MỤC LỤC
1.- Ẩn tu nào phải cố xa đời !
6.- Ẩn tu bền chí giữ công phu
11.- Ẩn tu cửa đạo trải bao năm
16.- Ẩn tu nghĩ muốn thoát dòng mê !
21.-Ẩn tu Không có, Có mà Không !
26.-Ẩn tu được biết kiếp lâu xa
31.-Ẩn tu niệm dứt tướng vào ra
41.-Ẩn tu chợt nhớ Hổ Khê xưa !
46.-Ẩn tu lòng đạo sáng gương rằm
51.-Ẩn tu ngẫm diệu đạo Liên trì
61.-Ẩn tu tục lụy thấy muôn mầu
66.-Ẩn tu quyết chí gạt trần tình
71.-Ẩn tu tìm hỏi truyện Tây Thi
81.-Ẩn tu đàn suối cạnh triền non
86.-Ẩn tu xót cảnh đạo đời suy
91.-Ẩn tu khuyên khắp sớm hồi đầu
96.-Ẩn tu tâm PHẬT hội Tào Khê
TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,
GIÓ LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.
Nương mình tựa án xem NGƯỜI CỔ,
ẨN BÓNG trong gương ngẫm chuyện đời.
ẨN TU NGẪU VỊNH
Vào đêm RẰM, ngày 15/5/1989 Âm lịch (nhằm ngày KỶ DẬU, tháng CANH NGỌ, năm KỶ TỴ), sau thời khóa, HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM bỗng ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là ẨN TU NGẪU VỊNH.
HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Kính thưa Quý-vị !
Cách đây ít lâu, một hôm tôi sang vấn an sức khỏe thầy tôi bảo, đêm RẰM vừa rồi sau thời khóa, THẦY bỗng ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là ẨN TU.
Sau đó, thầy có chỉnh đốn lại đôi chút, nay nhân tiện đọc cho con nghe. Sau khi nghe xong, tôi xin phép ghi lại và muốn chuyển đọc cho các phật tử đến thăm nghe biết.
Thầy dạy: “ Điều ấy không nên vì người tu trong một lúc nào đó Tâm Thanh tịnh, bỗng nảy ra nhiều ý kiến cao siêu mới lạ nhưng phải liền gạt bỏ qua, nếu cứ ghi nhớ ý kiến hay ấy, tất Thành ra SỞ TRI CHƯỚNG, bởi Chân-Tâm là thể VÔ TRI LINH TRI, tuy không biết mà biết tất cả hoặc ngay khi trong lúc tâm thanh tịnh đó, hành giả có thể viết ra cả ngàn bài tụng một cách dễ dàng, song nếu chấp lấy danh từ cứ ưa viết mãi trong TÔNG MÔN gọi là thiền bịnh, giả lại cảnh giới người tu chỉ có người tu mới thấu đáo.”
Nên Thiền Quyển có câu:
“Gặp hàng kiếm khách nên trình kiếm,
chẳng phải thi nhân chứ nói thi.”
Nếu con đọc ra, sợ e kẻ nói một đằng người nghĩ một nẻo, rồi thành ra việc thị phi mà thôi. Tôi thưa, con thấy trong QUY NGUYÊN TRỰC CHỈ ngài TÔNG BẢN khi ẩn trong núi có vịnh 100 bài thi gọi là “SƠN CƯ BÁCH VỊNH” việc ấy như thế nào?”
Thầy tôi đáp: So sánh sao được với TÔNG BẢN ĐẠI SƯ, ngài là một bậc đại ngộ đã vượt con đường muôn dặm về đến quê nhà, còn thầy thì chỉ mới tập tễnh đi một vài bước. Ngài ví như người sáng mắt thấy toàn thể con HƯƠNG TƯỢNG, còn thầy ví như người mù rờ VOI, nói ra dẽ lạc lầm.
Câu chuyện đến đó rồi cũng tạm trôi qua, tuy nhiên có 5 , 3 PHẬT TỬ đến viếng thăm Than Thở Đã lâu lắm rồi không gặp mặt HÒA THƯỢNG, lại không nghe được lời nhắc nhở, trong tình thế đáng thương ấy, tôi có lén thầy trích đọc ra một vài đoạn, để an ủi họ.
Nay gần tới ngày CHUNG THẤT của THÂN MẪU bổn sư, tôi lại cố gắng một lần thứ ba xin thưa thêm. Bạch thầy: Thầy nói cuộc đời của thầy là ẨN TU, ít hôm nữa là đến ngày chung thất cũng là ngày cuối cùng làm LỄ TRUY TIẾN bà về cõi Phật, con xin phép đọc mấy bài hôm trước cũng như thay lời tâm sự để GIÁC LINH bà thông cảm cảnh đời ẨN TU của thầy.
Thầy im lặng ý không muốn chấp nhận, nhưng cũng không nỡ Phủ Nhận lời xin của hàng đệ tử đã vì thân mẫu mình.
Tôi nghĩ thầy im lặng tức là tùy ý tùy duyên, nên hôm nay là cơ cảm để thầy có dịp tâm sự với Mẫu-Thân một lần sau rốt. Và đây xin đọc bài thứ nhất.
Tỳ-kheo-ni thích nữ PHƯƠNG LIÊN
1.- Ẩn tu nào phải cố xa đời !
Mượn cảnh u-nhàn học đạo thôi !
Những thẹn riêng mình nhiều nghiệp chướng
Bốn ân còn nặng nghĩa đền bồi.
NHƯ Ý : THẬT HIỀN đại-sư than, “ÁO NÃO TỪ THÂN ĐA NGHIỆP CHƯỚNG.” Dịch, Buồn thương thân mình nhiều nghiệp chướng, đại-sư còn tự trách thế, hàng hậu học cũng nên tự kiểm lại.
4 TRỌNG ÂN
1) Ân Phật tổ
2) Ân Thầy bạn, Thiện tri thức
3) Ơn cha mẹ dưỡng dục Sanh Thành
4) Ân đàn-việt và chúng sanh hỗ trợ
2.- Ẩn tu cảm xót biển trần-ai !
Sóng gió trầm luân mãi lạc loài
Thân khổ kiếp người muôn nỗi khổ !
Nghiệp đời vay trả, trả rồi vay !
NHƯ Ý: TAM KHỔ
1) Hành-khổ là sự vô thường biến đổi làm cho chúng ta GIÀ, rồi CHẾT xoay vần trong vòng luân hồi sanh tử
2) Hoại-khổ là có được rồi BỊ MẤT nên buồn khổ
3) Khổ-khổ là đã không có NHÀ ở, lại không có CƠM ăn…
Ba điều khổ này bao gồm muôn nỗi khổ, nên cổ đức than: “TÚC TRÁI DỊ HOÀN CẢNH TẠO TÂN TRÁI”. Dịch, Nợ cũ trải chưa xong lại vay thêm nợ mới. Chúng sanh vì thế mà cứ sống chết luân hồi.
3.- Ẩn tu hôm sớm niệm Di Đà
Lòng lặng mười muôn chẳng cách xa
Canh vắng giường thiền khi mãn định
Hoa sương cười nụ dưới trăng tà.
NHƯ Ý : Ý nghĩa “TỨC TÂM TỨC ĐỘ”, 10 phương quốc độ không ngoài TÂM TA, tâm ta chính là 10 phương quốc độ, cõi CỰC LẠC tuy cách TA BÀ 10 muôn ức Phật độ, nhưng khi niệm phật được THANH TỊNH thì tâm ta dung hòa Mười Phương cõi nước. Miền cực lạc chẳng cách rời gang tấc.
4.- Ẩn tu uổng tiếc bạn đồng hành !
Nói lý cao huyền đắm lợi danh !
Già, bịnh, đoạ sa, không phản tỉnh
Bóng câu mấy nỗi thoáng bên mành !
NHƯ Ý : Đây là căn bệnh chung của phần đông người tu, vì LÝ đạo tuy thế nhưng sự hành đạo và chứng đạo lại không phải dễ, bậc chân tu dù hiểu lý như KIÊM NHƯỜNG ít nói, thật hành chắc từng bước một, trái lại kẻ nói lý cao xa, dễ KHOE KHOANG và BÀI BÁC người khác, lời CHÂN KHÔNG mà hạnh chẳng được không, tất phạm khẩu nghiệp dễ bị sa đọa, nên cổ đức đã than trách rằng: “KHẨU ĐẦU THUYẾT ĐÁP THIÊN BANG DIỆU, KHƯỚC HẠ NAN LY NHẤT ĐIỂM TRẦN”. Dịch, Đầu mồm nói suốt trăm phần diệu. Dưới gót không ly một điểm trần!
5.- Ẩn tu cõi tịnh nhẹ buông hồn !
Tưởng quán trời Tây nhớ Bảo-thôn
Ráng đỏ sắp đưa, vầng Nhật-lặn
Phất phơ tà áo gió hoàng hôn.
NHƯ Ý : Đây là chỉ cho PHÉP NHẬT QUÁN, môn quán ban đầu trong THẬP LỤC QUÁN KINH, Bảo-thôn là làng quê thanh tịnh báo đẹp, Ý nói CỰC LẠC do trăm ngàn THỨ BÁO hình thành.
6.- Ẩn tu bền chí giữ công phu
Ba cõi không an lửa ngục tù !
Ngũ-dục, Hoàng-lương say gối mộng
Kiếp người dường một thoáng phù du !
NHƯ Ý : KINH PHÁP HOA nói : “ TAM GIỚI VÔ AN, DO NHƯ HỎA TRẠCH”. Dịch, ba cõi không an dường như nhà lửa.
NHÀ LỬA có nghĩa là ngoài lửa ĐỊA NGỤC còn có lửa THAM, SÂN, SI và tất cả PHIỀN NÃO, lúc nào cũng thiêu đốt THÂN TÂM của chúng sanh.
NGỤC TÙ chỉ cho sự luân hồi không ra khỏi TAM GIỚI.
NGŨ DỤC là 5 điều dục nhiễm lớn của chúng sanh, gồm TÀI, SẮC, DANH, THỰC, THÙY. (Tiền-tài, Sắc-đẹp, Danh-vọng, Ăn-uống, Ngủ-nghỉ)
HOÀNG LƯƠNG, một thư sinh thi rớt về nằm ngủ trong quán, mộng thấy mình đậu TRẠNG NGUYÊN cưới công nương, làm đến TỂ TƯỚNG hưởng NGŨ DỤC, đầy đủ phú quý vinh hoa.
Về sau bị vua PHÁN phải lâm nạn mất chức, TÙ ĐÀY. Thương khóc Giật mình tỉnh dậy thì chủ quán nấu nồi KÊ VÀNG là hạt bo bo vừa chín tới.
Tóm lại, vì tham ngũ dục mà nhân sanh mê trong GIẤC MỘNG ĐỜI, không biết thức tỉnh tu hành.
7.- Ẩn tu riêng chạnh nỗi riêng mình
Túc trái gây nên, mối bất-bình
Tích phước tu-hành rồi tạo nghiệp
Cánh bèo trôi giạt biển phù sinh.
NHƯ Ý : Chư THIỀN ĐỨC của Trung Hoa và Nhật Bản đều nói, các bậc chư hầu khanh Tướng, Anh Tuấn Tài Năng hầu hết là từ cửa TAM BẢO mà thác Sanh, bởi tu hành Tất có PHƯỚC HUỆ hưởng quả quyền quý cao sang, trong hoàn cảnh đó dễ đam mê tạo nghiệp, gây mối oan trái bất bình, rồi bị Luân Hồi khổ lụy, nên nếu không được GIẢI THOÁT thì sự tu của ĐỜI NÀY là mối thù của KIẾP THỨ 3.
8.- Ẩn tu tưởng lại quả đời nay
Bao lớp gian truân nỗi đoạ đày !
An nhẫn trả xong tròn nghiệp trước
Dấu hồng chuyện cũ tuyết mờ bay !
NHƯ Ý : Lấy ý “TUYẾT NÊ HỒNG CHẢO”, Chim hồng đậu trên lớp bột Tuyết, khi bay đi để dấu chân móng lại, rồi lớp tuyết khác bay rơi xuống làm cho dấu chân mờ, kế bị lấp mất đi, chuyện dĩ vãng cũng thế, lần lần cũng phai mờ rồi mất theo thời gian, người tu Phật muốn quên việc đã qua vì KINH KIM CANG nói:
“Quá-khứ TÂM Bất-khả-đắc, Hiện-tại TÂM Bất-khả-đắc, Vị-lai TÂM Bất-khả-đắc.”
Bởi tâm của chúng sanh mỗi niệm SANH DIỆT không thật, nên chẳng thể tìm nắm giữ chắc được. (ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SANH KỲ TÂM)
Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, trước đây tôi thấy Phật cùng chuyển pháp-luân với 4 vị đại-đệ-tử là Đại-mục-liên, Tu-bồ-đề, Phú-lâu-na, Xá-lỵ-phất, Phật thường dạy : Cái tính của tâm hay-biết cũng chẳng ở trong, cũng chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở chặng giữa, chẳng ở chỗ nào cả, không dính-dáng vào đâu tất-cả thì gọi là tâm. Vậy tôi lấy cái không dính-dáng của tôi mà gọi là tâm, có được chăng?".
Phật bảo ông A-nan: "Ông nói tính của tâm hay-biết, không ở đâu cả. Vậy các vật-tượng thế-gian như hư-không và các loài thủy, lục, không, hành, gọi là tất-cả sự-vật mà ông không dính-dáng vào, là có hay là không có? Không, thì đồng như lông rùa, sừng thỏ, còn gì mà không dính-dáng? Đã có cái không dính-dáng thì không thể gọi là không. Không có tướng thì là không, không phải không thì có tướng; có tướng thì có chỗ ở, làm sao lại không dính-dáng được. Vậy nên biết rằng ông nói cái không dính-dáng vào đâu tất-cả gọi là tâm hay-biết, thật không có lẽ nào như vậy".
Nếu ông quyết-chấp cái tính hay-biết suy-xét phân-biệt là tâm của ông thì cái tâm ấy phải rời sự-nghiệp các trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, riêng có toàn-tính; chứ như hiện nay ông vâng nghe pháp-âm của tôi, đó là nhân cái tiếng mà có phân-biệt: dầu cho diệt hết tất-cả cái thấy, nghe, hay, biết, bên trong nắm-giữ cái u-nhàn, không biết, không nghĩ thì đó cũng còn là sự phân-biệt bóng-dáng pháp-trần mà thôi.
Chẳng phải tôi bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm, nhưng ông phải, chính nơi tâm ông, suy-xét chín-chắn, nếu rời tiền-trần có tính phân-biệt, thì đó mới thật là tâm của ông. Nếu tính phân-biệt, rời tiền-trần, không còn tự-thể thì nó chỉ là sự phân-biệt bóng-dáng tiền-trần. Tiền-trần không phải thường-trụ, khi thay đổi diệt mất rồi, thì cái tâm nương vào tiền-trần ấy cũng đồng như lông rùa sừng thỏ và pháp-thân của ông cũng thành như đoạn-diệt, còn gì mà tu-chứng vô-sinh-pháp-nhẫn”.
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
| Nhứt cú Di Ðà Tánh bản tự không Tinh giai củng Bắc Thủy tận triều Ðông. | Một câu A Di Ðà Tánh thể vốn tự không Các sao chầu Bắc Ðẩu Muôn nước chảy về Ðông. |
Một tín nữ đến thuật lại với bút giả: "Có vị sư-cô bảo con bỏ hết đừng nên niệm Phật nữa, hãy để lòng yên lặng cho tâm không, cảnh không, mới mau ngộ đạo!". Bút giả nói: "Các pháp đều như huyễn, câu niệm Phật cũng như huyễn, tự thể của nó đã là không rồi, cần gì phải bỏ? Nếu muốn chứng được tâm không, cảnh không, mà còn ngại câu niệm Phật, còn bác bỏ sự tướng, thì đó chính là Thiên Không hay Ngoan Không (cái không thiên lệch, trống rỗng, cứng chắc) của ngoại đạo, chớ chẳng phải ý nghĩa Chân Không của Phật pháp. Ý nghĩa chân không chân chánh của đạo Phật ở ngay nơi tất cả cái có thuộc mọi sự tướng, mà không chấp thấy là có (Chân không bất không, diệu hữu phi hữu). Chẳng phải riêng sư cô ấy lạc lầm, trong hiện tại có rất nhiều vị tu học Phật pháp đã sa vào hầm hố đó. Thật là điều không may và đáng thương cảm!" Nay nhân tiện xin tạm mượn sự việc trên để giải thích về ý nghĩa "tự không" của câu niệm Phật.
Theo quan niệm địa dư xưa, người Trung Hoa cho rằng vùng đất của loài người ở là một châu lớn, chỗ họ cư trú thuộc Trung Quốc. Phía Ðông của châu ấy là biển cả, muôn dòng nước ở lục địa đều chảy ra đó. Người Việt Nam hấp thụ văn hóa Trung Hoa, cũng đồng với quan điểm ấy. Bởi thế cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm mới có câu: "Hồng nhật Ðông thăng tri đại hải. Bạch vân Tây vọng thị thần châu". Và theo thiên văn học xưa, người Trung Hoa bảo rằng các vì sao đều chầu hướng về ngôi Bắc Ðẩu. Ðể dẫn giải cho Phật pháp, Triệt Ngộ đại sư cũng phương tiện mượn quan niệm thế gian ấy mà làm thí dụ. Bởi tất cả pháp đều từ nơi biển Chân Không lưu xuất và đều tan về Chân Không. Bên tông Tịnh Ðộ gọi thể Chân Không đó là Tự Tánh Di Ðà.
Bài kệ trên đại ý: Câu niệm Phật tánh vốn TỰ KHÔNG, KHI HÀNH GIẢ TỪ KHỞI ĐIỂM NÀY tu tiến chứng thể tánh ấy một cách viên mãn, sẽ thức ngộ muôn pháp từ nơi đó mà lưu xuất, lại cũng qui nhập về nơi đó. Như sao Bắc Ðẩu làm chủ muôn sao, muôn sao chầu về Bắc Ðẩu, biển Ðông dâng nước vào các sông ngòi, nước sông ngòi đều đổ về biển Ðông vậy.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
9.- Ẩn tu nhớ đến đức sanh thành
Lắm lúc vì con chẳng tạo lành
Con lớn Mẹ Cha oằn gánh nghiệp
Bảo châu đền đáp cũng mong manh !
NHƯ Ý : Vì thương lo cho con, mà lắm khi CHA MẸ sát sanh gian dối, Tạo nhiều nghiệp ác.
TỬ LÂN pháp sư thở bé vì đầu thường Sinh rẻ, nên bà MẸ thường hay lấy chồng trắng trứng gà hòa với thuốc thoa để chữa trị, sau ngày xuất gia thành bậc cao tăng, được Đông Nhạc thánh đế cho biết vì lý do đó mà mẫu thân của ngài bị đọa HỎA ngục, pháp sư phải lễ tháp XÁ LỢI của Phật ở chùa A DỤC VƯƠNG đến HÀNG muôn lạy để sám hối, mới độ thoát được mẹ sanh lên CÕI TRỜI, trong trường hợp đó đâu thể đem TỨ-SỰ cúng dường hay BẢO CHÂU mà cứu rỗi đền đáp được.
10.- Ẩn tu nguyện trả nghĩa song đường
Hồi hướng công phu mỗi khoá thường
Lại khuyến nghiêm-từ tâm đạo phát
Nương thuyền Phật huệ đến Tây-phương.
NHƯ Ý : NGHIÊM TỪ là Nghiêm-phụ Từ-mẫu, LIÊN TRÌ đại sư bảo, ân nặng như non (Ngũ-Đảnh Tam-Sanh) chẳng đủ đền, Cha mẹ lìa Trần cấu, đạo con mấy thành tựu.
11.- Ẩn tu cửa đạo trải bao năm
Kinh nghiệm nhiều phen vẫn lạc lầm
Quen lắm lại càng thêm việc lắm
Cung đàn Hạ-Lý, mấy tri âm ?
NHƯ Ý : Lời xưa nói: “Khúc CAO họa quả, có nghĩa khúc ĐIỆU càng cao thì người Họa ÂM càng ít.”
Điệu DƯƠNG XƯNG BẠCH TUYẾT, vì âm vận ôn hòa hớn hở, nên dễ họa, khúc HẠ LÝ BA NHƠN bởi âm giai dìu dặt thăng trầm, nên rất khó họa ĐÀN; bậc chân tu vì THUẬN theo giải thoát, TRÁI với nhân tình, nên dễ bị người hiểu lầm chê trách.
12.- Ẩn tu ngùi ngậm bạn chung sơ
Nối gót ra đi chẳng hẹn chờ
Ngàn dặm cố nhân hồn lẫn vẫn
Mười năm việc cũ nửa phai mờ !
NHƯ Ý : Chung-Sơ cũng gọi là Chung thủy hay Sơ chung, chỉ cho bà ân hậu có trước có sau, cụ Phan SÀO NAM (BỘI CHÂU) trong điếu văn cho bạn là Nguyễn Thuận Hiền có câu: “Trăng tây hồ lai láng nét sơ chung”.
Một danh tăng khi bạn viên tịch có câu đối đầy Thái cảm, xin ghi ra đây để kỷ niệm cho nét sơ Chung ấy, “Bất huệ nhân dĩ đắc xả thân tiên, tri kỷ lễ thành Hồng Hạnh võ, đại khai sĩ Hữu duyên Quy Phật bảo, Cố Nhân Mộng đoạn bích đào Nguyên.”
13.- Ẩn tu ưu cảm bởi nhơn tình
Điên đảo luân thường lại sát sinh
Khiến lắm tai trời thêm ách nước
Vầng hồng xế bóng sắp tây khuynh.
NHƯ Ý: Bởi Nhân Sanh cư xử trái với LUÂN THƯỜNG đạo đức, lại tạo nhiều SÁT NGHIỆP, nên khắp thế giới xảy ra những tai ách, chiến tranh, bão lụt, hạn hán, động đất, sâu rầy, mất mùa, thời tiết bất hòa, dịch Bịnh lan tràng khắp nơi, căn cứ theo luật NHÂN QUẢ, thì năm châu sẽ đi dần đến cảnh đại nạn, như là mặt trời xế về Tây sắp lặn, màn đêm sẽ dần buông xuống, người hiểu đạo thấy thế làm thương lo.
14.- Ẩn tu xét thấy chốn Tăng-Già
Ganh-hại thị-phi lắm bất hoà !
Danh vị, chùa chiền tranh đệ tử
Ưu Đàm, Lan Huệ héo mầm hoa.
NHƯ Ý : TĂNG GIÀ nói cho đủ là Tăng-già-lam, dịch là Tịnh-chúng-viên, chỗ ở của hàng XUẤT GIA, như trên vừa nói ngoài đời đã thế, trong đạo cũng do CHẤP ngã nặng, nên nghiệp THAM, SÂN, SI, tật đố lẫy lừng, trong CÁC tông giáo đều có cảnh chia rẻ, ranh ghét, tranh đua, cho đến giết hại lẫn nhau, khiến cho HOA Ưu-Đàm, Lan-Huệ phải kéo, MẦM đạo phải khô.
15.- Ẩn tu rõ biết chuyển cơ trời !
Nhân-quả lọc thanh đạo với đời !
Tai biến dập dồn trăm cảnh chết
Núi xương sông máu, thảm đầy vơi !
NHƯ Ý : Đạo Phật căn cứ theo thuyết NHÂN-QUẢ, mà luận việc Hưng suy, còn chư THIÊN và các vị THẦN tiên, vì nắm quyền chưởng QUẢN hạ giới, nên cũng y theo Nhân-quả mà âm thầm sắp đặt sửa trị, đó gọi là thiên CƠ hay là VẬN số, cuộc thanh lọc sắp đặt, hiện đã an bài.
16.- Ẩn tu nghĩ muốn thoát dòng mê !
Vững lái phong ba lúc nặng nề
Niệm Phật, niệm Tâm, tâm niệm Phật
Mây tan thấy rõ lối đi về.
NHƯ Ý: Phật Tức TÂM, nên niệm PHẬT tức là niệm CHƠN Tâm, dùng chơn tâm THANH tịnh, niệm hồng danh A DI ĐÀ, để chứng TỰ tánh Phật, SANH về cõi Phật gọi là TÂM NIỆM PHẬT.
