CHÁNH VĂN
71.-Ẩn tu tìm hỏi truyện Tây-Thi
Dư lại hồn mai ánh nguyệt
trì !
Hận nỗi Phượng-Loan đâu vắng tá?
Thương tình Cầm-Sắc có ra chi?
72.-Ẩn tu tích cổ duyệt xa gần
Tan hợp bên trời áng
bạch-vân !
Biển nổi dâu chìm duyên
cảnh thế,
Bao giờ cõi Phật tựa lầu ngân.
73.-Ẩn tu bốn mặt khói sương đầy
Hỏi gạn ai người niệm Phật
đây?
Cười mỉm Duy-Ma không phúc
đáp
Song hồ nửa khép cánh am
mây !
74.-Ẩn tu trì niệm cảnh hồn nhiên
Trong lặng Âm-thanh vẫn Hiện-tiền
Đoan-đích tìm chi tin-tức
thật?
Tiếng chuông đêm vắng đến
ngư thuyền.
75.-Ẩn tu niệm Phật nhẹ lâng không
Hồn bướm Trang Chu tỉnh
giấc nồng !
Ý vị âm thầm trăng tỏa sáng
Hình dung lóng lánh tuyết
ngần trong.
GIẢNG GIẢI
BÀI
SỐ 71
Ẩn tu tìm hỏi truyện Tây-Thi
Dư lại hồn mai ánh nguyệt
trì !
Hận nỗi Phượng-Loan đâu vắng tá?
Thương tình Cầm-Sắc có ra chi?
BA SINH là sinh ra 3 đời đều làm VỢ CHỒNG (PHƯỢNG LOAN) với nhau
CẦM SẮC là tượng trưng cho sự CHUNG THỦY
NHƯ Ý : Tây-Thi người đẹp dệt lụa bên dòng suối,
Sắc-Ngọc đã làm nghiêng đổ nhà Ngô, nghe đồn thì PHẠM LÃI châu du ngũ hồ, song
biết chừng đâu đã BỊ GIẾT hoặc DÙI THÂN trong Chiến Cuộc.
Bởi Thành Quách cũng điêu tàn vì Binh Lửa, nhân vật mấy ai được sống còn, duyên tạm PHÙ DU ngắn ngủi phải đâu duyên đẹp BA SANH (PHƯỢNG LOAN), cánh hoa dùi dập Lửa Binh, chỉ để Thương Tâm MỘT MỐI (CẦM SẮC).
Nếu còn sót lại, Âu chỉ
còn hồn mai lẫn vẫn nương theo Sắc Nguyệt lá đùa Quách Quế Mơ Màng,
hòa ánh AO THU Trăng sáng,
“Giai nhân Tự-cổ Như
Danh tướng,
Bất hứa trần gian kiến
Bạch đầu” là như vậy.
Nhân tại giang hồ kỷ đa sầu
Hưng suy thành bại tuế tuế
thu
Tiếu trảm thiên nhân đồ
nhất khoái
Bi tòng vạn cốt mịch phong
hầu
Thanh san vị cải tân tú
loạn
Hồi đầu tức khán tịch dương
hồng
Giai nhân tự cổ như danh
tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch
đầu.
Chuyện Luân-Hồi ở Việt-Nam
Cách đây mấy mươi năm, ở
Thủ-Ðức có một nữ Phật-tử tu tại-gia. Vì vợ chồng cô là tín đồ thuần thành,
trọng Phật kính Tăng, nên các sư thường đến ghé thăm, có khi được mời nghỉ đêm
tại nhà. Thời đó, ảnh hưởng chánh-pháp chưa được lan rộng, tuy cô đã thọ quy
giới nhưng chưa hiểu rõ về đạo, nên trong nhà cũng có nuôi heo để thêm rộng rãi
cho cuộc sống.
Khi nọ, có một vị
Hòa-thượng đến nghỉ đêm tại nhà cô, nửa đêm chợt thức giấc nghe tiếng động dưới
bộ ván mình nằm, và có giọng nói nho nhỏ rằng: “Tụi bây không biết, chớ tao tên
là Nguyễn-Thị-Hòa (vì liên hệ gia đình xin
giấu tên) bởi có thiếu bà
chủ nhà nầy một số tiền, nên phải đầu thai ra thân súc vật để trả nợ”.
Hòa-thượng nghe xong lấy làm lạ, sẽ lén nhẹ nhàng cúi xuống rình xem, thì thấy
một heo nái nói chuyện với mười hai heo con đang bú.
Sáng ra, Hòa-thượng hỏi người Tín-nữ:
- Lúc trước có cô
Nguyễn-Thị-Hòa thiếu cô một số tiền như thế, có phải không?
- Dạ thưa đúng như vậy.
Nhưng cô ấy nghèo và bây giờ đã qua đời, nên con kể như bỏ luôn. Ủa! Mà chuyện
nầy chỉ riêng mình con với cô ấy biết, ở nhà con cũng không hay, tại sao thầy
lại hiểu rõ ràng như vậy?
Hòa-thượng đem chuyện
đêm hôm thuật lại. Cô chủ nhà cả kinh, vội đem bán heo mẹ lẫn mười hai heo con
thì thêm một việc lạ, số tiền thu được đúng
với tiền cô Nguyễn-Thị-Hòa đã thiếu mình khi trước.
Trải qua sự nầy, cô tín
nữ càng tin việc luân-hồi nhân-quả hiển nhiên là có thật. Từ đó cô tu hành thêm
tinh tấn và cải gia vi tự, thành ra ngôi chùa Phước-Trường hiện giờ. Tại chùa
nầy, hiện nay linh vị thờ cô vẫn còn. Tiên đức đã bảo: “Súc-sanh bản thị nhơn lai tố. Nhơn súc luân-hồi cổ đáo
kim!” (Súc-sanh kia
trước là người. Xưa nay người, súc luân-hồi đổi thay!)
Việc trên đây là một
chứng minh cho lời nầy vậy. (Thuật theo lời Thượng-tọa Thanh-Từ, khi Thượng-tọa đến diễn giảng và thăm chùa
Phước-Trường ở Thủ-Ðức).
LỜI BÀN : Nếu cô Tín-nữ khi
biết Bà ấy chết, thì nên Phát-Nguyện BỐ THÍ cho bà NGUYỄN THỊ HÒA, để Bà không
còn BỊ mắc nợ làm HEO để trả?
Cũng như ai Phát Nguyện VỢ CHỒNG
tôi sau nầy sẽ làm THIỆN TRI THỨC cho nhau, để cùng VÃNG SANH CỰC LẠC cùng
thành PHẬT ĐẠO, thì có thể chuyển NGHỊCH cảnh thành THUẬN duyên ?
Tiết III.- Ý Nghĩa Và Các Yếu Ðiểm Về Nhân Quả
Nhân-quả là gì?
Nhân là nguyên nhân,
Quả là kết quả, nguyên nhân gây thế nào, kết quả ra
thế ấy.
Người xưa đã bảo: “Muốn làm việc gì, trước phải bình tĩnh nghĩ đến kết Quả
về sau của nó”. Nếu mỗi Phật-tử biết
lấy câu nầy làm điều tâm niệm, tất sẽ tránh được nhiều lỗi lầm thất bại trên
đường đạo cũng như đường đời.
Nói theo lối khác, Nhân là hại giống, Quả luận với tánh cách
rộng hơn, là hoa trái. Gieo trồng hạt giống thuộc hoa trái nào, tất sẽ được hoa
trái ấy. Một vị thiền-sư cũng khuyên dạy:
“Xem hết kinh Di-Ðà.
Tụng xong chú Ðại-Bi.
Trồng dưa thì được dưa.
Trồng đậu lại được đậu.
Kinh chú vẫn quý lành.
Kết oán làm sao cứu?
Soi lại lòng bản lai.
Người tạo, người phải
chịu.
Mình làm mình thọ quả”.
Mấy lời trên đây không
phải phủ nhận oai lực của kinh chú. Nhưng chủ ý của thiền-sư là để nhắc nhở cho
những người: một phương diện thì ăn chay tụng kinh trì chú, phương diện khác lại sát sanh gian xảo lường gạt; hay chỉ biết làm lành, cúng dường, bố thí bên
ngoài, nhưng không biết dứt trừ tâm niệm tham lam, ích kỷ, tật đố, si mê, độc
ác bên trong. Một đàng tu thiện, một đàng tạo ác như thế, nghiệp thì dễ tạo, phước
lại khó tu, lấy công trừ tội sợ e không
rồi, làm sao tiêu giải oan kết cho được? Những kẻ gây hạnh nghiệp như thế, rồi trở lại trách
Phật, Bồ-Tát sao không cứu, trách kinh chú sao không
linh nghiệm, chẳng hóa ra là sai
lầm lắm ư?
Nhân tiện lại xin bàn thêm
một việc, trong giới Phật-tử có hai hạng người:
Một hạng thuần TÍN ngưỡng,
chỉ cực đoan nương tựa nơi tha-lực, tức là cầu sự giúp đỡ của chư Phật, Bồ-Tát,
không kiểm điểm sửa đổi tâm hạnh của mình.
Một hạng duy y cứ nơi
TỰ-LỰC, cho rằng mình làm lành sẽ được kết quả lành, không cần sức giúp đỡ của chư Phật, Bồ-Tát, nghĩa là không ỷ lại nơi tha-lực. Cả hai quan niệm
đó đều sai lầm. Về hạng trước, tuy chư Phật, Bồ-Tát có bi tâm, bản nguyện cứu
độ chúng-sanh; nhưng ít nữa hành giả phải tự-lực cố gắng một phần nào, sự giúp
đỡ ấy mới có công hiệu, nếu chẳng thế thì các hiền-thánh cũng đành không phương
cứu trợ.
Ví như một sinh viên
thường siêng năng cố gắng chăm học, thầy bạn mới có thể chỉ bảo giúp đỡ thêm
được; nếu mãi biếng nhác lêu lổng, thì cha mẹ, sư hữu cũng vô kế khả thi. Cho
nên Tịnh-độ-tông và Mật-tông tuy thuộc về Tha-lực pháp-môn, nhưng muốn đạt
được kết quả, hành giả cần phải cố gắng nhiều trên phương diện Tự-lực.
Về hạng sau, tuy tự-lực
của mình là cần thiết, nhưng cũng cần có tha-lực hộ trì mới mau đạt được kết
quả. Ví như một học sinh tuy siêng năng chăm chỉ, nhưng nếu được thầy hay bạn
tốt thường giúp đỡ, thì sự học sẽ tăng tiến biết bao nhiêu! Vì thế, nên
Thiền-tông tuy chú trọng về tự-lực, nhưng vì sợ hành giả khó giữ tâm trước
cảnh Ngũ-ấm-ma, cho đến bậc phá trừ Tưởng-ấm chứng quả A-na-hàm, trong
một giây phút sơ hở còn có thể bị thiên-ma làm cho sa đọa, nên Đức Phật ân cần khuyên phải trì chú Lăng-Nghiêm để nhờ sự hộ trì của tha-lực.
Lại vì e bậc A-la-hán ở
yên nơi cảnh hóa thành mà quên đến miền bảo sở, chỉ lo tự-độ mà chán việc
lợi-tha, Ðức Thế-Tôn mới khuyến tấn, quở là giống khô, mộng héo. Cho đến bậc
Bồ-Tát khi chứng lên ngôi Bất-động-địa, thấy thế-giới mười phương như huyễn,
lặng lẽ tợ không hoa, thường sanh quan niệm an trụ nơi tịch tĩnh. Ðức Như-Lai e
hành giả Đại-thừa say chìm trong cảnh đó, nên hiện thân khuyến tấn nhắc cho nhớ
lại bản nguyện độ sanh, để đương nhơn tiến lên cực quả. Vậy Thiền-tông đâu phải không cần đến tha-lực?
Cho nên gọi đạo Phật là
tôn-giáo hay phi-tôn-giáo, thần-quyền hay phi-thần-quyền, đều không đúng. Phật-giáo là Phật-giáo, là toàn thể pháp-giới, gồm đủ
mọi mặt. Quảng-Nghiêm đại-sư,
một vị thiền-đức Việt-Nam, khi thị tịch có câu:
“Nam nhi tự hữu xung thiên chí.
Hưu hướng Như-Lai hành xứ hành”
(Tung trời là chí tài trai đó.
Hà tất theo đuôi Phật mới lành!)
Hai câu nầy chẳng qua là
để nung thêm ý chí tự cường của người tu mà thôi. Hành giả đừng nên hiểu lầm,
vội bác sự hướng dẫn của chư Phật, Tổ, rồi sanh tâm tự cao mà đắc tội, nhất là
đối với bậc trung, hạ căn.
Sở dĩ có đoạn trên đây, là
bút giả muốn khuyên nhắc sự sai lầm của những hành nhơn duy biết ỷ lại vào
tha-lực mà quên việc nhân-quả tiến tu của mình. Và một hạng người cầu cao, chỉ
y cứ nơi nhân-quả của tự-lực mà khinh thường sự kiện hữu ích rất cần thiết của
tha-lực.
Trở lại phần chính của bài
nầy, về phương diện nghiệp Nhân, trong kiếp sống, loài hữu-tình khi gây nhân có
ba điều khái yếu: Phước-nghiệp, Phi-phước-nghiệp và Bất-động-nghiệp.
Phước-nghiệp là những nhân lành như kính thờ Tam-bảo, bố thí, phóng sanh...
Phi-phước-nghiệp là những nhân ác, như khinh báng Tam-bảo, bất hiếu với song
thân, cùng những điều giết, trộm, dâm, vọng... Bất-động-nghiệp là những nhân
thiền-định, như thế-gian-thiền, ngoại-đạo-thiền, xuất-thế-gian-thiền...
Ba nghiệp nhân trên phát
sanh từ thân, ngữ, ý.
Nhân lành của THÂN là
giữ những giới không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, đoan chính trong
các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, mắt không đắm sắc, tai không nhiễm thanh...
Nhân lành của NGỮ là
không nói dối, không nói thêu dệt, không nói đôi chiều, không nói thô ác, không
nói vô ích, không nói lời hí hước, không khen mình chê người, thường dẫn chuyện
nhân-quả với tánh cách nêu gương để khuyên nhắc kẻ khác.
Nhân lành của Ý là
không tham lam bỏn sẻn, tật đố, không giận dữ hờn oán sâu độc, không si mê tà
kiến. Nếu thân, ngữ, ý không làm những việc như trên, lại tạo thêm các điều
thiện, gọi là ba nghiệp lành. Trái lại, là ba nghiệp ác.
Tóm tắt, về phần “Nhân”, nơi phát sanh không
ngoài thân, ngữ, ý, và chỗ tạo tác không ngoài Phước, Phi-phước cùng
Bất-động-nghiệp.
Theo lời Phật dạy, trong
ba nghiệp, khẩu nghiệp dễ tạo hơn cả. Người xưa đã bảo “Ða ngôn đa quá”, nghĩa là “nhiều
lời tất nhiều lỗi”. Vì thế người tu nên ít nói, và khi thốt ra lời gì phải dè
dặt suy nghĩ kỹ. Bởi khi nói nhiều, ta không thể kiểm soát hết lời nói của
mình, như thế làm sao cho khỏi điều lầm lỗi; đôi khi gây sự phiền muộn cho kẻ
khác mà ta không hay.
Thuở xưa, ngài Mục-Kiền-Liên ngồi thiền định
trong rừng, thấy một vị thần, thân thể đoan nghiêm phát ánh quang minh, nhưng
nơi miệng lại tuôn ra máu mủ, giòi tửa, bay mùi hôi khó chịu. Sáng ra, ngài đem
việc ấy bạch Phật.
Ðức Thế-Tôn bảo: “Vị thần đó, tiền thân là một Tỷ-khưu, bởi giữ
thân nghiệp thanh tịnh, nên sắc tướng đoan nghiêm có ánh quang minh; nhưng vì
không khéo gìn khẩu nghiệp, thường buông lời thô lỗ, khen mình chê mắng người,
nên nơi miệng mới có những ác tướng như thế”.
Nếu trong ba nghiệp, khẩu
nghiệp đã dễ tạo, thì ý nghiệp lại có năng
dụng mạnh hơn cả. Phàm-phu chỉ có thể
kiểm soát tâm niệm thô của mình, song không thể kiểm soát tâm niệm tế. Ngài
Di-Lặc Bồ-Tát khi nhập định, dùng trí huệ cực thanh tịnh sáng suốt, thấy mỗi
chúng-sanh trong một sát-na có đến ba mươi sáu muôn ức niệm vi tế, mỗi niệm biến mỗi hình, niệm lành biến tướng lành, niệm dữ biến tướng dữ. Ðiều
nầy nhắc cho ta nhớ, người tu không những giữ gìn nhân-quả nơi thân, khẩu, mà
còn phải dè dặt nhân-quả trong mỗi tâm niệm.
Nếu thờ ơ để cho tâm xấu
thường nổi lên, khi dồn chứa lâu ngày, nó có đủ năng lực sai sử ta làm việc quấy, và chịu
thân ác thú trong tương lai.
