TẠNG THƯ PHẬT HỌC


Phật Học Tinh Yếu

 

Hòa Thượng Thích Thiền Tâm

tự Liên Du

 

Ðôi Lời Phi Lộ

 

Ba tạng Kinh-điển của Phật-giáo hiện nay gồm có đến hơn vạn quyển. Trong ấy, những Kim-ngôn của Ðấng Ðiều-Ngự và huyền-nghĩa của chư Tổ, hàm ẩn Ðạo-lý thâm thúy vô biên. Muốn du ngoạn trong bể Phật-pháp bao la, hay lên đỉnh non thánh-giáo để nhìn khắp nơi bằng tầm mắt càn-khôn-nhất-lãm, phải phí nhiều thời giờ và tâm lực, mà giữa cuộc sống nhiều vướng bận ngày nay, ít ai làm nổi. Vì lẽ ấy, đã từ lâu bút giả có ý muốn gom góp phần tinh yếu của thánh-giáo viết ra thành tập, để giúp những vị mến đạo mầu của Ðức Thế-Tôn, có sự hiểu biết khái quát về pháp Phật. Và ý định nầy đã được thực hiện từ năm 1963, nhân lúc sắp sửa ra đảm nhận trường Phật-Học Huệ-Nghiêm.


Nội dung của toàn tập PHẬT HỌC TINH YẾU sau đây gồm có nhiều thiên, mỗi thiên phân thành nhiều chương, và mỗi chương bao hàm nhiều mục. Ðó là hệ thống phân biệt để duyệt giả dễ ghi nhận. Ðiều đáng chú ý là phần trích dẫn những Kinh-luận trong đây, nghĩa lý nó không có tánh cách nhất định. Tại sao thế? Bởi giáo pháp của thánh-nhân nói ra đều tùy thời tùy cơ để dắt dìu, phá chấp. Có thể một lời thuyết giáo đối với căn cơ nầy thích hợp nhưng với cơ khác không thích hợp, với thời gian trước tiện nghi song với thời nay không tiện nghi. Cho nên một vị tôn túc đã bảo: 


“Y theo Kinh giải nghĩa là oan cho chư Phật ba đời, 

nhưng lìa Kinh một chữ tức đồng với ma thuyết”. 


Vậy chỗ thu thập của người khéo học Phật là không chấp Kinh, không bỏ Kinh, như người đời đã bảo: 


“Khôn chết, dại cũng chết, duy biết mới sống”. 


Và người khéo học Phật cũng đừng chấp lý bỏ sự, hay chỉ theo sự quên phần lý. Về việc được ý quên lời nầy, duy mỗi người tự thể hội, không thể nói hết được.


“Trần chẳng tương quan, bể cả nương dâu mặc thay đổi. 

Lòng không sở đắc, thông xanh mây trắng tự vui nhàn”. 


Xin mượn hai câu nầy để chúc sự thành tựu của duyệt giả sau khi đọc xong toàn tập PHẬT HỌC TINH YẾU.


 

Ngày 12-8-1965

Tỳ-khưu Thiền Tâm, tự Liên Du



MẤY ĐIỆU SEN THANH

 

MẤY ĐIỆU SEN THANH DÌU DẶT TRỖI

VANG THÀNH ÁNH NGỌC NỐI LIÊN PHƯƠNG

 

LỜI ĐẦU

 

Quyển này bút giả tuyển dịch từ nguyên bản TỊNH ĐỘ THÁNH HIỀN LỤC của Phật giáo Trung Hoa. Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành. Đến cuối đời Đạo Quang thanh triều, Liên Quy cư sĩ Hồ Đỉnh góp nhặt các chuyện vãng sanh tục biên thêm. Sang đời Trung Hoa Dân Quốc, Đức Sum Pháp sư lại sưu tập những sự tích tu Tịnh độ có ứng nghiệm bổ túc vào. Trước sau có tất cả được gần một ngàn truyện.

Thật ra, người tu Tịnh độ vãng sanh rất nhiều, không phải chỉ có ngần ấy mà thôi. Nguyên do bởi những cổ thư về Tịnh độ thất lạc, phần ký lục kém thiếu, ngày xưa sự lưu thông chưa thuận tiện, nên các chuyện niệm Phật vãng sanh không được truyền rộng và ghi chép đầy đủ. Thử nghĩ quang cảnh lúc ngài Thiện Đạo ở Trường An, ngài Thiếu Khang ở Tân Định, tiếng niệm Phật vang khắp các nẻo đường , tất biết người sanh về Tịnh độ số còn hơn muôn ức. Nhưng bao nhiêu truyện tích sưu tập trên , cũng tạm gọi là đủ để làm khuôn mẫu cho những người tu Tịnh độ đời sau.

Trong thời gian trước, bút giả có ghi chép được hơn vài mươi chuyện niệm Phật vãng sanh ở Việt Nam, tiếc vì lúc chiến nạn bị thất lạc mất. Bởi thế, đành phải đem những chuyện vãng sanh ở Trung Hoa để làm gương khuyến tấn người tu Tịnh độ. Nơi quyển sách nầy, chỉ tuyển dịch ra những sự tích có phần đặc sắc trong nguyên bản, vì e nhiều quá sẽ gây sự nhàm chán cho độc giả. Trước kia, Thượng Tọa Vạn Đức (Thích Trí Tịnh) có dịch được một phần ba, lấy tên là ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC, được nhiều người ưa thích. Một vài liên hữu yêu cầu tôi xin tiếp tục công việc ấy, và dịch những chuyện vãng sanh của hàng căn cơ thời gần đây, để người đời nay có thể theo dấu. Vì thế quyển sách này, bút giả lưu ý dịch các truyện vào thời Dân Quốc cận đại nhiều hơn.

Những lời và hạnh của thánh hiền tu Tịnh độ khi xưa, là những điệu nhạc, những đài gương để khuyến khích, soi sáng cho các hàng liên hữu. Cổ nhơn đã có vị viết sách Tịnh độ, nhan đề là LIÊN HẬU THANH ÂM. Liên hậu là giờ khắc hoa sen, lấy sự tích đồng hồ sen nơi Bạch Liên Xà của ngài Huệ Viễn. Thanh Âm là những âm điệu thanh tao để khuyến hóa mọi người niệm Phật. Bút giả thể theo ý đó, đặt nhan đề quyển nầy là MẤY ĐIỆU SEN THANH.

Mỗi tông phái, ngoài lý thuyết còn có phần thật nghiệm hay thật hành. Thật hành vừa để chứng minh cho lý thuyết , vừa là tấm gương sáng nhắc nhở khuyến khích người tu. Quyển này là thiên sử liệu chứng minh cõi Cực Lạc có thật, công đức niệm Phật có lợi ích ngay lúc hiện tại cho đến khi mạng chung. Cõi Cực Lạc đã có thật, thì thiên cung, địa ngục, ba cõi sáu đường, việc tội phước nhân quả, thánh thần quỉ ma, suy ra cũng đều có thật không phải hư huyển. Từ điểm này xét kỹ sâu rộng thêm, tất có thể dứt trừ những điều xấu ác, xu hướng về nẻo thiện lương vậy.

 

“Nương mình tựa án xem người cổ

Ẩn bóng trong gương ngẫm chuyện đời”

 

Mong độc giả khi xem quyển này, thức tỉnh cuộc đời là khổ lụy vô thường, sớm phát tâm tìm lỗi giải thoát, tu các phước lành ăn chay niệm Phật. Từ sự tự tu, khuyến hóa trong thân tộc cho đến mọi người đều tu hành, thì cõi nầy tuy chưa thành Cực Lạc, song trong một vùng, một xứ, cũng được nhiều phước lợi an vui.

Ngoài ra, những tình tiết của nội dung toàn quyển, có thể dẫn đạo ý thâm trầm cho người xem. Như ăn mía nhai từ ngọn đến gốc, sẽ lần lần tiến vào giai cảnh vậy.

 

LIÊN DU



LỜI SAU CÙNG

 

Bút giả cố gắng hoàn tất quyển cuối Mấy Điệu Sen Thanh nầy, giữa lúc sức khỏe suy kém, thêm bị sự khuấy rối lấn bức của cả ngoài lẫn trong rình rập bao vây. Nhớ lời Phật dạy trong kinh Pháp Hoa: “Vào lúc kiếp trược rối loạn, chúng sanh cấu nhiễm nặng nề, đầy niệm tham, sân, si, ganh ghét, thành tựu các căn chẳng lành”. (Kiếp trược loạn thời, chúng sanh cấu trọng, tham si tật đố, thành tựu chư bất thiện căn).

Lại xem trong Đà Ra Ni Tạp Tập thấy một đoạn, xin trích dịch nguyên văn như sau:

“Bạch đức Thế Tôn! Con là Thiện Danh Xưng Bồ Tát, từ cõi đức Phật Tịnh Nguyệt Âm Vương ở phương Bắc, nay đến thế giới Ta Bà. Con thấy nơi cõi nầy vào thời mạt, khi Phật pháp sắp muốn diệt, nhơn sanh phần nhiều tạo ác, tham đắm danh lợi, thị phi bôi xấu giết hại lẫn nhau. Giữa vua tôi, chủ tớ, cha con, thầy trò, chồng vợ, bè bạn, anh em, không còn đạo nghĩa, nước ngũ trược sôi trào, lửa tam tai bừng cháy. Các việc vừa nói, đều do chúng sanh kiếp trước chấp chứa nhiều tội ác, không tu đức lành, đời hiện tại mới bị cộng nghiệp sống trong hoàn cảnh như thế. Vào thời gian đó, nhơn loại tuy bề ngoài mang thân người, nhưng trong tâm ngu si độc dữ chẳng khác súc sanh ác quỉ. Thương thay cho thời mạt!