Khi niệm cùng cực, trần tình không, khế hợp với tự tánh DI ĐÀ, thì nghĩa mầu của THIỀN và GIÁO điều hiện bài. Sanh về Cực-lạc mà không thấy có TƯỚNG vãng sanh nên gọi SANH tức VÔ sanh, tuy Vô-sanh song chẳng ngại gì có tướng PHẬT tiếp dẫn, ngồi trên đài vàng SANH về Cực-lạc, nên gọi Vô-sanh tức Sanh, đường lối đi về đã thấy rõ.
17.- Ẩn tu Tín, Nguyện Niệm hồng danh
Thời mạt chướng sâu đạo khó thành
Chờ đến Liên-bang lên pháp-nhẫn
Đem thuyền Bát Nhã độ quần sanh.
NHƯ Ý: PHÁP NHẪN nói cho đủ là Vô-sanh Pháp-nhẫn, NHẪN có nghĩa
An-trụ, Vô-sanh Pháp-nhẫn là An trụ nơi Pháp Vô-sanh, cũng có thể giải là trụ nơi CHÂN THỂ không còn chấp thấy CÓ Chúng sanh và CÁC Pháp.
BÁT NHÃ tức Trí-huệ, dùng Trí-huệ tùy cơ tùy thời, đem vô số PHƯƠNG TIỆN để cứu độ chúng sanh.
18.- Ẩn tu Hoa Tạng mến môn huyền
Muốn kết Dao-đài hội Thắng Liên
Theo bước Đàm-Loan chơi bảo-các
Bích Câu lạc dấu, Giáng-Kiều tiên.
NHƯ Ý : Trong CÕI Hoa Tạng có 10 THẾ GIỚI chủng, mỗi thế giới chủng gồm 20 tầng lớp, hàm chứa hàng hà sa vô biên cõi Phật, nghĩa mầu về THẬP QUYỀN MÔN của Hoa Tạng giới, muốn thấu hiểu phải duyệt KINH HOA NGHIÊM. Các liên hữu tùy theo công đức sẽ được ngồi lên LIÊN đài, KIM đài cho đến GIAO đài là đài bằng Ngọc-Giao, dự hội thắng liên nơi bảo trì cõi cực lạc. Tuy nói ao báu, nhưng cõi BẢO TRÌ này còn rộng lớn hơn cả đại dương ở cõi Ta-bà .
Đàm Loan pháp sư trước học Đạo nơi đào Nguyên Minh, trên đường về ngài gặp bồ đề Lưu-Chi Tam Tạng, liền đốt 10 quyển TIÊN kinh, tu theo THẬP LỤC QUÁN KINH, được sang về hư không BẢO CÁT ở cõi cực lạc, Tú-Quyên ở thôn bích câu vì có tiền duyên, nên được kết đôi với nàng Dáng Kiều và được nàng dẫn độ cho tu hành trở về TIÊN GIỚI, theo ĐÀM LOAN tức là lạc dấu Dáng Kiều rồi.
19.- Ẩn tu tế độ chẳng quên lòng !
Bi, Trí đôi đường phải suốt thông
Y sĩ nhân tâm dù đã sẳn
Còn rành nhân thuật mới thành công !
NHƯ Ý : Muốn thực hiện lòng nhân ái, tất phải có trước nhân ái HOÀN BỊ, ví như Y BÁC SĨ tuy có tâm cứu đời, nhưng về Y THUẬT phải rành rẽ chắc chắn, mới khỏi lầm lẫn làm CHẾT người, trái với LÒNG NHÂN của mình.
Người tu PHẬT cũng thế, muốn thực hiện TỪ BI, phải có đủ TRÍ HUỆ (PHƯƠNG TIỆN TÙY CƠ), muốn cứu độ chúng sanh trước phải CHỨNG Vô-sanh.
20.- Ẩn tu chi quản nệ công-lao
Mà chẳng tuyên dương tiếng Hải-trào
Sông lớn khơi nguồn từ núi thẳm
Xuống trần càng đục biết làm sao ?
NHƯ Ý : Con SÔNG rộng dài càng chảy xuống thấp, lại càng bị các con sông RẠCH nhỏ khác, đổ dồn lại làm cho nó vẩn đục, lớp người sau sau đạo Đức càng kém người trước trước, trong thời mạc hậu các bậc thánh hiền đều ẨN TÍCH, chỉ độ những kẻ hữu duyên, điều này đức PHẬT đã nói trong KINH mà hàng TU SĨ cũng phải ý thức mới khỏi bị MA nạn.
21.-Ẩn tu Không có, Có mà Không !
Phương tiện, từ bi khó biết lòng !
Ngôn thuyết hãy còn Thân thuyết-pháp
Sấm mưa ẩn hiện bóng Thần Long.
NHƯ Ý : Kẻ ẨN TU tuy thấy dường như Tự-lợi, không giáo hóa độ ai, nhưng thực ra trong hành động, chính là đã DÙNG THÂN MÀ NÓI PHÁP rồi, Có không Không có chỉ nói riêng về ý này.
22.-Ẩn tu mây trắng nhẹ phiêu diêu
Uốn khúc Sông-in giãi lụa chiều
Thanh thoát gió chim reo nhạc Phật
Lầu-Tần không lại lắng hơi tiêu.
NHƯ Ý : Một TRI thức về Tịnh-độ đã bảo, muốn tăng cường NGUYỆN LỰC vãng sanh nên dùng phép GIẢ tưởng QUÁN : QUÁN nhà cửa cây cối là LÂU ĐÀI BẢO THỌ, tiếng chim hót lá reo là NHẠC TÂY PHƯƠNG.
Con gái TẦN MỤC CÔNG là LỘNG NGỌC Công Chúa. Một đêm ngồi thổi ống SINH trên lầu, chợt nghe tiếng kêu họa lại, kế đó thấy chàng TRAI đẹp cởi RỒNG bay xuống bảo:
Ta là TIÊU SỬ vâng lịnh NGỌC ĐẾ, xuống chỉnh đốn lại sử liệu nhà châu , nay công việc đã xong vì có tiền duyên với nàng, nên xuống đây hẹn sẽ đồng về cảnh cũ, sau hai người kết duyên, vào một đêm trăng sáng, chàng cởi RỒNG, nàng cởi PHƯỢNG, họa SINH TIÊU cùng bay lên mây, từ đó về sau cũng đúng vào đêm ấy, TẦN MỤC CÔNG ngồi vuốt chòm râu bạc, ngẫn Nhìn lên trời lắng chờ nghe tiếng SINH TIÊU VỌNG LẠI.
23.-Ẩn tu an tĩnh chốn cao nguyên
Hoa cảnh lòng trăng đẹp dịu hiền
Mây núi điệp trùng đêm tịch tịch
Câu Kinh tiếng Phật lại triền miên !
NHƯ Ý : Cùng trong một CẢNH mà sự NGỘ NHẬP của mỗi người đều có khác nhau. Khi xưa cùng vào một đêm trăng sáng diệu, ĐỨC MÃ TỔ hỏi 3 đồ đệ rằng: Lúc này nên thế nào?
TRÍ TẠNG thiền sư Đáp: Nên dùng Hương nến hoa quả lễ Bái cúng dường, Ngài BÁ TRƯỢNG hoài hải Đáp: Chính là lúc nên lặng lẽ tu hành, Ngài NAM TUYỀN phổ nguyện không Đáp : Chỉ phất Tay Áo quây mình bước đi. Đức Mã Tổ phê KINH thuộc Trí Tạng, THIỀN về hoài Hải, duy có phổ nguyện, TIÊU DAO VẬT NGOẠI.
Về sau có một vị TÔN ĐỨC lại phê, sự cảnh chưa biết ai hơn vì còn thuộc nơi TÂM CẢNH CẠNG SÂU RỘNG HẸP.
24.-Ẩn tu tịnh thấy cảnh am mây
Thanh tuấn thiền sư dáng huệ gầy
Kiếp trước Đạo Dung là tớ đó
Mà nàng Thiên Thụy hỏi ai đây ?
Ẩn tu dũng-tướng nhớ thời xa
Hoàng-tộc triều Lê điện Thái-Hoà
Vì Trịnh–Tú–Loan duyên trái khiến
Nửa chừng xuân gảy gánh tài hoa !
NHƯ Ý : ĐẠO DUNG thiền sư là một vị cao tăng đời nhà LÝ, đến đời TRẦN vì kiêng tên quý của Trần Hưng-Đạo, người chép THIỀN quyển đổi lại là PHÁP DUNG.
Thiên-thụy Công-chúa là một tính nữ hộ pháp thường cúng dường Đạo-Dung Thiền-sư và sửa sang lại các ngôi tự viện, truyện THẬT chưa biết ra sao cứ hiểu một cách trừu tượng, như hai câu thơ của Tô Đông-Pha: “ TIỀN KIẾP ĐỨC VÂN KIM NGÃ THỊ, Y HY DO KÝ DIỆU CAO ĐÀI.” Dịch, Kiếp trước Đức-vân nay chính Tớ, mơ hồ Còn Nhớ Diệu Cao Đài.
Cổ đức đã than: "Bể nghiệp mênh mang, khó đoạn không chi hơn ái dục. Cõi trần man mác, dễ phạm duy chỉ có sát sanh!"
Về sự luân-hồi, duy có hai nghiệp Ái-dục và Sát-sanh là nặng nhất. Do Sát-sanh mới thành cảnh oan cừu hờn giận, chém giết lẫn nhau. Do Ái-dục mới thành mối ân tình của vợ chồng quyến thuộc. Sát-sanh phần lớn là do vì tham món ăn ngon. Ái-dục lại bởi say đắm việc tình nhiễm giữa nam nữ.
Nhưng so lại trong các thứ nhiễm lạc đời, thì nghiệp Ái-dục sâu nặng và mạnh mẽ hơn cả. Từ xưa đến nay, biết bao bậc vương hầu khanh tướng, vì thanh sắc mà mất nước, lụy thân.
Cho đến Đức Phật cũng công nhận, nếu có cái thứ hai mạnh như Ái-dục, thì đệ-tử của Ngài cũng không phương giải thoát. Lấy một việc để nêu gương: như Ðường-Minh-Hoàng nếu không say đắm trong vòng thanh sắc, thì cũng có thể thành anh quân, đâu để An-Lộc-Sơn gây thành cảnh đào vong bỏ nước.
Và nếu Ðường-Vương có duyên với Phật-pháp, xét biết ba ngàn thế-giới, sắc tức là không, thì chi đến nỗi: Xiêm nghê tiếng ngọc, hồn tiêu Kim cốc vườn xuân. Trăng khuyết hoa tàn, lòng nát Mã ngôi trạm lạnh!
Thế nên, trong việc nhân-quả luân-hồi, hai nghiệp dâm, sát, chẳng những người tu tại-gia, mà bậc xuất-gia cũng đều phải tự kiểm soát lấy lòng, và hết sức tránh duyên, dè dặt!
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
25.-Ẩn tu lại thấy ở am mây
Lâu trượng Tay cầm kiếm qủy thần
Mật phái Lạt-ma y mão lạ
Quê xưa trúc tạng tợ xa gần.
NHƯ Ý : LÂU TRƯỢNG nói cho đủ là ĐỘC LÂU TRƯỢNG , một pháp khí của Phật-giáo, chót gậy có chạm hình đầu lâu dùng để sai khiến, hàng phục quỷ thần.
26.-Ẩn tu được biết kiếp lâu xa
Từng ở Thiên cung cõi Đại La !
Đại Phước Lão-tiên là bạn cũ
Xuống tìm học Phật lạc mê hà.
NHƯ Ý : Bên đạo giáo nói: Có một khoảng càn khôn bao quát rộng xa, nền trời xanh biếc là chỗ ở của các bậc THIÊN TIÊN tên gọi là đại la thiên giới, Lý Thương Ẩn có câu: “Tằng ức đại la Thiên Thượng sử, chúng Tiên đồng Nhật VŨ NGHÊ THƯỜNG.”
27.-Ẩn tu luân chuyển nghĩ bao đời !
Thân-thế bèo đưa, sóng nghiệp trôi !
Lỗi bởi tâm mình chưa chuyển vật !
Những riêng thương thẹn khó nên lời.
NHƯ Ý : Kinh Lăng Nghiêm nói : “Nhược năng chuyển vật tức Đồng Như Lai”, người tu Phật phải tự chủ, bên TRONG Không để cho Phiền-não vọng tâm lôi cuốn, bên NGOÀI không để cho vật Duyên-trần sai sử được như thế là CHUYỂN VẬT trái lại tất bị vật chuyển.
28.-Ẩn tu nương tựa ánh từ quang
Lần lữa trần tâm lắng nhẹ tan
Năm tháng luyện thuần trâu hoá trắng
Sáo thanh một khúc cỏ hoa nhàn.
NHƯ Ý : LINH HỰU thiền sư nói : “Khi ta mới lên núi QUI SƠN chỉ thấy một con TRÂU ĐEN, nay nó đã hoàn toàn thành TRÂU TRẮNG, nằm sờ sờ TRƯỚC MẮT đuổi cũng không đi.
Theo Thập Mục Ngưu Đồ, mục đồng muốn ngồi An-nhàn thổi sáo, phải luyện cho trâu hoàn toàn HÓA TRẮNG không còn buông lung phá phách nữa.
29.-Ẩn tu gió mát toả gương nga
Tĩnh-thất cài then tụng Pháp-Hoa
Bừng sáng thân tâm hoà ánh nguyệt
Tầm Dương bổng dứt hận Tỳ Bà !
NHƯ Ý : Người Kỹ-Nữ Khải đàn tỳ bà trong đêm khuya, ngồi thuyền đưa khách ở bến Tầm Dương là cảnh thương tâm của một kiếp tài hoa lưu lạc, có thể mượn đây để ví dụ cho sự KHỔ luân hồi chìm nổi của chúng sanh, khi hành giả phiền vọng TẠM lắng yên, thân TÂM và cảnh GIỚI dung hòa trong ánh sáng giác ngộ, tất sự an vui được thể hiện đây là giai đoạn, THẤY bờ giải thoát DỨT hận Tỳ-bà.
30.-Ẩn tu niệm Phật cảnh sâu huyền !
Trong sáng linh hư hợp Tịnh, Thiền
Không hữu đều tan, Trung đạo dứt
Hoa vàng chợt nở Bảo trì liên !
NHƯ Ý : TỊNH thuộc HỮU tông, THIỀN là KHÔNG tông, trên bước dụng công sơ khởi, luối tu của đôi bên Tuy có khác nhau nhưng tiêu điểm đi về vẫn là một.
Bởi lẽ huyễn hữu tức chân không, chân như tam muội chẳng ngoài Niệm Phật tam-muội:
Cảnh cũ CHÂN TÂM vạn nẻo về,
Đường tuy khác lối vẫn đồng quê.
Trong THIỀN có TỊNH trời Lư-lảnh,
Trong TỊNH gồm THIỀN nước ĐỘNG KHÊ.
Hàng tu Phật nên ý thức điểm này.
31.-Ẩn tu niệm dứt tướng vào ra
Không thấy thân tâm Phật với ta
Thanh thoát rõ rành vang Thánh-hiệu
Trăm hoa đua sắc tiếng Oanh ca.
NHƯ Ý : Người tu tịnh đến mức cao, không trụ Tâm ở TRONG, ngoài và chính giữa, cũng không thấy thân TÂM cảnh giới, mình và Phật.
Niệm như thế lần lần mùa xuân của chân tâm sẽ Hiển-Lộ, vì PHẬT PHÁP BẤT LY THẾ GIAN PHÁP, mùa xuân Chân Tâm vẫn không NGOÀI mùa xuân thế tục, có Trăm hoa đua sắc tiếng Oanh ca.
32.-Ẩn tu niệm chẳng thánh cùng phàm
Mắt huệ can chi dính mạt vàng ?
Hữu tướng tức đồng Vô tướng niệm
Chân Không huyễn sắc khắp bao hàm.
NHƯ Ý : Trong Thiền-lục có ghi câu chuyện đại khái như sau: Có vị THIỀN giả đến Trình-bày kiến giải với một Bậc Tôn-Đức, Bậc Tôn-Đức thấy thiền giả Tuy có chỗ sở đắc, song còn ưa đấm cảnh giới THANH TỊNH an vui của Thiền.
Liền bảo: MẠT VÀNG Tuy-quý, nhưng để nó dính vào đôi TRỒNG, tức còn làm XỐN con mắt.
Gần đây một vị tu thiền góp nhăc ý này, khi thấy có ai niệm phật, lại dùng câu ấy để bác phá, làm HOẠI Đường tu của người niệm phật, trong khi họ chưa thể Hành-thiền, trong KINH KIM CANG Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: “Nhược kiến chư tướng PHI tướng, tức kiến như lai”.
Giải một cách thoát văn là : Khi thấy các tướng Hữu vi nên dùng tâm ấn Hiệp, như gương sáng in muôn trượng không khởi Ý chấp hoặc bỏ, tức là thấy PHẬT hay thấy được Phật TÁNH.
Niệm PHẬT tuy HỮU tướng, nhưng khi hành giả đứt hẳn PHÀM Tâm và THÁNH Tâm, không sanh NIỆM chấp hay bỏ, Tức là đồng với VÔ tướng rồi.
Lại nói thêm cho rõ, VÔ tướng đây chẳng phải rỗng KHÔNG mà chính là gồm đủ MUÔN sắc tướng, chỉ vì không chắp nên Huyễn-sắc mới tức Chân-không, TÂM thể ta rộng khắp mười phương bao gồm chân không tức phần không chân như, và huyễn sắc tức phần bất KHÔNG chân như, như trong Đại-thừa Khởi-tín luận đã diễn giải, nếu hiểu và thực hành đúng như thế, làm sao Niệm Phật Tụng Kinh lại dính MẠT VÀNG được ?
33.-Ẩn tu tuy biết ý cao siêu
Mà chẳng thích ưa lý luận nhiều
Căn tánh người nay đà kém loạn
Nói hay làm phỏng được bao nhiêu ?
NHƯ Ý : Như trên chỉ nói Ý bao hàm, chưa nói đến ý DUNG quán, đối với không Chân-như chẳng chấp KHÔNG, Bất-không chân như chẳng chấp CÓ, mới dung nhập vào Tự-thể chân như được.
Nhưng hãy thôi, nói ra nhiều cũng chỉ luẩn quẩn trong vòng LÝ luận, chẳng được thật ích chi; Người thời cuối MẠT pháp, căn cơ yếu kém nhiều phiền VỌNG rối loạn, niệm Phật dù chấp TƯỚNG, tham thiền chấp TỊNH cảnh còn CHƯA làm được, huống chi là điểm cao xa.
Điều này chính nhiều vị học Phật đã thú nhận, đến đạo tràng NGHE PHÁP mọi việc đều không, ra ngoài xúc chạm DUYÊN CẢNH mọi việc đều lại có ; thành thử lắm khi cũng đổ NGHIỆP chướng, hoặc có nghiệp nặng quá mỗi ngày NGUYỆN 7 BIẾN ĐẠI BI 1 NGÀN CÂU NIỆM PHẬT, mà khi có khi không chẳng làm sao giữ cho đều được, sức tu thật sự của người thời nay hầu hết đều như thế, chắc có lẽ ĐỨC THƯỜNG TINH TẤN BỒ TÁT cũng mỉm cười.
34.-Ẩn tu ngại lỗi luận đua tranh
Nói cũng vì người thuyết khác hành
Thái cực ai-phân nhơn-ngã đó
Lạnh lùng huyễn lợi với hư danh !
NHƯ Ý : Người Thật Tu Dù Hiểu Đạo , SONG vẫn dè dặt không thích lý luận nhiều vì sợ phạm lỗi VỌNG NGÔN và tranh đấu. Nếu bắt buộc phải nói cũng chỉ để CẢNH GIÁC kẻ ngôn thuyết và thực hành chẳng giống nhau thôi.
Có một vị tu THIỀN đã nói: Thầy Tôi bác bỏ không cho SÁM HỐI, bảo thân tâm ta chính là PHẬT, đem vị Phật này lễ sám vị Phật khác thật rất sai lầm.
Xin nhắc lại một lời, chính thân tâm BẬC thầy của vị tu thiền đó có xác thật được như thân tâm của chư Phật hay chưa; các Bật Tôn Đức khoán đạt trong Phật giáo đã nói: Danh từ Minh Đức Nhất-quán của đạo NHO, Cóc Thần Thái-cực của đạo LÃO, và Bồ-đề Niết-bàn của đạo PHẬT, cũng điều chỉ cho tâm thể chân như mà thôi, trong CHÂN NHƯ TÂM đâu có ranh giới giữa ta người, người thật tu đã rõ danh lợi là hư huyễn, nói ra cũng để nhắc nhở lẫn nhau, TUYỆT không có ý hơn thua tranh chấp.
35.-Ẩn tu suối bạc ánh màu ngân
Muốn gẫm gần xa chuyện túc nhân
Người cảnh ai bày vui với khổ
Hoa trăng cười cợt ý bâng khuâng.
NHƯ Ý : Sống trong giai đoạn đầu của TAM TAI TIỂU KIẾP này, tất cả nhân Sanh mình lẫn Người đều ở trong biển khổ lớn, Người TU tuy biết đời là HUYỄN, song vẫn lìa ngỏ ý còn vương TƠ lòng. Tơ đây không phải là tơ Trần, nhưng khi thấy cảnh Trần tan tác cũng muốn xét kỹ xem, TÚC NHÂN ra sao mà phải quả cảm như thế.
Nhưng thôi hãy GÁC lại môn duyên để NIỆM PHẬT; Hoa-trăng tuy lặng yên không nói, song dường như cười cợt CHO Ý NIỆM VẪN VƠ BÂNG KHUÂNG ĐÓ; còn như bảo vì Chúng-sanh có Bệnh nên Bồ-tát có Bệnh, thì thật không dám đảm đương Đại-ngôn ấy.
Chỉ ước lâm chung dự biết thời
Nương nguyện Phổ-Hiền sanh Cực-Lạc
Rồi dong thuyền độ khắp nơi nơi.
NHƯ Ý : Người Á đông, nhất là những người ở nước có Triết lý Tam-giáo, THÍCH ĐẠO NHO, khi đã chìm nổi nhiều với cuộc đời, thường có ý hướng về sự THOÁT tục; để tiêu biểu cho việc đó, XIN tạm dịch hai câu của Cao-Bá-Quát như sau : Việc thế nổi chìm xin chớ hỏi, trong xa khói sóng có ĐÀO NGUYÊN. Nguyên tác, “Thế sự thăng trầm Quân mạc vấn, Yên ba thâm Xứ Hữu Ngư châu.”
Cũng có vị khi đã ở trong cửa ĐẠO, nhưng xét thấy chúng sanh nghiệp NẶNG, mình lại CHƯA đủ khả năng tế độ; như CHÍNH mình còn bị trói KHÔNG thể mở trói cho người; Nên đành phải để sự XUẤT trần trước rồi mới NHẬP trần sau, đó là tâm sự của bà Công-chúa em gái vua Nhật-tôn: “Lên bờ cứu khổ mong quay lại, biển ái trong xa nước đục lờ.” Mấy câu này nói lên ý tưởng trên đây.
NAM MÔ ÐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT
SÁM THẬP PHƯƠNG
(Quỳ đọc)
Thập phương Tam-thế Phật
A-Di-Đà đệ nhứt,
Cửu phẩm độ chúng-sanh
Oai-đức vô cùng cực,
Ngã kim đại quy-y.
Sám-hối tam nghiệp tội,
Phàm hữu chư phước thiện,
Chí tâm dụng hồi-hướng.
Nguyện đồng niệm Phật nhơn,
Cảm ứng tùy thời hiện,
Lâm chung Tây-phương cảnh,
Phân-minh tại mục tiền,
Kiến văn giai tinh tấn,
Đồng sanh Cực-lạc quốc,
Kiến Phật liễu sanh-tử,
Như Phật-độ nhứt-thiết,
Vô-biên phiền-não đoạn,
Vô-lượng pháp môn tu;
Thệ nguyện độ chúng-sanh,
Tổng giai thành Phật đạo;
Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,
Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,
Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.
PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như-Lai,
Tam giả quảng tu cúng-dường,
Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,
Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy Phật học,
Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,
Thập giả phổ giai hồi-hướng.