Một Phật-tử Trung-Hoa, ông
Trần-Hải-Lượng, có người bạn tên Hoàng-Ðồng-Sanh. Ðôi mắt cư sĩ họ Hoàng rất lạ, có thể thấy được ma quỷ và điện quang của mỗi người.
Theo lời ông, những vị tu hành chân chánh, tâm trong sạch, thì xung quanh mình
có vòng ánh sáng sắc trắng mát mẻ dịu dàng.
Người giàu, có ánh sáng
sắc đỏ. Bậc sang quý, có ánh sáng màu tím. Kẻ buồn rầu thất chí, hoặc đau yếu,
có ánh sáng màu xám như khói. Hạng người tầm thường, phần nhiều có ánh sáng màu
lục. Ai có điện quang màu đen thì
một là người sắp chết, hai đó là kẻ rất độc ác. Và tùy theo tâm niệm tốt xấu, điện quang của mỗi người
thay đổi không lường.
Ðại khái, người tâm lành
ít thì vòng ánh sáng lành nhỏ hẹp; bậc tâm lành hay thanh tịnh nhiều, thì vòng
ánh sáng lành rộng lớn. Quang lượng rộng hẹp của kẻ ác cũng như thế. Cho nên
khi ta khởi một niệm ác, tuy người ngoài không biết, song mình biết, Quỷ-thần
biết; còn những bậc thánh đắc đạo thì thấy rõ ràng như nhìn các lằn chỉ trong
bàn tay, hay nhìn bóng hiện trong gương sáng.
Mình biết, thì lương tri
tự khiển trách làm cho hổ thẹn hối hận không yên. Quỷ-thần biết, thì phẫn nộ
quở phạt. Chư Phật, Bồ-Tát khi biết dù xót thương không làm tổn hại, song kẻ
gây nhân tất phải chịu quả, chẳng thế nào tránh khỏi. Từ hành vi đến tâm niệm
của ta, sự phản ứng của luật nhân-quả mỗi mỗi đều rất công minh.
Cho nên tiên hiền đã
bảo: “Quả báo của việc lành dữ
như bóng theo hình. Khi khởi một niệm lành, tuy phước chưa đến mà thiện thần đã
đến. Lúc sanh một niệm dữ, tuy họa chưa tới mà ác quỷ đã theo”. Mấy lời nầy rất phù hợp với lý nhân-quả của đạo
Phật.
Như trên đã nói khái quát
về phần Nhân, kế lại xin bàn tổng quát về phần Quả. Quả báo tuy nhiều, song có
thể tóm tắt trong mười hai điểm:
1. Hiện-báo: Ðây là quả báo trong
kiếp hiện tại; có nghĩa hiện thế gây nhân thì hiện đời chịu quả. Quả báo nầy có
tánh cách mau, ví như trồng loại cà, ớt hay gieo giống lúa, chỉ trong vòng một
mùa, một năm đã thu được kết quả. Hiện-báo còn gọi là Hoa-báo, danh từ nầy hàm ý nghĩa
mau lẹ, ảnh hưởng không đợi đến thời kỳ sanh trái, mà đã phát lộ trong thời kết
bông. Tục ngữ có câu:
“Ðời xưa trả báo thì
chầy.
Ðời nay trả báo một giây
nhãn tiền”.
Hai câu nầy chỉ cho tánh
cách của Hiện-báo hay Hoa-báo.
2. Sanh-báo: Sanh-báo là gây nhân
kiếp nầy, đời kế sau mới chịu quả báo. Quả báo nầy có tánh cách hơi lâu, ví như
trồng mụn chuối con, hạ thổ năm nay, sang năm mới có trái. Trong kinh có câu:
“Muốn biết nhân kiếp
trước,
Hãy xem sự thọ hưởng đời
nay.
Muốn rõ quả kiếp sau,
Nên xét sự tạo tác trong
hiện tại”.
Hai câu nầy có thể chỉ cho
ảnh hưởng của Sanh-báo.
3. Hậu-báo: Ðây là nói sự gây nhân
trong đời nầy, đến ba, bốn, trăm, ngàn hay vô lượng kiếp sau mới thọ quả báo.
Hậu-báo có tánh cách lâu hơn, ví như trồng những loại cây trong năm nay, đến
năm, mười hay đôi ba mươi năm sau mới kết quả.
Thuở xưa, khi Phật còn ở
đời, có ông Thi-Lợi-Bật-Ðề đến một trăm tuổi mới cầu xin xuất-gia. Các vị
Trưởng-lão như Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, nhập định quán sát trong vòng 84000 kiếp
về trước thấy ông thiếu căn lành nên không cho. Ðến khi Như-Lai đi khất thực
trở về, thấy ông khóc lóc cầu xin, liền chấp thuận. Các vị Trưởng-lão hỏi duyên
cớ. Ðức Thế-Tôn đáp: “Thi-Lợi-Bật-Ðề trước 84.000 kiếp, tiền thân
là lão tiều phu, bị cọp đuổi gấp leo lên cây niệm một câu “Mô Phật”. Do thiện căn ấy đến nay
mới gặp ta, và sẽ được đắc độ.
Vì nhân lành kiếp trước
của người nầy quá lâu xa, nên sức đạo nhãn của các ông không thể thấy biết
được”. Trong kinh có bài kệ:
“Giả sử trăm ngàn kiếp.
Nghiệp đã tạo không mất.
Khi nhân duyên gặp nhau,
lại tự chịu quả báo”.
Ðại ý bài kệ nầy chỉ cho
trường hợp Hậu-báo.
4. Ðịnh-báo: Ðịnh-báo là quả báo nhất
định phải chịu, không thể chuyển biến được, bởi sức nghiệp đã quá thuần thục,
trong mười phần thành tựu cả mười.
Ví như cái nhà hư hao chút
ít hay nửa phần, còn có thể sửa chữa được; nếu kèo cột tường nóc đều hư mục,
tất phải chờ cho nó hư hoại để làm ngôi khác. Và như bịnh ung thư trong thời kỳ
nhẹ còn có thể chữa được, sang lúc quá nặng duy có phương chờ đến mãn phần. Cổ
ngữ có câu:
“Dược y bất tử bịnh.
Tửu bất giải chân sầu”.
(Thuốc không trị được bịnh
không chết.
Rượu không thể giải mối
buồn hiện thật).
Mấy câu nầy có thể tượng
trưng phần nào cho sự việc trên.
Thuở xưa vua Lưu-Ly cử
binh đến đánh dòng họ Thích, Ðức Thế-Tôn can ngăn ba lần mà không được. Tôn-giả
Mục-Kiền-Liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì ngài bảo đó là
định nghiệp. Tôn-giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm người họ
Thích trên cung trời.
Nhưng khi Lưu-Ly-Vương dẹp
xong hàng Thích-Chủng, thì năm trăm người ấy cũng đều thành huyết mà chết. Ðây
là một sự kiện chứng minh sức định nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ.
Cho nên chư Phật có ba
việc làm được, ba việc làm không được, gọi là “Tam năng tam bất năng”. Các điều
ấy là:
1) Chư Phật có
thể không tất cả tướng, thông suốt tất cả pháp, nhưng không thể
diệt được ĐỊNH NGHIỆP;
2) Chư Phật có thể
biết cùng tận nghiệp tánh của chúng-sanh, rõ thấu tất cả việc trong vô biên
kiếp quá khứ và vị lai, song không thể độ những chúng-sanh VÔ
DUYÊN;
3) Chư Phật có thể
độ vô lượng chúng-sanh, song không thể độ hết CHÚNG SANH GIỚI.
Bởi thế, sức NGƯỜI cố
nhiên là hữu hạn, nhưng sức PHẬT vẫn chưa phải TOÀN NĂNG. Nếu
chúng-sanh không tín hướng Ðức Như-Lai, không thực hành đúng theo lời Ngài dạy,
thì chư Phật, Bồ-Tát cũng không thể hóa độ được.
5. Bất-định-báo: Ðây là nghiệp báo có thể
chuyển biến sửa đổi được. Như có người trước đã tạo nghiệp lành, đáng lẽ phải
hưởng phú quý trọn đời. Nhưng trong lúc làm quan, nếu kẻ ấy tham mê tài sắc, ăn
của lót, cưỡng hiếp, hãm hại người, thì phước lộc lần lần tiêu giảm, có thể bị
tù ngục, ô danh, hoặc chết bất đắc kỳ tử.
Và như kẻ kiếp trước kém
nhân lành, nên đời nầy thân phận nghèo khổ, hèn hạ. Song nếu người ấy biết xét
lẽ nhân-quả-tội-phước, gắng sửa đổi tâm tánh, hết sức làm việc phước thiện, thì
tội chướng lần tiêu giảm, phước đức lần tăng thêm, có thể trong hiện tại chính
mình hay con cháu sẽ tiến đến cảnh vinh quang.
Ví như trong đời, người
tước vị cao mà ỷ thế làm quấy, thì có thể bị cách chức; kẻ có tội nhưng gắng
lập công, có thể đem công chuộc tội, và nếu lập công thêm mãi tất sẽ được tấn
chức thăng quan.
Nghiệp quả của chúng-sanh
phần nhiều đều có tánh cách bất định. Nếu chúng ta biết gắng sức dùng tâm lực
để chuyển nghiệp lực, thì cảnh Thiên-cung, Phật-quốc nào phải không nẻo tiến
lên.
“Bụi hồng có lối về hương
quốc.
Cửa tội không tâm mở dạ
đài”, chính là ý nầy vậy.
6. Cộng-báo: Cộng-báo là quả báo
chung. Như thuở Ðức Thế-Tôn còn ở đời, ba mươi hai người con của bà Tỳ-Xá-Ly
đều bị vua Ba-Tư-Nặc nghi lầm mà giết. Xét theo hiện thời thì dường như đó là
hàm oan.
Song thật ra trong tiền
kiếp vua Ba-Tư-Nặc là con trâu, ba mươi hai người kia đều là kẻ trộm.
Trong khi con trâu biết mình sắp bị giết, quỳ xuống rơi nước mắt tỏ ý van xin,
nhưng ba mươi hai kẻ trộm quyết tâm sát hại để ăn thịt. Lúc ấy lại có một bà
lão tán thành giúp cho phương tiện nấu nướng. Bà lão ấy chính là tiền thân của
cận sự nữ Tỳ-Xá-Ly.
Bà Tỳ-Xá-Ly và ba mươi hai người con vì đồng gây cộng-nghiệp,
nên ba mươi hai đứa con bị giết; còn bà mẹ bởi kiếp trước tùy hỷ việc ấy, nên hiện tại cũng vương nỗi buồn lây. Ðiều nầy do Đức
Phật thuật lại tiền nhân, nên mối oan kết đôi bên mới được giải thích.
Lại nữa, trong thời kỳ
chiến tranh nầy, có nhiều người tuy không ra trận tuyến, nhưng cũng bị bom đạn,
sự kinh khủng, cảnh nghèo đói, hoặc nỗi buồn khổ về tử biệt sanh ly.
Ðó đều là ảnh hưởng nặng nhẹ
thuộc Cộng-báo, do việc tự mình giết, bảo người giết, hoặc tùy hỷ sự giết của
nghiệp sát sanh từ nhiều kiếp về trước.
7. Biệt-báo: Ðây cũng gọi Bất-cộng-báo, là quả báo riêng của mỗi
cá loại trong loài người hay loài vật. Chẳng hạn như đồng là chim, nhưng có
loại chim quý đẹp như bạch hạt, anh võ, trĩ, thanh tước, phượng hoàng; có loại
chim thường như quốc, cò, sẻ, én; và loại xấu như chim heo, chim ụt.
Lại cũng đồng là loài
người, mà có kẻ xấu, người đẹp, kẻ giàu sang, người nghèo khổ, kẻ ngu tối,
người thông minh.
Hoặc như trong cảnh khói
lửa tang tóc lan tràn, mà có người vẫn sống đoàn tụ an vui, hầu như không biết
chiến tranh là gì cả.
Ðó là những trường hợp
thuộc về Biệt-báo.
8. Cận-tử-báo: Cận-tử-báo là quả
báo lúc sắp chết. Con người khi già yếu sắp chết, những nghiệp thiện ác từ kiếp
nầy hoặc kiếp trước dồn lại, ảnh hưởng mạnh mẽ hơn lúc bình thường. Nếu là
nghiệp thiện thì khiến cho người ấy vui vẻ hòa nhã hiền lương, mắt tai không lờ
lãng, khi lâm chung xả báo an lành.
Như thuộc về nghiệp
ác, thì kẻ đó trở nên nóng
nảy, ưa buồn giận khó khăn, tâm trí lờ lẫn, lúc
sắp chết đau yếu mê man. Trong đời kẻ tu thiện thì ít, làm ác lại nhiều, nên đa
số người đến lúc lớn tuổi thường đổi tánh; những vị không hiểu lý nầy cho là
“già hay sanh tật”.
Thuở bút giả còn ở chùa
Linh-Thứu, tại xã Thạnh-Phú, tỉnh Ðịnh-Tường, có biết ông hương ấp Nghé. Ông
nầy ưa ăn thịt chó, mỗi tháng trung bình độ sáu con, nên khi ông đi đâu thì chó
sủa dồn đến đó, ai cũng đều biết. Khi ông đau sắp chết, thì tự chui xuống gầm giường nằm khoanh
một góc, lâu lâu lại tru lên như chó.
Lúc ấy có người đồng bạn
là chú năm Thiện đến thăm, hỏi: “Anh hương ấp làm chi lạ vậy? Thôi anh lên
giường nằm, đừng để cho bà con chê cười!” Nói chưa xong, thì ông thình lình
nhảy ra táp chú, hình trạng như con chó giận dữ cắn người, may nhờ chú năm lẹ
làng tránh khỏi.
Ðây là một việc tượng trưng
cho Cận-tử-báo thuộc về nghiệp ác.
9. Thục-vị-thục-báo: Ðiều nầy là trạng thái của nghiệp báo lúc chưa thuần
thục và đã thuần thục. Tiên đức nói: “Người mang nghiệp ví như người mắc nợ, mối nào mạnh thì nó
kéo lôi trước”.
Khi xưa, một hôm Đức Phật
bảo ngài A-Nan: “Có người trọn đời làm lành mà khi chết bị đọa vào ác đạo, bởi
nghiệp lành đời nầy chưa chín muồi, song nghiệp dữ kiếp trước đã đến lúc thuần
thục. Có kẻ trọn đời làm ác nhưng
khi chết sanh lên Thiên-cung, bởi nghiệp ác đời
nầy chưa thuần thục mà nghiệp lành kiếp trước đã đến thời kỳ chín muồi. Việc
nhân-quả rất phức tạp, tùy theo thế lực mạnh yếu mà đến trước hoặc sau.
Cho nên các đệ-tử của ta
chớ nên thờ ơ, phải gắng chuyên tu cho đạo nghiệp được tinh thuần. Vì biết đâu,
có kẻ tuy đời nay yên ổn hưởng lạc làm lành, nhưng nghiệp ác những kiếp về trước đã sắp đến thời kỳ
thuần thục!”
Bởi chưa hiểu rõ lý trên,
nhiều vị thấy người làm lành mà chết xấu, kẻ hung dữ lại chết tốt, vội phê bình cho rằng không có việc nhân-quả-tội-phước, chẳng cũng là sai lầm lắm ư?
10. Chuyển-báo: Chuyển-báo là những
biến trạng khổ vui, do sức tu thiện hay làm ác của đương nhơn. Biến trạng nầy
là sự dồn dập để chuyển đổi những quả báo sắp đến. Như có người làm đủ những
điều ác, song đời sống hiện tại càng thêm an ổn vinh quang.
Trong đây có hai nguyên
nhân:
Một là do túc phước của họ quá nhiều, tuy có phần tổn giảm
bởi làm ác, nhưng dư phước hãy còn.
Hai là do thế lực của nghiệp ác quá mạnh, khiến cho bao
nhiêu phước đời nầy và đời trước đều phát hiện cho kẻ ấy hưởng, để rồi sẽ chịu
quả báo ác đạo ở kiếp sau. Sự kiện Chuyển-báo nơi đây, chính thuộc về trường
hợp thứ hai nầy. Nói theo các cụ bình dân ta, đây gọi là trạng thái “dồn phước”.
Lại có những vị chí tâm tu
hành, nhưng lại thường gặp những việc thất bại, đau yếu, tai nạn, mang tiếng
thị phi. Theo tiên đức, đó là do sức tu thiện, khiến cho chuyển quả báo nặng ác
đạo ở đời sau, thành ra quả báo nhẹ trong hiện tại, để kẻ ấy khi mạng chung sẽ
hưởng phước nhơn thiên, hay sanh về Phật-quốc. Và đây gọi là trạng thái “dồn nghiệp”.
LỜI BÀN :
Trong thời mạt pháp, muốn
được giải thoát,chỉ duy có Niệm Phật pháp môn.
Bởi môn này đã dùng hết
TỰ LỰC, còn nhờ thêm THA LỰC, dù nghiệp hoặc chưa dứt, cũng nhờ sức Phật tiếp dẫn mà được ĐỚI NGHIỆP VÃNG SANH. (Tức là tất cả sự “dồn phước”, “dồn nghiệp”... đều PHẢI dừng lại)
Khi đã về Cực Lạc, tất
không còn thối chuyển vĩnh viễn thoát luân hồi.
