CHÁNH VĂN
66.-Ẩn tu quyết chí gạt trần tình
Mặc nỗi khen chê lẫn bất
bình
Sức yếu phải cam phần kém
yếu
Tình đời ví nhẹ đạo tâm
sinh.
67.-Ẩn tu tưởng đến cảnh Lê-viên
Điệu múa Nghê thường đẹp áo
Xiêm
Kim cốc sanh ca dìu dặt
trổi
Mà nay suông lạnh ánh thu
thiềm !
68.-Ẩn tu Chiêm-tộc nhớ Mường-Lan
Nữ chúa rừng xanh đẹp khác
phàm !
Tướng sĩ trận voi uy-vũ
thạnh
Nhạc mờ Phan Thiết núi
sương lam !
69.-Ẩn tu liên tưởng dãy Giang Đông
Xích Bích trống quân dậy
lửa hồng !
Tuyệt-đại song kiều, anh
kiệt mất
Tài tình mấy đoạn phút hoàn
Không.
70.-Ẩn tu Nguyễn Huệ nhớ Anh-hào
Điệp-điệp quân thanh, chiến
cuộc thâu
Trúc kết sang sông mờ bóng
cũ
Mây ngàn cỏ nội đỉnh Tây
sầu !
GIẢNG GIẢI
BÀI
SỐ 66
Ẩn tu quyết chí gạt trần
tình
Mặc nỗi khen chê lẫn bất
bình
Sức yếu phải cam phần kém
yếu
Tình đời ví nhẹ đạo tâm
sinh.
NHƯ Ý: Hoa nở để rồi Tàn, Trăng tròn để
rồi Khuyết, Bèo hợp để mà Tan, Sum Vầy để Ly Biệt, niệm Đạo khác với
Tình Đời, học Đạo chẳng Luyến
Tình, Luyến Tình không phải Đạo.
Tiết 35.- Đối Trị Dục Nhiễm
Các phiền não về tham
không ngoài sự đắm nhiễm ngũ dục lục trần. Từ cội gốc tham, sanh ra các chi
tiết xấu khác như: bỏn sẻn, ganh ghét, lường gạt giả dối... gọi là “tùy phiền
não”.
Ngũ dục, chỉ cho năm món nhiễm gồm: sắc dục, tiền của, quyền
danh, ăn mặc, ngủ nghỉ.
Lục trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Trong lục trần đã thâu
nhiếp ngũ dục, nhưng sở dĩ lập riêng danh từ ngũ dục, là muốn nêu ra năm món
nhiễm nặng của chúng sanh trong cảnh lục trần. Lục trần nói với tánh cách bao
quát, ngũ dục với tánh cách đặc biệt. Nơi đây nói thêm lục trần là để chỉ cho
các thứ nhiễm khác mà trong ngũ dục không có như: thích âm nhạc ca hát,
mê tiểu thuyết nhảm nhí v.v...
Khi tâm tham nhiễm ngũ dục
lục trần khởi động, cách đối trị tổng quát, là nên quán sát thuần thục bốn lý:
Bất Tịnh, Khổ, Vô Thường, Vô Ngã.
1. "Bất Tịnh" là chỉ cho thân không sạch, tâm không sạch, và
cảnh không sạch.
Thân không sạch, là phải quán xét thân ta và người bên ngoài nhờ có lớp
da che giấu, bên trong chỉ toàn những thứ hôi tanh nhơ nhớp như: thịt, xương,
máu, mủ, đờm, dãi, phẩn, nước tiểu v.v... Đã thế mà các thứ nhơ nhớp bên trong
còn bài tiết ra cửu khiếu bên ngoài. Suy xét kỹ, sắc thân của chúng sanh không
có chi đáng ưa thích.
Tâm không sạch, là khi tâm sanh tham nhiễm tất nó đã thành xấu xa
nhơ bợn, chẳng khác chi hồ nước trong bị cáu bùn làm bẩn đục. Hồ nước đục không
thể soi bóng sắc cây núi trời mây, tâm nhơ bợn mất hết thần thông trí huệ. Nên
nhớ câu:
Biết tu hành chớ phí uổng
công.
Tâm bình tịnh thần thông trí huệ!
Người đã phát nguyện bước
lên đường tu, phải lập chí lần lần dứt trừ tâm phiền não nhiễm dục từ thô đến
tế.
Cảnh không sạch, là cảnh giới cõi ngũ trược này dẫy đầy bùn đất, đá
sỏi, chông gai, lại dung chứa vô số chúng sanh từ thân đến tâm đều nhơ bợn. Cho
nên cảnh Uế Độ này không có chi đáng say mê tham luyến.
2. "Khổ" là chỉ cho thân khổ, tâm khổ và cảnh khổ.
Thân khổ, là thân này đã nhơ nhớp, lại bị sự sanh già bịnh
chết, nóng lạnh, đói khát, vất vả cực nhọc chi phối, làm cho khổ sở không được
tự tại an vui.
Tâm khổ, là khi tâm ta khởi phiền não, tất bị lửa phiền não
thiêu đốt, giây phiền não trói buộc, roi phiền não đánh đuổi sai khiến, khói
bụi phiền não làm tăm tối nhiễm ô. Cho nên người nào khởi phiền não tất kẻ đó
thiếu trí huệ, vì tự làm khổ mình trước nhứt.
Cảnh khổ, là cảnh này nắng lửa mưa dầu, chúng sanh vất vả
trong cuộc mưu sinh, mỗi ngày ta thấy trước mắt diễn đầy những hiện trạng nhọc
nhằn bi thảm.
3. "Vô Thường" là thân vô thường, tâm vô thường và cảnh vô
thường.
Thân vô thường là thân này mau tàn tạ, dễ suy già rồi kết cuộc sẽ
phải đi đến cái chết. Người xưa đã than:
Nhớ thuở còn thơ dong ngựa
trúc.
Thoát trông nay tóc điểm màu sương.
Mưu lược dõng mãnh như Văn
Chủng, Ngũ Tữ Tư; sắc đẹp dễ say người như Tây Thi, Trịnh Đán, kết cuộc:
Hồng nhan già xấu, anh
hùng mất.
Đôi mắt thư sinh cũng mỏi buồn.
Tâm vô thường, là tâm niệm chúng sanh thay đổi luôn luôn, khi
thương giận, lúc vui buồn. Những niệm ấy xét ra huyễn hư như bọt nước.
Cảnh vô thường, là chẳng những hoàn cảnh xung quanh ta hằng đổi
thay biến chuyển, mà sự vui cũng vô thường. Món ăn dù ngon, qua cổ họng rồi thành không; cuộc sum
họp dù đầm ấm, kết cuộc cũng phải chia tan; buổi hát vui rồi sẽ vãng; quyển
sách hay, lần lượt cũng đến trang cuối cùng.
4. "Vô Ngã" nghĩa là không có ta, không tự thể, tự chủ. Điều này
cũng gồm có thân vô ngã, tâm vô ngã và cảnh vô ngã.
Thân vô ngã là thân này hư huyễn không tự chủ, ta chẳng thể
làm cho nó trẻ mãi, không già chết. Dù cho bậc thiên tiên cũng chỉ lưu trụ được
sắc thân trong một thời hạn nào thôi.
Tâm vô ngã, chỉ cho tâm hư vọng của chúng sanh không có tự thể;
như tâm tham nhiễm, niệm buồn giận thương vui thoạt đến rồi tan, không có chi
là chân thật.
Cảnh vô ngã là cảnh giới xung quanh ta như huyễn mộng, nó không tự
chủ được, và bị sự sanh diệt chi phối. Đô thị đổi ra gò hoang, ruộng dâu hóa
thành biển cả, vạn vật luôn luôn biến chuyển trong từng giây phút, cảnh này ẩn
mất, cảnh khác hiện lên.
Khi quán xét từ thân tâm
đến cảnh giới đều bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã, hành giả sẽ dứt trừ được
tâm tham nhiễm.
Bởi chúng sanh thiếu mất
trí huệ, thường sống trong sự điên đảo, không sạch cho là sạch, khổ cho là vui,
vô thường cho là thường, vô ngã cho là ngã, rồi sanh ra mê say đắm nhiễm, nên
đức Phật dạy phải dùng bốn pháp này để quán phá bốn sự điên đảo đó.
Chẳng hạn như phẩn uế, ta
cho là thối tha nhơ nhớp, nhưng loài chó lợn vì nghiệp mê nhiễm, thấy là thơm
sạch ngon, nên đua nhau tranh giành. Sự dục nhiễm ở nhơn gian, loài người cho là vui sạch đáng ưa
thích, nhưng chư thiên cho
là hôi tanh nhơ nhớp, chẳng khác chi ta thấy loài chó, lợn ăn đồ ô uế. Sự dục
nhiễm của chúng sanh rất si mê điên đảo đại khái là như thế, nên người tu phải
cố gắng lần lượt phá trừ.
Nhưng làm thế nào biết được ai
là CHÂN tu, GIẢ tu?
Lại để chỉ rõ thế nào là
chân tu, cùng tư cách của bậc chân tu, xin dẫn chứng thêm một đoạn trong bài kệ
Vô Tướng, Kinh Pháp Bảo Đàn của đức Lục Tổ:
Nếu là bậc chân tu
Không thấy lỗi của đời.
Nếu như thấy lỗi người
Mình chê, là kém dở!
Người quấy, ta đừng quấy
Ta chê, tự có lỗi.
Muốn phá tan phiền não
Hãy trừ tâm thị phi
Thương ghét chẳng để lòng
Nằm thẳng đôi chân nghỉ!
(Pháp Bảo Đàn Kinh, Vô Tướng kệ)
Những hàng con Phật hoặc
xuất gia hoặc tại gia, đều tự xem mình là người tu hành lo đạo. Nhưng làm thế
nào biết được ai là chân tu, giả tu? Về điều này, đức Lục Tổ đưa ra một cách
giảo nghiệm rất đơn giản, Ngài bảo: "Nếu là bậc chân tu, không thấy lỗi của đời."
Mà thật thế, bậc chân tu
luôn luôn tự nhìn để sửa lỗi, trụ nơi tịch định; dứt hẳn lòng ngã nhơn phân
biệt, có tâm tư đâu nghĩ đến việc hay dở tốt xấu của người!
Kẻ giả tu trái lại, tâm
nhơn ngã hơn thua ganh ghét dẫy đầy, mở miệng ra là phê bình chỉ trích, nói
điều hay dở của thế gian; rất cách xa với đạo.Bởi thế, khi còn thấy lỗi người
rồi khinh báng chê bai, tất nhiên tỏ ra mình đã kém dở trước nhất, vì tâm hãy
còn vọng động phân biệt, thiếu đức trí huệ từ bi, sẽ chiêu cảm lấy tội báo về
sau.
Người quấy mặt người, ta
đừng quấy, nên học bậc trí nhơn, để lòng trong sáng như gương, việc sắp đến
không đón trước, việc đã qua chẳng luyến mơ, tâm linh sáng suốt bình đẳng khắp
mọi nơi, sẽ có sự diệu ứng vô cùng! Nếu động niệm ganh ghét, nói lời khinh chê,
thì bên trong chân tánh đã bị nhiễm ô, bên ngoài lại chuốc lấy việc oán thù
tranh chấp, sự sai lầm tội lỗi càng thêm.
Cho nên muốn được an
nhàn khỏi phiền não, đừng phê luận việc phải quấy của người. Câu "Hãy trừ tâm thị phi" còn có ý nghĩa sâu là: trừ tứ cú, tuyệt bách phi.
"Nằm thẳng đôi chân nghỉ", tức là cảnh giới đại giải thoát, chỉ cho
sự tham học đã xong, đói thì ăn, mệt nằm ngủ.