Trong năm ngàn người, may ra chỉ được vài kẻ lương thiện biết lo tu hành. Nay xin đức Thế Tôn hứa nhận cho con nói môn thần chú Vân Nhã Mật Tu, để chúng sanh đời sau được dứt trừ gốc tội nhơ, thân tâm trở nên trong sạch, xa lìa ách nạn”.

Sau khi được Phật chấp thuận, Bồ Tát liền thuyết chú rằng:

Ophú Ophú para téna Jũgu jũgu para téna yujnamid yujnamid para téna Osuto. Chi paio Kụjnãto Yamidto. Kúrato. Thopato. Svaha.

”Bạch đức Thế Tôn! Đại thần chú nầy như chiếc lọng lớn che trùm tất cả. Lại cũng như cơn mưa to thấm nhuần tất cả, như cầu thuyền nổi thông chở tất cả. Chúng sanh hàng đạo tục đời sau, đều nương nhờ Đà ra ni đây mà nẩy mầm mộng lành, thắm nhuần mùi pháp vị. Công năng của đại thần chú nầy, hay cứu vớt muôn hạng căn cơ sai khác, đưa về cảnh giới nhứt không, khiến cho họ sớm chúng tam thừa thánh quả…”

Qua mấy đoạn văn trên, lời đức Phật dạy và Bồ Tát Thiện Danh Xưng trần thuật, dường như đã ứng hiện vào thời buổi nầy. Riêng trong nhà Phật còn có những cảnh:


Giường lau đèn tối tăng vào định
Trăng lạnh cành thông bóng hạc về!
(Mâu tháp đăng hôn tăng nhập định
Tùng chi nguyệt lãnh hạt phi hoàn!)

Hoặc

Chợt sang trúc viện cùng tăng luận
Trộm được phù sinh nửa buổi nhàn!
(Hối qua trúc viện phùng tăng thoại
Du đắc phù sinh bán nhựt nhàn!)


Lúc còn ở Phật học viện Huệ Nghiêm, ưong cuộc mạn đàm với một bậc tiền bối, vị ấy có nói với bút giả mấy lời vừa có tánh cách bông đùa vừa ngụ ý than thở như sau: “Hiện nay trong cửa đạo có nhiều việc phức tạp, trừ phi Bồ Tát ra đời chấn hưng lại, còn phàm Tăng như chúng ta không làm sao điều chỉnh nổi. Hoàn cảnh thật giống như hai câu thi của một danh nhơn thời xưa:

“Ca sa vị trước hềm đa sự.
Trước bãi ca sa sự cánh đa!”
(Chưa khoác ca sa chán việc nhiều.
Khoác rồi thêm việc biết bao nhiêu!)

Nhưng có điều không đúng với nguyên ý của vị danh nhơn kia, đây chẳng phải việc đạo mà lại là việc khác! Chẳng những riêng đạo Phật, mà tất cả các tôn giáo đều có tình trạng tương tợ như thế. Đây đều do lòng người, thật quả là thời đạo đức suy mạt!’

Trong đạo đã như thế, ngoài đời lại còn biến loạn hơn, từ quốc gia cho đến khắp thế giới cảnh bạo ác ngày thêm tăng mạnh, con người hầu hết sống trong vòng lường gạt, sa đọa, tranh đua, giết hại lẫn nhau. Cuộc diện kéo dài đến hiện tại, “buổi tận thế” hay “cơ tận diệt” mà các tôn giáo khác mô tả, đã có phần lấp ló lộ hình. Tuy biết đó là cộng nghiệp của nhơn sanh, nhưng khi nhìn thấy nỗi khổ đau khắp đồng loại, trải nhiều cơn biến đồi dập dồn, những kẻ hữu tâm cũng sanh niềm hoài cảm! Họ không biết tương lai sẽ đi về đâu, chán nản cho mình cùng người trong kiếp sống thừa cảnh tạm! Thỉnh thoảng nghe vài nhơn sĩ cao niên đã mượn lời của Nguyễn Du mà thầm lén than thở như sau:


Kể từ gây cuộc binh đao
Đống xương vô định đã cao bằng đầu!

Hay là:

Chân trời mệt bể linh đinh
Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào?

Và cho đến như:

Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi
Đã không biết sống là vui
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!


Trong hoàn cảnh ấy, muốn thoát mối nguy tương hoại tương tàn, nhơn loại phải hướng về đạo đức. Theo lời Phật dạy, ngày sau do chúng sanh buông lung theo nghiệp sát, đạo, dâm, vọng nên sẽ có Tam tai ác kiếp là: chiến tranh tàn phá, tật bịnh lan tràn và đói rách nghèo khó nổi lên. Kẻ nào muốn tiêu giảm nỗi thống khổ, phải giữ chắc bốn giới: không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, dối gạt, tùy sức mình mà gắng làm các điều lành. Những người ấy sẽ được thiên thần ủng hộ, khiến cho nạn khỏi tai qua. Nếu tiến thêm, muốn tìm nẻo thoát ly, phải tụng kinh hoặc trì chú và chí tâm niệm hồng danh đức A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc.

Căn cứ theo luật nhân quả, mọi sự khổ vui đều do nghiệp lành dữ và bởi vô minh gây tạo. Trong cảnh nóng bức của nhà lửa tam giới, phải bền lòng an nhẫn, phải thiết thật phụng hành đúng như lời Phật dạy Đùng nên mãi hờn trách thở than, vì kết cuộc sẽ hóa ra vô ích. Trên đây là lời phụng khuyến, là đường lối thoát ly duy nhứt, mà những kẻ học đạo muốn nhắn nhủ với đồng nhơn.

 

THÍCH VÔ NHẤT 

 (Lấy ý câu: Nhất sự vô thành thân tiệm lão)



TỰ-CẢM


Sáu tám nhọc-nhằn kể xiết chi,
Thăng trầm nhiều nổi chí không di.
Mài giũa cho thành ra ngọc quý,
Mới hay châu nọ thiệt “Ma-ni”.
Một niệm công-thuần hai bốn chẵn,
Cõi tạm khứ-hồi mấy kẻ tri!
Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,
Trần-duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.


Sáu tám năm qua việc đáng kinh,
Thăng-trầm vùi-dập, lắm tai-tinh.
Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
Mà kiếp phù-sinh tạm múa hình.
Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT-NIỆM,
DI-ĐÀ sáu chữ phóng quang-minh.
Hôm qua tin-tức trời TÂY báo,
GIỜ MẸO MAI ĐÂY TẠ THẾ TÌNH.

 



Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng

TRÚC LIÊN BỔN THẤT

CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ

Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng



VÔ NHẤT ĐẠI SƯ

THÍCH THIỀN TÂM MỘT CAO TĂNG CẬN ĐẠI (audio)

 

Soạn Giả: Ưu Bà Di, Bồ Tát Giới BẢO ĐĂNG

Giảo Chánh: Sa môn THÍCH HẢI QUANG

Xuất Bản: Pháp Hoa Tự, Tucson-Arizona

 

 

KHEN ƯU BÀ DI BẢO ĐĂNG

 

Khá khen BẢO ĐĂNG Ưu bà di,

THIỀN TÂM lược sử quyết lòng ghi.

 

Thân yếu nhưng người tâm chẳng yếu,

Báo đức Sư Ông quản ngại gì.

 

PHÁP HOA PHẬT TỰ từ lâu đã,

Hoằng pháp gian truân kể xiết chi.

 

Đấy chính tại gia BỒ TÁT hạnh,

Nương theo đường PHẬT bước chân đi.

 

Trọng Đông – Quý Dậu niên Sa môn THÍCH HẢI QUANG

(Cảm tặng)

 

Những mong sao cho trong các hàng môn đệ của cố Hòa thượng Đại Ninh, Vô Nhất Đại sư THÍCH THIỀN TÂM còn có thêm nhiều đệ tử, đồ tôn biết nhớ ơn, báo đức cho THẦY, TỔ và sư môn cũng y như đồ tôn: Ưu bà di BẢO ĐĂNG đây vậy.

 

Thành kính và mong mỏi vậy thay.

Viết tại Hương Vân tịnh thất Omaha – Nebraska

Vào tiết Trọng Đông năm Quý Dậu

(Phật lịch 2538 – Dl. 1994)

 

THÍCH HẢI-QUANG

(Cẩn bút)


100 Bài Kệ Niệm Phật Lược Giải (Audio) – Tạng Thư Phật Học (tangthuphathoc.net)



MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT

 

Của Triệt Ngộ Ðại Sư

 

 

Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn

 

1)     

 

Nhứt cú Di Ðà
Ngã Phật tâm yếu
Thụ triệt Ngũ Thời
Hoành cai Bát Giáo

 

Một câu A Di Ðà
Tâm yếu của Phật ta.
Dọc năm thời thấu suốt
Ngang tám giáo trùm xa.

2)     

 

Nhứt cú Di Ðà
Ý chỉ như hà?
Tri âm thường thiểu
Mộc nhĩ thiên đa!

 

Một câu A Di Ðà
Ý chỉ diệu bao nhiêu?
Bạn tri âm thường ít
Kẻ tai gỗ riêng nhiều !

3)     

 

Nhứt cú Di Ðà
Ðại ý phân minh
Xà sanh cung ảnh
Dược xuất kim bình.

 

Một câu A Di Ðà
Ðại ý thật phân minh
Rắn sanh từ cung ảnh
Thuốc lấy ở kim bình.

4)     

 

Nhứt cú Di Ðà
Danh dị phương tiện
Phổ nhiếp quần cơ
Bàng thông nhất tuyến.

 

Một câu A Di Ðà
Phương tiện cực mầu lạ
Nhiếp khắp hết căn cơ
Rẽ thông vào Bát Nhã.

5)     

 

Nhứt cú Di Ðà
Khai vãng sanh môn.
Thị đa phước đức
Phi thiểu thiện căn.

 

Một câu A Di Ðà
Mở đường lối vãng sanh
Ðó là nhiều phước đức
Chẳng phải ít căn lành.