HỒI HƯỚNG CHƠN PHÁP GIỚI
Nguyện tương dĩ thử thắng công-đức,
Hồi-hướng vô-thượng chơn pháp-giới,
Tánh tướng Phật, Pháp cập Tăng-già,
Nhị đế dung thông tam-muội ấn,
Như thị vô-lượng công-đức hãi,
Ngã kim giai tất tận hồi-hướng,
Sở hữu chúng-sanh thân, khẩu, ý,
Kiến hoặc đàn báng ngã pháp đẳng,
Như thị nhứt thiết chư nghiệp-chướng
Tất giai tiêu-diệt tận vô dư,
Niệm niệm trí châu ư pháp-giới,
Quảng độ chúng-sanh giai bất thối,
Nãi chí hư-không thế-giới tận,
Chúng-sanh cập nghiệp phiền-não tận,
Như thị tứ pháp quảng vô-biên,
Nguyện kim hồi-hướng diệc như-thị.
Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung
Trừ hết tất cả các chướng ngại
Tận mặt gặp Phật A Di Đà
Liền được vãng sanh cõi Cực Lạc
Tôi đã vãng sanh cõi kia rồi
Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này
Cả thảy tròn đủ không thừa thiếu
Lợi lạc khắp tất cả chúng sinh
Chúng hội Di Đà đều thanh tịnh
Tôi từ hoa sen nở sanh ra
Thân thấy đức Phật Vô Lượng Quang
Liền thọ ký tôi đạo bồ đề
Nhờ đức Phật kia thọ ký rồi
Tôi hóa vô số vạn ức thân
Trí huệ rộng lớn khắp mười phương
Khắp lợi tất cả chúng sinh giới.
Hạnh Phổ Hiền thù thắng của tôi
Phước lớn vô biên đều hồi hướng
Khắp nguyện chúng sinh đang chìm đắm
Mau sanh cõi Phật Vô Lượng Quang.
NAM MÔ ÐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT (3 lần)
BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI
Nam-mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa điệt dạ tha.
A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha.
( 21 lần)
37.-Ẩn tu an phó bịnh suy già
Nhơn thế xưa nay vẫn thế mà
Giữ chắc hồng-danh thuyền tế độ
Muôn trùng bao quản ngọn phong ba !
NHƯ Ý : SANH GIÀ BỆNH CHẾT là thông lệ của kiếp người, bậc lớn tuổi nên thực hành câu, Trẻ vui NHÀ Già vui CHÙA.
Đừng vì thế mà sanh ra phiền muộn, Bài thi của Sư-cụ Bích-liên đã đề cập đến điểm này, Có thân có khổ vậy thôi thì, Già bệnh mà buồn có ích chi, mình được sống còn không mấy bữa, Quê Xưa cần nhẹ gót TÂY QUY, nhưng muốn được Tây Quy phải giữ Chắc con thuyền HỒNG DANH, đi đứng nằm ngồi, khi ăn lúc ngủ đều phải niệm phật, niệm cho đến hơi thở cuối cùng.
38.-Ẩn tu suy gẫm sức hồng danh
Phước huệ tăng-kỳ kết tụ thành
Sáu chữ chí tâm tiêu vạn tội
Một câu chín phẩm thoát siêu sanh.
NHƯ Ý : ĐỨC A DI ĐÀ trong vô lượng vô biên a tăng Kỳ-kiếp đã tu sáu độ muôn hạnh, đến khi thành PHẬT mới có TÔN hiệu ấy. Bởi thế nên Hồng-danh của ngài là sự KẾT TỤ, là tinh túy của TRÍ HUỆ Phước-đức đã tu bồ-tát hạnh trong VÔ BIÊN KIẾP; trong KINH có chỗ nói về 10 CÔNG ĐỨC CỦA SỰ NIỆM PHẬT.
TRÍ ĐỘ LUẬN cũng đề cập đến công năng Thù Thắng của niệm PHẬT tam-muội. Nên NIỆM Phật sẽ tiêu TỘI chướng, sanh PHƯỚC Huệ trừ TÀ ma, trị LÀNH bệnh; hiện ra các tướng Kiết-tường.
Có vị phật tử đến chùa than nghèo khổ, một Sư-cụ bảo: Chỉ sợ MI không thuộc câu A-di-đà, nếu THUỘC CÂU A DI ĐÀ HƯỞNG TỚI GIÀ CŨNG KHÔNG HẾT, chỉ cần phải lưu ý đến chữ THUỘC này.
THUỘC
Là hết lòng thành kính
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng thành kính
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
Lắng lòng suy gẫm sâu !!!
39.-Ẩn tu tuy chửa đến Tây Phương
Cành ngọc chim linh ứng mộng thường
Rõ biết tâm lành sanh cảnh tịnh
Quả nhân cảm hiện lẽ chiêu chương.
NHƯ Ý : Như trên Đã nói HỒNG DANH A DI ĐÀ là kết tinh của vô lượng Phước-Đức Trí-Huệ, nên khi niệm Phật thì những công năng quả báo lành ứng HIỆN.
Có nhiều vị hoặc TRONG Giấc-mộng hoặc ĐANG lúc niệm-Phật, thấy Hoa sen Ao báu, Lưới châu, Lầu ngọc, Chim linh, Đất vàng… Cho đến Phật, Bồ tát cảm hiện; những điều này trong Vãng Sanh lục và Tịnh Độ Thánh Hiền lục đều có ghi chép.
40.-Ẩn tu niệm Phật suốt thâu canh
Cam lộ từ răng đượm ngọt thanh !
Khát nước đã nhờ công đức thuỷ
Lam Kiều chi nhọc hỏi Vân Anh ?
NHƯ Ý : BÙI HÀNG trên chiếc thuyền đò dọc to rộng, thấy một THIẾU PHỤ rất đẹp nghi không phải người PHÀM , dâng bài thơ ƯỚM HỎI như sau:
Kẻ Hồ người Việt còn mơ tưởng,
Huống gặp THIÊN TIÊN cách bức mành,
Cung Khuyến thẳng như chầu NGỌC ĐẾ,
Xin theo loan hạc đến mây xanh.
Thiếu phụ không nói sai thị nữ đưa lại bài thơ khác,
NHẤP chén Quỳnh Tương suối Cảm sinh,
Huyền Sương giã thuốc thấy VÂN ANH.
LÂM KIỀU cũng QUÁN THẦN TIÊN đấy,
Chi phải NHỌC MÌNH đến Ngọc kinh.
Sau đó chàng nhân có Diệp qua cầu LAN , vào QUÁN gần đó xin nước uống thấy 1 nàng tuyệt đẹp hỏi ra tên là vân Anh, nhớ lại chuyện trước Chàng liền Xin cầu hôn, bà Mẫu đòi sính lễ một chiếc CHÀY Ngọc vì bà hiệu có một chiếc CỐI Ngọc, cần thêm Chày để giã luyện vị thuốc tiên tên là Huyền-xương.
Kết cuộc, Bùi hàng tìm được Chày Ngọc và Thành Hôn cùng cô Gái, về sau TIÊN ĐƠN luyện thành, Vợ Chồng cùng bà Mẫu đồng bay lên mây; câu chuyện LAM KIỀU là thế, duyên kiếp trước đã đưa BÙI HÀNG gặp VÂN ANH và thành đạo quả.
Hành giả Tịnh độ khi niệm PHẬT cũng sẽ Cảm Hiện Nước Cam Lồ thơm ngọt nơi miệng và sau sẽ sanh về AO BÁU thơm lành có BÁT CÔNG ĐỨC thủy ở Tây Phương.
Nước có tám thứ công đức ấy là:
THƠM NGỌT, MÁT SẠCH, TRONG SÁNG, CHÂN NHUẬN VÀ TÙY TÂM.
41.-Ẩn tu chợt nhớ Hổ Khê xưa !
Suối bạc non xanh đệ nhứt thừa
Một giống Bạch Liên truyền đất Việt
Hương sen còn đậm hạt thu mưa !
Tất cả cảnh đều là PHẬT cảnh, TÂM cảnh hay đệ nhất THỪA, đệ nhất nghĩa ĐẾ, tức là CHƠN NHƯ thật thể. Cho nên, TÔ ĐÔNG PHA có câu : “Khê thanh tức thị quảng trường thiệt, sơn sắc vô phi thanh tịnh thân”. Tạm dịch, Suối Reo tức tiếng Quảng trường thiệt , non biếc nguyên là Tịnh Pháp Thân.
Chữ THU trên đây chỉ cho Thời Mạt Pháp, bởi nhà Phật có câu: “Phật Pháp như THU hào chi mạc”. Tạm dịch, Pháp Phật SUY DUY giống như chót lông Chim mùa Thu. Khi xưa Sơ Tổ VIỄN CÔNG lập nên Bạch Liên Xã, rồi lần truyền sang Việt-Nam đó là Tịnh độ Tông, mà có lúc đã rất thịnh hành nơi chùa LIÊN PHÁI ở Bắc-việt, đến nay đã đi sâu vào Thời Mạt Pháp mà Hương Sen tức TÔNG CHỈ NIỆM PHẬT hãy còn lẫn thơm ĐẬM ĐÀ trong HẠT MƯA THU.
42.-Ẩn tu riêng mến đạo Đông Lâm
Biển Phật thuyền Sen thật chẳng lầm
Liên lậu trước chùa ghi nhựt khoá
Đến nay còn dậy khúc Thanh âm.
NHƯ Ý : Đạo ĐÔNG LÂM tức là Đạo PHÁP TỊNH ĐỘ truyền từ CHÙA ĐÔNG LÂM, quả thật là Chiếc Thuyền-Từ trong biển Phật Pháp . Sở dĩ như thế vì chư Tổ đã Tóm-tắt công năng thiết yếu của môn này vào hay Liên đối như sau:
Độ khắp đủ căn, dùng sức ít , thành công cao diệu, mau tiêu nghiệp hoặc chỉ một đời được giải thoát luân hồi.
và
Bỏ đường tắt Tây phương, chín giới chúng sanh khó mong được tròn nên quả giác, rời cửa mầu Tịnh độ mười phương chư Phật không thể độ khắp quần mê.
Trong các KINH TỊNH ĐỘ, đức thế TÔN đã khen môn này rất nhiều rất mầu, 6 Phương Chư Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài tán dương, nhưng cũng là Pháp khó nói, Khó tin, khó nhận.
Phật lại bảo Di Lặc Bồ Tát: Giả sử Trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đầy lửa hừng cháy, mà vì cầu pháp này phải trải qua vùng lửa đó cũng nên cầu, bởi có vô số BỒ TÁT vì muốn NGHE pháp này mà không được nghe, lại có vô số Bồ-tát Tiếc rằng, mình đã trải qua Vô Lượng Kiếp Tu Hành xong chưa thành VÔ THƯỢNG quả. Nếu được biết pháp này sớm thì đã VIÊN MÃN Phước Huệ từ lâu rồi.
LIÊN LẬU là đồng hồ SEN, tịnh chúng Bạch Liên dẫn nước từ HỔ KHÊ cho chảy vào AO SEN trước chùa, đồng thời lại thêm một chỗ khác để tháo nước, nơi đó các Vị đặt một tấm gỗ chặn, ghi ngược 12 thời từng TÝ đến HỢI. Trước tiên nước dẫn NGẬP mức nghi giờ TÝ, kế đến SỬU sau khi nước dâng lên đến giờ HỢI, rồi rút bật lên cho Tháo nước hết, rồi đặt xuống chặn lại như cũ, đại chúng cứ theo thời khắc đó mà NIỆM PHẬT TU HÀNH.
43.-Ẩn tu trần niệm chẳng còn dư
Kinh điển dường quên, tám vạn tư
Chẳng biết Lư Sơn mày mặt thật
Chỉ nhân mình ở tại non Lư.
NHƯ Ý : Cổ Đức nói: Vị tu chi tiền Kiên thành VIÊN giải, ký tu chi hậu Hạnh Khởi giải TUYỆT. Lời này có nghĩa trước khi tu phần giáo lý, phải hiểu một cách đầy đủ chắc chắn, ĐẾN KHI THỰC HÀNH THÌ PHẢI BỎ HẾT NHỮNG KIẾN GIẢI ĐÓ, đây cũng là ý nhờ ngón tay chỉ để thấy mặt trăng, nhưng khi đã thấy phải rời NGÓN TAY, mới thể nhận được toàn mặt NGUYỆT.
Thật ra, người tu vẫn muốn quên hết muôn duyên để lòng được như NHÀN.
Hai câu sau của bài Vịnh là dịch ra từ Cổ lục:
“Chẳng biết Lư Sơn mày mặt thật
Chỉ nhân mình ở tại non Lư.”
( Bất thức lương sơn CHÂN diện mục,
Chỉ nhân thân TẠI thử Trung Sơn.)
Đây là chỉ cho ý khi TỊNH niệm được thuần, thì dung hòa cả THÂN TÂM và CẢNH GIỚI không còn phân biệt.
44.-Ẩn tu nghĩ chuộng sắc thanh-duyên
Thanh sắc đâu bằng cõi Bảo-Liên
Sắc rực ánh vàng thanh suối ngọc
Tô Đà hương phạn lại tham thiền.
Ẩn tu nghĩ kẻ sắc thanh tranh
Thanh sắc đâu bằng cõi Thái-Thành
Sắc đẹp ba hai thanh phạm tám
Ăn xong thiền duyệt lại kinh hành.
NHƯ Ý: Xưa có một Ca-sĩ Thanh sắc vẹn toàn, khi thốt lời nơi miệng bay ra mùi thơm HOA SEN, có vị thượng QUAN đem việc đó đến thỉnh một bậc cao tăng Đắc đạo. Cao tăng đáp: Ca-kỷ đó tiền thân là một NI CÔ đã tụng KINH PHÁP HOA hơn 30 năm, vì cô còn thích Sắc đẹp Tiếng thanh nên mới cảm Thọ quả báo ấy.
TÂM ưa chuộng sự hay đẹp của NGŨ TRẦN là ý niệm chung của chúng sanh, nhất là với phái nữ, nhưng Thanh sắc trong Tam Giới làm sao sánh được với cõi Hoa sen, người sanh về cõi CỰC LẠC sẽ được 32 Tướng hảo trong đó có tướng Phạm âm đủ 8 vọng.
Cho nên, nếu chuộng Sắc thanh, nên tụng KINH niệm PHẬT hồi hướng công đức Cầu-sanh Cực-lạc, đừng để Tiếc uổn như vị Ni-cô kia.
45.-Ẩn tu khuyên khách mến giang hồ !
Nên học Liên phương niệm Phật đồ
Về cõi Bảo Hoa đi dạo khắp
Muôn trời tịnh diệu nét Xuân tô !
NHƯ Ý : PHƯƠNG LIÊN là PHƯƠNG XỨ HOA SEN tức chỉ cho cõi CỰC LẠC. Niệm Phật đồ là Bức đồ Niệm Phật Công cứ có in hình Hoa sen, để khi Niệm Phật đủ 1 NGÀN hay 1 MUÔN câu lại ghi vào Mỗi Cánh SEN hoặc Hạt Sen một điểm. Đây là cách Sách tấn hàng Liên Hữu Cầu sanh Tây Phương.
Thuở xưa bậc Thanh-cao hay hạng TAO NHÂN MẶC KHÁCH thường đề huề Túi thơ Bầu rượu đi du Lãm nơi danh lam thắng cảnh, thời nay các nước có phong trào Tổ chức đi du ngoạn các Cảnh đẹp ở Bản xứ hay khắp Thế giới.
Nhưng nếu có AI mến thích du ngoạn, thì tốt nhất là nên tu NIỆM PHẬT CÔNG CỨ cầu sanh Tây Phương, về được cõi BẢO HOA đó rồi, mỗi bữa Mai thường cùng chư THƯỢNG THIỆN, mang HOA bay khắp Mười phương Thế giới để cúng dường Chư Phật, mà cảnh Đẹp tươi Trong sạch Mầu lạ ở các Tịnh Độ, thì miền Bồng Tiên cũng không thể sánh kịp trong Muôn Một .
46.-Ẩn tu lòng đạo sáng gương rằm
Bạn Cúc quê vàng cảnh vắng tâm
Cây biếc mây hồng che tĩnh xứ
Khói sương vùi dập mấy mươi năm.
NHƯ Ý : Hàng Sĩ-phu Trung Quốc có bình phẩm về các loài HOA như sau: Liên nãi Hoa Trung Quân tử, Hải đường Hoa nội Thần Tiên, Lan duy Vương giả chi Hoa, Cúc đồng ẩn dật Chi sĩ, trong các thứ hoa, SEN là hoa Quân tử, HẢI ĐƯỜNG là Hoa Thần Tiên, LAN là Hoa Vương giả, CÚC là hoa ẩn dật, bạn Cúc là bạn Cao ẩn, cũng có thể gọi là bạn đồng uống chén trà Cúc, Quê vàng là quê hương có mây vàng che phủ, đây là lấy ý câu:
“Hoàng vân tế thiên lý, du tử vị quy tâm.”
Mây vàng CHE quê hương ngàn dặm,
Lòng người DU TỬ nhớ nhà mà chưa về thăm được.
Hai câu sau trong bài vịnh, lập lại ý của lời CẢM TÁC đã làm từ trước :
Khối sương vùi dập thân tiền nghiệp,
Ẩn tại mây hồng ba chục năm.
Khi đã ẨN TU tất trong hoàn cảnh U tịch xa cách quê nhà, vắng tâm bạn cũ, mối cảm hoài dù có, như cũng phải ngạt qua để SÁM trừ nghiệp trước, LAU sáng gương lòng.
47.-Ẩn tu Lan-Nhã ngắm tư bề
Ríu rít mây chim tiếng gọi về
Dâu biển người đời thương biến đổi
Đâu hay muôn cảnh vốn Bồ đề.
NHƯ Ý : Hằng-sa SỐ chính thật là Bồ-đề đạo, nghĩ hướng Bồ Đề cách vạn tầm, NGƯỜI NIỆM PHẬT nên thức ngộ Hằng-sa PHÁP, môn cảnh đều là thể giác ngộ, xong chơn thể ấy phải dùng TÂM mà trực nhận, nếu khởi động tìm thì đã cách xa.
Lan-Nhã nói cho đủ là A LAN NHÃ, có nghĩa KHÔNG tịch xứ, TỨC là chổ vắng lặng, nơi ở của người Tĩnh tu.
48.-Ẩn tu nhớ dạy Tịnh Liên Hoa
Trí Giả nguyên là Phật Thích Ca
Lại có Vĩnh Minh cùng Thiện Đạo
Tương truyền thân hóa của Di Đà
NHƯ Ý : Trí-Giả Đại sư các Tôn túc nhà Thiền đều cho là hậu thân của đức Thích-Ca, ngài có viết ra quyển THẬP NGHI LUẬN, để khuyên dạy pháp Tịnh liên hoa tức môn TỊNH ĐỘ, khi lâm chung đại sư chấp tay niệm PHẬT, phó chúc mọi việc rồi sanh về Tây-phương.
Vĩnh-Minh Đại sư một bậc siêu ngộ TÂM tông đã Trước-tác một trăm quyển TÔNG CẢNH LỤC CHỈ dạy về Thiền, mỗi ngày đại sư tu thêm 108 công đức để cầu sanh Tịnh-độ. Trong ấy có hai đều:
1) Tụng một bộ PHÁP HOA
2) Niệm 10 muôn câu PHẬT HIỆU, còn Thiện-Đạo Hòa thượng là vị Tổ thứ hai bên Liên-tông khuyến hóa hằng muôn người niệm Phật, phần đông đều có điềm lành ứng hiện thở SANH BÌNH và lúc sắp về CỰC LẠC.
Tương truyền cả hai vị đều là HÓA thân của PHẬT A DI ĐÀ một vị dạy hàng THƯỢNG căn pháp VIÊN tu, một vị dạy hàng TRUNG HẠ căn pháp CHUYÊN tu về môn tịnh độ.
TRÍ GIẢ ĐẠI SƯ - 者大師 (538 - 597)
Muốn quyết định được sanh về Cực Lạc, phải có đủ hai hạnh:
Yếm ly, Hân nguyện, nghĩa là chán bỏ và vui cầu
Theo kinh giáo, các pháp đều như huyễn, thì khởi tâm nhàm chán hay sanh niệm mến ưa, cũng còn chưa hợp lý. Nhưng đó là chỗ tu của bậc Thượng thượng căn, trình độ đã khế ngộ với chân tâm. Ngoài hạng trên, nếu chính mình chưa được như thế mà chấp lý cầu cao, tất khó vãng sanh về Cực Lạc.
Cho nên khi xưa Trí Giả đại sư đã nêu hai hạnh Yếm ly và Hân nguyện làm điểm thiết yếu cho sự vãng sanh.
Nhân tiện, xin hhắc lại câu chuyện hiện thật ở Việt Nam. Một cư sĩ tu đã lâu, có thể gọi là từng nghiên tầm thông hiểu nhiều kinh điển đại thừa. Hôm nọ, ông đến chùa hỏi một vị Hòa thuợng: “Bạch Ngài! Các pháp đều do tâm, sự vui khổ cũng do tâm chấp theo ngoại cảnh. Thế tại sao Ngài lại còn niệm Phật cầu sanh Tây phương để làm gì?” Vừa lúc ấy ánh nắng mai xuyên qua cửa sổ, chiếu vào chiếc ghế ông đang ngồi. Vị cư sĩ vội đứng lên nhắc chiếc ghế tránh sang một bên. Thấy thế, Hòa thượng cười bảo: “Nắng có một chút mà ông không chịu được, nói gì là các pháp do tâm!” Vị cư sĩ đỏ mặt im lặng, rồi đề cập sang chuyện khác.
Thích-ca Mâu-ni Văn Phật
Đâu suất giáng trần chốn vương gia
Nhàn du bốn cửa chán phồn hoa
Một đời pháp bảo trao truyền lại
Hỷ xả từ bi hạnh chói lòa
Vạn đức trang nghiêm tròn phước huệ
Tự tâm thanh tịnh gạn tâm tha
Đời đời tiếp nối môn đồ Phật
Độ thoát chúng sanh tựa Hằng sa.
(Đâu Suất giáng sanh đế vương gia
Tứ môn du tất khí phồn hoa
Thuyết pháp diễn giáo hóa quần phẩm
Từ bi hỷ xả độ chúng hiệp
Vạn đức trang nghiêm phước huệ tu
Nhất trần bất lập tịnh tự tha
Phật tăng truyền thừa mãn thiên hạ
Nhiếp thọ hữu tình sổ đạo ma.)
VĨNH MINH ĐẠI SƯ
(Liên Tông Lục Tổ)
Đại sư lại vì người đương thời còn phân vân giữa Thiền và Tịnh, chưa biết tu môn nào được kết qủa chắc chắn, nên làm kệ Tứ Liệu Giản để so sánh sự lợi hại như sau:
– Có Thiền không Tịnh độ
Mười người, chín lạc lộ.
Ấm cảnh khi hiện ra
Chớp mắt đi theo nó.
– Không Thiền có Tịnh độ
Muôn tu muôn thoát khổ.
Vãng sanh thấy Di Đà
Lo gì chẳng khai ngộ?
– Có Thiền có Tịnh độ
Như thêm sừng mãnh hổ.
Hiện đời làm thầy người
Về sau thành Phật, Tổ.
– Không Thiền không Tịnh độ
Giường sắt, cột đồng lửa!
Muôn kiếp lại ngàn đời
Chẳng có nơi nương tựa.
Có người hỏi: “Niệm Phật quyết chắc được vãng sanh chăng?” Ngài đáp: ” Như ông tin tưởng và thực hành, chắc chắn sẽ được toại nguyện!”. Nói xong, ngài tự niệm: Nam Mô A Di Đà Phật, liền một tia sáng từ trong miệng phóng ra. Kế lại liên tiếp từ mười đến một trăm câu, mỗi câu đều có ánh sáng quang minh dài nối nhau khiến sáng rực cả chùa. Sự thần dị này truyền đến Đế kinh, vua Cao Tôn nghe được phụng tứ một tấm biển sắc tặng hiệu chùa là Quang Minh Tự.
Đại sư có bài kệ khuyên tu như sau:
Da mồi tốc bạc lần lần,
Lụm cụm bước run mấy chốc.
Dù sang vàng ngọc đầy nhà,
Vẫn khổ suy già bịnh tật.
Ví hưởng khoái lạc ngàn muôn,
Đâu khỏi vô thường chết mất?