Bậc chân tu luôn luôn có
lập trường sáng suốt vững chắc, không quan tâm đến sự khen chê thương ghét bên
ngoài. Như thuở xưa Nghĩa Thanh thiền sư sau khi đắc pháp với ngài Phù Sơn, đến
ngụ nơi chùa của Viên Thông Tú hòa thượng. Tuy ở trong đại chúng nhưng Sư không
tham thiền hỏi đạo, mỗi ngày chỉ nằm ngủ.
Vị tăng chấp sự đem việc
ấy bạch lại. Ngài Viên Thông cầm tích trượng đến tăng đường, thấy Sư đang nằm
nhắm mắt liền quở rằng: "Nơi đây không có thừa cơm gạo để cho thượng tọa
ăn rồi nằm ngủ!" Sư nói: "Thế thì hòa thượng
bảo tôi phải làm gì?" Thông hỏi:
"Sao không đi tham thiền?"
- Đáp: "Thức
ngon chẳng giúp gì cho người đã ăn no." Hòa thượng bảo: "Có nhiều
người không bằng lòng thượng tọa." Sư nói: "Giả sử bằng lòng, thì tôi
sẽ được gì?" Thấy lời nói khác thường, ngài Viên Thông hỏi tiếp:
"Thượng tọa đã từng tham kiến vị nào?"
- Đáp: "Tôi từ nơi
ngài Phù Sơn đến đây." Hòa thượng nói: "Thảo nào ông lại chẳng cứng đầu!" Liền nắm tay nhau cả cười, rồi đi về phương
trượng.
Sau Nghĩa Thanh thiền sư
nối pháp cho ngài Đầu Tử Ngung. Vào hôm mùng bốn tháng năm, niên hiệu Nguyên
Phong thứ sáu đời Tống, thiền sư tắm gội rồi lên pháp tòa từ biệt đại chúng,
lưu bài kệ xong, liền buông bút tọa hóa. Như Nghĩa Thanh thiền sư tác phong
phóng khoáng, sống chết tự do dường ấy, có phải Ngài đã lãnh hội câu: "Thương ghét chẳng để lòng. Nằm thẳng đôi chân
nghỉ" đó ư?
Một câu A Di Ðà
Mở toang cửa Bát Nhã
Muôn pháp cõi thập hư
Một miếng nuốt tất cả.
( Nhứt cú Di Ðà
Khai Bát Nhã môn
Thập hư vạn pháp
Nhứt khẩu bình thôn.)
LƯỢC GIẢI
Bát Nhã là trí huệ. “Thập hư” có nghĩa: cõi hư
không ở mười phương. Một câu Phật hiệu nếu niệm cùng cực, tất mở toang được trí
huệ và bao hàm muôn pháp ở mười phương hư không. Muốn một miếng nuốt trọn muôn
pháp cõi thập hư, bên trong hành giả phải tiêu trừ bốn đại, năm uẩn thuộc Ngã Chấp,
bên ngoài xả bỏ sáu trần cùng thời gian, không gian thuộc Pháp Chấp.
Khi chuyên giữ một câu
Phật hiệu, xả trừ quan niệm chấp thân tâm và thế giới như thế, đến lúc sức cực
công thuần, tâm của đương nhân bỗng mở rỗng rang, bao trùm muôn pháp khắp mười
phương như bọt nước hòa tan đồng sức hàm chứa cùng biển rộng. Ðó gọi là “một miếng nuốt tất cả”.
Thuở xưa cư sĩ Bàng Uẩn
đến tham khấu đức Mã Tổ hỏi: "Thế nào là ý của Tổ Sư Ðạt Ma từ Tây
Phương đến?". Mã Tổ đáp: "Ðợi khi nào ông uống một hớp hết
nước sông Tây Giang, ta sẽ nói cho biết!". Cư sĩ nghe xong bỗng đại ngộ.
Hành giả niệm Phật nên theo
dõi bước đại ngộ này, đừng quan thiệp vào lý giải.
Sự An Nhẫn Của Cư Sĩ Phó Xuân-Phố
Phó Xuyên, tự Xuân Phố,
người thời Trung Hoa Dân Quốc, quê ở xã Đông Quách, huyện Thanh Giang, tỉnh
Giang Tây. Thuở bé ông mồ côi cha sớm, mẹ là Nhiếp thái phu nhơn thủ tiết, chịu
khổ nuôi dưỡng, khuyến khích học hành cho đến lúc nên người.
Xuân Phố từng nhậm các
chức sự như: huấn khoa viên tại huyện thự Thanh Giang, cảnh sát trưởng nơi trấn
Chu Đàm, và hiệu trưởng Nghĩa Vụ học hiệu ở Chương Thọ. Ông là người thông minh
mẫn tiệp, hằng tham dự các công vụ. Mỗi khi có việc chi khó khăn, hàng quan
thân thường mời đến nhờ giúp ý kiến giải quyết.
Nhiếp thái phu nhơn từ
lâu đã thờ kính Quán Thế Âm Bồ Tát, và niệm Phật trường trai.
Năm Dân Quốc thứ mười
bảy, thái phu nhơn nhiễm bịnh, ông phát nguyện triều Phổ Đà lễ Đại Sĩ, nhờ đó không thuốc mà bịnh tự lành. Tháng Chín năm Dân Quốc thứ hai mươi (1931), Xuân
Phố mới đến Phổ Đà để hoàn nguyện. Khi ông chí thành lễ động Phạm Âm, cảm đức
Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân tướng mặc áo trắng, tay cầm tịnh bình và cành
dương liễu. Ông lại cầu Bồ Tát gia bị cho biết đời trước, thấy tiền thân mình là một vị tăng tu hạnh đầu đà, y
phục thô sơ lam lũ.
Do duyên sự đó, Xuân Phố
tỉnh ngộ, biết việc luân hồi không phải hư huyễn, chí xuất trần càng tha thiết.
Ông nhờ Nguyệt Tịnh pháp sư giới thiệu cho tham yết ngài Ấn Quang và Đức Sum
pháp sư nơi chùa Báo Quốc tại tỉnh Tô Châu, mới nghe được pháp yếu của tông
Tịnh Độ. Sau khi ấy, ở Hoằng Hóa Xã xuất bản kinh sách chi cũng đều có tặng
cho. Nhờ đó sự tin hiểu về Phật pháp của ông càng thâm thúy. Lúc bấy giờ Xuân
Phố mới quyết định tiến thẳng lên đường đạo, quy y thọ giới Ưu Bà Tắc với Đức
Sum pháp sư, được pháp hiệu là Thiền Xuyên, tự Hàng Tây.
Sau khi vào đạo, cư sĩ
tín nguyện sâu thiết, tinh tấn niệm Phật không biếng trễ. Năm Dân Quốc thứ hai
mươi hai, ông được mời làm chủ giảng ở Niệm Phật Lâm tại Lộc Giang, dẫn dắt
khuyến dụ người tu tiến rất nhiều. Cư sĩ thể chất vốn yếu, thường hay đau bịnh,
lại vì tánh tình liêm khiết nên gia đạo vẫn nghèo, lắm lúc bị nợ nần thiếu hụt.
Bởi hàn vi nên tình đời
thường sơ bạc, gia dĩ nghiệp chướng phát hiện, tiếng thị phi chịu cũng rất
nhiều. Ông hằng muốn xuất gia, nhưng vì số vận mãi long đong, nên cơ duyên chưa
thuận tiện. Tuy quanh mình gia lụy buộc
ràng, nhưng bởi chí nguyện chán cõi trược cầu vãng sanh tha thiết, sớm hôm cư
sĩ vẫn tinh tấn lễ niệm, dù đau bịnh cũng gắng gượng, không khi nào sơ sót.
Mùa Xuân năm Dân Quốc
thứ hai mươi bảy (1938), cư sĩ mộng thấy đức Quán Thế Âm hiện thân, bảo cho biết quy kỳ vào hạ tuần tháng Bảy. Đến rằm Trung Nguơn, sau hội Vu Lan Bồn, cư sĩ ngã
bịnh, song vẫn nhứt tâm niệm Phật, hầu như quên bịnh khổ, uống ăn. Ngày hai
mươi sáu bịnh trở nặng, người nhà thương khóc, cư sĩ cười bảo: "Tôi sẽ vãng sanh vào ngày vía đức Địa Tạng, hãy
nên vui mừng, đừng bi lụy." Đến ngày ấy, cư sĩ lại ghế ngồi kiết dà, kiết ấn Di Đà định,
nhìn chăm chú tượng Phật, rồi an nhiên qua đời. Lúc đó, gương mặt ông bỗng sáng
rạng rỡ hơn lúc sanh bình, thân thể lần lần lạnh,
chỉ có đỉnh đầu còn nóng.
Sau khi cư sĩ vãng sanh,
vị tọa chủ chùa Thông Tuệ và Đại Nhân pháp sư đồng đến lo liệu cho việc nhập
khám, nhục thân của cư sĩ vẫn ngồi thẳng như lúc bình thời. Trước ngày ấy gió
mưa rất lớn, nhưng vào nửa đêm đến khi đốt lửa làm lễ trà tỳ, trời bỗng sáng
tạnh, hương lạ bay ngào ngạt, không phải mùi trầm đàn cũng không phải mùi hoa
lan. Từ nóc khám, một đạo bạch quang phóng lên hư không, rồi bay thẳng về Tây.
Lúc ấy vào tiết sơ Thu, khí hậu viêm nhiệt, cư sĩ chết đã ba ngày mà thây không hôi, lại phóng mùi
thơm và ánh quang minh, nên ai nấy đều khen lạ. Bấy giờ cư sĩ đã bốn mươi tám tuổi.
Thời mạt pháp người niệm
Phật nhiều, mà thành công ít, bởi vì không nguyện thiết tin sâu. Luận về tư
cách bậc trượng phu, thầy Mạnh Tử bảo:
"Giàu-sang không làm cho kiêu
dâm,
Nghèo-hèn không làm cho đổi chí,
Uy-vũ không làm cho khuất phục."
Pháp thế gian còn như
thế, huống là người theo Phật pháp tu Tịnh Độ cầu siêu phàm nhập thánh ư?
Như cư sĩ Phó Xuân Phố:
nhà nghèo, thân bịnh, gia lụy, mà vẫn nhẫn nại lướt qua, chuyên tâm niệm Phật,
ngàn tiếng khen chê chẳng quản, trăm điều mài bẻ không sờn. Nhờ đó đến khi lâm
chung biết ngày giờ trước, điềm lạ hiện bày. Như thế đủ thấy môn Tịnh Độ là bi
nguyện triệt để của Như Lai, nếu chịu quyết tâm, không ai chẳng lên thuyền giải
thoát.
Xem gương cư sĩ xong, bỗng
cảm khái tự hỏi:
Tánh linh nguyên cũng
vẫn đồng,
Siêu đọa bởi sao sai
khác,
Khúc điệu Cao Sơn vang
lại đó,
Lắng nghe Lưu Thủy mấy
ai đây?
Nên viết ra khuyên người
mà cũng để nhắc mình vậy.
Sức yếu phải cam phần kém yếu
Tình đời ví nhẹ đạo tâm sinh.
BÀI SỐ 67
Ẩn tu tưởng đến cảnh
Lê-viên
Điệu múa Nghê thường đẹp áo
Xiêm
Kim cốc sanh ca dìu dặt
trổi
Mà nay suông lạnh ánh thu
thiềm !
NHƯ Ý : Trong một đêm Trung-thu, ánh TRĂNG vầng dặt,
LA CÔNG-VIỄN dùng phép Thang-mây đưa Đường Minh-Hoàng lên cung Trăng, đến
nơi nhà VUA thấy tấm bảng đề: “QUẢNG HÀN THANH HƯ TIÊN PHỦ”, các Tiên Nữ tiệc đẹp
đầu cài Hoa, mặc áo dài tha thướt, như RÁNG MÂY, đang MÚA
nhịp nhàng theo tiếng nhạc ở trong ấy.