6)     

 

Nhứt cú Di Ðà
Lâm chung Phật hiện
Tứ biện thân tuyên
Lục phương cộng tán.

 

Một câu A Di Ðà
Khi lâm chung Phật hiện
Tứ biện khó thân tuyên
Sáu phương đồng khen ngợi.

7)     

 

Nhứt cú Di Ðà
Thành Phật tiêu chuẩn
Dĩ niệm Phật tâm
Nhập Vô Sanh Nhẫn

 

Một câu A Di Ðà
Là thành Phật tiêu chuẩn
Dùng tâm hạnh niệm Phật
Chứng vào Vô Sanh Nhẫn.

8)     

 

Nhứt cú Di Ðà
Chứng tam bất thối
Chỉ thử nhất sanh
Tiện bổ Phật vị

 

Một câu A Di Ðà
Chứng ba ngôi Bất Thối
Chỉ trong một đời này
Ðược bổ lên Phật vị

9)     

 

Nhứt cú Di Ðà
Mãn thập đại nguyện
Khởi đắc Phổ Hiền
Thác giáo liễu biện!

 

Một câu A Di Ðà
Tròn đầy mười thập nguyện
Ðâu phải đức Phổ Hiền
Dạy lầm cho xong chuyện!

10)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Bạch ngưu giá cảnh
Kỳ tật như phong
Hành bộ bình chánh

 

Một câu A Di Ðà
Xe gác ách trâu trắng
Chạy lẹ như gió bay
Bước đi thật bằng vững
.

11)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Như Lai tạng tâm
Thủy ngoại vô lãng
Khí nguyên thị kim

 

Một câu A Di Ðà
Là tâm tạng Như Lai
Ngoài nước đâu có sóng
Xuyến, vàng vốn chẳng hai!

12)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Diệu Chân Như tánh
Xuân tại hoa chi
Tượng hàm cổ cảnh.

 

Một câu A Di Ðà
Lộ tánh diệu Chân Như
Sắc xuân nơi hoa sáng
Muôn tượng ẩn gương xưa.

13)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Thanh tịnh Thật Tướng
Tuyệt nghị, tuyệt tư
Nan danh, nan trạng.

 

Một câu A Di Ðà
Cảnh Thật Tướng sạch trong
Tuyệt bàn, tuyệt suy nghĩ
Khó nói, khó hình dung.

14)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Viên dung pháp giới
Thục thể toàn chân
Giao la vô ngại.

 

Một câu A Di Ðà
Dụng thông tròn pháp giới
Soi lặng thể toàn chân
Xen giăng khắp vô ngại.

15)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Ðại viên trí cảnh
Thân độ ảnh hàm
Trùng trùng yêm ánh.

 

Một câu A Di Ðà
Gương Ðại Viên Trí Cảnh
Thân độ bóng hàm nhau
Lớp lớp mầu lấp lánh.

16)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Không Như Lai tạng
Vạn pháp vị hình
Nhất chân tuyệt tướng.

 

Một câu A Di Ðà
Là Không Như Lai Tạng
Vạn pháp dứt hình dung
Nhất chân tuyệt sắc tướng.

17)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Viên mãn Bồ Ðề
Thiên cảnh vô thượng
Vân biết dữ tề.

 

Một câu A Di Ðà
Tròn đủ Bồ Ðề đạo
Ráng mây đều ở thấp
Lại không có trời cao.

18)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Ðại Bát Niết Bàn
Nhất luân minh nguyệt
Vạn lý không hàn!

 

Một câu A Di Ðà
Là cảnh Ðại Tịch Diệt
Muôn niệm trống thanh lương
Chỉ một vầng minh nguyệt!

19)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Khai Bát Nhã môn
Thập hư vạn pháp
Nhứt khẩu bình thôn.

 

Một câu A Di Ðà
Mở toang cửa Bát Nhã
Muôn pháp cõi thập hư
Một miếng nuốt tất cả.

20)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Hoa ốc môn khai
Tùng giả lý nhập
Khoái tùy ngã lai.

 

Một câu A Di Ðà
Mở cửa nhà đẹp cao
Gọi các hàng tùng giả
Mau theo ta đi vào.

21)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Nhập vương tam muội
Tự địa quân kình
Như thiên phổ cái.

 

Một câu A Di Ðà
Vào tam muội Bảo Vương
Như đất đều nâng đỡ
Tợ trời che khắp miền.

22)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Ðắc Ðại Tổng Trì
Chuyển nhứt thiết vật
Sử thập nhị thì.

 

Một câu A Di Ðà
Khiến được Ðại Tổng Trì
Chuyển hết tất cả vật
Sử dụng mười hai thì.

23)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Tánh bản tự không
Tinh giai củng Bắc
Thủy tận triều Ðông.

 

Một câu A Di Ðà
Tánh thể vốn tự không
Các sao chầu Bắc Ðẩu
Muôn nước chảy về Ðông.

24)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Pháp giới duyên khởi
Tịnh nghiệp chánh nhân
Bồ Ðề chủng tử.

 

Một câu A Di Ðà
Là duyên khởi pháp giới
Chánh nhân của Tịnh nghiệp
Và chủng tử Bồ Ðề.

25)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Như cảnh chiếu cảnh.
Uyển chuyển hỗ hàm.
Trùng điệp giao ánh.

 

Một câu A Di Ðà
Như gương chiếu các gương.
Uyển chuyển ngậm bóng nhau
Ðiệp trùng giao chói sáng.

26)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Tự không hợp không.
Liễu vô ngấn phùng
Khước hữu Tây Ðông.

 

Một câu A Di Ðà
Như không hợp hư không.
Tuyệt không chút lằn dấu
Nhưng vẫn có Tây Ðông.

27)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Nhứt Ðại Tạng Kinh
Tung hoành giao thái
Tuyệt đãi u linh.

 

Một câu A Di Ðà
Là một Ðại Tạng Kinh
Dọc, ngang giao chói sáng
Tuyệt đối, thể u linh.

28)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Nhứt đại tạng Luật.
Miết nhĩ tịnh tâm
Giới ba la mật.

 

Một câu A Di Ðà
Là một Ðại Tạng luật.
Chớp mắt vào tịnh tâm
Ðủ Giới Ba La Mật.

29)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Nhứt Ðại Tạng Luận.
Ðương niệm tâm khai
Huệ quang như phún.

 

Một câu A Di Ðà
Là một Ðại Tạng Luận.
Ðương niệm tâm mở thông
Ánh huệ tuôn vô tận.

30)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Nhứt tạng bí mật.
Phát bản thần thông
Cụ đại uy lực.

 

Một câu A Di Ðà
Là một tạng bí mật.
Phát nguồn cội thần thông
Ðầy đủ uy lực lớn.

31)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Hồn toàn Ðại Tạng
Giới, Ðịnh, Huệ quang
Lưu xuất vô lượng!

 

Một câu A Di Ðà
Gồm toàn cả Ðại Tạng.
Giới, Ðịnh, Huệ ánh mầu
Tuôn ra không hạn lượng!

32)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Thằng bản thị ma.
Nại hà bất hội
Phiên nghi tác xà?

 

Một câu A Di Ðà
Dây vốn chỉ là gai.
Tại sao không thể nhận?
Nghi là rắn lầm thay!

33)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Hãn văn hãn đổ.
Ảnh hiện cảnh lâm
Hưởng tuyên thiên cổ.

 

Một câu A Di Ðà
Rất ít nghe, ít thấy.
Gương hiện bóng rừng cây
Trống trời tiếng vang dậy.

34)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Vô khả thí dụ!
Cổ cảnh đương đài
Thủy ngân đọa địa.

 

Một câu A Di Ðà
Không thể thí dụ tất!
Gương xưa nơi đài cao
Thủy ngân rơi xuống đất.

35)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Lão bà tâm khổ!
Vận vạn hộc chu
Phát thiên quân nỗ.

 

Một câu A Di Ðà
Lòng thương xót khổ tâm!
Ðẩy thuyền nặng muôn hộc
Kéo cung mạnh ngàn cân.

36)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Minh minh thị hữu
Tứ biện, bát âm
Bà tâm khổ khẩu!

 

Một câu A Di Ðà
Rõ ràng chính là có.
Dùng tứ biện, bát âm
Khổ lời thương giải tỏa!

37)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Ðích đích thị vô.
Dung tha vạn tượng
Nhập ngã hồng lô.

 

Một câu A Di Ðà
Ðích xác chính là không
Nếu tiêu muôn vật tượng
Tan vào một lò hồng.

38)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Diệc vô diệc hữu.
Mộng lý sơn xuyên
Cảnh trung hoa, liễu.

 

Một câu A Di Ðà
Cũng không, cũng có tướng
Non sông nơi giấc mộng
Hoa, liễu ở trong gương.

39)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Phi hữu phi vô.
Nại trước tiện chuyển
Thủy thượng hồ lô.

 

Một câu A Di Ðà
Chẳng có chẳng hư vô.
Chạm đến liền lăn chuyển
Trên nước chiếc hồ lô.

40)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế.
Thượng siêu bách phi
Khởi lạc tứ cú!

 

Một câu A Di Ðà
Là Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế.
Còn vượt khỏi bách phi
Huống rơi vào tứ cú!

41)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Diệu viên Tam Ðế.
Tối thanh lương trì
Ðại mãnh hỏa tụ.

 

Một câu A Di Ðà
Mầu tròn Tam Ðế lý.
Như ao rất thanh lương
Tợ lửa to thiêu hủy.

42)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Ðắc đại tự tại.
Chuyển biến thánh phàm
Dung thông thế giới.

 

Một câu A Di Ðà
Chứng được đại tự tại.
Hay chuyển thánh siêu phàm
Dung thông mười giới hải.

43)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Hữu công giả thưởng.
Vương thiện dinh tiền
Kế châu tại chưởng.

 

Một câu A Di Ðà
Thưởng kẻ có công hay
Yến tiệc vua đầy trước
Châu mái tóc nơi tay.

