CHÁNH VĂN
56.- Ẩn tu xót kẻ học Như Lai
Thiền, Tịnh, thị phi chấp
trước dày
Kiên cố đấu tranh đà hiện
rõ
Đạo đời phân hóa cảnh thời
nay.
57.-Ẩn tu ý Tổ cảm thông tri
Bi trí tuỳ cơ độ Mạt-thì
Đâu phải chấp đua như thế
tục
Mà riêng khen Tịnh đạo
huyền vi.
58.-Ẩn tu thời mạt nhớ câu than
Đức Tín Tỳ Kheo kém
Thiện-nam
Cư-sĩ lại thua hàng tín-nữ
Thiên Như huyền ký để lời
vàng.
59.-Ẩn tu lòng đạo muốn tăng cao
Phải quán tam đồ khổ lớn
lao
Phát ý Bồ đề siêng niệm
Phật
Bởi cơ nước lửa sắp dâng
trào.
60.-Ẩn tu nhìn khắp cảnh ban mai
Người vật ra đường chim
nhảy bay
Tất cả chỉ vì lo vóc huyễn
Nhọc, già, bịnh, chết mấy
ai hay?
GIẢNG GIẢI
BÀI
SỐ 56
Ẩn tu xót kẻ học Như Lai
Thiền, Tịnh, thị phi chấp
trước dày
Kiên cố đấu tranh đà hiện
rõ
Đạo đời phân hóa cảnh thời
nay.
NHƯ Ý : Hiện nay các nước trên Thế-giới chia ra làm
nhiều Phe Phái, trong mỗi Phe Phái lại có sự Phân hóa Tranh chấp
Lẫn nhau, các Tôn-giáo cũng thế, nhưng đáng thương xót riêng cho
Phật-giáo, đã có một nền đạo lý cao thâm đi đến chỗ
VÔ NGÃ Pháp-chấp, mà sự thật vẫn còn Tranh chấp, ngoài việc
PHÂN tranh giữa NAM và BẮC Tông Phật Giáo, mỗi bên lại còn có những phe đối lập riêng
, như Nam-Tông thì có sự Phân hóa giữa Tân-phái và Cụ-phái, trên
vấn đề GIỚI LUẬT.
Bắc-Tông có sự tranh đua
của THIỀN cùng TỊNH trên đạo lý KHÔNG HỮU, khi xưa Đức Thế-Tôn đã
DỰ biết, Phật pháp phải trải qua 5 thời kỳ, mỗi thời kỳ là 500 năm,
có chỗ nói thời sau rốt kéo dài quá 500 năm cho đến khi PHÁP DIỆT
TẬN , 5 thời kỳ đó là :
1) Chánh Pháp Kiên Cố
2) Thiền Định Kiên Cố
3) Đa Văn Kiên Cố
4) Pháp Tự Kiên Cố
5) Đấu Tranh Kiên Cố
Nói ĐẤU TRANH KIÊN
CỐ là vì trong thời kỳ này, nhân sanh NGÃ CHẤP và NGÃ SỞ CHẤP rất
nặng. Bởi thế khi Tu-hành không ý thức đến vấn đề Giải-thoát,
mà quan tâm đến nhiều LỢI DANH BÈ PHÁI, nhớ lại trong năm 1963 có
phái đoàn Phật Giáo Trung-Hoa, do Bạch Thánh Pháp Sư
hướng dẫn sang Ấn-Độ để chiêm Bái thánh tích, cuộc hành trình trải
qua Thái-Lan và có mở nhiều buổi Thuyết pháp, một nhóm
Tăng cùng Tín đồ xứ này không chấp nhận, nhất định đòi mở cuộc
tranh Luận, bên Nam-tông đề cử Nan-Đà Luật-sư tinh thông
về A-Tỳ-Đạt-Ma Câu-XÁ Luận, bên phái Trung Hoa cử Tinh-Vân Pháp-sư ra đối chất.
Nhưng đến kỳ TRANH BIỆN,
trước tiên ngài Tinh-Vân đưa ra ý kiến, nói hiện nay trên thế
giới phân hóa, quần chúng sống TRONG hồi hộp giữa các tai nạn ĐẤU
TRANH, mục đích của các TÔN GIÁO là cứu KHỔ phò NGUY, tùy
duyên đưa người lên nấc thang tiến hóa cho đến
chỗ Giải Thoát, theo như Ngu Ý thời buổi này không phải là lúc Tôn
Giáo nên Tranh Chấp, trên tổ chức tuyên truyền Giáo RIÊNG, mà
mỗi TÔNG phái nên Tùy cơ, Tùy cảnh để Cứu đời, trên tinh thần Đạo
Đức CHUNG, lại phải cùng sống hòa hợp, cùng trao đổi KIẾN
THỨC để bổ khuyết cho nhau.
Vậy chẳng
biết TÔN Ý thế nào?
Nan-Đà Luật-sư chấp
nhận cho là CAO KIẾN và xin BỎ cuộc TRANH BIỆN. Trên đây là một sự
VIỆC rất ĐÁNG NÊU GƯƠNG cho hàng HẬU HỌC.
ĐEM THIỀN GẠN TỊNH
Thượng tọa nói : “Chánh
pháp quý nơi hoằng thông, có nghi cần phải
hỏi để giải quyết, sao Sư
nỡ xua đuổi như thế.
Tôi từng nghe : Tỳ Lô Giá
Na (THANH TỊNH PHÁP THÂN PHẬT) khắp tất cả, chỗ Phật ngự gọi là Thường Tịch
Quang. Thế thời chỉ cần chứng pháp thân, đương xứ tức là Tịch Quang Tịnh Độ. Hà
tất dùng tâm sanh diệt bỏ Đông (Ta Bà) cầu Tây (Cực Lạc) ư?”.