Chư Thiên khác thì Yên lặng
ngồi xem, không ĐỂ Ý gì đến Minh-Hoàng, Mặt dù trên NGỰC Vua có đeo tấm
bài NGÀ, đề “Thái Bình Thiên Tử”, thấy điệu múa đẹp VUA hỏi thì LA CÔNG VIỄN
đáp, đó là “NGHÊ THƯỜNG TIÊN Y VŨ KHÚC”.
Về dưới Trần, VUA họp
các Cung-nữ, dạy Vũ-sư Chế biến và Huấn luyện Vũ khúc ấy ,
rồi từ đó nơi VƯỜN-LÊ của MINH-HOÀNG, lại hiện ra quang
cảnh điệu GHÊ THƯỜNG lẫn tiếng sanh ca, nghi bát vật
xen hàng lượng múa, mỗi khi trời trong trắng sáng, câu chuyện
tương truyền là như thế, nhưng cảnh Huyền-Ảo của
Quảng-Hàn vẻ đẹp sang của Kim-Cốc, nay đều như “Mộng” chỉ còn ánh Trăng
sương lạnh mà thôi.
KHUYÊN TU
Xưa Nhan-Bính, Như Như
Cư-sĩ,
Dẫn Luận Kinh, ý ý khuyên cầu.
Bút nhàn phiên, khoảng canh thâu,
Tỉnh ai Trần-lụy, đổi sầu làm tươi!
Thân mộng ảnh, lắm người
yêu quí
Yêu quí thân, cho lụy vì
thân
Tham vui những ước vô ngần
Nào hay vui lại là nhân khổ sầu!
Giấc phù thể, bóng câu cửa sổ
Vóc hư huyễn, giọt lộ lòng hoa
Đôi mươi trẻ, chín mươi già
Những dù yểu thọ chẳng qua vô thường
Dép dưới giường, lên
giường cách biệt
Sống ngày nay, dễ biết ngày mai?
Mạng người hô hấp cho hay
Gẫm cơn vĩnh biệt tuyền đài mà đau!
Than duyên kiếp, ngắn sao một kiếp?
Đắm huyễn thân, nhiều thiệt bởi thân!
Lớp da gói những thịt gân
Bến duyên giả hợp rồi phân chắc gì?
Tóc, răng, móng, vẻ chi
đất bợn!
Huyết, tủy, xương, chán gớm bọt bèo;
Bên ngoài rệp đúp muỗi đeo
Bên trong trùng sán lẫn vào nhớp chưa?
Nỗi nóng bức, ngày trưa tiết hạ
Cơn lạnh lùng, đêm giá trời đông
Xét thân khổ, tỉnh mơ mòng
Khép lòng ái luyến, mở lòng thoát ly.
Mùi thế lụy say chi lắm
kẻ?
Lớp phong lưu, bày vẽ y
quan
Dại khôn cùng học làm sang
Sóng lòng điên đảo theo làn sắc thanh
Đầu xương nọ, cài trăm thắt lụa
Đãy da kia, ướp xạ xông hương
Đua đòi nhung gấm phô trương
Chỉ tuồng che lớp vô thường nhơ tanh
Vườn hoa mộng, tưởng xanh
muôn thuở
Tuổi phương xuân, còn ngở
dài xa!
Phút đâu tai điếc mắt lòa
Diêm Vương chực rước đến tòa U Minh
Làn tóc bạc, nhắn tín sứ quỉ
Chiếc răng long, gởi ý quy âm
Càng tài càng sắc càng dâm
Càng cho đọa lạc, càng lầm mà thôi
Mùi hoan ái, một thời say
tiếc
Nẻo luân hỏi, muôn kiếp
đắng cay
Đến khi sắp xuống Diêm đài
Gân xương đau nhức, chân tay rụng rời!
Vợ lưu luyến, đầy vơi mắt lệ
Con xót xa, kể lể tiếng than!
Dầu rằng quyến thuộc trăm ngàn
Có ai thay thể cho chàng được chăng?
Kẻ sống ở, nặng oằn gánh
tủi
Người thác đi, rong ruổi phách hồn
Đường âm mờ tựa đêm hôm
Trông ra quạnh quẽ bồn chồn thảm thê!
Nại Hà đến, lạnh tê gió lốc
Quỉ Môn sang, ghê gốc tiếng thương!
Bảy ngày lìa quá cõi dương
Âm ty đã trải trăm đường khảo tra
Tào quan xử, quát la chẳng
vị
Ngục tốt hờn, quay chủy múa xoa
Đài gương Nghiệt Cảnh sáng lòa
Soi tường thiện ác chối qua được nào
Người nhân đức, đưa vào cửa phước
Kẻ hung gian, giải trước hình ty
Dạ đài khổ sở xiểt chi
Mới hay nhân quả mấy khi sai lầm?
Rừng đao kiếm, bao năm hết
tội?
Kìểp sừng lông, nhiều nỗi đa mang!
Trả đền cho dứt nghiệp oan
Mới mong thoát khỏi mọi đàng long đong
Dù ai có to lòng lớn mật
Mặc chàng hay báng Phật khinh Tăng
Chẳng qua đối trước Diêm quân
Cúi đầu co gối chịu phần xử tra.
Hồn phách đã chơi xa âm
giới
Thi hài còn ở cõi dương
gian
Có tiền mua lớp áo quan
Không tiền vùi góc núi hoang lạnh lùng!
Chất xương thịt sẽ cùng tan rã
Tấm hình hài lần hóa tanh hôi
Chỉ trong chầy sớm mà thôi
Chầy trong nửa tháng, sớm thời ít hôm
Nét kiều diễm, chập chờn
xuân mộng
Kiếp tài hoa, hình bóng
bạch vân
Khi xưa tài sắc mười phân
Mà nay một nắm cô phần lạnh tanh
Thời oanh liệt, hùng anh đâu tá?
Cuộc ái ân hư giả còn chi?
Phất phơ cành liễu xanh rì
Giấy tiền treo đó dường ghi mối sầu!
Bóng chiều rủ xuống mầu
cỏ biếc
Bia mồ trơ một chiếc vắng không
Nghĩ thôi rơi lệ chạnh lòng
Đời người đến thế là xong một đời!
Vì chẳng biết tìm nơi giải
thoát
Nương về nơi Chánh giác quy-y
Luân hồi hẳn dứt có khi
Bên trời Bát Nhã còn chi lo phiền?
Lối ma quỉ, dừng riêng mưu sống
Đất từ bi gieo giống hoa
đàm
Giữ lòng thiện, dứt lòng tham
Gái trai tăng tục đều kham tu hành
Rõ cảnh mộng, chớ quanh
đường mộng
Biết miền chơn, kịp chóng
tu chơn
Dần dà tính thiệt so hơn
Tuổi xuân qua mất để hờn về sau!
Sáu chữ Phật, cùng nhau gắng niệm
Chín phẩm đài, sẽ chiếm ngôi vinh
Chớ nên mình phụ lấy mình
Trách sao Diêm lão vô tình chẳng dung?
Bỏ điều ác, thuận tùng nẻo
thiện
Chừa lỗi xưa, tu tiến
đường sau
Lại vì quyến thuộc bảo nhau
Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì
Khiến mỗi kẻ đều quy bển giác
Cho muôn người đồng thoát sông mê
Dù trong lao khổ dám nề
Đài sen đốt mảnh hương thề nguyền xin
Nguyền xin quyết vững
tin lời Phật
Nguyền từ nay khép chặt phòng thu
Nguyền kiếp nầy gắng công phu
Thân người dễ mất quả tu khó thành!
HT. THÍCH THIỀN TÂM,
bút hiệu Trí-Hiền
KINH KIM CANG
BÁT NHÃ BA LA MẬT
Diêu-Tần, Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu Ma La Thập Hán
dịch
HT. THÍCH TRÍ TỊNH Việt
dịch
26.- PHÁP THÂN KHÔNG
PHẢI SẮC TƯỚNG
Nầy Tu-Bồ-Đề! Nơi ý của
ông nghĩ thế nào? Có thể do nơi BA MƯƠI HAI TƯỚNG mà xem là đức NHƯ LAI
chăng?"
Ông Tu-Bồ-Đề bạch rằng:
"Đúng thế! Đúng thế! Do nơi ba mươi hai tướng mà xem là đức Như-Lai".
Đức Phật dạy rằng:
"Nầy Tu-Bồ-Đề! Nếu do nơi ba mươi hai tướng mà xem là đức Như-Lai đó, thời
vua CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG chính là đức Như-Lai rồi!"
Ông Tu-Bồ-Đề bạch với
đức Phật rằng "Bạch đức Thế-Tôn! Theo như con hiểu nghĩa-lý của đức Phật
nói, thời chẳng nên do nơi ba-mươi-hai tướng mà xem là đức Như-Lai". Bấy
giờ đức Thế-Tôn liền nói kệ rằng:
Nếu dùng sắc thấy Ta,
Dùng tiếng tâm cầu Ta,
Người ấy tu đạo tà,
Chẳng thấy được Như-Lai.
27.-KHÔNG ĐOẠN CŨNG KHÔNG DIỆT
Tu-Bồ-Đề! Nếu ông nghĩ
thế nầy: Đức Như-Lai, không phải vì có tướng cụ-túc mà được Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác!
Tu-Bồ-Đề! Ông cũng đừng
nghĩ như vầy: Đức Như-Lai há chẳng do nơi tướng cụ-túc mà được Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác sao?
Tu-Bồ-Đề! Nếu ông nghĩ
như vầy: Người phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác nói các pháp đều đoạn
diệt. Ông đừng nghĩ như thế. Bởi vì sao?
Vì nơi các pháp, người
phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác không nói tướng đoạn diệt.
32.- ỨNG HÓA THÂN KHÔNG PHẢI CHƠN THẬT
Nầy Tu-Bồ-Đề! Như có
người đem bảy thứ báu đầy cả vô-lượng vô-số cõi nước để làm việc bố-thí. Như có
trang thiện-nam, người thiện-nữ nào, phát tâm Bồ-đề, thọ-trì kinh nầy, nhẫn đến
một bài kệ bốn câu v.v... tự mình thọ-trì, đọc-tụng, lại giảng cho kẻ khác
nghe, thời phước-đức của người nầy hơn người trước.
Giảng nói cho người khác
nghe như thế nào? : – " Không chấp lấy nơi tướng, như-như chẳng
động?"
Bởi vì sao?
Tất cả những pháp hữu-vi
Khác nào mộng, huyễn, khác gì điện, sương.
Như bóng nước, như ảnh-tượng.
Xét suy như thế cho thường chớ quên!
Hỏi: Kinh Kim Cang nói: "Tất cả pháp hữu vi, như
mộng, huyễn, bóng, bọt". Thế thì cảnh Ta Bà đã huyễn, mà cõi Cực Lạc cũng
là huyễn. Sao không đi ngay vào bản tâm chân thật, còn cầu về cảnh huyễn làm
chi?
- Đáp: Thật ra các cõi Uế Độ và Tịnh Độ trong mười phương
đều dường mộng huyễn; nhưng khi nào chứng được Như Huyễn Tam Muội, mới thấy đó
là hư giả. Bằng chưa được như thế, vẫn thấy nó là thật, vẫn bị nó chi phối, vẫn
còn biết khổ vui, vào mùa nắng vẫn khó chịu về sự nóng bức, cho đến việc rất
nhỏ như con kiến, con muỗi cắn đốt cũng vẫn còn bị đớn đau. Như vậy sao được
gọi là Huyễn?
Nên biết môn Tịnh Độ là
phương tiện nhiệm mầu của Phật, mượn cảnh như huyễn an vui, để đưa chúng sanh
thoát khỏi cảnh như huyễn thống khổ dẫy đầy chướng duyên và hiểm nạn. Rồi từ cảnh an vui như huyễn đó tiến tu dễ dàng, để mau
chứng vào cõi chân tâm thường tịch.
