻ tươi mầu !
Cờ thi
hòa rượu đấu
Cầm ca
dìu dặt tấu !
Ôi chà
chà !
Gấm hoa
xán lạn suốt canh thâu
Nhã nhạc
lừng ngưu đẩu !
Gìa chết
chợt đến nơi
Cấp cứu
trầm luân ai đảm bảo ?
Bởi thế
nên đem
Tài sắc
văn chương xóa sạch làu!
VII
XÓA TÁNH
ƯA THÍCH DU NGOẠN
Dạo chơi
thắng cảnh
Thu đẹp
xuân kiều !
Túi thi
đàn rượu khắp ngao du!
Non nước
vài thân hữu
Mưa khói
mờ hoa liễu !
Ôi chà
chà !
Ráng hồng
suối bạc sánh phong lưu
Đâu nghĩ
ngày mai hậu ?
Sáng tối
thoáng qua mau
Thảng
thốt quay đầu suy, bịnh, lão !
Bởi thế
nên đem
Phong
nguyệt tình vui xóa sạch làu!
LƯƠNG DUY CHÂU
Lương Duy Châu, quê ở
Thiệu Hưng, làm người chấp sự tại am Long Đàm. Đến bốn mươi tuổi, ông MÙ CẢ ĐÔI
MẮT, không còn làm việc để sanh sống được, muốn TỰ TỬ.
Có vị tăng trong am
khuyên ngăn rằng:
“Buồn phiền mà chết như
thế, chỉ thêm nghiệp chứ không được giải thoát. Ở thế giới Cực Lạc phương Tây
có đức Phật hiệu A Di Đà. Nếu ông chí tâm thường trì niệm hồng danh, thì sẽ
vĩnh viễn thoát khổ, sanh về cõi an vui.
Vậy sự đui mù có chi mà
đáng ngại? Như ông chịu làm y theo lời, tôi
NGUYỆN xin khất thực để giúp đỡ! Duy Châu cảm tạ, nguyện xin tuân hành.
Ông chí thiết niệm Phật
được ba năm, đôi mắt bỗng nhiên sáng lại. Hơn nửa tháng sau,
ông bảo chúng rằng:
“Tôi sắp đi xa!’’
Qua ba hôm, vào giờ Ngọ,
Duy Châu ngồi chắp tay day mặt về Tây niệm Phật mà thoát hóa. Lúc ấy nhằm năm
Càn Long thứ ba mươi tám.
LỜI BÌNH: -Từ truyện Trương Chung
Quỳ đến đây, hoặc bởi những người KHÔNG quy y Tam bảo, hoặc do sự hiện tích có
vẻ ly kỳ, nên soạn giả không sắp vào hàng tứ chúng, mà liệt vào hạng TẠP LƯU
vãng sanh.
Cảnh Luân nghiệp quả
đáng bi thương, kiếp phù sinh vẫn như mộng huyễn. Bao nhiêu nỗi khổ vui, vinh
nhục, đắc thất đã trải qua: việc lo toan về bản thân, gia đình, xã hội chưa
thấy ổn, mà cái chết đã kề cận một bên rồi!
Môn Niệm Phật đối với
người tại gia rất cần thiết. Bởi THÂN đắm vào lò lửa trược trần, TÂM chìm trong
ngục tù phiền não, khi một hơi thở chẳng vào thì nghiệp tam đồ kế tiếp. Nếu
không nhờ sức Phật, làm sao đối địch nổi với cảnh nầy?
Với những kẻ tạo nghiệp
chẳng lành đang bị ác báo, thì công đức của Phật hiệu, sự hộ trì của tha lực
lại càng khẩn yếu. Đại khái như CHUNG QUỲ và DUY CHÂU, nếu chẳng nhờ một câu
hồng danh thì làm sao được giải thoát?
Thế mới biết BI NGUYỆN
của Phật thật vô cùng rộng sâu, chẳng bỏ sót một chúng sanh nào cả ?
BÀI SỐ 8
Ẩn tu tưởng lại quả đời nay
Bao lớp gian truân nỗi đoạ
đày !
Ẩn nhẫn trả xong tròn
nghiệp trước
Dấu hồng chuyện cũ tuyết mờ
bay !
NHƯ Ý : Lấy ý
“TUYẾT NÊ HỒNG CHẢO”, Chim hồng đậu trên lớp bột Tuyết, khi
bay đi để dấu chân móng lại, rồi lớp tuyết khác bay rơi xuống
làm cho dấu chân mờ, kế bị lấp mất đi, chuyện dĩ vãng cũng thế, lần
lần cũng phai mờ rồi mất theo thời gian, người tu Phật muốn quên
việc đã qua vì KINH KIM CANG nói:
“Quá-khứ TÂM Bất-khả-đắc, Hiện-tại TÂM
Bất-khả-đắc, Vị-lai TÂM Bất-khả-đắc.”
