CHÁNH VĂN
46.-Ẩn tu lòng đạo sáng gương rằm
Bạn Cúc quê vàng cảnh vắng
tâm
Cây biếc mây hồng che tĩnh
xứ
Khói sương vùi dập mấy mươi
năm.
47.-Ẩn tu Lan-Nhã ngắm tư bề
Ríu rít mây chim tiếng gọi
về
Dâu biển người đời thương
biến đổi
Đâu hay muôn cảnh vốn Bồ đề.
48.-Ẩn tu nhớ dạy Tịnh Liên Hoa
Trí Giả nguyên là Phật
Thích Ca
Lại có Vĩnh Minh cùng Thiện
Đạo
Tương truyền thân hóa của
Di Đà
49.-Ẩn tu thấy nói Tổ bên Thiền
Long Thọ, Mã Minh chứng đạo
huyền
Đều tín Liên tông khuyên NIỆM
PHẬT
Sao hàng hậu học tạo khinh
duyên ?
50.-Ẩn tu thương nghĩ cánh Nam tông
Tịnh độ cho là pháp viễn
vông
Bác phá Đại thừa phi Phật
thuyết
Yến Ly đâu biết dấu chim
hồng ?
GIẢNG GIẢI
BÀI SỐ
46
Ẩn tu lòng đạo sáng gương
rằm
Bạn Cúc quê vàng cảnh vắng
tâm
Cây biếc mây hồng che tĩnh
xứ
Khói sương vùi dập mấy mươi
năm.
NHƯ Ý : Hàng Sĩ-phu Trung Quốc có bình phẩm về các loài
HOA như sau: Liên nãi Hoa Trung Quân tử, Hải đường Hoa nội Thần
Tiên, Lan duy Vương giả chi Hoa, Cúc đồng ẩn dật Chi sĩ, trong các thứ
hoa, SEN là hoa Quân tử, HẢI ĐƯỜNG là
Hoa Thần Tiên, LAN là Hoa Vương giả, CÚC là
hoa ẩn dật, bạn Cúc là bạn Cao ẩn, cũng có thể gọi là bạn đồng uống chén trà
Cúc, Quê vàng là quê hương có mây vàng che phủ, đây là lấy ý câu:
“Hoàng vân tế thiên lý,
du tử vị quy tâm.”
Mây vàng CHE (Tế) quê hương ngàn
dặm,
Lòng người DU TỬ (Kẻ xa nhà) nhớ nhà mà chưa về
thăm được.
Hai câu sau trong bài
vịnh, lập lại ý của lời CẢM TÁC đã làm từ trước :
Khối sương
vùi dập thân tiền nghiệp,
Ẩn tại mây hồng ba chục
năm.
( Cây biếc mây hồng che tĩnh xứ
Khói sương vùi dập mấy mươi
năm.)
Khi đã ẨN TU tất trong
hoàn cảnh U tịch xa cách quê nhà, vắng tâm bạn cũ, mối cảm hoài dù có, như cũng
phải ngạt qua để SÁM trừ nghiệp trước, LAU sáng gương lòng.
( Ẩn tu lòng đạo sáng gương rằm)
Sóng nghiệp xa đưa đến
Đại-Ninh,
Thị-phi, thương ghét biết bao tình.
Lắm khi nhục-nhã, lòng câm nín,
U-uất khổ sầu cũng lặng thinh.
Thất nhỏ đêm ngày chuyên lễ-niệm,
Sớm mõ, chiều chuông tiếng kệ kinh.
Nguyện mong Tam-thánh trời Tây đến,
Đài kim rực chiếu ánh
quang-minh.
Vô-Nhất
Thích Thiền-Tâm
Tiết 31 Bốn Môn Tam Muội
Người niệm Phật khi đi
đến chỗ tuyệt đỉnh tận cùng duy có một định thể là Niệm Phật Tam Muội. Đây là
cảnh hư linh sáng lặng, vọng giác tiêu tan, hành giả duy còn trụ tâm nơi TƯỚNG
HẢO hoặc HỒNG DANH của Phật.
Nhưng tuy nói trụ mà
thật ra vô trụ, vì âm thanh sắc
tướng đương thể như huyễn, chính đó là không.
Tướng Tam Muội ấy như
thế nào? - Theo Liễu Dư đại sư thì khi hành giả chuyên nhất niệm Phật, quên hết
thân tâm ngoại cảnh, tuyệt cả thời gian không gian, đến lúc sức cực công thuần,
ngay nơi đương niệm trần vọng bỗng thoạt tiêu tan, tâm thể bừng sáng, chứng vào
cảnh giới vô niệm vô bất niệm.
Cảnh ấy như hư không mây
tan, trời xanh một vẻ, niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, không thấy biết
mới là sự thấy biết chân thật, có thấy biết tức lạc
theo trần.
Đến đây thì nước bạc non
xanh đều là Chân Ðế, suối reo chim hót toàn diễn diệu thừa, tâm quang bao hàm
muôn tượng mà không trụ một pháp, tịch mà chiếu, chiếu mà tịch, đều còn đều
mất, tuyệt đãi viên dung...
Cảnh giới Tam Muội đại
để là như thế, khó tả nên lời, duy chứng mới thể nghiệm
được. Niệm Phật Tam Muội vẫn
là một thể, nhưng để đi vào định cảnh ấy, người xưa đã căn cứ theo kinh, y nơi ý nghĩa và oai nghi hành trì mà chia thành bốn
môn như sau:
1. Bát Chu Tam Muội: - Bát Chu có nghĩa là Phật Lập. Hành trì môn Tam Muội
này, có ba oai lực phù trợ: Oai lực của Phật, Oai lực của pháp Tam Muội, và Oai
lực công đức của người tu.
Khi thật hành Bát Chu
Tam Muội, phải lấy chín mươi ngày làm một
định kỳ. Trong thời
gian ấy, ngày đêm hành giả chỉ đứng hoặc đi, tưởng đức Phật A Di Đà hiện thân
đứng trên đảnh mình đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp; hay miệng thường
niệm danh hiệu Phật, tâm thường tưởng Phật không xen hở. Khi công thành, trong
Tam Muội hành giả thấy đức A Di Đà và chư Phật mười phương hiện ra đứng trước
mình khuyến tấn khen ngợi.
Bát Chu cũng gọi là
Thường Hành Đạo. Người tu khi đi, mỗi bước mỗi tiếng đều không rời danh hiệu
Phật, ba nghiệp hành trì không gián đoạn như dòng nước chảy. Pháp này công đức
rất cao, song chỉ bậc thượng căn mới
kham tu trì, hạng người trung hạ và tinh lực yếu kém không thể
thật hành nổi.
2. Nhất Hạnh Tam Muội: - Nhất hạnh có nghĩa là chuyên nhất về một hạnh. Khi tu môn
Tam Muội này, hành giả thường ngồi và chỉ chuyên nhất quán tưởng, hoặc niệm
danh hiệu đức A Di Đà. Lại tuy chỉ tu một hạnh mà được dung thông tròn đủ tất
cả hạnh, nên Nhất Hạnh cũng gọi
là Viên Hạnh. Từ pháp Tam Muội này
cho đến hai môn sau, ba hạng căn cơ đều có thể tu
tập.
3. Pháp Hoa Tam Muội: - Đây là một môn Tam Muội trong mười sáu Tam Muội như Kinh
Pháp Hoa phẩm Diệu Âm Bồ Tát đã trần thuật. Theo ý chỉ của Thiên Thai
Tông, thì ba đế viên dung là
Pháp, quyền thật không hai là Hoa. Ví như hoa sen khi
cánh hoa (QUYỀN) chưa nở, mà gương sen (THẬT) đã thành, gương với cánh đồng
thời; nơi một đóa hoa mà gồm đủ ý nghĩa quyền và thật vậy.
Nói theo tông Tịnh Độ
thì tức niệm là Phật, tức sắc là tâm; một câu niệm Phật gồm cả ba đế, nhiếp cả thật quyền. Nếu tỏ ngộ lý này mà niệm Phật, gọi là tu hạnh
Pháp Hoa Tam Muội. Khi tu môn Tam Muội này, hành giả dùng hai oai nghi ngồi và
đi mà thay đổi để quán Phật hoặc niệm Phật, kỳ cho đến khi nào chứng nhập vào
chánh định. Pháp nghi tu tập này lại có phần dễ hơn Nhất Hạnh Tam Muội ở trên.
4. Tùy Tự Ý Tam Muội: - Pháp thức này có nghĩa là tùy tâm hoặc đi đứng, hoặc nằm
ngồi, đều nhiếp niệm không rời danh hiệu đức A Di Đà để tu chứng vào Tam Muội.
Hành nghi đây lại còn có tên là "Lưu Thủy Niệm Phật". Ví như ngọn
nước nơi dòng sông cứ liên tục chảy mãi, dù gặp cây đá ngăn cản nó chỉ dội lại
rồi cũng tìm lối chảy đi.
Thông thường người tu
theo môn này, cứ mỗi buổi khuya lễ Phật A Di Đà bốn mươi tám lạy, Quán Âm, Thế
Chí và Hải Chúng mỗi danh hiệu đều bảy lạy, kế quỳ xuống sám hối. Rồi từ đó cho đến tối, lúc đi đứng nằm ngồi đều niệm Phật, hoặc lần chuỗi ghi số, hoặc niệm suông, đến trước
khi đi ngủ, lại lễ Phật một lần nữa và đem công đức tu trong ngày, mà phát
nguyện hồi hướng vãng sanh.
Trong khi hành trì nếu
có tiếp xúc với các duyên, khi qua rồi vẫn trở lại niệm Phật. Pháp tu này tuy
tùy tiện dễ dàng, nhưng phải khéo tránh
bớt duyên và có tâm bền bỉ mới mong thành tựu.
Nắng
lại mưa qua
Chìm nổi vui buồn
Phù thế thương lưu lạc!
Nhớ thuở còn thơ
Cổ thụ bên nhà
Cùng trẻ nô đùa hát.
Rồi hỏi Hoàng Mai
Tìm lối Liên Hoa
Tóc xanh vừa điểm bạc.
Một nén tâm hương
Một chí Tây Phương
Chờ lắng bên trời nghe tiếng nhạc!
Thân người dễ mất
Pháp Phật khó nghe
Tinh tấn khuyên lên đường giải thoát.
Niệm không phải khó
Khó tại bền lâu
Khẩn nguyện cùng sanh về Cực Lạc.
Bền lâu không khó
Khó ở
nhứt tâm
Sẽ thấy hoa sen lầu các!
( Niệm Phật Phải Bền Lâu Không Gián Đoạn)
Một câu A Di Ðà
Tròn đủ Bồ Ðề đạo
Ráng mây đều ở thấp
Lại không có trời cao.
Nhứt cú Di Ðà
Viên mãn Bồ Ðề
Thiên cảnh vô thượng
Vân biết dữ tề.
LƯỢC
GIẢI
Khi hành giả đã thể nhập
Không Như Lai Tạng thì đạo Bồ đề tròn đủ, con đường giác ngộ đến mức cao tuyệt
rồi. Cảnh giới ấy như trạng thái của người:
"Một mình nằm nghỉ
trên đỉnh non cao".
Khi xưa ông Khấu Chuẩn đời
nhà Tống, thuở bé theo cha lên núi Thái Sơn, đã đắc ý đọc lên bốn câu thi cũng
mường tượng như hai câu sau của bài kệ trên:
Bất dữ quần phong ngũ
Cảnh vô sơn dữ tề
Cử đầu hồng nhật cận
Hồi thủ bạch vân đề.
( Thiên cảnh vô thượng
Vân biết dữ tề.)
Tạm dịch:
Chẳng cùng muôn đảnh đồng bạn
Lại không một núi dám qua
Ngước mắt vầng hồng kề cận
Cúi đầu mây bạc thấp xa!
Nhưng đó chỉ là khẩu khí của một vị Tể Tướng, vì trên còn có vầng hồng, còn có
Thiên Tử. Chưa bằng vua Hồng Võ đời nhà Minh lúc du ngoạn núi này, cũng tức
cảnh hai câu:
Nhứt thượng, nhứt thượng,
cánh nhứt thượng
Vô hạn yên vân nhãn để thâu!
Tạm dịch:
Lên cao càng lúc càng cao tít
Vô hạn trời mây dưới mắt nhìn.
Ðây mới thật là khẩu khí của
một bậc Thiên Tử, đứng trên muôn dân. Có thể mượn hai câu
sau này để tạm hình dùng cảnh tượng giác ngộ tròn đầy cao tuyệt của một vị Pháp
Vương đứng trên vạn pháp.
ẤN QUANG ĐẠI SƯ
(Liên Tông Thập Tam Tổ)
Ấn Quang Đại Sư, húy
Thánh Lượng, biệt hiệu Thường Tàm, người khoảng cuối đời nhà Thanh sang kỷ
nguyên Dân Quốc, con nhà họ Triệu ở Hiệp Tây. Thuở bé ngài học Nho, lớn lên lấy
việc duy trì đạo Khổng làm trách nhiệm, nên theo thuyết cúa Hàn Dũ, Âu Dương Tu,
bài bác Phật Pháp. Sau khi bịnh mấy năm, tự
xét biết lỗi lầm, liền cải hối tâm niệm trước.
Niên hiệu Quang Chữ thứ
bảy đời Thanh, vừa sang hai mươi mốt tuổi, căn lành thuần thục, ngài xuất gia
với Đạo Thuần hòa thượng tại chùa Liên Hoa Động ở núi Chung Nam. Ít lâu sau,
lại được duyên thọ đại giới nơi chùa Song Khê, huyện Hưng An, với luật sư Ấn
Hải Định.
Ngài từng bị đau mắt khi
sanh ra vừa sáu tháng, sau tuy lành bịnh nhưng mục lực đã suy kém. Mắt vừa hơi
đỏ, thì chỉ nhìn thấy cảnh vật lờ mờ. Lúc thọ giới Cụ túc, vì ngài cẩn thận và
viết chữ khéo, nên được cử làm chức Thơ ký. Do viết chữ quá nhiều, đôi mắt lại
phát đỏ như huyết. Lúc trước nhân khi phơi kinh được xem bộ Long Thơ Tịnh Độ,
biết rõ công đức Niệm Phật, nên kỳ thọ giới này, ban đêm sau khi chúng an nghỉ
ngài vẫn ngồi niệm Phật. Ban ngày cho đến lúc viết chữ, tâm cũng không rời
Phật.
Nhờ đó tuy đôi mắt phát
đỏ, vẫn có thể gắng gượng biên chép. Khi giới đàn vừa mãn bịnh đau mắt cũng
được lành.
Do đây, ngài biết công
đức niệm Phật không thể nghĩ bàn! Và nhân duyên này cũng là đầu mối khiến ngài
quy hướng Tịnh độ, và khuyên người niệm Phật. Từ đó, Đại sư tiến bước trên
đường tu học trải qua các danh lam: Từ Phước Tự, Long Tuyền Tự, Viên Quảng Tự, và
sau cùng đến chùa pháp võ ở Phổ Đà Sơn.
Trong thời gian ấy, khi
thì tham học, lúc duyệt Tam tạng kinh, khi lại nhập thất, nên ngài Ngộ sâu đến
thượng thừa, lý sự đều vô ngại, Đại sư kiến thức cao siêu, làm việc cẩn thận
nên hai phen được Hóa Văn Hòa Thượng và Đế Nhàn Pháp Sư mời làm đồng bạn đến đế
đô thỉnh ba tạng kinh cho Pháp Võ Tự ở Phổ Đà Sơn và Đầu Đà Tự Tại Ôn Châu. Cảm
mến hạnh đức, Hóa Văn hòa thượng thỉnh ngài về ở lầu Tàng Kinh tại chùa Pháp Võ
để tĩnh tâm tu niệm. Tính đến cuối đời nhà Thanh, trong hơn ba mười năm xuất gia, Đại sư trước sau tới lui
giao tiếp để hôm sớm yên tu, cầu chứng Niệm Phật tam muội.
Nhưng chuông trống tuy
đánh bên trong, tiếng thanh vẫn vang ra ngoài. Cao Tăng dù muốn ẩn mình, Thiên
long cũng đưa duyên phổ hóa. Niên hiệu Trung Hoa Dân Quốc năm đầu, cư sĩ Cao
Hạt Niên nhân khi hành hương đến chùa Pháp Võ, lúc trở về đem vài bài văn của
Đại sư đăng lên Phật Học Tòng Báo ở Thượng Hải, dưới đề tên là THƯỜNG TÀM. Tuy
chưa biết đó là ai, nhưng văn tự Bát Nhã đã khiến cho độc giả phát khởi căn
lành, nhiều người đua nhau dò hỏi chỗ ở.
Lúc ấy, Đại sư vừa đúng
năm mươi hai tuổi. Mấy năm sau, tung tích cũng bị người tìm biết được; lần lượt
kẻ vượt bể lên non cầu lời khai thị, người mượn tin hồng nhạn hỏi lối nam châm.
Cư sĩ Từ Huất Như sưu tầm văn tín của ngài in thành bộ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, tái bản và tăng đính nhiều lượt, truyền bá cả trong
đến ngoài nước.
Ban sơ, khi họ Từ cư sĩ
đem mẹ lên núi cầu xin quy y, Đại sư còn bền chí ẨN TU không chịu chấp
nhận, bảo sang quy y với Đế Nhàn Pháp Sư ở chùa Quán Tông tại Ninh Ba. Đến năm
Dân Quốc Thư tám, cư sĩ Châu Mạnh Do đem quyến thuộc lên núi, ba bốn phen đảnh
lễ cầu khẩn, xin thâu làm đệ tử tại gia. Đại sư quán xét cơ duyên, lý khó khước
từ, bất đắc dĩ phải chấp thuận.
Tính đến năm ấy, ngài
được năm mươi chín tuổi, mới thâu đệ tử quy y lần đầu. Từ đó,hàng thiện tín kẻ
viết thư cầu làm đệ tử, người lên non xin được quy y, tất cả đều y giáo phụng
hành, ăn chay niệm Phật. Trong một đời giáo hóa, đệ tử tại gia của Đại sư từ
hạng quyền qúy giàu sang, danh nhân học sĩ đến kẻ thôn giã thường dân, số lên
đến gần ba trăm ngàn người. Có nhiều vị niệm Phật tu hành được sanh về Cực Lạc.
Đại sư trì giới tinh
nghiêm, giữ mình rất kiêm ước. Đồ phục dụng tốt đẹp, cùng thức ăn ngon qúi
người đem đến dâng, nếu không từ khước được, cũng chuyển tặng cho những vị xuất
gia khác. Còn phẩm vật thông thường, thì đều chuyển giao cho nhà kho của chùa,
để dại chúng cùng thọ hưởng. Bao nhiêu số tiền của dân tín cúng dường riêng cho
mình, ngài đều đem in kinh sách, hoặc cứu tế các nạn tai, hay giúp vào những cơ
quan từ thiện.
Riêng mình chỉ giữ phần
cơm thô áo vải đến trọn đời. Đại sư tánh không thích phô trương, có vài Phật tử
mến đức tìm tới tận quê nhà, sưu tập sự tích từ khi ngài còn bé qua giai đoạn
xuất gia và ra đời hoằng hóa, viết thành tuyệt ký, rồi gởi đến xin hiệu chính,
để ấn tống lưu truyền rộng ra. Ngài đều khước từ, gởi
nguyên bản trả lại, khuyên xin vì mình mà dẹp bỏ đi.
Hai vị hiển quan: Đào
Tại Đông và Hoàng Hàm Chi có viết thư đem đạo hạnh của Đại sư trình lên Tổng
thống Trung Hoa Dân Quốc. Ngài được Từ Tổng Thống phong tặng tấm biển đề “Ngộ
Triệt Viên Minh”. Sai đoàn đại biểu đem đến tận chùa Phổ Đà, cùng hiến dâng
nhiều hương hoa phẩm vật, song riêng ngài vẫn thản nhiên dường không hay biết. Đại
sư có ba điểm đặc biệt khác hơn những vị xuất gia đương thời.
1) Một là không lãnh làm
trụ trì tự viện lớn, vì cho mình kém đức, e chướng ngại đến sự thanh tu.
2) Hai là không thâu đệ
tử xuất gia, vì xét thấy vào thời mạt pháp đã sâu, người xứng đáng với bổn phận
xuất gia rất ít, nên không muốn gây nhiều hệ lụy.
3) Ba là không quyên mộ
khuyến hóa, bởi thẹn thấy nhiều kẻ vì lợi danh mà làm mất sự thanh khiết của
nhà tu.
Về duyên Hoằng-hóa, Đại sư, quán xét vào thời mạt vận đạo đức lần suy,
nhân căn hầu hết đều kém yếu. Phần đồng chỉ ở trình độ giữ Tam Quy, Ngũ Giới,
niệm Phật ăn chay mà thôi. Như thế cũng gọi là đã có
nhiều căn lành rồi. Còn hạng siêu xuất thì
thật ra tuyệt ít. Vì thế, đại khái ngài chỉ khuyên giữ trọn luân thường, tin
chắc nhân qủa, lánh dữ làm lành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương.
Người đáng chiết phục,
dù bậc thiền túc cự nho, đạt quan danh sĩ, cũng thẳng thắng chỉ trích. Kẻ đáng
nhiếp thọ, tuy hàng sơ học hậu sanh, nông công nô bộc, cũng từ ái khuyên dậy.
Cách giáo hóa của Ngài, chỉ đem những sự lý thuyết thật bình thường để khuyến
ích, tuy chính mình hiểu sâu tông giáo, song không chuộng huyền luận cao đàm.