Mộ Liên Pháp sư nói : “Sao ông nói dễ dàng thế; Tịch Quang Tịnh Độ
dầu rằng đương xứ tức là
đó. Nhưng nếu chưa phải là bậc Trí đức, Đoạn đức
Cứu cánh (Trí đức Cứu cánh là ĐẠI BỒ-ĐỀ. Đoạn đức Cứu cánh là ĐẠI
NIẾT-BÀN), chưa viên chứng Tỳ Lô
Pháp thân, thời chưa có thể triệt để thọ
dụng. Trong Viên giáo, bậc
Thập địa, Đẳng giác còn là phần chứng. Nếu
ngài đã viên chứng Tỳ Lô
Pháp thân, thời tha hồ mà nói đương xứ là Tịch
Quang. Còn nếu chưa phải
viên chứng mà nói, thời rõ là nói ĂN cùng ĐẾM
của (Luận nói suông về sự ĂN thời không NO được. Kẻ nghèo
ngồi tính ĐẾM của tiền các nhà giàu tất không hết NGHÈO được) , tất khó khỏi chết đói chết rét”.
Thượng tọa nói : “Câu Duy
tâm Tịnh độ tự tánh Di Đà là lời thường nói
của nhà Thiền lẽ đâu lại
sai lầm ?”.
Mộ Liên Pháp sư nói : “Lời của nhà Thiền nói đó chính là chuyên
luận
về lý tánh, chớ không phải
bàn đến sự tu. Như thế là vì muốn cho người
trước ngộ lý tánh rồi sau
y theo tánh khởi hạnh tu tập để đạt đến sự siêu
phàm nhập Thánh, tức chúng
sanh mà thành Phật đạo. Sao chỗ tri kiến của
ông lại điên đảo, nhận sự
với lý lộn lạo như thế!
Vừa rồi ông cho rằng bỏ Đông
cầu Tây là sanh diệt, mà ông không ngờ
rằng chấp lấy Đông bác bỏ
Tây lại sa vào lỗi đoạn diệt.
Lúc chưa chứng Phật quả có
ai ở ngoài phạm vi thủ xả (lấy bỏ) ? Đức Phật ta từ lúc phát Bồ-đề tâm trải ba vô số
kiếp tu Bồ Tát hạnh, trên cầu thành Phật dưới cứu độ chúng sanh, dứt nghiệp
hoặc chứng chơn thừa, có điều nào không phải là sự thủ xả?
Phải biết Đức Như Lai muốn
cho chúng sanh sớm chứng Tịch Quang và
Pháp thân, nên đặc biệt hết
lời khuyên mọi người niệm hồng danh cầu sanh
Cực Lạc.
Thượng tọa gạn : “Ngài Táo
Bá phán pháp Pháp môn Tịnh độ là quyền
giáo chớ không phải thật
giáo. Cớ sao Hoa Tạng hải chúng lại đồng nguyện
vãng sanh ? Ngài Táo Bá
hiện đời chứng Thánh, thần thông trí huệ chẳng thể
nghĩ lường. Tất là Bồ Tát
thị hiện. Không lẽ ngài phán sai ?
Mộ Liên Pháp sư đáp : “Trong Kinh Hoa Nghiêm về phẩm Nhập Pháp
giới, quyển thứ 80, sau
khi ngài Thiện Tài chứng bậc Đẳng giác, đức Phổ
Hiền liền nói kệ tán thán
công đức thắng diệu của Như Lai. Rồi tiếp đến
quyển thứ 81, tức là phẩm
Hạnh Nguyện, đức Phổ Hiền thuyết mười điều
nguyện vương, khuyên Thiện
Tài cùng chư đại Bồ Tát đều phát nguyện hồi
hướng cầu sanh Tây phương
Cực Lạc thế giới. Lúc Phổ Hiền dứt lời, Đức Phật hai lần khen ngợi. Toàn thể
đại chúng trong pháp hội đều phụng hành.
Cố đức từng bảo : Pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, duy Phật cùng
Phật mới thấu đáo, bậc đại
Bồ Tát vẫn chưa hiểu trọn hết. Ngài Táo Bá dầu
có là Bồ Tát thị hiện,
song vì thời kỳ ngài, bộ Kinh Hoa Nghiêm dịch chưa
xong nên ngài không thể
đoán trước được. Sau khi ngài tịch hơn 50 năm,
toàn bộ Hoa Nghiêm 81
quyển mới được phiên dịch hoàn mãn.
(Ngài Tào Bá ở vào thời vua
Đường Huyền Tông. Phẩm Hạnh Nguyện dịch
xong vào thời Đường Đức
Tông.)
Xét theo Kinh Hoa Nghiêm
thời bậc thượng căn đại trí đều nhiếp cả về
Tịnh Độ.
Kinh Đại Tập nói : “Thời
mạt pháp ức ức người tu hành khó có một
người được giải thoát. Chỉ
nương pháp môn niệm Phật mà được thoát khỏi
luân hồi”. Xem đây thời
Tịnh Độ gồm trùm cả lục đạo chúng sanh.
Ông tin ngài Táo Bá mà
không tin Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Đại
Tập,
như thế khác nào người tin
theo chỉ thị của quan huyện mà không tuân sắc
dụ của Tổng thống.
Thượng tọa hỏi : “Ngài Táo
Bá đã là Bồ Tát thị hiện, thời cần gì đợi đến
xem Kinh rồi mới biết ?”.
Mộ Liên Pháp sư đáp : “Vấn đề hoằng dương Phật pháp không phải là
sự dễ. Nói đâu phải có văn Kinh làm chứng đến đó, mới thủ tín
được. Kinh
Hoa Nghiêm lại vượt hẳn
các Kinh khác nên không do đâu để suy luận,
trong khi Kinh Hoa Nghiêm
chưa lưu hành”.
Thượng tọa lại gạn : “Khi
Kinh Niết Bàn chưa truyền sang, sao ngài
Đạo Sanh tuyên bố trước
rằng hạng nhứt xiển đề đều có Phật tánh. Có lẽ nào
ngài Táo Bá lại kém ngài
Đạo Sanh ?”
Mộ Liên Pháp sư đáp : “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhứt
xiển
đề là chúng sanh tất cũng
có Phật tánh. Phàm người trí thức đều có thể suy
hiểu mà đoán trước. Còn về vấn đề vãng sanh Cực Lạc để chóng viên mãn
Phật quả, ngoài Hoa Nghiêm,
các Kinh khác tuyệt chưa nói đến. Ai dám tự
phụ kiến thức của riêng mình
để lập nghĩa!