Lấy một thí dụ như tại cõi
Ta Bà này, cảnh gia đình hay nơi thị tứ ồn ào là huyễn, cảnh chùa am hoặc chốn
núi non vắng vẻ cũng là huyễn. Nhưng tại sao người tu giải thoát, lại bỏ cảnh
gia đình thị tứ tìm nơi chùa am thanh vắng ở núi non? Có phải tại chốn gia đình nhiều bận buộc, cảnh huyên náo
khó nhiếp tâm, mà nơi chùa am hay chỗ núi non thanh vắng dễ tu chăng?
Cho nên cảnh phàm tình
cùng cảnh thánh chứng khác nhau, phàm tình mà đặt mình vào cảnh thánh chứng là
điều xa vời trái với thật tế. Ta còn phàm phu hãy cứ theo phận phàm phu mà tuần
tự tiến tu, đừng vội đem con mắt thánh nhìn nói quá cao xa, thành ra vọng ngữ
và có hại.
Khi xưa cũng có một Thiền
giả cho cõi Cực Lạc là huyễn mộng, niệm Phật cầu vãng sanh vô ích. Triệt Ngộ
đại sư nghe lời này, liền bảo:
"Không phải thế đâu!
Từ bậc Thất Địa Bồ Tát trở về trước, đều tu hành ở trong mộng. Đến như đối với
mộng lớn vô minh, thì bậc Đẳng Giác vẫn còn say ngủ. Duy riêng chư Phật mới có thể tôn xưng Đại Giác, là
những bậc hoàn toàn thức tỉnh mà thôi. Khi tự thân đã ở trong mộng, thì sự vui khổ vẫn uyển
nhiên, vui cũng thấy vui, khổ còn biết khổ, sao được gọi mình là người tỉnh mơ,
cảnh là huyễn mộng?
Thế thì thay vì ở trong
cảnh mộng khổ của Ta Bà, sao bằng về cảnh mộng vui nơi Cực Lạc! Huống chi mộng
ở Ta Bà là từ mộng vào mộng, bị cảnh duyên nghiệp lực lôi cuốn, mãi luân hồi
sống chết chìm mê. Còn cảnh mộng ở Cực Lạc là từ mộng đến giác, lần lượt sẽ
thức tỉnh hoàn toàn chứng lên quả Phật.
Cho nên mộng huyễn vẫn
đồng, mà duyên cảnh mộng ở hai nơi
thật chẳng đồng vậy. Thế thì sự niệm Phật cầu vãng sanh chẳng là cần thiết
lắm ư!"
Lời cổ đức giải thích như
thế, thì sự cầu sanh đã được hiển minh. Tuy nhiên, bài kệ trong Kinh Kim Cang
nói đó, vẫn còn là lời phương tiện để cho chúng sanh lìa quan niệm chấp có theo
phàm tình. Tiến một bước cao hơn, như Kinh Đại Phẩm Bát Nhã nói:
"Như Lai vì hạng
người căn tánh tối, mà nói các pháp như huyễn vắng lặng, vì e họ sanh chấp
kiến; vì hạng người căn tánh sáng,
nói tướng hảo của chư Phật, bởi họ như hoa sen chẳng nhiễm trần."
Cho nên Tu Bồ Đề là bậc
giải ngộ lý Không bậc nhứt, tuyệt không danh tướng, mà đức Thế Tôn lại thọ ký
cho ông về sau thành Phật, hiệu là Danh Tướng Như Lai. Thế thì lý mầu không danh tướng chẳng ngoài danh tướng,
tất cả pháp mộng huyễn đều là Phật pháp chân thường. Và đi sâu đến chỗ viên dung, như đức Lục Tổ nói,
thì phàm phu nguyên là Phật, phiền não tức Bồ Đề, tất cả vô minh huyễn vọng đều
là thể viên minh chân giác của Như Lai tạng.
Niệm Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Một câu A Di Ðà
Pháp vô vi đại bảo
Hằng ngày một niệm chuyên
Gươm linh rời hộp báu.
( Nhứt cú Di Ðà
Vô vi đại pháp
Nhựt dụng đơn đề
Kiếm ly bảo hạp.)
LƯỢC GIẢI
Trong danh từ Vô Vi, chữ Vi có nghĩa: khởi làm hay tác động. Vì các tướng động
chuyển trong mười phương thế giới đều sanh diệt như mộng huyễn, như bọt bóng,
không có thật thể, nên gọi Vô-Vi. Ðừng lầm hiểu Vô Vi là rỗng không, chẳng có tướng
trạng hay tác động chi cả mà sai lạc.
Cho nên trong kinh nói:
"Bồ-tát tuy thị hiện
vô biên quyến thuộc, mà tâm hằng không quyến thuộc. Tuy thật hành sáu độ cùng
tất cả việc lành, mà không thấy mình hay làm và có các pháp để tu. Tuy độ vộ
lượng chúng sanh, mà không thấy mình là người hóa độ và những chúng sanh được
độ". Ðó là hạnh Vô Vi. Hạnh Vô Vi như thế mới gọi là đại pháp lớn rộng và
quí báu.
Nơi đây Triệt-Ngộ đại sư dạy: "Người tu Tịnh Ðộ khi niệm Phật không
thấy mình là kẻ hay niệm, Phật là vị được niệm, câu hồng danh là pháp tu niệm;
dứt tất cả phiền não vọng tưởng, trong quên thân tâm, ngoài tan ngoại cảnh.
Hằng ngày đề khởi chuyên niệm như thế, sử dụng câu hồng danh như bậc kiếm sĩ
rút gươm thiêng sắc bén ra khỏi vỏ hộp báu, vật chi xúc phạm dến đều bị chém
đứt tan.
Hành trì như thế tất sẽ
chứng vào pháp giới Vô Vi rộng lớn, nhập Không Huệ đà ra ni vậy".
DƯ PHU NHƠN
Dư phu nhơn, nguyên là
con của Dư Thích Trung, vợ của cư sĩ Thích Ngạc Lâu, ờ huyện Hiệp Phí tỉnh An
Huy. Thích Trung từng thuyên chuyển làm quan tại các vùng Hoành Châu, Tứ Châu,
Tri Châu. Mẹ của phu nhơn là Khánh thị, cảm mộng thấy vị lão ni trao cho một
hạt châu mà sanh ra bà, nên phu nhơn được song thân đặt tên là Huệ Châu.
Từ thuở bé Huệ Châu đã
có tánh linh mẫn, học rộng kinh sử, sự hiểu biết sâu rộng hơn người. Năm mười
sáu tuổi gặp một cơn bịnh nguy ngặt, cô mộng thấy vị lão ni dùng tay xoa vuốt,
bịnh liền thuyên giảm rồi an lành. Sau khi được cha mẹ gả về nhà họ Lý, năm hai
mươi ba tuổi, Huệ Châu vương bịnh
nặng, lại mộng thấy vị lão ni trước cứu chữa và dạy bảo phải trì tụng kinh Kim
Cang. Lúc bình phục, phu
nhơn phát nguyện ngoài sự trì niệm hằng ngày, còn xin tả một trăm quyển Kim
Cang Bát Nhã.
Một đêm đang lúc tả
kinh, hoa đèn bỗng phát nổ tan ra thành những tia vầng như mây ráng đỏ, làm
sáng rực cả nhà, hồi lâu mới tắt. Từ đó mỗi khi cầm bút tả kinh, nơi móng cái
tay mặt của Huệ Châu liền hiện ra ánh sáng tròn như khuôn gương, soi thấy mặt
mình cùng mọi vật chung quanh. Lúc buông bút, quang minh đó mới ẩn mất. Trong
vài mươi năm đều có cảnh tượng ấy, nên phu nhơn tin Phật càng sâu.
Năm ba mươi tuổi, Huệ
Châu theo chồng trong cuộc thuyên quan đến tỉnh Hồ Bắc, thường ưa tới chùa lễ
Phật và hỏi đạo nơi hai bậc tôn túc là các ngài: Nguyệt Hà, Tâm Tịnh. Hơn bốn
mươi tuổi, bà trường trai niệm Phật, quy y với Đế Nhàn đại sư, được pháp danh
là Trí Đức. Mấy năm sau gia đình lại di chuyển về Tô Châu. Nơi đây, Phu nhơn mở
một gian tịnh thất thờ Phật rất trang nghiêm, hằng ngày tu Tịnh độ sám lễ kinh Địa Tạng.
Năm Dân Quốc thứ mười
bảy, lúc được năm mươi hai tuổi, phu nhơn cảm bịnh nhẹ, rồi giữ câu hồng danh
chánh niệm mà vãng sanh. Sau khi tắt hơi, đảnh đầu bà nóng rực hơn hai ngày mới
tan. Sanh bình, phu nhơn từng cắt thịt bắp vế hai lần hòa với thuốc để trị bịnh
cho cha và chồng.
Lúc nhập liệm, thi thể
của bà rất nhẹ nhàng, tay chân mềm dịu. Cuộc an táng hoàn tất vào chiều tối đêm
trung thu nơi miền sơn cương thanh tú. Lúc ấy trên trời gương nga vằng vặc,
chiếu soi một vùng rừng núi cao rộng bao la. Trăng cùng núi sáng lặng êm đềm,
như thầm chứng minh cho một chân linh đã được siêu thoát, một nguồn đạo vô kim
cổ, tuyệt nhị nguyên, không thể dùng sự tìm cầu hỏi han mà hiểu biết được! Bởi
dù có hỏi thì:
“Hỏi trăng, trăng chẳng
trả lời.
Hỏi hoa, hoa vẫn mỉm
cười làm ngơ.
Hỏi sông, sông lặng như
tờ.
Hỏi non, non vẫn trơ trơ
với mình!”
Như lời một vị thiền sư
đã nói.
BÀI SỐ 68
Ẩn tu Chiêm-tộc nhớ
Mường-Lan
Nữ chúa rừng xanh đẹp khác
phàm !
Tướng sĩ trận voi Uy-vũ
thạnh
Nhạc mờ Phan-Thiết núi sương lam !
NHƯ Ý : Sử liệu về “CHIÊM THÀNH” thì kẻ Bất-huệ này chưa có duyên
nghe đọc, nhưng trong một cơn Thanh-tịnh, được thấy một Nữ-Lan Vũ phục Nhan Sắc Mặn Mà, tự xưng
là Mường-Lan Người Chiêm Thành, Nữ Chúa Rừng Xanh ở Phan-Thiết, đến xin QUY Y.
(Bất huệ nạp-tăng, Thích
Thiền-Tâm hiệu Vô-Nhất)
Sau Bà có đông đảo
Tướng-Sĩ và đoàn Voi Trận Tùy Tùng, lại có hai tướng cận vệ cao lớn, một vị có
một vết sẹo bên mặt, Chắc là thương tích vì cuộc chiến, tiếng hát VONG
QUỐC của người Chiêm, dường như còn vang lại giọng điệu THƯƠNG TÂM, bút
giả xin ghi lại nơi đây nét cảm hoài ấy.
Thỉnh thoảng nghe vài nhơn
sĩ cao niên đã mượn lời của Nguyễn Du mà thầm lén than thở như sau:
Kể từ gây cuộc binh đao
Đống xương vô định đã cao bằng đầu!
Hay là:
Chân trời mặt bể linh đinh
Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào?
Và cho đến như:
… Còn ngày nào cũng dư
ngày ấy thôi, Đã không biết sống là vui, Tấm thân nào biết thiệt thòi là
thương!