Đại sư thường tán trợ
vào các hội niệm Phật phóng sanh, khuyên giúp vào các viện Từ Ấu, Dưỡng lão.
Ngài cũng sáng lập ra hoằng Hóa Xã, giao cho người coi sóc, mình lãnh phần chỉ
đạo, để ấn tống hoặc phát hành kinh sách và tượng Phật, Bồ Tát và hơn năm triệu
bộ kinh sách thích ứng với thời cơ.
Về công trình Hộ-pháp, lúc Âu chiến lần thứ nhất, chính quyền có nghị định
cho đời những kiều dân người Đức vào ở các chùa. Đại sư cố gắng vận động với
các bậc quyền thế, khiến cho bỏ qua việc đó. Từ năm Dân Quốc thứ hai đến năm
Dân Quốc thư hai mươi lăm, đã nhiều phen chính phủ theo lời đệ nghị của những
nhà đương quyền có óc duy vật, lần lượt đăng báo muốn sung tài sản chùa chiền
vào công qũy, chiếm các tự viện làm trường học. Đại sư họp sứ cùng chư Tăng sĩ và các cư sĩ hộ pháp, lập
cách giải cứu, khiến cho đều được nạn thoát tai qua. Ngoài ra, các tiểu tiết khác, ngài chỉ tuỳ thời
dùng đôi lời nói, hoặc một phong thơ đều tiêu kiếp nạn.
Về phần Linh-cảm, năm Đại sư bảy mươi tuổi được Tăng chúng thỉnh về
chùa Báo Quốc. Và cuối mùa hạ, nơi đây sanh ra loài rệp rất nhiều. Từ gối chăn
màn nệm, đến cửa sổ án kinh, đâu đâu cũng thấy chúng bò lai vãng. Hàng đệ tử
thương ngài tuổi già sợ không kham chịu sự quấy nhiễu, xin vào để tìm cách thâu
nhập. Đại sư không chấp thuận,
chỉ yên tâm niệm Phật cầu nguyện cho chúng đi, không bao lâu loài rệp đều tuyệt
tích.
Ngoài thời niệm
Phật, ngài thường tụng chú Đại Bi vào tàn hương,
gạo, hoặc nước, để cứu những bịnh nặng mà các y sĩ đều bó tay. Mỗi lần như thế
đều ứng nghiệm kỳ lạ.
Một hôm, nơi lầu Tàng
Kinh chùa Báo Quốc, phát hiện ra vô số mối trắng. Ngài hay được liền trì chú
Đại Bi trong nước, bảo đem đến vẩy vào chúng. Loài mối đều kéo nhau bỏ đi nơi
khác. Cư sĩ Cao Hạt Niên có lời tự thuật: Sở dĩ ông biết Ấn Quang Đại Sư là bậc
cao Tăng, bởi ngài nói những lời rất thông thường, nhưng càng suy ngẫm càng
thấy đúng với hiện cảnh và sau đó đều ứng nghiệm.
Kỳ lên núi Phổ Đà
lần thứ nhất, lúc nhà Thanh hãy còn, nhân ngụ tại chùa lâu ngày, cư sĩ có hỏi
Đại Sư về cuộc diện mai sau. Ngài ứng khẩu đáp bằng một bài thi:
Tuần hoàn kiếp số rất bi
thương!
Thoát khổ đâu hơn Cực Lạc bang?
Gắng niệm Di Đà về bản cảnh
Đừng mê trần lụy lạc tha hương
Bụi hồng nghiệp trước đời hư mộng
Lửa đỏ ngày sau nước họa ương
Khuyên sớm xa nơi nhiều kiếp nạn
Cùng nhau dạo bước đến Liên phương.
Trong bài thi, ngài ám
chỉ nạn binh hỏa về sau, và khuyên người niệm Phật vậy.
Năm Dân Quốc thứ mười
bảy, Đại sư thành lập Tịnh Độ đạo tràng tại chùa Linh Nham, soạn ra chương
trình quy củ giao cho Chân Đạt hòa thượng nhiếp chúng trụ trì. Từ đó ngài về ở
Tịnh thất tại Tô Châu. Sau thời niệm Phật, Đại sư họp cùng cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh,
tu chỉnh bốn quyển Danh Sơn Chí, nói về linh tích các núi: “Phổ Đà, Thanh
Lương, Nga Mi, Cửu Hoa”. Năm bảy mươi tuổi, vì chiến cuộc bức bách, ngài từ Tô
Châu dời về Linh Nham, an cư niệm Phật ba năm.
Năm Dân Quốc thứ hai
mươi chín, ngày 24 tháng 10, Đại sư dự biết kỳ vãng sanh, cho triệu tập chư
Tăng và cư sĩ về chùa Linh Nham. Trong buổi hội đàm, ngài suy cử Diệu Chơn hòa
thượng kế nhiệm trụ trì, dặn dò các việc mai sau, và bảo:
“Pháp môn niệm Phật
không có chi đặc biệt lạ kỳ. Chỉ cần khẩn thiết chí thành, thì không ai chẳng
được Phật tiếp dẫn”.
Qua ngày mùng 4 tháng
11, Đại sư cảm bịnh nhẹ, song vẫn tinh tấn niệm Phật. Niệm xong, bảo đem nước
rửa tay, rồi đứng lên nói: “Phật A Di Đà đã đến tiếp
dẫn, tôi sắp đi đây. Đại chúng phải tin nguyện niệm Phật cầu về Tây Phương!”. Nói đoạn, bước lại ghế ngồi kiết già, chấp tay trì
danh theo tiếng trợ niệm của đại chúng rồi an lành viên tịch. Lúc ấy, Đại sư
tăng lạp được sáu mươi, thế thọ tám mươi tuổi.
Rằm tháng hai năm sau,
nhằm thánh tiết Phật nhập Niết Bàn, cũng vừa đúng kỳ Đại sư vãng sanh được một
trăm ngày. Hàng đạo tục các nơi hội về Linh Nham trên hai mươi ngàn người, sắp
đặt lễ trà tỳ. Lúc ấy bầu trời hốt nhiên sáng tạnh trong trẻo. Khi Chân Đạt hòa
thượng cầm đuốc cử hỏa, khói bay lên trắng như tuyết, hiện ra ánh sáng năm sắc.
Hôm sau Diệu Chơn hòa thượng cùng đại chúng đến nơi khám nghiệm, thấy xá lợi
hiện ra nhiều hình dáng, đủ các màu, có thứ gồm ngũ sắc. Tất cả đều cứng như
khoáng chất, gõ vào phát ra tiếng trong thanh. Đại chúng lựa chia thành sáu
phần:
Nha sỉ xá lợi, gồm ba
mươi hai cái răng.
Ngũ sắc xá lợi châu,
nhiều hạt tròn sáng.
Ngũ sắc tiểu xá lợi hoa,
hình như các đóa hoa nhỏ.
Ngũ sắc đại xá lợi hoa,
hình như những đóa hoa lớn.
Ngũ sắc huyết xa lợi, do
huyết nhục hóa thành.
Ngũ sắc xá lợi khối, gồm
những khối có nhiều hình dáng, màu sắc.
Tất cả đều để vào lồng
kiếng, trân tàng tại bản sơn.
Kế tiếp hàng Tăng Ni và
đệ tử lễ bái thỉnh cầu, vị nào có thành tâm khi bới tro tìm kiếm đều được xá
lợi. Như Quảng Hiệp Pháp Sư ở Tân Gia Ba, Pháp Độ Thượng Nhân ở Ngũ Đài, cư sĩ
Ngô Quốc Anh ở Phi Luật Tân, cư sĩ Nhạc Huệ Võ ở Thượng Hải, mỗi vị đều được xá
lợi màu xanh, màu vàng, huyết sắc hoặc ngũ sắc.
Đại sư lúc bình
thời, ngôn hạnh chân thật, không biểu thị điều chi kỳ lạ, nên chẳng thể biết
ngài chứng đắc đến đâu. Song hàng Tăng tục xét qua đạo hạnh, sự hoằng hóa thuở
còn sanh tiền, đến việc quy Tây và lưu xá lợi khi viên tịch, đều nhận định ngài
là bậc Thánh nhân tái lai để tùy cơ độ sanh và hộ trì chánh Pháp.
Vì thế, nhân ngày kỷ niệm
một năm viên tịch, các liên hữu Tăng tục đồng suy tôn Đại Sư làm vị tổ thứ mười
ba của Liên tông.
LỜI PHỤ
Tịnh độ không có sự
truyền thừa như chư Tổ như bên Thiền tồng. Sở dĩ có chư Tổ Tịnh độ, là do các
vị tăng tục môn Niệm Phật đời sau họp lại chọn những bậc siêu xuất mà suy tôn.
Sự siêu xuất ấy biểu lộ trên ba quan điểm:
1. Về phần kiến thức, phải là bậc hiểu sâu
cả Tông lẫn Giáo, ngộ đến Thượng thừa.
2. Về phần đạo hạnh, phải giới phẩm tinh
nghiêm, tu hành tinh tấn. Khi lâm chung có triệu chứng vãng sanh.
3. Về phần hoằng hóa, phải có công tuyên
dương Tịnh độ, hộ trì chánh pháp, khuyến đạo ngàn muôn người niệm Phật.
Trong Tịnh Độ Thánh Hiền
Lục chỉ ghi có 11 vị Tổ tông Tịnh độ. Về sau nơi đạo tràng Linh Nham, ngài Ấn
Quang họp các liên hữu tăng tục, suy tôn Hành Sách đại sư làm vị Tổ thứ 10, đưa
Thật Hiền đại sư lên hàng thứ 11, và Tế Tỉnh đại sư lên hàng thứ 12. Sau khi Ấn
Quang đại sư vãng sanh, chư liên hữu xét thấy ngài hạnh đức trang nghiêm có
công lớn với Tịnh độ, mới họp lại đồng suy tôn lên làm vị Tổ thứ 13.
Thiền tông tuy có y bát
truyền thừa, nhưng mục đích dùng để biểu tín với quần chúng. Sau đời Lục Tổ,
chỉ truyền pháp không còn truyền y bát, vì lúc ấy thiền hóa đã thạnh hành. Bên
Tịnh độ, chư đại sư cũng thuần vì bi trí lợi sanh, không tự gọi mình là Tổ. Chỉ
sau khi các ngài viên tịch, người đời sau mới suy tôn lên. Nhưng thật ra, xét kỹ qua mọi phương diện, các vị đều là
bậc thánh nhơn ứng hóa, xứng đáng được tôn là Tổ. Những bậc cao tăng thông thường không thể làm được
như vậy.
Trong 13 vị Tổ của Tịnh
độ, đã có bảy ngài nguyên là thiền sư được chánh truyền. Các vị ấy là: Thừa
Viễn, Vĩnh Minh, Liên Trì, Ngẫu ích, Hành Sách, Tỉnh Am và Triệt Ngộ. Tại sao
các ngài đã ngộ thiền mà không hoằng Thiền, trở lại hoằng Tịnh? Trong đây
có ba nguyên yếu:
1. Về pháp môn:
– Trực chỉ thiền, chỉ có lợi cho bậc thượng thượng căn, hàng trung, hạ khó
bề thể nhập (Phi thượng thượng căn. Thận vật khinh hứa Tổ ngữ). Còn
môn Tịnh độ, thì lợi khắp cả ba căn. Hàng thượng thượng căn tu Tịnh độ, có thể
hiện đời ngộ được bản tâm, chứng Niệm Phật tam muội, khi mạng chung sanh về
Thượng phẩm. Dù kẻ tối hạ căn nếu chuyên niệm Phật, cũng được đới nghiệp vãng
sanh, lên ngôi Bất thối. Khi đã vãng sanh, lễ cẩn Di Đà, gần gũi thánh chúng
thọ mạng vô biên kiếp, lo gì không ngộ chân tâm, chứng thánh quả! Vì sự lợi ích
rộng rãi chắc chắn như thế, các ngài mới khuyên tu Tịnh độ.
2. Về thời tiết: –
Trong thời Chánh pháp, có thật hành phần nhiều đều chứng quả, hoặc đi sâu vào
thiền định, đê làm cơ bản cho những kiếp tu sau. Qua thời Tượng pháp, sự ngộ
đạo còn có ít người huống chi là chứng! Đến thời Mạt pháp, như kinh Đại Tập
nói: “ức ức người tu hành, song khó tìm một người ngộ đạo”. Dù được ngộ đạo,
nhưng chưa phải chứng, phiền não nghiệp tập hãy còn, khi luân hồi bị phước báo
làm mê, mười người đã thổi chuyển hết chín. Do đó, từ cuối đời Tượng bước sang
Mạt pháp, chư đại thiện tri thức lần lần chuyển hướng dạy người tu Tịnh độ. Vì
bấy giờ thiền hóa còn thạnh hành, các ngài phải thị hiện phương tiện, trước
triệt ngộ thiền cơ, sau hoằng dương Tịnh độ, mới được người đương thời tín
nhiệm tuân hành.
3. Về cơ duyên:
– Từ đầu Mạt pháp trở về sau, căn cơ của quần chúng hầu hết là hạng trung
hạ. Muốn thật hiện mục đích lợi sanh trong thời đại nầy, chư Bồ Tát phải tùy cơ
duyên mà chủ trương Tịnh độ. Các tông khác tuy cũng rất cần chấn hưng, nhưng
chỉ thuộc phần thứ yếu, bởi sự lợi ích không được phổ cập. Từ trước chư tôn túc
trong các tông khác cũng xét biết điều nầy, nên tuy vẫn hoằng dương bổn môn, mà
phần nhiều đều quy hướng Tịnh độ. Như Chân Yết Liễu thiền sư nói: “Những vị
dưới tông Tào Động đều mật tu Tịnh độ, bởi Tịnh độ thấy Phật còn dễ hơn Thiền
tông” (Động hạ nhất tông giai cụ mật tu, dĩ Tịnh độ kiến Phật vưu giản vị
ư tông môn).
Về như thời cận đại, Đế
Nhàn Pháp sư tuy truyền bá tông Thiên Thai, song vẫn niệm Phật. Khi sắp viên
tịch, ngài đọc lời kệ khuyến tấn đại chúng:
Tôi nhờ niệm Phật.
Thọ dụng chân thật.
Tịnh độ hiện
tiền.
Chúng gắng tinh chuyên!
Ấn Quang Pháp sư trong
bức thư gời cho Thể An Hòa thượng, có nói:
“Trong mấy mươi năm lịch
duyệt bắc nam, đi về hàng muôn dặm, tôi kinh nghiệm thấy những vị thông minh
hiểu suốt tông giáo, khinh thường Tịnh độ, khi lâm chung phần nhiều mê loạn, đôi khi có trạng thái
kêu la. Còn những người
chân thật niệm Phật, dù tín nguyện chưa chí thiết, không có thoại tướng lúc lâm
chung, nhưng họ chết đều an ổn cả”.
Cho nên, từ lúc sanh
tiền cho đến khi quá vãng, môn Niệm Phật đích thật là con thuyền cứu khổ nhơn
sanh trong thời buổi nầy vậy.
BÀI SỐ 47
Ẩn tu Lan-Nhã ngắm tư bề
Ríu rít mây chim tiếng gọi
về
Dâu biển người đời thương
biến đổi
Đâu hay muôn cảnh vốn Bồ
đề.
NHƯ Ý : Hằng-sa SỐ chính thật là Bồ-đề đạo, nghĩ hướng
Bồ Đề cách vạn tầm, NGƯỜI NIỆM PHẬT nên thức ngộ Hằng-sa PHÁP, môn cảnh đều là
thể giác ngộ, xong chơn thể ấy phải dùng TÂM mà trực nhận, nếu khởi động tìm
thì đã cách xa.
Lan-Nhã nói cho đủ là
A-LAN-NHÃ, có nghĩa KHÔNG tịch xứ, TỨC là chổ vắng lặng, nơi ở của người Tĩnh
tu.
Chí tâm sám-hối :
Ðệ tử…. và chúng-sanh
trong pháp-giới, từ đời vô-thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô-minh che đậy nên điên
đảo mê-lầm, lại do sáu căn ba nghiệp quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười
điều dữ cùng năm tội vô-gián và tất cả các tội khác, nhiều vô-lượng vô-biên nói
không thể hết. Mười phương các đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không
dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong chếu soi
tất cả. Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư-không.
Con từ vô-thỉ đến nay,
sáu căn che mù, ba nghiệp tối-tăm, chẳng thấy chẳng nghe chẳng hay chẳng biết,
vì nhơn duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ, trăm nghìn
muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. -- Kinh rằng :
“Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na thân
khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường-tịch-quang, cho nên phải biết
cả thảy các pháp đều là Phật-Pháp, mà con không rõ lại theo giòng
vô-minh vì thế trong trí bồ-đề mà thấy không thanh-tịnh, trong cảnh giải-thoát
mà sanh ràng buộc.
Nay mới tỏ ngộ nay mới
chừa bỏ ăn-năn, phụng đối trước các đức Phật và A-Di-Ðà Thế-Tôn mà phát lồ
sám-hối, làm cho đệ-tử cùng pháp-giới chúng-sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp
sáu căn, gây tạo từ vô-thỉ, hoặc hiện-tại cùng vị-lai, chính mình tự gây tạo
hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà mà vui theo, hoặc nhớ hoặc
chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu
hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt-ráo thanh-tịnh.”
Ðệ-tử sám-hối rồi, sáu
căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu-tập cũng trọn
thanh-tịnh, thảy đều hồi-hướng dùng trang-nghiêm Tịnh-độ, khắp với chúng-sanh,
đồng sanh về nước An-Dưỡng.
Nguyện đức A-Di-Ðà Phật
thường đến hộ-trì, làm cho căn lành của đệ-tử hiện-tiền tăng-tấn, chẳng mất
nhơn-duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm-chung, thân an-lành niệm chánh vững-vàng, xem
nghe đều rõ-ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Ðà cùng các Thánh-chúng, tay cầm đài
hoa tiếp-dẫn đệ-tử, trong khoảng sát-na sanh ra trước Phật, đủ đạo-hạnh Bồ-Tát,
rộng độ khắp chúng-sanh đồng thành Phật đạo.
Ðệ-tử sám-hối
phát-nguyện rồi quy-mạng đảnh-lễ :
Nam-mô Tây-phương
Cực-lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô lượng vô biên, từ thệ hoằng
thâm, TỨ THẬP BÁT NGUYỆN ĐỘ HÀM LINH, đại-từ đại-bi tiếp dẫn
đạo sư A-Di-Ðà Như-Lai, biến pháp-giới Tam-bảo.
Một câu A Di Ðà
Khiến được Ðại Tổng Trì
Chuyển hết tất cả vật
Sử dụng mười hai thì.
(Nhứt cú Di Ðà
Ðắc Ðại Tổng Trì
Chuyển nhứt thiết vật
Sử thập nhị thì.)
LƯỢC
GIẢI
Ðại Tổng Trì là sự thông
suốt nắm giữ tất cả pháp với tầm mức lớn lao rộng rãi. "Muốn được tất cả,
phải bỏ tất cả". Ví như tấm gương sáng lớn mà đem vật gì che áng ở trước,
dù là một bình hoa đẹp, tất chỗ đó mất sự chiếu soi tự tại. Chơn tâm của chúng
ta là tấm gương Ðại Viên Cảnh Trí, nếu chấp giữ một pháp nào, dù đó là Phật lý
cao siêu mầu nhiệm, tất cũng sẽ bị kém mất sức chiếu soi tự tại, sự thông suốt
tất cả pháp. Như thế làm sao được Ðại Tổng Trì?
Kinh
nói: "Thấy biết mà giữ sự thấy biết là gốc vô minh. Thấy biết không
giữ sự thấy biết, đó mới chính Niết bàn". (Tri kiến lập tri, tức vô minh
bản. Tri kiến vô kiến, tư tức Niết Bàn). Cho nên chuyên nhứt câu niệm Phật, xả
bỏ tất cả, hành giả quyết sẽ được Ðại Tổng Trì, Ðại Tam Muội.
Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nếu chuyển được vật, tức đồng với Như
Lai". (Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai). Chúng
sanh tâm thường hướng ngoại, không biết các pháp là huyễn, cho nên bị cảnh lục
trần xoay chuyển, như con trâu lâm cảnh xỏ giàm dắt đi, hằng chịu sự phiền não
buộc ràng không được tự tại. Nếu quán xét các pháp là huyễn, giữ một câu Phật
hiệu xoay chiếu vào trong thì tâm lần lần thanh tịnh tự tại, sẽ làm chủ được
các pháp, không còn bị các pháp sai sử làm chủ nữa. Ðó gọi là "chuyển
vật" là đồng với Như lai. Trái lại, tức là bị vật chuyển, đồng với chúng
sanh vậy.
Ấn Quang pháp sư bảo: "Một lòng không trụ, muôn cảnh đều
nhàn!" (Nhứt tâm vô trụ, vạn cảnh câu nhàn). Khi tâm trụ
nơi các pháp thì thấy thời gian có lâu mau, bị cảnh giới làm cho loạn động,
sanh niệm ưa, chán, ghét, thương, khổ, vui, cùng vô lượng phiền não. Như trên,
khi hành giả giữ câu niệm Phật thanh tịnh, không để cho vật chuyển, thì trong
mười hai thời của ngày đêm, hằng được nhàn nhã, tự tại, tùy ý sử dụng mọi sự,
việc nào đáng làm trước hoặc làm sau đều theo tuần tự, chẳng khác vị Ðông y sĩ
tùy nghi sử dụng các hộc thuốc của mình.