Cho nên bậc bi tâm hành
giả, như muốn giáo hóa nơi địa ngục, vào biển trầm luân, nên chú ý đến nhân duyên cầu sanh Tịnh Độ. Điều nầy Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận gọi là Dị Hành
Đạo.
Nhiều Phật-tử không hiểu
lẽ nầy, khi gắng tu mà gặp việc không may, vội sanh tâm sợ sự niệm Phật tụng
kinh, hoặc thối chí bảo: càng tu nhiều càng có lắm
việc phiền phức, rồi lần lần đi đến sự
giải đãi, xin đem một thí dụ để trần thích: như người có bịnh phong hay ban,
uống thuốc vào chất độc bị giải tán, làm cho nước tiểu vàng hoặc cả mình nổi
mẩn đỏ, đó là trạng thái bịnh sắp lành. Việc ấy nên đáng mừng hay là lo sợ?
Kẻ tu hành cũng thế, do
công đức tụng kinh niệm Phật, khiến cho nghiệp chướng phát hiện để tiêu trừ.
Nếu có chút ảnh hưởng khổ báo, trong mười phần ta chỉ còn chịu đôi ba phần, cho
nên hành giả đừng lấy việc đó làm nản chí.
Và điều nầy, trong kinh Kim-Cang, Đức Phật cũng đã bảo:
“Tu-Bồ-Ðề! Nếu
Thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn thọ trì đọc tụng kinh nầy mà bị người khinh rẻ, nên
biết kẻ ấy đời trước tội chướng rất nhiều, đáng lẽ phải đọa vào ác đạo. Do sức
tụng kinh, khiến đời nay bị người chê bai, nên tội chướng đời trước được tiêu
diệt, kẻ đó sẽ đắc quả A-Nậu-Đa-La-Tam-Miệu-Tam-Bồ-Ðề”.
Trong Tịnh-Ðộ-Thánh-Hiền-Lục có thuật chuyện ông Ngô-Mao tu hành chân chánh,
lúc sắp chết bị giặc đâm bảy thương. Khi người anh đến, ông bỗng tỉnh lại bảo:
“Ðời trước tôi tạo nhiều
nghiệp ác, đáng lẽ phải còn đầu thai làm heo bảy kiếp nữa. Nhưng nhờ đời nầy
tôi biết ăn chay niệm Phật, nên phải chịu bảy vết thương để trả bảy kiếp làm
heo ấy. Hiện thời tôi sắp sanh về Tịnh-độ”.
Cứ theo việc ông Ngô-Mao,
kẻ không biết cho là tu hành mang họa. Nhưng chỉ chịu bảy vết thương trả xong
bảy kiếp làm heo, để rồi được sanh về Cực-Lạc; nếu so lại thì việc tu hành đâu
phải luống uổng, và công đức niệm Phật chính thật không thể nghĩ bàn!
Nhưng tu hành không phải
mỗi người đều bị chuyển-báo, nếu kẻ có căn lành từ kiếp
trước thì càng tu càng được an vui. Hành giả đừng in trí
theo một phương diện trên mà sanh lòng e ngại.
11. Thế-gian-báo: Ðây là những quả báo
khổ vui trong ba cõi: Dục, Sắc và Vô-sắc. Nguyên nhân chánh của sự lưu trệ trong tam giới, là vì
khi gây nhân chúng-sanh còn chấp ngã. Chẳng những thế gian và ngoại-đạo mà các
vị tu theo chánh giáo, nếu chưa dứt hết tâm chấp ngã, còn tham nhiễm lục trần,
cũng vẫn còn ở trong vòng luân-hồi sáu nẻo.
Tuy nhiên, những sở hành
theo Phật-pháp đều gây nhân duyên đắc độ về sau, nhưng kiếp tương lai trong khi
tu, điểm chánh yếu của sự giải thoát vẫn là điều kiện dứt ngã chấp. Trong
truyện ký nhà Phật có chép việc một ni-cô tụng kinh Pháp-Hoa ba mươi năm, nhưng tâm còn nhiễm thanh sắc, nên kiếp sau
chuyển làm nàng kỹ nữ thanh sắc vẹn toàn; nơi miệng thường bay ra mùi thơm hoa
sen.
Tại Việt-Nam, đời nhà Lê, một vị sư tu Tịnh-độ ở chùa Quang-Minh,
bởi tâm lợi danh chưa sạch, nên kiếp sau chuyển sanh làm vua Khang-Hy bên Trung-Hoa. Khi
được biết tiền nhân, nhà vua viết mấy bài thi hoài cảm, trong ấy có hai câu:
“Ngã bản Tây-phương nhất
Phật-tử.
Vân hà lạc tại
đế-vương-gia?”
(Ta vẫn là con của Phật
A-Di-Ðà ở Tây-phương.
Tại sao nay lại lạc vào
giòng vương thất?)
Ðời Tống bên
Trung-Hoa, Giới-Diễn và Quang-Huệ đại-sư đồng tu thiền, song
Giới-Diễn vì còn chút tâm niệm luyến sắc, nên kiếp sau đầu thai làm nhà văn hào
lỗi lạc, đa tài mà cũng đa tình, là Tô-Ðông-Pha. Sau khi được ngài Quang-Huệ chuyển kiếp
làm Phật-Ấn thiền-sư để hóa độ Tô-Ðông-Pha trở lại đường tu;
có lẽ nhớ biết những kiếp về trước, nên lúc lớn tuổi, trong cuộc tái du thăm
viếng chùa Kim-Sơn, ông đã viết mấy câu thi:
Kim-Sơn chùa núi gần mây
nước
Tóc bạc Ðông-Pha lại đến
đây.
Tiền kiếp Ðức-Vân, nay
chính tớ
Mơ màng còn nhớ
Diệu-Cao-đài!
12. Xuất-thế-gian-báo: Thế-gian-báo là quả báo thuộc lục-phàm. Trái lại,
xuất-thế-gian-báo là quả báo của tứ-thánh: Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát và Phật.
Quả báo tứ-thánh do bởi
khi tu lìa ngã-chấp mà được thành tựu. Trong hạnh vô-ngã nầy, hàng Nhị-thừa hãy
còn hẹp, song Bồ-Tát thừa thì rất rộng rãi nhiệm mầu.
Bồ-Tát chẳng những tu
tam-vô-lậu-học của pháp xuất-thế-gian, mà còn làm tất cả việc từ thiện của thế
gian. Tâm của Bồ-Tát không thấy
có sở đắc sở chứng; không có tướng ngã,
nhơn, chúng-sanh, thọ giả; tuy độ vô lượng hữu-tình nhưng không thấy mình là
người hóa độ, chúng-sanh là kẻ được độ; tuy quanh mình thị hiện vô biên quyến
thuộc, nhưng lòng hằng vắng lặng
không thấy có quyến thuộc; tuy tu vô lượng
phước đức, nhưng không thấy mình có phước đức. Ðây là hạnh vô tướng.
Người biết thực hành hạnh
vô tướng, dù là làm việc thiện thế gian, song đều thành kết quả giải thoát.
Bằng trái lại, tuy tu thánh-đạo, cũng hóa ra phước báo thế gian. Về hạnh vô
tướng nầy, trong kinh Kim-Cang, có đoạn Đức Phật dạy:
“Nầy Tu-Bồ-Ðề! Như
có vị Bồ-Tát dùng số lượng thất bảo đầy cả hằng-hà-sa thế-giới để bố thí. Nếu
lại có người biết tất cả pháp đều vô ngã, được thành vô sanh nhẫn, thì công đức
của vị Bồ-Tát sau nầy hơn bậc Bồ-Tát trước kia. Tại sao thế, Tu-Bồ-Ðề? Bởi thật
ra, chư Bồ-Tát đều không thọ phước đức”.
Tu-Bồ-Ðề thưa:
“Bạch Thế-Tôn! Sao gọi là
Bồ-Tát không thọ phước đức?” - Nầy Tu-Bồ-Ðề! Vì Bồ-Tát tuy làm những việc phước
đức, song chẳng tham trước, nên ta nói không thọ phước đức!”
Thông thường hàng Phật-tử
tại-gia khi mới quy-y, duy thích cúng dường chùa mình, phụng sự thầy của mình,
hay chỉ làm những Phật-sự mà họ cho là có công đức hơn việc thế gian. Nhưng nếu
họ hiểu rộng hơn, vừa dùng tâm bình đẳng phụng sự Tam-bảo, vừa làm các việc từ
thiện ở đời, như giúp đỡ kẻ nghèo khổ đau yếu, chu cấp cho hàng quả phụ cô nhi,
rồi đem công đức ấy hồi hướng về Tịnh-độ cùng đạo Vô-thượng-bồ-đề, thì tất cả việc làm lành đều đi đến kết quả giải thoát
cả.
Tóm lại, sự lý nhân-quả
thật vô lượng, chuyển biến chập chồng, có thể gọi là khó bàn khó nghĩ.
Nhưng về Nhân không ngoài sự hơn kém của
nghiệp thân, ngữ, ý qua ba hạnh Phước, Phi-phước và Bất-động.
Về Quả lại tổng quát trong
mười hai điều trên. Nếu nắm được mấy điểm chánh yếu như đã kể mà suy rộng ra,
về vấn đề nầy, người học Phật có thể hiểu quán xuyến tất cả.
Một câu A Di Ðà
Cần ở chỗ Hạnh chuyên.
Chỉ nêu cao một niệm
Dứt sạch cả muôn duyên.
( Nhứt cú Di Ðà
Yếu tại Hạnh chuyên
Ðơn đề nhứt niệm
Trảm đoạn vạn duyên.)
LƯỢC
GIẢI
Sau rốt, Hạnh là phần tư lương thứ ba của môn Niệm Phật. Song Hạnh cần phải
tinh chuyên. Ðiều này có thể tóm lại trong hai câu:
"Rủ sạch muôn duyên.
Một lòng niệm Phật".
Muốn rủ sạch muôn duyên,
phải thấu đáo cảnh Ta Bà là khổ, mọi sự vật đều vô thường, như huyễn mộng, mà
không còn niềm tham luyến.
Muốn một lòng Niệm Phật,
phải hâm mộ cảnh Cực Lạc y báo, chánh báo vui đẹp trang nghiêm, mong mỏi cầu về
như con thơ nhớ mẹ, như lữ khách tưởng nghĩ trở lại quê xưa.
Ba điểm Tín, Nguyện, Hạnh trên tuy giải thích riêng từng phần, song thật ra cả ba đều liên quan hỗ trợ lẫn nhau. Như cái đảnh có ba chân, nếu thiếu một phải sụp đổ tất
cả vậy.
CHÂU TRIỆU PHÁP
Châu Triệu Pháp người ở
phường Nghĩa Ô tỉnh Triết Giang. Lúc tuổi trẻ ông nổi tiếng nơi nhà trường
về văn chương lưu loát, học hành gồm ưu. Nhưng vì cảnh nhà thanh bần khó
nổi tiến thân, ông đành gác bỏ việc khoa cử, làm nghề dạy học để nuôi sống.
Hơn sáu mươi tuổi, Triệu
Pháp lại phạm phải tật trùng thính, tai nghe lùng bùng. Khi đó ông mới xét tỉnh
mộng đời, phát tâm học Phật. Cảnh nhà càng lúc càng khó khăn, lắm khi ông phải
tụng kinh mướn để duy trì sự sống. Lúc rỗi rảnh, lại chuyên tâm niệm Phật. Bà vợ của ông đã mù lòa từ trước, cũng theo chồng lo tu
tịnh nghiệp.
Mùa hạ năm Nhâm Thân
thời Dân Quốc, đôi mắt của Triệu Pháp
cũng tiếp theo mù lòa, vợ chồng phải chịu khổ
sở sống trong cảnh tối tăm chật vật. Biết là nghiệp đời trước phát hiện, ông cam
lòng ẩn nhẫn, ngày đêm tha thiết niệm Phật không dứt, cầu được sớm sanh về Tây
phương.
Quang âm thắm thoát, đến
sáng ngày mùng một tháng chín, Triệu Pháp bỗng gọi vợ bảo rằng: “Đêm vừa rồi, đức A Di Đà Thế Tôn hẹn trước tiết Trùng
Dương, sẽ tiếp dẫn tôi về Cực Lạc. Bà nên chuẩn bị
giúp sức trợ niệm để thêm kết duyên lành!” Bà vợ e dè đáp: “Ông thử xét nghiệm
lại xem? Dù có thật cũng phải cẩn thận, chớ nên vội nói với người ngoài!”
Triệu Pháp cũng hối mình
lỡ lời, lấy tay vả vào má để tự răn. Tới ngày mùng ba, ông lại ôn tồn khuyên vợ
gia công niệm Phật và nói: “Hãy bền chí cố gắng tinh tấn, chớ nên thương
buồn! Hai năm sau tôi sẽ theo Phật
đến tiếp dẫn bà sanh về Cực Lạc!
Xế mai vào giờ Mùi là
thời khắc tôi quy Tây. Tới chừng đó bà chớ nên than khóc, gắng bình
tĩnh niệm Phật trợ duyên”. Dặn dò xong, liền cùng vợ lần đến Phật đường,
khóa tụng như thường lệ.
Đúng ngọ ngày mùng bốn,
dùng cháo trưa xong, Triệu Pháp nói:
“Xin giã biệt, từ đây về
sau tôi không còn ăn nữa!”
Nói đoạn lên lễ Tam Bảo,
rồi ngồi ngay thẳng niệm Phật, âm vận rất thanh nhuần. Sang giờ Mùi, thần thái
an lành, ông chắp tay mỉm cười rồi nhắm mắt đi thẳng. Khi nhập liệm, đảnh đầu
hãy còn nóng.
LỜI BÌNH:
Rõ biển đời sóng khổ dập
dồn, biết quay đầu tỉnh ngộ
cố gắng tu hành, là điều đáng khen thứ nhứt.
Gặp cảnh mù lòa nghèo
khổ, cam lòng ẩn nhẫn
không trách buồn thối chuyển, vẫn tinh tấn tu niệm, là điều đáng khen thứ hai.
Bởi thế cho nên, tâm thành cảm cách, Phật thánh chứng tri, nghiệp chướng tiêu
trừ, sớm về Cực Lạc.
Thân nhơ huyễn lần tan
nơi trược độ, tướng đẹp nghiêm bỗng hiện chốn liên trì. Đông buồn tuyết lạnh
chảy qua, xuân sáng oanh ca lại đến. Nỗi vui khổ cảnh trần như bóng mộng, nửa
thương bi nửa tợ mơ hồ. Duyên đẹp lành cõi ngọc rưới mưa hoa, mùi thanh dịu mùi
pha giải thoát.
Cảnh duyên của Châu Triệu
Pháp đáng thương mà cũng đáng mừng vậy!
BÀI SỐ 72
Ẩn tu tích cổ duyệt xa gần
Tan hợp bên trời áng
bạch-vân !
Biển nổi dâu chìm duyên
cảnh thế,
Bao giờ cõi Phật tựa lầu ngân.
NHƯ Ý :
“Thiên Thượng Phù Vân
Như Bạch Y,
Tu Du Hốt Biến Vi Thương
Cẩu”.
( Ngẫn lên Trời trong
thấy ÁN MÂY nổi như Chiếc Áo Trắng,
Giây Phút nó lại BIẾN
THÀNH con Chó Xanh).
Người xưa đã mượn hai
câu Thi trên để mô tả cảnh Biến-hiện của đời, tất cả Tài Sắc Sang Giàu đều đi
qua Như Giấc Mộng, nét Cười thì
ít giọt Lệ lại nhiều , niệm Hồng Danh Phật bước lên Ngọc Cát Kim
Kiều, chứng quả Vô-Sanh, Tiêu Dao nơi Chân-Cảnh là điều cấp thiết để thoát vòng
khổ Mộng.
Sang hèn niệm Phật chẳng
hoài công,
Đều được thần thông tướng tốt đồng.
Rải diệu sắc hoa làm Phật sự,
Khắp vì trần cõi nổi hương phong.
Quang minh soi đến thân điềm lạc,
Âm nhạc nghe rồi ngộ khổ không.
Tựa ngọc lan can xem bảo thọ,
Không ngằn cõi Phật hiện bên trong.
Kinh hành nhẹ gót đất kỳ
trân,
Cỏ lạ hoa tươi mỗi bước
xuân.
Thanh Tịnh đã không ba ác đạo,
Trang nghiêm thường có các thiên nhân.
Trống treo quán nhật khi chiều xuống,
Cảnh Phật tùy tâm thấy hiện lần.
Vô thỉ kiếp mê chừ mới tỉnh,
Quê xưa nào cách điểm tiêm trần!
Ao báu lầu đài khắp chốn
thanh,
Mây lành ánh thoại diệt rồi sanh.
Đã không tửu sắc lìa phiền não,
Dù có thiên ma chẳng đấu tranh.
Khát uống cam tuyền loan phụng múa,
Nhàn nghe nhạc thọ đức tâm thành.
Những mong gởi chất hoa sen ngọc,
Dạo đất lưu ly lắng tiếng oanh.