Trong hoàn cảnh ấy, muốn
thoát mối nguy tương hoại tương tàn, nhơn loại phải hướng về đạo đức. Theo lời
Phật dạy, ngày sau do chúng sanh buông lung theo nghiệp sát, đạo, dâm, vọng nên
sẽ có Tam tai ác kiếp là: chiến tranh tàn phá, tật
bịnh lan tràn và đói rách nghèo khó nổi lên.
Kẻ nào muốn tiêu giảm nỗi
thống khổ, phải giữ chắc bốn giới: không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, dối gạt, tùy sức mình mà
gắng làm các điều lành. Những người ấy sẽ
được thiên thần ủng hộ, khiến cho nạn khỏi tai qua. Nếu tiến thêm, muốn tìm nẻo
thoát ly, phải tụng kinh hoặc trì chú và chí tâm niệm hồng danh đức A Di Đà cầu
sanh về Cực Lạc.
Căn cứ theo luật nhân quả,
mọi sự khổ vui đều do nghiệp lành dữ và bởi vô minh gây tạo. Trong cảnh nóng
bức của nhà lửa tam giới, phải bền lòng an nhẫn, phải thiết thật phụng hành
đúng như lời Phật dạy Đùng nên mãi hờn trách thở than, vì kết cuộc sẽ hóa ra vô
ích.
Trên đây là lời phụng
khuyến, là đường lối thoát ly duy nhứt, mà những kẻ học đạo muốn nhắn nhủ với
đồng nhơn.
THÍCH VÔ NHẤT
(Lấy ý câu: Nhất-sự Vô-thành thân tiệm lão)
Tiết 54.- Pháp Môn Thoát
Sanh Tử Trong Một Đời
Khắp mười phương thế
giới, đại khái chỉ có hai phân vức: Tịnh Độ và Uế Độ.
Tịnh Độ là các cõi trong sạch trang nghiêm của Phật, một
khi sanh về tất dứt hẳng phân đoạn sanh tử, sẽ lần chứng lên quả thánh.
Uế Độ, là các cõi từ cảnh giới đến thân tâm của chúng sanh
đều ô trược, loài hữu tình ở đó còn phải lên xuống trong sáu nẻo, chịu nỗi khổ
luân hồi.
Loài người ở cảnh Ta Bà
Uế Độ này, nếu chỉ tu ngũ giới thập thiện và các điều lành khác mà không niệm
Phật, thì cùng Phật vô duyên. Vì không duyên với Phật, chủng tử vô lậu trong
thức thứ tám thiếu cơ năng dẫn phát, nên dù có tu các nghiệp lành, nhiều lắm
cũng chỉ sanh lên cõi trời, không được về Tịnh Độ.
Thọ số ở các cõi trời
tuy lâu, nhưng vẫn có hạn lượng, khi phước báo hết là dứt một đoạn sống chết,
rồi tùy nghiệp thọ sanh nơi khác. Nếu như vẫn còn nghiệp lành thuộc thượng phẩm
thập thiện, lại tùy sanh ở các cõi trời thấp hoặc cao. Nghiệp trung phẩm thập
thiện, sanh về cõi người. Nghiệp hạ phẩm thập thiện, sanh ở cõi A Tu La. Nếu là
nghiệp dữ thuộc hạ phẩm thập ác, thì sa xuống loài bàng sanh. Nghiệp trung phẩm
thập ác, sanh ở loài ngạ quỷ. Nghiệp thượng phẩm thập ác, đọa vào địa ngục.
Chúng sanh do ngã chấp
làm gốc, từ nơi đó khởi tạo các nghiệp lành dữ thuộc sáu đường, nên tùy theo sự
thành thục của mỗi loại chủng tử, phải chịu lên xuống luân hồi. Trong kiếp luân
hồi, nghiệp nhiễm dễ tạo, duyên lành khó tu, nên thời gian đọa xuống ác đạo rất
lâu dài, sanh lên thiên đạo rất ngắn ít. Đức Phật đã than: "Chúng sanh thường lấy ba ác đạo làm quê nhà!" Vì thế chúng ta có thể đoán định: "Tất cả
loài hữu tình, nếu không về Tịnh Độ của chư Phật, tất phải ở Uế Độ. Đã ở Uế Độ,
với hoàn cảnh xấu ác nhiều chướng duyên, với căn cơ người thời mạt tất sớm muộn
cũng phải đọa ác đạo. Và, muốn sanh về Tịnh Độ của Phật, tất phải niệm
Phật."
Có kẻ gạn hỏi: "Đường lối giải thoát có nhiều môn, hà tất phải
niệm Phật?"
Điểm này nếu suy nghiệm
sẽ tự hiểu, tuy nhiên cũng xin phúc đáp cho rõ hơn:
- Khi xưa đức Như Lai
tuy diệt độ, nhưng chánh pháp còn thạnh, chúng sanh nghiệp nhẹ tâm thuần, nên
dù tu pháp môn nào, cũng đều có thể thành tựu.
Giảm xuống đến thời
Tượng Pháp thì cách Phật đã xa, hoàn cảnh và nhơn tâm lần lần phức tạp, trăm
ngàn người tu hành, hoặc may mới có một hai người đắc đạo.
Huống nay lại đi sâu vào
thời mạt pháp, đạo đức suy vi, bậc tu hành chân chánh còn có ít người, nói chi
đến việc chứng quả? Bởi thời nay chúng sanh chướng nặng tâm tạp, sự sống và lối
tổ chức xã hội khó khăn phiền toái hơn xưa. Lại thêm chiến tranh, đói rách,
thiên tai nhơn họa thường thường tiếp diễn, cảnh khiêu dâm bắn giết được cổ
xúy, tôn giáo đạo đức bị xem là trò ma túy, chuyện lỗi thời. Với nhiều chướng
duyên trong và ngoài ảnh hưởng nhau như thế, nếu tự lực tu hành theo các pháp
môn khác, tất nhiên khó bề thành tựu.
Vả lại muốn thoát luân
hồi, phải dứt trừ kiến hoặc và tư hoặc. Nhưng theo lời cổ đức: "Ngăn được kiến hoặc khó như ngăn chận dòng nước
mạnh từ bốn mươi dặm xa chảy lại," huống chi là diệt trừ, và kế đến dứt cả tư hoặc ư?
Cho nên trong thời mạt
pháp, muốn được giải thoát, chỉ duy có Niệm Phật pháp môn. Bởi môn này đã dùng
hết tự lực, còn nhờ thêm tha lực, dù nghiệp hoặc chưa dứt, cũng nhờ sức Phật
tiếp dẫn mà được đới nghiệp vãng sanh. Khi đã về Cực Lạc, tất không còn thối
chuyển vĩnh viễn thoát luân hồi.
Đức Thế Tôn là bậc bi
trí sâu xa, về căn cơ thời mạt pháp và hiệu lực của môn Tịnh Độ, Ngài có huyền
ký trước nơi Kinh Đại Tập và Vô Lượng Thọ, như chương thứ nhứt đã nói. Thế thì biết, trong thời
mạt pháp, khi hiệu lực hiện chứng của các tông đều yếu kém, để kéo dài pháp vận
và cứu độ chúng sanh, chỉ duy có môn Niệm Phật.
Các tông khác như Thiền, Giáo, Luật, Mật tuy còn lưu truyền và có nhiều người tu, cũng chỉ
ở trong khả năng giáng xuống làm trợ duyên, chớ không thể riêng rẽ sanh hiệu
nghiệm trên đường giải thoát. Trong bức thơ gởi cho một vị tăng, Ấn Quang đại
sư đã nói: "Ở sâu vào thời mạt pháp này, nếu tu theo các môn khác, nói đến
sự gieo căn lành và làm nhân duyên đắc độ về sau thì có, nói đến sự chứng quả giải thoát trong đời hiện tại thì
không."
Do những điều đã dẫn
giải trên đây, ta có thể kết luận: "Ở vào thời mạt pháp, duy Niệm Phật mới
là môn thoát sanh tử trong một đời."
Một câu A Di Ðà
Môn Chỉ Quán mầu tròn
Lặng lặng tĩnh tĩnh niệm
Không xen tạp nối luôn.
Nhứt cú Di Ðà
Diệu viên chỉ quán
Tịch tịch tĩnh tĩnh
Vô tạp vô gián.
LƯỢC
GIẢI
Người mới tu lúc niệm Phật lắng nghe vào trong, dứt các tạp vọng, gọi là Chỉ.
Khi phát khởi trì câu hồng
danh với các tâm trạng khác nhau tạm gọi là Quán.
Những tâm trạng khác nhau
ấy như thế nào?
Có lúc trì câu hồng danh
với ý tha thiết, như con nhớ mẹ, như lữ khách lâu năm hoài vọng cố hương. Ðây
gọi là “chí thiết niệm”.
Có lúc trì câu hồng danh
với ý sám hối, bởi nghĩ mình từ vô thỉ kiếp đến giờ vì mê lầm tạo nhiều tội
chướng, nay hết sức hổ thẹn ăn năn. Ðây gọi là “Sám Hối niệm”.
Có lúc trì câu hồng danh
với ý thương cảm, vì nghĩ mình nghiệp chướng sâu dày chìm đắm trong vũng bùn
lầy ngũ dục ác nhơ, nay cầu mong sự cứu vớt nơi đấng đại từ bi. Ðây gọi
là “Bi Cảm Niệm”.
Có lúc trì câu hồng danh
với ý lo sợ, bởi nếu rời Phật lực tức sớm muộn cũng sẽ bị đọa vào ba đường ác,
chịu vô lượng nỗi khổ sống chết luân hồi. Ðây gọi “Bố Tâm Niệm”.
Có lúc trì câu hồng danh
với ý phẫn phát, tự trách hờn, như một nho sinh sẵn đủ trí huệ tài ba, thi văn
mẫn tiệp, bởi cậy tài nên khinh suất mãi thi rớt, cam chịu cảnh nghèo hèn. Ðây
gọi là “Phát Phẫn niệm”.
Có lúc trì câu hồng danh
với ý nhàm chán lẻ loi, như bậc cao sĩ sống giữa cảnh xung quanh các đồng nhơn
tranh đua sắc tài danh lợi, phi thị hơn thua, gièm pha phỉ báng giết hại lẫn
nhau, riêng mình chỉ còn biết nương gần với Phật, bởi cõi trần man mác, ấy ai
là bạn tri âm? Ðây gọi là “Cô Tịch Niệm”.
Niệm Phật với các tâm cảnh
như trên, tuy tạm gọi là có Chỉ, có Quán, nhưng chưa được xưng là Diệu Viên bởi
chưa đến mức tròn trặn nhiệm mầu.
Hành giả dụng công lâu
ngày, tâm niệm vắng lặng dứt hết muôn duyên, nơi câu Phật hiệu gồm đủ phước,
huệ, hạnh, nguyện, giải thoát, sáu ba la mật, không và sắc dung thông, mới gọi
là Diệu.
Trong bặt thân tâm, ngoài
dứt trần giới, chẳng thấy mình là kẻ hay niệm, Phật là vị được niệm, không còn
lằn mức cách biệt giữa chúng sanh và phật, giữa cảnh cùng người, tất cả đều
dung hợp rộng rãi, bao la, mới gọi là Viên.
Nơi tâm cảnh ấy, điểm thanh tịnh lặng lặng không tán loạn là Chỉ, điểm sáng suốt tĩnh tĩnh không hôn trầm là Quán. Niệm như thế không xen tạp, hằng nối tiếp nhau, gọi là “Diệu Viên Chỉ Quán”.
DƯ THỊ
Dư thị, pháp danh Chân
Tu, là vợ của cư sĩ Châu Vĩnh Phù ở đất Ngô. Năm ba mươi hai tuổi cô góa chồng,
đến năm ba mươi sáu tuổi phát tâm trường trai thờ Phật.