Vả lại chỗ tu chứng của
hai ngài, chúng ta làm sao rõ được. Đâu nên
đem hai ngài so sánh để
bàn suông.
Phải biết chư Bồ Tát hoằng
pháp có nhiều cách : hoặc thuận hoặc
nghịch, hoặc ẩn hoặc hiển,
kiến thức phàm phu không thể hiểu thấu. Biết
chừng đâu ngài Táo Bá thị
hiện không rõ thấu để thúc đẩy thêm sự tín hướng
của người sau!”.
Thượng tọa hỏi : “Các Sư
trong Thiền tông thường có lời bác Tịnh độ
đó là lẽ gì ?”.
Mộ Liên Pháp sư nói: “Các Sư trong Thiền tông chỉ truyền Phật tâm.
Lời
của các Sư nói ra đều
thẳng đến lý tánh. Ông đã nhiều năm tham thiền mà
còn chưa hiểu ý đó, thời
đủ thấy rằng chỗ kiến giải của ông tất là những ác
kiến phá hoại Thiền tông
thôi”.
Thượng tọa nói : “Tôi đâu
dám tự mình bịa ra, chỉ vì lời của chư vị Tổ
Sư quyết có thể y cứ. Nay
xin thuật vài điều :
Lục Tổ bảo : Người phương
Đông tạo tội cầu sanh Tây phương. Còn
người Tây phương tạo tội
cầu sanh cõi nào ?
Triệu Châu nói : Một chữ
Phật ta không thích nghe. Và lại nói : Lão
Tăng mà niệm Phật một
tiếng thời súc miệng ba ngày.
Các Sư trong Thiền tông thường
nói ra những lời như thế là lẽ gì ?”.
Mộ Liên Pháp sư đáp : Lục Tổ trực chỉ lý tánh để người đối diện
nhận
lấy tự tâm. Ông lại đem
phân tích chữ nghĩa biện luận về phần tu trì, thế là
nhận lấy yên lừa làm càm
của kỵ nhơn. Sao ông quá sai lầm đến thế ?
Ông nên biết người ở Cực Lạc
đều sạch kiến tư phiền não, tiến phá trần
sa hoặc cùng vô minh để
chứng pháp thân, chỉ có tiến tu tuyệt không có sự
tạo tội. Nhưng nay cứ luận
coi họ sẽ sanh về cõi nào ?
Người ở Ta Bà đây niệm
Phật nếu chưa đoạn kiến tư phiền não, nhờ
nguyện lực của Phật mà
được vãng sanh thời sanh về cõi Phàm Thánh Đồng
Cư Tịnh Độ. Một khi đã
sanh Cực Lạc thời kiến tư phiền não sẽ triệt để tiêu
diệt, khác nào chút tuyết
ném vào lò lửa đỏ lập tức liền tan. Kiến tư sạch hết
thời sanh về cõi Phương
Tiện Hữu Dư Tịnh Độ. Bậc phần phá vô minh thời
sanh về cõi Thật Báo Vô
Ngại Trang Nghiêm Tịnh Độ. Vô minh sạch hết,
phước và huệ đã viên mãn
thời sanh về cõi Thường Tịch Quang Tịnh Độ.
Sao ông lại quá lo cho họ
không chỗ sanh để rồi chướng mình ngăn
người không chịu cầu sanh
? Khác nào kẻ quá khờ khạo nghe nói ăn cơm
mắc nghẹn, rồi sợ quá mà
không dám ăn để cam đói chết!
Ông thuật rằng ngài Triệu
Châu nói : Một chữ Phật ta không thích nghe.
Sao ông không thuật luôn
câu dưới : Có người hỏi Hòa thượng có độ người
không ? Triệu Châu đáp :
Phật! Phật!
Ông lại chỉ muốn nắm lấy
câu : Hễ ta niệm Phật một tiếng thời súc miệng
ba ngày. Mà ông quên sót
đoạn : Có người hỏi Hòa thượng thọ sự cúng
dường của nhà vua như thế
sẽ dùng gì để báo đáp ? Triệu Châu bảo : Ta
niệm Phật!
Ông lại quên cả đoạn có
người hỏi : Thập phương chư Phật có thầy hay không ? Triệu Châu đáp : Có. Hỏi :
Thế nào là thầy của chư Phật ?
Triệu Châu đáp : A Di Đà Phật! A Di Đà
Phật!
Ông lại hỏi tại sao chư Sư
trong Thiền tông thường nói ra những lời như
thế ? Ông nên biết rằng
chư Sư khi đối cơ người mà có thốt lời ra, gọi là Cơ
phong, là Chuyển ngữ. Hỏi
ở nơi đáp, đáp ở nơi hỏi. Nếu người học đạo
không biết hồi quang phản
chiếu tự tâm, mà lại một bề suy xét chữ nghĩa,
thời là ăn lấy bã hèm,
đuổi theo đất cục, bao giờ thấy tánh được!
Tôi trong vòng xuất gia đã
hơn ba mươi năm, luôn nghe miệng chư
Tăng truyền câu : Một chữ
Phật ta không thích nghe..., mà những câu
DÙNG NIỆM PHẬT ĐỂ ĐỘ
NGƯỜI, DÙNG NIỆM PHẬT ĐỂ BÁO ƠN
VUA, A DI ĐÀ PHẬT LÀ THẦY
CỦA CHƯ PHẬT thời ít nghe chư Tăng
nói đến.
Và tất cả những câu trên
đều từ miệng ngài Triệu Châu thốt ra, nếu tin
thời phải tin cả, sao lại
tự mâu thuẫn lựa câu tổn mà bỏ câu ích.
Xét về lời của Triệu Châu
đều quy nơi phần của tự mình. Câu không
thích nghe chữ Phật cùng
câu niệm Phật để báo ơn v.v... đều là chuyển ngữ
cả, nếu người nghe trực hạ
thấy được tự tâm, mới biết rằng đạo pháp của
Triệu Châu vượt hẳn thường
tình, lời của Hòa thượng là xuất cách, tất sẽ
siêng lo niệm Phật suốt
ngày không ngớt tiếng.