Duy có đường tắt thoát ly
Chỉ niệm A Di Đà Phật!
Quang, thọ khó suy lường,
Sáng lặng khắp mười phương.
Thế Tôn Vô Lượng Quang,
Cha lành cõi Liên ban.
Thần lực chẳng tư nghì,
Sống lâu A tăng kỳ.
A Di Đà Như Lai,
Tiếp dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh,
Công đức lạ trang nghiêm.
Nơi tất cả quần sanh,
Vượt lên ngôi Bất thối.
Mười phương hằng sa Phật.
Đều ngợi khen Vô Lượng.
Cho nên hôm nay con,
Nguyện sanh về An Dưỡng.
Nam mô Liên trì hải hội Phật Bồ Tát. (3 lần)
PHẬT THUYẾT
KINH A DI ĐÀ
NHƠN HẠNH VÃNG SANH
Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện-căn phước-đức nhơn-duyên, đắc sanh bỉ quốc.
Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nư nhơn, văn thuyết A-Di-Ðà Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn.
Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A-Di-Ðà Phật dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền.
Thị nhơn chung thời, tâm bất điên-đảo, tức đắc vãng sanh A-Di-Ðà Phật Cực-lạc quốc-độ.
Xá-Lợi-Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn.
Nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.
( Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.
Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn.
Thời người đó đến lúc lâm chung Đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó.
Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.
Nếu có chúng sanh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc. )
(Tiếp tụng)
1. Hai tay xoa bên ngoài : Hai bàn tay chập vào nhau, các ngón của bàn tay mặt đều áp vào lưng của bàn tay trái - Các ngón của bàn tay trái đều áp vào lưng của bàn tay mặt.
2. Hữu áp tả : Các ngón tay mặt đè lên các ngón tay trái.
3. Dựng hai ngón giữa đầu dụm cong lại như cánh sen.
Có thể kiết ấn này tụng chân ngôn ba lần, xả ấn lên đảnh, rồi lần chuỗi ký số.
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(7 hoặc 108 lần)
( Khi tụng chân ngôn này, kiết ấn Vô Lượng liên hoa. Hai tay xoa bên ngoài, hữu áp tả. Dựng hai ngón giữa đầu dụm cong lại như cánh sen. Có thể kiết ấn này tụng chân ngôn ba lần, xả ấn lên đảnh, rồi lần chuỗi ký số. Đà ra ni này, tụng một biến, diệt các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác trong tự thân, tất cả tội chướng đều tiêu diệt.
Nếu hàng xuất gia tăng ni, hoặc tại gia thiện tín, phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Khi kiết ấn tụng chơn ngôn nầy, liền cảnh giác đức Vô Lượng Thọ Như Lai phóng quang trụ nơi đảnh của hành-giả, và được sự nhiếp thọ. Tụng đến một vạn biến, Tâm bồ đề hiển hiện trong thân không quên mất.
Người trì niệm lần lần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng mát mẻ trong sạch như trăng thu, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành giả thấy Phật A Di Đà cùng với vô lượng trăm ức chúng Bồ Tát vây quanh đến an ủi tiếp dẫn. Đương nhơn liền sanh về phẩm Thượng thượng ở Cực Lạc.
Câu: “UM! BÚT RUM! HÙM!” là chân ngôn “Nhứt Tự chuyển luân”, như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. Trên đây là pháp thức Tịnh độ của Mật giáo. Các vị tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng chú nầy.
Bút giả vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.
Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề. Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.
Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.
Tụng chân ngôn xong, tiếp chắp tay đọc bài kệ khen tướng hảo đức A Di Đà và tiếp qua niệm Phật.)
Con nguyện lâm chung không chướng ngại.
A-Di-Đà đến rước từ xa.
Quán-Âm cam lồ rưới nơi đầu.
Thế-Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát-na lìa ngũ-trược.
Khoảng tay co duỗi đến liên-trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ-Tôn.
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô-Sanh-Nhẫn.
Không rời An Dưỡng lại Ta-Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần-lao làm Phật-sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành-tựu.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, Đại từ đại bi,
Tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật
( Chuyên tụng VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.
Về cách trì niệm, Bút giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.
2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.
4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)
PHẨM THỨ BẢY
KHUYẾN PHÁT NIỆM PHẬT và
ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN
Bấy giờ, ngài Quán-Thế-Âm Đại Bồ-Tát bước ra trước Phật, bạch rằng:
- Nay con nương uy thần của đức A-Di-Đà, mà ban cho chúng sanh quyết chí niệm Phật thời Mạt pháp, một chân ngôn gọi là: Vô Lượng Thọ Như-Lai Chân Ngôn. Đây là tạng pháp bí mật của Phật A-Di-Đà, ẩn chứa vô biên thần lực tự tại bất tư nghị. Nếu hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, hoặc Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di lỡ phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến liền trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Tụng hai mươi mốt biến, tiêu diệt các tội: Tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác và tất cả chướng ngại trên bước tu hành đều trừ sạch. Hiện đời an lạc, thuận lợi, được sự nhiếp thọ của vô lượng Như-Lai. Tụng một muôn biến, tâm Bồ-đề hiển hiện nơi thân không quên mất. Thấy đức Phật phóng quang tụ trên đỉnh đầu. Người niệm Phật lần lần thể nhập tịnh tâm tròn sáng mát mẻ, tiêu tan tất cả phiền não.
Khi lâm chung, hành giả niệm Phật liền thấy Phật A-Di-Đà cùng vô lượng muôn ức Bồ-Tát vây quanh, an ủi, tiếp dẫn. Người niệm Phật tức khắc được sanh về Thượng phẩm ở Cực-Lạc.
- Sau đây, con xin tuyên đọc Vô-Lượng-Thọ Như-Lai chân ngôn:
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHƠN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
Ngài Quán-Thế-Âm vừa đọc xong bài chân ngôn ấy, bỗng vô lượng vô biên vô số thế giới đều chấn động sáu cách, quang minh chiếu rực cả mười phương.
Đức Thích-Ca cùng chư Phật khắp thế giới hư không giới, đồng thanh khen ngợi : "Lành thay ! Lành thay !"
KINH NIỆM PHẬT BA LA MẬT
Đời Diêu Tần, ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn-văn ra Hán-văn
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.
49.-Ẩn tu thấy nói Tổ bên Thiền
Long Thọ, Mã Minh chứng đạo huyền
Đều tín Liên tông khuyên NIỆM PHẬT
Sao hàng hậu học tạo khinh duyên ?
Nếu tịnh độ không phải là Pháp rất nhiệm mầu lợi ích lớn, Tại sao chư Tổ từ Đông-độ đến Tây-thiên như Trí giả, Vĩnh Minh, Thiện đạo, Mã Minh, Long Thọ, mà thật ra đều là CHƯ CỔ PHẬT HIỆN THÂN, lại hết sức Tuyên dương và Ngược lại Tại sao chính hàng hậu học của các ngài, tạo Duyên khinh bán đó có phải là một điều cạn cợt mê lầm tội lỗi chăng ?
Tổ thứ mười hai:
ĐẠI SĨ MÃ MINH
(Mahasattva Ashvagosha)
Dũng mãnh siêng năng tu pháp lành
Từ vô lượng kiếp độ quần sanh
Hóa tằm nhả sợi nguyện Bồ-tát
Ngựa hý bi thương Tổ tái sanh
Truyền tâm ấn Phật hoằng chánh pháp
Khơi đèn tuệ sáng diễn tông thành
Tây Thiên, Đông Độ đều chiêm ngưỡng
Mặt nhật không trung hiện rõ rành.
(Dũng mãnh tinh tấn tu thiện căn
Vô lượng kiếp lai độ chúng sinh
Hóa tàm thổ ti Bồ tát nguyện
Nhược mã bi minh Tổ sư phong
Truyền Phật tâm ấn hoằng Đại thừa
Tục thánh minh đăng diễn viên tông
Tây thiên Đông độ tề chiêm ngưỡng
Hư không pháp giới nhật đương trung.)
Tổ thứ mười bốn:
BỒ TÁT LONG THỌ
(Nagarjuna)
Tổ thứ mười bốn được truyền tâm
Long cung tìm báu được kinh thâm
Pháp giới là thể không ngằn mé
Hư không là dụng có chi tâm
Bao la vạn tượng nhiều vi diệu
Gồm thâu yếu chỉ thoát mê lầm
Nhà lửa hiểm nguy đừng lưu luyến
Phật tọa Bồ đề thấy sao mầu.
(Thiên Trúc thập tứ tổ truyền tâm
Long cung tầm bảo thủ đại kinh
Pháp giới vi thể vô biên tế
Hư không thị dụng hữu hà ngân
Bao la vạn vật hàm chúng diệu
Quyển tàng nhất mật huýnh căn trần
Hỏa trạch nguy hiểm hưu lưu luyến
Thế Tôn thọ hạ kiến minh tinh.)
Phật Tổ Đạo Ảnh
Hư Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tương truyền khi Đại sĩ khảy đàn thuyết pháp, bầy ngựa lắng nghe đều rơi lệ, kêu lên giọng bi thương nên người đương thời mới tôn hiệu là Mã Minh.
Theo luận Thích Ma Ha Diễn, Mã Minh Đại sĩ nguyên là một vị cổ Phật, hiệu Đại Quang Minh. Khi ngài ứng tích ở xứ Thiên Trúc, thị hiện làm vị Bồ Tát chứng đến ngôi thứ tám Bất Động Địa.
Tương truyền ngài sanh duới cây A Châu Đà Na, cây nầy có 500 vị Long thần ở, lại nhờ Long Vương Bồ Tát mà thành đạo, nên lấy hiệu là Long Thọ
Trong quyển Tam Bảo Cảm Ứng Lục có trích dẫn: “Theo kinh Kim Cang Chánh Trí, thì thời quá khứ, ngài Mã Minh đã thành Phật, hiệu là Đại Quang Minh Như Lai. Ngài Long Thọ hiệu là Diệu Vân Tướng Như Lai.
Lại theo kinh Đại Trang Nghiêm Tam Muội, ngài Mã Minh là vị Cổ Phật hiệu Nhật Nguyệt Tinh Minh. Ngài Long Thọ là Diệu Vân Tự Tại Vương Phật”.
Truyện Phú Pháp Tạng cũng nói về ngài như sau: “Bản vị nguyên là Phật Diệu Vân, ứng tích ở ngôi Hoan Hỷ Địa”. Truyền ký về ngài có nhiều điểm thần kỳ, như việc mở Thiết tháp ở Nam Thiên Trúc học về Mật giáo; được Đại Long Bồ Tát đem vào hải cung đọc kinh Hoa Nghiêm và các kinh điển đại thừa. Vì thế, ngài một thân mà kiêm làm Tổ sư của tám tông phái Phật giáo.
50.-Ẩn tu thương nghĩ cánh Nam tông
Tịnh độ cho là pháp viễn vông
Bác phá Đại thừa phi Phật thuyết
Yến Ly đâu biết dấu chim hồng ?
Thế mà khi trở về nước nhà dự lễ đón mừng trong một buổi Đại hội, Ngài đã than Phật giáo gọi là Nguyên thủy thuộc cánh Nam-tông không tin các kinh như: PHÁP HOA, HOA NGHIÊM, DI ĐÀ, BÁT NHÃN, họ cho Pháp Đại-thừa là không phải của PHẬT nói lại còn đòi mở cuộc tranh luận RỐI REN, thật ra chim Én đậu ở Phan Dậu làm sao biết được dấu vết cao xa của cánh chim Hồng.
Cổ đức đã dạy:
“Dục Đắc Bất Chiêu Vô Gián Nghiệp,
Mạc Báng Như Lai Chánh Pháp Luân.”
( Muốn khỏi bị mang Vô-gián nghiệp,
Đừng khinh Chánh-pháp của Như Lai.)
Từ xưa vì sợ người tu học Phật phạm tội này, cho nên chư Bồ Tát đã thị hiện bác phá Đại thừa, rồi đọa Địa-ngục ngay trước mắt, cho quần chúng thấy để ngăn ngừa chư Tăng.
CHÍNH bên Nam Tông Tuy không tin ĐẠI THỪA, nhưng ÍT có duyên tạo tội này, vì họ ở bên xứ thuộc Tiểu thừa.
RIÊNG chư Tăng-Ni Thiện-Tín ở các nước bắc TÔNG Phật giáo cần phải DÈ DẶT, vì nơi đây pháp Đại-thừa lan rộng, để nói thêm chính Ngài Hư-vân một BẬC THAM THIỀN NGỘ ĐẠO cũng tính tịnh độ khuyên niệm Phật.
Pháp Ngữ của Thiền Sư Hư Vân
Tham thiền cùng niệm Phật
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình. Ðây là hiện tướng xấu xa trong nhà Phật, thật rất đau lòng! Thế tục có câu: "Gia đình hòa hợp thì muôn sự đều hưng thịnh. Gia đình ai oán thì miệng chẳng ngon."
Huynh đệ chửi mắng lẫn nhau, chẳng lẽ không bị người đời cười chê cùng khinh khi sao!
Tham thiền, niệm Phật cùng các pháp môn khác đều do kim khẩu của Phật Thích Ca thuyết ra. Ðạo vốn không hai, chỉ do căn khí nghiệp duyên của chúng sanh không đồng, nên Phật tùy theo bịnh mà cho thuốc. Vì phương tiện nên đức Phật thuyết ra nhiều pháp môn để nhiếp thọ giáo hóa quần sanh. Sau này, chư đại đức y theo giáo lý mà phân tông phái; bất quá chỉ do đối cơ mà thuyết pháp. Nếu người muốn tu trì để trở về tự tánh, thì chỉ cần bước vào một cửa là có thể nhập đạo diệu môn, vì bổn gốc vốn không phân biệt cao thấp. Các pháp xưa nay vốn hỗ tương thông đạt, viên dung vô ngại. Nếu như niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, thì có khác gì với tham thiền! Tham thiền đến độ năng sở cả hai đều mất, thì có khác gì với thật tướng niệm Phật! Thiền tức là Thiền trong Tịnh Ðộ. Tịnh Ðộ tức là Tịnh trong Thiền. Thiền và Tịnh Ðộ vốn tương trợ lẫn nhau. Sao thế nhân khởi tâm chấp trước một bên, thấy cửa này nhà nọ, tự tán thán mà hủy báng kẻ khác, giống như nước với lửa chẳng bao giờ tương dung, khiến phản lại thâm ý phân tông khác giáo của Phật Tổ! Lại nữa, có thể vô ý phạm trọng tội hủy báng Phật pháp. Thật có đáng thương lắm không! Hy vọng quý vị đồng nhân, không luận tu trì pháp môn nào, đều phải thể hội thâm sâu yếu chỉ vô tranh của Phật Tổ, chớ múa gậy đánh nhau trong nhà. Mọi người phải hợp lực đồng tâm, cứu độ con thuyền Bát Nhã trên sóng ba đào.
51.-Ẩn tu ngẫm diệu đạo Liên trì
Căn tiểu thừa nghi chẳng lạ gì ?
Thượng đức năm ngàn Linh Thứu hội
Thành quân bại Bắc rút lui đi.
Đạo-nhãn của bậc A-la-hán thuộc Tiểu-thừa chỉ thấy biết cảnh sự trong vòng cõi tam thiên, nên có vị tuy đã chứng đệ Tứ-quả vẫn không công nhận cõi Cực Lạc.
Khi xưa Đức THẾ TÔN nói kinh Pháp Hoa trong hội Linh Sơn, 5.000 Thượng Đức Thanh-văn đã chứng từ Sơ-quả đến Tứ-quả, cho là mình đã đi đến mức cuối cùng, ngoài ngôi vị A-la-hán không còn chi cao hơn nữa, không tin lời Phật, nên lặng lẽ rút lui ra khỏi Pháp Hội, thế thì biết tin được pháp Đại thừa và môn Tịnh độ Duy chỉ có 2 hạng:
1) Bậc Pháp-thân Đại sĩ chứng nghiệm pháp sâu mầu,
thấy biết mười phương cõi.
2) Hàng phàm phu tuy chưa Đắc quả,
song đã gieo Chủng Tử Đại Thừa và Tịnh Độ trong nhiều kiếp.
Vài mươi năm trước, chính Bút giả nghe một vị thượng tọa bảo: Kinh Hoa Nghiêm và Di Đà do mấy vị tổ bên Tàu viết ra, chứ không phải của Phật nói, rất lấy làm ngạc nhiên, nhưng hiện tại nhờ duyệt lãm nhiều kinh luận đã nhận xét kỹ càng, thì không còn lạ nữa.
52.-Ẩn tu chán kẻ nói loanh quanh
Đem hiệu Di Đà phối ngũ-hành
Bao-tử giả là ao Thất-bảo
Phật lành niệm Phật để làm danh !
NHƯ Ý : Có những phái BÀNG MÔN vì thấy Đạo Phật đã Thạnh truyền từ lâu, được quần chúng Tin nhận nên mượn danh Nghĩa, danh Từ, Kinh PHẬT để gạt gẫm lôi kéo hàng tín TÂM PHẬT GIÁO vào môn phái của mình.
Về Danh-nghĩa họ cũng tự xưng là Phật-giáo, thuộc ngành này ngành nọ, cũng có Phật Thích Ca, Di Đà , đức Quán Âm, Di Lặc.
Về Danh-từ họ cũng nói Chân-như, Bồ-đề, Niết-bàn, Bát-nhã.
Về KINH họ cũng Ngụy-tạo hoặc Ngụy-giải chẳng hạn như chữ NAM là Bính Đinh cung HỎA, chữ MÔ là ứng vật vô hình, Ao Thất Bảo là dạ dày, Bảo Thọ là xương sườn, Bát Công Đức Thủy kể ra tám thứ nước nhơ trong Thân, khá hơn một chút có phái cho Linh-hồn là vần Hắc khí, Linh-tánh là một vùng bạch Quang.
Sự thật chỉ là Điện-quang thôi, cao hơn nữa có phái ngoại môn Thiền, nhận cảnh giới Tam-Thiền là Chân-như ĐẠI NGÃ, phái sau này nhiều vị cũng có sự Linh diệu Sở-đắc, hàng mới tu Phật, Thật ra khả năng vẫn thua kém họ.
53.-Ẩn tu than kẻ chấp ly kỳ
Không sắc thật quyền chẳng biết chi
Bảo Phật gỗ, đồng không độ lửa
Còn thân Phật đất, nước tan đi.
Lời nói dường như Tự-tại Vô-ngại, song đường lối mật truyền của họ vẫn ở trong vòng chấp LIỄN, vòng điện chạy qua châu Thân gọi là Tiểu châu thiên mà thôi, họ không biết tượng Phật là Quyền để dẫn người tu đi đến chỗ THẬT, như QUYỀN cũng chính là Thật, Kinh Pháp là chiếc bè đưa sang sông, là ngón tay chỉ Mặt-Trăng, khi chưa qua được vòng KHỔ ẢI phải nhờ chiếc bè, khi chưa thấy được TRĂNG, Tánh phải nương ngón Tay.
KINH và TƯỢNG đều là Huyễn-hữu hay Huyễn-sắc, nhưng cũng chính là Chân-không, xưa có một vị hành giả đến hỏi một vị Tôn-túc, Phật ở đâu?
Đáp: Đang ngồi trên bàn thờ Chánh-điện, hành giả lại gạn, Không Ý tôi hỏi là Thật Phật kìa, vị Tôn-túc vẫn đáp đang ngồi ở Chánh-điện, đây là chỉ cho Quyền Phật Tức Thật Phật các pháp đều là CHÂN NHƯ PHÁP.
Lại có vị Tăng đến hỏi một bậc Thiền-Bá, khi kiếp lửa đốt cháy cả thế gian Chân-tánh có theo đó mà bị thiêu hoại hay không?
Đáp: Đều theo đó mà bị cháy tan cả, vị Tăng ngơ ngác không hiểu, Đến khắp danh lam ở các Núi tham phỏng hơn 10 năm sau mới tỏ Ngộ và Bởi thế mới có lời nguyền ngữ:
“Một câu kiếp lửa tiêu tan hết, ngàn núi bôn Mang Phận Nạp Tăng.”
Trên đây là Ý Chân-không Chẳng ngoài Huyễn-sắc.
54.-Ẩn tu chẳng ngại hung yêu ma
Vì để biệt phân chánh với tà
Chỉ sợ cửa không hàng phá Kiến
Dắt người lầm lạc khó nhìn ra.
Vậy sự việc PHÁ KIẾN là như thế nào?
Chẳng hạn như kẽ nói lý KHÔNG, bác sự Ăn chay, Sám hối, niệm Phật, tụng Kinh, cho là phương tiện để độ hàng thấp kém, chỉ có giữ tâm KHÔNG KHÔNG mới thật là CAO SIÊU, mau được Giác ngộ, nhưng cái không của họ kết cuộc chỉ là cái không rỗng tuếch, là NGOAN không chứ chẳng phải là CHÂN không.
Ví dụ như họ bảo ĐỊA là Tâm-địa, TẠNG là Tánh-tạng, chứ thực ra không có ĐỨC ĐỊA TẠNG, Tâm tham, sân, si, phiền não là Địa-ngục, chứ không có CÕI ĐỊA NGỤC nào khác, những người này thường là kẻ ở trong cửa Thiền, nói Lý Thiền, nhưng hiểu sai lầm rồi dẫn dắt không biết bao nhiêu người lầm lạc theo mình, lại tự cho là cao siêu.
Các bậc tu Thiền chân Chánh thấy thế rất đau lòng, buồn cho Phật Pháp, trong bài Chứng Đạo Ca, Vĩnh gia Huyền-Giác Thiền Sư có đề cập đến điều này qua mấy câu:
Nói rỗng không bác nhân quả,
Tràng Tràng đầy dẫy mang ương họa.
Nguyên tác,
“Hoát đạt không, bát nhân quả,
Mảng mảng đãng đãng chiêu ương họa.”
Có một vị bài bác việc Niệm Danh Hiệu Đức Bồ Tát Quán-Thế-Âm, thuộc phẩm PHỔ MÔN trong Kinh Pháp Hoa bảo:
Nói niệm Quán Thế Âm dứt trừ Tham Sân Si là không đúng, vì Tham Sân Si từ nơi TÂM SINH KHỞI, nếu chẳng dứt cái gốc của nó ở nơi tâm thì làm sao diệt trừ được. Cho nên, có nhiều bà niệm QUÁN ÂM mà vẫn đổ PHIỀN NÃO.
Xin đáp: Nói về LÝ niệm QUÁN ÂM mà chưa dứt được TAM ĐỘC là bởi sức TÍN Niệm và dụng Công không Triệt để, ví như nhà tu Thiền tuy biết Tam độc phát từ tâm, mà sự nhiếp TÂM dứt trừ chưa cùng cực, thì Lữa Tham Sân Si vẫn còn kẽ hở để phát khởi Bừng Cháy, huống chi là những Bà Quê Mùa không biết đạo lý đó.
Nếu nói về SỰ thì HỒNG DANH của Phật, Bồ tát có Vô-Lượng Công-Đức, kẽ niệm QUÁN ÂM tuy chưa hiểu đạo lý trên, nhưng nếu thường xuyên xưng Niệm thì Phiền não sẽ giảm nhẹ dần, Tâm trí cũng lần sáng suốt khai ngộ rồi đi đến sự Nhiếp-Tâm dức trừ hẳn, cái lỗi của vị TU SĨ bài bác đó, đáng lẽ khi thấy hàng Phật tử đã thực hành được SỰ niệm, thì nói thêm phần LÝ để cho họ được mau tăng tiến, trái lại phủ nhận hẳn không cho NIỆM, Bảo phải nhiếp tâm tham Thiền mới có hiệu quả, đó là chấp Lý bỏ Sự, là lỗi Phá-kiến do niệm Phân-biệt môn phái.
Lại có tội hủy báng Kinh điển và Phật Bồ tát, lại có một Phật-tử trần thuật mình có đứa con yêu quý, trong lúc nó ĐAU NẶNG, Cha Mẹ tha thiết Chí Thành Niệm Danh Hiệu QUÁN THẾ ÂM, Cầu cho con An-Lành, song Rốt cuộc đứa con vẫn CHẾT, từ đó cả hai vợ chồng nghe theo lời ông thầy Khuyên Bảo chỉ riêng lo tham Thiền, không còn tin tưởng nơi sự Tụng Kinh, Niệm Phật cùng danh hiệu Bồ-Tát nữa, thấy Phật-tử đó vì thương con, vì lầm nhận lời THẦY là đúng. Sanh niệm Cố chấp khó giải Tỏa, bút Giả không muốn nói nhiều, nhưng xin thuật lại một câu chuyện có thật, để khuyên những vị có trường hợp tương tự như trên.