Bởi tâm của chúng sanh mỗi niệm SANH DIỆT không
thật, nên chẳng thể tìm nắm giữ chắc được. (ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SANH KỲ TÂM)
Lá Thư Tịnh Độ
Như KINH KIM CANG nói:
“Nếu có người thọ trì
kinh này mà bị kẻ khác khinh chê, người đó đời trước gây tội nghiệp đáng đọa
vào ác đạo, do đời này bị sự khinh chê nên tội trước liền được tiêu diệt, sẽ
chứng quả Vô thượng Bồ đề.”
Đây chính là nghĩa: TÂM
mình có thể cải tạo hoàn cảnh vậy.
(Thơ gởi Cư Sĩ Vệ Cẩm Châu)
Đức Lục Tổ bảo:
“Chỉ xem KINH KIM CANG
cũng có thể minh tâm kiến tánh", tức là nói lối xem trên đây (ƯNG VÔ
SỞ TRỤ NHI SANH KỲ TÂM, vì thế mới gọi là chỉ.
Y như thế mà duyệt kinh,
thì xem các KINH ĐẠI THỪA đều có thể minh tâm kiến tánh, đâu riêng gì KINH
KIM CANG?
Chớ nên một mặt theo sự
PHÂN BIỆT, tìm hiểu: câu này nghĩa ra sao, đoạn này ý thế nào?
Bởi vì đó thuộc về VỌNG
TUỞNG suy lường, không thể thầm hiệp với tâm Phật, ngộ suốt lý kinh, và làm
nhân duyên cho sự diệt tội sanh phước.
Xem kinh với tâm phân
biệt, nếu biết CUNG KÍNH thì còn có thể gieo chút căn lành, bằng biếng trễ
KHINH THƯỜNG chắc không khỏi đem nhân lành mà gây QUẢ ÁC, sự khổ sẽ vô cùng!
( Thơ đáp một Cư Sĩ ở Vĩnh Gia )
KIM-CANG
BÁT-NHÃ-BA-LA-MẬT KINH
Diêu-Tần, Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập Hán dịch.
HT. THÍCH TRÍ-TỊNH
Việt Dịch
18
XEM ĐỒNG MỘT THỂ
Nầy Tu-Bồ-Đề! Nơi ý của
ông nghĩ thế nào? Đức-Như-Lai có “NHỤC NHÃN” chăng?"
"Bạch đức Thế-Tôn!
Đúng thế. Đức Như-Lai có NHỤC NHÃN."
Tại sao có tên là NHỤC
NHÃN ?
Bởi vì nó vừa nhìn được
các vật thể có hình sắc, vừa có thể thấy được các thứ không có hình sắc. Mắt thường của chúng ta không thấy những vật đằng xa,
còn nhục nhãn thì mọi vật từ mười lăm dặm trở lại đều trông thấy hết, cho
dầu có bị ngăn cách bởi nhà cửa, cũng thấy được, không trở ngại chi.
"Nầy Tu-Bồ-Đề! Nơi
ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như-Lai có “THIÊN NHÃN” chăng?"
"Bạch đức Thế-Tôn!
Đúng thế. Đức Như-Lai có THIÊN NHÃN."
THIÊN NHÃN là thấy xa đến các THẾ GIỚI, thấy rõ vật nhỏ như
VI-TRẦN...thấy thông suốt không bị CHƯỚNG-NGẠI.
"Nầy Tu-Bồ-Đề! Nơi
ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như-Lai có “HUỆ-NHÃN” chăng?"
"Bạch đức Thế-Tôn!
Đúng thế. Đức Như-Lai có HUỆ NHÃN."
HUỆ NHÃN là con mắt trí huệ. Huệ nhãn có thể PHÂN BIỆT LẼ
PHẢI TRÁI, nhìn vào sự việc gì có thể biết ngay chân giả. Người không có
trí huệ lấy phải làm trái, lấy trái cho là phải.
"Nầy Tu-Bồ-Đề! Nơi
ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như-Lai có “PHÁP NHÃN” chăng?"
"Bạch đức Thế-Tôn!
Đúng thế. Đức Như-Lai có PHÁP NHÃN."
PHÁP NHÃN là thấy được THẬT TƯỚNG CỦA VẠN PHÁP. Từ bậc
ĐẠI Bồ-tát cho đến PHẬT mới có PHÁP NHÃN, A LA HÁN trở xuống đều không
có.
"Nầy Tu-Bồ-Đề! Nơi
ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như-Lai có “PHẬT NHÃN” chăng?"
"Bạch đức Thế-Tôn!
Đúng thế. Đức Như-Lai có PHẬT NHÃN."
PHẬT-NHÃN là TRÍ-HUỆ VIÊN-MÃN CỨU-CÁNH CỦA PHẬT. TỨC LÀ THẤY BIẾT
KHẮP HƯ KHÔNG PHÁP GIỚI.