Bằng không được thấy nghe
như trên, thời chỉ nên nương theo câu niệm
Phật mà dè dặt nơi câu bác
Phật. Theo niệm Phật thời hiện đời thoát khỏi
luân hồi. Còn theo bác
Phật tất sẽ sa địa ngục.
Những người theo câu tổn
mà bỏ câu ích, phải chăng do vì nghiệp trọng
phước khinh, chướng sâu
huệ cạn nó khiến như thế ư! (Cứ nơi người nghe
không tỏ ngộ hiểu lầm mà
gọi là tổn với ích, chớ không phải lời của Tổ Sư
có tổn có ích).
Ông lại nói lời của chư vị
Tổ Sư quyết có thể y cứ, sao ông không y cứ
nơi Tổ Bách Trượng dạy :
TU HÀNH NƯƠNG NIỆM PHẬT LÀ ỔN
ĐÁNG. Quy tắc của Tổ phàm
kỳ đảo bệnh Tăng cùng tống táng vong Tăng
đều hồi hướng cầu sanh Cực
Lạc.
Tổ thứ 14, đức Long Thọ Bồ
Tát chứng Sơ địa vãng sanh Cực Lạc.
Trong các bộ luận của Tổ
soạn ra nhiều chỗ tán dương Tịnh Độ. Như Tỳ Bà
Sa Luận khen pháp môn niệm
Phật cầu vãng sanh là con đường dễ đi mà
chóng đến.
Đức Mã Minh Đại sĩ, Tổ thứ
12, cuối Luận Khởi Tín dạy phương tiện
tối thắng, bảo người niệm
Phật cầu sanh Tây phương, thường hầu Phật A Di
Đà để được trụ bậc bất
thoái chuyển.
Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp, Nhị
Tổ A Nan Đà kiết tập các Kinh về Tịnh độ.
Nếu các Kinh về Tịnh độ
không lợi ích mà có hại cho người đời sau, lẽ đâu
các ngài mù quáng để cho
lưu thông!
Trong những Kinh về Đại
thừa luận thuật và tán dương Tịnh độ. Còn
tạng Tiểu thừa thời tuyệt
không nói đến. Ông toan muốn tin
Tiểu thừa mà
bác bỏ Đại thừa giáo ư!
Lúc Đức Thích Ca thuyết
Kinh A Di Đà, lục phương hằng sa chư Phật
đều hiện tướng lưỡi rộng
dài khuyên chúng sanh nên tín thọ. Ông lại toan
cho rằng chư Phật muốn làm
hại chúng sanh ư!
Nếu cho rằng với Lục Tổ,
Triệu Châu v.v... không thể không tin, thế
thời với các ngài Ca Diếp, A
Nan, Mã Minh, Long Thọ, Thích Ca Mâu Ni,
A Di Đà, lục phương chư Phật
lại càng không thể không tin. Thấy gần
không rõ xa, biết nhỏ
không hiểu lớn, khác nào dân quê chỉ mộ thế lực của
quan huyện, quan quận, mà
không biết đến oai đức của Tổng thống, Hoàng
đế. Như trẻ nhỏ ham tấm
gương đồng mà không đoái hoài đến viên bảo châu
như ý.
THIỀN TỊNH QUYẾT NGHI
Thuật giả: ẤN QUANG Đại sư
Việt dịch: HT. THÍCH TRÍ
TỊNH
Tiết 38.- Cách Đoạn Tuyệt Thị Phi
Hàng phàm phu vì chưa
chứng vào chân tâm bình đẳng, còn ranh giới phân biệt giữa ta và người, nên
trong đời sống, sự hơn thua phải quấy khen chê có đến muôn ngàn, không ai tránh
khỏi. Dù cho chư Phật Bồ Tát vì lòng đại bi thị hiện giữa cõi trần để độ sanh,
cũng phải chịu cảnh thị phi thương ghét. Cổ ngôn có câu:
Thùy nhơn bối hậu vô
nhơn thuyết.
Na cá nhơn tiền bất thuyết nhơn!
Lời này ý nói:
"Không có ai chẳng bị kẻ khác chỉ trích chê bai sau lưng, nhưng ở trước
mặt người ta không nói ra mà thôi." Đây là câu thành ngữ xác thật, do sự
kinh nghiệm của người xưa.
Những sự thị phi làm cho
hành giả, nếu không sáng suốt bình tĩnh, nhiều khi phải xao động sanh phiền
não, rất chướng ngại cho đường tu. Cho nên ở đây nêu ra vấn đề này để tìm cách
phá giải. Muốn dứt trừ thị phi, phải y theo ba sự kiện:
Điều thứ nhứt: phải xét sửa lỗi mình, đừng nhìn nói lỗi người. Ví
như con trâu đen thấy cò trắng đứng trên mình thì để yên; khi con quạ bay đến
đậu lại lấy sừng quơ đuổi; nó không ngờ mình còn đen nhiều hơn con quạ. Phàm
phu cũng thế, thích lời khen, ghét tiếng xấu, ưa bươi móc điều dở của người,
không dè mình cũng nhiều lỗi lầm, chẳng có chi là tốt đẹp! Cho nên nguyên tắc
của người tu là phải tự phản tỉnh xét sửa lấy mình, đừng nên nhìn nói điều dở
của người.
Xét sửa lỗi mình thì càng
ngày càng sáng, nhìn nói lỗi người tất càng gây thêm việc trái oan.
Điều thứ hai: khi bị sự thị phi khinh báng, nên an nhẫn, đừng
tìm cách biện minh. Ví như tờ giấy trắng bị vết mực làm lem, cứ để yên, nó chỉ
dơ một chỗ đó rồi lần lần phai nhạt; nếu lấy đồ lau chùi, tất sẽ hoen ố cả toàn
diện. Luận Niệm Phật Bảo Vương Tam Muội nói: "Bị oan ức chớ cầu biện minh,
nếu biện minh tất oán hận càng sanh."
Bởi người đã cố tâm nói
xấu, ta biện minh tức là cho kẻ đó nói sai, dĩ nhiên sẽ sanh sự oán thù tranh
cãi, mà vô tình lại làm cho quần chúng hay biết, và để ý nghi ngờ mình. Thông
thường, người mới tu hay thấy mình phải kẻ khác quấy. Người tu hơi lâu, thấy
mình và kẻ khác đều có phải có quấy. Người tu càng lâu, duy chỉ thấy mình quấy.