Cách đây hơn 30 năm, nhân dịp xem một Nguyệt San Phật Giáo, dường như là tập VIÊN ÂM, bút Giả còn nhớ có một vị Phật-tử tự trần thuật lại việc mình đại khái như sau :
Do cơn SẢN nặng bị mệt lã, kể chắc khó sống, Bà Chí thành thầm niệm QUÁN ÂM, trong cơn mơ màng Bà thấy một vị đội mão mặc áo toàn trắng, đẹp như TIÊN NGA, bưng chậu LAN đi đến, NGỬI được mùi hương Thanh nhẹ của Hoa lan, Bà khỏe lần.
Kế đó, vị Nữ bưng ly nước bảo uống bà Thưa: Vì con mới sanh Bác-sĩ Hoàng Mộng Lương không cho uống nước lã, vị ấy bảo cứ uống rồi sẽ LÀNH BỆNH, sau khi uống ly nước, bà cảm thấy như tăng thêm sức lực, tinh thần sáng tỉnh, liền Giật mình thức dậy biết Chắc đó là đức QUÁN THẾ ÂM, nhưng đứa con mới sanh cũng đang đau, Bà lại Niệm Danh Hiệu Bồ-tát, Cầu cho nó mau mạnh khỏe, lần này cũng thấy vị Nữ đến không nói chi cả, bồng đứa bé quay mình bước đi, nghe một tiếng con nít khóc thét lên, Bà tỉnh giấc xem lại thì đứa con ĐÃ CHẾT.
Sau khi ra nhà Bảo-sanh, bà đến Chùa hỏi Nguyên-nhân tại sao niệm Bồ-tát không Linh, vị sư Cụ là Viện Chủ đáp: Chẳng phải không Linh Ứng vì nếu thế thì tại sao lần trước bà Niệm Bồ-Tát lại cứu cho MAU lành bệnh, nên biết chư Phật Bồ-tát đối với chúng sanh như CHA MẸ, thương nghĩ lo sự an toàn cho con, điều nào con muốn nếu xét thấy được thì CHO, như thấy có hại tất không hứa KHẢ.
Có lẽ đứa bé đó là OAN GIA TRÁI CHỦ của bà đầu thai vào để BÁO OÁN. Bồ-Tát muốn cứu độ cho Bà khỏi khổ về sau, nên mới bắt đi. Đây là một truyện nói về PHÁ KIẾN, lời nói của vị SƯ CỤ là đúng, lời ông THẦY Vợ Chồng Phật-tử kia là sai lầm, những khía cạnh về lỗi phá kiến rất nhiều, không thể kể hết ra đây được.
55.-Ẩn tu thời mạt nhớ Kinh ghi
Học đạo muôn ngàn ít ngộ kỳ
Duy niệm Hồng-danh cầu Tịnh-độ
Hiện đời giải thoát rất ly-kỳ.
Nhưng nếu đắc sơ quả TU ĐÀ HOÀN, kể như đã LÊN NGÔI bất thối về Tiểu thừa, chỉ còn 7 lần sanh lên cõi Trời, 7 phiên trở xuống cõi Người, sẽ đắc đệ Tứ Quả.
Về Đại-thừa chứng lên ngôi SƠ HOAN HỶ ĐỊA là thoát luân hồi, tuy phần sanh Không Chân Như, cho đến đệ thất VIỄN HÀNH ĐỊA mới bằng A LA HÁN, nhưng phần pháp KHÔNG CHÂN NHƯ đã vượt hẳn A LA HÁN, thần thông đạo lực cũng cao hơn nhiều, vì đạo nhãn của A-la-hán chỉ thấy được 1 cõi Đại-thiên Thế-giới, còn đạo lực Huệ-nhãn của bậc Sơ-địa bồ-tát lan rộng đến 100 cõi Đại-thiên.
Về phần bất thối chuyển thì đại thừa giáo phải chứng đến ngôi ĐỆ THẤT BẤT THỐI TÂM TRỤ trong THẬP TRỤ, theo Khởi Tín Luận thì muốn lên đệ Thất Bất Thối Tâm Trụ, thì từ khi mới phát Bồ-đề TÂM phải tu hành liên tục mỗi đời cho đến 1 MUÔN Đại-kiếp mới có thể tiến chứng, mà 1 Đại-kiếp nếu tính Kể ra có đến 1 tỷ 343 triệu 840 Ngàn Năm.
Thế thì niệm Phật chỉ một đời được thoát Luân-hồi, chẳng phải là Pháp Ly-kỳ (Lạ lùng, khác thường) hay sao?
Thiền, Tịnh, thị phi chấp trước dày
Kiên cố đấu tranh đà hiện rõ
Đạo đời phân hóa cảnh thời nay.
Bắc-Tông có sự tranh đua của THIỀN cùng TỊNH trên đạo lý KHÔNG HỮU, khi xưa Đức Thế-Tôn đã DỰ biết, Phật pháp phải trải qua 5 thời kỳ, mỗi thời kỳ là 500 năm, có chỗ nói thời sau rốt kéo dài quá 500 năm cho đến khi PHÁP DIỆT TẬN , 5 thời kỳ đó là :
1) Chánh Pháp Kiên Cố
2) Thiền Định Kiên Cố
3) Đa Văn Kiên Cố
4) Pháp Tự Kiên Cố
5) Đấu Tranh Kiên Cố
Nói ĐẤU TRANH KIÊN CỐ là vì trong thời kỳ này, nhân sanh NGÃ CHẤP và NGÃ SỞ CHẤP rất nặng. Bởi thế khi Tu-hành không ý thức đến vấn đề Giải-thoát, mà quan tâm đến nhiều LỢI DANH BÈ PHÁI, nhớ lại trong năm 1963 có phái đoàn Phật Giáo Trung-Hoa, do Bạch Thánh Pháp Sư hướng dẫn sang Ấn-Độ để chiêm Bái thánh tích, cuộc hành trình trải qua Thái-Lan và có mở nhiều buổi Thuyết pháp, một nhóm Tăng cùng Tín đồ xứ này không chấp nhận, nhất định đòi mở cuộc tranh Luận, bên Nam-tông đề cử Nan-Đà Luật-sư tinh thông về A-Tỳ-Đạt-Ma Câu-XÁ Luận, bên phái Trung Hoa cử Tinh-Vân Pháp-sư ra đối chất.
Nhưng đến kỳ TRANH BIỆN, trước tiên ngài Tinh-Vân đưa ra ý kiến, nói hiện nay trên thế giới phân hóa, quần chúng sống TRONG hồi hộp giữa các tai nạn ĐẤU TRANH, mục đích của các TÔN GIÁO là cứu KHỔ phò NGUY, tùy duyên đưa người lên nấc thang tiến hóa cho đến chỗ Giải Thoát, theo như Ngu Ý thời buổi này không phải là lúc Tôn Giáo nên Tranh Chấp, trên tổ chức tuyên truyền Giáo RIÊNG, mà mỗi TÔNG phái nên Tùy cơ, Tùy cảnh để Cứu đời, trên tinh thần Đạo Đức CHUNG, lại phải cùng sống hòa hợp, cùng trao đổi KIẾN THỨC để bổ khuyết cho nhau.
Vậy chẳng biết TÔN Ý thế nào?
Nan-Đà Luật-sư chấp nhận cho là CAO KIẾN và xin BỎ cuộc TRANH BIỆN. Trên đây là một sự VIỆC rất ĐÁNG NÊU GƯƠNG cho hàng HẬU HỌC.
57.-Ẩn tu ý Tổ cảm thông tri
Bi trí tuỳ cơ độ Mạt-thì
Đâu phải chấp đua như thế tục
Mà riêng khen Tịnh đạo huyền vi.
Chư Phật Bồ tát đã chứng đạo lý Chân-ngã Vô-ngã, nhận rõ tất cả Chúng sanh Hữu tình cho đến vạn vật VÔ TÌNH đều là bản thân bản thể của mình, cho nên vận tâm TRÍ BI, mở muôn cửa Pháp khi Quyền khi Thật, lúc Ẩn lúc Hiện toàn vì thương xót độ sanh, Tuyệt không có Ý hơn thua tranh chấp.
Thở xưa vì người học Đạo phần đông Căn-tánh sáng lẹ, lại nghiệp nhẹ Tâm-thuần hợp với tông Thiền, có thể một đời được ngộ Đạo chứng Đạo, nên chư Bồ Tát Tổ Sư hết sức tuyên dương về TÂM tông.
Giả sử đời này Tu chưa được tỏ Ngộ, thì Chánh pháp còn Thạnh, bậc Tri thức còn đông, trong các Kiếp sau cũng lần đi đến chỗ ngộ Chứng, lúc ấy Thiền Tông được lưu truyền rất thạnh, vượt bỏ các môn phái khác lại đằng sau, đến khi không còn nhìn thấy TÔNG TÍCH NGUỒN GỐC nữa.
Đến Thời Mạt Pháp, quần chúng căn cơ càng lúc càng Kém-tối, cảnh đời và đạo Đức càng lúc càng Suy-mòn, chư cổ Đức quán biết mới tuyên dương Tịnh Tông để cứu thời Mạc-hậu, lúc đầu vì thế lực và tập quán môn tu thiền còn quá thạnh, các ngài phải thì hiện trước NGỘ CHỨNG về Thiền, sau mới Tuyên Dương Tịnh Độ, tuy thế vẫn còn bị bác phá.
Lần lần vì Tịnh Pháp hợp thời cơ, nên thế lực càng lúc càng song hành với Thiền, rồi lấn lướt hơn bên Thiền, nên các Thiền-giả kém suy hiểu, mới phát khởi mối tranh chấp, cảnh phân hóa nguyên do từ đó.
Đời Lương Võ Đế vì luận đạo không hợp cơ, Đức Đạt Ma Tổ Sư bỏ lên ẩn trên non Thiếu Thất, vua Lương-võ hỏi ngài CHÍ CÔNG, một vị Cao Tăng Đắc Đạo vị đó là ai?
Chí-Công đáp, đó là ỨNG THÂN của Bồ Tát Quán-Thế-Âm, bệ hạ không thể mời thỉnh trở về được đâu, lại tương truyền rằng ngài Bát Nhã Đa La, tổ thứ 27 của Thiền Tông ở Ấn Độ, là ỨNG THÂN của Đại-Thế-Chí Bồ Tát.
Đức Quán-Âm, Thế-Chí phụ Đức Phật A-Di-Đà tiếp dẫn chúng sanh về Cực Lạc, chính thức là nhân vật của Tịnh-độ mà khi ỨNG HÓA, vì thuận theo căn cơ để độ sanh cũng PHẢI ỨNG HÓA THÂN trong Thiền-Tông, xem Thế thì biết chư Bồ-tát Tổ-sư đâu có phân biệt ?
(Ứng thân và Hóa thân khác nhau thế nào?
Ứng thân mỗi khi hiển hiện ra theo căn cơ chúng sanh để độ thì có từng giai đoạn, gọi là phần căn cứ về lịch sử. Cũng như đức Thích Ca Mâu Ni Phật, trước đó có: Giáng thân, thọ thai nơi vương cung Tịnh Phạn ở nước Ca Tỳ La Vệ, Thiên Trúc. Rồi sanh ra làm thái tử Tất Đạt Đa. Lớn lên xuất gia tu hành thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Sau khi thành Phật, thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Từ khi xuất xứ cho đến kết cuộc, cũng đúng theo căn cơ của chúng sanh, cũng phải từ nơi mẹ sanh ra, rồi lớn lên, tạo sự nghiệp, rồi cũng già chết. Đức Phật cũng vậy. Sau khi thuyết pháp xong, công việc đã hoàn tất, đức Phật nhập Niết Bàn, đó gọi là Ứng Thân Phật.
Còn Hóa Thân Phật cũng tùy trường hợp, chỉ có trong tùy lúc tùy thời mà thôi. Chúng sanh đủ duyên, cần được khỏi khổ , được vào đạo, Phật tùy theo đó mà hiện thân, để cho chúng sanh được thấy và giáo hóa họ. Không biết thân đó xuất xứ từ đâu, mà không biết đi về đâu, không có sự giáng sanh, cũng không phải có sự nhập Niết Bàn, đó gọi là Hóa Thân.
Ứng Thân và Hóa Thân là những thân tùy theo cơ duyên của chúng sanh để độ . Như vậy, Ứng Thân và Hóa Thân có khác nhau. Ví như đức Quán Thế Âm Bồ tát cũng có Hóa Thân với Ứng Thân.
Ứng Thân là phần lịch sử, hoặc sanh trong nhà vua, lớn lên thế nào, rồi tu hành, rồi đắc đạo. Đó gọi là Ứng Thân của Ngài Quán Thế Âm Bồ tát.
Còn Hóa thân là tỷ như có người đang bị tai nạn, chí tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm, lúc đó hoặc thấy có một bà già hiện đến cứu người ra khỏi tai nạn, rồi biến mất đi đâu. Như vậy gọi là Hóa Thân. Sau khi được cứu khổ rồi mới trực nhận rằng mình niệm đức Quán Thế Âm mới gặp được bà già, biết rằng đức Quán Thế Âm hiện đến cứu khổ cho ta.)
Giảng Sư
Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
KINH PHẠM VÕNG
Nhị Thập Thất Tổ
Bát-Nhã-Đa-La Tôn giả
Dám hỏi duyên nào nay gặp gỡ
Kiếp xưa cùng trú lại tao phùng
Thâm sâu Bát Nhã thầy chuyên giảng
Con thuyết Liên Hoa Diệu Pháp kinh
Bầy tiệc trai tăng vua cúng dường
Trai xong hồi hướng cảnh thanh bình
Hít thở xa lìa mười tám giới
An nhiên tự tại khắp mười phương.
(Hữu hà nhân duyên kim tương ngộ
Viễn kiếp đồng trú hữu trùng phùng
Sư diễn Ma ha thâm Bát nhã
Dư chuyển Diệu Pháp Liên Hoa kinh
Vương thỉnh ứng cúng trai thứ tất
Tăng vị hồi hướng chúc khang bình
Hô hấp bất cư ấm xứ giới
Giải thoát tự tại mãn thái hư.)
Nhị Thập Bát Tổ
Bồ-Đề-Đạt-Ma Đại Sư
Đủ duyên sơ Tổ qua Đông độ
Trước trẫm là ai vua chẳng ngộ
Thần Quang Hùng Nhĩ quỳ chín năm
Huệ Khả chặt tay đầu đội tuyết
Pháp lớn truyền trao tâm ấn tâm
Huệ mạng từ Sơ đến Nhị Tổ
Ám hại sáu lần chẳng mảy may
Chiếc giầy để lại ngàn năm nhớ.
( Chấn Đán duyên thục Đạt-Ma lai
Đối trẫm bất thức cơ vị cai
Thần Quang Hùng Nhĩ quỵ cửu tải
Huệ Khả tích tuyết tý độc tài
Dĩ tâm ấn tâm phó đại pháp
Sơ tổ nhị tổ tục mạng mạch
Lục thứ thọ hại hào vô tổn
Chích lý tây quy lưu vĩnh hoài.)
Phật Tổ Đạo Ảnh
Hư Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
58.-Ẩn tu thời mạt nhớ câu than
Đức Tín Tỳ Kheo kém Thiện-nam
Cư-sĩ lại thua hàng tín-nữ
Thiên Như huyền ký để lời vàng.
“ Đời mạt pháp về sau, hàng Tỳ-kheo lòng tin thua Cư-sĩ, hàng Cư-sĩ lòng Tin lại thua Nữ-nhân”.
Kinh Hoa Nghiêm cũng nói, lòng TIN là bước đầu của đạo, là MẸ sanh ra các công đức, bởi giáo lý của Phật cao siêu, cảnh giới chư Phật Bồ-tát, chúng sanh không thể THẤY hiểu được, nên phải Tin theo lời Phật, đừng đem kiến thức của Phàm-phu mà phán đoán SAI lầm.
Khi xưa một vị VUA xứ Ai-Cập trong giấc mộng chỉ có 3 GIỜ, mà thấy mình ở trên cõi Trời đến 8 NGÀY, nhà Vua không tin hỏi một vị Quốc-Sư, Ông này bảo nhà Vua úp mặt xuống chậu nước rồi ngước đầu lên liền, chỉ trong khoảnh khắc ấy, vị Quốc Sư dùng thần thông làm cho Vua thấy mình rơi xuống BIỂN, rồi lại được vào bờ đói khát quá phải tìm cách sinh nhai, có gia đình vợ con sống trong cảnh vất vã, trải qua 60 NĂM, một ngày kia xuống Biển tắm, cúi đầu xuống nước rửa mặt rồi ngước lên, thì quá ra mình đang ngồi giữa Hoàng-Triều.
Lại câu chuyện ông Phí Trường-Phòng, Thấy vị Hồ-Tiên vai mang Hồ-Lô, rồi mỗi tối lại chui vào đó NGỦ, thấy làm lạ Ông xin cho được vào Hồ lô thì thấy một vùng trời đất khác, có đủ Nhật Nguyệt non sông, bởi THỜI gian và KHÔNG gian đều là HUYỄN, phép Tiên còn có thể hóa hiện như vậy, huống chi là Pháp Phật ?
Cho nên, Viên-Chiếu Thiền sư một cao Tăng Việt-Nam đã có câu: Càn khôn Chỉ ở đầu lông nhỏ, Nhật Nguyệt nằm trong hạt cải mầm. Nguyên tác, “Càn Khôn tận thị Mao đầu Thượng, Nhật Nguyệt bao Hàm giới tử Trung”.
Cõi Cực-lạc và Phật A-Di-Đà ở ngoài tam giới, vượt tầm hiểu biết của trần gian, nên phải Tin lời Phật, tiếc thay loài người kiến thức đã nông cạn lại không Tin lời của Như Lai, làm sao vào biển ĐẠI THỪA PHẬT PHÁP rộng rãi bao la.
Cho nên, khi nói Kinh A-Di-Đà đức Thế-tôn đã dự biết điều này, bảo Ta vì tất cả thế gian nói Pháp khó Tin này, thật là rất khó.
Bút giả từng nghe một vị Thượng-tọa than, đời này phần Đông Thanh-niên Tăng học đạo, thì nói lý cao xa tận chín tầng mây, trong khi việc bái sám công phu lại biếng trễ không làm nổi, tệ nhất là mấy Ông nương CỬA CHÙA tranh thủ học cho có bằng cấp Tú Tài, Cử nhân... lại buông lung ngã theo lý thuyết THẾ GIAN, không còn được mấy người đáng TIN cẩn.
Trong Kinh nói, THẾ TRÍ BIỆN THÔNG là một trong TÁM NẠN, rất đúng! Mấy ông học NGOÀI ĐỜI giỏi, lý thuyết LANH LỢI, thật ra Tôi nói không lại họ, Tôi có một đứa Đệ-tử học đến trình độ Cử-nhân, vì giới LUẬT cẩu thả, Tôi quở trách, nó Đáp : Đức THÍCH CA, GIA TÔ, LÃO TỬ hay KHỔNG TỬ, Bất quá cũng chỉ là những Triết-gia, mỗi Ông đều mang một cặp KIẾNG MÀU khác nhau, đời nầy mà còn hữu Bại cứ khư khư ôm bộ TỨ PHẦN LUẬT hoài, thì làm sao tiến hóa nổi, Ông đó sau đi Tuyên húy Phật giáo rồi ra Thế-gian, vị Thượng Tọa nói tiếp, còn Tôi thì không dám cho đứa Đệ-tử nào đi học Thế-pháp nữa.
Vị Thượng Tọa buồn vì cảnh ngộ Riêng mà nói như thế, Thật ra trong chư Thanh-niên TĂNG học đời nay, nhiều vị có Ngôn-hạnh đáng khen không đến nỗi kém như vậy.
59.-Ẩn tu lòng đạo muốn tăng cao
Phải quán tam đồ khổ lớn lao
Phát ý Bồ đề siêng niệm Phật
Bởi cơ nước lửa sắp dâng trào.
Còn lý lẽ lại vững chắc phân minh, các Thư-sinh tập hợp đến Chùa ghi chép lại, sau Tìm hỏi tên Họ nơi cư trú, ngày tháng mãn phần cho đến hành vi của đương sự lúc bình thường đều đúng cả, những điều ghi chép lại gồm mấy mươi chuyện là nội dung của quyển sách trên. Có người đem hỏi ý kiến Nguyệt-Hà Pháp sư một danh Tăng đương thời.
Ngài đáp: Nói về Lý Minh Đức Chánh-tâm của đạo NHO, Giác-Ngộ Vô-Vi của đạo PHẬT, duy có hàng Quân-tử, bậc Thượng-căn mới thực hành nổi, nhưng mà cần có sự Linh ứng của Qủy thần, CHO thấy được Tội Phước NHÂN QUẢ, mới đủ sức Cảnh giác được Lòng người.
Khiến cho phát Tâm khinh sợ bỏ dữ làm lành, cho nên từ xưa đến nay thỉnh thoảng chư Bồ-tát Thánh thần, thường dùng Huyền nghi, khiến thể hiện các sự kiện đó, mà trường hợp này chỉ là một, những người tu căn TRÍ KÉM phải thường xem chuyện Nhân-quả hay y theo Kinh mà quán cảnh khổ Tam-đồ thì đạo Tâm mới dễ thăng tiến, sự hóa độ có nhiều phương tiện, lắm người chỉ nghe chuyện Ma quỷ, Địa ngục hay các Sấm ký nghi về cơ Tận Diệt tương lai cũng phát Tâm dũng mãnh ăn Chay bỏ dữ làm lành, tụng Kinh niệm Phật, thế nên BIẾT Vua Diêm-la thật là Di-Lặc, đối với trước vạt dầu Chuyển-Pháp-Luân, chuyển đến TÌNH TRẦN điều DỨT sạch, tiêu tan NGÃ PHÁP chứng Chân-thường.
60.-Ẩn tu nhìn khắp cảnh ban mai
Người vật ra đường chim nhảy bay
Tất cả chỉ vì lo vóc huyễn
Nhọc, già, bịnh, chết mấy ai hay?
Có nhà du lịch đến Ấn-Độ hỏi một Đạo-sĩ, ở Xứ này có DI LẶC không ?
Đạo-sĩ đáp: Có chứ.
Đời người ai cũng trải qua cảnh SINH, GIÀ, BỊNH, CHẾT cùng những nhọc nhằn khổ não về THÂN TÂM, sau khi chết lại không biết mình đi về đâu mà không mấy ai nghĩ đến, đó thật là điều hết sức lạ.
61.-Ẩn tu tục lụy thấy muôn mầu
Trong cảnh giàu sang dễ bạc đầu
Việc đắc ý nên dừng nghĩ lại
Kiếp trần tạm gởi được bao lâu.
Sự Phùng ĐẮC Ý nghi Hưu tức,
Phú quý trường trung dị BẠCH ĐẦU.
( Việc ĐẮC Ý nên dừng nghĩ lại,
Trong cảnh giàu sang dễ BẠC ĐẦU.)
Ngẫn trong sân thấy có chiếc lọ Cỏ đơm đầy hoa, Sơn cảnh ráng mây, một nhịp cầu bắc ngang qua dòng suối, dãy khách lẫn thẩn nhàn du, Bên đó bay bướm hai câu Thi với nét bút Thảo:
Yên Hà bất tỉnh sai tiền sử,
Thảo mộc không nghi mộng hậu thân.
(Việc Kiếp Trước RÁNG MÂY sai tỉnh,
Thân Mộng Sau cây Cỏ mơ màng.)
Tạm dịch,
Việc Kiếp Trước RÁNG MÂY sai tỉnh,
Thân Mộng Sau cây Cỏ mơ màng.
Thiên-thai Bàn Quế bàng hoàng,
Nỗi Niềm biết gửi cang càn vào đâu ?
62.-Ẩn tu nhìn thế loạn đường tơ
Các nước phân tranh rối cuộc cờ
Đạo-pháp vang hồi chuông cảnh tỉnh
Mộng thành sấm dậy chẳng tan mơ.