Lúc hơi lớn tuổi, Dư thị
đem hết việc nhà giao phó cho con trai và dâu, rồi chuyên tu Tịnh độ. Đến tuổi
bảy mươi, vào lúc cuối hạ sang thu, đêm nọ bà nằm mơ thấy mình đi dạo tới một
bờ hồ to rộng mênh mang. Trong hồ có chiếc thuyền chở mười mấy người gồm chư NI
và các nữ Phật tử. Trong số ấy có một vị đưa tay vời thỉnh nói: “Mau đi theo về Tây phương!”
Dư thị tự nghĩ: “Lúc bây
giờ chưa thuận tiện, đợi đến cuối năm sẽ đi”. Vị đó liền nói: “Thôi, hãy đợi
chuyến sau!” Đến ngày mùng sáu tháng chín, bà lại mộng thấy Phật A Di Đà hiện
thân tiếp dẫn. Thức giấc, Dư thị tự biết đã tới thời kỳ vãng sanh, sáng ra cho
người thỉnh thầy quy y là Pháp sư Văn Kỳ đến để từ biệt. Bà có xin một cành sen
nơi chùa, nhưng lúc ấy hoa đã tàn, nên Pháp sư chỉ đem cọng lá sen đến trao
cho.
Dư thị vui mừng tiếp
lấy, niệm Phật càng chí thiết. Khi đó mọi người đều nghe mùi hương lạ bay, thơm
cả trong ngoài. Tới sáng sớm ngày mười một, bà bảo người nhà nấu nước cho mình
tắm gội, thay y phục mới sạch. Xong đâu đấy, bà ngồi ngay thẳng niệm Phật độ
một lúc, rồi nằm nghiêng bên mặt mà qua đời.
Việc nầy ở vào niên hiệu
Càn Long thứ ba mươi sáu.
LỜI BÌNH:
– Cõi Tịnh độ ở mười
phương, chỉ thuần là hóa sanh, không có người nữ. Khi xưa, Vi Đề Hy phu nhơn vì con ác nghịch, phát
tâm chán lìa cõi Ta Bà, được Phật thuyết pháp và thọ ký cho vãng sanh về miền
Cực Lạc. Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật cũng huyền ký cho người thọ trì kinh nầy
sẽ được sự lợi ích vãng sanh.
Thế nên biết hàng phụ nữ ở
Ta Bà có nhân duyên lớn với cõi Tây phương Cực Lạc.
Từ khi Liên tông thạnh
hành, những bậc hiền lưu trong khuê các phần đông đều phát lòng tin, chuyên chí
niệm Phật, và được sự lợi ích giải thoát trong một đời. Những vị mang hình dáng trượng phu, xem gương ấy há
không hổ thẹn ư?
BÀI SỐ
69
Ẩn tu liên tưởng dãy Giang
Đông
Xích Bích trống quân dậy
lửa hồng !
Tuyệt-đại SONG KIỀU, ANH
KIỆT mất
Tài tình mấy đoạn phút hoàn
Không.
NHƯ Ý: SONG KIỀU là Đại-Kiều với Tiểu-Kiều, ANH KIỆT là
Châu-Do và Tôn-Sách, Châu Lang chẳng được Đông Phong giúp, ĐỒNG TƯỚC NỀN Xuân khóa Nhị
Kiều, câu chuyện Trí Dũng một thời, ân tình mấy đoạn nay chỉ còn âm hưởng
theo Ngọn Gió Đông Phong.
( Mưu lược dõng mãnh
như Văn Chủng, Ngũ Tữ Tư; sắc đẹp dễ say người như Tây Thi, Trịnh Đán, kết cuộc:
Hồng nhan già xấu, anh hùng
mất.
Đôi mắt thư sinh cũng mỏi buồn. )
ĐỒNG TƯỚC ĐÀI
của NGUYỄN-DU
Anh hùng một thuở còn đâu nhỉ ?
Người trước qua rồi đến người
nay.
Chẳng thấy Thành Nghiệp, Ngụy Vũ
Đế,
Chỉ thấy bên sông, Đồng Tước Đài.
Nền đài còn đó đài nghiêng lỡ,
Gió lạnh gào, thu cỏ úa tà.
Ngọc Long, Kim Phụng mờ mịt đổ,
Còn nói làm chi, gái múa ca !
Người ấy thịnh thời ai dám
chống,
Xem thường Hoàng đế, lẫn Vương
tôn.
Hận mấy tầng đài cao ngất
bóng,
Tiểu Kiều già
vẫn vợ Chu Lang.
Một buổi vận cùng tai hạn đến,
Dâng cơm tấu nhạc vui hồn
ma.
Chia hương, bán giầy khổ tâm dặn,
Trượng phu lỗi lạc ra thế a ?
Gian hùng riêng có mưu khuynh
đảo,
Chẳng phải khóc than như nữ nhi.
Muôn khéo nghìn khôn thành
mộng ảo,
Sông Chương nghìn thuở gửi
sầu bi.
Ta nghĩ người xưa xót nỗi
mình,
Bồi hồi cúi ngẩng, kiếp phù
sinh,
Anh hùng đến thế mà như
thế !
Huống kẻ công danh quá mỏng
manh.
Trên đời nghiệp lớn đâu
bền mãi,
Đài đây đâu phải đổ tan
tành.
Nhất Uyên dịch thơ
ĐỒNG TƯỚC ĐÀI
Nhất thế chi hùng, an tại tai ?
Cổ nhân khứ hề kim nhật
lai.
Bất kiến Nghiệp trung Ngụy Vũ
Đế,
Đãn kiến giang biên Đồng Tước Đài.
Đài cơ tuy tại dĩ khuynh dĩ,
Âm phong nộ hào thu thảo
mĩ,
Ngọc Long, Kim Phụng tận mang
mang.
Hà huống đài trung ca vũ
kỹ .
Tư nhân thịnh thời, thùy cảm
đương ?
Diểu thị hoàng đế, lăng hầu
vương,
Chỉ hận tằng đài không luật
ngột,
Tiểu Kiều chung lão giá Chu
Lang.
Nhất triêu đại hạn hữu thì chí,
Thượng thực tấu ca đồ duyệt quỷ.
Phân hương mại lý khổ đinh ninh,
Lạc lạc trượng phu hà nhĩ
nhĩ ?
Gian hùng biệt tự hữu cơ
tâm,
Bất thị minh ai, nhi nữ khí,
Thiên cơ vạn xảo tận thành
không,
Chung cổ thương tâm Chương
Giang thủy.
Ngã tư cổ nhân thương ngã tình,
Bồi hồi phủ ngưỡng bi phù
sinh.
Như thử anh hùng thả như
thử,
Huống hồ thốn công dữ bạc danh.
Nhân gian huân nghiệp nhược
trường tại,
Thử địa cao đài ưng vị
khuynh
Tiết 36.- Đối Trị Tham Vi Tế
Như trên đã lược nói qua
sự tham ngũ dục thô phù dễ thấy. Ngoài ra còn mối tham nhiễm ẩn sâu vi tế, mà
người tu cần phải lưu tâm. Chẳng hạn như số tiền trăm vạn không làm cho
tham, nhưng số bạc triệu tỷ có thể khiến phải động tâm; sắc đẹp tầm thường
dễ dàng lướt qua, song giai nhân tuyệt mỹ
có năng lực giục người mê lụy.
Cho đến các vị tu mà còn
đắm ưa chuỗi tốt; tượng đẹp, hoặc cảnh giới lành, cũng thuộc về tâm tham nhiễm.
Phải nên xem đó là những phương tiện, hoặc cảnh nhân duyên như huyễn, chớ sanh
lòng tham trước. Để phân tích tâm trạng này, xin đưa ra ba câu chuyện với tánh
cách hiểu dụ từ cạn đến sâu:
Thuở xưa bên Trung Hoa
có một vị quan nổi tiếng là thanh liêm, ai đưa vàng bạc lo lót, cũng đều nghiêm
trách không nhận. Nhưng độ nọ, một nhà hào phú vì muốn nhờ giải quyết việc
riêng có tánh cách đặc biệt, nên hối lộ đến mười vạn quan tiền. Vị quan liền
thâu nhận. Sau đó người bạn hỏi duyên cớ, ông đáp: "Số tiền mười vạn có
thể thông cảm với thần minh" (Tiền chí thập vạn khả dĩ thông thần). Vị quan trên chỉ có thể thanh liêm được với số tiền
nhỏ, nhưng không thanh liêm nổi với số tiền quá lớn. Đây là lòng tham nhiễm ẩn
sâu.
Lại câu chuyện đời Minh.
Một hôm Liên Trì đại sư ngồi nói chuyện với khách tăng. Ông khách than:
"Người tu đời nay hầu hết đều đắm nhiễm về danh lợi. " Đại sư nói:
"Tôi thấy Ngài là bậc thanh khiết, vì từ trước đến nay đã chối bỏ hết danh
lợi người ta đem đến cho mình." Khách tăng nghe xong gương mặt thoáng lộ
nét hoan hỉ. Vị tăng này tuy không
thích những danh vọng thông thường, nhưng còn ưa được tiếng thanh cao tuyệt
tục. Đây là tâm tham
nhiễm thâm trầm vi tế.
Thêm một chuyện
trong thiền môn. Có bà lão nhiều đạo tâm, cất ngôi tịnh am lo đầy đủ tứ sự cúng
dường ủng hộ một vị tham thiền tu niệm. Qua hai chục năm, một hôm bà lão dặn
bảo cô con gái rằng: "Bữa nay, sau khi đem cơm cho sư thọ trai xong, con
thừa lúc bất ngờ ôm ngay sư mà hỏi: "Lúc này như thế nào? Sư trả lời ra
sao, con vào đây thuật lại cho mẹ rõ." Cô con gái y như lời, ôm sư gạn
hỏi. Sư đáp: "Khô mộc ỷ hàn
nham, tam đông vô noãn khí." Với câu này, ý sư muốn bảo: "Mình chẳng mảy may động tâm
về sắc dục, ví như cây khô nương tựa gộp đá lạnh, lại ở vào ba tháng mùa Ðông,
tìm một chút hơi ấm cũng không có." Cô con gái trở vào thuật lại, lão bà
không vui, bảo: "Thật uổng công ta
hai mươi năm lo lắng, không ngờ chỉ ủng hộ một kẻ phàm phu!" Nói xong, lão bà ra đuổi nhà sư đi, rồi châm lửa
đốt luôn cái am.
Thật ra, tu đến trình độ
của sư, đời nay cũng ít có. Còn lão bà vốn một vị Bồ Tát, hành động đốt am là
muốn khai ngộ cho thiền sư. Tại sao thế? Bởi sư tuy không động tâm về sắc dục,
nhưng còn thấy mình thanh tịnh, còn trụ tâm nơi tướng vắng lặng không không của
thiền định, tức chưa được đại triệt đại ngộ.
Để phân tích thêm cho
rõ, thiền môn có ba cửa ải phải vượt qua là: Bản Tham quan, Trùng quan và Lao
quan.
Người tu thiền tham
thoại đầu đến khi phá được nghi tình, tỏ suốt ý “Tây lai”, nhìn rõ mặt mày
trước khi cha mẹ chưa sanh, tức đã vượt qua cửa ải thứ nhứt, gọi là "Phá Bản Tham".
Đến trình độ này, dù đã
dứt được tưởng tâm hư vọng từ vô thỉ, nhưng còn cảnh giới năng sở đối đãi của
quán trí, hãy chưa tuyệt tướng quên tình. Cho nên tuy đã vô tâm cùng thế sự,
nhưng đối với đại đạo vẫn cách một lớp cửa dày dặn trập trùng. Cổ đức bảo:
Chớ gọi vô tâm nguyên
thật đạo.
Vô tâm còn cách một trùng quan!
Chính là ý này. Nhà sư
trên tuy đã đạt đến cảnh giới khá cao, nhưng hãy còn trụ tâm nơi tịnh tướng.