Tóm lại, nếu khéo biết tu hành thì cách tự tại sử dụng trong mười hai thời, sự
làm chủ xoay chuyển các pháp, cho đến chứng đắc cảnh giới Ðại Tổng Trì, then
chốt đều do ở nơi câu niệm Phật.
Thơ Đáp
Hai Cư Sĩ Ngạn Như, Dật Như
Xem thơ, thấy nhị vị tỏ
ý phiền muộn vì việc đời buộc ràng, không biết làm
sao được giải thoát. Mọi
người đều có bổn phận, duyên sự tuy nhiều nhưng
nếu tâm điềm nhiên không
chuyển theo cảnh, thì đương lúc bận buộc cũng
được giải thoát an nhàn.
Cảnh trạng ấy như đài gương soi hình, hình đến
không trở ngăn, hình đi
chẳng lưu luyến.
Nếu không hiểu nghĩa
này, dù cho bỏ hết việc đời, nơi tâm cũng còn vương vấn, rộn ràng chẳng yên.
Người học Phật biết an theo phận mình, giữ tròn nhiệm vụ, thì dù có tiếp xúc
muôn duyên, mỗi ngày vẫn thung dung ngoài cảnh vật.
Đó chính là nghĩa “một lòng
không trụ, muôn cảnh đều nhàn” vậy.
Đến như niệm Phật, rất
cần ở sự thoát ly vòng sống chết. Đã vì việc ấy tất
đối với nỗi khổ luân hồi
tự sanh chán nản, với sự vui Cực lạc tự sanh mến
ưa. Thế là trong một niệm đủ cả hai điều tín nguyện.
Thêm vào đó lòng chí
thành khẩn thiết như con nhớ mẹ, thì sức Phật, sức Pháp và sức công đức tín
nguyện của tâm mình, ba pháp đều vẹn toàn. Lực dụng ấy ví như vầng nhật giữa
trời, dù có tuyết sương dầy đặc, không mấy chốc cũng tự rã tan.
Người mới niệm Phật chưa
đến lúc thân chứng Tam muội, làm sao khỏi có vọng niệm?
Nhưng nếu biết đem tâm
soi vào trong, không theo vọng cảnh, cũng đã quí lắm rồi! Ví như hai chiến trận
đối nhau, cần phải giữ thành lũy mình cho chắc, đừng để bên nghịch xâm phạm,
phòng khi quân giặc kéo qua liền đón lại đánh. Lúc ấy phải đem binh Chánh giác
bao vây bốn bên, khiến chođối phương không đường tẩu thoát, phải chịu quy hàng.
Điều cần yếu là vị chủ
soái phải thường thường tỉnh táo đừng biếng trễ, hôn trầm. Nếu phạm hai lỗi ấy,
chẳng những không phá được giặc, trở lại bị giặc tiêu diệt. Cho nên người niệm
Phật nếu không biết nhiếp tâm, thì càng niệm càng sanh vọng tưởng. Nếu có thể
nhiếp tâm, vọng niệm sẽ lần lần yếu bớt, cho đến khi tiêu tán không còn. Nên
người xưa có lời kệ:
“Học đạo dường như giữ
cấm thành,
Ngày phòng sáu giặc, tối
tinh chuyên.
Tướng, quân, chủ soái
đều theo lịnh,
Chẳng động đao thương
nước được yên.”
Đài Gương Tịnh Hạnh
(Lược thuật về hạnh
nghiệp của Vô Sanh nữ sĩ)
Nữ sĩ họ Hồ, tên Học
Kiên, pháp danh Hiển Nhẫn, tự Vô Sanh, người ở tỉnh Hồ Nam, huyện Ích Dương.
Cha cô tên Diệu Hoàng, tự Thôi Sơn, mẹ họ Điền, đều là những họ có tiếng ở đất
Tương cả. Nữ sĩ sanh bình có đặc tính cứng cỏi mà hay thương người, thông minh mà
mộ đạo, hoạt bát mà không lưu chuyển theo thế tục.
Thấy người bị khổ nạn,
cô liền tận tâm cứu giúp, chẳng kể cừu oán, công ơn, lại hằng tôn trọng bậc có
đức, nghe lời lành như được của báu. Lúc còn thơ ấu, nữ sĩ ưa cung kính thần
linh, thích cảnh chùa miếu u nhàn, thấy thánh tượng liền cúi lạy, đặc biệt tôn
trọng ngôi Tam Bảo.
Huỳnh thị, chị dâu họ,
tánh từ ái ôn hòa, đối đãi với cô rất có thâm tình, một hôm bỗng vương bịnh rồi
mất. Lúc ấy mọi người trong quyến thuộc đều khóc than kể lể, riêng nữ sĩ chỉ
yên lặng xót đau, hằng suy nghĩ:
“Nhơn sanh hà tất có chết?
Tình trạng sau khi chết như thế nào?
Làm sao cho khỏi các điều khổ trong vòng sanh tử?”
Suy tưởng đến đó, lòng
lo buồn, tâm nghi mãi không thôi. Người ngoài thấy cô hình dung gầy kém, cử chỉ
thất thường, cho là do sự xót thương thái quá, mà không rõ được bề trong. Dù
trong lúc tuổi thơ, nữ sĩ đã biết nghĩ xa đến sự sống chết, một vấn đề rất lớn
lao, trọng yếu của đời người.
Năm mười ba tuổi, cô học tại nhà, vừa được tám tháng, đã
có thể lưu lãm các văn tự gần xa. Xem bộ Hương Sơn Ký thấy sự tích ứng hóa của đức Quán Thế Âm
Bồ tát, cô liền có ý nghĩ muốn bắt trước theo. Một hôm, vào tiết đầu xuân, nhân có cuộc vui họp
bạn, nữ sĩ sắp sửa đi dự, vừa bước ra khỏi cửa, bỗng chợt nghĩ:
“Có vui tất có buồn, có hợp tất có ly, có đi tất có về,
thôi thà chẳng đi là hơn!
Lúc ông Thôi Sơn làm hiệu trưởng trường Dương Trung, nữ
sĩ theo cha lên lầu Nhạc Dương, thấy tượng Lữ Thuần Dương, lại nghe sự tích
thành đạo của Ngài, liền sanh tư tưởng xuất thế. Nhưng bị duyên này sự kia, dây
dưa mãi mà chưa thật hành được ý nguyện.
Năm mười bảy tuổi, cô về
làm dâu nhà họ Đàm, vừa thành hôn, liền bảo Đàm Quân rằng:
“Đến ba mươi tuổi, chắc
tôi phải xa nhà, lìa bỏ tất cả, sống một cuộc đời tịnh hạnh. Lúc ấy chàng nên
cố gắng tự nhiếp”.
Nghe nói Đàm Quân cho là
lời vẩn vơ, bất tường, cười mà bỏ qua. Chàng lại khuyên nữ sĩ nên tùng học để
trao dồi thêm kiến thức tại trường Dân Lập ở Thượng Hải. Trong trường ngoài giờ
học, các bạn ưa vận động chơi đùa, riêng cô lại nhàn tịnh, ít nói, thích ngồi
một mình nơi chỗ vắng với trạng thái trầm tư. Nữ sĩ học hành ngày càng tiến bộ,
xuất sắc, thầy bạn đều mến trọng, nhưng vừa được một học kỳ, lại phải thôi học
theo Đàm Quân, lúc lên Bắc Quản, rồi đến Yên Kinh.
Mặc dù trên đường hoạn
quan, cô phải theo chồng, luôn luôn dời chỗ không nhứt định, song tấm lòng mộ
đạo vẫn tùy duyên không biến đổi. Thường thường, trong các cuộc vui, tuy phải
gắng gượng theo người, song nghĩ đến sự vui chẳng bền lâu, phút chốc rồi tan
rã, nơi lòng vẫn hằng xem quan niệm buồn lo. Trong các bạn đồng niên, cô đã từng
nghe họ kể cho biết nỗi niềm riêng: Kẻ thì âu sầu về gia tự, người thất vọng về
danh lợi, tình duyên, kẻ khác lại đau về cảnh sanh ly tử biệt. Thấy cuộc đời
vui ít khổ nhiều, mà các bạn còn mải mê hi cầu, đeo đuổi, như con nai khát nước
chạy theo ánh nắng chập chờn, nữ sĩ bỗng xót thương suy ngẫm:
“Đức Thế Tôn đã nói: “ba
cõi đều vô thường, các pháp hữu vi không có chi là vui”, quả là lời chắc chắn
không lầm. Thật khó hái được cành hoa hạnh phúc trong vườn đời huyễn mộng!” Lúc
ấy trong thâm tâm cô đã có ý nghĩ muốn thoát ly hai họ Hồ, Đàm.
Thường thường trong lúc tiếp chuyện cùng người, nữ sĩ ưa
đàm luận lý diệu huyền, quyết tìm đến chỗ cội nguồn, cầu sự giải quyết cao
siêu, cứu cánh. Cô lập thệ làm sao đến ba mươi tuổi cũng phải lìa môn duyên,
tìm một chỗ an thân tu hành để cho trọn đời sống. Lúc ấy, Đàm Quân có quen thân
với ông Lý Ẩn Trần. Lý là một vị quan cựu trào nhà Thanh, từ khi Dân quốc thành
lập đến nay, từ chức về quê ở ẩn.
Ông này rất mến đạo Phật, nhận sự hoằng pháp lợi sanh
làm bổn phận. Một hôm, nhân có việc đến kinh, Lý tiên sanh ngụ nơi nhà Đàm
Quân, nữ sĩ có dịp được tương kiến. Tiên sanh giảng luận về đạo Phật, nói rộng
sự thù thắng ở Cực Lạc cho nghe, và khuyên cô nên lưu ý tìm sự giải thoát nơi
pháp môn Tịnh độ. Nhân tiện, cô nhờ ông tìm giùm cho mình một cảnh chùa am để
tịnh tu phạm hạnh. Lý tiên sanh nhận lời.
Vì chí xuất trần quá tha thiết, cách vài hôm sau, nữ sĩ
sốt lòng đi thẳng đến am Mã cách Ly thăm Lý tiên sanh, tỏ bày chủ ý của mình.
Tiên sanh vui vẻ tán thành tặng cho một xâu chuỗi, và các sách Phật như: Thiện
nữ nhơn truyện, Tịnh nghiệp soát yếu v.v... rồi giới thiệu đến Hạ Trạch để nghe
Trần nguyên Bạch lão cư sĩ diễn giảng Trần lão là một vị uyên thâm Phật lý,
phát nguyện muốn cho Phật pháp phổ cập toàn cầu, dùng nữ giới đi tiên phong như
cách tông đồ Thiên Chúa bố giáo ở Âu Châu thuở xưa. Bấy giờ bên nữ giới người
học Phật lần đông, mà khổ vì không có chỗ chuyên tu. Lão cư sĩ là người đầu
tiên đứng lên đề xướng về việc ấy.
Khi thăm Lý tiên sanh, được nghe lời khuyến khích, nữ sĩ
từ giã ra về, quyết lòng nhập đạo, đi ngang qua Thơ Trạch nhờ bạn thân là Mã nữ
sĩ đưa qua Hạ Trạch nghe giảng một phen. Khóa giảng xong, cô liền quy tâm Phật
pháp, tôn Trần lão làm bậc thầy. Bạn đồng đạo bảy người đều mặc áo vải, ăn chay
trường bỏ cả sự trang sức xa hoa, sớm tối tụng kinh niệm Phật không biết mỏi.
Nữ sĩ dù dõng mãnh tinh tấn, song tu hành ở nhà nhiều nỗi trở ngại, đôi ba phen
nhờ Trần lão tìm giùm chỗ nơi thuận tiện cho sự thanh tu, nhưng mãi mà chưa
được.
Một thời gian lâu sau,
có tin ở Đông Trực Môn, am Cực Lạc. Bảo Nhất pháp sư sửa sang chùa hư, mở Đạo
tràng làm chỗ cho cả tứ chúng tu tập. Về phía Tây am có vài nóc dân phòng, pháp
sư sửa lại làm quan phòng, ngăn ra từng gian, vừa vặn trang nghiêm, mỗi gian
đều có cửa nẻo riêng biệt, như cách chế thôn lạc, rất tiện cho nữ chúng ở tu.
Nữ sĩ nghe được rất mừng, nhờ Trần lão đưa đến quy y với Bảo Nhất pháp sư. Sau
đôi ba phen bày tỏ lạy cầu. Pháp sư xót thương hứa nhận và chỉ định gian nhà
phía Tây ở Tây viện làm chỗ tịnh tu cho cô. Được lời nữ sĩ bồi hồi cảm động, tủi
tủi mừng mừng, bể trần lao chìm nổi nửa đời, đến đây mới được chỗ an thân học
đạo.
Từ khi ở Đạo tràng quy y lễ tạ Bảo Nhất pháp sư rồi trở
về nhà, nữ sĩ ngày ngày đem việc ly gia khẩn khoản bàn với Đàm Quân. Chàng buồn
bã không quyết định được, mời hàng thân quyến và bạn hữu đến cùng nhau thương
nghị việc ấy. Mọi người không hiểu chí nguyện của cô, đồng ngăn cản. Nữ sĩ bèn
cắt một miếng thịt nơi cánh tay để tỏ bày chí kiên quyết của mình. Đàm Quân
khóc lóc cầm lại không được, xin mãn ba năm rồi trở về nhà cũng không được.
Ngày 23 tháng 8 năm Tân Dậu, nữ sĩ đến am Cực Lạc.
Qua ngày 26 thọ giới Bồ tát, phát nguyện ba năm không ra
khỏi ngõ am, chuyên tu tịnh nghiệp, an lòng với đạo cho mãn kiếp sanh. Cô dù xa
nhà ở ẩn, nhưng hàng thân hữu đến thăm càng đông, lòng không kham nổi sự phiền
phức, liền đóng cửa phòng bảo người rằng: “Tôi lìa nhà thế như đưa đi chôn, vào
tịnh thất như để xuống huyệt, đóng cửa phòng như lấp đất, việc ân nghĩa đối xử
với bên ngoài từ nay kể như đã đoạn tuyệt!” Xem đây có thể thấy tâm chí của cô
kiên quyết như thế nào! Lúc bấy giờ nữ sĩ tuổi vừa ba mươi, đúng với ý
nguyện, hạn kỳ ngày trước.
Đức Phật nói: “Phàm việc
chi đều có nhân duyên, có nguyện tất có ngày đền đáp”, Như Vô Sanh nữ sĩ: nửa
đời chìm nổi, vườn trần mưa gió cánh xuân; nhân tốt sớm gieo, duyên tịnh đưa về
cõi Phật. Ấy đâu phải là sự ngẫu nhiên ư?
Trích dịch: “Vô Sanh
nghiệp ký”
Tỳ kheo: Thiền
Tâm, hiệu Liên Du
Tự Tri Lục
(Lời tự thuật của Vô
Sanh nữ sĩ)
Mấy Lời Phi Lộ
Hoa xuân, cành liễu oanh
kêu hót,
Mình biết mình hơn kẻ
biết mình!
Mùa thu tháng chín năm Tân Dậu, tôi đóng cửa thất nơi
Tây viện am Cực Lạc, ở kinh sư, vâng lời Thầy dạy, cấm ngữ, tuyệt sự đời, chẳng
chơi thi từ văn mặc.
Khi mới dụng công, nhiều cảnh giới bỗng nhiên phát hiện.
Tôi thưa hỏi Thầy, người liền nói là ma, là huyễn vọng, dặn đừng tham chấp, chớ
sợ hãi. Trải qua năm tháng sau, các cảnh tướng bất tịnh lại phát hiện. Đem
trình hỏi Thầy, người bảo: “Đó là do đời trước con đã tu pháp bất tịnh quán,
túc căn phát hiện, không có chi lạ”!
Từ đó về sau, cảnh tướng mỗi ngày mỗi khác. Thưa thuật
lại, thầy bình luận cho chỗ thấy của tôi phần nhiều hợp với kinh Phật, song vẫn
dặn kĩ chớ nên chấp trước, chớ cho là thắng giải. Vì thế, tôi không ghi chép,
cảnh tướng trải qua liền quên.
Gần đây, sau khi ra
thất, các bạn hữu ưa gạn hỏi mãi tình huống trong khi yểm quan. Chuyện vẫn
nhiều, cảnh giới lại phức tạp khó nắm cương lãnh, bất đắc dĩ tôi phải gắng nhớ
lại việc còn ghi nhớ, chép ước lược ra để nhờ thầy bạn chỉ bảo. Tôi cho rằng:
nếu chuyên dụng công, tự có cảnh giới, không cần hỏi gặt hái, chỉ chăm lo cày
bừa. Nếu chẳng cày bừa mà muốn gặt hái, tất không có lẽ đó. Trong vài tháng trở
lại đây, chỗ dụng công của tôi càng thêm đắc lực. Xin chân thành ghi lại trong
tập này, phần đại khái cùng một vài chi tiết nhỏ có lợi cho bạn đồng tu, để
cùng nhau tham khảo.
Sau khi viết xong, tôi đặt nhan đề là “Tự Tri Lục”. Đây
chính là lấy ý nghĩa: sự ấm lạnh tự mình riêng biết vậy.
Tháng quý đông, năm Giáp
Tý
Ngày Phật thành đạo
Ưu bà di: Hiển Nhẫn
Pháp Thức Tu Tập
Khi mới yểm quan, tôi đã
chủ định điều cốt yếu thứ nhất là phải buông cả muôn duyên, xem thân này như đã
chết, quan phòng như nấm mồ của mình. Ngày đêm sáu thời, tôi không để tâm đến
việc chi khác, chỉ một mặt tưởng nhớ Phật A Di Đà cùng thế giới Cực Lạc là chỗ
nương về duy nhứt, nhận chắc cõi này đầy dẫy nỗi khổ, miền kia thuần sự an vui.
Vì thế, khi đi đứng nằm ngồi, tôi giữ câu niệm Phật
khăng khăng không rời. Niệm mãi tới lúc hình nhọc sức mỏi, thần khí hôn trầm,
không còn có thể chi trì, lại đứng dậy lễ Phật để duy trì chánh niệm. Khi lễ
Phật, ít thì 21 hoặc 48 lạy, nhiều hoặc hai ba trăm lạy không nhứt định, lấy sự
hôn trầm tan mất, tâm được thanh tịnh làm chừng. Có khi lễ đến đầu xay xẩm, mắt
lờ mờ, thân hình ngả sụm, vẫn còn lạy mãi không thôi.
Đây là phương châm tối thượng để đối trị bệnh hôn trầm,
tôi thường thể dùng và thường được hiệu nghiệm. Nếu khi tạp niệm sôi nổi, tinh
thần tán loạn, không pháp chi dứt được, tôi liền tụng danh hiệu Di
Đà, Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh hải chúng xoay vần nối nhau không ngớt để
ngăn trừ. Hoặc có khi lại tả vài trăm câu Phật hiệu vào sổ tay, rồi cứ xem kĩ
theo mặt chữ niệm từ trên xuống dưới, cách này cũng rất là đắc lực. Hai phương
pháp trên có thể đối trị bịnh tán loạn, xin đưa ra đây để cho bạn đồng tịnh thử
dùng.
Phương pháp niệm Phật rất nhiều, tôi chọn lấy hai cách:
1. Niệm to tiếng, khi niệm quán mỗi tiếng mỗi câu đi vào trong tâm. Bởi, niệm
to tiếng có thể rửa sạch trần cấu của năm ấm, quán tiếng vào tâm thì lòng dễ
chuyên mà tạp tưởng ít. 2. Ngồi im niệm thầm, khi niệm miệng dù không ra tiếng,
nhưng trong tâm mỗi chữ mỗi câu vẫn rành rẽ rõ ràng.
Hai phương pháp nầy tôi thay đổi nhau mà dùng, tùy theo
trong người khi khỏe lúc nhọc. Niệm mãi như thế, lâu ngày sức huân tập thuần
thục, không niệm mà tự niệm. Lần lần đến khi cùng người chuyện vãn mà trong tâm
câu niệm Phật vẫn nối tiếp nhau không hở dứt. Khi ấy động cùng tịnh đã hiệp
một. Đây gọi là cảnh giới tương ưng.
Thời gian niệm Phật của tôi dài ngắn không định, có khi
một giờ, hai giờ, có khi năm, sáu giờ. Trước tiên là niệm to tiếng, niệm mãi
đến khi mệt thì ngồi yên nhiếp tâm mà niệm thầm để khôi phục sức khỏe; ngồi lâu
đã mỏi lại đứng lên đi kinh hành hoặc lễ Phật cho thân thể được hoạt động. Ba
điều trên đây, tôi cứ tùy thời xoay vần thay đổi, nên có thể duy trì sức niệm
được lâu. Muốn cho vọng niệm bớt ít, tôi tự khắc lệ, dùng chuỗi ký số lấy một
ngàn câu làm đơn vị.
Trong khoảng ngàn câu đó, nếu có một câu thất niệm,
không chắc chắn, rõ ràng, thì bỏ cả, trở lại từ một. Lại khi niệm Phật, tôi
thường nhắm mắt, nếu nửa chừng ngẫu nhiên mở mắt ra, cũng bỏ cả, đếm trở lại từ
một. Lúc lễ bái, phát nguyện, tôi đem hết lòng thành kính khẩn đảo, như tự thân
ở trước Phật, sớm tối đều lấy 108 lạy định làm thường khóa.