Do nhân loại tạo nghiệp Sát sanh, Ăn Cá Thịt, nên nghiệp Sát đó dồn lại, cứ khoảng hơn vài TRĂM năm lại có tai nạn chiến tranh gọi là cuộc TIỂU biến, độ hơn vài NGÀN năm, chiến Cuộc lại Khởi lên lan rộng đến nhiều nước gọi là TRUNG biến, độ hơn vài MUÔN năm khắp thế giới đều có chiến tranh, những Tai nạn, Bão lụt, Hạn hán, Động đất, Dịch bệnh liên tiếp xảy ra, nhiều nơi núi đổ đất sụp, khiến cho vô số người chết, cuộc diện thế giới đổi thay gọi là ĐẠI biến.
Nay cảnh Đại-biến ở trần gian sắp diễn, phải cố gắng tu hành mới mong thoát khỏi Tai họa, Hư-Vân thiền sư khi xuất thần Lên Cung Trời Đâu-suất, được nghe Đức DI LẶC BỒ TÁT nói một bài kệ dài, trong đó có mấy câu:
“Kiếp nghiệp đã Khởi-đầu,
Hãy khắp khuyên Tỉnh-ngộ.”
63.-Ẩn tu niệm Phật gọi Liên-hương
Khắp nguyện đồng lên Tuyển-Phật trường
Hoàng Hạc lầu mây lòng chẳng tưởng
Non Tiên ba cõi vẫn vô thường.
64.-Ẩn tu thường thấy hạng ngu thành
Niệm Phật thiện chung hoặc vãng sanh
Khiến nghĩ làng tu huyền luận giỏi
Bởi đâu khi tịch chẳng an lành?
Tại sao vị Hòa Thượng hay Pháp-sư này, khi sắp tịch lại hôn mê và có điềm xấu, còn bà Cư-sĩ nọ lúc chết an ổn hoặc có những Triệu chứng đẹp lành ?
Cố nhiên, chẳng phải tất cả người Xuất-gia đều như thế, chẳng hạn như Hòa Thượng Hoa-Nghiêm, Sư-cụ Vạn-An, Hòa Thượng Phi-Lai, Sư-cụ Tuyên-Linh... khi sắp Tịch hoặc biết Ngày giờ trước hoặc có Ánh sáng Hương lạ hoặc thấy Hoa sen lớn nở tươi đẹp, nhưng nói một cách xác thật phần đông hàng Cư-sĩ ngu dốt chân thành niệm Phật, khi mãn phần đều có điềm tốt hơn đa số hàng xuất Gia, Suy nghĩ lại Có lẽ do ba nguyên nhân như sau:
1) Ngoài sự Phạm giới, có kẻ nương cửa Phật song chỉ ranh đua theo Danh lợi, Chùa chiền, Đệ tử, Bổn đạo, gây Phe phái Quyến thuộc mà không ý thức đến sự Giải thoát.
2) Có vị Tâm tuy tốt, nhưng quanh Năm suốt Tháng, việc Đạo đa đoan, lâm cảnh ở Chùa làm DÂU Bá tánh, không mấy khi rảnh rỗi để Tu hành.
3) Có người khi ở ngoài đời, nghe một câu Pháp như hưởng vị Cam-Lộ, thấy nhà Chùa như cảnh Tây-Phương giả, nhưng lúc vào Đạo lần Lần lờn với cảnh Già-Lam, như lời tục nói: Gần chùa gọi Phật bằng Anh, mất lòng TÔN KÍNH, đến khi học được nhiều Kinh Luận, lại thích nói Huyền luận Diệu, tỏa ra mình cao Siêu, sanh lòng Ngã mạnh, mà Không chú Tâm đến vấn đề sống chết luân hồi, do đó nên phạm vào lỗi,
Đã lên non pháp quên tìm báu
Lần lựa đi về tiếc uổng công!
65.-Ẩn tu hằng tự nhủ riêng lòng
Đã biết đường Tây phải gắng công
Bình nhựt là nhân như chẳng thật
Lâm chung quả có nở Sen hồng.
1) Mình có TIN chắc đức A DI ĐÀ, cõi CỰC LẠC và Công Đức Niệm Phật hay không ?
2) Có dứt sạch Tình-Trần nhất là niệm ÁI, chí thiết cầu Vãng Sanh Giải Thoát hay không?
3) Công-phu có giữ được thường trực BỀN LÂU và Thanh Tịnh hay không ?
Hiện-tại vì là NHÂN, Lâm-chung là QUẢ, Nhân chắc quả sẽ Thật, Nhân dối quả tất Hư, đó là sự hiển nhiên chẳng hề Sai Lạc.
66.-Ẩn tu quyết chí gạt trần tình
Mặc nỗi khen chê lẫn bất bình
Sức yếu phải cam phần kém yếu
Tình đời ví nhẹ đạo tâm sinh.
67.-Ẩn tu tưởng đến cảnh Lê-viên
Điệu múa Nghê thường đẹp áo Xiêm
Kim cốc sanh ca dìu dặt trổi
Mà nay suông lạnh ánh thu thiềm !
Chư Thiên khác thì Yên lặng ngồi xem, không ĐỂ Ý gì đến Minh-Hoàng, Mặt dù trên NGỰC Vua có đeo tấm bài NGÀ, đề “Thái Bình Thiên Tử”, thấy điệu múa đẹp VUA hỏi thì LA CÔNG VIỄN đáp, đó là “NGHÊ THƯỜNG TIÊN Y VŨ KHÚC”.
Về dưới Trần, VUA họp các Cung-nữ, dạy Vũ-sư Chế biến và Huấn luyện Vũ khúc ấy , rồi từ đó nơi VƯỜN LÊ của MINH HOÀNG, lại hiện ra quang cảnh điệu GHÊ THƯỜNG lẫn tiếng sanh ca, nghi bát vật xen hàng lượng múa, mỗi khi trời trong trắng sáng, câu chuyện tương truyền là như thế, nhưng cảnh Huyền-Ảo của Quảng-Hàn vẻ đẹp sang của Kim-Cốc, nay đều như “Mộng” chỉ còn ánh Trăng sương lạnh mà thôi.
68.-Ẩn tu Chiêm-tộc nhớ Mường-Lan
Nữ chúa rừng xanh đẹp khác phàm !
Tướng sĩ trận voi uy-vũ thạnh
Nhạc mờ Phan Thiết núi sương lam !
Sau Bà có đông đảo Tướng-Sĩ và đoàn Voi Trận Tùy Tùng, lại có hai tướng cận vệ cao lớn, một vị có một vết sẹo bên mặt, Chắc là thương tích vì cuộc chiến, tiếng hát VONG QUỐC của người Chiêm, dường như còn vang lại giọng điệu THƯƠNG TÂM, bút giả xin ghi lại nơi đây nét cảm hoài ấy.
69.-Ẩn tu liên tưởng dãy Giang Đông
Xích Bích trống quân dậy lửa hồng !
Tuyệt-đại song kiều, anh kiệt mất
Tài tình mấy đoạn phút hoàn Không.
70.-Ẩn tu Nguyễn Huệ nhớ Anh-hào
Điệp-điệp quân thanh, chiến cuộc thâu
Trúc kết sang sông mờ bóng cũ
Mây ngàn cỏ nội đỉnh Tây sầu !
71.-Ẩn tu tìm hỏi truyện Tây Thi
Dư lại hồn mai ánh nguyệt trì !
Hận nỗi ba sinh đâu vắng tá?
Thương tình một mối có ra chi?
Bởi Thành Quách cũng điêu tàn vì Binh Lửa, nhân vật mấy ai được sống còn, duyên tạm PHÙ DU ngắn ngủi phải đâu duyên đẹp BA SANH, cánh hoa dùi dập Lửa Binh, chỉ để Thương Tâm một mối.
Nếu còn sót lại, Âu chỉ còn hồn mai lẫn vẫn nương theo Sắc Nguyệt lá đùa Quách Quế Mơ Màng, hòa ánh AO THU Trăng sáng,
“Giai nhân Tự-cổ Như Danh tướng,
Bất hứa trần gian kiến Bạch đầu” là như vậy.
72.-Ẩn tu tích cổ duyệt xa gần
Tan hợp bên trời áng bạch-vân !
Biển nổi dâu chìm duyên cảnh thế,
Bao giờ cảnh Phật tựa lầu ngân.
“Thiên Thượng Phù Vân Như Bạch Y,
Tu Du Hốt Biến Vi Thương Cẩu”.
( Ngẫn lên Trời trong thấy ÁN MÂY nổi như Chiếc Áo Trắng,
Giây Phút nó lại BIẾN THÀNH con Chó Xanh).
Người xưa đã mượn hai câu Thi trên để mô tả cảnh Biến-hiện của đời, tất cả Tài Sắc Sang Giàu đều đi qua Như Giấc Mộng, nét Cười thì ít giọt Lệ lại nhiều , niệm Hồng Danh Phật bước lên Ngọc Cát Kim Kiều, chứng quả Vô-Sanh, Tiêu Dao nơi Chân-Cảnh là điều cấp thiết để thoát vòng khổ Mộng.
73.-Ẩn tu bốn mặt khói sương đầy
Hỏi gạn ai người niệm Phật đây?
Cười mỉm Duy Ma không phúc đáp
Song hồ nửa khép cánh am mây !
Trong Kinh Tịnh-Danh, sau khi chư Bồ-tát mỗi vị đưa ra Ý kiến của mình về Bất-nhị Pháp Môn, đến phiên ngài DUY MA CẬT thì Ngài lại lặng thinh, ĐỨC VĂN THÙ khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Đó mới chính là BẤT NHỊ PHÁP MÔN, bởi thực thể của môn nầy hay cảnh giới phát minh của thoại đầu là Chân-Như Tâm, không thể dùng Tưởng Niệm mà nghĩ đến hay Lời Nói để diễn tả được, chính “Song hồ nửa khép cánh am mây !”, đã Yên Lặng Hồng Nhiên nói lên Cảnh Giới ấy.
74.-Ẩn tu trì niệm cảnh hồn nhiên
Trong lặng âm-thanh vẫn dịu hiền
Đoan-đích tìm chi tin-tức thật?
Tiếng chuông đêm vắng đến ngư thuyền.
“Dục tri đoan Đích-Ý,
Bắc đẩu Diện Nam-Khang”.
(Muốn biết Ý CHÍNH XÁC,
HÃY XOAY MẶT VỀ NAM mà nhìn sao Bắc đẩu)
Niệm Phật cũng như vậy, muốn biết tin tức THẬT, đừng nên tìm hỏi hãy LẶNG YÊN THỂ NHẬN, Tiếng chuông đêm vắng đến ngư thuyền.
75.-Ẩn tu niệm Phật nhẹ lâng không
Hồn bướm Trang Chu tỉnh giấc nồng !
Ý vị âm thầm trăng tỏa sáng
Hình dung lóng lánh tuyết ngần trong.
“Trang Chu hiểu mộng mê hồ điệp,
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên”.
Tạm dịch, Trong Giấc-mơ thấy MÌNH hóa BƯỚM nhởn nhơ bay lượn nơi vườn đẹp trăm Hoa, khi TỈNH giấc vẫn hoàn lại như Cảnh-cũ, Trên Trời Mây Trắng Yên, Ngoài Sân Gió Nhẹ Thổi.
NIỆM PHẬT đến một lúc nào bừng TỈNH cũng như thế, như Trăng Thầm Tỏa Sáng Tợ Tuyết Ánh Ngời Trong, Ý Cảnh Không Sao Diễn Tả Được.
Cao thấp đồi xa ủng hộ bày
Trước mắt rõ ràng chân cảnh lộ
Màu thu lai láng nét thu gầy.
Như Cổ đức đã nói thì Lũy Mây Quay Quanh đồi non cao thấp, sắc Thu lai láng đâu chẳng là Cảnh-Chân-Thường.
PHÁP THÂN chính là cõi Thường-tịch-quang. Đây là thể Nhất-Chơn Pháp-Giới bao hàm Tánh-Tướng rộng rãi vô biên; vì Phật lấy pháp TÁNH pháp TƯỚNG làm THÂN, nên gọi là PHÁP THÂN.
Quán Kinh nói: “Pháp-thân chư Phật Như Lai vào tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Cho nên khi tâm các người tưởng Phật, tâm ấy chính là Ba Mươi Hai Tướng, tám mươi vẻ đẹp tùy hình, tâm ấy tưởng Phật, TÂM ẤY LÀ PHẬT.”
77.-Ẩn tu mưa phới khắp ngàn tiêu
Bát ngát lâm tuyền cảnh tịch liêu !
Tiếng gió canh thâu hoà tiếng Phật
Bên thềm hoa rụng ít hay nhiều.
78.-Ẩn tu ca nhạc có chim rừng !
Bay hót vần quanh tợ đón mừng
Đủ sắc phi-cầm, tranh vẽ đẹp
Điểm-tô cảnh Phật, một màu Xuân.
79.-Ẩn tu hoa cỏ dáng thờ ơ
Thời mạt nhơn tâm đã khác xưa
Lòng thú hình người, đầy lớp lớp
Cảnh đời gió gió, lại mưa mưa !
NHƯ Ý: Xin mượn mấy câu sau đây để góp ý, Có Lời nhắn Khách tu Chân, Đừng Ngơ-ngát giữa đường Trần mà NGUY, cuộc THẾ suy lòng NGƯỜI suy, hỏi đâu Thuyền-Pháp TRÍ BI độ đời, nổi riêng riêng những Bồi-hồi.
80.-Ẩn tu kham nhẫn cõi Ta Bà
Nỗi khổ muôn ngàn, khó kể ra
Cực Lạc niềm vui vui bất diệt
Khổ vui đều bởi tự nhân mà !
81.-Ẩn tu đàn suối cạnh triền non
Tươi tỉnh hoa ngàn tợ phấn son
Sáng lạ vừa tan vầng ráng đỏ
Đẹp xinh lại hiện bóng trăng tròn !
NHƯ Ý : Khi xưa Ngài Linh-Vân tham cứu cơ Thiền, Nhân thấy Hoa-đào tươi nở mà bừng sáng Tỏ-ngộ, do Nhân Duyên đó Bút-giả cũng muốn mượn Thế-cảnh, để dẫn hàng Liên Hữu vào Phật-cảnh.
82.-Ẩn tu ai bảo chẳng Di Đà
Thiện Đạo quang-minh niệm niệm ra
Khang Tổ mỗi câu sanh hoá PHẬT
Cười hàng ngu chấp cố dèm pha.
Nghe nói ở Nhật-Bản cũng có hành tu Thiền Sơ-cơ cũng đồng lối MÊ chấp ấy, các Vị đó sao không xét lại chuyện “DŌGEN THIỀN SƯ” ở nước mình, khi Ngồi THUYỀN từ TRUNG QUỐC trở về NHẬT BẢN, gặp cơn GIÓ BÃO thổi Ghe-Thuyền của Ngài sắp CHÌM, trong giây phút SINH TỬ đó, Ngài không NGỒI THIỀN, mà lại Niệm “ NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT”, còn KHUYÊN những người trên Thuyền cùng Niệm theo Ngài, tức thời HÓA THÂN của Bồ-tát Xuất-hiện, làm cho cơn bão lần lần dừng lại.
Cho nên, mọi người nhân đó đều đặng thoát khỏi NẠN GIÓ BÃO, NHỜ Niệm Hồng Danh Bồ-tát Quán-Thế-Âm.
Lời Than rằng:
“Nhất đại tạng kinh đô thuyết tận,
Bất tri thùy thị cá trung nhơn.”
Tạm dịch,
“Một đại tạng Kinh xem đã hết,
Biết ai là kẻ ở TRONG đây.”
Có lẽ cũng một phần Phát-xuất từ mối MÊ chấp này.
83.-Ẩn tu ai bảo niệm hồng danh
Không có Tây-phương chẳng vãng sanh
Liên hữu xưa nay nhiều hiện ứng
Thánh-Hiền-Lục đã chép ghi rành.
NHƯ Ý : Lại có kẻ bảo: Niệm Phật nếu thích thì cứ Niệm, nhưng cốt để ngăn trừ Vọng Tưởng và Phá Chướng mà thôi. Vì thật ra, KHÔNG có cõi CỰC LẠC cũng KHÔNG có sự VÃNG SANH.
Nếu có thì tại sao không thấy ai trở về BÁO TIN, đều nói trên có Hai Lối Mê Chấp xin lần lượt Giải Phá:
1) Trong Ngũ Đình Tâm Quán có nói, Chúng-Sanh nào nhiều THAM DỤC nên tu pháp BẤT TỊNH QUÁN, nhiều SÂN HẬN tu Pháp TỪ BI QUÁN, nhiều SI MÊ tu pháp NHÂN DUYÊN QUÁN, nhiều TÁN LOẠN tu pháp SỔ TỨC QUÁN, nhiều TỘI CHƯỚNG tu Pháp NIỆM PHẬT QUÁN, nói Niệm Phật để Phá Chướng Trừ Vọng là giải thích theo quan niệm của Ngũ Đình Tâm Quán của Tiểu thừa, với Đại thừa thì Niệm Phật là để THÀNH PHẬT, bởi Niệm Phật có công năng khai ngộ Phật tánh rất mau lẹ, bậc Thượng căn có thể một đời chứng Niệm Phật Tam-Muội, hàng Trung Hạ căn khi MẠNG CHUNG sẽ được sanh về Cực Lạc và cũng đạt được tiêu điểm ấy.
2) Lời tục bảo, nói có SÁCH mắt có CHỨNG, về vấn đề Cực Lạc và Vãng Sanh trong TỊNH ĐỘ THÁNH HIỀN LỤC (MẤY ĐIỆU SEN THANH) đều có ghi chép về các điềm lành và hiện ứng rất nhiều, chẳng hạn như chuyện KINH VƯƠNG PHU NHƠN và VIÊN TRUNG ĐẠO lúc Sanh Bình Niệm Phật được người TỲ NỮ và VIÊN HOẰNG ĐẠO đưa thần thức viếng cõi Cực Lạc ở Tây Phương, bức tường Thành Kiến và Chấp Mê của Chúng Sanh THẬT KIÊN CỐ, đáng nên Than Thở.
84.-Ẩn tu chân thật chớ bề ngoài
Tu dáng tu hình lạc-lối sai
Tu tánh tu tâm lên giải thoát
Khuyên làng tu Phật chớ khoe tài.
Kẻ Tu thời nay, mới vào Chùa đã nghĩ đến sự Xuống Tóc, Thọ Giới, mau lên Danh Vị được làm Thầy Người, kết cuộc Đức Hạnh chưa đủ, Tài Năng chưa kham lần lượt bị rớt tất cả, “Khéo tu thì Nổi, Vụng tu thì Chìm”, mấy AI nghĩ đến.
85.-Ẩn tu hiếu thuận niệm Di Đà
Siêu độ cửu huyền đến mẹ cha
Hiếu đây mới là chăn thật hiếu
Đời tươi như gấm, đạo như hoa.
Ai bảo Tu là Bất-hiếu ?
Những Chứng Nghiệm về điều này các sách Phật xưa nay đã nói rất nhiều, nơi đây không thể Phiền Thuật.
86.-Ẩn tu xót cảnh đạo đời suy
Lý học Đông Tây đã dự tri
Thiên giáo chỉ rành cơ tận thế
Tiên ghi tận diệt đến thời kỳ.
Đông Phương cũng có Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM ở Việt-Nam và các đấng TIÊN TRI ở Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa, cho đến CÁC TÔN GIÁO CŨNG CÓ HUYỀN KÝ VỀ CÁC TAI NẠN CHUYỂN BIẾN MAI SAU, đây là một trong những Phương-tiện Độ-sanh đường vội cho là Dị-đoan Phù-phím.
87.-Ẩn tu lý đạo nói sao cùng !
Nhân-quả nghiêm minh xử lạnh lùng !
Tài, sắc, giàu, sang âu cảnh tạm
Sáng tươi chiều héo đoá Phù Dung.
Làm Lành hưởng VUI Làm Dữ chịu KHỔ, Vui cùng Khổ đều là Giả Tạm, trở về Chân-Tánh mới là Giải-Thoát Thường-Hằng.
88.-Ẩn tu thế chiến biết kỳ ba
Nước lửa sơn lâm khắp hải hà
Mấy cuộc lọc thanh đầy huyết-lệ
Bay hồn thảm khổ, lướt khôn qua
Nhưng theo CHÂN LÝ thì có NHÂN SÁT tức có QUẢ SÁT, dù rằng NHÂN LOẠI cố gắng HẠN CHẾ không cho xảy ra.
89.-Ẩn tu bom đạn, rõ điềm hung
Tan-tác thành đô quả đất rung
Đổi cảnh, đổi người, thời tiết đổi
Núi nhô, núi sụp, chuyện khôn cùng.
“Ngọn thủy triều nô nức Sục Sôi,
Bầu địa giới một phen rung chuyển”.
và
“Trong hai ngàn biến đổi Thất-sơn,
Biến Thiên biến Địa biến Nhơn thay đời”.
90.-Ẩn tu mạt-kiếp thấy lời ghi
Trước mất Lăng Nghiêm pháp diệu kỳ
Lần lượt các kinh đều diệt hết
Duy còn Phật hiệu độ cơ-nguy.
Thiên Như Thiền Sư cũng bảo :
“Sau Thời Mạt Pháp các kinh diệt hết, chỉ còn 4 Chữ A Di Đà Phật để độ chúng sanh”.
91.-Ẩn tu khuyên khắp sớm hồi đầu
Lìa khỏi dòng mê, sóng nước sâu
Phước huệ đủ trong câu niệm PHẬT
Tám muôn tư pháp cũng gồm thâu.
92.-Ẩn tu chầm chậm bóng dương đi
Ngoài cửa hoa nhàn liễu rũ mi
Đại-mộng hỏi ai người sớm tỉnh?
Ngày xuân chưa dễ hẹn tiên-tri !
NHƯ Ý : Ngày tháng Lặng-lẽ trôi qua, AI là người sớm Tỉnh cơn Đại-mộng? Nếu còn say giấc thì không thể hẹn biết trước, lúc nào mới hưởng được Cảnh Trời Xuân Giải Thoát.
93.-Ẩn tu khẩn nguyện khắp nơi-nơi
Niệm PHẬT xứng cơ lại hợp thời
Biển mộng hỏi ai, thuyền lạc bến
Sông mê này chút ánh sen rơi !
NHƯ Ý : Trong Đời mạt Pháp, môn niệm PHẬT là hợp Thời-cơ nhất, vì ngoài Tự-lực còn được Phật-lực gia bị Tiếp-dẫn, trong buổi hoàng hôn mờ tối của Đời và Đạo, ánh HOA SEN báu Kỳ-diệu này còn rơi sót lại, để soi sáng Kẽ mê đường.
94.-Ẩn tu nghĩ tiếc bậc tài cao !
Biển luỵ trần ai đắm kiệt hào !
Giọt lệ Tần-Đình thương đất nước
Bên song kiếm ẩn thán công hầu !
“Trắc thân Yên thị không hề Kiếm,
Hồi thủ Hầu Môn dục toái Cầm”.
Tạm dịch,
“Ngoảnh lại cửa Hầu ĐÀN muốn Đập,
Ẩn mình Thành thị Kiếm đeo suông”.
Trong thời Đông Châu, Thân Bao Tư khóc ba ngày trước sân Tần, khiến vua Tần cảm động cho binh tướng giúp khôi phục nước Sở, những vị có Tâm Trí Tài Năng như thế, nếu biết Chánh Pháp tin nhận tu hành, tất Mau thành Đạo quả đâu còn Đắm lụy trong biển Trần ai.
95.-Ẩn tu nhìn lắm kẻ chơi vơi
Gào khóc quên tu cũng huyễn thôi !
Niệm PHẬT để cho tròn tánh PHẬT
Kiếp người chẳng uổng được thân người.
96.-Ẩn tu tâm PHẬT hội Tào Khê
Kiếp ngoại trời xuân sáng bốn bề
Hoa nở sắc hương thành Chủng trí
Gió thông kim cổ đạo Bồ-Bề.
97.-Ẩn tu giải đạo phải dùng lời
Biển lớp ngôn âm cảnh lẫn người
Tự xét đã riêng không sở đắc
Nói nhiều thêm lỗi vọng mà thôi.