44)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Lý nhân vi mỹ.
Cư bốc lai quy
Khô thung phi quỉ.

 

Một câu A Di Ðà
Xóm nhân là tốt quí.
Lựa chỗ ở nương về
Cây khô không phải quỉ.

45)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Phi nan, phi dị.
Cửu phẩm liên hoa
Nhứt sanh tâm lực.

 

Một câu A Di Ðà
Chẳng khó, nhưng không dễ.
Ðược về chín phẩm sen
Một đời dùng tâm lực.

46)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Tự lộ hoàn gia.
Khả tích si nhơn
Khí kim đảm ma!

 

Một câu A Di Ðà
Theo đường trở lại nhà.
Tiếc cho kẻ khờ dại
Bỏ vàng gánh vỏ gai!

47)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Hoành xuất Ta Bà.
Nhữ tín bất cập
Ngô mạc như hà?

 

Một câu A Di Ðà
Vượt ngang thoát Ta Bà.
Người tin không thấu đáo
Ta biết làm sao mà?

48)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Quy nguyên tiệp kính.
Khẩn yếu tư lương
Duy Tín, Nguyện, Hạnh.

 

Một câu A Di Ðà
Là đường tắt về nguồn.
Những tư lương cần thiết
Tín, Nguyện, Hạnh gọn suông
.

49)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Yếu tại tín thâm
Liên hoa cửu phẩm
Sưu tại thử tâm.

 

Một câu A Di Ðà
Cần ở điểm Tin sâu.
Mầm hoa sen chín phẩm
Từ tâm đây nhô
 đầu.

50)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Yếu tại Nguyện thiết.
Thốn tâm dục
 phần
Song mục lưu huyết.

 

Một câu A Di Ðà
Cần ở nơi Nguyện thiết
Lòng về tợ lửa nung
Mắt thương khóc ra huyết.

51)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Yếu tại Hạnh chuyên
Ðơn đề nhứt niệm
Trảm đoạn vạn duyên.

 

Một câu A Di Ðà
Cần ở chỗ Hạnh chuyên.
Chỉ nêu cao một niệm
Dứt sạch cả muôn duyên.

52)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Thệ thành phiến đoạn.
Bản thử nhứt sanh
Tác cá nhàn hán.

 

Một câu A Di Ðà
Thề niệm thành một khối.
Liều tu mãn kiếp này
Ðược làm người nhàn rỗi.

53)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Chỉ nhẫm ma niệm.
Bách bát luân châu
Tuyết đoạn trùng hoán.

 

Một câu A Di Ðà
Nên niệm như thế này.
Chuỗi lần trăm lẻ tám
Dây đứt lại đổi dây.

54)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Bất cấp, bất huỡn
Tâm khẩu nhứt như
Lịch lịch nhi chuyển.

 

Một câu A Di Ðà
Chẳng gấp cũng chẳng huỡn.
Lòng miệng ứng hợp nhau
Rành rõ mà chuyển niệm.

55)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Dũ đa, dũ hảo.
Như nhơn học xạ
Cữu tập tắc xảo.

 

Một câu A Di Ðà
Niệm càng nghiều càng hay
Ví như người học bắn
Tập lâu thì khéo tay.

56)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Nhiếp tâm mật trì.
Như nhơn ẩm thủy
Lãnh noãn tự tri.

 

Một câu A Di Ðà
Mật niệm hằng nhiếp tâm.
Ví như người uống nước
Nóng lạnh tự biết thầm.

57)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Thí du quật tỉnh.
Tựu hạ cận nê
Giá liêm, công tỉnh.

 

Một câu A Di Ðà
Như đào giếng lấy nước.
Lần sâu thấy gần bùn
Giá hời công kiệm ước.

58)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Loại như toản hỏa
Mộc noãn yên sanh
Tạm đình bất khả.

 

Một câu A Di Ðà
Như cọ gỗ lấy lửa
Gỗ nóng khói phát sanh
Chớ tạm dừng lần lựa.

59)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Toàn thân đảnh đái
Nhơn mạng vô thường
Quang âm bất tái!

 

Một câu A Di Ðà
Ðem toàn thân đội trải
Mạng người rất vô thường
Tháng ngày không trở lại.

60)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Như cứu đầu nhiên
Tận thập phần lực
Kỳ thượng phẩm liên.

 

Một câu A Di Ðà
Như cứu lửa cháy đầu
Giốc mười phần công lực
Cầu thượng phẩm sen mầu.

61)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Diệu viên chỉ quán
Tịch tịch tĩnh tĩnh
Vô tạp vô gián.

 

Một câu A Di Ðà
Môn Chỉ Quán mầu tròn
Lặng lặng tĩnh tĩnh niệm
Không xen tạp nối luôn.

62)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Hiển lộ chỉ bình
Trực để bảo sở
Bất trụ hóa thành.

 

Một câu A Di Ðà
Lối hiểm đều san bằng
Thắng về nơi bảo sở
Không trụ cảnh hóa thành.

63)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Như thủy thanh châu
Phân vân tạp niệm
Bất đoạn tự vô.

 

Một câu A Di Ðà
Như ngọc lắng trong nước
Ngàn muôn tạp niệm rối
Chẳng dứt tự thành không.

64)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Ðốn nhập thử môn
Kim xí phích hải
Trực thủ long thôn.

 

Một câu A Di Ðà
Ngộ vào đủ công năng
Kim xí rẽ nước biển
Bắt thẳng lấy rồng ăn.

65)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Trần duyên tự đoạn
Sư tử du hành
Dã can kinh tán!

 

Một câu A Di Ðà
Sạch trần duyên phiền não
Như sư tử dạo chơi
Kinh rã bầy chồn cáo!

66)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Khiên trực niệm quá
Nhứt đạp đáo để
Hương tượng độ hà.

 

Một câu A Di Ðà
Thẳng chắc niệm nơi lòng
Một phen đạp tận đáy
Như hương tượng qua sông.

67)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Vô tướng tâm Phật
Quốc độ trang nghiêm
Cảnh phi ngoại vật.

 

Một câu A Di Ðà
Cảnh Vô Tướng tâm Phật
Cõi nước đẹp trang nghiêm
Không phải là ngoại vật.

68)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Vô vi đại pháp
Nhựt dụng đơn đề
Kiếm ly bảo hạp.

 

Một câu A Di Ðà
Pháp vô vi đại bảo
Hằng ngày một niệm chuyên
Gươm linh rời hộp báu.

69)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Vô lậu chân Tăng
Tuyết sơn dược thọ
Hiểm đạo minh đăng

 

Một câu A Di Ðà
Thành vô lậu chân Tăng
Cây thuốc nơi non Tuyết
Ðường hiểm ngọn minh đăng.

70)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Mãn Ðàn Na độ
Liệt phá xan nang
Hân phiên bảo tụ.

 

Một câu A Di Ðà
Ðầy đủ Bố Thí độ
Phá toang túi sẻn tham
Tuôn cho đống châu báu.

71)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Mãn Thi La độ
Ðô nhiếp lục căn
Viên tịnh Tam Tụ.

 

Một câu A Di Ðà
Ðầy đủ Trì Giới độ
Nhiếp hết cả sáu căn
Tròn sạch đủ Tam Tụ.

72)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Mãn Sằn-đề độ
Nhị ngã tướng không
Vô Sanh Nhẫn ngộ.

 

Một câu A Di Ðà
Ðầy đủ nhẫn nhục độ
Tướng Nhị Ngã không còn
Pháp Vô Sanh được ngộ.

73)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Mãn Tỳ-lê độ
Bất nhiễm tiêm trần
Trực đạp huyền lộ.

 

Một câu A Di Ðà
Ðầy đủ Tinh Tấn độ
Lòng không nhiễm mảy trần
Bước thẳng lên huyền lộ.

74)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Mãn Thiền Na độ
Hiện chư oai nghi
Tang thậm khô thọ?

 

Một câu A Di Ðà
Ðầy đủ thiền độ lý
Hiện trong các oai nghi
Cây khô có gì quí?

75)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Mãn Bát-nhã độ
Cảnh tịch tâm không
Vân khai nguyệt lộ.

 

Một câu A Di Ðà
Ðầy đủ Bát-nhã độ
Cảnh thanh vắng lòng không
Mây tan vầng nguyệt lộ.

76)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Tưởng tịch tư chuyên
Vị ly Nhẫn Ðộ
Dĩ tọa bảo liên.

 

Một câu A Di Ðà
Tâm lặng tưởng nhớ chuyên
Tuy chưa lìa Nhẫn độ
Ðã ngồi tòa bảo liên.

77)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Nhứt đóa bảo liên
Duy tâm chi diệu
Pháp chỉ như nhiên.

 

Một câu A Di Ðà
Là một đóa bảo liên
Lý duy tâm mầu nhiệm
Pháp hợp lẽ thiên nhiên.

78)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Nhứt đóa bảo liên
Phàm tình bất tín
Diệc như kỳ nhiên.

 

Một câu A Di Ðà
Là một đoá bảo liên
Phàm tình không tin tưởng
Cũng là lẽ tất nhiên.

79)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Nhứt đóa bảo liên
Quyết định bất tín
Chân cá khả liên

 

Một câu A Di Ðà
Là một đóa bảo liên
Nếu quyết không tin nhận
Ðáng thương thật kém duyên
!

80)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Nhứt đóa bảo liên
Trực nhiêu bất tín
Dĩ nhiễm thức điền.

 

Một câu A Di Ðà
Là một đóa bảo liên
Dù cho không tin tưởng
Cũng đã nhiễm thức điền

81)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Hoằng thông cảm đọa
Nhập Ðại Bi thất
Tọa Pháp Không tòa.

 

Một câu A Di Ðà
Sốt sắng gắng hoằng thông
Nguyện vào Ðại Bi thất
Ngồi yên tòa Pháp Không.