Tại sao thế? - Bởi khi
việc khinh báng xảy ra, nếu hiện tại mình không sai quấy tất kiếp trước cũng
lỗi lầm, nên đời nay phải chịu quả. Giả sử kiếp trước ta không có biệt nghiệp
trực tiếp gây nên lỗi, thì cũng do cộng nghiệp tội ác, mới đồng sanh trong cõi
ngũ trược này.
"Đã mang lấy
nghiệp vào thân.
Cũng đừng trách lẫn trời
gần trời xa."
Lời của cụ Nguyễn Du
nói, cũng thầm hợp với lý đạo.
Điều thứ ba: người tu phải giữ vững lập trường, tin chắc lý
nhân quả, đừng xao động vì tiếng hay dở bên ngoài. Kinh Pháp Cú nói: "Ngọn
núi cao đứng vững giữa cơn giông tố. Người chân chánh an nhiên giữa tiếng thị
phi."
Tất cả tiếng khen chê
bên ngoài không làm cho ta tốt hoặc xấu, siêu hay đọa, mà tốt xấu siêu đọa đều
do nơi ta. Nếu ta gây nhân lành dù người có khinh là xấu xa tội ác, ta vẫn được
siêu thăng. Trái lại, ta gây nhân ác, tuy người quý trọng ngợi khen, ta vẫn
phải chịu đọa lạc. Do hiểu lẽ này, một thiền sư Việt Nam đã viết ra những lời
thi ý tứ rất thanh tân siêu thoát:
Thị phi ngôn trục triêu
hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn!
Hoa lạc, vũ tình, sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Tạm dịch:
Thị phi tiếng rụng theo hoa sớm
Danh lợi lòng băng với bão đêm!
Mưa tạnh, hoa rơi, non vắng vẻ
Chim kêu xuân lại quá bên thềm.
Đừng quan tâm đến danh
lợi thị phi, hãy để cho nó rơi theo hoa sớm, lạnh với mưa đêm, rồi tan biến lần
lần. Kìa một tiếng chim kêu, một mùa xuân đã qua, sao ta không lo tu tập?
Năm thời kiên-cố như sau:
1. Giải-thoát-kiên-cố:
Sau khi Ðức Thế-Tôn niết-bàn, trong 500 năm đầu tiên, đệ-tử của Phật có nhiều
vị chứng quả, được vào cảnh an vui giải thoát. Thời kỳ nầy các phương diện học,
tu, chứng đều thạnh, hành nhơn hiểu sâu lẽ mầu, giữ gìn giới hạnh, một trăm
người tu có đến sáu bảy mươi vị đắc đạo. Bấy giờ trong nhơn gian đầy dẫy những
bậc thánh-hiền.
2. Thiền-định-kiên-cố:
Sang 500 năm thứ hai, hàng Phật-tử xuất-gia, tại-gia tuy ít kẻ chứng đạo như
thời gian trước, song phần nhiều đều thực hành đúng theo lời Phật dạy, đi sâu
vào cảnh giới thiền định. Giai đoạn nầy, trong một trăm người tu, có được sáu,
bảy người chứng đạo.
3. Đa-văn-kiên-cố:
Qua 500 năm thứ ba, đạo căn của chúng-sanh đã cạn cợt
hơn trước, người tu Phật
đa số chỉ thích học rộng nghe nhiều; các phương diện diễn dịch kinh sách, biện
luận đạo lý được thạnh hành khắp nơi. Lúc nầy kẻ thiết thật cầu giải thoát thâm
nhập thiền định, còn ít có người, huống chi là chứng quả. Tuy nhiên, trong muôn
ức người tu, cũng có đôi ba bậc đắc đạo.
4. Tháp-tự-kiên-cố:
Sang 500 năm thứ tư, Phật-giáo đồ phần nhiều hướng về việc cất chùa, xây tháp,
bố thí, tụng kinh để cầu phước báo; về phương diện văn tự rất ít có người,
huống nữa là tu? Thuở xưa, cũng vào khoảng thời gian nầy, bên Trung-Hoa có một
bậc cao tăng là Tĩnh-Công. Sau khi ngài tham thiền ngộ đạo, một vị tôn túc bảo
rằng: “Ngày kia ông ra hoằng hóa, dưới tòa có đến 1.000 tăng chúng, song không
kẻ nào là bậc xuất-gia”.
Quả nhiên, sau Tĩnh-Công
đáp lời yêu thỉnh của Tiền-công, về trụ trì một ngôi chùa, tăng chúng quy tụ
đến số ngàn, song chỉ toàn là hạng tụng kinh để gieo căn lành phước báo ở tương
lai, không có vị nào tham thiền ngộ đạo. Cổ-đức quan niệm rằng: nghĩa chân thật
của “xuất-gia” là phải ra khỏi nhà tam giới, hay ít nữa ra khỏi nhà phiền não,
không phải chỉ ra khỏi nhà thế tục vào cửa chùa, cạo tóc mặc áo cà-sa là đủ.
Cách bốn mươi năm về
trước, những bạn đồng tham với Tĩnh-Công, trong 1.000 người cũng được bảy tám
mươi vị đại ngộ; không ngờ qua một thời gian chẳng bao lâu mà lại có sự sai
biệt dường ấy! Sự kiện nầy tương tợ các sông rạch gặp cơn nước kém, mỗi ngày
mực nước mỗi thấp xuống; căn cơ của chúng-sanh trong thời giảm kiếp cũng như
vậy.
5. Đấu-tranh-kiên-cố:
Đến 500 năm thứ năm, nhơn loại vì ngã chấp nặng, tự ái nhiều, chẳng những ngoài
đời thường xảy ra cảnh tượng tranh đua giết hại lẫn nhau, mà trong đạo cũng lắm
kẻ chen lấn trên đường danh nẻo lợi. Giai đoạn nầy, hàng đệ-tử Phật tuy nhiều,
song đối với Tam-tạng Kinh-điển ít người tin hiểu sâu, ít ai thiết thật vì đạo,
đi đúng với đạo trên phương diện tự lợi lợi tha.