Mỗi khi rời phòng thờ Phật, tôi lễ Phật xin phép, tự hẹn
thời gian bao lâu sẽ trở vào, khi vào cũng lễ Phật thưa trình, như thờ đức Thầy
nghiêm, không dám sai trễ. Đèn hương trên bàn Phật, tôi giữ nối luôn không cho
tắt dứt, nếu không thể được vẹn toàn thì phải có một trong hai món. Vài điều
trên đây là những phương pháp dùng hình thức để duy trì chánh niệm.
Trước kia tôi vẫn hay buông trôi theo thói quen, nhưng
sau khi nhập thất lại lấy sự sửa đổi tập quán làm chủ yếu. Lúc gặp những cảnh
vật đáng ưa, sự tình đáng mến, liền dứt bỏ; với những cảnh vật đáng ghét, sự
tình khó chịu, thì gắng ẩn nhẫn cho qua. Khi đau ốm, tôi nghĩ rằng: đây là lúc
sắp vãng sanh, là điểm quan yếu của một đời tu, ta nên tinh tấn, nhẫn các sự
khổ, chớ để khi lâm chung mất chánh niệm. Tôi lại tự lập chí kiên quyết: dù chi
bịnh khổ suy mòn, mạng sống đến giờ hấp hối, nếu còn một chút hơi thở, chút tri
giác, thì lấy đó mà tưởng niệm Phật. Như thế báo thân đã mãn, tất được vãng
sanh, chẳng là đều vui ư? Nghĩ đến đó, lòng tự an nhiên, không kinh sợ.
Tôi vẫn ít ngủ, phen
nhập quan này, sự ngủ nghỉ lại càng ít hơn. Dù có ngủ tâm cũng không hôn mê,
thường tợ như chiêm bao, mà chẳng phải chiêm bao, vẫn thấy mình có thể lễ Phật
niệm Phật như lúc bình thường không khác. Nhân đó tôi lại càng cố gắng lặng
lòng quán sát, quét trừ ma ngủ để nối luôn niệm thanh tịnh, mong làm sao cho
niệm lực ngày đêm như một. Điều này rất là khẩn yếu...
Trải Qua Cảnh Giới
Thời gian yểm quan tu tập chưa bao lâu, tôi cảm biết tứ
thể nhẹ nhàng, đầu não mát mẻ, trong miệng nước tân dịch tuông tuông như suối
trào, vị ngọt ngon.
Vào khoảng hai mươi mốt ngày sau, một đêm, trong thất
khói đàn hương quá ngạt, tôi đứng lên đi lại mở cửa sổ để thay đổi không khí.
Cửa vừa mở, mắt nhìn về phương Tây, thoạt thấy một đạo hào quang hình như cái
móng theo chiều gãy chiếu sang phương Đông, ánh sắc vàng hồng, làm cho cả am
sáng rỡ như ban ngày.
Tôi nhắm mắt chắp tay niệm Phật vài câu, mở mắt ra xem
vẫn còn thấy hòa quang vàng nháng lên mấy lần mới tắt mất. Trong lòng tự biết
đó là điềm tốt, càng thêm tinh tấn tu hành. Nhiều lần đang khi gõ mõ niệm Phật,
mỗi dùi mõ đánh xuống phát ra một làn ánh sáng. Tôi lại thấy trong ngực có bình
lưu ly, khi niệm Phật, mỗi chữ mỗi câu đều chun vào chứa đựng cả trong bình.
Trên đây là những cảnh giới trước sau trong khoảng tháng mười một tháng chạp.
Đêm hai mươi bảy tháng
chạp, lúc trời gần sáng, tôi bỗng cảm thấy mình đang đi trên tuyết, mỏi mệt
muốn trở lại, thoạt nghe tiếng người bảo: “Đã đến Tây phương, phía trước có
người đón tiếp con”. Tiếng nói vừa dứt, trước mắt bỗng mở ra một vùng ánh sáng
mênh mang, các tướng tốt rực rỡ của cõi Cực Lạc hiện bày trong ấy, tràng phan
bảo cái rất mực trang nghiêm, có vị Bồ tát an tọa trên tòa sen báu.
Tôi tự biết đó là đức
Quán Thế Âm, song miệng vẫn niệm Nam mô A Di Đà Phật, rồi cúi xuống lạy. Bồ tát
bước đến đỡ dậy, khen ngợi: “Công hạnh của con cũng khá tốt, chỉ hiềm còn thiếu
chữ Bi”! Tôi liền gieo mình đảnh lễ: Nam mô đại từ đại bi A Di Đà Phật. Vừa
ngước đầu dạy, thoáng thấy Bồ tát bay lên có dạng như hơi khói nước sôi trào.
Trong tâm thầm nghĩ “Đó chắc là Ngài làm phép”. Lúc ấy liền thức tỉnh.
Bấy giờ, tôi cảm thấy có vô số hạt châu sáng lăn vòng
khắp trong thân, các hạt châu đều kêu thành tiếng niệm Phật, mà lạ thay, tiếng
đó lại lanh lót ở giữa chừng không. Khi ấy nơi tâm càng mát mẻ, nhẹ nhàng, cảnh
hiện được ba giờ mới dứt. Từ đây cho đến hơn mười ngày sau, mỗi khi lễ phật,
niệm phật, lúc vừa mới chắp tay, trong thân các hạt châu lại bắt đầu hành động
không ngớt, kế lại hiệp thành một hạt châu lớn phía sau có ánh sáng vàng. Lăn
vòng khắp châu thân.
Trong một ngày có đến đôi ba phen như vậy. Lại có khi
tôi vừa niêm Phật một tiếng, bỗng thấy châu sáng lên một hạt, niệm đến số 108
câu, các hạt châu liên kết nhau hòa thành xâu chuỗi, tự máng vào cổ mình. Cảnh
trạng này mấy ngày mới hết.
Ngày Nguyên Đán năm nhâm Tuất, sau giờ ngọ tôi bỗng thấy
vô số nam nữ qua lại, cười nói ồn ào quấy rầy mãi chẳng thôi. Bọn ấy dạy bảo
tôi niệm chú mới, tôi vừa đọc qua một biến, liền giác ngộ biết là ma, vội bước
xuống tòa đến trước bàn gõ mõ niệm Phật lớn tiếng.
Tiếng niệm phật nếu dừng, tiếng kia lại nổi lên, hoặc
kêu chị chị em em, hoặc khua như tiếng đồ đạc bễ vỡ hoặc có nhiều người đem đồ
ăn ngon ngoài đời lại nài nỉ ép bảo ăn. Khuyên chớ tu hành đã luống công mà
nhọc nhằn khổ não, tôi lại thấy trẻ nhỏ hai bên nói : “Ta là Phật Di Đà đây” kế
lại tự cam lấy bốc cháy nóng từ trên đầu, rồi lần lần bay dang ra xa. Đôi khi
lửa từ trong miệng phựt ra có ngọn.
Bây giờ trong thân như có vật chi muốn vọt ra ngoài mà
không được. Cảnh trạng như thế biến hiện rất nhiều, đáng kinh, đáng sợ ! Lúc ấy
tâm tôi dù hơi khiếp hãi, song thần trí vẫn sáng suốt không bị động , quyết
liều chết giữ chắc một câu niệm phật để chống trả lại. Như thế luôn cả sáu ngày
đêm, mắt không nhắm, không nằm, không ăn, không một khắc nào rời lễ niệm khẩn
cầu, như con thơ kêu cứu cùng cha mẹ.
Đến cuối ngày thứ sáu, khí lực suy kém, trong người quá
mỏi mệt, mà vẫn còn gắng sức chỉ trì lễ Phật vài trăm lạy để cầu xin gia hộ.
Trong lúc thân càng khốn như thế, cảnh ma lần lần tiêu dứt. Sau khi ấy, tôi lên
giường nằm thử, may mắn sức khỏe lại khôi phục như thường. Qua ngày kế, đang
lúc tịnh tọa, tôi cảm thấy từ nơi ngực hơi nước tuông tuông phun ra như
sóng cuộn, mãi mãi chẳng thôi, khí lực kém lần, không thể tự chi trì được. Tôi
liền phát tâm chí thành khẩn cầu, niệm phật, thầm nghĩ: “giờ phút vãng sanh, âu
là hôm nay.
Thôi, không còn nên đoái tưởng một mảy may gì nữa cả” !
Như giây phút, trước cảnh trạng suy kiệt như săp chết đến nơi ấy, hơi nước bổng
nhiên xoay lại, hòa thành cái chụp lưu ly trong suốt sáng rỡ, che trùm cả thân
mình. Tôi liền khen ngợi Phật Pháp không thể nghĩ bàn! Tiếc thay! Người đời
không chịu tu hành, hoặc tu mà đạo không hơn ma, không thể duy trì chánh niệm,
để tinh thần hỗn loạn, nến đỗi giữa đường phải bỏ dở. Thật đáng thương! Đáng
xót !
Vào hạ tuần tháng giêng, một hôm dường như chiêm bao mà
không phải chiêm bao, mắt còn chưa nhắm, tôi cảm thấy như mình sắp chết, trên
đầu có ít người kêu réo. Lúc ấy, thần trí tôi không hề lay động, vẫn chuyên tâm
niêm Phật, cho rằng: đây chính là giờ vãng sanh. Lại tự nghĩ: “Sao phương Tây
còn chưa có nười đến tiếp dẫn” ?
Vừa nghĩ như thế, bỗng cảm thấy mình từ trong đường tối
đi ra, vụt bay thẳng lên hư không, khắp châu thân toàn là cánh sen vàng, tùy
tâm chớp động, vui thích vô ngần! Lại tưởng: “ sao không thấy Phật”? Liền khi
ấy trước mắt hiện ra đức Phật lưu ly ngòi trên tòa sen lớn, có bồ tát hầu hai
bên, Phật bảo: “ta cho con một hoa sen”. Tôi liền thức dậy.
Cách vài hôm sau, trong lúc tĩnh tọa, tôi thấy mình bay
lên hư không hóa thành hào quang vàng, chính hào quang là thân mà không có thân
tướng, nhẹ tang sáng suốt, vui thích vô cùng! Có một ngày, bỗng nhiên thân mình
như kết lưới, kết rồi lại dứt, cảnh tượng ấy kéo dài hơn tháng mới thôi. Không
bao lâu, tôi cảm thấy khắp mình sáng suốt, soi thấy ngũ tạng, cả thân tái sanh
như thịt thúi, mắt thành lổ to như hai ngọn đèn.
Khi niệm một tiếng Phật, liền thấy thịt thúi lột ra một
lớp như sóng vỗ trôi cát. Lần lần lột sạch hết cả. lại thấy thân như chụp lưu
ly, trong ấy trùng bu đầy, đầu trùng đều ngước cả lên rất đáng sợ, vài ngày mới
hết. Kế lại thấy khắp thân từ da thứa đến thịt xương lột ra từng lớp như lột bỏ
tơ mục, đến khi hết, lòi cả tạng phủ ra bừa bãi trên giường.
Các tướng như thế biến hiện không thể nghĩ bàn! Trải qua
mấy cảnh giới trước, tôi tự thấy khắp mình ánh sáng chói suốt, phát hiện nhiều
thứ châu báu trang nghiêm. Các tướng ấy một ngày biến đổi vài lần, hoặc hóa làm
lộng phướn, hoặc hóa thành đền đài, hoặc từ các lổ chân lông đồng thời chiếu ra
hào quang vàng như sợi chỉ.
Có hôm, những sợi ấy hợp thành một bó chỉ vàng phân nửa
hướng lên trên , phân nửa rũ xuống dưới, đều hóa thành lưới báu, mỗi mắt lưới
một hạt châu, chân lưới bao chụp cả thân mình, các hạt châu va chạm nhau thành
tiếng thanh thao êm dịu! Có lúc từ ba mặt lưới mưa nhỏ tuôn phơi phới, mỗi giọt
nước hóa thành hình tròn liên tiếp như thế vài ngày đêm không dứt, rốt sau lại
biếng thành ao vàng. Trong ao ấy có các thứ báu hoạt động sanh vật, trên có chữ
Vạn màu vàng che phủ.
Một hôm, tôi bổng thấy đỉnh đầu bễ vỡ tuôn ra nhiềuhoa
báu phun vọt lên trên, ánh sáng chiếu xuốt, soi thấy chư phật bồ tát đầy khắp
hư không. Bấy giờ sáu căn lẫn lộn, không còn phân biệt được, không trong không
ngoài. Mặc dù cảnh giới có biến đổi lạ lùng, song tôi vẫn an nhiên, không vui mừng,
kinh sợ.
Vài hôm sau, tôi lại thấy từ trong ngực có hoa sen báu
vọt ra, cánh sen sắc vàng hồng, khép nở liền liền. Trong hoa hiện ra đức Phật A
Di Đà sắc vàng, Phật bay lên hư không, mình cúi lạy theo. Lúc ấy lại tự hiểu
đức Phật mà mình đang lễ bái, chính là mình, không hai không khác. Một ngày,
tôi chợt cảm thấy tâm khai, phóng hào quang sáng trắng như điện chớp, hiện ra
cõi lưu ly báu. Trong đó có rất đông bồ tát và la hán an tọa, mình cũng đồng
ngồi, quang cảnh như nhi đồng theo phụ huynh dạo chơi.
Vào hạ tuần tháng ba,
một hôm tôi thấy chụp lưu ly phủ mình tự nhiên vỡ nát, miểng vụng văng ngang
thì hóa thành cát sắc bạc, miểng văng lên biếng làm lồng vàng từ sau lưng văng
ra phía trước rồi xoay lại. lúc ấy trong thân khốn khổ lạ thường, như rắng bò
ra, như tằm nằm ngủ, đang khi khó chịu, tôi chợt cảm biết thân tâm khoan khoái,
muôn niệm đều tiêu, nghe rõ các tiếng buồn khổ từ dưới đưa lên rất là thảm
thiết! Kế lại nghe tiếng niệm Phật du dương trong trẻo từ xa lại gần, thanh
tịnh an vui không thể nói dụ được! Nhìn xuống tôi thấy đất biến thành lưu ly
sáng suốt mà chính đó là thân mình, bên tả hóa hiện cây Bồ đề to lớn, tàng rộng
che trùm rất xa.
Từ trên đảnh đầu mình
lại phóng ra ánh sáng sắc vàng, giữa ánh sáng hóa hiện cây cột thủy ngân, đầu
cột có tiếng niệm Phật như máy phun nước nối liền không dứt. Ngày ấy tôi tịnh
tọa ước chừng sáu giờ, sau khi xuất định, còn nghe tiếng người niệm Phật như
kêu mình cứu vớt, hơn mười ngày mới thôi.
Từ đó về sau, trên đầu
tôi đều cùng cánh sen bao vây, toàn thân cũng là cánh sen kết thành, mình đi
dưới ánh sáng nắng màu sáng chói, tốt đẹp vô cùng.
Lại mỗi khi tôi tịnh
tọa, bỗng thấy hào quang phóng ra, tường vách cõi đất đều chấn động, vật chi
chạm đến hào quang đều liền vỡ nát hóa thành hoa vàng xoay lộn không ngớt. Trên
hư không hoa báu bay liệng lên xuống đều đều chậm chậm như những cánh chim
trời.
Trên đây là những cảnh giới trải qua từ rằm tháng chín
yểm quan đến rằm tháng tư xuất quan. Từ đây đến rằm tháng mười là ngày nhập
quan, trong vòng sáu tháng, cảnh giới không đổi mấy mà cũng không mất. Hoặc
thấy toàn thân hiện thành ánh quang minh, dường như tơ phơi phới xoay vần không
ngừng. Hoặc có lúc tự mình ngồi trên hoa sen bay lên hư không đi đồng hàng với
các bậc Bồ tát, thường được nghe lời khen ngợi.
Đêm mười tám, sau mấy
ngày nhập quan, tôi hay tin tiên phụ mất, liền bày linh vị trên bàn Phật, quì
tụng kinh A Di Đà. Trong lòng xúc cảm, vừa niệm bài hương tán, nước mắt bỗng
rơi nhỏ giọt như chất dầu. Sau thời kinh tôi đang tịnh tọa, chợt thấy bóng đen
bay đến trước linh vị, lại nghe trên hư không có tiếng bảo: “Công đức đã viên
mãn, cha của con được vãng sanh về biên cảnh Tây phương. Chờ khi nào đạo nghiệp
con thành tựu, sẽ đồng được thấy Phật”. Liền khi ấy, bóng đen tan đi như mây
khói. Tôi lại tịnh tọa nhập thâm định, thấy thân phụ đang ngồi trong vườn hoa
rộng lớn, tốt đẹp rực rỡ, không phải cảnh nhơn gian. Đây phải chăng là miền
biên địa ở Tây phương?
Đêm mười chín, trong lúc thầy cùng các bạn lập đàn niệm
Phật để siêu độ cho tiên phụ, tôi thấy tiếng niệm Phật trong đàn kết thành một
phiến, trong rõ chỉnh tề, du hành trong hào quang của tôi đến sáng mới thôi.
Ngày ấy cảnh giới của tôi cũng đặc biệt thù thắng. Trên hiện hào quang vàng,
dưới thành ao sen rộng lớn có vô số hóa Phật, tâm tôi khoan khoái cũng niệm
Phật không ngớt. Thảng như thường có cảnh giới này lo gì tịnh nghiệp của mọi
người không thành?
Vào buổi chiều tối ngày
mùng 8 của một tháng mùa đông, lúc tôi niệm Phật, hào quang hóa thành lông cứng
thẳng, sức rất mạnh khó điêu huấn. Nhưng khi niệm đến sau một ngàn câu, bỗng có
tiếng nổ như mở nút miệng bình, hào quang mới lần lần dịu mềm xoay vào trong
miệng. Bấy giờ thân thể tôi đồng như hơi bọt, mát mẻ vô cùng bên tai vang ra
tiếng êm dịu.
Mấy ngày trở lại đây,
cảnh giới phát động khốn khổ khác thường, bây giờ mới được yên lặng. Đây chính
là vì tôi không quản chi cả, chỉ dùng một chữ Nhẫn để chống lại. “Nhẫn” này không phải
nhẫn chịu sự thống khổ, mà chính thật pháp không nhẫn, là quên cả thân tâm
ngoại cảnh, xem tất cả đều không. Tôi dùng cách này để hàng phục tâm mình, cảm
thấy rất được tương ưng.
Ngày mùng mười, trước giờ ngọ, tôi niệm Phật đến lúc
khẩn cấp, bỗng nhiên tâm khai hiện ra một vị Phật, sánh với đức Phật hồi tháng
tư thì vàng sáng và rõ hơn, Phật hiện đối trước tôi, như đứng ánh sáng trăng
bàng bạc phía trên lại hiện ra các thứ châu ngọc rực rỡ chớp nháng lấp lánh. Lúc
ấy trong tâm tôi có trạng thái vừa đau, vừa sáng vừa yên tịnh, hơn một giờ mới
hết. Liền đó, tôi lại thấy các hình tướng trang nghiêm ở cõi Cực Lạc xoay dạo
không ngừng. Ấy cũng là công đức sẵn có trong tâm, chẳng phải cảnh ngoài.
Chiều rằm, đang lúc tĩnh tọa, tôi thấy trong hào quang
sắc chàm hiện ra một chữ “Hồng” màu đỏ, hai bên nổi lặn như đèn điện tắt cháy,
tự biết đó là bốn chữ A Di Đà Phật hiệp thành, tôi quán soi hồi lâu bỗng hiểu:
bổn lai của ta chính là cái này. Nhân tưởng: “Bình nhựt vọng niệm từ đâu phát
ra?” Lúc đó liền thấy một niệm nghĩ ấy dờn dợt từ dưới chữ mà ra, đó là chỗ
vọng niệm phát xuất. Châu vi của chữ Phạn ấy lại vang ra tiếng trong rõ dị
thường!
Đêm mười bảy, thân mình hốt nhiên hóa thành sợi chỉ
trắng rất sáng suốt, xoay vần như gò núi. Nhân đó tự biết: Lông trắng giữa chân
mày chia ra thì thành 32 tướng cho đến tất cả cảnh giới đều do nơi lông trắng
này mà thành. Lúc tôi dụng công được tương ưng thì tâm cùng tiếng hiệp thành
một khối lảnh lót như tiếng đồng tử hoặc có lúc ứng tiếng hòa với tiếng tôi mà
niệm.
Đêm hai mươi, sau khi tôi tụng xong kinh Địa Tạng, tiếp
tục qua kinh Di Đà, đến quyển thứ tư, câu A Dật Đa Bồ tát, bỗng nhiên thân thể
rổng rang, tất cả đều không. Tôi lần ngồi xuống đất cũng không thấy hay động,
da mặt đầu mình không biết đau ngứa, xúc giác tiêu tan, cảnh giới trang nghiêm
lúc bình thường đều mất cả. Như thế giây lâu mới trả lại nguyên trạng. Khi ấy,
tâm càng mát mẻ, hào quang càng rộng rãi dịu dàng vô cùng!
Ngày hai mươi tám, tôi tự cảm thấy thân thể hóa thành
vầng mây, mây là thân không tướng. Áng mây thân đó họp lại thành gò núi, tan ra
thành bạch quang, sự trong ngần của băng tuyết không thể sánh kịp. Khi ấy bốn
phía, hai bên cùng sau trước, đều không còn phân biệt. Tôi chỉ tự cảm biết
trạng thái lúc bấy giờ là một thể hồn nhiên sáng suốt mà thôi...