Nếu Văn-chương là một môn Nghệ Thuật để dẫn cảm hứng cho người xem đọc, tất nhiên cũng phải có những nét riêng của nó, trong đây bút giả đã giải thích về:
“LÝ SỰ của môn niệm Phật, về lối Chấp của người ngoại Đạo, Tiểu-thừa cùng KHÔNG KIẾN của người tu Đại-thừa; để bớt cảm giác khô khan về Đạo-lý lại phải tả Tình tả Cảnh, nói về MÌNH về NGƯỜI, cho đến gọi Tỉnh-phần tiến tu về Thời-cuộc, riêng mình đã tự xem như kẻ Đã Trót Mang giai tuồng Hoằng Pháp, phải diễn lớp hóa trang Hoằng Pháp vậy thôi. Tất cả đều như Huyễn như Mộng, chỉ gôm lại chút Phấn thừa Hương cũ của người xưa, tự mình không có chi là sở đắc cả”.
98.-Ẩn tu phương tiện mượn thi ngâm
Thức ngộ mình người khởi đạo tâm
Đâu nghỉ hoa đào ra động bích
Mà mong Lưu Nguyễn ghé vào thăm?
Bởi Mình đã có DUYÊN để đáng tỏ BÀY công bố.
Mà mong Lưu Nguyễn ghé vào thăm?
99.-Ẩn tu sống chết việc ưu tiên
Kinh cảm luân hồi trải khắp miền !
Sa đoạ ba đường như đại địa
Móng tay cát bụi cõi nhơn thiên !
“Siêu-đọa phút giây xuống lên Muôn-nẻo, Cửa-qủy sớm đi rồi chiều lại, Âm-ty nay Thoát mãi mai Vào, Làm-lành khó như leo lên Non-cao, Tạo-ác quả dễ như tụt Xuống-dốc, Do đó trong nẻo Luân-hồi sự khổ lại chiếm phần nhiều”.
Cho nên, đối với Người TU vấn đề giải quyết việc Sống-chết là điều thiết yếu Trước-nhất.
100.-Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu
Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu
Thanh tịnh chí thành trong mấy điểm
LỰC, HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN sâu.
Đạo NHO bảo:
“Phóng Chi Tắc Di Ư Lục Hiệp,
Quyện Chi Tắc Thoái Tàng Ư Mật.”
(Buông ra thì Đầy-cả Đất-trời,
Thâu lại mất Không-còn Hình-tướng.)
Ý nầy đâu khác chi với Đạo-Phật.
Thưa các Vị,
Tám bài cuối xin miễn giảng giải, càng nói lại càng Sai lầm, SAI VỚI ĐẠO, bởi vì đây cũng là Ý sau rốt của người TU, Bút-giả hiện chưa đi đến Địa-vị nầy như Chư Tăng Ni khác, vẫn mong sẽ đắc Ý trước khi VIÊN TỊCH.
101.-Ẩn tu niệm niệm bút sanh hoa
Thi-tứ nguồn tâm một mạch ra
Danh-tự vị nguyên là Phật-nhãn
Non Tây rực rỡ dệt hồng hà.
102.-Ẩn tu trắc trắc, lại bình bình
Niệm đạt vô-tình lẫn hữu tình
Lầu tuyết rã tan ngàn thế giới
Chân trời pháp nhãn lộ bình-minh.
103.-Ẩn tu niệm vỡ chụp pha-lê
Muôn ổn ngàn yên lặng khắp bề !
Riêng một bóng Tăng ngồi tĩnh-tọa
Lâm-viên vừa bặt tiếng sơn khê.
104.-Ẩn tu sừng-sửng cội cây khô
Một ngón Thiên Long, dứt ý-đồ
Phật tử đến thăm như hỏi đạo
A Di Đà Phật lại NAM MÔ.
105.-Ẩn tu nhơn cảnh chợt đều quên
Sáng-rỡ vầng-nga rọi trước thềm
Mùi đạo Lan-thanh riêng tự biết
Kêu mưa đã vắng giọng cưu đêm.
106.-Ẩn tu suối lặng bóng chim qua
Chim nước đều như tự tại hoà
Di Lặc trao cho xem túi vải
Dưới trên đều rỗng, giọng kha kha !!!
107.-Ẩn tu bên viện tiếng chuông dồn!
Sấm nổ Oai âm tỉnh mộng hồn
Chồn nhảy vào hang Sư tử chúa
Sư-Vương lại dạo dã hồ thôn.
108.-Ẩn tu trì niệm tháng năm qua
Đạp lối Sen thanh trở lại NHÀ
Tin-tức ngày nay vừa thấy được
Tiếng chuông Sơn tự bóng trăng tà !
TỰ CẢM
Sáu tám nhọc-nhằn kể xiết chi,
Thăng trầm nhiều nổi chí không di.
Mài giũa cho thành ra ngọc quý,
Mới hay châu nọ thiệt “Ma-ni”.
Một niệm công-thuần hai bốn chẵn,
Cõi tạm khứ-hồi mấy kẻ tri!
Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,
Trần-duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.
Sáu tám năm qua việc đáng kinh,
Thăng-trầm vùi-dập, lắm tai-tinh.
Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
Mà kiếp phù-sinh tạm múa hình.
Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT NIỆM,
DI-ĐÀ sáu chữ phóng quang-minh.
Hôm qua tin-tức trời TÂY báo,
GIỜ MẸO MAI ĐÂY TẠ THẾ TÌNH.
Kệ rằng :
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-DI.
Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng
TRÚC LIÊN BỔN THẤT
CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ
Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng
HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC
"ĐÃ TỪNG trôi nổi riêng thương khách
Muốn nhủ đồng nhơn lại CỐ HƯƠNG!"
Xin mượn hai câu thơ trên để bày tỏ tâm sự tôi vậy.
Mùa an cư năm Canh Tý (1960)
Dịch giả: Liên-Du kính ghi
ÐÔI LỜI PHI LỘ
Ba tạng Kinh-điển của Phật-giáo hiện nay gồm có đến hơn vạn quyển. Trong ấy, những Kim-ngôn của Ðấng Ðiều-Ngự và huyền-nghĩa của chư Tổ, hàm ẩn Ðạo-lý thâm thúy vô biên. Muốn du ngoạn trong bể Phật-pháp bao la, hay lên đỉnh non thánh-giáo để nhìn khắp nơi bằng tầm mắt càn-khôn-nhất-lãm, phải phí nhiều thời giờ và tâm lực, mà giữa cuộc sống nhiều vướng bận ngày nay, ít ai làm nổi. Vì lẽ ấy, đã từ lâu bút giả có ý muốn gom góp phần tinh yếu của thánh-giáo viết ra thành tập, để giúp những vị mến đạo mầu của Ðức Thế-Tôn, có sự hiểu biết khái quát về pháp Phật. Và ý định nầy đã được thực hiện từ năm 1963, nhân lúc sắp sửa ra đảm nhận trường Phật-Học Huệ-Nghiêm.
Nội dung của toàn tập PHẬT HỌC TINH YẾU sau đây gồm có nhiều thiên, mỗi thiên phân thành nhiều chương, và mỗi chương bao hàm nhiều mục. Ðó là hệ thống phân biệt để duyệt giả dễ ghi nhận. Ðiều đáng chú ý là phần trích dẫn những Kinh-luận trong đây, nghĩa lý nó không có tánh cách nhất định. Tại sao thế? Bởi giáo pháp của thánh-nhân nói ra đều tùy thời tùy cơ để dắt dìu, phá chấp. Có thể một lời thuyết giáo đối với căn cơ nầy thích hợp nhưng với cơ khác không thích hợp, với thời gian trước tiện nghi song với thời nay không tiện nghi. Cho nên một vị tôn túc đã bảo: “Y theo Kinh giải nghĩa là oan cho chư Phật ba đời, nhưng lìa Kinh một chữ tức đồng với ma thuyết”. Vậy chỗ thu thập của người khéo học Phật là không chấp Kinh, không bỏ Kinh, như người đời đã bảo: “Khôn chết, dại cũng chết, duy biết mới sống”. Và người khéo học Phật cũng đừng chấp lý bỏ sự, hay chỉ theo sự quên phần lý. Về việc được ý quên lời nầy, duy mỗi người tự thể hội, không thể nói hết được.
“Trần chẳng tương quan, bể cả nương dâu mặc thay đổi.
Lòng không sở đắc, thông xanh mây trắng tự vui nhàn”.
Xin mượn hai câu nầy để chúc sự thành tựu của duyệt giả sau khi đọc xong toàn tập PHẬT HỌC TINH YẾU.
Ngày 12-8-1965
Tỳ-khưu Thiền Tâm, tự Liên Du
PHÁP-YẾU-TU-HÀNH
HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.
Yếu điểm của đường tu
Gồm hai phần Sự, Lý
Lý tu là sửa tâm
Cho hợp với chân lý
Sự tu chỉnh ba nghiệp
Giúp chứng cảnh chân như
Sửa tâm là dứt trừ
Nghiệp tham, ái, nóng, giận
Si mê cùng tật đố
Ngã mạn với kiêu căng
Chớ chạy theo hình thức
Say đắm nẻo lợi danh
Chuộng địa vị, quyền hành
Khoe thông minh, tài giỏi
Phải sanh lòng giác ngộ
Niệm thanh tịnh từ bi
Dõng tiến mà kiên trì
Sáng suốt mà khiêm hạ
Tự nghĩ mình xưa nay
Ðã tạo nhiều tội chướng
Chịu nhẫn nhục, sám hối
Biết an phận, tùy duyên
Duyên tốt chẳng kiêu khoe
Duyên xấu không thối não
Bình tỉnh mãi tiến tu
Như bơi thuyền ngược nước
Về biển Tát Bà Nhã
Ðến Bảo Sở an vui
Ðó là phần tu tâm
Hợp với lý giải thoát
Sự tu là thân nghiệp
Lễ kính Phật sám hối
Khẩu nghiệp trì chú kinh
Hoặc niệm Phật khen ngợi
Ý nghiệp giữ thanh tịnh
Mật tu môn Lục Niệm
Nguyện đền đáp bốn ân
Nguyện mình cùng chúng sanh
Sanh cõi vui thành Phật
Ðời đời gặp chánh Pháp
Tu sáu độ muôn hạnh
Tâm Bồ Ðề độ sanh
Trần kiếp không thối chuyển
Tu Sự mà bỏ Lý
Làm sao mở chân tâm?
Tu Lý mà phế Sự
Cũng không thể thành Phật !
Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG
Thì tức SẮC là KHÔNG
Tu Lý không bỏ Sự
Ðó tức KHÔNG là SẮC
Lý chính thật Chân-Không
Sự là phần Diệu-Hữu
Chân-Không tức Diệu-Hữu
Diệu-Hữu tức Chân-Không
Nếu chưa đạt lẽ nầy
Thà tu hành chấp CÓ
Ðừng cầu cao bác tướng
Mà lạc vào Ngoan-Không
Ðây chính hầm khổ đọa
Kẻ thông minh đời nay
Ða số mắc lỗi nầy
Xưa có sư Tông-Thắng
Tài huệ biện cao siêu
Vì ỷ giỏi kiêu căng
Nên bị nhục chiết phục
Hỗ thẹn muốn tự tận
Thọ thần hiện thân khuyên
“ Sư nay đã trăm tuổi
Tám mươi năm lầm lạc
May nhờ gặp Thánh nhân
Huân tu mà học đạo
Tuy có chút công đức
Mà lòng hay bỉ ngã
Ỷ thông minh biện bác
Lấn người không khiêm hạ
Lời cao hạnh chưa cao
Nên phải bị quả báo
Từ đây nên tự kiểm
Ít lâu thành trí lạ
Các THÁNH đều tồn tâm
NHƯ LAI cũng như vậy ”
Lại có kẻ đua tướng
Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư
Mượn thuyết pháp, tụng kinh
Ðể mưu cầu lợi dưỡng
Dành đệ tử, chùa chiền
Lập bè đảng, quyến thuộc
Thấy có ai hơn mình
Liền thị phi tật đố
Hại Thầy Bạn, phản Ðạo
Lừa dối hàng tín tâm
Lời nói thật rất cao
Việc làm thật rất thấp
Lý Sự đều sai trái
Hạng ấy hiện rất nhiều
Tạo biển khổ thêm sâu
Khiến đau lòng tri-thức
Lý, Sự đại lược thế
Công đức làm sao được?
Phật là ÐẠI-Y-VƯƠNG
Pháp là DIỆU-TIÊN-DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma , quỷ mị
Nạn động đất, xe, thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải thoát
Chuyên tụng một phẩm Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các nguyện
Thỏa mãn các mong cầu
Chỉ sợ người không tin
Hoặc tin mà không sâu
Lại ngại không thực hành
Hoặc hành không bền lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu
Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người, cảnh
Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
Không hành như trên đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là phàm Tăng
Giúp ích được gì đâu
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng thành kính
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
Lắng lòng suy gẫm sâu
Trời xanh tươi biếc một mầu
Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay
Mà sao đời đạo đổi thay
Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ
“Thuyết pháp bất đậu cơ
Chúng sanh một khổ hải ”
Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương
Sóng dồn bọt biển tà dương
Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên
Bụi hồng tung gió đảo điên
Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.
Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.
Ẩn Tu Ngẫu Vịnh
1.- Ẩn tu nào phải cố xa đời !
Mượn cảnh u-nhàn học đạo thôi !
Những thẹn riêng mình nhiều nghiệp chướng
Bốn ân còn nặng nghĩa đền bồi.
2.- Ẩn tu cảm xót biển trần-ai !
Sóng gió trầm luân mãi lạc loài
Thân khổ kiếp người muôn nỗi khổ !
Nghiệp đời vay trả, trả rồi vay !
3.- Ẩn tu hôm sớm niệm Di Đà
Lòng lặng mười muôn chẳng cách xa
Canh vắng giường thiền khi mãn định
Hoa sương cười nụ dưới trăng tà.
4.- Ẩn tu uổng tiếc bạn đồng hành !
Nói lý cao huyền đắm lợi danh !
Già, bịnh, đoạ sa, không phản tỉnh
Bóng câu mấy nỗi thoáng bên mành !
5.- Ẩn tu cõi tịnh nhẹ buông hồn !
Tưởng quán trời Tây nhớ Bảo-thôn
Ráng đỏ sắp đưa, vầng Nhật-lặn
Phất phơ tà áo gió hoàng hôn.
6.- Ẩn tu bền chí giữ công phu
Ba cõi không an lửa ngục tù !
Ngũ-dục, Hoàng-lương say gối mộng
Kiếp người dường một thoáng phù du !
7.- Ẩn tu riêng chạnh nỗi riêng mình
Túc trái gây nên, mối bất-bình
Tích phước tu-hành rồi tạo nghiệp
Cánh bèo trôi giạt biển phù sinh.
8.- Ẩn tu tưởng lại quả đời nay
Bao lớp gian truân nỗi đoạ đày !
Ẩn nhẫn trả xong tròn nghiệp trước
Dấu hồng chuyện cũ tuyết mờ bay !
9.- Ẩn tu nhớ đến đức sanh thành
Lắm lúc vì con chẳng tạo lành
Con lớn Mẹ Cha oằn gánh nghiệp
Bảo châu đền đáp cũng mong manh !
10.- Ẩn tu nguyện trả nghĩa song đường
Hồi hướng công phu mỗi khoá thường
Lại khuyến nghiêm-từ tâm đạo phát
Nương thuyền Phật huệ đến Tây-phương.
11.- Ẩn tu cửa đạo trải bao năm
Kinh nghiệm nhiều phen vẫn lạc lầm
Quen lắm lại càng thêm việc lắm
Cung đàn Hạ-Lý, mấy tri âm ?
12.- Ẩn tu ngùi ngậm bạn chung sơ
Nối gót ra đi chẳng hẹn chờ
Ngàn dặm cố nhân hồn lẫn vẫn
Mười năm việc cũ nửa phai mờ !
13.- Ẩn tu ưu cảm bởi nhơn tình
Điên đảo luân thường lại sát sinh
Khiến lắm tai trời thêm ách nước
Vầng hồng xế bóng sắp tây khuynh.
14.- Ẩn tu xét thấy chốn Tăng-Già
Ganh-hại thị-phi lắm bất hoà !
Danh vị, chùa chiền tranh đệ tử
Ưu Đàm, Lan Huệ héo mầm hoa.
15.- Ẩn tu rõ biết chuyển cơ trời !
Nhân-quả lọc thanh đạo với đời !
Tai biến dập dồn trăm cảnh chết
Núi xương sông máu, thảm đầy vơi !
16.- Ẩn tu nghĩ muốn thoát dòng mê !
Vững lái phong ba lúc nặng nề
Niệm Phật, niệm Tâm, tâm niệm Phật
Mây tan thấy rõ lối đi về.
17.- Ẩn tu Tín, Nguyện Niệm hồng danh
Thời mạt chướng sâu đạo khó thành
Chờ đến Liên-bang lên pháp-nhẫn
Đem thuyền Bát Nhã độ quần sanh.
18.- Ẩn tu Hoa Tạng mến môn huyền
Muốn kết Dao-đài hội Thắng Liên
Theo bước Đàm-Loan chơi bảo-các
Bích Câu lạc dấu, Giáng-Kiều tiên.
19.- Ẩn tu tế độ chẳng quên lòng !
Bi, Trí đôi đường phải suốt thông
Y sĩ nhân tâm dù đã sẳn
Còn rành nhân thuật mới thành công !
20.- Ẩn tu chi quản nệ công-lao
Mà chẳng tuyên dương tiếng Hải-trào
Sông lớn khơi nguồn từ núi thẳm
Xuống trần càng đục biết làm sao ?
21.-Ẩn tu Không có, Có mà Không !
Phương tiện, từ bi khó biết lòng !
Ngôn thuyết hãy còn Thân thuyết-pháp
Sấm mưa ẩn hiện bóng Thần Long.
22.-Ẩn tu mây trắng nhẹ phiêu diêu
Uốn khúc sông-in giãi lụa chiều
Thanh thoát gió chim reo nhạc Phật
Lầu-Tần không lại lắng hơi tiêu.
23.-Ẩn tu an tĩnh chốn cao nguyên
Hoa cảnh lòng trăng đẹp dịu hiền
Mây núi điệp trùng đêm tịch tịch
Câu Kinh tiếng Phật lại triền miên !
24.-Ẩn tu tịnh thấy cảnh am mây
Thanh tuấn thiền sư dáng huệ gầy
Kiếp trước Đạo Dung là tớ đó
Mà nàng Thiên Thụy hỏi ai đây ?
25.-Ẩn tu dũng-tướng nhớ thời xa
Hoàng-tộc triều Lê điện Thái-Hoà
Vì Trịnh – Tú – Loan duyên trái khiến
Nửa chừng xuân gảy gánh tài hoa !
26.-Ẩn tu được biết kiếp lâu xa
Từng ở Thiên cung cõi Đại La !
Đại Phước Lão-tiên là bạn cũ
Xuống tìm học Phật lạc mê hà.
27.-Ẩn tu luân chuyển nghĩ bao đời !
Thân-thế bèo đưa, sóng nghiệp trôi !
Lỗi bởi tâm mình chưa chuyển vật !
Những riêng thương thẹn khó nên lời.
28.-Ẩn tu nương tựa ánh từ quang
Lần lữa trần tâm lắng nhẹ tan
Năm tháng luyện thuần trâu hoá trắng
Sáo thanh một khúc cỏ hoa nhàn.
29.-Ẩn tu gió mát toả gương nga
Tĩnh-thất cài then tụng Pháp-Hoa
Bừng sáng thân tâm hoà ánh nguyệt
Tầm Dương bổng dứt hận Tỳ Bà !
30.-Ẩn tu niệm Phật cảnh sâu huyền !
Trong sáng linh hư hợp Tịnh, Thiền
Không hữu đều tan, Trung đạo dứt
Hoa vàng chợt nở Bảo trì liên !
31.-Ẩn tu niệm dứt tướng vào ra
Không thấy thân tâm Phật với ta
Thanh thoát rõ rành vang Thánh-hiệu
Trăm hoa đua sắc tiếng Oanh ca.
32.-Ẩn tu niệm chẳng thánh cùng phàm
Mắt huệ can chi dính mạt vàng ?
Hữu tướng tức đồng Vô tướng niệm
Chân Không huyễn sắc khắp bao hàm.
33.-Ẩn tu tuy biết ý cao siêu
Mà chẳng thích ưa lý luận nhiều
Căn tánh người nay đà kém loạn
Nói hay làm phỏng được bao nhiêu ?
34.-Ẩn tu ngại lỗi luận đua tranh
Nói cũng vì người thuyết khác hành
Thái cực ai-phân nhơn-ngã đó
Lạnh lùng huyễn lợi với hư danh !
35.-Ẩn tu suối bạc ánh màu ngân
Muốn gẫm gần xa chuyện túc nhân
Người cảnh ai bày vui với khổ
Hoa trăng cười cợt ý bâng khuâng.
36.-Ẩn tu thôi mặc dở hay đời
Chỉ ước lâm chung dự biết thời
Nương nguyện Phổ-Hiền sanh Cực-Lạc
Rồi dong thuyền độ khắp nơi nơi.
37.-Ẩn tu an phó bịnh suy già
Nhơn thế xưa nay vẫn thế mà
Giữ chắc hồng-danh thuyền tế độ
Muôn trùng bao quản ngọn phong ba !
38.-Ẩn tu suy gẫm sức hồng danh
Phước huệ tăng-kỳ kết tụ thành
Sáu chữ chí tâm tiêu vạn tội
Một câu chín phẩm thoát siêu sanh.
39.-Ẩn tu tuy chửa đến Tây Phương
Cành ngọc chim linh ứng mộng thường
Rõ biết tâm lành sanh cảnh tịnh
Quả nhân cảm hiện lẽ chiêu chương.
40.-Ẩn tu niệm Phật suốt thâu canh
Cam lộ từ răng đượm ngọt thanh !
Khát nước đã nhờ công đức thuỷ
Lam Kiều chi nhọc hỏi Vân Anh ?
41.-Ẩn tu chợt nhớ Hổ Khê xưa !
Suối bạc non xanh đệ nhứt thừa
Một giống Bạch Liên truyền đất Việt
Hương sen còn đậm hạt thu mưa !
42.-Ẩn tu riêng mến đạo Đông Lâm
Biển Phật thuyền Sen thật chẳng lầm
Liên lậu trước chùa ghi nhựt khoá
Đến nay còn dậy khúc Thanh âm.
43.-Ẩn tu trần niệm chẳng còn dư
Kinh điển dường quên, tám vạn tư
Chẳng biết Lư Sơn mày mặt thật
Chỉ nhân mình ở tại non Lư.
44.-Ẩn tu nghĩ chuộng sắc thanh-duyên
Thanh sắc đâu bằng cõi Bảo Liên
Sắc rực ánh vàng thanh suối ngọc
Tô Đà hương phạn lại tham thiền.
Ẩn tu nghĩ kẻ sắc thanh tranh
Thanh sắc đâu bằng cõi Thái Thành
Sắc đẹp ba hai thanh phạm tám
Ăn xong thiền duyệt lại kinh hành.
45.-Ẩn tu khuyên khách mến giang hồ !
Nên học Liên phương niệm Phật đồ
Về cõi Bảo Hoa đi dạo khắp
Muôn trời tịnh diệu nét Xuân tô !
46.-Ẩn tu lòng đạo sáng gương rằm
Bạn Cúc quê vàng cảnh vắng tâm
Cây biếc mây hồng che tĩnh xứ
Khói sương vùi dập mấy mươi năm.
47.-Ẩn tu Lan-Nhã ngắm tư bề
Ríu rít mây chim tiếng gọi về
Dâu biển người đời thương biến đổi
Đâu hay muôn cảnh vốn Bồ đề.
48.-Ẩn tu nhớ dạy Tịnh Liên Hoa
Trí Giả nguyên là Phật Thích Ca
Lại có Vĩnh Minh cùng Thiện Đạo
Tương truyền thân hóa của Di Đà
49.-Ẩn tu thấy nói Tổ bên Thiền
Long Thọ, Mã Minh chứng đạo huyền
Đều tín Liên tông khuyên NIỆM PHẬT
Sao hàng hậu học tạo khinh duyên ?
50.-Ẩn tu thương nghĩ cánh Nam tông
Tịnh độ cho là pháp viễn vông
Bác phá Đại thừa phi Phật thuyết
Yến Ly đâu biết dấu chim hồng ?