Kinh Kim-Cang nói: “Năm
trăm năm rốt sau” chính là thời kỳ nầy.
Tiết III:- Những Lời Huyền Ký Về Thời Mạt Kiếp
Khi Ðức Thế-Tôn sắp
niết-bàn, Ngài có huyền ký tình trạng trong đời mạt-pháp và lúc chánh-pháp sắp
diệt. Xin dẫn ra đây ít đoạn để cho hàng Phật-tử xuất-gia tại-gia tự kiểm điểm,
gạn bỏ điều ác, tu tập pháp lành.
Trong kinh Đại-Bi,
Đức Phật bảo: “Nầy A-Nan! Khi ta niết-bàn rồi, trong thời gian 500 năm rốt sau,
nhóm người giữ giới, y theo chánh-pháp, lần lần tiêu giảm; các bè đảng phá
giới, làm điều phi pháp, ngày tăng thêm nhiều. Do chúng-sanh phỉ báng
chánh-pháp, gây nhiều ác hạnh, nên phước thọ bị tổn giảm, các tai nạn đáng kinh
khiếp nổi lên.
Bấy giờ có nhiều Tỷ-khưu
đắm mê danh lợi, không tu thân, tâm, giới, huệ. Họ tham trước những y, bát,
thức ăn, sàng tòa, phòng xá, thuốc men, rồi ganh ghét tranh giành phỉ báng lẫn
nhau, thậm chí đem nhau đến quan ty, lời nói như đao kiếm.
Cho nên, A-Nan! Đối với
những vị xuất-gia tu phạm hạnh, thân khẩu ý thực hành đạo từ bi, ông nên cung
cấp những thức cúng dường cho đầy đủ. Vị nào đối với các phạm hạnh hoặc thấy,
hoặc nghe, hoặc tin, hoặc làm, hoặc nhiều, hoặc ít, ông nên làm thế nào cho họ
không khởi lòng não loạn, nên vâng giữ điều nầy!
Tại sao thế? Vì trong cõi
ngũ trược vào thời mạt kiếp, có nhiều sự khổ nạn như: đói, khát, giặc, cướp,
nắng hạn, bão lụt, các loài trùng phá hại mùa màng, tóm lại có nhiều nhân duyên
làm cho chúng-sanh bị xúc não.
A-Nan! Lúc bấy giờ có các
hàng trưởng-giả, cư-sĩ, tuy bị nhiều sự khổ não bức thiết, song vẫn sanh lòng
tịnh tín, cung kính tôn trọng ngôi Tam-bảo, bố thí, giữ giới, tụng kinh, tu các
công đức, khuyên người y theo Phật-pháp làm lành. Do thiện căn đó, khi mạng
chung họ được sanh về Thiên-đạo, hưởng các điều vui.
Còn các Tỷ-khưu ác kia,
ban sơ dùng đức tin, tâm lành, bỏ tục xuất-gia; nhưng sau khi xuất-gia, họ lại
tham trước danh lợi, không cố gắng tu hành, nên kết cuộc bị đọa vào ác đạo”...
Kinh Đại-Tập nói: “Trong đời mạt-pháp, có những vua, quan,
cư-sĩ ỷ mình giàu sang quyền thế, sanh tâm kinh mạn, cho đến đánh mắng người
xuất-gia. Nên biết những kẻ gây nghiệp ấy, sẽ bị tội đồng như làm cho thân Phật
ra huyết...”
Kinh Ma-Ha-Ma-Gia nói: “Khi đấng Nhất-thiết-trí vào Niết-bàn rồi,
một trăm năm sau, có Tỷ-khưu Ưu-Ba-Cúc-Đa, đủ tài biện thuyết như Phú-Lâu-Na,
độ vô lượng chúng. Hai trăm năm sau, có Tỷ-khưu Thi-La-Nan-Đà, khéo nói pháp
yếu, độ mười hai ức người trong châu Diêm-Phù. Ba trăm năm sau, có Tỷ-khưu
Thanh-Liên-Hoa-Nhãn thuyết pháp độ được nữa ức người. Bốn trăm năm sau, có
Tỷ-khưu Ngưu-Khẩu thuyết pháp độ được một vạn người.
Năm trăm năm sau có
Tỷ-khưu Bảo-Thiên thuyết pháp độ được hai vạn người, và khiến cho vô số
chúng-sanh phát tâm Vô-thượng-bồ-đề. Đến đây thời kỳ chánh-pháp đã chung mãn.
Sáu trăm năm sau, 96 thứ
ngoại-đạo phục hưng, nhiều tà thuyết nổi lên
phá hoại chánh-pháp. Lúc
ấy có Tỷ-khưu Mã-Minh ra đời, dùng tài huệ biện
hàng phục ngoại giáo. Bảy
trăm năm sau, có Tỷ-khưu Long-Thọ ra đời, dùng
sức chánh trí xô ngã cột
phướn tà kiến, đốt sáng ngọn đuốc Phật-pháp. Tám
trăm năm sau, hàng
xuất-gia phần nhiều tham trước danh lợi, giải đãi buông
lung, trong trăm ngàn
người tu, chỉ có một ít người đắc đạo. Chín trăm năm sau,trong giới tăng ni,
phần nhiều là hạng nô tỳ bỏ tục xuất-gia. Một ngàn năm sau, các Tỷ-khưu nghe
nói pháp bất-tịnh-quán, pháp-sổ-tức, buồn chán không thích tu tập, trong trăm
ngàn người chỉ có ít người được vào chánh định.
Từ đó về sau, lần lần hàng
xuất-gia hủy phá giới-luật, hoặc uống rượu, hoặc sát sanh, hoặc đem bán đồ vật
của ngôi Tam-bảo, hoặc làm hạnh bất tịnh, nếu có con thì trai làm tăng, gái làm
ni, chỉ còn số ít người biết giữ giới hạnh, gắng lo duy trì và hoằng dương
chánh giáo.
Khi áo cà-sa của tăng ni
biến thành sắc trắng, đó là triệu chứng Phật-pháp sắp diệt...”