Lời Bình Luận
Trong kinh sách Phật, có nhiều chỗ khuyên răn người tu,
lúc được cảnh giới tốt hay có sở đắc chi, chớ nên phô bày. Nếu phô bày thì dễ
sanh ma chướng, tà niệm, hoặc có khi được rồi lại mất. Trừ ra hai phương diện:
1) Bậc
Phật, Bồ tát hiện thân, vọng tâm đã dứt, vì muốn thủ tín cùng đời, hay vì dắt
dìu chỉ dẫn người sau, nên mới nói ra.
2) Lòng mình có
chỗ nghi, muốn thuật riêng lại với bậc thiện tri thức để nhờ quyết đoán sự
chánh tà, tránh các điều hại, không phải có ý khoe khoang tự đắc.
Vô Sanh nữ sĩ là người thế nào, tôi không thể lường
được, nên không giám phẩm bình về sự phô bày của tôi. Nhưng xin khuyên các hành
giả phải cẩn thận, đừng có được ít mà đòi nhiều, và nếu không phải vì một trong
hai trường hợp trên, xin chớ phô ra. Như thế mới khỏi mang tội đại vọng ngữ, và
tránh được các điều hại.
Tập này, có một vị cư sĩ
muốn in để truyền bá rộng ra, viết thơ hỏi ý kiến Ngài Ấn Quang. Đại sư không
cho và bảo: “Nếu tu hành đắc lực, tự nhiên có cảnh giới. Song cảnh giới ấy cũng
tùy công đức nơi tâm mà hiện, chớ không có chi lạ! Người tu, nếu đúng theo pháp
mà niệm Phật, thì thấy tướng hảo càng tốt, không thấy cũng vô hại, bởi nhân
chắc thật tất quả không hư dối.
Như tu niệm không đúng
pháp, hoặc dụng công chẳng chí cực, thì có sở đắc là ma, không sở đắc là ngu
si. Dù khi các cảnh
tướng tốt hoặc xấu phát hiện, cũng nên giữ vững chánh niệm, đừng quá vui mừng,
kinh sợ, vì đó là những chỗ hở để ma dễ nhập vào tâm. Người đời nay, khi tu
hành, phần nhiều có tánh hiếu kỳ, không chú trọng nơi chỗ dụng công, chỉ mong
cầu được thấy hảo tướng. Đã như thế, chẳng những không được cảnh tốt, mà do bởi
vọng tưởng phân vân, ma nhân đó giả hiện Phật, Bồ tát để gạt gẫm, khiến cho
điên cuồng.
Ấn Quang sợ e tập này in
ra, không khéo lại thành mối duyên thúc đẩy kẻ vô tri sa vào nơi hố sâu ấy.
Theo ngu ý, chẳng bằng nên thôi đi là hơn...”
Lời Ấn Quang đại sư dạy
bảo trên đây thật là xác đáng. Nhưng, hàng cư sĩ bên Trung Hoa phần nhiều trình
độ học Phật khá cao, đối với tập này, có thể không là điều cần thiết. Riêng Phật tử Việt Nam ta, sự hiểu đạo đa số còn mông
lung, tâm tu hành không thiết tha tinh tấn nên tôi muốn mượn tập này để làm
duyên tăng trưởng lòng tin cùng khuyến khích bạn đồng tu trên con đường tịnh
nghiệp.
Với tập này, nếu người biết phân minh điều hay dở, thiết
tưởng cũng không đến đỗi có hại. Điều hay là xem gương người để sửa đổi, sách
tấn; rút lấy kinh nghiệm của người để làm lợi ích cho mình. Điều dở là như lời
Ngài Ấn Quang đã chỉ trích ở đoạn trên.
Xem “Tự tri lục” xong, các hàng liên hữu suy nghĩ thế
nào? Có lẽ chúng tôi nên hổ thẹn nhiều với bổn phận mình, với Hồ nữ sĩ! Vậy ta
nên rảo bước cố theo kịp người trên đường về Cực Lạc. Ta phải thiết thực sửa
đổi tăng tiến, chớ đừng nhìn nơi chỗ sở đắc của người mà khen ngợi mong tưởng
suông. Như thế là vô ích, khác nào như kẻ nghèo ngồi nhà tính đếm gia tài của
bậc phú ông? Và, nếu kẻ có đôi chút công hạnh mà tham chấp cảnh giới, hoặc vọng
cầu các hảo tướng quá phần lượng, lại là một điều hại cần nên để tâm.
Trên đây là tất cả bao
nhiêu điều thiết yếu.
Người bạn sen
Liên Du
BÀI SỐ 48
Ẩn tu nhớ dạy Tịnh Liên Hoa
Trí Giả nguyên là Phật
Thích Ca
Lại có Vĩnh Minh cùng Thiện
Đạo
Tương truyền thân hóa của
Di Đà
NHƯ Ý : Trí-Giả Đại sư các Tôn túc nhà Thiền đều cho là hậu
thân của đức Thích-Ca, ngài có viết ra quyển THẬP
NGHI LUẬN, để khuyên dạy pháp Tịnh liên hoa tức môn TỊNH ĐỘ, khi lâm chung
đại sư chấp tay niệm PHẬT, phó chúc mọi việc rồi sanh về Tây-phương.
Vĩnh-Minh Đại sư một bậc
siêu ngộ TÂM tông đã Trước-tác một trăm quyển TÔNG
CẢNH LỤC CHỈ dạy về Thiền, mỗi ngày đại sư tu thêm 108 công đức
để cầu sanh tịnh-độ. Trong ấy có hai đều:
1) Tụng một bộ PHÁP HOA
2) Niệm 10 muôn câu PHẬT
HIỆU, còn Thiện-Đạo Hòa thượng là vị Tổ thứ hai bên Liên-tông khuyến hóa
hằng muôn người niệm Phật, phần đông đều có điềm lành ứng hiện thở SANH
BÌNH và lúc sắp về CỰC LẠC.
Tương truyền cả hai vị
đều là HÓA thân của PHẬT A-DI-ĐÀ một vị dạy hàng THƯỢNG căn pháp VIÊN tu, một
vị dạy hàng TRUNG HẠ căn pháp CHUYÊN tu về môn tịnh độ.
ỨNG THÂN và HÓA THÂN khác nhau thế nào?
Ứng thân mỗi khi hiển hiện
ra theo căn cơ chúng sanh để độ thì có từng giai đoạn, gọi là phần căn cứ
về LỊCH SỬ. Cũng như đức Thích Ca Mâu Ni Phật, trước đó có:
Giáng thân, Thọ thai nơi vương cung Tịnh Phạn ở nước Ca Tỳ La Vệ, Thiên Trúc.
Rồi sanh ra làm thái tử Tất Đạt Đa. Lớn lên xuất gia tu hành thành Phật, hiệu
là Thích Ca Mâu Ni.
Sau khi thành Phật, thuyết
pháp giáo hóa chúng sanh. Từ khi xuất xứ cho đến kết cuộc, cũng đúng theo căn
cơ của chúng sanh, cũng phải từ nơi mẹ sanh ra, rồi lớn lên, tạo sự nghiệp, rồi
cũng già chết. Đức Phật cũng vậy. Sau khi thuyết pháp xong, công việc đã hoàn
tất, đức Phật nhập Niết Bàn, đó gọi là Ứng Thân Phật.
Còn Hóa-Thân Phật
cũng tùy trường hợp, chỉ có trong tùy lúc tùy thời mà thôi. Chúng sanh đủ
duyên, cần được khỏi khổ, được vào đạo, Phật tùy theo đó mà hiện thân, để cho
chúng sanh được thấy và giáo hóa họ. Không biết thân đó xuất xứ từ đâu,
mà không biết đi về đâu, không có sự giáng sanh, cũng không phải có sự nhập
Niết Bàn, đó gọi là Hóa Thân.
Ứng Thân và Hóa Thân là
những thân tùy theo cơ duyên của chúng sanh để độ. Như vậy, Ứng Thân và Hóa
Thân có khác nhau. Ví như đức Quán Thế Âm Bồ tát cũng có Hóa Thân với Ứng Thân. Ứng Thân là phần
lịch sử, hoặc sanh trong nhà vua, lớn lên thế nào, rồi tu hành, rồi đắc đạo. Đó
gọi là Ứng Thân của Ngài Quán Thế Âm Bồ tát.
Còn Hóa thân là tỷ như có người
đang bị tai nạn, chí tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm, lúc đó hoặc thấy có một bà
già hiện đến cứu người ra khỏi tai nạn, rồi biến mất đi đâu. Như vậy gọi là Hóa
Thân. Sau khi được cứu khổ rồi mới trực nhận rằng mình niệm đức Quán Thế Âm mới
gặp được bà già, biết rằng đức Quán Thế Âm hiện đến cứu khổ cho ta.
Đức Lô Xá Na Phật, là Báo-Thân của Phật Thích Ca Mâu Ni, còn Thích Ca Mâu
Ni là Ứng-Thân của Phật Lô Xá Na vậy.
KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI
Giảng Sư
Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
Trí-Giả Đại Sư
Trí Giả nguyên là Phật Thích Ca
(Đại sư húy là Trí Khải,
vị sơ tổ của tông Thiên Thai. Ngài họ Trần, người đất Vĩnh Xuyên, khi sanh ra
có thần quang chiếu sáng cả nhà. Năm 18 tuổi Ngài xuất gia, tham học với Huệ Tư
Thiền sư. Thấy Ngài đến, Thiền sư nói: "Năm xưa ta với ngươi đồng ở Linh Sơn
pháp hội, túc duyên đeo đuổi, nay lại gặp nhau". Đại sư nương theo Ngài
Huệ Tư, chuyên tu không bao lâu chứng được Pháp Hoa Tam muội, trí huệ biện tài
vô ngại.
Ngài có soạn ra bộ Tịnh
Độ Thập Nghi Luận, khuyên người niệm Phật. Vua Tuyên Đế nhà Trần mến đức, cất
Chùa thỉnh Đại sư về trụ trì. Vua Dượng đế nhà Tùy cũng thọ giới cùng Ngài lại
tứ hiệu là Trí Giả.
Sau Đại sư trở về núi
Thiên Thai, pháp hóa càng thạnh. Mùa đông năm Khai Hoàng thứ 17, Ngài hướng về
Tây niệm Phật tọa hóa, thọ được 67 tuổi).
Đại sư nói: "Muốn
quyết định được sanh về Tây phương cần phải đủ hai hạnh: Yểm ly và Hân nguyện.
- Thế nào là hạnh yểm
ly? Phải quan sát thân
này đầy đủ sự nhơ nhớp, chịu nhiều nỗi đau khổ, không có chi là vui, mà sanh
lòng nhàm chán muốn thoát ly. Nghĩ tưởng như thế thì lửa dâm dục phiền não lần
lần giảm bớt. Lại phát nguyện cầu được vĩnh viễn xa lìa cõi trần khổ lụy, không
còn thọ cái nghiệp thân nam nữ, máu mủ, tanh hôi, đắm mê theo ngũ dục, cầu được
mau về Tịnh độ chứng thân pháp tánh trong sạch quang minh. Đó là hạnh yểm ly.
- Thế nào là hạnh hân
nguyện? Trong đây có hai
điều:
1. Nên nghĩ chúng sanh chìm trong biển khổ, mình là
phàm phu không đủ sức cứu độ. Nay tha thiết muốn về Cực lạc, gần gũi với Phật,
tu hành chứng quả vô sanh, để độ thoát lấy mình, báo đáp bốn ấn, cứu chúng sanh
khổ não. Đó là mục đích cầu sanh.
2. Duyên tưởng báo thân của Phật sắc vàng sáng rỡ, có
84,000 tướng, mỗi tướng có 84,000 vẻ đẹp, mỗi vẻ đẹp phóng ra 84,000 tia sáng,
soi khắp pháp giới nhiếp lấy những chúng sanh niệm Phật. Lại quán tưởng cõi Cực
lạc bảy báu trang nghiêm, đầy đủ sự an vui mầu nhiệm, mà sanh ra lòng ưa thích.
Do đó gắng sự bố thí, trì giới, niệm Phật, tu các hạnh lành, rồi đem hồi hướng,
nguyện mình cùng tất cả chúng sanh, đều được sanh về Tịnh độ. Làm như thế thì
quyết định được vãng sanh, và đây là hạnh hân nguyện.
Bổn Sư Thích-Ca Mâu Ni
Phật
(Thích Ca Mâu Ni là
tiếng Phạn, dịch: Năng Nhân Tịch Mặc, Thích Ca là họ, Mâu Ni là tên; Phật có
nghĩa là: đấng giác ngộ, Đức Bổn Sư khi xưa là Thái tử Tất Đạt Đa, ở xứ Trung
Ấn Độ, nước Ca Tỳ La Vệ, cha là Vua Tịnh Phạn, mẹ là Ma Da Hoàng hậu, Thái tử
xuất gia lúc 19 tuổi, đến 30 tuổi thành đạo, thuyết pháp 50 năm trụ đời 80
tuổi. Đức Phật ra đời độ vô lượng chúng sanh, hiện nay đạo pháp của Ngài được
khắp giới Á, Âu tôn trọng).
Kinh Phật Thuyết A Di Đà
nói:
"Từ đây thẳng về
phương Tây, trải qua mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực lạc. Cõi ấy
có đức Phật hiệu là A Di Đà, hiện nay đương thuyết pháp.
Tại sao cõi kia gọi là
Cực lạc? Vì chúng sanh ở cõi ấy không có các sự khổ, chỉ hưởng những điều vui,
nên gọi là Cực lạc.
Đức Phật ấy vì sao hiệu
là A Di Đà? Bởi ánh sáng của đức Phật này không lường, soi khắp mười phương
quốc độ, không chỗ nào chướng ngại, nên hiệu là A Di Đà. Lại nữa, đức Phật kia
cùng với nhân dân của Ngài sống lâu đến không lường, không ngằn A tăng kỳ kiếp,
nên gọi là A Di Đà. Chúng sanh, sanh về cõi Cực lạc, đều là bậc A bệ bạt trí,
trong ấy hàng nhứt sanh bổ xứ rất nhiều, không thể dùng toán số tính biết được,
chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên A tăng kỳ để nói mà thôi.
Chúng sanh nào nghe kinh
này, nên phát nguyện sanh về nước kia. Tại sao thế? Vì được cùng các bậc người
thượng thiện ở chung một chỗ.
Nếu có người thiện nam
thiện nữ nào nghe nói đến Phật A Di Đà, giữ niệm danh hiệu, hoặc một ngày, hai
ngày, ba ngày cho đến bảy ngày, một lòng không loạn, khi người ấy mạng chung,
Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng hiện ở trước.
Bấy giờ kẻ ấy lòng không điên đảo, liền được sanh về cõi Cực lạc. Chúng sanh các ngươi! Nên tin
kinh "Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức, Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ
Niệm" này.
Kinh Đại Tập nói:
Hành giả ngồi ngay
thẳng, chuyên tâm tưởng đức Phật A Di Đà, tướng đẹp như thế, oai nghi như thế,
đại chúng như thế, thuyết pháp như thế, tưởng niệm như vậy, tâm tâm nối nhau,
thứ lớp không loạn, sẽ thấy được Đức Phật kia.
Ví như trong đời có
người nam hay nữ đi xa ở xứ khác, trong giấc mơ thấy nhà cửa của mình. Lúc bấy
giờ thật ra người ấy chẳng biết là đêm hay ngày, là ngoài hay trong, tường vách
núi đá không thể che ngăn, cho đến sự tối tăm mù mịt cũng không làm chướng ngại.
Hành giả mỗi niệm cứ
huân tu như thế, lâu ngày sự quán tưởng sẽ sáng suốt lanh lẹ, kết quả được thấy
Phật A Di Đà.
Kinh Thập Lục Quán nói:
Muốn sanh về Cực lạc,
phải tu ba thứ phước:
1. Hiếu dưỡng cha mẹ,
phụng thờ Sư trưởng, tâm từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành.
2. Thọ trì tam quy, giữ
trọn các giới, đừng phạm oai nghi.
3. Phát lòng Bồ đề, tin
sâu lý Nhân quả, đọc tụng kinh Đại thừa, khuyến tấn người tu hành.
Ba điều trên đây gọi là
tịnh nghiệp.
Kinh Bảo Tích nói:
Bấy giờ Di Lặc Bồ tát
bạch Phật rằng: "Bạch đức thế Tôn! Như Thế Tôn đã nói những công đức lợi
ích của Phật A Di Đà và thế giới Cực lạc. Lại bảo: Nếu có chúng sanh nào phát
mười thứ tâm, một lòng chuyên niệm hướng về Phật A Di Đà, khi người ấy mạng
chung sẽ được sanh về thế giới của đức Phật kia. Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
phát mười thứ tâm, và do tâm này sanh về Cực lạc?"
Phật bảo: "Này Di
Lặc! Mười thứ tâm ấy không phải hạng người phàm phu, bất thiện có thể phát
được. Những gì là mười tâm:
1. Đối với chúng sanh
khởi lòng đại từ không làm tổn hại.
2. Đối với chúng sanh
khởi lòng đại bi không làm bức não.
3. Với chánh pháp của
Phật khởi lòng hộ trì không tiếc thân mạng.
4. Với tất cả pháp lành
sanh lòng thắng nhẫn, không chấp trước.
5. Tâm an vui trong
sạch, tôn trọng, không tham lợi dưỡng, sự cung kính.
6. Tâm cầu chủng trí của
Phật, trong tất cả thời không xao lãng.
7. Đối với tất cả chúng
sanh hằng tôn trọng cung kính, không khinh rẻ là hèn thấp.
8. Không say đắm theo
thế luận, đối với phần Bồ đề sanh lòng quyết định.
9. Tâm thanh tịnh tu các
căn lành, không hề tạp nhiễm.
10. Đối với các đức Như
Lai, xả lìa các tướng, lòng tùy niệm.
Di Lặc! Đó là mười thứ
phát tâm của Bồ tát, do tâm nào sẽ được sanh về cõi Cực lạc của Phật A Di Đà. Di
Lặc! Nếu có người nào trong mười tâm này, tùy ý thành tựu được một tâm, ưa thích muốn về Cực lạc, quyết không lẽ nào không
được vãng sanh.
Tiết 28 Niệm Phật Với Tứ Hạnh
Sở thích và túc căn của
chúng sanh vẫn thường sai biệt cho nên tuy đồng tu hạnh Niệm Phật, sự hành trì
chẳng khỏi có điểm không giống nhau. Vì thế, trên đường Tịnh Độ, cổ nhơn đã
khái ước chia thành bốn hạnh là: Thiền Tịnh, Giáo Tịnh, Mật Tịnh và Thuần Tịnh.
1. Những vị lấy niệm Phật làm chánh, tham thiền làm
phụ, thuộc về hạnh Thiền Tịnh. Đây cũng là lối Thiền Tịnh song tu, nhưng lại
lấy sự vãng sanh Tịnh Độ làm yếu điểm chung cuộc, còn việc thấy tánh ngộ đạo
chỉ thuộc phần tùy duyên.
2. Những vị lấy niệm Phật làm chánh, tụng kinh làm
phụ, gọi là tu hạnh Giáo Tịnh. Về phần kinh giáo, có người thích tụng Kinh Kim
Cang hay Di Đà; có vị thích tụng Hoa Nghiêm hay Pháp Hoa, hoặc phẩm Phổ Môn hay
Phổ Hiền Hạnh Nguyện chẳng hạn.
3. Những vị lấy niệm Phật làm chánh, trì chú làm phụ,
đó là tu về hạnh Mật Tịnh. Trong sự trì chú, mỗi người lại ưa thích riêng mỗi
môn Đà Ra Ni, như: Đại Bi, Chuẩn Đề, Vãng Sanh, Công Đức Bảo Sơn, Văn Thù Ngũ
Thanh thần chú, Lục Tự Đại Minh chân ngôn, hoặc các Đà Ra Ni khác.
4. Những vị chỉ chuyên niệm Phật, không xen tạp môn
nào khác, thuộc về các hành giả tu hạnh Thuần Tịnh.
Trong đây các vị căn cơ
cao thì theo Thập Lục Quán, còn đại đa số chỉ chuyên về hạnh Trì Danh.
Thiện Đạo hòa thượng và
Vĩnh Minh thiền sư bên Trung Hoa, tương truyền đều là hóa thân của Phật A Di
Đà.
Nhưng Thiện Đạo hòa
thượng chỉ dạy CHUYÊN niệm Phật; Vĩnh Minh thiền sư thị hiện mỗi ngày ngoài
việc niệm MƯỜI MUÔN câu Phật hiệu, còn tu các hạnh khác, tất cả gồm 108 môn.
Ấn Quang pháp sư đã phê
phán: "Đồng dạy về Tịnh Độ, nhưng lối khai thị của ngài Thiện Đạo là để
tiếp dẫn hàng TRUNG, HẠ căn thuộc về chuyên tu. Còn lối khai thị của ngài Vĩnh
Minh để riêng khuyến tấn bậc THƯỢNG THƯỢNG căn, thuộc về VIÊN tu."
Người đời mạt pháp phần
nhiều là bậc trung, hạ căn. Vì thế, với bốn hạnh trên, nếu muốn chắc chắn được
vãng sanh, có lẽ nên tu theo đường lối THUẦN Tịnh.
Nhưng đã nói sở thích và
túc căn của mỗi người đều sai biệt, không thể ép buộc được, thì mặc dù có kiêm
tu hạnh khác, hành giả Tịnh Độ cũng cần lưu ý đến hai phần CHÁNH và trợ cho
phân minh. Mà phần chánh phải luôn luôn lấn nhiều hơn phần trợ. Như thế đường
tu mới không mất mục tiêu và sự vãng sanh cũng không bị chướng ngại.