Bọt bóng bền chi chút huyễn
thân!
Sao còn buông thả niệm tham sân?
Đường tu thẳng tắt mau tìm đến,
Lối mộng mờ mê gắng thoát lần.
Giữ giới dường như băng tuyết sạch,
Gìn tâm cho được thánh hiền gần.
Nẻo về Tây cảnh không xa lắm!
Một niệm quay đầu thấy tánh chân.
TÂY TRAI TỊNH ĐỘ THI
Tiết 50.- Ngoại Cảnh Giới
Ngoại cảnh giới là cảnh
không phải do nội tâm hiện ra, mà từ bên ngoài đến.
Hoặc có hành giả thấy
Phật, Bồ Tát hiện thân thuyết pháp, khuyến tấn khen ngợi.
Hoặc có hành giả đang
khi niệm Phật, thoạt nhiên tâm khai, thấy ngay cõi Cực Lạc. Hoặc có hành giả
đang tịnh niệm thấy chư thần tiên đến, chắp tay vi nhiễu xung quanh tỏ ý kính
trọng, hoặc mời đi dạo chơi. Hoặc có hành giả thấy các vong đến cầu xin quy y.
Hoặc có hành giả khi mức tu cao, bị ngoại ma đến thử thách khuấy nhiễu...
Như khi xưa có một Phật
tử căn tánh ngu tối, song thường kính niệm đức Quán Thế Âm. Một đêm nằm mơ thấy
Bồ Tát đến bảo nên thường tham cứu bài kệ sau đây, lâu ngày sẽ được khai ngộ:
Đại trí phát nơi tâm
Nơi tâm chỗ nào tìm?
Thành tựu tất cả nghĩa
Không cổ cũng không kim!
Như thời Trung Hoa Dân
Quốc gần đây, có cư sĩ Giang Am Nam, vào tháng ba năm Nhâm Thân (1932), nhân
khi bị bịnh được thấy cảnh Cực Lạc. Ông gượng đau viết thư cho anh là cư sĩ
Giang Diệt Viên, đại khái như sau: "Em đau nặng. Vào khoảng ba giờ sáng
ngày hai mươi lăm tháng ba, sau một cơn sấm sét mưa to, trời lại trong tạnh tỏ
suốt như ban ngày. Nơi phương Tây, bỗng hiện ra chân cảnh thế giới Cực Lạc sáng
mênh mang không ngằn mé. Em thấy bảy báu trang
nghiêm, bảo thọ, bảo tháp, và vô số tướng trân kỳ. Phật ngồi giữa hư không, bảo em lên bái kiến.
Nhưng khi em đến được trước Phật, kim tướng đức Di Đà Thế Tôn lần lần xa, tiếng
nói vọng lại rất nhỏ, kế cảnh giới đều tan biến. Chắc là do định lực của em còn
kém, nhưng từ đây em tin chắc cảnh Tây Phương Cực Lạc là xác thật..."
Cũng trong thời Dân
Quốc, có cư sĩ Lưu Khai Nan, biệt hiệu là Tây Tiều tiên sinh. Trước khi ông
vãng sanh, chư thần mời đến cảnh U Minh xin nhậm quan chức; kế lại thấy chư
thiên thỉnh lên cõi trời, cư sĩ đều nghiêm sắc khước từ, bảo:
"Làm quan dễ tạo
nghiệp, phước trời có lúc hết. Tôi chỉ nguyện sanh về Cực Lạc." Ít ngày sau cư sĩ vãng sanh.
Một sư cô quen với bút
giả tu ở gần vùng Đà Lạt. Sau thời trì chú, cô đang ngồi tịnh, bỗng thấy có hai
sứ giả phong thái và cách trang phục như thần tiên, đến cung kính mời lên non
viếng cảnh. Trong cơn định, sư cô hỏi: "Non cao, sức yếu, làm sao đi
được" Một sứ giả đáp: "Không ngại, tôi đã có cách."
Liền lấy cành cây tợ
nhánh dương liễu, đập nhẹ vào mình sư cô và bảo đi theo. Cô bỗng thấy thân thể mình lâng lâng bay lướt trên
đầu ngọn cỏ, giây phút sau cùng tiến lên non. Đến đây thấy cảnh tòng bá thanh
u, công xòe, hạc múa, xa xa có một cung điện lầu các. Vừa khi ấy, cô thị giả ở
nhà sau làm rớt đồ vật có tiếng động mạnh. Sư cô liền chợt giác tỉnh, cảnh giới
tan mất, cảm thấy hai bắp đùi còn mỏi đau.
Những tướng trạng lược kể
như trên, đều gọi là Ngoại cảnh giới.
Có người hỏi: "Thấy Phật thấy hoa sen, có phải là cảnh ma
chăng?"
Xin đáp: "Nếu nhân quả phù hợp, không phải là cảnh ma. Bởi tông Tịnh Độ thuộc về "hữu môn",
người niệm Phật khi mới phát tâm từ nơi tướng có mà đi vào, cầu được thấy thánh
cảnh ở Tây Phương. Đến khi thấy hảo tướng đó là
quả đến đáp nhân, nhân và quả hợp nhau, đâu phải cảnh ma?
Trái lại, như Thiền Tông
từ nơi "không môn" đi vào, khi phát tâm tu liền quét sạch tất cả
tướng, cho đến tướng Phật tướng Pháp cũng đều bị phá trừ. Bậc Thiền Sĩ không
cầu thấy Phật hoặc hoa sen, mà tướng Phật và hoa sen hiện ra, đó là nhân quả
không phù hợp. Quả không có nhân mà phát
hiện, đó mới chính thật là cảnh ma. Cho nên người tu thiền luôn luôn đưa cao gươm huệ, “ma đến
giết ma, Phật đến giết Phật”, đi vào cảnh chân không,
chẳng dung nạp một tướng nào cả.
Tuy nhiên, đó là chỉ nói
những hành giả mới tu, riêng bậc tu thiền cao, có khi thấy các tướng song không phải là ma cảnh. Bởi những vị đã tu thiền nhiều kiếp, khi tâm địa khai
thông, có thể thấy được cảnh ác đạo cùng thiên đường cho đến mười phương Tịnh
Độ và Uế Độ; vì mười phương thế giới đều ở trong ánh sáng của chân tâm.
Và người tu Tịnh Độ có khi
thấy các tướng, nhưng lại là cảnh ma, mà đoạn Biện Ma Cảnh
sau đây sẽ nói rõ.
Kết lại, Nội cảnh giới
và Ngoại cảnh giới, là nói ước theo trình độ người còn đi trên bước đường tu
tập. Đến như bậc đã chứng đạo
quả, thì tâm tức cảnh, cảnh tức tâm, vạn vật cùng ta đồng một thể không có
trong ngoài chi cả.
Một câu A Di Ðà
Xóm nhân là tốt quí.
Lựa chỗ ở nương về
Cây khô không phải quỉ.
( Nhứt cú Di Ðà
Lý nhân vi mỹ.
Cư bốc lai quy
Khô thung phi quỉ.)
LƯỢC
GIẢI
Thuở thầy Mạnh Tử còn bé,
nhà ở xóm có hàng thịt. Khi ông cùng lũ trẻ nô đùa, thường họp nhau nắn đất
thành hình súc vật, rồi bày ra trò giết heo dê.
Bà mẹ thấy thế, e con mình
về sau thành kẻ đồ tể, liền dời nhà đi nơi khác.
Chỗ ở kế lại không may gặp
nhằm xóm có một nhóm người chuyên nghề ma chay chôn cất. Hằng ngày Mạnh Tử lại
cùng đám trẻ bắt chước đào huyệt, nắn đất thành hòm, giả trang sức đồ tang, bày
trò chơi khóc than, tẫn táng.
Thấy vậy bà mẹ không ưng,
tìm chỗ tản cư.
Lần sau này, nhà ở gần
trường học. Mạnh Tử lại cùng lũ trẻ bắt chước lời nói khiêm nhường lễ nghĩa,
học dáng điệu cung kính chào thưa, cùng ê a đọc sách.
Bà mẹ trông thấy mừng thầm,
yên lòng không dời đi đâu nữa.
Cũng như thế, người gặp
pháp giải thoát của môn Niệm Phật, có khác nào kẻ tìm chỗ ở, được may mắn gặp
nhằm xóm nhân đức hiền lương. Gia đình kẻ ấy sẽ lần lần tập nhiễm hạnh lành
tánh tốt vậy.
Một người đi đem bất ngờ gặp trụ cây khô, lầm tưởng là quỉ nên thảng thốt, kinh
hoảng. Nhưng quan sát kỹ, đó chỉ là cây khô không làm sao có tác dụng của ma
quỉ được, nên lại yên tâm ngẫm nghĩ buồn cười cho mình. "Trụ cây khô" còn tiêu biểu cho pháp chân như bất biến. Cổ đức có câu:
"Cây khô xơ xác tựa
rừng đông.
Mấy độ xuân sang chẳng đổi
lòng!"
(Tồi tàn khô mộc ỷ hàn lâm.
Kỷ độ phòng xuân bất biến
tâm)
Pháp Niệm Phật là viên ngọc
MA NI, là con thuyền giải thoát, mà kẻ không biết giá trị xem thường như đất
sạn, khác nào anh chàng thảng thốt kia nhìn cây khô, tưởng là ma quỉ đâu!
TIỂU HIÊN ỨC PHẬT
Từ xưa có nói: “Đời
người trăm tuổi, ít kẻ bảy mươi. Dung tăng nầy đến sáu mươi tuổi, mới xuống
tóc, may được dự vào hàng thanh chúng. Nay đã đến bảy mươi, thân tàn chẳng còn
bao lâu nữa, chi trông hôm sớm mà thôi! Bình thời tuy cũng tụng kinh niệm Phật,
song còn hận mình chướng nặng, chưa được nhứt tâm.
Nhân duyệt chương Đại
Thế Chí trong kinh Lăng Nghiêm thấy nói: “Nếu kẻ nào nhớ Phật niệm Phật, thì hiện tiền hoặc
trong tương lai, quyết định sẽ được thấy Phật“. Đọc xong lời nầy, bỗng
ngẫu cảm viết thành mấy bài son kệ, mệnh danh là Tiểu Hiên Ức Phật. Mục đích
những bài sau đây chẳng ngoài ý cảnh giác khuyên tấn mình và người trên đường
tu tịnh đó thôi. Tống, Tuyết Khê sơn tăng.
I
Phăng phăng theo sóng
nghiệp duyên trôi
Thoáng chốc bảy mươi đã
đến rồi!
Há chẳng trước nay thường nhớ Phật?
Muốn từ tuổi muộn giục thêm roi!
Quét trừ cảnh ý trong trong lặng
Khêu hẳn đèn tâm sáng sáng soi
Quyết định thân nầy cho thấy Phật
Nói cười thoát tục lại đài ngôi.
II
Những từ kinh sử học văn
chương
Hoa gấm từng mong mở rộng đường
Tấc bóng buông xuôi dòng thệ thủy
Chuỗi ngày ngoảnh lại cuộc phù vân!
Cảnh Phật chiều mai tưởng Niệm cần
Kiệt khách tài nhân đâu vẳng tá?
Hoàng hôn cỏ ẩy khắp hoang phần!
III
Sắc tài danh lợi mối oan
sâu
Vườn tục ai mơ huyễn mộng lầu?
Đất tạm từ nay không tái hội
Trời Tây về lại cõi thiên thu
Mẹ con ví được đồng tâm cảnh
Gió bụi chỉ cần bước viễn du!
Suy thạnh từ đây thôi chẳng hỏi
Song hồ đệm cỏ lặng tiềm tu.
IV
Ba gian nhà cỏ cảnh
thanh bần
Việc tốt chi bằng nhở Phật hơn?
Muôn sự rồi tan gương lọ vỡ
Một đời câu niệm ý tâm cần
Dưới tùng nhấc chén trà xuân đậm
Bên đá lần tràng ánh nguyệt tân
Đóng cửa lòng mơ về cõi tịnh
Đài sen chất ngọc gởi thinh thần!
CHÚ THÍCH
Bạch Lạc Thiên trước tiên cầu về Bồng Lai tiên cảnh. Kế tiếp xét
thấy Bồng Lai không bằng cung trời Đâu Suất, nên lại cầu về Đâu Suất thiên
cung. Bởi thế ông đã có câu thi: “Hải sơn bất thị ngô quy xứ. Quy tắc tu quy Đâu Suất thiên”.
Sau rốt càng đi sâu vào
đạo, ông chuyển hướng cầu về Cực Lạc, vì Đâu Suất dễ lạc bước khó sanh lên, lại
chánh báo và y báo đều không bằng Cực Lạc. Điều này thể hiện qua mấy câu thi:
“Ta nay bảy mươi mốt.
Chẳng ham việc ngâm nga. Xem kinh mỏi con mắt. Làm phước sợ bôn ba. Lấy gì độ
tai mắt. Một câu A Di Đà! Đi niệm A Di Đà. Ngồi cũng A Di Đà. Dù gấp như tên
bắn. Chẳng rời A Di Đà. Khắp khuyên người thế gian. Đều niệm A Di Đà”.
Ý nói: Cảnh giới chân như thanh tịnh trong sáng suốt an vui,
như khu vườn xưa đầy hoa đẹp đủ màu sắc. Nhưng chúng sanh vì mê chân tâm theo vọng cảnh để cho
loài trâu dê tham sân si dầy đạp tan nát vườn hoa chân tâm tươi đẹp ấy. Ý này
giống như lời một hiền đức Việt Nam đã nói khi có người đến hỏi đạo: “Vườn ngự
xác xơ hoa cỏ rối. Mà nay hôm sớm mặc trâu dê!” (Kim cốc hoang sơ hoa thảo loạn. Nhi kim hôn hiểu nhậm
ngưu dương!)
Lộ bàn là cái chóp nhọn có chiếc đĩa tròn như hình cái
mâm hứng sương, gắn trên nóc chùa tháp. Ý câu này nói: Đã tham thiền ngộ bản
tâm, nên thêm niệm Phật cầu sanh về Tây phương, cho sự giải thoát được đảm bảo
chắc chắn.
Kinh Lăng Nghiêm nói: ” Phật nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con
nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì mẹ con đời đời chẳng cách xa nhau”.
BÀI SỐ 73
Ẩn tu bốn mặt khói sương đầy
Hỏi gạn ai người niệm Phật
đây?
Cười mỉm Duy-Ma không phúc đáp
Song hồ nửa khép cánh am
mây !
NHƯ Ý : Trên đây Bút Giả thử áp dụng cách niệm Phật theo
lối Tham-cứu, đó là dùng câu thoại đầu: AI niệm Phật đây? Đặt Nghi-tình tại
chữ Ai, vì niệm để Thí-nghiệm trong giai đoạn ngắn, nên chưa
thấy được Ai, nhưng dù có thấy cũng không làm sao tỏ bày được.
Trong Kinh Tịnh-Danh, sau khi chư Bồ-tát mỗi
vị đưa ra Ý kiến của mình về Bất-nhị Pháp Môn, đến phiên ngài DUY MA CẬT thì
Ngài lại lặng thinh, ĐỨC VĂN THÙ khen rằng: "Hay thay! Hay
thay! Đó mới chính là BẤT NHỊ PHÁP MÔN, bởi thực thể của môn nầy hay cảnh
giới phát minh của thoại đầu là Chân-Như Tâm, không thể dùng Tưởng Niệm mà nghĩ đến hay Lời Nói để
diễn tả được, chính “Song hồ nửa khép cánh am mây !”, đã Yên Lặng Hồng Nhiên nói lên Cảnh Giới ấy.
Niệm Phật là ai?
Láng giềng có bà lão, mỗi
ngày niệm Phật vài ngàn câu, lấy làm thường khóa. Nhân lúc rỗi rảnh sang chơi,
Ngài hỏi duyên cớ, bà đáp:
“Ông nhà tôi lúc sanh tiền
chuyên lo niệm Phật, đến khi chết, không đau bịnh chi, vui vẻ vòng tay cáo từ
mọi người mà qua đời. Do đó, tôi biết công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn!”
Ngài nghe nói cảm động, từ đó hằng để ý đến pháp môn Tịnh độ. Lại viết bốn
chữ: “Sống chết việc lớn” dán nơi vách đầu bàn đệ tự răn nhắc.
Năm ba mươi hai tuổi, ngài
xuất gia, rồi đi tham phỏng các bậc danh đức. Sau cùng đến học đạo với Tiếu
Nham Nguyệt Tâm thiền sư, tham câu “Niệm Phật là ai?”. Một hôm, đang đi tham
cứu bỗng chợt tỉnh ngộ. làm bài kệ rằng:
Hai chục năm qua việc đáng
nghi
Ngoài ba ngàn dặm gặp sao kỳ!
Đốt hương, liệng kích dường như mộng
Ma, Phật, tranh suông lẫn thị phi!
CHÂU HOẰNG ĐẠI SƯ
(Liên Tông Bát Tổ)
TỨ VÔ NGẠI BIỆN TÀI, NHƯ CƯ SĨ “DUY MA CẬT
Biện-tài có bốn loại, gọi là
"tứ vô ngại biện."