Trong kinh
Pháp-Diệt-Tận, Đức Phật bảo: “Về sau, khi pháp của ta sắp diệt, nơi cõi ngũ
trược nầy tà đạo nổi lên rất thạnh. Lúc ấy có những quyến thuộc ma vào làm
Sa-môn để phá rối đạo pháp của ta. Họ mặc y phục như thế gian, ưa thích áo
cà-sa năm sắc, ăn thịt uống rượu, sát sanh, tham trước mùi vị, không có từ tâm
tương trợ, lại ganh ghét lẫn nhau.
Bấy giờ có các vị Bồ-Tát,
Bích-Chi, La-Hán vì bản nguyện hộ trì Phật-pháp, hiện thân làm Sa-môn, tu hành
tinh tấn, đạo hạnh trang nghiêm, được mọi người kính trọng. Các bậc ấy có đức thuần
hậu, từ ái, nhẫn nhục, ôn hòa, giúp đỡ kẻ già yếu cô cùng, hằng đem kinh tượng
khuyên người phụng thờ đọc tụng, giáo hóa chúng-sanh một cách bình đẳng, tu
nhiều công đức, không nệ tổn mình lợi người. Khi có những vị Sa-môn đạo đức như
thế, các Tỷ-khưu ma kia ganh ghét phỉ báng, vu cho những điều xấu, dùng đủ cách
lấn áp, xua đuổi, hạ nhục, khiến cho không được ở yên.
Từ đó các Tỷ-khưu ác càng
lộng hành, không tu đạo hạnh, bỏ chùa chiền điêu tàn hư phế, chỉ lo tích tụ tài
sản riêng, làm các nghề không hợp pháp để sinh sống, đốt phá rừng núi làm tổn
hại chúng-sanh không có chút từ tâm. Lúc ấy có nhiều kẻ nô tỳ hạ tiện xuất-gia
làm tăng ni, họ thiếu đạo đức, dâm dật tham nhiễm, nam nữ sống lẫn lộn,
Phật-pháp suy vi chính là do bọn nầy.
Lại có những kẻ trốn phép
vua quan, lẫn vào cửa đạo, rồi sanh tâm biếng nhác không học không tu. Đến kỳ
tụng giới trong mỗi nửa tháng, họ chỉ lơ là gắng gượng, không chịu chuyên chú
lắng nghe.Nếu có giảng thuyết giới luật, họ lược bỏ trước sau, không chịu nói
ra hết.
Nếu có đọc tụng kinh văn,
họ không rành câu, chữ, không tìm hỏi bậc cao minh, tự mãn cầu danh, cho mình
là phải. Tuy thế, bề ngoài họ cũng ra vẻ đạo đức, thường hay nói phô, để hy
vọng mọi người cúng dường. Các Tỷ-khưu ma nầy sau khi chết sẽ bị đọa vào Địa-ngục,
Ngạ-quỷ, Súc-sanh trải qua nhiều kiếp. Khi đền tội xong, họ thác sanh làm người
ở nơi biên địa, chỗ không có ngôi Tam bảo.
Lúc Phật-pháp sắp diệt
người nữ phần nhiều tinh tấn, ưa tu những công đức.
Trái lại, người nam phần
nhiều kém lòng tin tưởng, thường hay giải đãi khinh
mạn, không thích nghe
pháp, không tu phước huệ, khi thấy hàng Sa-môn thì rẻ rúng chê bai, xem như đất
bụi. Lúc ấy, do nghiệp ác của chúng-sanh, mưa nắng không điều hòa, ngũ sắc hư
hao, tàn tạ, bịnh dịch lưu hành, người chết vô số.
Thời bấy giờ, hàng quan
liêu phần nhiều khắc nghiệt tham ô, lớp dân chúng lại nhọc nhằn nghèo khổ, ai
nấy đều mong cho có giặc loạn. Trong thế gian lúc ấy khó tìm được người lương
thiện, còn kẻ ác thì nhiều như cát ở bãi biển, đạo đức suy đồi, chư thiên buồn
thương rơi lệ.
Nầy A-Nan! Lúc đạo pháp ta
sắp diệt, ngày đêm rút ngắn, con người đoản mệnh, nhiều kẻ mới bốn mươi tuổi,
tóc trên đầu đã điểm bạc. Về phần người nam, bởi nhiều dâm dật nên hay yểu
chết, trái lại người nữ sống lâu hơn. Lúc ấy có nhiều tai nạn nổi lên, như giặc
cướp, bịnh tật, bão lụt, nhơn dân hoặc không tin hiểu đó là nghiệp báo, hoặc vì
sống quen trong cảnh ấy, xem như là việc thường.
Bấy giờ nếu có bậc Bồ-Tát,
Bích-Chi, La-Hán dùng bi tâm ra giáo hóa, do nghiệp ác của chúng-sanh và sức
ngoại ma xua đuổi, cũng ít ai đến dự pháp hội. Còn bậc tu hành chân chánh, phần
nhiều ẩn cư nơi núi rừng xa vắng, giữ đời sống an vui đạm bạc, được chư thiên
hộ trì. Khi nhơn thọ giảm còn 52 tuổi, áo cà-sa của hàng Sa-môn đổi thành sắc
trắng, kinh Thủ-Lăng-Nghiêm và
Bát-Chu-Tam-Muội tiêu diệt trước, các kinh khác lần lần
diệt sau, cho đến không còn văn tự.
Nầy A-Nan! Như ngọn đèn
dầu trước khi sắp tắt, ánh đèn bỗng bừng sáng lên
rồi lu mờ và mất hẳn.
Đạo-pháp của ta đến lúc tiêu diệt cũng có tướng trạng như thế. Từ đó về sau
trải qua ức triệu năm, mới có Phật Di-Lặc ra đời giáo hóa chúng-sanh”.
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
tự Liên Du
Một câu A Di Ðà
Phương tiện cực mầu lạ
Nhiếp khắp hết căn cơ
Rẽ thông vào Bát Nhã.
(Nhứt cú Di Ðà
Danh dị phương tiện
Phổ nhiếp quần cơ
Bàng thông nhất tuyến.)