"Nầy Tu-Bồ-Đề! Nơi
ý của ông nghĩ thế nào? Như bao nhiêu cát trong sông Hằng, đức Phật có nói là
“CÁT” chăng?"
"Bạch đức Thế-Tôn!
Đúng thế, đức Như-Lai nói là CÁT."
"Nầy Tu-Bồ-Đề! Nơi
ý của ông nghĩ thế nào? Ví như có bao nhiêu cát trong một sông Hằng, thì cũng
có số những sông Hằng, bằng số cát như thế, cõi Phật như bao nhiêu số cát trong
những-sông-Hằng đó, như thế, cõi Phật có “NHIỀU” chăng?"
"Bạch đức Thế-Tôn!
Rất NHIỀU!"
Đức Phật bảo ông
Tu-Bồ-Đề: "Bao nhiêu thứ TÂM NIỆM CỦA TẤT CẢ CHÚNG SANH trong
ngần ấy cõi nước, đức Như-Lai đều biết rõ. Bởi vì sao? Vì đức Như-Lai nói các
thứ tâm đều là CHẲNG-PHẢI-TÂM, đó gọi là tâm.
Vì cớ sao thế? Nầy
Tu-Bồ-Đề! TÂM QUÁ KHỨ không có chi mà đặng, TÂM
HIỆN TẠI không có chi mà đặng, TÂM VỊ LAI không có
chi mà đặng.
Khi Qúy vị tụng KINH, trì CHÚ,
niệm PHẬT, tham THIỀN...không còn TRỤ ở ÂM THANH SẮC TƯỚNG , không
còn TRỤ ở TAM TÂM TỨ TƯỚNG, vì biết rằng đương thể là
không, không cần đợi có thời gian VÔ THƯỜNG hoại diệt mới biết là
“KHÔNG”, là “HUYỄN”, thì bỏ được ngã chấp, RA KHỎI TAM GIỚI.
Cũng như KINH KIM CANG nói:
Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thinh cầu ngã,
Thị nhơn hành tà đạo,
Bất năng kiến Như-Lai.
Nếu dùng sắc-tướng thấy PHẬT,
Dùng âm-thanh cầu PHẬT,
Người nầy hành theo TÀ KIẾN,
Chẳng thấy được NHƯ LAI.
TAM TÂM là Tâm qúa khứ, Tâm hiện tại, và Tâm vị lai.
TỨ TƯỚNG là Tướng ngã, Tướng nhơn, Tướng chúng sanh và
Tướng thọ giả.
…bất luận về THÂN hay TÂM trong thế gian cùng
xuất thế gian, mà do nhân duyên hòa hợp làm thành, đều là pháp hữu vi,
đều là không thật thể, như mộng, huyễn, bào, ảnh…
Nhứt thiết hữu-vi pháp.
Như mộng, huyễn, bào ảnh.
Như lộ, diệc như điển,
Ưng tác như thị quán!
Tất cả pháp hữu-vi do nhân duyên sanh.
Khác nào huyễn cảnh, khác nào chiêm bao.
Như trăng dưới nước, như ảnh trong gương.
Khác nào bọt nước, hiệp tan khó lường.
Như ánh chớp, như điểm sương.
Thường hay Quán xét như vầy, chứng được THẬT
TƯỚNG, mới là VÔ SANH.
VƯƠNG THỊ
VƯƠNG THỊ, người đời Tống, quê ở Minh Châu, mỗi ngày thường
trì tụng KINH KIM CANG. Có mang thai đã 28 tháng mà chưa sanh, than hình càng
lúc càng gầy. Ngày nọ, ngẫu nhiên đứng tựa cửa, một bậc cao tăng đi ngang qua
chăm chú nhìn, rồi bảo :
“Ngươi có căn lành, sao chẳng ấn thí KINH KIM CANG ngàn quyển
?”
Vương Thị y theo lời, lại trai tăng ngàn vị và tụng ngàn quyển
KINH KIM CANG. Việc hoàn tất canh ba đêm ấy, cô mộng thấy vị thần cầm KIM
CANG BẢO XỬ chỉ vào bụng. Khi thức dậy đã sanh hai đứa con TRAI nơi
giường.
Từ đó VƯƠNG THỊ trì trai tụng kinh không thôi nghỉ. Đến năm 61
tuổi, cô bị bạo bịnh chợt tắt hơi, thấy 2 sứ giả dẫn xuống ra mắt
MINH VƯƠNG. Sau khi trình bày mình đã tụng KINH KIM CANG từ lúc tuổi trẻ, cô
được MINH VƯƠNG cho ngồi nơi giường bằng vàng bên mé điện, và bảo thử
tụng qua 1 biến kinh. Vương thị vâng lời tụng xong, vua hỏi :
“Sao chẳng niệm chú bổ khuyết ?”