82)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Vô tận bảo tạng
Bát tự đả khai
Phổ đồng cúng dường.

 

Một câu A Di Ðà
Là kho báu vô tận
Tám chữ mở toang ra
Khắp cho không tiếc lẫn.

83)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Ðoạn chư phiền não
Toàn Phật toàn tâm
Nhứt liễu bách liễu.

 

Một câu A Di Ðà
Dứt phiền não rộn ràng
Tâm, Phật toàn dung hợp
Rõ một, rõ trăm ngàn.

84)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Diệt trừ định nghiệp
Hách nhật, khinh sương
Hồng lô phiến tuyết.

 

Một câu A Di Ðà
Dứt trừ được định nghiệp
Nhật rạng phá sương thưa
Lò hồng tan điểm tuyết.

85)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Năng không khổ báo
Thế giới, căn thân
Tức thô nhi diệu.

 

Một câu A Di Ðà
Hay tiêu quả báo khổ
Chuyển thế giới, căn thân
Tức thô thành tế diệu.

86)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Viên chuyển tam chướng
Tức Hoặc, Nghiệp, Khổ
Thành Bí Mật tạng.

 

Một câu A Di Ðà
Chuyển tròn cả ba chướng
Tức nơi Hoặc, Nghiệp, Khổ
Trở thành Bí Mật tạng.

87)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Giải nạn giải oan
Từ quang cộng ngưỡng
Pháp hỷ quân triêm.

 

Một câu A Di Ðà
Giải tai nạn trái oan
Quy ngưỡng ánh từ quang
Thấm nhuần niềm pháp hỷ.

88)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Báo vị báo ân
Liệt triền miên võng
Nhập giải thoát môn.

 

Một câu A Di Ðà
Ðáp ân nặng chưa tròn
Cắt đứt triền miên võng
Chứng vào giải thoát môn

89)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Không chư ác thú
Vạn đức hồng danh
Na dung tư nghị

 

Một câu A Di Ðà
Hay trống không ác đạo
Ức muôn đức hồng danh
Khó nghĩ bàn kỳ ảo!

90)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Cơ đậu nhơn thiên
Sâm si tam bối
Yên ánh cửu liên!

 

Một câu A Di Ðà
Hợp cơ cả trời, người
Ba căn tánh cao thấp
Chín phẩm sen rạng ngời!

91)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Hóa kiêm tiểu Thánh
Hồi hiệp liệt tâm
Hướng vô thượng thừa.

 

Một câu A Di Ðà
Các quả vị tiểu thánh
Chuyển tâm hẹp gồm đưa
Hướng về vô thượng thừa.

92)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Siêu nhiên vô ngại
Văn Thù, Phổ Hiền
Ðại nhơn cảnh giới.

 

Một câu A Di Ðà
Thật vô ngại siêu nhiên
Như Văn Thù, Phổ Hiền
Là cảnh bậc đại nhơn.

93)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Vi diệu nan tư
Duy Phật dữ Phật
Nãi năng tri chỉ.

 

Một câu A Di Ðà
Mầu nhiệm khó nghĩ bàn
Chỉ có Phật với Phật
Mới rõ biết tận cùng.

94)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Liệt Tổ phụng hành
Mã Minh tạo luận
Long Thọ vãng sanh.

 

Một câu A Di Ðà
Chư Tổ đều phụng hành
Tổ Mã minh viết luận
Tổ Long Thọ vãng sanh
.

95)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Nhân duyên thời tiết
Dị hương thường văn
Liên xã sang kiết
.

 

Một câu A Di Ðà
Hợp thời tiết nhân duyên
Hương lạ hằng thoang thoảng
Liên xã lập nhiều miền.

96)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Lợi đại long, tượng
Vĩnh Minh thiền bá
Trí Giả giáo tông.

 

Một câu A Di Ðà
Lợi bậc đại tượng, long
Như Vĩnh Minh thiền bá
Cùng Trí Giả giáo tông.

97)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Cảm ứng phi khinh
Thiếu Khang hóa Phật
Thiện Ðạo quang minh.

 

Một câu A Di Ðà
Cảm ứng chớ xem khinh
Thiếu Khang hiện hóa Phật
Thiện Ðạo phóng quang minh.

98)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Hữu giáo vô loại
Hùng Tuấn nhập minh
Duy Cung diệt tội.

 

Một câu A Di Ðà
Hóa độ kẻ vô loại
Hùng Tuấn vào minh ty
Duy Cung trừ chướng tội.

99)   

 

Nhứt cú Di Ðà
Thị vô thượng thiền
Nhứt sanh sự biện
Khoáng kiếp công viên.

 

Một câu A Di Ðà
Là môn thiền vô thượng
Việc lớn một đời xong
Công tu nhiều kiếp trọn.

100)                 

 

Nhứt cú Di Ðà
Lý phi dị hội
Bách kệ nga thành
Tam tôn gia bị.

 

 

Một câu A Di Ðà
Lý mầu chưa dễ hiểu
Thoáng chốc trăm kệ xong
Tam tôn thầm gia bị.

 

 

CHUNG

 

MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT

 

Của Triệt Ngộ Ðại Sư

 

Cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm dịch và Lược giải



SƠN CƯ BÁCH VỊNH

 ( Tông Bản Thiền Sư)



TƯỞNG NIỆM

CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN-TÂM

(21-11-92 ÂL)



Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,

Trần thế vinh-hư sá kể gì.

Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,

Mừng nay được thấy đức A-DI.










Niệm Phật 

Phải Khắc Kỳ Cầu Chứng Nghiệm 

 

Thân như bọt
Bể thương tang
Chìm nổi kiếp mênh mang!
Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn
Chỉ nương Vô-Lượng-Quang.


Trời niệm tâm
Núi kiên quyết
Vọng tình xin cách tuyệt!
Dần-dà khó thể nhập Liên-Bang
Khi nao thật được nhàn?

 

Thân như bọt
Bể thương tang
Chìm nổi kiếp mênh mang!
Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn
Chỉ nương Vô-Lượng-Quang.


 

ĐẲNG-GIÁC

 

Như-lai ngược dòng trở lại, vị Bồ-tát đó thuận dòng đi tới, giác-ngộ vào chỗ giao-tiếp với nhau; gọi là Đẳng-giác.

 

[

 

ĐẲNG-GIÁC là sự giác ngộ đồng với CHƯ PHẬT. 12 CHỦNG LOẠI CHÚNG-SANH thì hướng tới QỦA PHẬT, còn CHƯ PHẬT thì hướng tới chúng sanh để HỘ NIỆM, làm cho chúng sanh PHÁT BỒ ĐỀ TÂM, tu hành được sự giác ngộ như PHẬT; thì gọi là ĐẲNG-GIÁC BỒ-TÁT.

 

]

 

A-nan, từ tâm Càn-huệ đến Đẳng-giác rồi, giác đó mới bắt-đầu được Sơ-càn-huệ-địa trong tâm Kim-Cang.


]


“Càn-Huệ-Địa” nghĩa là “ tình dục khô cạn (Càn), chỉ thuần còn Trí-huệ (Huệ).” ĐÂY LÀ “ĐỊA-VỊ” TU CHỨNG ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI TU-THIỀN (Địa).


Từ Càn-huệ địa đến Đẳng-giác rồi, vì còn chấp mình LÀ ĐẲNG-GIÁC BỒ-TÁT, NÊN CÒN CÓ VI-TẾ SANH-TƯỚNG VÔ-MINH, phải dùng “TÂM KIM-CANG” để phá trừ tất cả sở đắc, như là SƠ-CÀN-HUỆ-ĐỊA trong TÂM KIM-CANG, THẬP TÍN trong TÂM KIM-CANG…ĐẲNG-GIÁC trong TÂM KIM-CANG. CHO NÊN, GỌI LÀ SƠ-CÀN-HUỆ-ĐỊA TRONG TÂM KIM-CANG.


]

 




DIỆU-GIÁC

 

 

Như vậy lớp-lớp tu đơn, tu kép 12 vị mới cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.



[



Tu Đơn, tu kép 12 vị :

 

1)    CÀN HUỆ ĐỊA        

2)    THẬP TÍN                          

3)    THẬP TRỤ

4)    THẬP HẠNH

5)    THẬP HỒI HƯỚNG

6)    NOÃN

7)    ĐẢNH

8)    NHẪN

9)    THẾ ĐỆ NHỨT

10)  THẬP ĐỊA

11)   ĐẲNG-GIÁC

12)   TÂM KIM CANG



( dùng TÂM KIM CANG phá trừ từng phần VÔ-MINH cho đến VI-TẾ VÔ-MINH mới cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.)



]

 

Các thứ địa ấy, đều lấy trí Kim-cang quán-sát mười thứ ví-dụ như-huyễn sâu-xa, trong Xa-ma-tha, dùng phép Tỳ-bà-xá-na của các đức Như-lai mà thanh-tịnh tu-chứng, lần-lượt đi sâu vào.

 

[

 

Các địa vị ấy, đều dùng “TÂM KIM-CANG” hay “TRÍ KIM-CANG” QUÁN LÝ “NHƯ-HUYỄN SÂU-XA”, tức là CHỈ và QUÁN KHÔNG HAI, ĐỊNH HUỆ BẤT NHỊ mà thanh tịnh tu chứng, lần lượt đi sâu vào.


Dùng “TRÍ KIM-CANG” QUÁN LÝ “NHƯ-HUYỄN SÂU-XA” LÀ:



1. Quán NGƯỜI như huyễn

2. Quán ÁNH NẮNG (DƯƠNG DIỆM) như huyễn

3. Quán TRĂNG DƯỚI NƯỚC như huyễn

4. Quán HOA ĐỐM TRONG HƯ KHÔNG như huyễn

5. Quán TIẾNG VANG TRONG HANG ĐỘNG như huyễn

6. Quán THÀNH CÀN THÁT BÀ ( LÀM BẰNG HƠI SƯƠNG TRONG BIỂN) như huyễn

7. Quán MỘNG như huyễn

8. Quán BÓNG như huyễn

9. Quán TƯỢNG TRONG GƯƠNG như huyễn

10. Quán ẢO HÓA như huyễn.

 

]




A-nan, như thế, đều dùng ba tiệm-thứ tăng-tiến, nên khéo thành-tựu 55 vị trong đường Bồ-đề chân-thậtLàm cái quán như vậy, gọi là chính-quán; nếu quán cách khác, gọi là tà-quán".