1) Thứ nhất là vô ngại biện về LỜI, tức ngôn từ. Bất cứ ai có vấn đề gì, ngài đều biện giải được một cách trôi chảy. Lời lẽ mà ngài xử dụng nghe rất hay, vừa tinh luyện lại vừa chính xác, dùng rất đúng chỗ. Ðối phương lý luận cách nào, cũng không sao thắng nổi.
2) Vô ngại biện thứ hai là về NGHĨA. Không riêng ngôn từ mỹ lệ, nghĩa lý cũng vô cùng mạch lạc.
3) Thứ ba là vô ngại biện về PHÁP. Lời ngài nói ra, chỗ nào cũng là đạo, lời nào cũng quy về gốc; tất cả đều là Phật-pháp, không có gì bế tắc trở ngại.
4) Thứ tư là vô ngại biện về VUI THÍCH THUYẾT PHÁP. Là một loại tam muội nhạo thuyết, vui thích thuyết pháp cho mọi người, trừ phi người ta không muốn nghe, nếu muốn nghe, thì lời pháp sẽ như nước nguồn tuôn chảy, không lúc nào ngừng
(Lược Giảng Kinh Kim Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật- Hòa Thượng
Tuyên Hóa)
KINH VĂN:
Bấy giờ
ông Duy Ma Cật bảo các vị Bồ Tát rằng:
-
"Các Nhân giả! Thế nào là Bồ Tát vào pháp môn không hai"? Cứ theo chỗ
thích của mình mà nói.
Trong
Pháp hội có Bồ Tát tên là Pháp Tự Tại nói:
- Các
Nhân giả! "Sanh", "diệt" là hai. Pháp vốn không
sanh, cũng không diệt, đặng vô sanh pháp nhẫn, đó là vào "pháp
môn không hai".
…
Các Bồ
Tát nói như thế rồi, hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:
- Thế
nào là Bồ Tát vào pháp môn không hai?
Ngài
Văn Thù Sư Lợi nói:
- Như ý
tôi đối với tất cả pháp không nói không rằng, không chỉ, không biết, xa
lìa các vấn đáp, đó là vào pháp môn không hai.
Khi đó
Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng:
- Chúng
tôi ai ai cũng nói rồi, đến lượt Nhân giả nói thế nào là Bồ Tát vào pháp môn
không hai?
Ông Duy
Ma Cật im lặng không nói.
Ngài
Văn Thù Sư Lợi khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Cho đến không có văn tự ngữ
ngôn, đó mới thật là vào pháp môn không hai.
Khi nói
phẩm vào Pháp Môn Không Hai này, trong chúng có năm nghìn Bồ
Tát đều vào pháp môn không hai, chứng Vô sanh Pháp nhẫn.
( Kinh Duy-ma-cật Sở Thuyết-HT. Thích Huệ Hưng Việt
dịch)
Mặc (im lặng không nói) thời thuyết, thuyết thời mặc,
Ðại thí
môn khai vô ủng tắc.
Hữu
nhân vấn ngã giải hà tông?
Báo
đạo ma-ha bát-nhã lực. ( TỨ
VÔ NGẠI BIỆN TÀI)
Hoặc thị
hoặc phi nhân bất thức,
Nghịch hành thuận hành thiên mạc trắc.
(Vĩnh Gia Chứng Ðạo Ca)
Một câu A Di Đà
Dây gốc vốn là gai.
Tại sao không thể nhận?
Nghi là rắn lầm thay!
( Nhứt cú Di Đà
Thằng bản thị ma.
Nại hà bất hội
Phiên nghi tác xà?)
LƯỢC
GIẢI
Duy Thức Luận có đoạn thí
dụ: Người nọ đi trong cảnh trời nhá nhem tối, chợt thấy một sợi dây to nằm uốn
lượn, tưởng là con rắn, vội nhảy tránh la hoảng lên. Đến chừng nhìn kỹ lại mới
biết mình lầm, vì đó chỉ là đoạn dây. Nếu người ấy thể nhận sâu thêm, sẽ thấy
dây kia cũng không thật, vì do những tơ gai nhỏ kết hợp thành.
Lầm dây là rắn, Duy thức
học thí dụ cho tánh Biến kế sở chấp thuộc Phi lượng, tức chấp trước mọi sự và lượng định một
cách sai lạc. Nhận ra là dây, thí dụ cho tánh Y tha khởi thuộc về Tỷ lượng. Y
tha khởi là tánh chất nương nơi cái khác khởi hiện, như sợi dây nương nơi cái
khác khởi hiện, như sợi dây nương nơi tơ gai mà có. Tỷ lượng là sự lượng định
tương tợ của ý thức so sánh, như thấy dây tương tợ như rắn.
Thể nhận sâu thêm, thấy dây
cũng giả, chỉ do tơ gai kết hợp thành, thí cụ cho tánh Viên thành thật thuộc Hiện lượng. Viên thành thật là tánh bao la sáng
suốt tròn đầy xác thật. Hiện lượng là tâm lượng của trực giác không phân
biệt. Đây mới là tánh lượng xác
thật rốt ráo của chân tâm.
Sự ứng dụng về niệm Phật
cũng thế. Nếu cho câu hồng danh là một pháp lành, dùng nó để tu cầu phước báu
hư huyễn của cõi Nhơn thiên, đó thuộc về tánh Biến kế sở chấp và Phi lượng. Có người dùng câu niệm Phật như một thoại đầu hay phương
tiện để dứt trừ vọng tưởng trở lại chân tâm, cũng còn thuộc về tánh Y tha khởi là Tỷ lượng.
Như thể nhận niệm Phật tức
là Phật, ngay câu hồng danh là phước, là huệ, là thật tướng, là chân tâm và Bồ
đề Niết bàn, đó mới là tánh Viên thành thật thuộc Hiện lượng. Ứng dụng niệm Phật như thế mới đúng mức. Dùng với hai cách trước còn là khuyết điểm sai
lầm.
Bài kệ trên, Triệt Ngộ
thiền sư muốn nêu cao sự diệu dụng về niệm Phật, để phá lối nhận thức sai lạc
của một số người đối với pháp môn này.
KHÔNG CỐC
Không Cốc thiền sư, pháp
danh Cảnh Long, tự Tổ Đình, con nhà họ Trần ở Tô Châu. Lúc thơ ấu ngài đã không
chịu ăn thịt cá, ưa ngồi xếp vế ngay thẳng trạng như thiền định. Lớn lên theo
Lại Vân hòa thượng ở Biền Sơn, tham khấu về đại pháp. Năm hai mươi tám tuổi,
xuất gia ở chùa Hổ Khâu.
Trong niên hiệu Hồng Hi
đời Minh, thiền sư được cấp điệp làm tăng, y chỉ với Thạch Am hòa thượng ở chùa
Linh Ẩn tại Hàng Châu. Kế đó ngài lên núi Thiên Mục khắc khổ tham cứu, một hôm
bỗng nhiên thức tỉnh, đem chỗ tỏ ngộ về cầu chứng với Hòa thượng Lại Vân, được
mong ấn khả. Thiền sư đã đề xướng tông Trực Chỉ, lại kiêm hoằng dương môn Niệm
Phật, từng làm thi Tịnh độ một trăm lẻ tám bài.
Có người hỏi ý kiến về
Tứ liệu giản của Tổ Vĩnh Minh. Ngài đáp: “Người tham thiền nắm giữ một câu
thoại đầu, tự cho ngoài công phu thủ tịnh ra, không còn việc chi khác. Sự niệm
Phật vãng sanh cho đến hai thời khóa tụng, họ đều chẳng thật hành. Đây gọi là:
Có Thiền không Tịnh độ vậy.
Lối tham thiền như thế cũng
chưa phải là chánh khí, vì chỉ giữ chết câu thoại đầu chẳng khác gì ngói gỗ,
đất đá. Vướng mắc vào chứng bịnh nầy, trong mười người đã hết tám chín, không
làm sao cứu vãn được!
Bậc chân thật ngộ thiền
cơ, thì ứng dụng không ngại, như trái bần trên mặt nước đụng đến liền lăn tròn,
chẳng dính mắc vào đâu cả. Tham thiền như thế, không khinh sự niệm Phật vãng
sanh, cũng không bỏ hai thời khóa tụng, xây qua day lại chỗ nào cũng là đạo.
Đây gọi là: Có Thiền có Tịnh độ vậy!”
Thiền sư lại bảo: “Pháp
môn Tịnh độ là đường lối tu hành thẳng tắt. Hành giả nên xét thân người chăng
bền, cuộc đời như huyễn, duy câu niệm Phật có thể nhờ cậy, cõi Cực Lạc là đáng
nương về. Vì thế phải giữ chắc câu hồng danh như bổn mạng, hoặc niệm mau niệm
chậm, cao tiếng thấp tiếng, thân tâm nhàn đạm thầm niệm chẳng quên, động tịnh
hưỡn gấp thường hằng không khác.
Hành trì như thế ngày
kia chạm cảnh gặp duyên bỗng ngộ tánh bản lai, mới biết Tịch quang Tịnh độ
không lìa cảnh, A Di Đà Phật chẳng ngoài tâm mình. Nếu khởi tâm cầu tỏ ngộ lại
trở thành chướng ngại. Chỉ dùng lòng tin làm căn bản, tất cả tạp niệm đều chẳng
tùy theo. Niệm như thế dù không tỏ
ngộ, khi mạng chung
cũng được vãng sanh, theo giai cấp tiến tu, không còn bị thối chuyển”.
Về sau, vì không cơ
duyên tham khảo, chẳng biết ngày lâm chung của thiền sư như thế nào?
BÀI SỐ 74
Ẩn tu trì niệm cảnh hồn nhiên
Trong lặng Âm-thanh vẫn Hiện-tiền
Đoan-đích tìm chi tin-tức
thật?
Tiếng chuông đêm vắng đến ngư
thuyền.
NHƯ Ý : Thiền Lục có câu :
“Dục tri đoan Đích-Ý,
Bắc đẩu Diện Nam-Khang”.
(Muốn biết Ý CHÍNH XÁC,
HÃY XOAY MẶT VỀ NAM mà
nhìn sao Bắc đẩu)
Niệm Phật cũng như vậy,
muốn biết tin tức THẬT, đừng nên tìm hỏi hãy LẶNG YÊN THỂ NHẬN, Tiếng chuông đêm vắng đến ngư thuyền.
Tiếng gà tức tiếng quảng
trường thiệt.
Sắc núi nguyên là tịnh pháp thân!
Đây là ý chỉ: sắc tướng
âm thanh vốn thật đại đạo, ta nên đem tâm vô phân biệt
mà thể nhận, đừng chấp lấy cũng
đừng bác bỏ rồi tìm đạo nơi chỗ không không.
Cho nên câu "Tự
tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ," không phải phủ nhận cõi Tịnh Độ và đức A Di
Đà, mà chính là lối nói: nhiếp tướng về tánh, đem dụng về thể, để hiển bày lý
Đệ Nhất Nghĩa Không.
Trong Đệ Nhất Nghĩa
Không, Phật còn chẳng lập, huống chi là các pháp khác.
Đêm Thành Đạo
Sau khi hỏi đạo các nơi,
không vị nào thuyết minh cho được thỏa mãn, Thái-tử đi lần đến tụ lạc
Ưu-Lâu-Bệ-La (Uruvelà), bên mé sông Ni-Liên-Thiền (Nairanjanà) thuộc miền
Ðông-bắc Ấn-Độ. Kế đó, Ngài vào vùng phụ cận là Khổ-hạnh-lâm, tu chung với hàng
ngoại-đạo tại núi Tượng-Đầu, trong thời gian sáu năm.
Mỗi ngày Thái-tử chỉ ăn
một hạt mè, một hạt đậu, thân thể gầy ốm đến đỗi chỉ còn da bọc xương. Trong
sáu năm ấy, Ngài chống đối với các quân ma phiền não như: quân tham dục, quân
ưu sầu, quân đói khát, quân ái nhiễm, quân hôn thụy, quân sợ hãi, quân nghi
hối, quân sân hận, quân bi thương, quân tự cao, quân tà mạng...
Trải qua thời gian dài
tinh tấn khổ nhọc như thế mà vẫn không được gì, Thái-tử phát kiến hai xu hướng
sai lầm: cuộc sống quá phóng túng,
hoặc trái lại quá khắc khổ, đều không phải là phương tiện giải thoát. Nhân đó, Ngài xuống sông Ni-Liên-Thiền tắm gội sạch
sẽ, và thọ bát sữa cúng dường của mục nữ Thiện-Sanh (Sujàta - Tu-Già-Đà).
Sau khi thọ thực trở lại,
khí lực và dung sắc Thái-tử lần lần phục hồi. Năm người thị-giả thấy thế, tưởng
là Ngài đã thối chuyển, liền bỏ đi qua xứ Ba-La-Nại-Tư (Bàrànasì).
Thái-tử một mình đi đến xứ
Phật-Đà-Già-Da (Buddhagayà), rải cỏ kiết tường làm tòa, ngồi kiết già nơi gốc
cây Tất-bát-la (Pippala), mặt hướng về phương Ðông. Trước khi thiền định, Ngài
phát thệ rằng: “Nếu không chứng được đạo
Vô-thượng-bồ-đề, thì dù thân nầy có tan nát, ta cũng quyết không rời khỏi nơi
đây”. Phát nguyện xong,
Thái-tử yên lặng vào cảnh thiền tư trong vòng 49 ngày. (Kinh
Phương-Quảng-Đại-Trang-Nghiêm)
Đêm ấy, nhằm hôm mùng tám
tháng chạp, sau khi hàng phục ma quân, Thái-tử ngồi lặng lẽ trong thiền định.
Vào khoảng canh hai, Ngài
chứng được Túc-mạng-minh, thấy biết nghiệp nhân của mình và tất cả chúng-sanh
nhiều đời về trước, từ việc làm lành làm dữ, cha mẹ quyến thuộc, giàu sang
nghèo hèn, thọ yểu xấu đẹp, cho đến mỗi đời tên họ là gì, đều biết rành rẽ.
Đến nửa đêm, Ngài chứng
được Thiên-nhãn-minh, thấy rõ ba cõi sáu đường, những cảnh giới hoặc an vui,
hoặc nhơ khổ, chúng-sanh hoặc xinh đẹp, hoặc xấu xa, rõ ràng như nhìn vào trong
gương.
Và đến lúc sao mai mọc
lên, Ngài chứng được Lậu-tận-minh, dứt sạch phiền não, rõ hết đầu mối nghiệp duyên, tâm thể lặng yên sáng suốt. Bấy giờ ngài đã thành Phật.
Nội dung của sự giác ngộ
chân chánh nầy, có thể giải đáp vấn đề nhân sanh một cách mỹ mãn. Trước kia
Ngài thắc mắc về hai yếu điểm:
1. Già, bệnh, chết và tất
cả sự ràng buộc khổ não của kiếp người do đâu mà có?
2. Làm thế nào để giải
thoát những điều ấy?
Và đây là lời giải đáp:
1. Do Vô-minh làm mê mờ bản thể, nên mới có sanh,
già, bệnh, chết, lo thương buồn rầu.
2. Muốn được giải thoát phải có chánh kiến dứt trừ
phiền não, trở về bản tánh, tức là phải tu theo con đường Bát-chánh.
Đây là đạo lý căn bản của
Phật-giáo Nguyên-thủy, khái quát cả pháp môn Tứ-diệu-đế và Thập-nhị-nhân-duyên.
Thái-tử Tất-Đạt-Đa thành
đạo vào lúc 35 tuổi (có thuyết nói 30 tuổi), thánh hiệu là Thích-Ca-Mâu-Ni
Như-Lai (Sàkyamuni - Năng-Nhân-Tịch-Mặc). (Phật-Học-Đại-Cương)
Những Điểm Sai Biệt Của Hai Phái
Đứng về phương diện lịch
sử mà nói, sự đối lập giữa Tiểu-thừa và Đại-thừa có ba nguyên nhân như trên.
Nhưng về phương diện lập thuyết, thì hai phái hoàn toàn khác nhau từ chỗ phát tâm đến giáo, lý, hạnh, quả. Trong Trí-Độ-Luận, ngài Long-Thọ nói:
“Phật-pháp đồng một vị,
đó là vị giải thoát. Trong vị giải thoát nầy có hai thứ: một là chỉ vì mình, hai là vì tất cả chúng-sanh. Cho nên, tuy đồng cầu
giải thoát, mà có sự lợi mình và mình người đều lợi khác nhau. Vì thế, mới có
sự sai biệt giữa Tiểu-thừa, Đại-thừa”.
Xem đây thì biết, sự khu
phân của hai phái không phải chỉ thuộc trên nguyên nhân, mà còn trên phương
diện chủ thuyết. Căn cứ theo Nhập-Đại-Thừa-Luận của ngài Kiên-Ý và xét qua chủ
trương lập thuyết đôi bên, ta có thể chia sự sai biệt giữa Tiểu-thừa và
Đại-thừa thành tám điểm như sau:
1. Tâm-lượng: Hàng Tiểu-thừa tâm
lượng hẹp hòi, gấp cầu giải thoát mọi sự khổ não trong đường sanh-tử. Họ chỉ
biết độ cho mình hơn là độ cho kẻ khác.