Cô đáp : “Trên dương thế không thấy có bản chân ngôn ấy
?”
MINH VƯƠNG sai phán lại soạn trong đại tạng, lấy bản CHÚ
ra trao cho VƯƠNG THỊ và bảo :
“Khi trở lại dương gian, nên lưu thong bản CHÚ này đừng sơ
sót. Về sau ngươi mãn phần, sẽ được sanh thẳng sang thế giới CỰC-LẠC, không còn
trở lại đây nữa !”
Sau khi hoàn sanh, VƯƠNG THỊ làm y theo lời chỉ dạy. Đến năm
91 tuổi, không bịnh mà TỌA HÓA.
CHƠN NGÔN BỔ KHUYẾT ấy như sau:
“ UM ! HÔ RÔ HÔ RÔ XẢ DUỆ MỤC KHẾ XÓA HA”
(
KIM CANG BỔ KHUYẾT CHÂN NGÔN :
Án, hô-rô, hô-rô, xả-duệ, mục-khế, tá-ha.
KINH NHẬT TỤNG
)
Ta thấy, nếu KINH, LUẬT, LUẬN mà bị THIẾU hay SAI SÓT,
thì sẽ có PHẬT, BỒ-TÁT, THIỆN THẦN… tìm cách BỔ-KHUẾT trở lại.
NAM MÔ HỘ PHÁP CHƯ TÔN BỒ TÁT (3 lần)
BÀI SỐ 9
Ẩn tu nhớ đến đức sanh
thành
Lắm lúc vì con chẳng tạo
lành
Con lớn Mẹ Cha oằn gánh
nghiệp
BẢO CHÂU đền đáp cũng mong manh !
NHƯ Ý : Vì thương lo cho con, mà lắm khi CHA MẸ sát sanh gian
dối, Tạo nhiều nghiệp ác.
TỬ LÂN pháp sư thở
bé vì đầu thường Sinh rẻ, nên bà MẸ thường hay lấy chồng trắng trứng gà hòa với
thuốc thoa để chữa trị, sau ngày xuất gia thành bậc cao tăng, được Đông Nhạc
thánh đế cho biết vì lý do đó mà mẫu thân của ngài bị đọa HỎA ngục, pháp sư phải lễ tháp XÁ LỢI của Phật ở chùa A DỤC VƯƠNG đến
HÀNG muôn lạy để sám hối, mới độ thoát được mẹ
sanh lên CÕI TRỜI, trong trường hợp đó đâu thể đem TỨ-SỰ cúng dường hay BẢO
CHÂU mà cứu rỗi đền đáp được.
VÌ NHỚ ƠN CHA MẸ
Than ôi cha mẹ, sanh ta
khó nhọc! Mười tháng mang thai mỏi nặng, ba năm bú sữa mớm cơm. Khi được nên
người, chỉ mong ta nối dõi tông đường, tự thừa tiên tổ.
Ngờ đâu ta đã xuất gia,
lạm xưng Thích tử, không dâng cơm nước, chẳng đỡ tay chân. Cha mẹ còn, ta không
thể nuôi dưỡng thân già. Cha mẹ mất, ta chưa thể dắt dìu thần thức. Chừng hồi
tưởng lại thì, nước trời đà cách biệt từ dung, mồ biếc chỉ hắt hiu thu
thảo. Như thế với đời là sự tổn lớn, với đạo lại không ích chi, hai
đường đã lỗi, khó tránh tội khiên!
Nghĩ thế rồi, làm sao
chuộc lại? Chỉ có trăm kiếp ngàn đời, tu Bồ Tát hạnh, mười phương ba cõi, độ
khắp chúng sanh. Được như vậy, chẳng những cha mẹ một đời, mà cha mẹ nhiều đời,
đều nhờ độ thoát. Chẳng những cha mẹ một người, mà cha mẹ nhiều
người cũng được siêu thăng.
Đây là nhân duyên thứ
hai PHÁT BỒ ĐỀ TÂM.
THẬT HIỀN ĐẠI SƯ
(Liên Tông Thập Nhất Tổ)
Tôn-giả Mục-Kiền-Liên bạch
hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì ngài bảo đó là ĐỊNH
NGHIỆP.
ĐỊNH BÁO
( Là quả báo nhất định phải chịu, không thể chuyển biến được,
bởi sức nghiệp đã quá thuần thục, trong mười phần thành tựu cả mười )
Thuở xưa vua Lưu-Ly cử binh đến đánh dòng họ Thích, Ðức Thế-Tôn can ngăn ba
lần mà không được. Tôn-giả Mục-Kiền-Liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng
tộc thuộc, thì ngài bảo đó là định nghiệp.