]

Muốn thành tựu 55 vị trong đường Bồ-đề chân thật, trước phải tu 3 TIỆM THỨ TĂNG TIẾN là:

1)    Không ăn NGŨ VỊ TÂN

2)   PHẢI NGHIÊM TRÌ GIỚI LUẬT

3)   PHẢI NGĂN CHẶN VỌNG KHỞI CỦA HIỆN NGHIỆP PHÁT SANH

 

KẾ TIẾP dùng TÂM KIM CANG quán LÝ NHƯ HUYỄN, để thành tựu 55 địa vị tu chứng.



Năm mươi lăm vị trong đường Bồ đề ( vì Càn-huệ-địa là con đường mà chẳng CHÂN-THẬT, còn DIỆU-GIÁC thì CHƠN THẬT mà chẳng phải là con đường, ĐÂY LÀ QỦA PHẬT. cho nên, chỉ có 55 vị trong đường Bồ-đề chân-thật mà thôi.)


1. Thập tín [10]

2. Thập trụ [10]

3. Thập hạnh [10]

4. Thập hồi hướng [10]

5. Tứ gia hạnh [4]

6. Thập địa [10]

7. Đẳng giác [1]


Tuy biết con đường CHƠN THẬT chứng nhập CHƠN TÂM, nhưng trải qua các địa vị tu chứng  gặp phải 50 loại ma chướng cùng với tập khí nhiều đời khó đoạn trừ, nếu MÊ MỜ CHƠN TÁNH,  tự nghĩ rằng mình đã CHỨNG THÁNH, THÀNH PHẬT thì sẽ đi vào  TÀ MA NGOẠI ĐẠO, khó CÓ NGÀY quây đầu trở lại theo CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT.


Cho nên, PHẬT dạy phải trì “CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM”, thì không bị những TẬP KHÍ NHIỀU ĐỜI cùng MA-CHƯỚNG đến phá HOẠI CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT THẲNG đến qủa DIỆU-GIÁC của CHƯ PHẬT.


Sức tu của người thời nay, phần nhiều bị Phiền Não ma hoặc Ngoại ma phá hoại, chưa đủ để cho Thiên ma phải ra tay. Loại ma này chỉ đến với những vị tu cao. Nếu Thiên ma quyết phá, những vị sức tu tầm thường khó có hy vọng thoát khỏi.

Trong Kinh Lăng Nghiêm, vì thương đường tu nhiều hiểm nạn, đức Phật khuyên các hành giả tham thiền nên kiêm trì mật chú, để được nhờ thần lực gia hộ, thoát khỏi nạn ma thành tựu chánh định.

 

Ấn Quang đại sư đã bảo: "Mới xem qua, dường như Kinh Lăng Nghiêm khác quan điểm với Tịnh Độ, nhưng xét nghĩ sâu mới thấy kinh này trong vô hình đã khen ngợi tuyên dương Tịnh Độ. Tại sao thế? Bởi bậc đã chứng đệ tam thánh quả A Na Hàm, còn có thể bị ma cảnh làm cho thối đọa; thì sự niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ càng nổi bật thêm tánh cách trọng yếu, trong ánh sáng nhiếp hộ của đức A Di Đà không còn nạn ma."


Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn
Chỉ nương Vô-Lượng-Quang.

  









TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,

GÍO LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.





Ẩn-Tu Ngẫu Vịnh

 ẨN TU NGẪU VỊNH 2020 - YouTube


HÒA THƯỢNG TÔN SƯ

Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư  Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.



MỤC LỤC



1.- Ẩn tu nào phải cố xa đời !

Mượn cảnh u-nhàn học đạo thôi !

Những thẹn riêng mình nhiều nghiệp chướng

Bốn ân còn nặng nghĩa đền bồi.

 

 

2.- Ẩn tu cảm xót biển trần-ai !

Sóng gió trầm luân mãi lạc loài

Thân khổ kiếp người muôn nỗi khổ !

Nghiệp đời vay trả, trả rồi vay !

 

 

3.- Ẩn tu hôm sớm niệm Di Đà

Lòng lặng mười muôn chẳng cách xa

Canh vắng giường thiền khi mãn định

Hoa sương cười nụ dưới trăng tà.

 

 

4.- Ẩn tu uổng tiếc bạn đồng hành !

Nói lý cao huyền đắm lợi danh !

Già, bịnh, đoạ sa, không phản tỉnh

Bóng câu mấy nỗi thoáng bên mành !

 

 

5.- Ẩn tu cõi tịnh nhẹ buông hồn !

Tưởng quán trời Tây nhớ Bảo-thôn

Ráng đỏ sắp đưa, vầng Nhật-lặn

Phất phơ tà áo gió hoàng hôn.

 

 

6.- Ẩn tu bền chí giữ công phu

Ba cõi không an lửa ngục tù !

Ngũ-dục, Hoàng-lương say gối mộng

Kiếp người dường một thoáng phù du !

 

 

7.- Ẩn tu riêng chạnh nỗi riêng mình

Túc trái gây nên, mối bất-bình

Tích phước tu-hành rồi tạo nghiệp

Cánh bèo trôi giạt biển phù sinh.

 

 

8.- Ẩn tu tưởng lại quả đời nay

Bao lớp gian truân nỗi đoạ đày !

Ẩn nhẫn trả xong tròn nghiệp trước

Dấu hồng chuyện cũ tuyết mờ bay !

 

 

9.- Ẩn tu nhớ đến đức sanh thành

Lắm lúc vì con chẳng tạo lành

Con lớn Mẹ Cha oằn gánh nghiệp

Bảo châu đền đáp cũng mong manh !

 

 

10.- Ẩn tu nguyện trả nghĩa song đường

Hồi hướng công phu mỗi khoá thường

Lại khuyến nghiêm-từ tâm đạo phát

Nương thuyền Phật huệ đến Tây-phương.

 

 

11.- Ẩn tu cửa đạo trải bao năm

Kinh nghiệm nhiều phen vẫn lạc lầm

Quen lắm lại càng thêm việc lắm

Cung đàn Hạ-Lý, mấy tri âm ?

 

 

 

12.- Ẩn tu ngùi ngậm bạn chung sơ

Nối gót ra đi chẳng hẹn chờ

Ngàn dặm cố nhân hồn lẫn vẫn

Mười năm việc cũ nửa phai mờ !

 

 

13.- Ẩn tu ưu cảm bởi nhơn tình

Điên đảo luân thường lại sát sinh

Khiến lắm tai trời thêm ách nước

Vầng hồng xế bóng sắp tây khuynh.

 

 

14.- Ẩn tu xét thấy chốn Tăng-Già

Ganh-hại thị-phi lắm bất hoà !

Danh vị, chùa chiền tranh đệ tử

Ưu Đàm, Lan Huệ héo mầm hoa.

 

 

15.- Ẩn tu rõ biết chuyển cơ trời !

Nhân-quả lọc thanh đạo với đời !

Tai biến dập dồn trăm cảnh chết

Núi xương sông máu, thảm đầy vơi !

 

 

16.- Ẩn tu nghĩ muốn thoát dòng mê !

Vững lái phong ba lúc nặng nề

Niệm Phật, niệm Tâm, tâm niệm Phật

Mây tan thấy rõ lối đi về.

 

 

17.- Ẩn tu Tín, Nguyện Niệm hồng danh

Thời mạt chướng sâu đạo khó thành

Chờ đến Liên-bang lên pháp-nhẫn

Đem thuyền Bát Nhã độ quần sanh.

 

 

18.- Ẩn tu Hoa Tạng mến môn huyền

Muốn kết Dao-đài hội Thắng Liên

Theo bước Đàm-Loan chơi bảo-các

Bích Câu lạc dấu, Giáng-Kiều tiên.

 

 

19.- Ẩn tu tế độ chẳng quên lòng !

Bi, Trí đôi đường phải suốt thông

Y sĩ nhân tâm dù đã sẳn

Còn rành nhân thuật mới thành công !

 

 

20.- Ẩn tu chi quản nệ công-lao

Mà chẳng tuyên dương tiếng Hải-trào

Sông lớn khơi nguồn từ núi thẳm

Xuống trần càng đục biết làm sao ?

 

 

21.-Ẩn tu Không có, Có mà Không !

Phương tiện, từ bi khó biết lòng !

Ngôn thuyết hãy còn Thân thuyết-pháp

Sấm mưa ẩn hiện bóng Thần Long.

 

 

22.-Ẩn tu mây trắng nhẹ phiêu diêu

Uốn khúc sông-in giãi lụa chiều

Thanh thoát gió chim reo nhạc Phật

Lầu-Tần không lại lắng hơi tiêu.

 

 

23.-Ẩn tu an tĩnh chốn cao nguyên

Hoa cảnh lòng trăng đẹp dịu hiền

Mây núi điệp trùng đêm tịch tịch

Câu Kinh tiếng Phật lại triền miên !

 

 

24.-Ẩn tu tịnh thấy cảnh am mây

Thanh tuấn thiền sư dáng huệ gầy

Kiếp trước Đạo Dung là tớ đó

Mà nàng Thiên Thụy hỏi ai đây ?

 

25.-Ẩn tu lại thấy ở am mây

Lâu trượng Tay cầm kiếm qủy thần

Mật phái Lạt-ma y mão lạ

Quê xưa trúc tạng tợ xa gần 


(25.-Ẩn tu dũng-tướng nhớ thời xa

Hoàng-tộc triều Lê điện Thái-Hoà

Vì Trịnh – Tú – Loan duyên trái khiến

Nửa chừng xuân gảy gánh tài hoa !)