Hàng Đại-thừa tâm lượng
rộng rãi, quyết đạt đến lý tưởng tự lợi lợi tha. Hơn nữa, họ còn lấy việc lợi
tha làm chủ đích.
2. Căn-cơ: Tiểu-thừa là hàng
căn tánh tối chậm, chỉ tin hiểu những tiểu pháp như Tứ-đế, Thập-nhị-nhân-duyên.
Đại-thừa là hạng có
thắng giải đại tánh, không thích tiểu pháp mà ưa thọ trì những đại pháp như:
Ngã-pháp-câu-không, Duyên-khởi-như-huyễn.
3. Nhân-sanh-quan: Tiểu-thừa khuynh hướng về Nhân-sanh-quan vô thường,
nhiều khổ não. Vì vậy, họ chủ trương phá tan Tiểu Ngã, mong sớm chứng vào thể
tánh vắng lặng, và lấy đó làm chỗ giải thoát an vui.
Đại-thừa cũng bắt đầu từ
quan niệm ấy, nhưng lại hiểu rằng các pháp như huyễn, chúng-sanh chính là tự
tánh của mình. Cho nên lập thuyết của họ là phá chấp trên Ngã, Pháp, để khuếch
trương Ðại-ngã, không cần phải lìa đời xa lánh chúng-sanh, mà vẫn được giải
thoát tự tại.
4. Vũ-trụ-quan: Tiểu-thừa đối với
vạn hữu thì cuộc hạn trong phạm vi hiện tượng luận sanh diệt, yếu tố để giải
thích của họ duy có 75 pháp. Sự chứng biết của Tiểu-thừa cũng chỉ trong
vòng Tam-thiên-đại-thiên-thế-giới, cho nên họ không tin có
Tha-phương Tịnh-độ.
Đại-thừa thì ngoài hiện
tượng sai biệt, còn thuyết minh chân-như bình đẳng không sanh diệt để đạt đến
bản thể luận. Yếu tố để giải thoát vạn hữu của họ gồm có 100 pháp. Họ tin nhận
rằng, ngoài thế-giới nầy còn có vô số Uế-độ và Tịnh-độ như vi-trần. Tất cả đều là thể Như-huyễn-tự-tánh thanh-tịnh-tánh.
5. Quan niệm Tam-bảo: Về Phật-bảo, hàng Tiểu-thừa chỉ
chấp nhận Ðức Thích-Ca-Mâu-Ni và chư Phật của cõi Ta-Bà, không tin có các đấng Như-Lai ở tha phương thế-giới.
Về Pháp-bảo, họ chỉ tín thuận những kinh Tiểu-thừa như A-Hàm, Pháp-Cú... không tin nhận những kinh Đại-thừa như Hoa-Nghiêm, Pháp-Hoa.
Về Tăng-bảo, họ chỉ hiểu biết các bậc A-la-hán như Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên.... không chấp nhận các bậc Bồ-Tát tha phương như: Phổ-Hiền, Dược-Vương, Nguyệt-Quang, Thế-Chí.
Trái lại, Đại-thừa tin nhận
cả tiểu pháp lẫn đại pháp và ngôi Tam-bảo ở cõi nầy cùng mười phương.
6. Tư-lương-tánh: Trên phương diện
tu hành, hàng Tiểu-thừa thiên về Huệ, y theo Tứ-đế, Thập-nhị-nhân-duyên,
Tam-thập-thất-đạo-phẩm, mục đích để phá trừ ngã chấp, chứng quả nhân không.
Còn hàng Đại-thừa thì y
theo Lục-độ-vạn-hạnh gồm tu phước huệ, phá cả Ngã-chấp lẫn Pháp-chấp, chứng quả nhị-không.
7. Thời-gian-tánh: Về Tiểu-thừa, hàng Thanh-Văn phải tu từ ba đời đến 60
kiếp mới chứng quả A-la-hán; còn hàng Duyên-Giác phải tu từ bốn đời đến 100 kiếp mới chứng quả
Bích-Chi-Phật.
Còn bên Đại-thừa phải
dùng ba A-tăng-kỳ-kiếp để tu sáu độ và 100 kiếp để tu nhân tướng tốt, mới
chứng quả Phật.
8. Quả-chứng: Giải thoát của
Tiểu-thừa là tiêu cực. Họ muốn lánh khỏi mọi sự khổ não ở hiện tại mà thể nhập
vào cảnh không tịch. Cho nên mục đích chung cuộc của họ là cầu lấy quả A-la-hán hoặc Bích-Chi-Phật.
Giải thoát của Đại-thừa
là tích cực. Họ hiểu rằng phiền não vốn không và trong chúng ta có đủ đức
tướng, trí huệ của Như-Lai cùng vô lượng công đức. Vì thế họ lấy địa vị Phật-Ðà
làm lý tưởng chung cuộc. Về chúng-sanh, Đại-thừa quyết độ tất cả đều thành
Phật. Về thế-giới, họ quyết biến cõi uế ác thành cảnh thiện mỹ, trang nghiêm.
Cho nên mục đích của Đại-thừa gồm trong câu: “Trang nghiêm Phật-độ, thành tựu chúng-sanh”.
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Tiết 9.- Bồ Đề Tâm Với Môn Tịnh Độ
Phật pháp theo sự tùy
hóa, thông thường có hai cấp bậc là Tiểu Thừa và Đại Thừa.
Tiểu Thừa nói những
pháp thấp nhỏ, trọng tâm hướng về mục tiêu gấp cầu liễu sanh tử cho chính mình,
và chỉ đi đến quả vị A La Hán hoặc Duyên Giác.
Đại Thừa nói các
pháp rộng lớn, hướng về hoằng nguyện độ thoát tất cả chúng sanh, và đi đến quả
vị Toàn Giác của Như Lai.
Pháp môn Niệm
Phật thuộc về Đại Thừa, nên chẳng những đi về chiều hướng tự độ mà còn
kiêm cả độ tha.
Đạo Phật du nhập vào
Trung Hoa, trải qua sự hoằng dương của chư vị Tổ Sư, kết quả lập thành mười
tông. Trong đó có hai tông thuộc về Tiểu Thừa là Thành Thật Tông và Câu Xá Tông.
Nhưng căn tánh của người Trung Hoa không hợp với pháp Tiểu Thừa, nên không bao lâu hai tông này đều bị tàn tạ. Còn tám tông kia thì thuộc về Đại Thừa, gồm có :
1) Thiên Thai Tông,
2) Hiền Thủ Tông,
3) Tam Luận Tông,
4) Pháp Tướng Tông,
5) Luật Tông,
6) Thiền Tông,
7) Mật Tông
8) và Tịnh Độ Tông.
Môn hoằng dương của Tịnh
Độ Tông là pháp Niệm Phật. Nếu pháp môn này chỉ giảng thuyết về sự tự độ, thì e
cho đã bị tiêu mòn như hai tông Tiểu Thừa kia từ lâu rồi.
Nước Việt Nam ta là một
bán đảo thuộc miền duyên hải, dân tánh có chiều hướng hoạt động suy tư rộng,
nên phần lớn thích hợp với Đại Thừa. Nên từ xưa đến nay, tại đất nước này,
Thiền Tông và Tịnh Độ đã chiếm phần ưu thắng.
Luận về pháp, những pháp
nào đi đến Phật quả cứu cánh, giảng thuyết rộng về giới ngoại và sự lợi tha, đó
là pháp Đại Thừa. Trái lại, chính là pháp Tiểu Thừa. Nhưng điểm chủ yếu để phân định Tiểu Thừa hay Đại Thừa,
là thuộc về TÂM (Vô Thượng Bồ Đề tâm ) chớ không phải PHÁP (Tiểu Thừa và Đại Thừa).
Nếu dùng pháp Tiểu Thừa
hoằng hóa làm phương tiện để dẫn đến Phật quả thì đó chính Đại Thừa. Chẳng thế,
khi đức Như Lai giảng dạy về Tiểu Thừa giáo, Ngài cũng là hạng Tiểu Thừa hay
sao? Vì lẽ ấy cho nên người niệm Phật cần phải chú trọng về chỗ phát tâm, tức
là phát Vô Thượng Bồ Đề tâm.
Môn Niệm Phật đã thuộc
về pháp Đại Thừa nếu hành giả tu theo môn này lại phát đại Bồ Đề tâm nữa, thì
tâm và pháp đều được toàn vẹn, sẽ đi đến quả Viên Giác kiêm cả tự lợi lợi tha.
Nếu phát tâm nhơn thiên thừa mà niệm Phật,
thì môn Niệm Phật thành pháp nhơn thiên. Người niệm Phật mà phát tâm như thế,
chỉ hưởng được sự sang quý ở cõi người cõi trời, khi phước báo hết, lại chịu
luân hồi sa đọa.
Nếu phát tâm Tiểu Thừa mà niệm Phật, thì
môn Niệm Phật thành pháp Tiểu Thừa. Người niệm Phật mà phát tâm này, thì chỉ
được quả giác thấp kém không viên mãn của Thanh Văn, Duyên Giác, lại còn phạm
lỗi nhỏ hẹp thiếu lòng từ bi, duy biết lo giải thoát cho mình, không đoái đến
bao nhiêu chúng sanh đau khổ khác.
Cho nên niệm Phật cần
phải phát Vô Thượng Bồ Đề tâm. Lời tục thường nói: "Sai một ly, đi ngàn dặm." Người niệm Phật tu hành đối với điểm phát tâm có
chính xác cùng không, há chẳng phải là một điều đáng chú ý lắm ư?
Niệm Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Một câu A Di Ðà
Tánh thể vốn tự không
Các sao chầu Bắc Ðẩu
Muôn nước chảy về Ðông.
( Nhứt cú Di Ðà
Tánh bản tự không
Tinh giai cũng Bắc
Thủy tận triều Ðông.)
LƯỢC GIẢI
Một tín nữ đến thuật lại
với bút giả: "Có vị sư-cô bảo con bỏ hết đừng nên niệm Phật nữa, hãy để
lòng yên lặng cho tâm không, cảnh không, mới mau ngộ đạo!". Bút giả nói:
"Các pháp đều như huyễn, câu niệm Phật cũng như huyễn, tự thể của nó đã là không rồi, cần gì phải bỏ?
Nếu muốn chứng được tâm
không, cảnh không, mà còn ngại câu niệm Phật, còn bác bỏ sự tướng, thì đó chính
là Thiên Không hay Ngoan Không (cái không thiên lệch, trống rỗng, cứng chắc)
của ngoại đạo, chớ chẳng phải ý nghĩa Chân Không của Phật pháp.
Ý nghĩa chân không chân
chánh của đạo Phật ở ngay nơi tất cả cái có thuộc mọi sự tướng, mà không chấp
thấy là có (Chân không bất không, diệu hữu phi hữu). Chẳng phải riêng sư cô ấy
lạc lầm, trong hiện tại có rất nhiều vị tu học Phật pháp đã sa vào hầm hố đó.
Thật là điều không may và đáng thương cảm!" Nay nhân tiện xin tạm mượn sự
việc trên để giải thích về ý nghĩa "tự không" của câu niệm Phật.
Theo quan niệm địa dư xưa, người Trung Hoa cho rằng vùng đất của loài người ở
là một châu lớn, chỗ họ cư trú thuộc Trung Quốc. Phía Ðông của châu ấy là biển
cả, muôn dòng nước ở lục địa đều chảy ra đó. Người Việt Nam hấp thụ văn hóa
Trung Hoa, cũng đồng với quan điểm ấy. Bởi thế cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm mới có
câu: "Hồng nhật Ðông
thăng tri đại hải. Bạch vân Tây vọng thị thần châu".
Và theo thiên văn học
xưa, người Trung Hoa bảo rằng các vì sao đều chầu hướng về ngôi Bắc Ðẩu. Ðể dẫn
giải cho Phật pháp, Triệt Ngộ đại sư cũng phương tiện mượn quan niệm thế gian
ấy mà làm thí dụ. Bởi tất cả pháp đều từ nơi biển Chân Không lưu xuất và đều
tan về Chân Không. Bên tông Tịnh Ðộ gọi thể Chân Không đó là Tự Tánh Di Ðà. Bài
kệ trên đại ý:
Câu niệm Phật tánh vốn
tự không, khi hành giả từ khởi điểm này tu tiến chứng thể tánh ấy một cách viên
mãn, sẽ thức ngộ muôn pháp từ nơi đó mà lưu xuất, lại cũng qui nhập về nơi
đó. Như sao Bắc Ðẩu làm chủ muôn sao, muôn sao chầu về Bắc Ðẩu, biển
Ðông dâng nước vào các sông ngòi, nước sông ngòi đều đổ về biển Ðông vậy.
MÃ VINH TỔ
Cư sĩ Mã Vinh Tổ, tự Trử
Lương, quê ở Tú Thủy tinh Triết Giang. Lúc bé ông tỏ ra có văn tài, lên mười
lăm tuổi được bổ vào hàng chư sanh. Cha mẹ mất sớm, Vinh Tổ thờ kế mẫu rất hiếu
cẩn. Đến ba mươi tuổi, ông mang bịnh lạc huyết. Trải năm năm bịnh càng thêm nặng, ăn vào liền mửa ra.
Có Tăng sĩ Tường Phong,
khi chưa xuất gia là bạn quen với Vinh Tổ ghé viếng thăm. Lúc ấy sư vừa đi tham
học trở về, túc huệ mở sáng, tín giải thông suôt. Vinh Tổ nghe lời sư luận
giảng lấy làm lạ, nhân hỏi đến phương pháp trừ bịnh. Tường Phong đáp: “Bịnh của đạo hữu là do túc nghiệp, không phải thuốc thang chữa trị được. Nếu đạo hữu
có thể buông bỏ muôn duyên chuyên lòng niệm Phật, lâu ngày công sâu, thì vô
minh nghiệp chướng từ vô lượng kiếp đến nay lần lần dứt sạch. Chừng ấy căn bịnh
luân hồi sống chết còn giải thoát được, huống nữa là thân bịnh nào đáng lo
gì!” Vinh Tổ nghe nói giật
mình tỉnh ngộ, bèn thường trai tu
tịnh nghiệp. Từ đó bịnh cũng lần lần thuyên giảm.
Trước thời gian ấy, Mã
Vinh Tổ nằm mộng thấy giữa hư không nổi lên vô số chữ Thọ phóng ánh sáng rực
rỡ. Ông duyệt xem sách Phật thấy nói: A Di Đà dịch là Vô Lượng Thọ, cũng gọi là Vô Lượng Quang. Bấy giờ nghĩ lại
thấy điềm mộng ứng họp, càng tự mừng thầm, cho là mình có túc duyên với môn
Tịnh độ. Kế tiếp ông đọc qua kinh Pháp Bảo Đàn, khế hội được nguồn tâm, càng
thêm nổi vui mừng cảm hối. Sau Vinh Tổ tới chùa Đại Giác Lâm ở Sơn Âm thọ tam
quy ngũ giới, mỗi ngày đều tụng kinh Kim Cang, Di Đà, niệm Phật ba muôn câu,
lại kiêm tu tịnh quán. Lúc rảnh rỗi, cư sĩ lại mời các liên hữu tập hợp tại
nhà, tổ chức niệm Phật suốt ngày đêm.
Niên hiệu Càn Long thứ
56, vào hạ tuần tháng giêng, Vinh Tổ từ Tô Châu trở về vừa đúng một tháng thì
cảm bịnh. Đến đầu tháng ba cư sĩ đau nằm nơi giường không chỗi dậy được, bảo
bạn thân rằng: “Tôi từ ba mươi lăm tuổi phát lòng Bồ đề, chỉ cầu nghiêm tịnh
cõi Phật, lợi ích chúng sanh, sự vinh hoa của ngôi khanh tướng xem đồng như đôi
dép rách. Nay thân tuy mang chứng trầm kha, song một tâm niệm an vui chưa từng
biến cải.
Hiện tại chỉ chuyên giữ
chánh niệm, chờ khi mạng chung sanh thẳng về Tây phương mà thôi!” Một ông bạn
hỏi: “Anh mất đi rồi, trong nhà nheo nhóc vài miệng ăn, lấy ai giúp đỡ?” Cư sĩ
đáp: “Đó đều thuộc về duyên phước
của mỗi người, sức tôi không thể kham được!” Tới chiều ngày mười tám, ông bảo: “Ngày mai phải
đại sám hối!” Sáng hôm sau, cư sĩ gắng gượng chỗi dậy mặc áo tràng lễ Phật sám
hối, rồi ngồi hương về phương Tây niệm Phật vài trăm câu, kế quì đọc bài văn
phát nguyện của ngài Liên Trì, mới trở về giường nằm. Ba hôm nữa, lại nói: “Tây
phương Tam Thánh hiện thân ở trước, vì tôi nói pháp.