Tiết 56 Phải Tuần Tự Tiến Tu
Người tu Tịnh Độ, muốn
niệm Phật được bền lâu, phải tùy theo tinh thần, sức khỏe, và hoàn cảnh của
mình mà đặt thời hạn, rồi lần lần tăng tiến, chớ nên bước đầu đã vội hành trì
quá nhiều. Như người đi quá gấp, tất dễ bị vấp ngã. Kẻ chưa lượng sức mình, mà
vội hành trì quá mức, sau có thể vì mệt mỏi chán
nản rồi bỏ trôi luôn.
Đại để người tu môn Niệm
Phật, nên phân làm định thời và không định thời. Định thời là mỗi ngày đều
phải có thời khóa nhứt định, lại nên ghi số là bao nhiêu câu.
Không định thời là ngoài
các thời khóa, đi đứng nằm ngồi đều niệm thầm, nhưng niệm thả không ghi số.
Điểm cốt yếu của sự Niệm Phật là dù niệm chậm hay mau, cũng phải rành rẽ rõ
ràng, tâm bắt kịp tiếng niệm, tâm và tiếng dung hòa nhau. Cứ như thế
niệm lâu thành thuần thục, sức niệm mau dần, có thể tăng từ một ngàn, hai ba
ngàn, một muôn, bốn năm muôn, cho đến mười muôn câu trong mỗi ngày đêm.
Có người bảo: "Tôi đã
nhiều lần thí nghiệm qua, dù với cách nào cũng không thể mỗi ngày đêm niệm đến
mười muôn câu được. Cho nên lời xưa nói: Mỗi ngày đêm lấy mười muôn câu làm
định khóa, đại khái nên hiểu một ước số để khuyến tấn mà thôi."
Lời nói trên, chỉ đề cập
đến sự "thí nghiệm" nhưng chưa bàn đến cách "tập luyện".
Theo Đạo Nguyên pháp sư, nếu tập luyện cho tinh thuần, mỗi ngày đêm hành
giả có thể niệm đến mười muôn câu Phật hiệu, nhưng phải y theo mấy điều kiện
như sau:
1. Phải ngồi mà niệm. Tuy
đi đứng nằm ngồi đều có thể niệm Phật, nhưng muốn niệm cho mau mà vẫn nghe được
rành rẽ rõ ràng, thì nên ngồi mới thích hợp.
2. Nên dùng chuỗi nhẹ và
lấy mười câu làm một đơn vị. Bởi nếu niệm mau mà mỗi câu đều lần một hạt chuỗi,
e tay lần không kịp, dù có kịp cũng dễ bị chứng đau gân tay và mỏi nhức chả
vai.
3. Chỉ niệm bốn chữ A Di
Đà Phật, không niệm sáu chữ. Bởi niệm sáu chữ một muôn câu, nếu rút ngắn niệm
bốn chữ, có thể lên đến một muôn năm ngàn câu.
4. Phải niệm theo lối
Kim Cang trì, nghĩa là chỉ sẽ động môi mà thôi. Nếu niệm thầm hoặc ra tiếng, sợ
e niệm không được mau, và khi cổ động cho tiếng phát ra khỏi miệng, phải mất
một khoảng thời gian. Niệm ra tiếng một muôn câu, đổi lại niệm theo lối Kim
Cang trì, có thể lên đến hai ba muôn câu.
Nếu y theo bốn điều kiện
trên đây tập luyện cho tinh thuần, lâu ngày lâu tháng sức niệm càng mau chóng,
nhưng vẫn không mất sự rành rẽ, rõ ràng. Như thế luyện cho đến khi nào niệm một
ngàn câu chỉ mất năm phút làm mục đích.
Thế thì trong một giờ niệm
một muôn câu cộng lại tốn năm mươi phút, còn mười phút để thay đổi oai nghi cho
khỏi mỏi nhọc hoặc đứng lên lễ Phật, hoặc buông chuỗi, chắp tay, vừa đi nhiễu
Phật, vừa nhẹ hô hấp để lấy sức. Cách thức vừa niệm vừa nghỉ ngơi như thế, niệm
mười muôn câu duy phí có mười giờ.
Trong một ngày đêm hai
mươi bốn giờ, trừ ngủ nghỉ sáu giờ, ăn uống, đại tiểu tiện ba giờ, mười
giờ để khóa niệm mười muôn câu, cộng lại hết mười chín giờ, hãy còn dư ra năm
giờ đồng hồ. Năm giờ ấy, hoặc để làm công chuyện vặt, hoặc tĩnh tọa hay xem
kinh vẫn còn thư thả.
Một câu A Di Ðà
Lợi bậc đại tượng, long
Như Vĩnh Minh thiền bá
Cùng Trí Giả giáo tông.
Nhứt cú Di Ðà
Lợi đại long, tượng
Vĩnh Minh thiền bá
Trí Giả giáo tông.
LƯỢC
GIẢI
LONG, TƯỢNG là rồng và voi. Hai loại này là hạng cao quí trong loài thú. Ðại
long, tượng tức rồng cùng voi lớn, lại còn cao quí hơn. Người xưa đã đem biểu
tướng rồng, voi mà thí dụ cho những bậc cao siêu kiệt xuất trong hàng Tăng Ni.
Vì thế mới có danh từ “Pháp môn long tượng”, nghĩa là hạng rồng voi trong cửa chánh pháp.
Môn Niệm Phật chẳng những nhiếp hóa lớp trung, hạ căn, mà còn làm lợi ích luôn
cho cả bậc thượng thượng căn nữa. Như Vĩnh Minh đại sư, một bậc thiền bá trong
Tông môn, ngộ suốt huyền cơ, viết một trăm quyển Tông Cảnh Lục để xương minh Thiền đạo, nhưng cũng niệm mười muôn câu Phật
hiệu mỗi ngày.
Và Trí Giả đại sư, bậc
Giáo tông sáng lập ra Thiên Thai giáo, bình thời vẫn niệm Phật, khi lâm chung
khen ngợi kinh Pháp Hoa cùng Vô Lượng thọ, bảo với đại chúng rằng Tây phương
Tam Thánh với các đồng bạn của ngài đã sanh về Tây phương, nay hiện thân đến
tiếp dẫn.
Sự kiện này, người học đạo
nên để tâm suy nghĩ.
Một câu A Di Ðà
Cảm ứng chớ xem khinh
Thiếu Khang hiện hóa Phật
Thiện Ðạo phóng quang minh.
( Nhứt cú Di Ðà
Cảm ứng phi khinh
Thiếu Khang hóa Phật
Thiện Ðạo quang minh.)
LƯỢC GIẢI
Thiếu Khang đại sư niệm
một câu hồng danh, trong miệng bay ra một vị hóa Phật. Thiện Ðạo Hòa thượng
niệm mỗi câu Phật hiệu, nơi miệng phóng ra một đạo quang minh. Hai điều trên
chứng minh cho công đức niệm câu hồng danh A Di Ðà thật lớn lao, và sự cảm ứng
cưa Phật hiệu như thế đã đến mức cùng diệu. Và điều trên đây cũng nhắc cho người học đạo nên thức
ngộ, đừng xem môn Niệm Phật là dung thường.
Trong mấy bài kệ liên tiếp, Triệt Ngộ đại sư đã dẫn chứng trên từ chư Phật Thế
Tôn, nói rộng ra là các đức Như Lai ở sáu phương như kinh A Di Ðà đã thuyết
minh, đều khen ngợi khuyên tu Tịnh Ðộ, và chỉ riêng các ngài mới biết cùng tận
pháp này.
Kế đến chư đại Bồ Tát như
Văn Thù, Phổ Hiền, các bậc đại Tổ Sư như Mã Minh, Long Thọ; những vị đại long
tượng về bên Tông như ngài Vĩnh Minh, về bên Giáo như ngài Trí Giả và sau cùng
chính chư Tổ bên Tịnh Ðộ như Thiện Ðạo, Thiếu Khang. Những vị trên tuy cũng
suốt thông các pháp môn khác, song vẫn quy hướng về Tịnh Ðộ. Tại sao Tổ Triệt
Ngộ lại nhiều phen dẫn chứng như thế?
Trong đây có hai nguyên
nhân rất quan trọng.
1) Ðiều thứ nhứt: Các vị học thức xưa nay (bút giả dùng danh từ “học thức” chớ không nói trí
thức, vì học thức là một việc, trí thức lại là việc khác) khi mới tìm đạo, đều
ưa thích những lý luận cao siêu huyền diệu. Sự ưa thích đó không phải là điều
lỗi. Nhưng phần nhiều họ lầm lạc chấp theo Thiên Không, chưa dung hội được giữa
Không và Có, bài bác nhân quả sự tướng, nên hầu như thành một căn bịnh trong
khi học đạo.
Ðối với môn Tịnh Ðộ, họ
chưa thấu đáo được sự cao diệu của pháp này nên khi thấy những kẻ tối dốt, hạng
bình dân cũng tu hành được, lại xem thường cho là pháp thấp kém. Chư đại thiện
tri thức thấy sự lầm lạc tà kiến đó mới thẳng thắn bác phá, chỉ bày.
Vì thế Tổ Triệt Ngộ đã dẫn
những chứng minh trên để cảnh giác, ngụ ý bảo:
"Nếu Tịnh Ðộ là thấp
kém, tại sao từ chư Phật, Bồ Tát, cho đến chư Tổ, các bậc đại long tượng bên
Tông lẫn bên Giáo đều ngợi khen khuyến khích, hoặc thân thiết phụng hành?"
2) Ðiều thứ hai: Các vị thông minh kiến thức trên, khi luận đạo thường nói
những lý luận siêu huyền, để tỏ ra mình là những người hiểu rộng tu cao. Nhưng
họ lại không tự xét rằng: Về phần thật hành, mình có làm được một phần nào đối
với những lời nói đó chăng?
Nhứt là buổi đi sâu vào
thời mạt pháp này, người tu căn cơ non kém, nghiệp chướng nặng nề, dùng những
hình thức dễ làm như niệm Phật tụng kinh, mà kẻ hành đạo tại gia lẫn xuất gia
còn vọng niệm rối ren, nay chầy mai trễ, huống chi là sự nhiếp tâm nơi định
trong tất cả thời, tất cả hành động nói năng?
Bút giả từng nghe một vài
vị tu học về Thiền khi luận đến sự hành trì, thường dẫn lời của những chư Tổ
hoặc các bậc tôn túc thời xưa mà trạng huống cho lối tu của mình và còn ra vẻ
đắc ý. Chẳng hạn như câu:
"Viên bão tử quy
thanh chướng lý.
Ðiểu hàm hoa lạc bích nham
thiền!"
(Vượn ôm con chuyền về
rặng núi xanh.
Chim ngậm hoa sa trước gộp
đá biếc).
Hoặc như:
"Nhập lâm bất động
thảo.
Nhập thủy bất đạp
ba".
(Vào rừng mà không làm
động đến ngọn cỏ.
Xuống nước nhưng chẳng đạp
sóng nước).
Các vị đó không xét lại
hai câu trước là tâm cảnh của ngài Giáp Sơn, chớ chẳng phải cảnh giới của mình.
Thỉnh thoảng có việc chi xúc động thì các vị liền tỏ vẻ phiền hà, tức giận. Thế
là cỏ cây đã động, chân đã đạp sóng nước rồi đấy!
Trước tệ trạng lạc lầm lạc
rộng đó, chư thiện tri thức vì xót thương, vì muốn cứu vãn đạo pháp nên mới
thẳng lời phê trích, cho hành động ấy là Cuồng Thiền. Và các ngài còn nói đến
hạng Cuồng Mật nữa mà nếu có dịp, sau này bút giả sẽ dẫn giải.
Ðể kết luận, cần nhấn rõ thêm là những điều nói trên tuyệt không có ý bài bác
Thiền, Mật. Thiền và Mật là hai pháp môn cao siêu, và thật ra Thiền, Mật, Tịnh
cả ba đều có đặc điểm riêng, cần tu học để hỗ trợ cho nhau. Chẳng hạn như khi
trì chú theo của chân ngôn, Phật hiệu huân sâu vào tạng thức, kích động cho
phiền não nổi dậy, phương pháp làm lắng động hữu hiệu nhứt không chi hơn Thiền.
Trong lúc tham thiền hoặc
niệm Phật, ma chướng trong ngoài khuấy rối, cách hàng phục kiến hiệu mau lẹ
nhứt, không chi hơn Mật. Và muốn giải quyết việc lớn là sống chết luân hồi một
cách thẳng tắt chắc chắn nhứt, lại không chi hơn Tịnh.
Luận cho cùng mỗi môn tự
hàm đủ công năng của ba, song đó là ứng dụng của bậc trình độ cao siêu. Còn với
bậc sơ cơ non kém, thật ra vẫn có sự sai biệt. Ví như bậc Tổ Sư về võ, dù sử
dụng côn, chùy, kiếm, sự lợi hại vẫn đồng như nhau. Nhưng với hạng võ nghệ
thông thường thì tác dụng của ba môn binh khí kia lại có sai biệt. Nếu chẳng
thế, trong võ lâm cần chi bày ra ba môn ấy cho thêm phiền!
Cho nên trong thời mạt pháp, theo thiển ý nên lấy Tịnh Ðộ làm chánh yếu, Thiền,
Mật làm phụ trợ. Hoặc nếu có tu Thiền hay Mật cũng nên niệm Phật nhiều ít hồi
hướng về cõi Cực Lạc ở Tây phương.
Vĩnh-Minh Đại Sư
Lại có Vĩnh Minh cùng Thiện Đạo
Tương truyền thân hóa của Di Đà
(Ngài là vị Tổ thứ sáu
trong Liên Tông, tục tánh họ Vương, người xứ Tiền Đường. Thuở còn tại chức ở
ngoài đời, Ngài có lấy tiền thuế mua vật mạng phóng sanh, bị khép vào tử tội,
song thần sắc không biến, nên được vua ân xá. Sau khi đó Ngài xuất gia, trước y
chỉ theo Thúy Nham Thiền sư, kế tham học với Thiều Quốc Sư, nhờ đức Quán Âm
dùng nước cam lồ rưới nơi miệng nên được trí huệ, biện tài.
Đại sư có trứ tác bộ
Tông Cảnh Lục gồm một 100 quyển, lại viết ra bộ Vạn Thiện Đồng Quy tập, khuyên
tu Tịnh độ. Trung ý vương mến hạnh đức, thỉnh Ngài về trụ trì Chùa Vĩnh Minh.
Đại sư định khóa mỗi ngày làm 108 việc thiện, ban đêm lên chót núi niệm Phật,
mọi người nghe tiếng thiên nhạc rền vang giữa hư không. Ngài tụng kinh Pháp Hoa
đến một muôn ba ngàn bộ. Năm Khai Bảo thứ 8, Đại sư đốt hương cáo từ chúng, rồi
ngồi ngay mà hóa, thọ được 72 tuổi.)
Đại sư dạy: "Phải
một lòng quy mạng, trọn đời tinh tu, khi ngồi, nằm thường hướng về Tây. Lúc lễ
bái, niệm Phật, phát nguyện, phải khẩn khiết chí thành, không xen lẫn tạp niệm,
trạng như người bị hình lục, như kẻ đang ở lao tù, như gặp oán giặc rượt theo, như
bị nước lửa bức bách, một lòng cầu cứu, nguyện thoát khổ luân, mau chứng vô
sanh, để nối ngôi Tam bảo, đền đáp bốn ơn, độ loài hàm thức. Chí thành như thế
tất công phu không uổng.
Trái lại, nếu lời và
hạnh không hợp nhau, lòng tin không vững chắc, niệm lực thường gián đoạn không
tương tục, đem sự biếng trễ ấy để mong vãng sanh thì e cho khi lâm chung khó
gặp bạn lành, bị sức nghiệp lôi kéo, sự đau khổ ép bức, mà không thành chánh
niệm. Vì sao? Bởi việc hiện tại là nhân, lúc lâm chung là quả, nhân phải cho
thật, quả mới không hư, như âm thanh lớn thì tiếng vang dội rền xa, như hình
ngay bóng mới thẳng vậy.
Quả báo vui khổ đều do
tâm tạo ra. Tâm nóng giận tà dâm là nghiệp Địa ngục, tâm tham lam bỏn sẻn là
nghiệp Ngạ quỷ; tâm ngu si hôn ám là nghiệp súc sanh; tâm ngã mạn cống cao là
nghiệp Tu la; giữ trọn năm giới là nghiệp Người; tinh tu mười điều lành là
nghiệp Trời; chứng ngộ nhơn không là nghiệp Thanh văn; rõ pháp nhơn duyên không
là nghiệp Duyên giác; tu hành sáu độ là nghiệp Bồ tát; lòng chơn từ bình đẳng
là nghiệp Phật.
Nếu tâm trong sạch
thì hóa sanh về Tịnh độ, ở nơi bảo các, hương đài; tâm dơ nhiễm thì gởi chất
nơi uế bang, ở cõi núi gò hầm hố. Muôn cảnh đều do tâm tạo, lìa nguồn tâm ra
không có hình thể chi, vậy muốn được quả lành, phải tu nhân tịnh.
Tứ liệu giản nói:
Có Thiền, không Tịnh độ,
Mười người, chín ngại
đường.
Khi ấm cảnh hiện ra,
Chớp mắt đi theo nghiệp.
Không Thiền, có Tịnh độ,
Muôn tu, muôn người
sanh.
Khi được thấy Di Đà,
Lo gì không tỏ ngộ!
Có Thiền, có Tịnh độ,
Cũng như cọp mọc sừng.
Đời nay làm Thầy người,
Đời sau làm Phật, Tổ.
Không Thiền, không Tịnh
độ,
Giường sắt, cột đồng
lửa.
Muôn kiếp lại ngàn đời,
Chẳng có nơi nương tựa!
Lời Phụ: Tỉnh Thường Đại
sư, Tổ thứ bảy trong Liên Tông, giáo pháp bị thất truyền, chỉ có sự tích, nên
không biên ra đây.
Thiện-Đạo Đại Sư
(Đại sư là tổ thứ hai
trong Liên Tông. Ban sơ, nhân thấy đạo tràng tịnh nghiệp của Ngài Đạo Xước, sư
mừng rỡ nói rằng: "Đây mới thật là nẻo bí yếu để thành Phật". Rồi đó
Ngài đến Kinh đô khuyên chúng tu Tịnh độ, thường quỳ niệm Phật cho đến khi kiệt
lực mới thôi.
Đại sư giảng môn Tịnh độ
hơn 30 năm, tu hành chuyên cần, chưa từng ngủ nghỉ. Được bao nhiêu của thí,
Ngài dùng tả kinh Di Đà hơn mười muôn quyển, vẽ Thánh cảnh Tây phương hơn ba
trăm bức.
Đại sư, cảm hóa hàng đạo
tục rất đông, trong ấy số người được Tam muội sanh Tịnh độ nhiều không xiết kể.
Một hôm, Ngài leo lên cây liễu, hướng về Tây, chú nguyện xong gieo mình xuống
rơi nhẹ như lá, ngồi kiết dà mà tịch. Vua Cao Tông phục sự thần dị của Ngài,
phong cho hiệu Chùa là Quang Minh).
Đại sư dạy: "Đấng
đại Thánh xót thương, khuyên người chuyên xưng danh hiệu, bởi vì phép xưng danh
rất dễ, nếu có thể giữ mỗi niệm nối nhau, lấy suốt đời làm hạnh, thì mười người
tu, mười người vãng sanh, trăm người tu, trăm người vãng sanh. Tại sao thế?
Vì không có duyên tạp
nên được chánh niệm, vì cùng với bản nguyện của Phật hợp nhau, vì không trái
với kinh giáo, vì thuận theo lời Phật. Nếu bỏ chuyên niệm mà tạp tu trong trăm
người may ra được một hai người, trong ngàn người hy vọng được ba bốn người
vãng sanh mà thôi".
Người niệm Phật khi lâm
chung chớ nên sợ chết. Phải thường nghĩ rằng: thân này không sạch, chịu nhiều
sự khổ, nếu được bỏ huyễn thân mà sanh về Tịnh độ, chính là điều đáng vui mừng!
Lúc đau yếu, chỉ nghĩ
đến sự vô thường, một lòng niệm Phật chờ chết. Nhớ dặn người thân cận, khi có
ai đến thăm nên khuyên vì mình mà niệm Phật, đừng nói chuyện tạp ở thế gian.
Nếu bịnh nặng sắp chết, người xung quanh không được khóc lóc, phải đồng thanh
niệm Phật đợi chừng nào bịnh nhơn tắt hơi, trong mình lạnh hết rồi mới nên cử
ai.
Như được người hiểu rõ
lý Tịnh độ thường đến khuyên lơn nhắc nhở cho, đó thật là điều đại hạnh. Dùng
theo phương pháp trên đây quyết định sẽ vãng sanh.
Việc sống chết luân hồi
rất lớn lao, phải tự mình gắng sức mới được, nếu một niệm sai lầm để luống qua,
thì nhiều kiếp chịu khổ, có ai thay thế cho mình? Nên suy nghĩ kỹ, nên suy nghĩ
kỹ!
Khi sắp đi nghỉ, lễ Phật
quán tưởng, rồi đọc bài văn phát nguyện rằng: "Con...là phàm phu trong
vòng sanh tử, tội chướng nặng sâu, luân hồi sáu nẻo, khổ không nói được! Nay
găp trí thức, được nghe Thánh hiệu, đức Phật A Di Đà, cùng với bổn nguyện, công
đức của Phật, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh, Nguyện Phật từ bi không
bỏ, xót thương nhiếp thọ.