 

26.-Ẩn tu được biết kiếp lâu xa

Từng ở Thiên cung cõi Đại La !

Đại Phước Lão-tiên là bạn cũ

Xuống tìm học Phật lạc mê hà.

 

 

27.-Ẩn tu luân chuyển nghĩ bao đời !

Thân-thế bèo đưa, sóng nghiệp trôi !

Lỗi bởi tâm mình chưa chuyển vật !

Những riêng thương thẹn khó nên lời.

 

 

28.-Ẩn tu nương tựa ánh từ quang

Lần lữa trần tâm lắng nhẹ tan

Năm tháng luyện thuần trâu hoá trắng

Sáo thanh một khúc cỏ hoa nhàn.

 

 

29.-Ẩn tu gió mát toả gương nga

Tĩnh-thất cài then tụng Pháp-Hoa

Bừng sáng thân tâm hoà ánh nguyệt

Tầm Dương bổng dứt hận Tỳ Bà !

 

 

30.-Ẩn tu niệm Phật cảnh sâu huyền !

Trong sáng linh hư hợp Tịnh, Thiền

Không hữu đều tan, Trung đạo dứt

Hoa vàng chợt nở Bảo trì liên !

 

 

31.-Ẩn tu niệm dứt tướng vào ra

Không thấy thân tâm Phật với ta

Thanh thoát rõ rành vang Thánh-hiệu

Trăm hoa đua sắc tiếng Oanh ca.

 

 

32.-Ẩn tu niệm chẳng thánh cùng phàm

Mắt huệ can chi dính mạt vàng ?

Hữu tướng tức đồng Vô tướng niệm

Chân Không huyễn sắc khắp bao hàm.

 

 

33.-Ẩn tu tuy biết ý cao siêu

Mà chẳng thích ưa lý luận nhiều

Căn tánh người nay đà kém loạn

Nói hay làm phỏng được bao nhiêu ?

 

 

34.-Ẩn tu ngại lỗi luận đua tranh

Nói cũng vì người thuyết khác hành

Thái cực ai-phân nhơn-ngã đó

Lạnh lùng huyễn lợi với hư danh !

 

 

35.-Ẩn tu suối bạc ánh màu ngân

Muốn gẫm gần xa chuyện túc nhân

Người cảnh ai bày vui với khổ

Hoa trăng cười cợt ý bâng khuâng.

 

 

36.-Ẩn tu thôi mặc dở hay đời

Chỉ ước lâm chung dự biết thời

Nương nguyện Phổ-Hiền sanh Cực-Lạc

Rồi dong thuyền độ khắp nơi nơi.

 

 

37.-Ẩn tu an phó bịnh suy già

Nhơn thế xưa nay vẫn thế mà

Giữ chắc hồng-danh thuyền tế độ

Muôn trùng bao quản ngọn phong ba !

 

 

38.-Ẩn tu suy gẫm sức hồng danh

Phước huệ tăng-kỳ kết tụ thành

Sáu chữ chí tâm tiêu vạn tội

Một câu chín phẩm thoát siêu sanh.

 

 

39.-Ẩn tu tuy chửa đến Tây Phương

Cành ngọc chim linh ứng mộng thường

Rõ biết tâm lành sanh cảnh tịnh

Quả nhân cảm hiện lẽ chiêu chương.

 

 

40.-Ẩn tu niệm Phật suốt thâu canh

Cam lộ từ răng đượm ngọt thanh !

Khát nước đã nhờ công đức thuỷ

Lam Kiều chi nhọc hỏi Vân Anh ?

 

 

41.-Ẩn tu chợt nhớ Hổ Khê xưa !

Suối bạc non xanh đệ nhứt thừa

Một giống Bạch Liên truyền đất Việt

Hương sen còn đậm hạt thu mưa !

 

 

42.-Ẩn tu riêng mến đạo Đông Lâm

Biển Phật thuyền Sen thật chẳng lầm

Liên lậu trước chùa ghi nhựt khoá

Đến nay còn dậy khúc Thanh âm.

 

 

43.-Ẩn tu trần niệm chẳng còn dư

Kinh điển dường quên, tám vạn tư

Chẳng biết Lư Sơn mày mặt thật

Chỉ nhân mình ở tại non Lư.

 

 

44.-Ẩn tu nghĩ chuộng sắc thanh-duyên

Thanh sắc đâu bằng cõi Bảo Liên

Sắc rực ánh vàng thanh suối ngọc

Tô Đà hương phạn lại tham thiền.

      -Ẩn tu nghĩ kẻ sắc thanh tranh

Thanh sắc đâu bằng cõi Thái Thành

Sắc đẹp ba hai thanh phạm tám

Ăn xong thiền duyệt lại kinh hành.

 

 

45.-Ẩn tu khuyên khách mến giang hồ !

Nên học Liên phương niệm Phật đồ

Về cõi Bảo Hoa đi dạo khắp

Muôn trời tịnh diệu nét Xuân tô !

 

 

46.-Ẩn tu lòng đạo sáng gương rằm

Bạn Cúc quê vàng cảnh vắng tâm

Cây biếc mây hồng che tĩnh xứ

Khói sương vùi dập mấy mươi năm.

 

 

47.-Ẩn tu Lan-Nhã ngắm tư bề

Ríu rít mây chim tiếng gọi về

Dâu biển người đời thương biến đổi

Đâu hay muôn cảnh vốn Bồ đề.

 

 

48.-Ẩn tu nhớ dạy Tịnh Liên Hoa

Trí Giả nguyên là Phật Thích Ca

Lại có Vĩnh Minh cùng Thiện Đạo

Tương truyền thân hóa của Di Đà

 

49.-Ẩn tu thấy nói Tổ bên Thiền

Long Thọ, Mã Minh chứng đạo huyền

Đều tín Liên tông khuyên NIỆM PHẬT

Sao hàng hậu học tạo khinh duyên ?

 

 

50.-Ẩn tu thương nghĩ cánh Nam tông

Tịnh độ cho là pháp viễn vông

Bác phá Đại thừa phi Phật thuyết

Yến Ly đâu biết dấu chim hồng ?

 

 

51.-Ẩn tu ngẫm diệu đạo Liên trì

Căn tiểu thừa nghi chẳng lạ gì ?

Thượng đức năm ngàn Linh Thứu hội

Thành quân bại Bắc rút lui đi.

 

 

52.-Ẩn tu chán kẻ nói loanh quanh

Đem hiệu Di Đà phối ngũ-hành

Bao-tử giả là ao Thất-bảo

Phật lành niệm Phật để làm danh !

 

 

53.-Ẩn tu than kẻ chấp ly kỳ

Không sắc thật quyền chẳng biết chi

Bảo Phật gỗ, đồng không độ lửa

Còn thân Phật đất, nước tan đi.

 

 

54.-Ẩn tu chẳng ngại hung yêu ma

Vì để biệt phân chánh với tà

Chỉ sợ cửa không hàng phá Kiến

Dắt người lầm lạc khó nhìn ra.

 

 

55.-Ẩn tu thời mạt nhớ Kinh ghi

Học đạo muôn ngàn ít ngộ kỳ

Duy niệm Hồng-danh cầu Tịnh-độ

Hiện đời giải thoát rất ly-kỳ.

 

 

56.- Ẩn tu xót kẻ học Như Lai

Thiền, Tịnh, thị phi chấp trước dày

Kiên cố đấu tranh đà hiện rõ

Đạo đời phân hóa cảnh thời nay.

 

 

57.-Ẩn tu ý Tổ cảm thông tri

Bi trí tuỳ cơ độ Mạt-thì

Đâu phải chấp đua như thế tục

Mà riêng khen Tịnh đạo huyền vi.

 

 

58.-Ẩn tu thời mạt nhớ câu than

Đức Tín Tỳ Kheo kém Thiện-nam

Cư-sĩ lại thua hàng tín-nữ

Thiên Như huyền ký để lời vàng.

 

 

59.-Ẩn tu lòng đạo muốn tăng cao

Phải quán tam đồ khổ lớn lao

Phát ý Bồ đề siêng niệm Phật

Bởi cơ nước lửa sắp dâng trào.

 

 

60.-Ẩn tu nhìn khắp cảnh ban mai

Người vật ra đường chim nhảy bay

Tất cả chỉ vì lo vóc huyễn

Nhọc, già, bịnh, chết mấy ai hay?

 

 

61.-Ẩn tu tục lụy thấy muôn mầu

Trong cảnh giàu sang dễ bạc đầu

Việc đắc ý nên dừng nghĩ lại

Kiếp trần tạm gởi được bao lâu.

 

 

62.-Ẩn tu nhìn thế loạn đường tơ

Các nước phân tranh rối cuộc cờ

Đạo-pháp vang hồi chuông cảnh tỉnh

Mộng thành sấm dậy chẳng tan mơ.

 

 

63.-Ẩn tu niệm Phật gọi Liên-hương

Khắp nguyện đồng lên Tuyển-Phật trường

Hoàng Hạc lầu mây lòng chẳng tưởng

Non Tiên ba cõi vẫn vô thường.

 

 

64.-Ẩn tu thường thấy hạng ngu thành

Niệm Phật thiện chung hoặc vãng sanh

Khiến nghĩ làng tu huyền luận giỏi

Bởi đâu khi tịch chẳng an lành?

 

 

65.-Ẩn tu hằng tự nhủ riêng lòng 

Đã biết đường Tây phải gắng công

Bình nhựt là nhân như chẳng thật

Lâm chung quả có nở Sen hồng.

 

 

66.-Ẩn tu quyết chí gạt trần tình

Mặc nỗi khen chê lẫn bất bình

Sức yếu phải cam phần kém yếu

Tình đời ví nhẹ đạo tâm sinh.