Tôi thường ở trong ánh
sáng chói suốt rực rỡ!” Qua ngày sau lại bảo: “Bồ Tát dùng tịnh thủy rưới nơi
thân gội rửa túc khiên, khiến cho tôi được mát mẻ, sự an vui không thể tả!” Tới
chiều, một liên hữu là Trầm Hồng Điều viếng thăm, hỏi có niệm Phật không, và
nhắc bảo đừng nên trước tướng. Cư sĩ đáp: “Vân niệm, tức tâm tức Phật có chi là
trước tướng!” Kế đó lại tuyệt thực, mỗi ngày chỉ uống vài chén nước trà, hai
hôm sau rốt duy uống nước trong mát mà thôi.
Ngày hai mươi chín tháng
ba, vào giờ Ngọ, cư sĩ bảo người nhà rằng: “Đức Phật đã đên tiếp dẫn!” Nói xong
liên tiếp niệm Hồng danh, rồi nằm nghiêng bên hữu mà vãng sanh, hưởng dương
được bốn mươi tám tuổi. Ông không con, di chúc cho lập hậu.
Bấy giờ Hòa thượng Tường
Phong bế quan tại Văn Tinh Các ở Tô châu, đang tu môn Niệm Phật tam muội. Mùa
đông năm ấy, một đêm Ngài nằm mộng thấy ba vị vào thất, ngồi ở hướng nam dây
mặt lại. Trong đó, chính giữa một vị xuất gia, hai bên là cư sĩ, phong nghi
thần thái trang nghiêm, nơi đầu đều có viên quang bao phủ. Tường Phong đảnh lễ
rồi hỏi: “Ba tôn đức ở đâu lại đây?
Vị mặc tăng phục nói:
“Chúng ta từ cõi Tây phương đến!” Hòa thượng lại hỏi: “Có phải chư vị là người
ở thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà chăng?” Vị Tăng đáp: “Phải!” Tường Phong
thưa hỏi danh tánh, ba vị không đáp chỉ hỏi lại: “Ngươi pháp danh là chi?” Hòa
thượng đáp: “Đệ tử pháp danh Đạt Văn”. Vị Tăng bảo: “Sao lại vọng ngữ?” Tường
Phong thưa: “Quả đúng như thế không phải vọng!”
Vị Tăng hỏi lại như
trước. Hòa thượng cũng đáp y như vậy. Tăng sĩ cũng bảo: “vẫn còn vọng ngữ!”
Tường Phong thưa: “Đệ tử nói thật chẳng phải giả dối, tại sao tôn đức lại bảo
rằng vọng ngữ?” Vị Tăng nói: “Tất cả chúng sanh lấy vọng làm chân, chấp giả làm
thật, nên mới bị luân hồi. Nếu bậc có trí, biết muôn pháp đều là hư vọng giả
danh, thì không còn luân chuyển. Ngươi chớ tự mê muội để lạc mất chân tâm. Nên hiểu chân tâm không tâm, chân tri không biết,
có hiểu biết tức là ma.
Đức Phật là đấng linh
tri vô tri, ngươi nên tin nhận chớ đem lòng nghi hoặc!” Sau lời ấy, Tường Phong
bỗng khai ngộ liền thưa: “Lời của tôn đức dạy, chính thật là pháp Phật không
thể nghĩ bàn! Tôn đức từ cõi Cực lạc đến, dám xin hỏi: đã tường thấy Phật A Di
Đà chăng?” Vị bên tả đáp: “Nếu ta nói với ngươi, chưa chắc ngươi đã tin. Phải
tự mình trông thấy mới được!” Kế đó cả ba đồng đứng dậy, mỗi vị đều vỗ nơi đầu
Tường Phong một cái, và lần lượt nói kệ rằng:
Gắng siêng năng tinh tấn
Tu tịnh nghiệp không nhơ.
Nhân sâu thì quả thật
Dè dặt chớ nghi ngờ!
Các pháp từ tâm sanh
Lại hoàn từ tâm diệt
Chân tánh nguyên vẫn không
Lấy, bỏ chẳng thể được!
Ngươi đã đôi phần thông
Phật, chúng sanh tâm đồng
Như huyễn tam ma đề
Ví như cảnh trong mộng.
Thuyết kệ vừa xong, bỗng
thấy Mã Vinh Tổ nghiêm chỉnh oai nghi, đảnh lễ ba vị. Cả ba liền vượt lên hư
không hướng về Tây bay đi. Lúc ấy không trung nổi lên âm nhạc rền vang, tiếng
niệm Phật bổng trầm thanh thoát. Vinh Tổ lại hướng về Tường Phong lễ ba lạy rồi
thưa: “Nhờ đại đức khuyên tôi tu tịnh nghiệp, quy y Tam bảo, nên đã hân hạnh
được sanh về Tây phương, thọ sự an vui lợi ích lớn, vì thế tôi thỉnh cầu Bồ Tát đến đây diễn nói diệu pháp,
để đền đáp thâm ân!”
Nói xong đảnh lễ giã từ
ba lạy nữa, rồi chắp tay niệm Phật bay về Tây phương. Vừa khi ấy tiếng chuông khuya nổi lên, Tường Phong giật mình thức giấc. Hòa thượng vội
lấy giấy bút ghi lại điềm ấy, gọi là Kỷ Mộng Thiên.
Về sau Tường Phong hòa
thượng ẩn tu nơi viện Phước Thành tại Lũ Giang. Khi lâm chung dự biết trước
ngày giờ, ngồi niệm Phật mà thoát hóa.
LỜI BÌNH:
Trước Cận Đường mượn
duyên giáng đàn để khuyên đồng bạn. Nay Mã Vinh Tổ việc ứng mộng mà đáp thâm
ân. Như thế, ai gọi khi sanh về
An dưỡng là vắng bặt không tin tức đâu! Tuy nhiên, với kẻ cơ duyên chưa thuần, thì chẳng thể
nhất khái đều đồng lệ được!
BÀI SỐ 75
Ẩn tu niệm Phật nhẹ lâng không
Hồn bướm Trang Chu tỉnh giấc
nồng !
Ý vị âm thầm trăng tỏa sáng
Hình dung lóng lánh tuyết
ngần trong.
NHƯ Ý : Đường Thi có câu:
“Trang Chu hiểu mộng mê
hồ điệp,
Vọng đế xuân tâm thác đỗ
quyên”.
Tạm dịch, Trong Giấc-mơ thấy MÌNH hóa BƯỚM nhởn nhơ bay lượn
nơi vườn đẹp trăm Hoa, khi TỈNH giấc vẫn hoàn lại như Cảnh-cũ, Trên Trời Mây Trắng Yên, Ngoài Sân Gió Nhẹ Thổi.
NIỆM PHẬT đến một lúc
nào bừng TỈNH cũng như thế, như Trăng Thầm Tỏa Sáng Tợ Tuyết Ánh Ngời Trong, Ý Cảnh Không Sao Diễn Tả Được.
MỘNG TRANG CHU
Trang Chu mộng
Mộng Trang Chu
Trang Chu mộng hóa bướm ngao du!
Đậu tưởng Trang Chu thành cái bướm
Ai hay cái bướm thật Trang
Chu!
Từ đây tỉnh
Chớ mê cầu!
Mưa qua nắng lại Hạ rồi Thu.
ÐẠO PHẬT
Người đời thường nói một
cách hời hợt cho qua chuyện, "Ðạo nào cũng
tốt!". Lời nói ấy, hoặc vì xã
giao để cho vui lòng khách, hoặc vì chưa rõ bề trong của các đạo khác nhau thế
nào, nên mới nói ra như thế.
Thật ra về mục đích thì
đạo nào cũng có giá trị của nó, chẳng qua chỉ hơn nhau về từng bực cao thấp mà
thôi. Nhưng mục đích tốt, dù sao, cũng chưa đủ. Ðiều quan trọng là làm sao thực
hiện được mục đích ấy, và đem lợi ích rộng lớn cho đời. Thử hỏi nếu đạo nào
cũng có giá trị như nhau, thì sao trước đây 2500 năm, trong lúc xứ Ấn Độ đã có 94 thứ đạo rồi, mà đức Phật
Thích-Ca còn giáng sinh làm chi nữa?
Chẳng qua các đạo tuy
nhiều, mà chưa được toàn "Chơn, Thiện, Mỹ", nên
đức Phật mới ứng thân thị hiện, dạy cho chúng sinh đạo Vô thượng chánh
đẳng chánh giác, ngõ hầu giải thoát khỏi khổ sinh tử luân hồi, được
tự tại vô ngại như Phật. Kinh Pháp Hoa chép: "Vì một nhân duyên lớn, Phật
mới xuất hiện ra đời".
Nhân duyên lớn ấy là gì? Chính là: "Khai thị chúng sinh ngộ
nhập Phật tri kiến", để cho chúng
sinh được nhờ đó mà đổi mê ra ngộ thấy tánh tỏ tâm, vượt sống khỏi chết, lìa khổ được vui.
Sa môn THÍCH THIỆN HOA
"Phật ra đời vì một nhân duyên lớn:
“Khai thị chúng sinh ngộ
nhập Phật tri kiến”.
Hai Hệ Thống Kinh Ðiển Phật Giáo
Phật-giáo chia thành hai hệ thống lớn là Đại-thừa và Tiểu-thừa.
Những nước thuộc hệ thống
Đại-thừa Phật-giáo như: Bắc-Ấn, các địa phương Trung-Á, Tây-Tạng, Mông-Cổ,
Mãn-Châu, Trung-Hoa, Việt-Nam, Triều-Tiên, Nhật-Bản.
Các nước thuộc hệ thống
Tiểu-thừa Phật-giáo như: Nam-Ấn, Tích-Lan, Miến-Điện, Thái-Lan, Ai-Lao,
Cao-Miên. Phật-giáo ở những nước nầy gọi là Nam-truyền hay Nam-phương
Phật-giáo.
Kinh-điển của Nam-phương Phật-giáo
được ghi chép bằng tiếng Ba-ly, nên gọi là Ba-ly Phật-điển. Kinh-điển của Bắc-phương Phật-giáo
được ghi chép bằng tiếng Phạm, nên gọi là Phạm-ngữ Phật-điển.
Tuy phân chia Đại-thừa,
Tiểu-thừa hay Nam-truyền, Bắc-truyền, song thật ra Bắc-truyền Phật-giáo cũng
gồm có Kinh, Luật, Luận của Tiểu-thừa; Nam-truyền Phật-giáo cũng có nơi xen lẫn
giáo lý Đại-thừa. Danh từ Bắc-phương hay Nam-phương Phật-giáo là chỉ cho hai hệ
thống Kinh-điển Phạm-ngữ và Ba-ly, chớ không phải chỉ trên phương diện địa lý.
Chẳng hạn như đảo Xà-Bà
(Java), địa cảnh thuộc về Nam-phương, nhưng nhân dân xứ ấy đã từng tín phụng
Bí-mật-giáo của Đại-thừa. Các nhà khảo cổ đã tìm
thấy tại đảo nầy những tượng Phật, Bồ-Tát và Kinh-điển của Đại-thừa Phật-giáo.
Ba Tạng
Kinh-điển đạo Phật chia ra làm ba loại,
người ta thường gọi là Tam-tạng:
Kinh, Luật, Luận.
“Kinh” là những pháp về giáo lý, giải, hạnh, do Ðức
Như-Lai nói ra, hoặc hàng Bồ-Tát, Thanh-Văn, Duyên-Giác hay Hóa-nhân nói mà
được Phật ấn chứng.
Đạo pháp nầy hợp với chân
lý, căn cơ, để cho người học Phật tu hành dứt trừ phiền não.
“Luật” là những giới luật của Phật chế định, để cho hàng
đệ-tử y theo đó ngăn trừ những phi hạnh, tu tập các pháp lành, thân tâm lần
lần được thanh tịnh.
“Luận” có nghĩa: bàn luận, là những sách do các đệ-tử
Phật viết ra, để phát huy nghĩa lý nhiệm mầu trong kinh luật. Đây là bộ phận
triết học của Phật-giáo, có công năng quyết đoán tánh tướng các pháp, phân
biệt lẽ chánh tà, khiến cho học giả khỏi nhận lầm.
Những điểm đồng và dị của
Tam-tạng như thế nào?
Luận Tỳ-Bà-Sa nói:
Chư Phật ra đời đều
có Ba Tạng (Tripitaka): KINH TẠNG (Sùtra), LUẬT TẠNG (Vinaya),
LUẬN TẠNG (Abhidharma). Ba tạng nầy thật ra không khác mà khác, hay nói ngược
lại. Không khác là tất cả
Phật-giáo đều từ nơi một biển trí mà sanh ra, đều đồng một nhiếp thọ, lực, vô úy, và đều do tâm
đại bi phát khởi. Có khác là KINH TẠNG y nơi TÂM mà luận, LUẬT TẠNG y nơi GIỚI
mà luận, LUẬN TẠNG y nơi HUỆ mà luận. Đây là nói về sở y sai biệt.
Lại, KINH TẠNG do nơi thứ
đệ mà hiển, LUẬT TẠNG do nơi duyên khởi mà hiển, LUẬT TẠNG do nơi tướng tánh mà
hiển. Đây là nói về sở hiển sai biệt.
Lại, KINH TẠNG thuộc về
dòng trí lực, LUẬT TẠNG thuộc về dòng đại bi, LUẬT TẠNG thuộc về dòng vô úy.
Đây là nói về đẳng lưu sai biệt.
Công năng của KINH TẠNG
là: người chưa trồng căn lành, khiến cho trồng căn lành. Công năng của LUẬT
TẠNG là: người đã trồng căn lành, khiến cho tiếp tục được thành thục. Công năng
của LUẬT TẠNG là: người đã chủng căn lành thành thục, khiến cho được sự giải
thoát chân chánh. Đây là nói về sở vi sai biệt.
KINH TẠNG do hàng thỉ
nghiệp mà nói, LUẬT TẠNG do hàng quán tập mà nói, LUẬT TẠNG do hàng đã vượt qua
sự tác ý mà nói. Đây là nói về phận vị sai biệt.
Nẻo tiến của KINH TẠNG là:
người chưa vào chánh-pháp, khiến cho vào chánh-pháp. Nẻo tiến của LUẬT TẠNG là:
người đã vào chánh-pháp, khiến cho thọ trì học xứ. Nẻo tiến của LUẬT TẠNG là:
người đã thọ kỳ học xứ, khiến cho thông đạt tánh tướng chân thật của các pháp.
Đây nói về tiến thú sai biệt.
Trong KINH TẠNG cũng có
luận về giới và huệ. Trong LUẬT TẠNG cũng có luận về huệ và tâm. Trong LUẬT
TẠNG cũng có luận về tâm và giới. Đây là điểm khác mà không khác của ba tạng.
Sao gọi là “TẠNG”. Chữ
“Tạng” (Pitaka) có nghĩa: trùm chứa. Kinh, Luật, Luận sở dĩ được gọi là tạng,
vì nội dung trùm chứa vô lượng nghĩa lý nhiệm mầu, vì là giáo pháp thuyết minh tạng tánh của Như-Lai.
Trong ba tạng, theo nghĩa
hẹp, riêng về giáo pháp của Phật nói ra hoặc ấn chứng,
được gọi là Kinh, còn bao nhiêu thì là Luật hay Luận. Nhưng ba tạng
đều là giáo điển của đạo Phật, đều có liên quan với lời Phật dạy, nên theo
nghĩa rộng, cũng thông gọi là Kinh. Vì thế, nên lại có những danh từ như:
Nhất-thiết-kinh, Đại-tạng-kinh, với ý nghĩa gọi chung cho ba phần giáo
điển.
Ngoài ra, những Kinh-điển
Đại-thừa còn gọi là Bồ-Tát-tạng, Kinh-điển Tiểu-thừa gọi là Thanh-Văn-tạng. Cả
Đại-thừa, Tiểu-thừa đều có ba tạng, nghĩa là Kinh, Luật, Luận riêng.
Tam-tạng của Đại-thừa, về
Kinh như: Hoa-Nghiêm, Pháp-Hoa, về Luật như: Phạm-Võng, Đại-Thừa-Giới-Kinh, về
Luận như Khởi-Tín, Đại-Trí-Độ. Tam-tạng của Tiểu-thừa, về Kinh như: A-Hàm,
Pháp-Cú; về Luật như: Ngũ-Phần, Thập-Tụng; về Luận như: Câu-Xá, Thành-Thật.
Lại còn có những danh từ
như Bí-mật-tạng, Tạp-tạng...., mà nội dung là: bộ phận mật chú, bộ phận hợp tập
những bài thuyết pháp tản mác của Đức Phật. Nhưng dù là Bồ-Tát-tạng,
Thanh-Văn-tạng, Bí-mật-tạng hay Tạp-tạng, đều không ngoài ý nghĩa ba tạng.
Tam-tạng là danh từ thống nhất của giáo điển đạo Phật,
gồm cả Tiểu-thừa lẫn Đại-thừa.