Đây cũng là một sự tham nhiễm vi tế, mà người tu cần phải dứt trừ.
Người niệm Phật cũng
thế. Phải rõ tất cả sắc tướng đều như huyễn, dù tu đến cảnh giới nhứt tâm, thấy
hoa sen báu, các tướng tốt, hoặc chư Phật Bồ Tát hiện thân, nên biết đó chẳng
qua là do nhân lành cảm quả lành, cứ an nhiên đừng đắm nhiễm tham trước, cũng
không nên phủ nhận. Như vậy mới gọi là hiểu ngộ lý: "Như thật bất không" của tạng tâm.
Một câu A Di Ðà
Là tâm tạng Như Lai
Ngoài nước đâu có sóng
Xuyến, vàng vốn chẳng hai!
( Nhứt cú Di Ðà
Như Lai tạng tâm
Thủy ngoại vô lãng
Khí nguyên thị kim)
LƯỢC
GIẢI
Có một tu sĩ hỏi vị thượng tọa: "Niệm Phật để làm gì?". Ngài
đáp: "Niệm Phật để thành
Phật!" Tu sĩ ấy mỉm cười lui về, ý
không công nhận. Tu sĩ đó không công nhận vì ông chưa hiểu và chưa ứng dụng
được hạnh niệm Phật đi ngay vào Phật cảnh, tức vào tâm tạng của Như Lai.
Theo trí phân biệt, ông chỉ
chấp nhận và chỉ có thể ứng dụng câu
niệm Phật để trừ vọng tưởng, lần lần chứng vào Chân
Như mà thôi. Nếu theo tâm chấp tướng phân biệt, người ta thấy sóng với nước,
xuyến cùng vàng khác nhau. Nhưng thật ra, các thứ đó chẳng phải một, cũng chẳng
phải hai.
Nếu các hành giả niệm Phật
từ thí dụ này để tìm hiểu, tất sẽ xóa tan niệm phân biệt, dung hòa tâm với
cảnh, thể nhập pháp môn Bất Nhị,
đi ngay vào tạng tánh Phật, đại khái ý nghĩa như thế.
Thuở xưa, một hành giả khi
chứng ngộ vào cảnh giới này đã có bài kệ:
Bước đường vô vị đã cùng
rồi
Thấy sóng là đâu chỉ nước thôi
Ông Triệu siêu quần chi lắm đó
Mặt mày trông cũng thế mà thôi.
VƯƠNG CẢNH ĐAN
Vương Cảnh Đan tự Tử
Đình, người ở huyện Vũ Cương tỉnh Hồ Nam. Thuở thiếu thời ông đã thông minh
đĩnh ngộ, nghề từ chương thi họa
nổi tiếng Tài Hoa. Bởi thế trong nhà
ngoài cửa người hâm mộ tới lui không ngớt. Sau mấy lần thi không đỗ, ông biết
mình hữu tài vô phận, liền quy ẩn dạy học, giữ mình khiêm nhã, tuyệt không dự đến
chuyện thị phi bên ngoài, được tiếng khen là bậc cao khiết.
Tánh ông lại trầm hậu,
dù bị khinh hủy vẫn giữ thái độ an nhẫn điềm nhiên, thường nói với bè
bạn: “Có dung thứ người, trí
đức mới rộng lớn, cần chi phải tranh chấp so đo?”
Trong hai năm Dân Quốc
thứ bảy và tám, gặp phong trào cư sĩ đề xướng Phật học, Cảnh Đan đến dự nghe
diễn giảng liền giác ngộ, lòng rất vui mừng, bảo: Những sách vở tôi đọc khi
trước, so với Phật pháp đều là cặn bã. Ngày nay may mắn được biết phương cách
an thân lập mạng, sự lợi ích thật to rộng quí báu vô cùng!” Lại nhân thấy người
quen là Nhạc Thái Ngươn lớn tuổi mù lòa, do niệm Phật mà đôi mắt được sáng lại, ông càng tin công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn!
Từ đó Cảnh Đan dọn riêng
một căn phòng thanh khiết nơi nhà, thờ Phật trang nghiêm, hôm sớm trì chú Đại
Bi, tụng kinh Kim Cang, Di Đà và tu pháp thập niệm hồi hướng lấy làm thường
khóa. Lúc rảnh rỗi ông xem kinh, hoặc giảng nói lý luân hồi nhân quả cùng pháp
môn Niệm Phật cho tất cả người quen biết nghe.
Chẳng bao lâu, cô bạn
đời mất, trong lúc tuổi xế chiều lại liên tiếp gặp nhiều cảnh gian truân khốn
khổ, không mấy lúc được nhàn nhã an vui. Biết nghiệp đời trước phát hiện, ông
vẫn nhẫn nại điềm nhiên, giữ thời khóa tụng bền chắc không đổi thay trễ bỏ.
Vào tháng tám năm Giáp
Tý, Cảnh Đan nhân bị chứng ngoại cảm, bịnh kéo dài giây dưa đến đầu sơ tuần
tháng mười mới tạm dứt. Sang trung tuần, bịnh phát trở lại điều trị không công
hiệu, ông gạt bỏ thuốc thang, mỗi ngày duy chí tâm niệm Phật. Đến đêm mùng sáu
tháng mười một, bịnh giảm nhẹ, tinh thần như thường. Lúc ấy Cảnh Đan ngồi lâm
râm niệm Phật nơi giường, bỗng chắp tay nói: “Kính xin vâng lời chỉ dạy!” Rồi
gọi con cái lại bảo:
“Sáng mai khi cha đi, các
con chớ nên thương khóc, chỉ xưng hồng danh Phật trợ niệm cho cha được vững
bước vãng sanh!”
Quả nhiên, vào giờ Thìn
hôm sau, ông ngồi chắp tay niệm Phật mà qua đời. Tất cả người nhà đều tuân lời
dạy, thay phiên nhau niệm Phật cho đến khi nhập liệm.
LỜI BÌNH:
Có nhiều người tuy siêng
năng tụng kinh niệm Phật, song sân si phiền não
vẫn không chừa. Bởi thế công đức
niệm Phật không phát huy được toàn vẹn, có khi còn bị tổn giảm tiêu mòn mất
hết. Cho nên niệm Phật cần phải tu tâm. Câu nói: “Có dung thứ người, trí đức mới rộng lớn” của Cảnh Đan, tỏ ra ông là người biết tu tâm. Vì
thế, chỉ với mười hơi trì danh theo pháp Thập niệm hồi hướng mỗi ngày, tâm ông
đã cảm thông được với bản nguyện của Phật, và mong nhờ ân tiếp dẫn. Hân hạnh thay cho người biết niệm Phật, tu tâm!
BÀI SỐ
70
Ẩn tu Nguyễn Huệ nhớ
Anh-hào
Điệp-điệp quân thanh, chiến
cuộc thâu
Trúc kết sang sông mờ bóng
cũ
Mây ngàn cỏ nội đỉnh Tây
sầu !
NHƯ Ý : Khi xưa TÔN SĨ NGHỊ đêm hai chục vạn quân Thanh,
trùng trùng điệp điệp tràn sang xâm lấn Việt-Nam, người như rừng cây, rượu như
ao nước, VUA QUANG TRUNG (Nguyễn-Huệ) kết bè Trúc vượt sang sông tiến đánh, chỉ trong
một Trận trống chiến vừa thâu, muôn Binh Tan-tác, TRẠNG TRÌNH (Nguyễn Bỉnh-Khiêm) có ghi câu Sấm : “Chừng nào Trúc mọc sang Sông, mặt Trời sẽ lại đỏ hồng
non Tây”, nhưng NON TÂY cũng chỉ
đỏ một thời, nay duy còn lại sắc Mây u ẩn.
Ý Nghĩa Cao Cả Trong Sự
Xuất Gia
Tìm Ðạo Của Ðức Phật
Những chiến sĩ chiến thắng
quân địch ở ngoài chiến trường, thường được ca tụng là anh hùng. Càng chiến thắng được nhiều quân địch càng được hoan hô
là anh hùng cái thế. Nhưng những kẻ anh
hùng cái thế ấy, như Nã Phá Luân, Thành Cát Tư Hãn, Xê Ða, liệu có thắng được
chính mình?
Cho nên thắng người đã khó
mà thắng mình lại khó hơn. Ðức Phật đã thắng cả ngoại cảnh lẫn nội tâm, đã
thắng được giặc Ma Vương của Dục Vọng. Ðức Phật thật xứng đáng với danh
hiệu Ðại Hùng Ðại Lực.
Ngài không phải vì quyền
lời riêng mình mà chiến đấu. Ngài chiến đấu vì tình thương. Mà tình thương ở
đây cũng không phải chỉ nhằm tình thương trong phạm vi hẹp hòi của gia đình:
thương cha mẹ, vợ con, bạn bè. Tình thương ở đây là tình
thương chúng sanh, tất cả sự sống trên cõi đời. Tình thương ấy nó rộng sâu như trời bể, thiết tha
như tình mẹ thương con. Ðức Phật thật xứng đáng với danh hiệu Đại Từ Ðại Bi.
Vì tình thương ấy, Ngài đã
hoan hỷ lìa bỏ ngôi báu cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, đàn hay múa đẹp,
mùi ngon vị lạ để sống một đời kham khổ, đạm bạc, thiếu thốn, giữa rừng thiêng
nước độc. Một khi mà rời bỏ thứ mà
người đời cho là quý báu nói trên, Ngài không một phút giây nào hối tiếc, muốn
quay về để hưởng thụ lại. Bằng cớ là Ma Vương
đã sai con gái mình giả làm nàng Gia Du đến kêu gọi van xin Ngài trở về cung,
mà Ngài không một chút bận tâm thối chuyển. Ngài xứng đáng với danh hiệu
là Ðại Hỷ Ðại Xả.
Cho nên ngày nay, mỗi khi
xưng tán danh hiệu Ngài, chúng sanh không thể không suy ngẫm cái ý nghĩa sâu
sắc và đúng đắn mà người đời từ xưa đến nay đã tôn xưng Ngài là Ðại Hùng, Ðại Lực, Ðại Từ, Ðại Bi, Ðại Hỷ, Ðại Xả.
Phật Học Phổ Thông
HT. Thích
Thiện Hoa
NAM MÔ
Ðại Hùng, Ðại Lực, Ðại Từ,
Ðại Bi, Ðại Hỷ, Ðại Xả
BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI
PHẬT
Tiết III.- Ý Nghĩa Xuất Gia
Của Ðạo Phật
Bởi những lạc thú của
đời chưa phải là tuyệt đối an vui, nên mới có nhiều xu hướng giải thoát khác
nhau. Và để thực hiện những xu hướng đó, phần đông các giáo phái đã lựa hình
thức xuất-gia, vì tục duyên là cảnh tham nhiễm và bao mối dây ràng buộc đối với
người muốn đi trên đường giải thoát. Riêng về sự xuất-gia của đạo Phật, thì có
ba ý nghĩa hay ba giai đoạn:
1.- Giai đoạn thứ nhất là xuất-thế-tục-gia. Ðây là phương diện thoát ly gia đình, dứt hết tục
duyên để yên tâm học đạo.
Kinh Hiền-Ngu có đoạn nói:
“Nhà thế tục là ổ hang
ân ái, nơi đủ các sự ràng buộc, là cảnh giả tạm vô thường. Những kẻ được hưởng
phước lạc ở cõi người cho đến cõi trời, đã phóng túng say mê theo dục vọng.
Họ không có con mắt trí
huệ để nhận xét: đó là cảnh giả dối không thật, là hố lửa sâu thiêu đốt kẻ ngu
si tham vọng, là hầm cạm bẫy đưa dắt chúng-sanh vào nơi ác thú luân-hồi. Giả sử
có vị nào xây tháp bằng bảy báu, công đức ấy cũng chưa bằng cho người đi
xuất-gia, vì tháp thất bảo kia có ngày sẽ bị kẻ tham ác ngu si phá hủy.