51.-Ẩn tu ngẫm diệu đạo Liên trì
Căn tiểu thừa nghi chẳng lạ gì ?
Thượng đức năm ngàn Linh Thứu hội
Thành quân bại Bắc rút lui đi.
52.-Ẩn tu chán kẻ nói loanh quanh
Đem hiệu Di Đà phối ngũ-hành
Bao-tử giả là ao Thất-bảo
Phật lành niệm Phật để làm danh !
53.-Ẩn tu than kẻ chấp ly kỳ
Không sắc thật quyền chẳng biết chi
Bảo Phật gỗ, đồng không độ lửa
Còn thân Phật đất, nước tan đi.
54.-Ẩn tu chẳng ngại hung yêu ma
Vì để biệt phân chánh với tà
Chỉ sợ cửa không hàng phá Kiến
Dắt người lầm lạc khó nhìn ra.
55.-Ẩn tu thời mạt nhớ Kinh ghi
Học đạo muôn ngàn ít ngộ kỳ
Duy niệm Hồng-danh cầu Tịnh-độ
Hiện đời giải thoát rất ly-kỳ.
56.- Ẩn tu xót kẻ học Như Lai
Thiền, Tịnh, thị phi chấp trước dày
Kiên cố đấu tranh đà hiện rõ
Đạo đời phân hóa cảnh thời nay.
57.-Ẩn tu ý Tổ cảm thông tri
Bi trí tuỳ cơ độ Mạt-thì
Đâu phải chấp đua như thế tục
Mà riêng khen Tịnh đạo huyền vi.
58.-Ẩn tu thời mạt nhớ câu than
Đức Tín Tỳ Kheo kém Thiện-nam
Cư-sĩ lại thua hàng tín-nữ
Thiên Như huyền ký để lời vàng.
59.-Ẩn tu lòng đạo muốn tăng cao
Phải quán tam đồ khổ lớn lao
Phát ý Bồ đề siêng niệm Phật
Bởi cơ nước lửa sắp dâng trào.
60.-Ẩn tu nhìn khắp cảnh ban mai
Người vật ra đường chim nhảy bay
Tất cả chỉ vì lo vóc huyễn
Nhọc, già, bịnh, chết mấy ai hay?
61.-Ẩn tu tục luỵ thấy muôn mầu
Trong cảnh giàu sang dễ bạc đầu
Việc đắc ý nên dừng nghĩ lại
Kiếp trần tạm gởi được bao lâu.
62.-Ẩn tu nhìn thế loạn đường tơ
Các nước phân tranh rối cuộc cờ
Đạo-pháp vang hồi chuông cảnh tỉnh
Mộng thành sấm dậy chẳng tan mơ.
63.-Ẩn tu niệm Phật gọi Liên-hương
Khắp nguyện đồng lên Tuyển-Phật trường
Hoàng Hạc lầu mây lòng chẳng tưởng
Non Tiên ba cõi vẫn vô thường.
64.-Ẩn tu thường thấy hạng ngu thành
Niệm Phật thiện chung hoặc vãng sanh
Khiến nghĩ làng tu huyền luận giỏi
Bởi đâu khi tịch chẳng an lành?
65.-Ẩn tu hằng tự nhủ riêng lòng (mình)
Đã biết đường Tây phải gắng công
Bình nhựt là nhân như chẳng thật
Lâm chung quả có nở Sen hồng.
66.-Ẩn tu quyết chí gạt trần tình
Mặc nỗi khen chê lẫn bất bình
Sức yếu phải cam phần kém yếu
Tình đời ví nhẹ đạo tâm sinh.
67.-Ẩn tu tưởng đến cảnh Lê-viên
Điệu múa Nghê thường đẹp áo Xiêm
Kim cốc sanh ca dìu dặt trổi
Mà nay suông lạnh ánh thu thiềm !
68.-Ẩn tu Chiêm-tộc nhớ Mường-Lan
Nữ chúa rừng xanh đẹp khác phàm !
Tướng sĩ trận voi uy-vũ thạnh
Nhạc mờ Phan Thiết núi sương lam !
69.-Ẩn tu liên tưởng dãy Giang Đông
Xích Bích trống quân dậy lửa hồng !
Tuyệt-đại song kiều, anh kiệt mất
Tài tình mấy đoạn phút hoàn Không.
70.-Ẩn tu Nguyễn Huệ nhớ Anh-hào
Điệp-điệp quân thanh, chiến cuộc thâu
Trúc kết sang sông mờ bóng cũ
Mây ngàn cỏ nội đỉnh Tây sầu !
71.-Ẩn tu tìm hỏi truyện Tây Thi
Dư lại hồn mai ánh nguyệt trì !
Hận nỗi ba sinh đâu vắng tá?
Thương tình một mối có ra chi?
72.-Ẩn tu tích cổ duyệt xa gần
Tan hợp bên trời áng bạch-vân !
Biển nổi dâu chìm duyên cảnh thế,
Bao giờ cảnh Phật tựa lầu ngân.
73.-Ẩn tu bốn mặt khói sương đầy
Hỏi gạn ai người niệm Phật đây?
Cười mỉm Duy Ma không phúc đáp
Song hồ nửa khép cánh am mây !
74.-Ẩn tu trì niệm cảnh hồn nhiên
Trong lặng âm-thanh vẫn dịu hiền
Đoan-đích tìm chi tin-tức thật?
Tiếng chuông đêm vắng đến ngư thuyền.
75.-Ẩn tu niệm Phật nhẹ lâng không
Hồn bướm Trang Chu tỉnh giấc nồng !
Ý vị âm thầm trăng tỏa sáng
Hình dung lóng lánh tuyết ngần trong.
76.-Ẩn tu đã có luỹ non mây
Cao thấp đồi xa ủng hộ bày
Trước mắt rõ ràng chân cảnh lộ
Màu thu lai láng nét thu gầy.
77.-Ẩn tu mưa phới khắp ngàn tiêu
Bát ngát lâm tuyền cảnh tịch liêu !
Tiếng gió canh thâu hoà tiếng Phật
Bên thềm hoa rụng ít hay nhiều.
78.-Ẩn tu ca nhạc có chim rừng !
Bay hót vần quanh tợ đón mừng
Đủ sắc phi-cầm, tranh vẽ đẹp
Điểm-tô cảnh Phật, một màu Xuân.
79.-Ẩn tu hoa cỏ dáng thờ ơ
Thời mạt nhơn tâm đã khác xưa
Lòng thú hình người, đầy lớp lớp
Cảnh đời gió gió, lại mưa mưa !
80.-Ẩn tu kham nhẫn cõi Ta Bà
Nỗi khổ muôn ngàn, khó kể ra
Cực Lạc niềm vui vui bất diệt
Khổ vui đều bởi tự nhân mà !
81.-Ẩn tu đàn suối cạnh triền non
Tươi tỉnh hoa ngàn tợ phấn son
Sáng lạ vừa tan vầng ráng đỏ.
Đẹp xinh lại hiện bóng trăng tròn !
82.-Ẩn tu ai bảo chẳng Di Đà
Thiện Đạo quang-minh niệm niệm ra
Khang Tổ mỗi câu sanh hoá PHẬT
Cười hàng ngu chấp cố dèm pha.
83.-Ẩn tu ai bảo niệm hồng danh
Không có Tây-phương chẳng vãng sanh
Liên hữu xưa nay nhiều hiện ứng
Thánh-Hiền-Lục đã chép ghi rành.
84.-Ẩn tu chân thật chớ bề ngoài
Tu dáng tu hình lạc-lối sai
Tu tánh tu tâm lên giải thoát
Khuyên làng tu Phật chớ khoe tài.
85.-Ẩn tu hiếu thuận niệm Di Đà
Siêu độ cửu huyền đến mẹ cha
Hiếu đây mới là chăn thật hiếu
Đời tươi như gấm, đạo như hoa.
86.-Ẩn tu xót cảnh đạo đời suy
Lý học Đông Tây đã dự tri
Thiên giáo chỉ rành cơ tận thế
Tiên ghi tận diệt đến thời kỳ.
87.-Ẩn tu lý đạo nói sao cùng !
Nhân-quả nghiêm minh xử lạnh lùng !
Tài, sắc, giàu, sang âu cảnh tạm
Sáng tươi chiều héo đoá Phù Dung.
88.-Ẩn tu thế chiến biết kỳ ba
Nước lửa sơn lâm khắp hải hà
Mấy cuộc lọc thanh đầy huyết-lệ
Bay hồn thảm khổ, lướt khôn qua
89.-Ẩn tu bom đạn, rõ điềm hung
Tan-tác thành đô quả đất rung
Đổi cảnh, đổi người, thời tiết đổi
Núi nhô, núi sụp, chuyện khôn cùng.
90.-Ẩn tu mạt-kiếp thấy lời ghi
Trước mất Lăng Nghiêm pháp diệu kỳ
Lần lượt các kinh đều diệt hết
Duy còn Phật hiệu độ cơ-nguy.
91.-Ẩn tu khuyên khắp sớm hồi đầu
Lìa khỏi dòng mê, sóng nước sâu
Phước huệ đủ trong câu niệm PHẬT
Tám muôn tư pháp cũng gồm thâu.
92.-Ẩn tu chầm chậm bóng dương đi
Ngoài cửa hoa nhàn liễu rũ mi
Đại-mộng hỏi ai người sớm tỉnh?
Ngày xuân chưa dễ hẹn tiên-tri !
93.-Ẩn tu khẩn nguyện khắp nơi-nơi
Niệm PHẬT xứng cơ lại hợp thời
Biển mộng hỏi ai, thuyền lạc bến
Sông mê này chút ánh sen rơi !
94.-Ẩn tu nghĩ tiếc bậc tài cao !
Biển luỵ trần ai đắm kiệt hào !
Giọt lệ Tần-Đình thương đất nước
Bên song kiếm ẩn thán công hầu !
95.-Ẩn tu nhìn lắm kẻ chơi vơi
Gào khóc quên tu cũng huyễn thôi !
Niệm PHẬT để cho tròn tánh PHẬT
Kiếp người chẳng uổng được thân người.
96.-Ẩn tu tâm PHẬT hội Tào Khê
Kiếp ngoại trời xuân sáng bốn bề
Hoa nở sắc hương thành Chủng trí
Gió thông kim cổ đạo Bồ-Bề.
97.-Ẩn tu giải đạo phải dùng lời
Biển lớp ngôn âm cảnh lẫn người
Tự xét đã riêng không sở đắc
Nói nhiều thêm lỗi vọng mà thôi.
98.-Ẩn tu phương tiện mượn thi ngâm
Thức ngộ mình người khởi đạo tâm
Đâu nghỉ hoa đào ra động bích
Mà mong Lưu Nguyễn ghé vào thăm?
99.-Ẩn tu sông chết việc ưu tiên
Kinh cảm luân hồi trải khắp miền !
Sa đoạ ba đường như đại địa
Móng tay cát bụi cõi nhơn thiên !
100.-Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu
Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu
Thanh tịnh chí thành trong mấy điểm
LỰC,HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN sâu.
101.-Ẩn tu niệm niệm bút sanh hoa
Thi-tứ nguồn tâm một mạch ra
Danh-tự vị nguyên là Phật-nhãn
Non Tây rực rỡ dệt hồng hà.
102.-Ẩn tu trắc trắc, lại bình bình
Niệm đạt vô-tình lẫn hữu tình
Lầu tuyết rã tan ngàn thế giới
Chân trời pháp nhãn lộ bình-minh.
103.-Ẩn tu niệm vỡ chụp pha-lê
Muôn ổn ngàn yên lặng khắp bề !
Riêng một bóng Tăng ngồi tĩnh-tọa
Lâm-viên vừa bặt tiếng sơn khê.
104.-Ẩn tu sừng-sửng cội cây khô
Một ngón Thiên Long, dứt ý-đồ
Phật tử đến thăm như hỏi đạo
A Di Đà Phật lại NAM MÔ.
105.-Ẩn tu nhơn cảnh chợt đều quên
Sáng-rỡ vầng-nga rọi trước thềm
Mùi đạo Lan-thanh riêng tự biết
Kêu mưa đã vắng giọng cưu đêm.
106.-Ẩn tu suối lặng bóng chim qua
Chim nước đều như tự tại hoà
Di Lặc trao cho xem túi vải
Dưới trên đều rỗng, giọng kha kha !!!
107.-Ẩn tu bên viện tiếng chuông dồn!
Sấm nổ Oai âm tỉnh mộng hồn
Chồn nhảy vào hang Sư tử chúa
Sư-Vương lại dạo dã hồ thôn.
108.-Ẩn tu trì niệm tháng năm qua
Đạp lối Sen thanh trở lại NHÀ
Tin-tức ngày nay vừa thấy được
Tiếng chuông Sơn tự bóng trăng tà !
Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật - Tịnh đạo tràng
Hoà Thượng Thích Thiền Tâm
MỤC LỤC
1.- PHÁT NGUYỆN 1 ĐỜI VÃNG-SANH BẤT-THOÁI-CHUYỂN LÀM TÔNG
2.- KÝ SỐ NIỆM PHẬT
3.- VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
4.- TAM NGHI TỨ QUAN
5.- Bất huệ nạp tăng, THÍCH THIỀN-TÂM hiệu VÔ-NHẤT mai cốt xứ
6.- HUỆ VIỄN ĐẠI SƯ ( Liên Tông Sơ Tổ )
8.- TƯỞNG NIỆM CỐ HT. THIỀN-TÂM (21-11-92 ÂL)
(VÔ NHẤT ĐẠI SƯ
9.- NIỆM PHẬT THẬP YẾU ( Buddhism of Wisdom & Faith )
10.- NGHI THỨC MẬT TÔNG
12.- ĐẠI BI LỄ SÁM
14.- Phật Học Tinh Yếu
15.- ẤN QUANG ĐẠI SƯ (1861-1940)
THƠ ĐÁP
LY ẨN TẨU
"Xá Lợi", vốn tiếng Phạn, dịch nghĩa: thân cốt hoặc linh cốt, là kết tinh của sức tu giới định huệ, không phải do luyện khí thần mà thành. Đó cũng là biểu tướng của người tu đến cảnh tâm cùng Phật hiệp.
Nhưng Xá Lợi chẳng phải chỉ do thịt, xương, tóc biến thành trong lúc thiêu thân, mà sự xuất hiện của nó có nhiều trường hợp khác nhau. Như thuở xưa có vị cao Tăng đang khi tắm gội bỗng được Xá Lợi. Tuyết Nham Khâm Thiền sư lúc cạo đầu, tóc Ngài biến thành một xâu Xá Lợi. Có kẻ chí tâm niệm Phật, Xá Lợi từ trong miệng vọt ra. Một người thợ khắc văn Long Thơ Tịnh Độ, Xá Lợi hiện trong bản cây. Có vị tín nữ thêu Phật, thêu kinh, được Xá Lợi dưới mũi kim. Lại có kẻ đi xa về, ngậm ngùi thương cảm tế lễ trước tượng, nơi tượng bỗng hiện ra Xá Lợi. Thiền sư Trường Khánh Nhàn, khi tịch rồi thiêu hóa, nhằm lúc trời nổi gió lớn, khói bay xa ba bốn mươi dặm, khói đến chỗ nào nơi ấy đều có Xá Lợi, lượm gom lại được hơn bốn thạch.
Thế thì biết Xá Lợi do đạo lực hóa hiện, nhà luyện đơn không rõ, lầm tưởng là luyện tinh khí thần kết thành. Bởi họ thấy những danh tướng trong Phật pháp, không chịu tìm hiểu căn nguyên, vội đem phụ hội một cách sai lạc vào sự luyện đơn của mình. Chỉ nghe nói chứng quả Bồ đề mới được thành Phật, chưa từng có việc luyện tinh khí thần, trước thành Xá Lợi tử, sau kết làm Bồ đề châu mà thành Phật bao giờ!
Tánh và mạng của nhà luyện đơn nói, đều là lối tu chấp trước trên thần thức, sắc thân. Họ không hiểu lẽ ấy, trở lại chê đạo Phật chỉ tu tánh không biết tu mạng, đâu dè việc làm của họ chính là chỗ phá trừ bên Phật giáo. Về việc này, các hạ tìm xem đoạn quán Tứ Niệm Xứ trong Kinh Phật sẽ tự rõ.
17.- KHUYÊN TU TỊNH ĐỘ (của Tỉnh Am đại sư)
Nhĩ căn không nhiếp niệm Phật.
Niệm Phật gồm nhiếp Nhĩ căn và thích hợp với cả ba cơ thượng, trung, hạ.
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN
( PHÁT NGUYỆN TU THEO BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM)
KINH
PHẬT-ĐẢNH TÔN-THẮNG
ĐÀ-RA-NI
KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT
DUYÊN KHỞI
KHUYẾN PHÁT NIỆM PHẬT và ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN
(PHÁT NGUYỆN NIỆM-PHẬT THEO TRƯỞNG-GIẢ DIỆU-NGUYỆT)
LỜI SAU CÙNG
Bút giả cố gắng hoàn tất quyển cuối Mấy Điệu Sen Thanh nầy, giữa lúc sức khỏe suy kém, thêm bị sự khuấy rối lấn bức của cả ngoài lẫn trong rình rập bao vây. Nhớ lời Phật dạy trong kinh Pháp Hoa: “Vào lúc kiếp trược rối loạn, chúng sanh cấu nhiễm nặng nề, đầy niệm tham, sân, si, ganh ghét, thành tựu các căn chẳng lành”. (Kiếp trược loạn thời, chúng sanh cấu trọng, tham si tật đố, thành tựu chư bất thiện căn).
Lại xem trong Đà Ra Ni Tạp Tập thấy một đoạn, xin trích dịch nguyên văn như sau:
“Bạch đức Thế Tôn! Con là Thiện Danh Xưng Bồ Tát, từ cõi đức Phật Tịnh Nguyệt Âm Vương ở phương Bắc, nay đến thế giới Ta Bà. Con thấy nơi cõi nầy vào thời mạt, khi Phật pháp sắp muốn diệt, nhơn sanh phần nhiều tạo ác, tham đắm danh lợi, thị phi bôi xấu giết hại lẫn nhau. Giữa vua tôi, chủ tớ, cha con, thầy trò, chồng vợ, bè bạn, anh em, không còn đạo nghĩa, nước ngũ trược sôi trào, lửa tam tai bừng cháy. Các việc vừa nói, đều do chúng sanh kiếp trước chấp chứa nhiều tội ác, không tu đức lành, đời hiện tại mới bị cộng nghiệp sống trong hoàn cảnh như thế. Vào thời gian đó, nhơn loại tuy bề ngoài mang thân người, nhưng trong tâm ngu si độc dữ chẳng khác súc sanh ác quỉ. Thương thay cho thời mạt!
Trong năm ngàn người, may ra chỉ được vài kẻ lương thiện biết lo tu hành. Nay xin đức Thế Tôn hứa nhận cho con nói môn thần chú Vân Nhã Mật Tu, để chúng sanh đời sau được dứt trừ gốc tội nhơ, thân tâm trở nên trong sạch, xa lìa ách nạn”.
Sau khi được Phật chấp thuận, Bồ Tát liền thuyết chú rằng:
Ophú Ophú para téna Jũgu jũgu para téna yujnamid yujnamid para téna Osuto. Chipaio Kujnãto Yamidto. Kúrato. Thopato. Svaha.
”Bạch đức Thế Tôn! Đại thần chú nầy như chiếc lọng lớn che trùm tất cả. Lại cũng như cơn mưa to thấm nhuần tất cả, như cầu thuyền nổi thông chở tất cả. Chúng sanh hàng đạo tục đời sau, đều nương nhờ Đà ra ni đây mà nẩy mầm mộng lành, thắm nhuần mùi pháp vị. Công năng của đại thần chú nầy, hay cứu vớt muôn hạng căn cơ sai khác, đưa về cảnh giới nhứt không, khiến cho họ sớm chúng tam thừa thánh quả…”
Qua mấy đoạn văn trên, lời đức Phật dạy và Bồ Tát Thiện Danh Xưng trần thuật, dường như đã ứng hiện vào thời buổi nầy. Riêng trong nhà Phật còn có những cảnh:
Giường lau đèn tối tăng vào định
Trăng lạnh cành thông bóng hạc về!
(Mâu tháp đăng hôn tăng nhập định
Tùng chi nguyệt lãnh hạt phi hoàn!)
Hoặc
Chợt sang trúc viện cùng tăng luận
Trộm được phù sinh nửa buổi nhàn!
(Hối qua trúc viện phùng tăng thoại
Du đắc phù sinh bán nhựt nhàn!)
Lúc còn ở Phật học viện Huệ Nghiêm, ưong cuộc mạn đàm với một bậc tiền bối, vị ấy có nói với bút giả mấy lời vừa có tánh cách bông đùa vừa ngụ ý than thở như sau: “Hiện nay trong cửa đạo có nhiều việc phức tạp, trừ phi Bồ Tát ra đời chấn hưng lại, còn phàm Tăng như chúng ta không làm sao điều chỉnh nổi. Hoàn cảnh thật giống như hai câu thi của một danh nhơn thời xưa:
“Ca sa vị trước hềm đa sự.
Trước bãi ca sa sự cánh đa!”
(Chưa khoác ca sa chán việc nhiều.
Khoác rồi thêm việc biết bao nhiêu!)
Nhưng có điều không đúng với nguyên ý của vị danh nhơn kia, đây chẳng phải việc đạo mà lại là việc khác! Chẳng những riêng đạo Phật, mà tất cả các tôn giáo đều có tình trạng tương tợ như thế. Đây đều do lòng người, thật quả là thời đạo đức suy mạt!’
Trong đạo đã như thế, ngoài đời lại còn biến loạn hơn, từ quốc gia cho đến khắp thế giới cảnh bạo ác ngày thêm tăng mạnh, con người hầu hết sống trong vòng lường gạt, sa đọa, tranh đua, giết hại lẫn nhau. Cuộc diện kéo dài đến hiện tại, “buổi tận thế” hay “cơ tận diệt” mà các tôn giáo khác mô tả, đã có phần lấp ló lộ hình. Tuy biết đó là cộng nghiệp của nhơn sanh, nhưng khi nhìn thấy nỗi khổ đau khắp đồng loại, trải nhiều cơn biến đồi dập dồn, những kẻ hữu tâm cũng sanh niềm hoài cảm! Họ không biết tương lai sẽ đi về đâu, chán nản cho mình cùng người trong kiếp sống thừa cảnh tạm! Thỉnh thoảng nghe vài nhơn sĩ cao niên đã mượn lời của Nguyễn Du mà thầm lén than thở như sau:
Kể từ gây cuộc binh đao
Đống xương vô định đã cao bằng đầu!
Hay là:
Chân trời mệt bể linh đinh
Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào?
Và cho đến như:
… Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi
Đã không biết sống là vui
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
Trong hoàn cảnh ấy, muốn thoát mối nguy tương hoại tương tàn, nhơn loại phải hướng về đạo đức. Theo lời Phật dạy, ngày sau do chúng sanh buông lung theo nghiệp sát, đạo, dâm, vọng nên sẽ có Tam tai ác kiếp là: chiến tranh tàn phá, tật bịnh lan tràn và đói rách nghèo khó nổi lên. Kẻ nào muốn tiêu giảm nỗi thống khổ, phải giữ chắc bốn giới: không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, dối gạt, tùy sức mình mà gắng làm các điều lành. Những người ấy sẽ được thiên thần ủng hộ, khiến cho nạn khỏi tai qua. Nếu tiến thêm, muốn tìm nẻo thoát ly, phải tụng kinh hoặc trì chú và chí tâm niệm hồng danh đức A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc.
Căn cứ theo luật nhân quả, mọi sự khổ vui đều do nghiệp lành dữ và bởi vô minh gây tạo. Trong cảnh nóng bức của nhà lửa tam giới, phải bền lòng an nhẫn, phải thiết thật phụng hành đúng như lời Phật dạy Đùng nên mãi hờn trách thở than, vì kết cuộc sẽ hóa ra vô ích. Trên đây là lời phụng khuyến, là đường lối thoát ly duy nhứt, mà những kẻ học đạo muốn nhắn nhủ với đồng nhơn.
THÍCH VÔ NHẤT
(Lấy ý câu: Nhất sự vô thành thân tiệm lão)
Comments
Post a Comment