Nay đệ tử con, chưa biết
thân Phật, tướng đẹp quang minh, xin Phật hiện ra, cho con được thấy. Lại con
chưa biết, Quán Âm, Thế Chí, các chúng Bồ tát, tướng mầu sáng rỡ, và thế giới
kia, trong sạch trang nghiêm, xin khiến cho con, thấy được tỏ tường.
Lại khi sắp đi ngủ, nên
quán thắng cảnh Tây phương, hoặc quán tướng tốt của Phật, không được nói tạp,
tưởng tạp cũng không được cầu thấy điềm lành, chỉ một lòng chuyên tu, tự có lúc
được thấy. Hoặc lại chỉ niệm Phật cho đến lúc ngủ quên. Mấy điều trên đây,
chuyên lấy một pháp, không tạp dụng. Và cần phải thật hành cho bền lâu, thì
công phu tịnh nghiệp tất không luống uổng.
Đạo sư A-Di-Đà Phật
(A Di Đà là tiếng Phạn,
dịch: Vô Lượng Thọ hoặc Vô Lượng Quang. Ngài là vị giáo chủ ở thế giới Cực lạc
về phương Tây. Theo Kinh Cổ Âm Vương thì đời quá khứ có nước Diệu Hỷ, vị quốc
vương là Kiều Thi Ca. Bấy giờ có Phật Thế Tự Tại Vương ra đời, Kiều Thi Ca xuất
gia đầu Phật, hiệu là Pháp Tạng.
Lại Kinh Vô Lượng Thọ
nói: "Pháp Tạng Tỳ kheo ở nơi Phật Thế Tự Tại Vương phát lòng Bồ đề, lại
phát 48 lời nguyện, mỗi nguyện đều nói: "Nếu không được như thế, tôi thề
không thành Phật". Những đại nguyện ấy đã thành tựu, và Ngài Pháp Tạng đã
thành Phật tức là Đức A Di Đà ở thế giới Cực lạc hiện nay).
Theo kinh Vô Lương Thọ,
trong 48 đại nguyện của Đức A Di Đà, có mấy điều thiết yếu sau đây:
Nguyện thứ 18: Khi tôi thành Phật, chúng sanh trong mười phương
hết lòng tin ưa muốn sanh về nước tôi, xưng danh hiệu tôi cho đến mười niệm,
nếu không được vãng sanh, tôi thề không thành Chánh giác.
Nguyện thứ 19: Khi tôi thành Phật, chúng sanh trong mười phương
phát lòng Bồ đề, tu các công đức, chí tâm phát nguyện cầu sanh về nước tôi, đến
lúc lâm chung, nếu tôi không cùng Thánh chúng hiện ở trước người ấy tiếp dẫn,
tôi thề không thành Chánh giác.
Nguyện thứ 21: Khi tôi thành Phật, hàng Nhân, Thiên trong nước
tôi thảy đều đủ 32 tướng đại nhân, nếu chẳng được như thế, tôi thề không thành
Chánh giác.
Nguyện thứ 27: Khi tôi thành Phật, từ hàng Nhân, Thiên cho đến
tất cả muôn vật trong nước tôi, hình sắc đều tốt đẹp, nghiêm sạch sáng rỡ, vi
diệu cùng cực, không thể tính kể. Nếu những chúng sanh chứng được thiên nhãn mà
có thể biện thuyết rõ ràng được sanh số, tôi thề không thành Chánh giác.
Nguyện thứ 32: Khi tôi thành Phật, từ cõi đất lên đến hư không,
những cung điện lầu quán, ao nước cây hoa, tất cả vạn vật đều do vô lượng tạp
bảo, trăm ngàn thứ hương hoa hiệp tạo thành, nghiêm đẹp kỳ diệu, hơn các thiên
cung. Mùi hương trong nước tôi lan tỏa khắp mười phương thế giới, các hàng Bồ
tát tiếp xúc được hương ấy, đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được như thế, tôi thề
không thành Chánh giác.
Nguyện thứ 39: Khi tôi thành Phật, hàng Nhân, Thiên trong nước
tôi đều hưởng sự an vui như bậc lậu tận Tỳ kheo. Nếu chẳng được như thế, tôi
thề không thành Chánh giác.
"ĐÃ TỪNG trôi nổi riêng thương khách
Muốn nhủ đồng nhơn lại CỐ HƯƠNG!"
Xin mượn hai câu thơ trên để bày tỏ tâm sự tôi vậỵ
Mùa an cư năm Canh Tý (1960)
Dịch giả: Liên-Du kính ghi
BÀI SỐ 49
Ẩn tu thấy nói Tổ bên Thiền
Long Thọ, Mã Minh chứng đạo
huyền
Đều tín Liên tông khuyên
NIỆM PHẬT
Sao hàng hậu học tạo khinh
duyên ?
NHƯ Ý : Đức Mã Minh, Long Thọ hai vị tổ thứ 13, 14 của Thiền
Tông ở Ấn Độ, hiện đời chứng đạo có đủ Lục-thông đã trước tác KHỞI TÍN LUẬN,
TRÍ ĐỘ LUẬN, khuyên khen niệm PHẬT.
Nếu tịnh độ không
phải là Pháp rất nhiệm mầu lợi ích lớn, Tại sao chư Tổ từ Đông-độ đến Tây-thiên
như Trí giả, Vĩnh Minh, Thiện đạo, Mã Minh, Long Thọ, mà thật ra đều là CHƯ CỔ PHẬT HIỆN THÂN, lại hết sức Tuyên dương và Ngược lại Tại sao
chính hàng hậu học của các ngài, tạo Duyên khinh bán đó có phải là một điều cạn
cợt mê lầm tội lỗi chăng ?
CHƯ CỔ PHẬT HIỆN THÂN
( Trong quyển Tam Bảo Cảm
Ứng Lục có trích dẫn: “Theo kinh Kim Cang Chánh Trí, thì thời quá khứ, ngài Mã Minh đã thành Phật, hiệu là Đại Quang Minh Như
Lai. Ngài Long Thọ hiệu là Diệu Vân Tướng Như Lai.
Lại theo kinh Đại Trang
Nghiêm Tam Muội, ngài Mã Minh là vị Cổ Phật hiệu Nhật Nguyệt Tinh Minh. Ngài
Long Thọ là Diệu Vân Tự Tại Vương Phật”. )
Tiết 12 Đường Sanh Tử
Nhiều Nguy Hiểm
Đường vào vườn giác ngộ
có nhiều cửa, hành giả trước tiên phải lấy tâm đại Bồ Đề làm khởi điểm chánh chân, rồi tùy căn cơ sở thích, muốn tu theo pháp môn nào
cũng tốt. Trên đường tu, nếu luận về "căn cơ" thì môn Tịnh Độ bao gồm
cả ba căn thượng, trung, hạ; chẳng những hạng phàm thường, mà các bậc Bồ Tát
như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long
Thọ đều nguyện vãng sanh.
Nếu luận về "thời tiết" thì thời mạt pháp này chúng sanh phần nhiều tâm
tạp chướng nặng, môn Tịnh Độ dễ thật hành, lại có thể trong một đời được vãng
sanh giải thoát. Nhưng, nếu luận về sở thích, thì riêng môn Tịnh
Độ không thể thỏa mãn được hết mọi người, vì thế đức Như Lai mới nói nhiều pháp
môn.
Đại khái như những vị có
tâm hùng tráng, ưa sự giản dị trực thiệp trong sáng, thì thích về Thiền Tông.
Những vị ưa sự thần thông linh ứng kỳ bí, thích tu về Mật Tông. Những vị ưa lý
luận, cần phân tích cho xác thật rành rẽ mới chịu tin tưởng làm theo, thích tu
về Duy Thức Tông... Trong mỗi tông lại có nhiều chi tiết khác biệt, mà mỗi
người hành trì không giống nhau.
Tuy nhiên, trong đời Mạt
Pháp, hành giả đã phát đại Bồ Đề tâm thề độ mình độ sanh, mà muốn bảo đảm cho
tâm ấy thành tựu không bị thối thất; dù tu các môn khác, cũng nên kiêm hành
Tịnh Độ để cầu vãng sanh. Tại sao thế?
Trong đây có ba sự kiện
thiết yếu, xin tuần tự kể phần đại lược:
Trong nẻo sống chết luân
hồi, có nhiều hiểm nguy chướng nạn cho đường tu. Muốn thoát cảnh hiểm luân hồi
để bảo đảm tâm Bồ Đề không thối thất, phải cầu sanh Tịnh Độ. Đây là sự kiện thiết yếu trước tiên, mà hành giả cần
lưu ý.
Tiên đức hằng răn nhắc:
"Nếu tu mà không chuyên cầu giải thoát, thì sự tu nơi kiếp này là mối thù
trong kiếp thứ ba." Sở dĩ có việc ấy, bởi kiếp thứ nhứt lo kham khổ tu
hành, nên chuyển sanh qua kiếp thứ nhì được hưởng quả báo thông minh giàu sang
quyền thế. Trong kiếp thứ hai này, do giàu sang nên dễ mê theo cảnh quyền quý,
vợ đẹp con xinh, cùng các thú vui vật chất nơi cõi trần.
Đã nếm mùi dục lạc tất
dễ sanh đắm nhiễm, càng đắm nhiễm càng đi đến chỗ sa đọa tối tăm, dám làm nhiều
điều ác để củng cố lợi quyền và thỏa lòng tham vọng. Kiếp thứ nhì đã gieo nhân
như thế, kiếp thứ ba làm sao khỏi bị đọa lạc tam đồ?
Có kẻ gạn: "Kiếp
trước đã có công tu gieo nhân tốt, không lẽ sang kiếp thứ nhì trí huệ căn lành
đều mất, để đến nỗi phải bị đọa hay sao?" - Xin đáp: "Căn lành tuy
có, nhưng nghiệp ác từ vô lượng kiếp chưa phải đã tiêu trừ. Mà trong cảnh trần,
việc lành rất khó làm như leo lên cây cao, điều ác rất dễ phạm như tuột xuống
dốc lở.
Người xưa đã chẳng bảo:
‘Trọn đời làm lành, lành còn chẳng đủ; một ngày làm ác, ác tự có dư’ đó ư? Như
những người giàu sang quyền thế mà chúng ta hiện thấy, kiếp trước họ đều có ít
nhiều công đức bố thí tu phước làm lành, nhưng kẻ hướng về nẻo thiện không bao
nhiêu, người say đắm danh lợi vinh hoa lại chiếm phần đa số.
Thử hỏi có mấy vị đỗ cao
quyền quý chịu xuất gia, sống một cuộc đời khắc khổ đạm bạc, hướng về mục đích
giải thoát thanh cao? Ngay như người xuất gia, khi chưa có địa vị còn kham nhẫn
tu hành, lúc đã được quyền danh, nhiều kẻ lễ bái tôn trọng cúng dường, lại dễ
bị cảnh phù trần ràng buộc. Hiện tại ta thấy có biết bao hàng Tăng Ni thiện
tín, trước còn tinh tấn hành trì, sau lần lần biếng trễ bỏ tu hoặc hoàn tục
thối đạo, nói chi đến kiếp sau?"
Ở cõi người còn như thế,
nếu sanh lên cõi trời cảnh vui ngũ dục quá nhiệm mầu, lại còn khó tu hơn nữa!
Đó là nói những vị có phước, còn những người ít phước sống một cuộc đời nghèo
khổ quá cũng khó tu. Hoặc tuy vào hạng trung lưu, nhưng giữa đời này tà đạo dẫy
đầy; trong chánh pháp bậc thiện hữu tri thức khó gặp, nẻo đường giải thoát
không phải dễ tìm! Đến như chúng sanh trong ba ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh, thì việc tu niệm thật là khó đến muôn phần, vì các loài ấy ngu tối, thân
tâm hằng ở trong cảnh khổ.
Kiếp luân hồi có nhiều
hiểm nạn như thế, nếu không cầu sanh Tịnh Độ để thoát ly, tất khó bảo đảm tâm
Bồ Đề không bị thối thất.
Một câu A Di Ðà
Chư Tổ đều phụng hành
Tổ Mã minh viết luận
Tổ Long Thọ vãng sanh.
Nhứt cú Di Ðà
Liệt Tổ phụng hành
Mã Minh tạo luận
Long Thọ vãng sanh.
LƯỢC GIẢI
Môn Niệm Phật vì là pháp môn tối thượng thừa cao siêu, nên chư Tổ đều phụng
hành, bằng cách hoặc viết luận khen ngợi khuyên tu, hoặc niệm Phật cầu về Cực
Lạc.
Chẳng hạn như hai vị Bồ
Tát Mã Minh, Thế Thân đã viết Ðại Thừa Khởi Tín Luận và Vãng Sanh Luận để xưng
tán, chỉ đường Tịnh Ðộ. Và Long Thọ Bồ Tát chứng Sơ Hoan Hỷ Ðịa đã niệm Phật
vãng sanh về An Dưỡng. Các vị Bồ Tát trên đều là chư tổ bên Thiền tông.
Nơi đây Triệt Ngộ đại sư lại nêu ra một chứng liệu để minh xác điểm cao siêu
của pháp môn Niệm Phật. Ðiều này, Ðại Sư muốn cảnh tỉnh phá tan sự nhận thức
sai lầm của một số người từ trước đến nay nghĩ rằng: "Môn Tịnh Ðộ là pháp
thấp kém, chỉ dành cho hạng ông già bà cả quê dốt tu hành".
Mã-Minh Bồ Tát
(Theo bộ Truyền đăng lục, khi Bồ tát sanh ra, cảm động đến bầy ngựa đều bi thương kêu
la. Bồ tát lại khéo thuyết pháp, có thể khiến cho bầy ngựa nghe rồi rơi lệ kêu
thương.
Sau khi đức Thích Ca
diệt độ 600 năm, 96 thứ ngoại đạo ở Tây Vực đều phục hưng, phá hủy Phật Pháp;
Bồ tát bèn thị hiện sanh ở miền đông Ấn Độ, nước Tang Kỳ Đa, làm nhiều bộ luận
hiển chánh phá tà.
Trong bộ luận Khởi Tín,
Bồ tát khuyên người niệm Phật, cầu sanh Tây phương. Khi lâm chung, Ngài vào
phép Long Phấn Tấn Tam muội, đưa mình lên hư không, tỏa ra ánh sáng rực rỡ như
mặt trời, kế đó lại trở về bản vị mà nhập Niết bàn. )
Luận Đại thừa Khởi Tín nói: "Nên mạnh mẽ tinh tấn, ngày đêm sáu
thời, lễ bái chư Phật; thành tâm sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỉ, hồi hướng về
quả Bồ đề. Tu tập như thế không thôi nghỉ thì sẽ được khỏi các chướng, căn lành
thêm lớn".
Lại nói: "Như Lai
có thẳng phương tiện để nhiếp hộ kẻ tín tâm. Ấy là dùng nhân duyên chuyên nhớ
niệm Phật tùy nguyện cầu sanh về Tịnh độ ở phương khác, do được thường thấy
Phật nên vĩnh viễn xa lìa ác đạo.
Như trong Tu Đa La nói:
"Nếu người chuyên niệm Phật A Di Đà ở phương Tây, đem những căn lành mình
tu hồi hướng về cõi kia, thì được vãng sanh. Do thường thấy Phật nên không còn
lo thối chuyển.
Long-Thọ Bồ Tát
(Nhân vì Ngài sanh dưới
cội cây có rồng ở, lại đắc đạo ở Long Cung, nên gọi là Long Thọ Bồ tát dòng
Phạm Chí, người xứ Nam Thiên Trúc, rộng hiểu các môn học thế gian, mới xuất gia
ba tháng đã thông suốt tam tạng.
Bấy giờ Long Vương rước
Ngài xuống Long Cung; trong chín tuần Ngài xem Long Tạng chưa đầy muôn một,
liền ngộ vô sanh nhẫn. Khi trở về nhân gian, Bồ tát hoằng truyền Phật giáo, tạo
ra bộ Bà Sa Luận, trong ấy có khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây phương.
Sau Ngài vào Nguyệt Luân
Định mà tịch. Trong kinh Lăng Già, đức Phật đã huyền ký: Sau xứ Nam Thiên Trúc.
Có Long Thọ Tỳ kheo. Hay hiển nghĩa trung đạo. Chứng Sơ Hoan Hỷ địa. Sanh về
cõi Cực lạc.)
Luận Đại Trí Độ nói: "Niệm Phật Tam muội có thể trừ các thứ
phiền não và tội đời trước. Lại nữa, niệm Phật Tam muội có phước đức lớn hay độ
chúng sanh. Cho nên các Bồ tát muốn độ sanh, nếu tu các pháp Tam muội khác, tất
không bằng môn Niệm Phật Tam muội, vì môn này có phước đức lớn, mau diệt các
tội.
Phật là pháp vương, Bồ
tát là pháp tướng, chỗ Bồ tát tôn trọng duy có Phật, Thế Tôn. Bồ tát thường
khéo tu nhân duyên niệm Phật, nên thường gặp chư Phật, như kinh Bát Chu có nói: "Bồ
tát vào Tam muội này, liền hiện sanh về cõi Phật A Di Đà".
Luận Bà Sa nói: "Đức A Di Đà có bản nguyện như thế này:
"Nếu người xưng niệm danh hiệu và quy y nơi ta, kẻ ấy quyết được quả Vô
thượng Bồ đề". Cho nên, phải thương nhớ niệm Phật. Lại dùng kệ khen ngợi
Phật rằng:
Trí huệ sáng vô lượng.
Thân như tòa kim sơn.
Con dùng thân, miệng ý,
Chắp tay cúi đầu lạy.
Chân Phật ngàn bức luân,
Sắc hoa sen mềm dịu,
Kẻ thấy đều vui mừng,
Cúi đầu lễ chân Phật.
Tướng bạch hào sáng đẹp,
Trong sạch như trăng
thu,
Ánh tỏa khắp mặt vàng,
Nên con cúi đầu lạy.
Nếu người muốn thành
Phật,
Tâm niệm A Di Đà,
Theo thời vì hiện thân,
Cho nên con quy mạng.
Người xưng niệm nơi
Phật,
Sức công đức không
lường,
Thì liền được vào định.
Cho nên con thường niệm.
Nếu người trồng căn
lành,
Nghi thì hoa không nở,
Kẻ lòng tin trong sạch,
Hoa nở liền thấy Phật.
Do nhân duyên phước này,
Tất được đức thắng diệu,
Nguyện các loài chúng
sanh,
Cũng đều được như vậy.
( KHỞI TÍN LUẬN ) TRANG 216-433
BÀI
SỐ 50
Ẩn tu thương nghĩ cánh Nam
tông
Tịnh độ cho là pháp viễn
vông
Bác phá Đại thừa phi Phật
thuyết
Yến Ly đâu biết dấu chim
hồng ?
NHƯ Ý: HƯ VÂN Thiền-sư một bậc cao tăng cận đại ở Trung
HOA, khi sang Viếng Phật Giáo ở Thái Lan, đã ngồi nhập Định
luôn 9 ngày đêm liên tiếp, khiến cho Chư-tăng và Phật-tử
nơi xứ này đều LẠ LÙNG RÚNG ĐỘNG.
Thế mà khi trở về nước nhà dự lễ đón mừng
trong một buổi Đại hội, Ngài đã than Phật giáo gọi là Nguyên thủy
thuộc cánh Nam-tông không tin các kinh như: PHÁP HOA,
HOA NGHIÊM, DI ĐÀ, BÁT NHÃN, họ cho Pháp Đại-thừa là
không phải của PHẬT nói lại còn đòi mở cuộc tranh luận RỐI REN,
thật ra chim Én đậu ở Phan Dậu (Cột cờ Phướn) làm sao biết được dấu vết cao xa của cánh
chim Hồng.
Cổ đức đã dạy:
“Dục Đắc Bất Chiêu Vô
Gián Nghiệp,
Mạc Báng Như Lai Chánh
Pháp Luân.”
( Muốn khỏi bị mang Vô-gián nghiệp,
Đừng khinh Chánh-pháp
của Như Lai.)
( CHỨNG ĐẠO CA)
Từ xưa vì sợ người tu
học Phật phạm tội này, cho nên chư Bồ Tát đã thị hiện
bác phá Đại thừa, rồi đọa Địa-ngục ngay trước mắt, cho quần chúng thấy để
ngăn ngừa chư Tăng.
CHÍNH bên Nam Tông Tuy
không tin ĐẠI THỪA, nhưng ÍT có duyên tạo tội này, vì họ ở
bên xứ thuộc Tiểu thừa.
RIÊNG chư Tăng-Ni
Thiện-Tín ở các nước bắc TÔNG Phật giáo cần phải DÈ DẶT,
vì nơi đây pháp Đại-thừa lan rộng, để nói thêm chính
Ngài Hư-vân một BẬC THAM THIỀN NGỘ ĐẠO cũng tính tịnh độ khuyên
niệm Phật.
Thiên-Thân Bồ Tát
(Bồ tát người xứ Thiên
Trúc, khi mới xuất gia học theo pháp Tiểu thừa, hủy báng kinh điển Đại thừa.
Sau Ngài nhờ anh là Vô Trước nhiều phen chỉ dẫn, mới hối ngộ sự lỗi lầm, muốn
tự cắt lưỡi. Vô Trước Bồ tát bảo:
"Xưa em dùng lưỡi
hủy báng Đại thừa, nay phải dùng lưỡi mà tán dương pháp ấy để chuộc tội. Việc
sửa lỗi hãy còn chưa muộn, nếu cắt lưỡi đi, nào có ích gì?"