 

 

67.-Ẩn tu tưởng đến cảnh Lê-viên

Điệu múa Nghê thường đẹp áo Xiêm

Kim cốc sanh ca dìu dặt trổi

Mà nay suông lạnh ánh thu thiềm !

 

 

68.-Ẩn tu Chiêm-tộc nhớ Mường-Lan

Nữ chúa rừng xanh đẹp khác phàm !

Tướng sĩ trận voi uy-vũ thạnh

Nhạc mờ Phan Thiết núi sương lam !

 

 

69.-Ẩn tu liên tưởng dãy Giang Đông

Xích Bích trống quân dậy lửa hồng !

Tuyệt-đại song kiều, anh kiệt mất

Tài tình mấy đoạn phút hoàn Không.

 

 

70.-Ẩn tu Nguyễn Huệ nhớ Anh-hào

Điệp-điệp quân thanh, chiến cuộc thâu

Trúc kết sang sông mờ bóng cũ

Mây ngàn cỏ nội đỉnh Tây sầu !

 

 

71.-Ẩn tu tìm hỏi truyện Tây Thi

Dư lại hồn mai ánh nguyệt trì !

Hận nỗi ba sinh đâu vắng tá?

Thương tình một mối có ra chi?

 

 

72.-Ẩn tu tích cổ duyệt xa gần

Tan hợp bên trời áng bạch-vân !

Biển nổi dâu chìm duyên cảnh thế,

Bao giờ cảnh Phật tựa lầu ngân.

 

 

73.-Ẩn tu bốn mặt khói sương đầy

Hỏi gạn ai người niệm Phật đây?

Cười mỉm Duy Ma không phúc đáp

Song hồ nửa khép cánh am mây !

 

 

74.-Ẩn tu trì niệm cảnh hồn nhiên

Trong lặng âm-thanh vẫn dịu hiền

Đoan-đích tìm chi tin-tức thật?

Tiếng chuông đêm vắng đến ngư thuyền.

 

 

75.-Ẩn tu niệm Phật nhẹ lâng không

Hồn bướm Trang Chu tỉnh giấc nồng !

Ý vị âm thầm trăng tỏa sáng

Hình dung lóng lánh tuyết ngần trong.

 

 

76.-Ẩn tu đã có luỹ non mây

Cao thấp đồi xa ủng hộ bày

Trước mắt rõ ràng chân cảnh lộ

Màu thu lai láng nét thu gầy.

 

 

77.-Ẩn tu mưa phới khắp ngàn tiêu

Bát ngát lâm tuyền cảnh tịch liêu !

Tiếng gió canh thâu hoà tiếng Phật

Bên thềm hoa rụng ít hay nhiều.

 

 

78.-Ẩn tu ca nhạc có chim rừng !

Bay hót vần quanh tợ đón mừng

Đủ sắc phi-cầm, tranh vẽ đẹp

Điểm-tô cảnh Phật, một màu Xuân.

 

 

79.-Ẩn tu hoa cỏ dáng thờ ơ

Thời mạt nhơn tâm đã khác xưa

Lòng thú hình người, đầy lớp lớp

Cảnh đời gió gió, lại mưa mưa !

 

80.-Ẩn tu kham nhẫn cõi Ta Bà

Nỗi khổ muôn ngàn, khó kể ra

Cực Lạc niềm vui vui bất diệt

Khổ vui đều bởi tự nhân mà !

 

 

81.-Ẩn tu đàn suối cạnh triền non

Tươi tỉnh hoa ngàn tợ phấn son

Sáng lạ vừa tan vầng ráng đỏ.

Đẹp xinh lại hiện bóng trăng tròn !

 

 

82.-Ẩn tu ai bảo chẳng Di Đà

Thiện Đạo quang-minh niệm niệm ra

Khang Tổ mỗi câu sanh hoá PHẬT

Cười hàng ngu chấp cố dèm pha.

 

 

83.-Ẩn tu ai bảo niệm hồng danh

Không có Tây-phương chẳng vãng sanh

Liên hữu xưa nay nhiều hiện ứng

Thánh-Hiền-Lục đã chép ghi rành.

 

 

84.-Ẩn tu chân thật chớ bề ngoài

Tu dáng tu hình lạc-lối sai

Tu tánh tu tâm lên giải thoát

Khuyên làng tu Phật chớ khoe tài.

 

 

85.-Ẩn tu hiếu thuận niệm Di Đà

Siêu độ cửu huyền đến mẹ cha

Hiếu đây mới là chăn thật hiếu

Đời tươi như gấm, đạo như hoa.

 

 

86.-Ẩn tu xót cảnh đạo đời suy

Lý học Đông Tây đã dự tri

Thiên giáo chỉ rành cơ tận thế

Tiên ghi tận diệt đến thời kỳ.

 

 

87.-Ẩn tu lý đạo nói sao cùng !

Nhân-quả nghiêm minh xử lạnh lùng !

Tài, sắc, giàu, sang âu cảnh tạm

Sáng tươi chiều héo đoá Phù Dung.

 

 

88.-Ẩn tu thế chiến biết kỳ ba

Nước lửa sơn lâm khắp hải hà

Mấy cuộc lọc thanh đầy huyết-lệ

Bay hồn thảm khổ, lướt khôn qua

 

 

89.-Ẩn tu bom đạn, rõ điềm hung

Tan-tác thành đô quả đất rung

Đổi cảnh, đổi người, thời tiết đổi

Núi nhô, núi sụp, chuyện khôn cùng.

 

 

90.-Ẩn tu mạt-kiếp thấy lời ghi

Trước mất Lăng Nghiêm pháp diệu kỳ

Lần lượt các kinh đều diệt hết

Duy còn Phật hiệu độ cơ-nguy.

 

 

91.-Ẩn tu khuyên khắp sớm hồi đầu

Lìa khỏi dòng mê, sóng nước sâu

Phước huệ đủ trong câu niệm PHẬT

Tám muôn tư pháp cũng gồm thâu.

 

 

92.-Ẩn tu chầm chậm bóng dương đi

Ngoài cửa hoa nhàn liễu rũ mi

Đại-mộng hỏi ai người sớm tỉnh?

Ngày xuân chưa dễ hẹn tiên-tri !

 

 

93.-Ẩn tu khẩn nguyện khắp nơi-nơi

Niệm PHẬT xứng cơ lại hợp thời

Biển mộng hỏi ai, thuyền lạc bến

Sông mê này chút ánh sen rơi !

 

 

94.-Ẩn tu nghĩ tiếc bậc tài cao !

Biển luỵ trần ai đắm kiệt hào !

Giọt lệ Tần-Đình thương đất nước

Bên song kiếm ẩn thán công hầu !

 

 

95.-Ẩn tu nhìn lắm kẻ chơi vơi

Gào khóc quên tu cũng huyễn thôi !

Niệm PHẬT để cho tròn tánh PHẬT

Kiếp người chẳng uổng được thân người.

 

 

96.-Ẩn tu tâm PHẬT hội Tào Khê

Kiếp ngoại trời xuân sáng bốn bề

Hoa nở sắc hương thành Chủng trí

Gió thông kim cổ đạo Bồ-Bề.

 

 

97.-Ẩn tu giải đạo phải dùng lời

Biển lớp ngôn âm cảnh lẫn người

Tự xét đã riêng không sở đắc

Nói nhiều thêm lỗi vọng mà thôi.

 

 

98.-Ẩn tu phương tiện mượn thi ngâm

Thức ngộ mình người khởi đạo tâm

Đâu nghỉ hoa đào ra động bích

Mà mong Lưu Nguyễn ghé vào thăm?

 

 

99.-Ẩn tu sng chết việc ưu tiên

Kinh cảm luân hồi trải khắp miền !

Sa đoạ ba đường như đại địa

Móng tay cát bụi cõi nhơn thiên !

 

 

100.-Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu

Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu

Thanh tịnh chí thành trong mấy điểm

LỰC, HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN sâu.

 

 

101.-Ẩn tu niệm niệm bút sanh hoa

Thi-tứ nguồn tâm một mạch ra

Danh-tự vị nguyên là Phật-nhãn

Non Tây rực rỡ dệt hồng hà.

 

 

102.-Ẩn tu trắc trắc, lại bình bình

Niệm đạt vô-tình lẫn hữu tình

Lầu tuyết rã tan ngàn thế giới

Chân trời pháp nhãn lộ bình-minh.

 

 

103.-Ẩn tu niệm vỡ chụp pha-lê

Muôn ổn ngàn yên lặng khắp bề !

Riêng một bóng Tăng ngồi tĩnh-tọa

Lâm-viên vừa bặt tiếng sơn khê.

 

 

104.-Ẩn tu sừng-sửng cội cây khô

Một ngón Thiên Long, dứt ý-đồ

Phật tử đến thăm như hỏi đạo

A Di Đà Phật lại NAM MÔ.

 

105.-Ẩn tu nhơn cảnh chợt đều quên

Sáng-rỡ vầng-nga rọi trước thềm

Mùi đạo Lan-thanh riêng tự biết

Kêu mưa đã vắng giọng cưu đêm.

 

 

106.-Ẩn tu suối lặng bóng chim qua

Chim nước đều như tự tại hoà

Di Lặc trao cho xem túi vải

Dưới trên đều rỗng, giọng kha kha !!!

 

 

107.-Ẩn tu bên viện tiếng chuông dồn!

Sấm nổ Oai âm tỉnh mộng hồn

Chồn nhảy vào hang Sư tử chúa

Sư-Vương lại dạo dã hồ thôn.

 

 

108.-Ẩn tu trì niệm tháng năm qua

Đạp lối Sen thanh trở lại NHÀ

Tin-tức ngày nay vừa thấy được

Tiếng chuông Sơn tự bóng trăng tà !


 

Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng

TRÚC LIÊN BỔN THẤT

CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ

Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng







Comments

Popular posts from this blog