Tôn-giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm người họ Thích trên
cung trời. Nhưng khi Lưu-Ly-Vương dẹp xong hàng Thích-Chủng, thì năm trăm người
ấy cũng đều thành huyết mà chết. Ðây là một sự kiện chứng minh sức định
nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ.
Cho nên, chư Phật có “Tam năng” (ba việc làm được) và “Tam
bất năng” (ba việc không làm được).
Có ba việc làm được là :
1) Chư Phật có thể “KHÔNG” tất cả tướng, thông suốt tất cả pháp.
2) Chư Phật có thể biết cùng tận nghiệp tánh của chúng-sanh, rõ
thấu tất cả việc trong vô biên kiếp quá khứ và vị lai.
3) Chư Phật có thể độ vô-lượng chúng-sanh.
Ba việc làm không được là :
1. Chư Phật không thể diệt được định nghiệp của
chúng-sanh.
2. Chư Phật không thể độ những chúng-sanh vô duyên.
3. Chư Phật không thể độ hết chúng-sanh giới.
Bởi thế, "SỨC NGƯỜI" cố nhiên là hữu hạn, nhưng "SỨC
PHẬT" cũng không phải là TOÀN NĂNG.
Nếu chúng-sanh không tín hướng Ðức Như-Lai, không
thực hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng không thể
hóa độ được.
Nếu chúng-sanh tín hướng Ðức Như-Lai, thực
hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng có thể hóa độ
được.
NHƯ VUA LƯU LY, NẾU NGHE THEO LỜI CAN NGĂN CỦA ĐỨC PHẬT, THÌ ĐƯƠNG SỐNG
KHÔNG BỊ ĐỌA VÀO ĐỊA NGỤC A TỲ ( LÀ SỰ ĐAU KHỔ KHÔNG HỀ ĐƯỢC
GIÁN-ĐOẠN).
Cho nên, “NGHIỆP
LỰC THÙ HẬN” của vua lưu-ly cũng thật sự “BẤT KHẢ TƯ
NGHÌ”, cho dù “ĐỨC PHẬT” cũng không thể ngăn cản được.
Tóm lại, nếu qúi vị “THỰC HÀNH ĐÚNG THEO LỜI ĐỨC PHẬT
DẠY” thì chuyển “ĐỊNH-NGHIỆP” thành “BẤT ĐỊNH NGHIỆP”;
chuyển “VÔ DUYÊN” thành “HỮU DUYÊN” ; chuyển “CHÚNG SANH KHÔNG ĐỘ
ĐƯỢC” thành “CHÚNG SANH ĐỘ ĐƯỢC” phải không ?
“Quét sạch tất cả nghiệp chướng khó trừ trong vô số kiếp trước của qúi vị đã tạo.”
Tội từ tâm khởi đem tâm
sám
Tâm được tịnh rồi tội
liền tiêu
Tội tiêu tâm tịnh thảy
đều không
Thế mới thật là chân sám
hối.
LỜI BÀN:
Lại nữa, “Trong tâm
chúng ta có cái gì thì bên ngoài có cái đó”. Nếu ta LỄ PHẬT, LỄ THÁP XÁ LỢI, TỤNG KINH, TRÌ CHÚ,
NIỆM PHẬT, LÀM THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC…như “CÚNG-DƯỜNG” vào NGÀY RẰM
THÁNG 7, rồi hồi hướng cho“CHA MẸ”...đã mất thì họ
hưởng được QỦA LÀNH an vui giải thoát.
Nếu ta làm những VIỆC KHÁC VỚI THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC hồi
hướng cho “CHA MẸ”... đã mất thì họ cũng hưởng được NHỮNG
GÌ KHÔNG PHẢI LÀ THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC, nên không biết khi nào họ mới được
an vui giải thoát đây?
Cho nên nói “Tất cả do tâm tạo” là vậy!
VƯƠNG NHỰT HƯU
Cư sĩ Vương Nhựt Hưu, tự
Hư Trung, người ở Lư Châu. Triều vua Cao Tôn đời Tống, ông thi đỗ quốc học tiến
sĩ, nhưng khước từ quan chức, về ở ẩn nơi quê nhà dạy học trò. Kế đó lại xếp bỏ
việc giáo huấn, ăn chay trường, mặc áo vải, chuyên tu tịnh nghiệp.
Mỗi ngày cư sĩ khóa lễ Phật một ngàn lạy rồi niệm hồng danh.
Ông có trứ tác tập Long
Thơ Tịnh Độ Văn, được lưu hành rộng nơi đời. Trong ấy lời lẽ giản dị, bao gồm
nhiều thí dụ, khuyến hóa từ bậc vương công, quan liêu, sĩ tử, cho đến hàng thứ
dân, đồ tể, nô tỳ, xướng kỷ, đều quy y niệm Phật. Cách lập luận của cư sĩ rất
rõ ràng, tâm ý rất thành khẩn, khiến cho nhiều người cảm hóa tuân hành.