Những ai cản trở người
phát tâm xuất-gia, kẻ đó sẽ bị tội đọa
vào Địa-ngục Hắc-ám, hoặc bị đui mù. Ví như nước tất cả các sông lớn, sông nhỏ,
ngòi, lạch, khe, suối, đều chảy về biển, sự thọ tội báo của kẻ ấy cũng sẽ như
thế. Cho người đi xuất-gia hay chính mình xuất-gia, công đức sâu rộng như trời
xanh biển thẳm”. (Trích lược).
Ðại khái, muốn được xuất
trần, trước tiên phải lìa nhà thế tục, và sự lợi hại đã diễn tả như trên.
2.- Giai đoạn thứ hai là xuất-phiền não-gia. Sau khi lìa nhà thế tục, người tu phải y theo lời
Phật dạy, cố gắng lần lượt dứt trừ những nghiệp tham lam, giận hờn, si mê, để
ra khỏi nhà phiền não, vào cảnh thanh lương. Về ý nghĩ nầy, Ðạo-An pháp sư có
mấy lời cảnh sách theo lối văn liên vận tuy chất phát bình dị, nhưng đầy ý
nghĩa:
“Ông đã xuất-gia, xa
lìa mẹ cha. Cạo tóc hủy hình, khoác mảnh áo dà. Ngày từ thân thuộc,
lớn nhỏ lệ sa. Diệt tình vui đạo, chí cao thiên hà. Nên giữ tâm ấy, học nghiệp
cho minh. Nếu còn đem tâm theo đường sắc thinh. Lửng lơ năm tháng, đạo nghiệp
không thành. Ðức hạnh ngày tổn, tiếng xấu càng sanh. Thầy bạn hổ thẹn, người
tục cười khinh. Xuất-gia như thế, chỉ thêm nhục mình. Nay lời khuyên nhắc, phải
gắng chuyên tinh!
Ông đã xuất-gia, nhẹ
tình quân thân. Phải nên cố gắng, chí nhìn thanh vân. Xa miền danh
sắc, phong thái siêu trần. Vàng ngọc chẳng quý, duy đạo là hơn. Giữ tiết thanh
cao, nghèo khổ không sờn. Tu đức độ mình, độ khắp thế nhơn. Nếu như cải tiết,
theo lối phong trần. Ngồi chẳng ấm chiếu, chạy khắp tây đông. Thân như sai
dịch, danh lợi mê lòng. Giới đức kém thiếu, đạo lý chẳng thông. Ðàn tín bình
luận, bạn hữu xa lần. Xuất-gia như thế, năm tháng uổng không. Nay lời khuyên
nhắc, tự thương tự phòng!
Ông đã xuất-gia, tối
hoặc thông minh. Học dù nhiều ít, hạnh phải chuyên tinh. Bậc thượng
thiền quán, bậc trung tụng kinh. Bậc hạ gieo phước, chùa tháp kinh dinh. Ðâu
nên hôm sớm, một việc không thành. Xuất-gia như thế, luống uổng kiếp sinh. Nay
lời khuyên nhắc, chớ nên phụ mình!”
3.- Giai đoạn thứ ba là xuất-tam-giới-gia. Sau khi đã hàng phục phiền não, người tu phải cố gắng
đi sâu vào thiền định, phá tan hết hoặc-nghiệp để vượt ra ba cõi, thoát nẻo
luân-hồi. Ðây mới là bước cứu cánh của xuất-gia. Và theo cổ-đức, đây mới gọi là
làm xong việc lớn của người tăng sĩ. Một vị thiền khách đã diễn tả sự đắc ý ấy
như sau:
“Tay với vòm Nam-đẩu.
Mình nghiêng dựa
Bắc-thần.
Ngước nhìn ngoài vũ trụ.
Ai ấy bạn siêu nhân?”
Tóm lại, người xuất-gia
dù chưa ra khỏi nhà tam giới, ít nhất cũng phải thoát ly nhà thế tục và
nhà phiền não. Nếu kẻ đã cạo tóc mặc pháp phục, mà chỉ lo củng cố chùa
chiền xem như cảnh tư hữu của mình, quanh năm mưu cầu danh lợi hoặc tranh dành
đệ-tử bổn đạo, xem như hàng quyến thuộc của mình, thì tuy lìa khỏi sự ràng buộc
về gia đình của đời, nhưng chưa thoát ly sự ràng buộc về gia đình của đạo.
Như thế cũng chưa đúng
với ý nghĩa xuất-gia thứ nhất. Cho nên một vị tăng hay ni, dù có chùa chiền,
đệ-tử bổn đạo, phải xem là nhân duyên giả huyễn, đừng sanh lòng tham đắm. Nên
giữ đúng theo lời Phật dạy: “Bồ-Tát tuy thị hiện có vô biên quyến thuộc nhưng
nơi tâm vẫn không quyến thuộc”. (Bồ-Tát tuy thị hiện vô biên quyến thuộc, nhưng tâm hằng vô
quyến thuộc). Và, nếu như một vị tăng vân thủy không lưu trụ nơi
đâu, xem có vẻ siêu thoát, nhưng nơi ngôn hạnh còn lộ vẻ tham sân si, cũng chưa
đúng với phong thái xuất-gia, bởi kẻ ấy còn trong nhà phiền não.
Bậc thiền đức khi xưa đã gọi
xuất-gia là việc trọng hệ khó khăn không phải khả năng của quan VĂN hay VÕ có
thể làm được, là như thế đó.
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền
Tâm
tự Liên Du
Một câu A Di Ðà
Hợp cơ cả trời, người
Ba căn tánh cao thấp
Chín phẩm sen rạng ngời!
( Nhứt cú Di Ðà
Cơ đậu nhơn thiên
Sâm si tam bối
Yên ánh cửu liên!)
LƯỢC
GIẢI
"Tam bối" trong bài kệ là chỉ cho ba hạng người: thượng căn,
trung căn, hạ căn.
"Cửu liên" tức chín phẩm sen, cũng phân ra ba cấp thượng
trung hạ, mỗi cấp lại có ba bậc thượng trung hạ nữa, nên thành ra chín. Ðó là
các phẩm: Thượng thượng, Thượng trung, Thượng hạ; Trung thượng, Trung trung,
Trung hạ; Hạ thượng, Hạ trung, Hạ hạ.
Ấn Quang đại sư nói: "Phật pháp tùy cơ, có khó dễ thấp cao.
Ðối với pháp cao khó thì bậc hạ căn không kham tu. Với pháp thấp dễ bậc thượng
căn lại chẳng cần tu. Riêng môn Tịnh Ðộ có đặc điểm rất mực nhiệm mầu, vừa cao
siêu vừa thuận dễ thích ứng cả ba căn, hạng nào cũng thấy cần thiết và có thể
tu tập được.
Nói về phần CAO SIÊU thì
nơi hội Hoa Nghiêm, mười phương hải hội Bồ Tát trong năm mươi mốt vị: Thập Tín,
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hướng, Thập Ðịa và Ðẳng Giác, đều theo lời khuyên của
Phổ Hiền đại sĩ tu tập môn này.
Bàn đến chỗ THUẬN DỄ
thì những chúng sanh nhiều tội chướng, cho đến tạo nghiệp Ngũ Nghịch, Thập Ác
cũng có thể niệm Phật sanh về cực lạc.
Cho nên kẻ chê pháp Tịnh Ðộ
là thấp kém tức chưa hiểu chi về môn này và cũng phạm lỗi khinh báng các bậc Bồ
Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đó!"
Ðiều dẫn giải trên cho ta thấy, pháp môn Tịnh Ðộ thích hợp với tất cả căn tánh
thượng trung hạ của hàng nhơn thiên. Ba căn tánh ấy tuy có cao thấp so le, song
nếu tu môn niệm Phật, tất sẽ tùy theo công hạnh, đều được nêu danh nơi chín
phẩm sen sáng đẹp rạng ngời ở cõi Tây phương Cực Lạc.
HÀNH TU
Thích Hành Tu họ Trần,
con nhà nông ở thôn Sa tại Thái Châu. Ông nhà nghèo, dốt nát không biết một
chữ, hoàn cảnh cùng quẫn khó bề sanh sống. Một hôm ông đến mé song nhảy xuống
tự trầm, được một người áo trắng
vớt đem lên, khéo lời khuyên bảo, nên có chỗ tỉnh ngộ. Năm ba mươi mốt tuổi, ông vào chùa xuống tóc làm
tăng.
Sau khi xuất gia, Hành
Tu khổ hạnh mấy năm, tiết đông và hạ chỉ một manh áo. Sư từng hành cước đến non
Phổ Đà triều lễ, giữa chừng lạc đường, gặp một lão nhơn dẫn về nhà đãi đằng và
mời ngơi nghỉ. Sáng ra nhìn quanh, thấy
nơi đó chỉ là một gò đất hoang vu mà thôi. Khi trở về, sư đóng cái khám bằng gỗ đem vào vùng mả
hoang ở ngoài cửa thành nam hôm sớm ngồi tham thiền. Nhiều lúc sư tịnh tu đến
năm bảy ngày không ăn. Một đêm vào canh ba, bỗng nghe có người gõ vào khám nói:
“Nếu có thể thọ pháp, phải cách khám thấy nơi sông có chiếc thuyền to, đèn đuốc
sáng rỡ, nhạc thổi rền vang đi ngang qua dưới cầu!” Nghe lời ấy, Hành Tu bỗng đại ngộ.
Sau sư dời về chùa Giác
Ấn, chuyên tu Tịnh độ sáu năm. Mùa xuân niên hiệu Khang Hy thứ tư, Hành Tu bảo
người rằng: “Ngày mùng hai tháng sáu sang năm, tôi sẽ về Tây phương!” Đầu mùa
hạ năm sau, ai nấy đều tới dò la thăm hỏi. Quan Tri Châu e sư mê hoặc quần
chúng, sai binh sĩ canh giữ và bảo:
“Nếu đến kỳ hạn mà
không ứng nghiệm, thì sẽ bắt tội khép vào luật pháp!”
Mùng một tháng sáu, Hành
Tu vẫn an nhiên như thường. Nhiều người vì lo lắng sợ hãi. Rạng ngày mùng hai,
sáng sớm sư thức dậy viết kệ lưu lại rằng:
Ánh huệ sáng soi khắp
đại thiên
Ngày cần lễ niệm, tối tham thiền.
Ngang mày treo sẵn Xuy mao kiếm
Địa ngục, Thiên đường mặc xuống lên!
Viết xong, vào ngồi
trong khám gỗ, bảo người khiêng đến một cây cầu. Sư nhìn xung quanh đoạn bảo:
“Không được! Chỗ nầy con người đều hình dáng súc sanh!” Rồi dạy khiêng tới cầu
Đông Bá. Quần chúng và binh sĩ lũ lượt theo sau. Đến nơi sư bảo hướng mặt khám
về phương nam, tay gõ mõ, miệng niệm Phật. Giây lát một làn khói nhẹ từ chót
mũi sư bốc lên, phút chốc biến thành khối lửa đỏ bao trùm.
Trong lửa tiếng mõ câu
Phật vẫn rành rẽ vang tới mây. Bỗng nghe nổ bựt một tiếng, nóc khám văng ra xa
ngoài trăm bộ rớt xuống đất. Khi lửa tàn, còn sót lại một vật hình như hoa sen
màu trắng, cứng rắn đập không vỡ.
LỜI BÌNH:
Tự phát lửa đốt thân, không phải hạng tầm thường trang sức bề ngoài có thể làm được. Kẻ chưa đắc đạo, dè dặt chớ mong sanh vọng tưởng ấy, để khỏi bị MA DỰA phát cuồng mà đọa vào ác đạo.
Comments
Post a Comment