Mười Hai Phần Giáo
Ba tạng Kinh-điển của đạo
Phật, y theo thể tài, được phân chia thành mười hai bộ loại. Người học Phật
thường gọi những bộ loại nầy là “mười hai phần giáo”:
1.-TRƯỜNG HÀNG
Tu-Đa-La
(Sùtra): Danh từ nầy có một lối gọi là Tô-Ðát-Lãm, Trung-Hoa dịch là KINH hay
Khế-Kinh. Chữ “Khế” có nghĩa là “hợp”, chữ “Kinh” có nghĩa là “thường”. Pháp
giải thoát là pháp chư Phật trong ba đời vẫn thường nói, và pháp ấy hợp với
chân lý, hoặc với nhân duyên thời tiết cùng căn cơ của chúng-sanh, nên gọi là
Khế-Kinh. Kinh cũng gọi là Trường-Hàng (tản văn, văn xuôi),
một lối văn chỉ nói ngay ý nghĩ của mình, tùy theo nghĩa lý mà đọc ra câu văn
dài hay ngắn. Lối văn nầy không cần sửa soạn lắm như lối văn từ phú.
Luận Du-Già nói: “Kinh là những danh, cú, văn thân, phát huy nghĩa
nhiệm mầu, chân thật, thuần thiện. Kinh hay khiến cho chúng-sanh được điều lợi
ích của giáo nghĩa và dẫn khởi sự tu tập phạm hạnh”.
Kinh Đại-Niết-Bàn nói: “Thiện-nam-tử! Sao gọi là Khế-Kinh?
Ấy là giáo thuyết của Phật
từ câu “Như thế, tôi nghe” cho đến câu, “vui mừng phụng hành”.
2.- TRÙNG TỤNG
Kỳ-Dạ (Geya): Danh từ
nầy, Trung-Hoa dịch là Ứng-Tụng hay Trùng-Tụng. Đây là lối kệ văn thuật lại
những ý nghĩa của đoạn văn Trường-Hàng nói trên, có khi nói thêm cho ý nghĩa ấy
được đầy đủ. Lối văn nầy thường lấy bốn, năm hoặc bảy, tám chữ làm một câu, bốn
câu làm một bài. Lại có khi một bài gồm nhiều câu, tùy theo sự diễn ý rộng hay
hẹp. Trong pháp hội, Ðức Thế-Tôn thường nói văn Trùng-Tụng, với dụng ý làm cho thính giả ghi nhớ và có thể tóm tắt
lại giáo nghĩa mà Ngài vừa tuyên thuyết.
3.-THỌ KÝ
Thọ-ký cũng gọi là
Ký-Biệt. Đây là những đoạn văn mà Đức Phật ghi nhận cho đệ-tử sau sẽ sanh về
đâu, hoặc chừng nào sẽ chứng đạo quả, hoặc tương lai sẽ xảy ra sự gì tốt hay xấu. Như Đức
Phật nói: “A-Dật-Đa! Đời vị lai có vị quốc-vương tên là Nhương-Khê. Ông sẽ ở
nơi thời ấy mà thành Phật, hiệu là Di-Lặc”.
4.-CÔ KHỞI
Dà-Đà (Gàthà): Danh
từ nầy, Trung-Hoa dịch là Phúng-Tụng hoặc Cô-Khởi. Phúng-Tụng là làm những bài
kệ hoặc hai ba bốn, năm, sáu câu. Nói Cô-Khởi, là lối văn nầy không thuật lại ý
nghĩa đoạn văn Trường-Hàng trên, mà chỉ làm riêng từng bài kệ thôi.
5.- TỰ THUYẾT
Ưu-Đà-Na
(Udàna): Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Tự-Thuyết. Đây là những kinh do
Phật dùng trí huệ xem xét căn cơ chúng-sanh, rồi Ngài tự nói pháp, không đợi phải có người thưa thỉnh yêu cầu.
6.- NHÂN DUYÊN
Ni-Đà-Na (Nidàna): Danh
từ nầy, Trung-Hoa dịch là Nhân-Duyên. Đây là những kinh nhân có người
thỉnh, hay nhân có duyên chi Phật
mới nói ra, hoặc nói về nhân duyên
gặp Phật nghe pháp, những chỗ có nhân duyên hóa độ, hay nói về duyên khởi của
vũ trụ.
Thí dụ như thuở xưa ở nước
Xá-Vệ có người dùng lưới bắt chim để chơi. Khi bắt được, anh đem nó nhốt vào lòng cho ăn lúa uống nước xem cho
chán rồi thả. Phật thấy thế, biết
rõ nhân duyên trước sau, khuyên rằng:
“Chớ khinh tội nhỏ. Cho là không sao. Giọt nước tuy ít.
Lần đầy chum lớn”.
7.- THÍ DỤ
A-Ba-Đà-Na
(Avadàna): Danh từ nầy có nghĩa là Thí-Dụ. Pháp của Phật nói ra rất mầu
nhiệm, người căn trí tối chậm khó mà hiểu thấu. Vì thế, khi giảng dạy Ðức Như-Lai phải dùng những thí dụ cho thính chúng dễ
hiểu. Đại khái như những lời
thí dụ trong các Kinh-điển.
8.- BẢN SỰ
Y-Đế-Mục-Đa-Dà
(Itivrttaka): Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Bản-Sự. Đây là những kinh
văn Phật nói chỗ tu nhân của các vị Bồ-Tát, đệ-tử về đời quá khứ, hoặc
những ngôn giáo, sự nghĩa liên quan với đời trước. Thí dụ như đoạn: “Nầy các Tỷ-khưu! Pháp của ta nói
hôm nay gọi là Giới-kinh, đời Phật Câu-Lưu-Tôn gọi là Cam-Lồ-Cổ, đời Phật
Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni gọi là Pháp-Cảnh, đời Phật Ca-Diếp gọi là Biệt-Không”.
9.- BẢN SANH
Xa-Đà-Dà
(Jàtaka): Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Bản-Sanh. Đây là những kinh Phật nói về nhân duyên thọ sanh của chính Ngài hoặc
các đệ-tử trong nhiều đời trước. Như đoạn: “Các ông
nên biết, đời quá khứ khi hành đạo Bồ-Tát, ta đã từng thọ thân hươu, nai, thỏ,
gấu, rồng, Kim-súy-điểu, Túc-tán-vương, Chuyển-luân-vương”.
10.-PHƯƠNG QUẢNG
Tỳ-Phật-Lược
(Vaipulya): Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Phương-Quảng. Đây là những kinh
Đại-thừa Phương-Đẳng, nội dung hàm nghĩa lý cao
siêu, rộng rãi như mười phương hư không.
11.- VỊ TẰNG HỮU
A-Tỳ-Đạt-Ma (Adbhuta
Dharma): Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Vị-Tằng-Hữu hoặc Hy-pháp. Đây là kinh văn nói về những thần lực, những nghiệp
duyên, những công đức tối thắng, lạ lùng, ít có, mà trí phàm-phu khó tin hiểu.
Như kinh
Đại-Niết-Bàn nói: “Thế nào là pháp Vị-Tằng-Hữu? Như Bồ-Tát khi mới
sanh ra, không người nâng đỡ mà tự đi
bảy bước, phóng đại quang minh, nhìn khắp mười phương. Như con vượn tay bưng bát mật cúng dường Như-Lai. Như
con chó cổ trắng theo bên Phật nghe thuyết pháp. Như Thiên-ma Ba-Tuần biến làm
con thanh ngưu đi trên những bát bằng sành, khiến cho các bát va chạm nhau mà
không sứt bể. Và cũng như Bồ-Tát khi mới sanh được đưa vào miếu thờ thiên thần,
các thiên tượng đều đứng lên lễ kỉnh”.
12.-LUẬN NGHỊ
Ưu-Bà-Đề-Xá
(Upadesa): Danh từ nầy có nghĩa Luận-Nghị. Đây là lối kinh văn có tính cách vấn đáp biện luận, hoặc
phân biệt các tướng mạo, các lẽ chánh tà. Luận Du-Già nói: “Thế nào là Luận-Nghị? Đây là tất cả
đối pháp luận, nghiên cứu nghĩa rộng sâu của Tô-Đát-Lãm, tuyên dương tông yếu
của các kinh”.
Trong mười hai bộ loại
trên, chỉ có TRƯỜNG HÀNG, TRÙNG TỤNG và CÔ KHỞI là
thể tài chính thức của kinh giáo. Còn chín loại kia, chẳng qua là y theo các sự
kiện sai biệt của pháp điển mà lập ra vậy thôi.
Và mười hai phần giáo nầy,
không phải trong kinh nào cũng có đủ cả. Có thứ kinh chỉ được một hai phần, có thứ kinh gồm đến năm
sáu phần chẳng hạn. Ấy là tùy theo thời
tiết, cơ duyên riêng biệt của mỗi thứ kinh, mà có những sự sai khác hoặc ít
hoặc nhiều.
Luận Về
Bốn Pháp Giới
Từ Nhất-Chơn-Pháp-Giới phân xuất ra bốn
pháp-giới như sau:
1. Lý-pháp-giới: Đây là chỉ cho phần
chân-như-môn của Như-Lai-tạng. Thể chân-như nầy linh hư vắng lặng, sáng suốt
một mầu, đủ bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh.
2. Sự-pháp-giới: Đây là phần
sanh-diệt-môn của Như-Lai-tạng, gồm vô lượng sự tướng sai biệt. Sự tướng nầy
sanh diệt thay đổi, như sóng bọt nổi tan ngoài biển cả, ráng mây biến
huyễn nơi trời cao, tùy hạnh nghiệp thiện ác mà hóa hiện.
3. Lý-sự-vô-ngại-pháp-giới: Vì muôn pháp như huyễn, không có tự tánh và thật
thể, nên toàn sự là lý. Bởi chân-như cũng không tự tánh và thật thể tùy duyên
mà biến hiện, nên toàn lý và sự. Lý và sự đây ví như nước với sóng, ngõa-khí
cùng vi-trần; sóng tan thành nước, nước nổi thành sóng, vi-trần kết hợp thành
ngõa-khí, ngõa-khí tiêu hoại thành vi-trần, không thể phân biệt ngoài
sóng có nước, ngoài ngõa-khí có vi-trần. Cho nên chân không chẳng
ngoài diệu hữu, chân lý không ngoài huyễn sự, vì lý tức sự, sắc tức không, nên
gọi là vô ngại.
4. Sự-sự-vô-ngại-pháp-giới: Lý đã tức là sự, nên lý không ngại sự, sự không
ngại lý, lý không ngại lý, sự không ngại sự, mỗi trần không ngại, mỗi pháp dung
thông. Vì lẽ sự-sự-vô-ngại, nên bậc Bồ-Tát chứng vào cảnh giới
Bất-tư-nghì-giải-thoát, có thể xem tường vách núi non hư không, lại qua
tự tại; có thể kéo dài sát-na thành muôn kiếp, thâu gọn muôn kiếp trong sát-na;
lại có thể để núi Tu-Di vào hạt cải, dùng hạt cải bao chứa núi Tu-Di, mà
cảnh giới và loài hữu-tình trong ấy không bị tăng tổn.
Về ý chí “Pháp-Giới” trên
đây, thì “Pháp” lấy quỹ-tắc làm nghĩa, “Giới” lấy tánh-phần làm nghĩa. Quỹ-tắc
và tánh-phần nầy, ở nơi lý là Lý-pháp-giới ở nơi sự là Sự-pháp-giới; cho đến
lý-sự và sự-sự cũng như vậy. Bởi lý không chừng hạn, sự có muôn sai, nên cổ-đức
đã bảo:
“Hòa ấm hơi xuân đồng một
tiết.
Thấp cao hoa cỏ khác muôn
màu”.
Tóm lại, trong tánh tạng,
thế-giới trùng trùng, tịch quang lặng lặng, không và sắc bao la, nhưng phải
ngoài lý cùng sự.
Lý, sự nầy diễn ra thành bốn pháp-giới, thâu lại về cõi
Nhất-chơn.
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Một câu A Di Ðà
Cũng không, cũng có tướng
Non sông nơi giấc mộng
Hoa, liễu ở trong gương.
( Nhứt cú Di Ðà
Diệc vô diệc hữu.
Mộng lý sơn xuyên
Cảnh trung hoa, liễu.)
LƯỢC GIẢI
Bài kệ trên nêu rõ ý: Câu niệm Phật
nói không cũng được, nói có cũng được. Ví như bóng cành hoa, cội liễu lộ trong gương sáng, cảnh non
cao, sông rộng hiện giữa giấc mơ. Trường hợp ấy, nói
không cũng được vì đó chỉ là hình bóng, là cảnh mơ; nói có cũng được, bởi nó
vẫn có ảnh tượng của cảnh vật vậy.
VƯƠNG CUNG
Cư-sĩ Vương Cung, tự Lễ
Ngôn, người đời Thanh, quê ở Thái Thương. Ông tánh điềm đạm ít thị dục, có văn
tài, nhưng phóng khoáng không thích nghiệp khoa cử. Cư sĩ cất nhà ở Nam viên
thuộc về khu biệt dã của Văn Túc Công. Nơi đó trúc biếc thanh u, gộp đá chồng
chất, hoa nở suối reo, cảnh trí sum nghiêm mát mẻ. Ồng thường cùng các bạn tụ
hội tại đây, uống rượu ngâm thi, lấy làm tự đắc.
Đến hơn năm mươi tuổi,
ông bỏ việc ngâm vịnh, trường trai tu tịnh nghiệp, tự hiệu là Phá Hữu cư
sĩ. Một đêm, ông mộng thấy
dạo chơi cõi Cực Lạc, thức dậy làm thi để lưu ký rằng:
Lòng tin đã chắc khỏi
thương lương,
Mộng đến Liên bang cảnh lạ thường!
Đây các thiện nhơn bàn tánh tướng,
Kìa chư thiên tử rải hoa hương.
Cầm chim nhạc lưới nhiều thanh điệu,
Gác ngọc lầu châu thảy phóng quang.
Gang tấc nguồn tiền từng chẳng cách,
Dùng cho lạc lối tiếc NGƯ LANG. (1)
Tuyết Sơn lão tử khéo bi tình,
Chỉ điểm đường Tây rất bạch minh.
Vô trụ ngại chi nơi đấy
trụ,
Không sanh kéo đến cảnh nầy sanh.
Giống lành bể tục nhan gieo sẵn,
Duyên đẹp trời sen quả tự thành.
Chuyển bước ĐÀI SƠN vẽ cõi ngọc,(2)
Dặm nghìn thôi chẳng hỏi Bồng, Dinh.(3)
Lúc bấy giờ cư sĩ đã bảy
mươi hai tuổi. Mùa hạ năm sau, ông nằm dưỡng bịnh nơi hiên Đàm Ảnh ở Nam viên.
Trước hiên có ao sen, một cành hoa to chưa nở mọc lên cạnh mé gộp đá. Một hôm,
hoa hướng về phía giường ông nằm mà khoe nở, sắc tươi đẹp hương thanh nhẹ. Hai
ngày sau, cư sĩ niệm Phật như thường khóa. Niệm xong, kiết ấn mà qua đời, cành hoa cũng vừa rũ héo. Bấy giờ nhằm ngày mùng tám tháng năm, niên hiệu
Càn Long thứ 47.
Không bao lâu, có người
ở Lưu Hà lập đàn cơ cầu tiên. Nhân dịp đó, con của Vương Cung đến hỏi thăm về
tin tức của cha. Giây phút cơ động viết thành mấy chữ lớn: “Ta là Phá Hữu chủ
nhơn đây!”
Hỏi: “Nay cha ở đâu?”
Đáp: “Việc trần tục đâu còn chi tưởng nhớ”. Người con cố hỏi về việc nhà đôi ba lần, cơ đều
đáp: “Nam mô Phật!” Rồi yên lặng.
Chú Thích:
(1) Đời Tấn, có chàng ngư
phủ thấy nhiều cảnh hoa đào tươi đẹp, từ một con suối trôi ra sông, liên bơi
thuyền ngược dòng tìm. Đến nơi thấy một vùng non xanh nước biểc, hoa đào đua
nở, lâu đài quang cảnh xinh đẹp khác tục trần. Hôm sau chàng định tìm dời nhà
đen đó ở, thì lạc mất lối cũ, trong lòng lấy làm bàng hoàng mến tiếc. “Nguồn
Tiên” trong câu chuyện, ám chỉ cảnh Cực Lạc. Đây nói ý cõi Ta Bà và cõi Cực Lạc
đều ở trong thể chân tâm. Nếu niệm Phật thanh tịnh thì dung hòa vào chân tâm,
Ta Bà và Cực Lạc không cách xa gang tấc. Như niệm Phật mà tâm còn vọng tưởng
loạn động, tất sẽ lạc lối cách xa Cực Lạc, như CHÀNG NGƯ PHỦ lạc lối Đào nguyên, mến tiếc cũng đã muộn!
(2) Cư sĩ La Đài Sơn tu
Tịnh độ, nhưng niệm trần còn, nguyện vãng sanh chưa
chắc, nên chuyển kiếp trở lại hưởng sự phú quý, Ý nói mình tin nguyện chắc khác với ĐÀI SƠN, giả
sử hiện tại có gộp Đài Sơn cũng lôi kéo ông ta chuyển bước hướng về Cực Lạc.
(3) Bồng-Đảo, Dinh-Chậu là
cảnh đẹp của tiên. Ý nói mình đã biết cõi Cực Lạc đẹp mầu ức bội phần hơn cảnh
tiên, thì không cần chi tìm hỏi
về cõi Bồng, Dinh xa xôi nghìn muôn dặm nữa!
Comments
Post a Comment