Năm Quý Tỵ trong niên
hiệu Càn Đạo, ông Lý Ngạn Bậc ở Lư Lăng đau bịnh nguy ngập, mộng thấy một vị tự
xưng là Long Thơ cư sĩ, bảo rằng:
“Khi thức dậy ngươi nên
dùng cháo trắng, sẽ được an lành. Ngươi còn nhớ một thiện hữu là Khuyết Trọng
Nhã đã khuyên về lối tu thẳng tắt chăng?”
Ngạn Bậc thưa:
“Vãn bối đã tuân hành
theo, mỗi ngày đều có niệm Phật!” Sau khi thức giấc, ông bảo nấu cháo trắng ăn,
quả nhiên bịnh thuyên giảm.
Ngạn Bậc liền dạy các
con đến tìm Vương Nhựt Hưu để thọ huấn. Không bao lâu, các con trở về thưa:
“Long Thơ cư sĩ đã vãng
sanh về Phật quốc. Ba hôm trước khi mãn phần, cư sĩ đi từ biệt khắp các thân
hữu, khuyên họ tinh tấn tu hành, bảo mình sắp đi xa, không còn gặp nhau nữa.
Tới ngày ông cho họp các môn sanh cũ lại giáo huấn, rồi khóa tụng như lệ thường.
Đến canh ba, cư sĩ bỗng to tiếng niệm Phật vài câu, bảo:
“Đức Phật A Di Đà đến
tiếp dẫn tôi!” Rồi đứng ngay thẳng mà hóa …”
Lý Ngạn Bậc thấy bức
chơn dung của Vương Nhựt Hưu do các con mượn đem về, giống tạc người
mình đã gặp trong giấc mộng, sanh lòng cảm kích, liền rước thợ khắc hình
tượng Long Thơ cư sĩ, lại đem việc ấy truyền bá xa gần. Từ đó hàng thiện tín ở
vùng Lư Lăng đều phát tâm niệm Phật.
Trong năm Hàm Hựu có ông
Lư Nguyên Ích khắt lại bản Long Thơ Tịnh Độ Văn. Khi khác đến thiên Chúc Nguyện,
nơi bản bộng nổi lên ba viên ngọc Xá lợi. Cha của ông là Lý Sư Thuyết có ghi
chép việc ấy ở đầu thiên nầy.
BÀI SỐ 10
Ẩn tu nguyện trả nghĩa
SONG ĐƯỜNG
Hồi hướng công phu mỗi khóa thường
Lại khuyến nghiêm-từ tâm
đạo phát
Nương thuyền Phật huệ đến
Tây-phương.
NHƯ Ý : NGHIÊM TỪ
là Nghiêm-phụ Từ-mẫu, LIÊN TRÌ đại sư bảo, ân nặng như non (Ngũ-Đảnh Tam-Sanh)
chẳng đủ đền, Cha mẹ lìa Trần cấu, đạo con mấy thành tựu.
Ngũ-đảnh tức là Ngũ Đài hay
gọi là núi Thanh Lương.
Chẳng vì PHÚ-QÚY lẫn
cao-sang,
Cảm-cảnh mẹ hiền bệnh
khổ mang.
Quyết-tâm lên tỉnh tìm
phương thuốc,
Dứt bệnh MẪU TỪ dạ mới
an.
Việc “thoát trần” kia
nay tạm hoãn,
Nghiên tầm y-dược cứu
lầm-than.
Chắp tay hướng đấng
TỪ-BI lễ,
ĐỘ-TRÌ thân-mẫu sớm an
khang.
Bốn năm nương bóng chốn
AM-THIỀN,
Với mọi duyên đời đã
tịch-nhiên.
Kinh-kệ, mõ chuông lòng
thấy tịnh,
Cam-lộ rửa sạch mối
oan-khiên.
Chắp tay kính bạch lên
Hòa-Thượng,
Vĩnh-kiếp lòng con dạ
vẫn kiên.
Xuất tự để lo tròn hiếu
niệm,
Tạm biệt hồi gia cứu mẹ hiền.
Khá khen HIẾU-NIỆM chẳng
quên lòng,
Mười chín tuổi tròn vẹn
ước mong.
PHÙ-TỤC lợi-danh từ đấy
lặng,
Sớm đáo THIỀN-MÔN tách
bụi hồng.
Ơn-nghĩa mẹ-cha đều
báo-bổ,
Thiên-đường, Phật-quốc
chép ghi công.
BỆNH mẫu-từ ngươi nay đã
dứt,
Đò neo, bến đợi kịp sang
sông.
Giã-từ cậu má (CHA MẸ)
con ra đi,
Ơn-đức sanh-thành dạ
khắc-ghi.