Vâng lời anh, Ngài Thiên
Thân từ đó đem hết tâm tư, tạo ra hơn 100 bộ luận Đại thừa. Trong ấy có luận
Vãng Sanh, phát huy rõ ràng sự trang nghiêm lợi ích của cõi Tịnh độ. Người niệm Phật nên chú ý đến luận này.)
Vô Lượng Thọ Kinh Luận
nói: "Nếu tu ngũ niệm môn thành tựu, kết quả sẽ được vãng sanh về Cực lạc,
thấy Phật A Di Đà. Ngũ niệm môn là gì?
1) Lễ
bái môn
2) Tán
thán môn
3) Phát
nguyện môn
4) Quán
sát môn
5) Hồi
hướng môn.
Lễ bái là thế nào?
Ấy là dùng thân lễ Đức
Phật A Di Đà, tỏ ý cung kính, cầu Phật nhiếp thọ.
Tán thán môn là thế nào?
Đây là dùng miệng khen
ngợi sắc thân, danh nghĩa, ánh sáng, trí huệ của Đức Như Lai kia, muốn tu hành
như thật cho được tương ưng.
Phát Nguyện môn là thế
nào?
Ấy là một lòng chuyên
niệm vào nơi chánh định, nguyện sanh về Cực lạc.
Quán sát là thế nào?
Đây là dùng chánh niệm
quán sát công đức trang nghiêm của cõi Cực lạc, công đức trang nghiêm của Phật
A Di Đà, và công đức trang nghiêm của chư Bồ tát, và Thánh chúng.
Hồi hướng là thế nào?
Ấy là tâm từ bi không bỏ
những chúng sanh khổ não, nguyện đem căn lành công đức của mình, hồi hướng cầu
cho tất cả loài hữu tình đều được sanh về Cực lạc.
Tiết 9.- Bồ Đề Tâm Với Môn Tịnh Độ
Phật pháp theo sự
tùy hóa, thông thường có hai cấp bậc là Tiểu Thừa và Đại Thừa. Tiểu Thừa nói
những pháp thấp nhỏ, trọng tâm hướng về mục tiêu gấp cầu liễu sanh tử cho chính
mình, và chỉ đi đến quả vị A La Hán hoặc Duyên Giác.
Đại Thừa nói các pháp rộng
lớn, hướng về hoằng nguyện độ thoát tất cả chúng sanh, và đi đến quả vị Toàn Giác của Như Lai. Pháp môn Niệm Phật thuộc về Đại Thừa, nên chẳng
những đi về chiều hướng tự độ mà còn kiêm cả độ tha.
Đạo Phật du nhập vào Trung
Hoa, trải qua sự hoằng dương của chư vị Tổ Sư, kết quả lập thành mười tông.
Trong đó có hai tông thuộc về Tiểu Thừa là Thành Thật Tông và Câu Xá Tông.
Nhưng căn tánh của người Trung Hoa không hợp với pháp Tiểu Thừa, nên không bao
lâu hai tông này đều bị tàn tạ. Còn tám tông kia thì thuộc về Đại Thừa, gồm có
Thiên Thai Tông, Hiền Thủ Tông, Tam Luận Tông, Pháp Tướng Tông, Luật Tông,
Thiền Tông, Mật Tông và Tịnh Độ Tông.
Môn hoằng dương của Tịnh
Độ Tông là pháp Niệm Phật. Nếu pháp môn này chỉ giảng thuyết về sự tự độ, thì e
cho đã bị tiêu mòn như hai tông Tiểu Thừa kia từ lâu rồi. Nước Việt Nam ta là một
bán đảo thuộc miền duyên hải, dân tánh có chiều hướng hoạt động suy tư rộng,
nên phần lớn thích hợp với Đại Thừa. Nên từ xưa đến nay, tại đất nước này,
Thiền Tông và Tịnh Độ đã chiếm phần ưu thắng.
Luận về pháp, những
pháp nào đi đến Phật quả cứu cánh, giảng thuyết rộng về giới ngoại và sự lợi
tha, đó là pháp Đại Thừa. Trái lại, chính là pháp Tiểu Thừa. Nhưng điểm
chủ yếu để phân định Tiểu Thừa hay Đại Thừa, là thuộc về tâm chớ không phải
pháp. Nếu dùng pháp Tiểu Thừa hoằng hóa làm phương tiện để dẫn đến Phật
quả thì đó chính Đại Thừa. Chẳng thế, khi đức Như Lai giảng dạy về Tiểu Thừa
giáo, Ngài cũng là hạng Tiểu Thừa hay sao?
Vì lẽ ấy cho nên người
niệm Phật cần phải chú trọng về chỗ phát tâm, tức là phát Vô Thượng Bồ Đề tâm.
Môn Niệm Phật đã thuộc về pháp Đại Thừa nếu hành giả tu theo môn này lại phát
đại Bồ Đề tâm nữa, thì tâm và pháp đều được toàn vẹn, sẽ đi đến quả Viên Giác
kiêm cả tự lợi lợi tha.
Nếu phát tâm nhơn thiên
thừa mà niệm Phật, thì môn Niệm Phật thành pháp
nhơn thiên. Người niệm Phật mà phát
tâm như thế, chỉ hưởng được sự sang quý ở cõi người cõi trời, khi phước báo
hết, lại chịu luân hồi sa đọa.
Nếu phát tâm Tiểu Thừa mà
niệm Phật, thì môn Niệm Phật thành pháp Tiểu Thừa. Người niệm Phật mà phát tâm
này, thì chỉ được quả giác thấp kém không viên mãn của Thanh Văn, Duyên Giác,
lại còn phạm lỗi nhỏ hẹp thiếu lòng từ bi, duy biết lo giải thoát cho mình,
không đoái đến bao nhiêu chúng sanh đau khổ khác.
Cho nên niệm Phật cần phải
phát Vô Thượng Bồ Đề tâm. Lời tục thường nói:
"Sai một ly, đi ngàn dặm." Người niệm Phật tu hành đối với điểm phát
tâm có chính xác cùng không, há chẳng phải là một điều đáng chú ý lắm ư?
Một câu A Di Ðà
Lối hiểm đều san bằng
Thắng về nơi bảo sở
Không trụ cảnh hóa thành.
Nhứt cú Di Ðà
Hiển lộ chỉ bình
Trực để bảo sở
Bất trụ hóa thành.
LƯỢC
GIẢI
Trong kinh Pháp Hoa, nơi
phẩm Hoá Thành Dụ, đức Thế Tôn có nói đại khái như sau:
"Một vị đạo sư hướng dẫn đoàn người vượt qua đoạn đường hiểm trở xa độ năm
trăm do tuần, để đến nơi bảo sở là chỗ có nhiều châu báu. Nhưng giữa đường đoàn
người ấy mỏi mệt thối tâm, xin muốn lui bước trở về. Ðạo sư nghe nói thương
xót, dùng phương tiện biến ra một hóa thành cách đó ba trăm do tuần và bảo:
"Các ông hãy cố
gắng đến thành ấy tạm nghỉ sẽ hết nhọc mệt!".
Ðoàn người vui mừng tiến
tới hóa thành, cho rằng mình đã đến nơi, đã được chỗ an ổn. Khi đạo sư thấy họ
đã nghỉ ngơi xong, liền diệt mất hóa thành và bảo:
"Vừa rồi là hóa
thành không phải cảnh thật. Ta vì thấy các ông mỏi mệt bỏ dở công khó muốn lui
trở về, nên thương xót phương tiện hóa hiện ra. Nay đã sắp gần tới bảo sở các
ông nên cố gắng gia công tiến bước..."
Theo thí dụ trên, Ðạo Sư chỉ cho đức Như lai. Ðoàn người chỉ cho hành giả tiến
tu theo chánh pháp. Ðường năm trăm do tuần, chỉ cho sự hiểm nguy khổ nạn trong
Ngũ thú luân hồi là: Thiên, nhơn, bàng sanh, ngạ quỉ, địa ngục. Trong đây không
kể A tu la và thần tiên, vì hai đạo này nhiếp vào các nẻo kia.
Như A-tu-la thì có thiên
A-tu-la, nhơn A-tu-la, quỉ A- tu-la, súc A–tu-la. Tiên thì có thiên tiên, quỉ
tiên cho đến súc tiên, chẳng hạn như hồ tiên cho đến long tiên v.v... Nếu phối
hợp với các thừa, thì năm trăm do tuần là sự trải vượt qua năm thừa gồm: Nhơn
thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa.
Thanh Văn, Duyên Giác,
Bồ Tát còn kể trong giai đoạn hiểm nguy, vì nếu không nhờ sức Phật gia bị, tất
bị u trệ, khó nỗi tiến lên Phật quả. Nhưng đây là luận rộng thêm đó thôi, thật
ra đường hiểm năm trăm do tuần chỉ cho Ngũ Thú thì thiết cận hơn.
Tiếp tục theo lời dụ, Bảo Sở chỉ cho Phật Quả Vô Thượng Ðẳng Giác. Cách ba trăm
do tuần, chỉ cho sự vượt khỏi Tam Giới. Hóa thành chỉ cho quả vị giải thoát
phiền hoặc ba cõi của hàng Nhị Thừa Thanh Văn, Duyên Giác.
Tổng kết đại ý, đức Thế
Tôn muốn nói trong giáo pháp của Ngài, chỉ duy một Phật Thừa, không có sự chia
riêng hai thừa như Tiểu Thừa và Ðại Thừa, hoặc ba thừa như Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát Thừa. Những thừa trên đều toàn
giả lập, quả vị Thanh Văn, Duyên Giác, chỉ là Hóa Thành huyễn tạm mà thôi.
Ðối với pháp Tịnh Ðộ, có người không hiểu rõ môn này, lầm cho Cực Lạc là Hóa
Thành, chẳng phải Bảo Sở. Thật ra Hóa Thành cùng Bảo Sở là cảnh giới tu chứng
của tự tâm, không cuộc hạn nơi quốc độ. Xin nói rõ lại, Hóa Thành là cảnh giới
Thanh Văn, Duyên Giác; Bảo Sở là cảnh giới Phật. Môn Niệm Phật đưa chúng sanh
về Cực Lạc, để mau tiến lên cảnh giới Phật, chứng thành Phật quả. Ðó là đường
lối thẳng tắt tiến về Bảo Sở; chớ đâu phải trụ nơi Hóa Thành.
Ðúng ra Ta Bà và Cực Lạc
đều là huyễn cảnh, nhưng Ta Bà có vô lượng khổ nạn chướng duyên, Cực Lạc đủ vô
lượng duyên lành tiến đạo. Bởi thế chư Phật đều khuyên nên cầu vãng sanh để dễ
tiến tu, không còn thuộc giới phàm phu đầy đủ nghiệp lực mà cho Cực Lạc là Hóa
Thành, cam ở cảnh Ta Bà vô lượng chướng duyên hiểm nạn, rất khó được giải
thoát, đó là Bảo Sở đấy ư?
Thật là lầm lạc và đáng
buồn cười lắm vậy!
Câu "Lối hiểm đều san bằng" hàm ý nghĩa: Khi công phu niệm Phật thuần
thục, về cõi Phàm Thánh Ðồng Cư nơi Cực Lạc thì đã thoát khỏi sự luân hồi trong
đường hiểm Ngũ Thú thuộc Tam Giới, lại thường được gần gũi Phật cùng chư Bồ
Tát, không còn bị chướng ngại và bị thối chuyển trên đường Vô Thượng Bồ Ðề.
Tóm lại một câu niệm
Phật có công năng mầu nhiệm san bằng tất cả hiểm nạn trên đường tu, đưa hành
giả tiến mau về Bảo Sở, nên Triệt Ngộ thiền sư mới tỏ bày khen ngợi!
Tiết 11.- Những Huấn Thị Về Bồ Đề Tâm
Về Bồ Đề tâm, trong nội
điển có thuyết minh rất nhiều, nay chỉ xin trích lục ít đoạn nơi Kinh Hoa
Nghiêm để chư vị đồng tu thể nhận:
Này thiện nam tử! Bậc Bồ
Tát phát lòng Vô Thượng Bồ Đề là: khởi lòng đại bi cứu độ tất cả chúng sanh.
Khởi lòng cúng dường chư Phật, cứu cánh thừa sự. Khởi lòng khắp cầu chánh pháp,
tất cả không sẻn tiếc. Khởi lòng thú hướng rộng lớn, cầu Nhứt Thiết Trí. Khởi
lòng đại từ vô lượng, khắp nhiếp tất cả chúng sanh.
Khởi lòng không bỏ rơi
các loài hữu tình mặc áo giáp kiên thệ để cầu Bát Nhã Ba La Mật. Khởi lòng
không siểm dối, vì cầu được trí như thật. Khởi lòng thật hành y như lời nói, để
tu đạo Bồ Tát. Khởi lòng không dối với chư Phật, vì gìn giữ thệ nguyện lớn của
tất cả Như Lai. Khởi lòng nguyện cầu Nhứt Thiết Trí, cùng tận kiếp vị lai giáo
hóa chúng sanh không dừng nghỉ. Bồ Tát dùng những công
đức Bồ Đề tâm nhiều như số bụi nhỏ của cõi Phật như thế, nên được sanh vào nhà
Như Lai.
Này thiện nam tử! Như
người học bắn, trước phải tập thế đứng, sau mới học đến cách bắn. Cũng thế, Bồ
Tát muốn học đạo Nhứt Thiết Trí của Như Lai, trước phải an trụ nơi Bồ Đề tâm,
rồi sau mới tu hành tất cả Phật pháp.
Thiện nam tử! Ví như
vương tử tuy hãy còn thơ ấu, song tất cả đại thần đều phải kính lễ. Cũng thế,
Bồ Tát tuy mới phát Bồ Đề tâm tu Bồ Tát hạnh, song tất cả bậc kỳ cựu hàng Nhị
Thừa đều phải kính trọng nể vì.
Thiện nam tử! Như thái
tử tuy đối với quần thần chưa được tự tại, song đã đủ tướng trạng của vua, các
bầy tôi không thể sánh bằng, bởi nhờ chỗ xuất sanh tôn quý. Cũng thế Bồ Tát tuy
đối với tất cả nghiệp phiền não chưa được tự tại, song đã đầy đủ tướng trạng Bồ
Đề, hàng Nhị Thừa không thể sánh bằng, bởi nhờ chủng tánh đứng vào bậc nhứt.
Thiện nam tử! Như người
máy bằng gỗ, nếu không có mấu chốt thì các thân phần rời rạc chẳng thể hoạt
động. Cũng thế, Bồ Tát nếu thiếu Bồ Đề tâm, thì các hạnh đều phân tán, không
thể thành tựu tất cả Phật pháp.
Thiện nam tử! Như chất
kim cương tất cả vật không thể phá hoại, trái lại có thể phá hoại tất cả vật,
song thể tánh của nó vẫn không tổn giảm. Bồ Đề tâm của Bồ Tát cũng thế, khắp ba
đời trong vô số kiếp, giáo hóa chúng sanh, tu các khổ hạnh, việc hàng Nhị Thừa
không thể làm đều làm được, song kết cuộc vẫn chẳng chán mỏi, giảm hư...
Phổ Hiền Bồ Tát bảo: - Thiện nam tử! Bồ Tát vì điều phục giáo hóa tất cả
chúng sanh nên phát Bồ Đề tâm. Vì trừ diệt khổ tụ cho tất cả chúng sanh, nên
phát Bồ Đề tâm. Vì đem cho tất cả chúng sanh sự an vui đầy đủ, nên phát Bồ Đề
tâm. Vì dứt trừ sự ngu tối cho tất cả chúng sanh, nên phát Bồ Đề tâm. Vì đem
lại Phật trí cho tất cả chúng sanh, nên phát Bồ Đề tâm. Vì cung kính cúng dường
tất cả chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm.
Vì tùy thuận lời dạy Như
Lai khiến chư Phật hoan hỷ, nên phát Bồ Đề tâm. Vì muốn thấy sắc thân tướng hảo
của tất cả chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm. Vì muốn vào trí huệ rộng lớn của tất
cả chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm. Vì muốn hiển hiện các đức: lực, vô úy của chư
Phật, nên phát Bồ Đề tâm.
Như thế, trong Kinh Hoa
Nghiêm đức Thế Tôn và chư Bồ Tát đã thuyết minh rộng rãi về công đức của Bồ Đề
tâm, trên đây chỉ lược trích một vài yếu điểm. Kinh văn cũng có nói:
"Cửa yếu vào đạo,
trước phải phát tâm.
Việc yếu tu hành, trước
nên lập nguyện."
Nếu không phát tâm rộng
lớn, không lập nguyện bền chắc, thì dù trải qua vô lượng kiếp, vẫn y nhiên ở
trong nẻo luân hồi; dù có tu hành cũng khó tinh tấn và chỉ luống công khổ nhọc.
Do đó nên biết: muốn học Phật đạo, quyết phải phát Bồ Đề tâm không thể trì
huỡn.
Bởi thế khi xưa Tỉnh Am
đại sư đã soạn ra Phát Bồ Đề Tâm Văn để khuyến khích tứ chúng. Trong ấy, Ngài
theo các tâm nguyện mà trình bày sự phát tâm thành tám cách: TÀ, CHÁNH,
CHÂN, NGỤY, ĐẠI, TIỂU, THIÊN, VIÊN. Xin tóm đại lược như sau:
1. Có những người tu
không tham cứu tự tâm, chỉ biết theo bên ngoài, hoặc cầu danh lợi, đắm cảnh vui
hiện tại, hay mong quả phước tương lai mà phát lòng Bồ Đề. Phát tâm như
thế gọi là Tà.
2. Như chẳng cầu danh
lợi, không tham cảnh vui cùng mong quả phước, chỉ vì thoát vòng sanh tử, lợi
mình lợi sanh mà cầu đạo Bồ Đề. Phát tâm như thế gọi là Chánh.
3. Mỗi niệm trên vì cầu
Phật đạo, dưới vì độ chúng sanh, nhìn đường Bồ Đề dài xa mà không khiếp, thấy
loài hữu tình khó độ nhưng chẳng sờn. Tâm bền vững như lên núi quyết đến đảnh,
như leo tháp quyết đến chót. Phát tâm như thế gọi là Chân (thật).
4. Có tội lỗi không sám
hối chừa cải, ngoài dường trong sạch, trong thật nhớp nhơ, trước tinh tấn sau
biếng lười. Dù có tâm tốt nhưng còn xen lẫn lợi danh, có pháp lành song bị tội
lỗi làm ô nhiễm. Phát tâm mà còn những điều này, gọi là Ngụy (dối).
5. Cõi chúng sanh hết,
nguyện mới hết; đạo Bồ Đề thành, nguyện mới thành. Phát tâm như thế gọi là Đại.
6. Xem tam giới như tù
ngục, sanh tử như oan gia; chỉ mong mình mau giải thoát, chẳng muốn độ người.
Phát tâm theo quan niệm này, gọi là Tiểu.
7. Thấy chúng sanh và
Phật đạo ở ngoài tự tánh, rồi nguyện độ nguyện thành, đường công hạnh chẳng
quên, sự thấy hiểu không dứt. Phát tâm như thế gọi là Thiên (lệch).
8. Biết chúng sanh và
Phật đạo đều là tự tánh, nên nguyện độ nguyện thành, tu công đức không thấy
mình có tu, độ chúng sanh không thấy có chúng sanh được độ. Phát tâm như thế
gọi là Viên (tròn).
Trong tám cách như trên,
Tà, Ngụy, Thiên, Tiểu nên bỏ, Chân, Chánh, Viên,
Đại nên theo. Được như thế
mới gọi là phát Bồ Đề tâm đúng cách.
Trong văn, Tỉnh Am đại
sư lại khuyên đại chúng nên nghĩ đến mười nhân duyên để phát tâm. Mười duyên ấy
là: Vì nghĩ đến ơn Phật, vì công ơn cha mẹ, vì nhớ ơn sư trưởng, vì tưởng ơn
tín thí, vì biết ơn chúng sanh, vì lo khổ sanh tử, tôn trọng tánh linh, vì sám
trừ nghiệp chướng, vì hộ trì chánh pháp, vì cầu sanh Tịnh Độ. Nơi điều cầu Tịnh
Độ, Ngài dẫn một lời Kinh A Di Đà và bảo: "Kinh Văn nói:
“Không thể dùng chút ít
căn lành phước đức nhân duyên được sanh về nước kia. Thế thì biết, phải có
nhiều căn lành phước đức mới được vãng sanh Cực Lạc.
Nhưng nhiều căn lành
không chi hơn phát Bồ Đề tâm, nhiều phước đức không chi hơn trì danh hiệu. Nhiếp tâm niệm Phật
giây phút hơn bố thí nhiều năm, chân thật phát lòng Bồ Đề hơn tu hành nhiều
kiếp. Giữ chắc hai nhân duyên này, quyết định được sanh Cực Lạc."
Qua những lời dạy của
Phật, Bồ Tát, Tổ Sư ở trên, ta thấy phát Bồ Đề tâm là điều rất quan yếu trên
đường hành đạo.
Niệm
Phật Phải Phát Lòng Bồ Đề
Ba cõi
không an dường hỏa trạch
Đâu miền chân lạc khỏi tang thương?
Người vô thường,
Cảnh vô thường!
Khuyên gọi cùng nhau tỉnh mộng
Quay về bể giác thanh lương.
Khởi lòng bi trí
Nguyện độ mười phương.
Ba tăng kỳ kiếp tu muôn hạnh.
Bền lòng không thối chuyển
Cầu ngôi vị Pháp Vương!
Comments
Post a Comment