Bên gối dập đầu con
bái-biệt,
LẠY chào cha-mẹ phút
phân-ly.
Phân-ly con biết nói lời
chi,
Xuất-gia, xuất-giá cũng
đồng đi.
Bước chân chẳng dám quay
nhìn lại,
E nổi thâm-tình lệ ướt
mi.
Nhớ xưa Bồ-Tát
Tất-Đạt-Đa,
Trốn cha, lìa vợ vượt
Tỳ-La.
Sáu năm tu-tập nhiều
gian khổ,
Đạo-quả tròn nên Phật
Thích-Ca.
Tôi cũng theo gương đức
Bạc-già,
Bán dạ độ hà trốn
mẹ-cha.
Vì sợ tử-sanh cam lỗi
đạo,
Nguyện đấng huyên-đường
chẳng xót-xa.
Nương thuyền bát-nhã
lướt sang sông,
Bỏ cả huyên-đường cả ước
mong.
Song-thân giờ chắc còn
an-giấc,
Xin hiểu cho con một tấm
lòng.
Hướng chốn thiền-môn
chân bước đến,
Duyên-trần xin tạ, việc
đời không.
Đường quê mờ khuất sau
ngàn sóng,
Khuất hết người quen
chốn bụi hồng.
Tụ-tán xưa nay lý vẫn
thường,
Mất còn, tan-hợp bận chi
thương.
Bình tâm nghĩ lại đừng
bi-lụy,
Năm tháng lạnh-lùng bạc
tóc sương.
Nếu có nhớ con xin niệm
PHẬT,
Phát lòng quy hướng chốn
Tây-Phương.
Nguyền cho cậu, má tâm
thường nhớ,
Cực Lạc là quê chỗ náu
nương.
KHEN HÒA THƯỢNG
NGƯỜI CON CÓ HIẾU
Báo-đáp sanh-thành,
dưỡng-dục ơn,
THIỀN TÂM, VÔ NHẤT mấy
ai hơn.
Khuyến-dắt song-đường
tâm-đạo phát.
Niệm-Phật A-Di chí chẳng
sờn.
Phương-liên rước mẹ về
An-dưỡng,
Một sớm chào thầy đáo
cõi chơn.
Nén hương kính-lễ khen
Hòa-thượng,
Đạt-đạo hiền-tăng
hiếu-tử nhơn.
Vô-Nhất Đại-sư
THÍCH THIỀN TÂM
TRI LỄ
Tri-Lễ đại sư, tự Ước
Ngôn, người đời Tống, con nhà họ Kim ở Minh Châu. Cha mẹ lễ Phật cầu tự, mộng
thấy thần tăng bồng một đứa bé trao cho và bảo: “Đây là Phật tử La Hầu La. Nên
trân trọng!” Không bao lâu, đại sư đản sanh.
Năm lên bảy tuổi, ngài
mất mẹ, THƯƠNG KHÓC MÃI, RỒI THƯA VỚI CHA CẦU XIN XUẤT GIA. Từ
đó, ngài đắc độ với Hồng Tuyển thượng nhơn tại chùa Hưng Quốc ở Thái Bình. Được
vài năm, đến chùa Bảo Vân nương theo Nghĩa Thông Pháp sư học về Thiên Thai giáo
quán, một phen nghe qua, tỏ suốt ý nghĩa viên đốn. Trong niên hiệu Thuần Hóa,
Thông Pháp sư quy tịch, ngài được thỉnh làm tọa chủ chùa Càn Phù. Kế đó lại đến
viện Bảo Ân, hoằng dương về giáo quán, học chúng các nơi nghe danh hội về đông
đảo.
Vùng Minh Châu bị hạn
lâu, đại sư cùng ngài Từ Vân họp nhau tu Quang Minh sám pháp, hẹn nếu ba ngày
không mưa, sẽ tự đốt một cánh tay. Đúng kỳ hạn, quả nhiên mưa to tiếp tục đổ
xuống. Trong ba năm, từ niên hiệu Đại Trung đến Tường Phù, ngài trùng kiến điện
Bảo Ân. Khi lạc thành, được vua ban cho hiệu: Sắc Tứ Diên Khánh Tự. Năm Tường
Phù thứ sáu, đại sư lập hội Niệm Phật Thí Giới, thân làm sớ văn để khuyên răng:
“Vẫn nghe: Một niệm dung
thông, muôn pháp không ngại, nhân gây có khác, quả cảm thành sai.
Cho nên, thuận
tánh tu hành, thì hiện mười phương Tịnh độ.
Theo tình tạo nghiệp,
tất trôi sáu nẻo luân hồi!
Xét nghĩ cành duyên ở Ta
Bà, phần giải thoát rất kém ít khó khăn, số đọa lạc lại dễ dàng đông đảo. Nên
kinh nói:
“Được thân người như đất
ở móng tay, đọa đường ác như đất miền đại địa!”
Tu đến ba thừa hạnh đủ,
mới lìa bốn loại thọ sanh. Bởi trần cảnh mạnh thô, não phiền lừng lẫy, tự lực
giải thoát, phỏng được bao người? Nếu sanh về Cực Lạc, thì cõi nước trang
nghiêm, thân tâm thanh tịnh, thẳng đường thành Phật, chẳng đọa tam đồ. Kinh
nói:
“Danh từ ác đạo còn
không, huống chi có thật!”
Lại bảo:
“Chúng hữu tình sanh về nơi
đây, đều là bậc A bệ bạt trí.”
Cho nên, muốn về An
Dưỡng, phải niệm Di Đà, tu hạnh tinh tấn từ bi, tất được Phật nguyện nhiếp thọ.
Đến khi xả báo thân, quyết sanh về Cực Lạc, đúng như lời KINH dạy,
chẳng dám tự đặt bày.
Nay kết muôn người, để
làm một xã, lòng lòng khẩn niệm, buổi buổi hạn kỳ. Mỗi tiết trọng xuân, họp về
một chỗ, đồng nghe Phật pháp, đồng tu cúng dường, hiệp muôn lòng làm một chí,
thành tịnh nghiệp thệ vãng sanh. Huống nữa mạng người trong kiếp trược, như
ngọn đuốc giữa phong sương, một hơi thở chẳng vào, ba nẻo đường hiện trước.
Đâu nên tự buông lung,
không nghĩ điều nghiệp báo. Phải gắng theo lời Phật, chớ thuận với tình đời.
Duyên trần nguyện dứt kể từ nay, hiệu Phật chuyên trì đừng thối chuyển”.
Từ đó, mỗi năm vào ngày
rằm tháng hai, chúng liên hữu đều câu hội lại chùa đồng tu tịnh nghiệp. Đại sư
từng họp mười vị tăng, cùng tu Pháp Hoa sám pháp ba năm, hẹn ngày hoàn mãn, sẽ
tự thiêu để cúng dường kinh và cầu sanh Tịnh độ.
Đến kỳ bị chúng cực lực
ngăn trở, nên chí nguyện không thành. Sau ngài lại họp mười vị tăng, đồng tu
ĐẠI BI SÁM ba năm, đốt ba ngón tay cúng dường Phật. Niên hiệu Thiên Hy thứ tư,
Phò mã Lý Tuân Học DÂNG sớ tâu trình về cao hạnh của
ngài, vua sắc phong cho hiệu là Pháp Trí đại sư, dạy nên trụ thế để
hoằng dương chánh giác.
Đại sư nghĩ chư Tổ đời
trước, khi xiển dương Tịnh độ, phần nhiều nói về sự tướng, ít chỉ dạy quán môn,
nên duy tạm ứng thời cơ, chưa tỏ cùng tột lý viên đốn. Nhân đó, ngài soạn ra bộ
Diệu Tông Sao gồm vài muôn lời, giải nói cùng cực lý u ẩn nhiệm mầu của QUÁN
KINH, theo tông chỉ Thiên Thai giáo quán.
Đến năm Thiên Thánh, đại
sư dựng ngôi Nhật Quán Âm, thường đến đó quán tưởng để cầu sanh Tây phương.
Về sau, khi khóa giảng
kinh Duy Ma Cật hoàn mãn, ngài quyết biệt đại chúng, giao giảng tòa lại cho
hàng cao đệ là Tổ Thiều, làm thi tạ duyên hẹn kỳ quy tịch. Năm sau, vào đầu
niên hiệu Đạo Nguyên, ngày mùng tám tháng mười, đại sư nhiễm bịnh, khước từ
thuốc thang, họp chúng lại nói lược về pháp yếu.
Kế đó ngài dạy thỉnh
tượng Tây phương TAM THÁNH đến đảnh lễ, rồi đốt hương quỳ chúc nguyện với Đại
Bồ Tát rằng:
“Con xét thấy Quán Thế
Âm Bồ Tát, ngàn trước không từ đâu đến, muôn sau cũng chẳng về đâu, cùng mười
phương chư Phật, đồng trụ nơi thật tế. Nguyện xin cùng Phật và Đại Thế Chí Bồ
Tát, chứng minh một nén hương của con, trước khi con về Cực Lạc!”
Đến chiều tối, đại sư sửa oai nghi ngồi nghiêm hướng về Tây. Chúng hỏi: “Tôn đức sẽ sanh nơi nào?” Đáp: “THƯỜNG TỊCH QUANG tịnh độ!” Rồi im lặng thoát hóa, thọ 69 tuổi. Lúc ấy nhiều người thấy ngôi sao to rơi xuống đỉnh Linh Thứu Phong, ánh hồng quang rự rỡ.
Comments
Post a Comment