LƯỢC GIẢI
Ấn Quang Ðại Sư nói: "Tu các môn khác phải nhiều đời mới
thoát luân hồi, và theo như Khởi Tín Luận thì phải trải qua một muôn đại kiếp
tu hành liên tục mới vượt lên ngôi Bất Thối Chuyển. Ví như quan chức phải từ
phẩm bậc nhỏ lần lượt thăng đến ngôi Tể Tướng.
Riêng môn Niệm Phật là
phương tiệm mầu lạ để mau thành Phật một đời được đới nghiệp vãng sanh thoát
khỏi luân hồi, một kiếp đã bước lên ngôi Bất Thối Chuyển. Ví như Thái Tử
khi mới sanh ra, đã tôn quý vượt hẳn quần thần".
Môn Niệm Phật lại nhiếp tất
cả căn cơ, dưới từ loài quỷ súc, hạng ngu tối dốt nát tật nguyền, trên đến bậc
Ðẳng Giác Bồ Tát như Văn Thù Phổ Hiền cũng có lời nguyện cầu sanh Tịnh độ.
Chữ "nhất tuyến"
đây là chỉ cho môn Thiền Trực Chỉ, tức đường lối thẳng vào Bát Nhã chân tâm.
Ngài Triệt Ngộ dùng từ ngữ này, bởi ngài là một "đại thiền sư".
Lại "nhất
tuyến" cũng hàm chỉ cho đường lối đặc sắc nhiệm mầu của môn Tịnh Ðộ.
Diệu-Không Đại Sư
(Đại sư họ Trịnh, người ở
Giang Đô, lúc thiếu thời Ngài học Nho, thường đồng với Quán Như Pháp sư, Dương
Như Sơn, Hứa Vân Hư, thương nghị khắc đại tạng kinh. Kế đó Ngài xuất gia, tự
hiệu là Khắc Kinh Tăng. Trong 15 năm, Đại sư đã khắc hơn ba ngàn quyển.
Sau khi Ngài tịch ba năm,
bộ kinh Đại Bát nhã mới hoàn thành. Đại sư giữ giới tinh nghiêm, quá giờ ngọ
không ăn, thuở sanh bình trứ thuật rất nhiều, sau hợp lại thành pho: Lâu các
tòng thơ. Trong ấy phần nhiều là những sách xiển dương tông Tịnh độ.
Ngài cảm hóa người rất
đông, đa số là kẻ trọng vọng như ông Tưởng Nguyện Lượng v.v...Nhà Thanh năm
Quang Chữ thứ 6, Đại sư niệm Phật mà tịch, hưởng 55 tuổi.)
Đại sư nói: "Phép
quán không dễ thành tựu, giới luật cũng chưa dễ giữ tròn, tu phước chẳng phải hôm
sớm có thể thành công, sự diệu ngộ chẳng phải kẻ độn căn có thể làm được. Còn
đại nguyện bền chắc lại càng ít có người!
Nếu không do nơi chỗ
chân thật trì danh tìm nẻo thoát ly, tất phải chìm trong biển khổ, hằng chịu
luân hồi, ngàn Phật dù từ bi cũng khó cứu độ! Huống chi, phép trì danh nhiếp cả
ba căn, không có phương tiện nào hay hơn đây nữa!
Người niệm Phật, thì không
được nói chuyện tạp hoặc nghĩ ngợi bông lông. Nếu lỡ có phạm, phải suy xét: ta
là người niệm Phật, không nên như thế, rồi niệm Phật vài tiếng để tự cảnh tỉnh
mà đánh tan điều ấy.
Phép "tùy thuận trì
danh" là khi hôn trầm thì đi kinh hành, lúc tán loạn thì trở lại ngồi,
hoặc đứng, hoặc nằm, đều tùy tiện mà trì niệm, làm sao cho câu niệm Phật đừng
xa lìa. Đây là yếu thuật để hàng phục tâm ma.
Khi gặp cảnh thuận,
nghịch, khổ, vui, thị, phi, đắc, thất, dơ, sạch, tất cả trường hợp, cần phải
giữ một câu niệm Phật cho chắc. Nếu không như thế, tất bị cảnh duyên, hiệu Phật
liền gián đoạn, há chẳng phải đáng tiếc lắm ư?
Khi đối trước tượng
Phật, phải xem tượng ấy cũng như Phật thiệt, mắt nhìn tâm niệm, cung kính chí
thành. Lúc không ở trước tượng cũng nên thành kính như lúc đối trước Phật
tượng. Niệm Phật như thế rất dễ cảm thông, nghiệp ác cũng mau tiêu diệt.
Tất cả người khổ trong
đời, vì thân tâm không được rỗi rảnh, nên khó tu hành. Nay ta có phần an nhàn,
lại được nghe pháp môn niệm Phật, vậy phải cố gắng hành trì nối tiếp nhau, khi
chuyển tưởng, lúc nhiếp tâm, mới không uổng ngàn vàng tất bóng! Nếu tu hành lôi
thôi tất khó có kết quả, như thế là phụ rãy bốn ân, luống qua ngày tháng, một
mai vô thường chợt đến, lấy gì mà chống đối ư?
Người tu nếu vị quả khổ,
tất đời trước hoặc đời nay đã gây nhân xấu. Cho nên chịu một phần khổ tức là
trả một phần ác của mình. Vậy không nên oán trách trời người sao bất công, buồn
thời vận sao điên đảo, mà chỉ hổ thẹn mình không sớm tỉnh ngộ tu hành thôi. Mỗi
khi nghĩ đến điều ấy, vừa kinh sợ cho ác báo, vừa thương cảm cho phận mình, mỗi
câu niệm Phật đều từ nơi gan tủy phát ra, như thế mới là chơn cảnh niệm Phật.
Trước cảnh ngang trái
khổ đau mà không bi thương thì chẳng phải nhân tình, song nếu chỉ luống bi
thương, há lại là người rõ thông Phật tánh? Cho nên đã bi thương thì phải tìm
phương thoát khổ, nghĩ chước cứu độ mình và tất cả chúng sanh, như thế mới
không đến nỗi vô ích. Nên biết sở dĩ Phật được gọi là đấng đại bi vì Ngài có đủ
hùng lực, trí huệ, cứu chúng sanh đau khổ. Ta dùng bi tâm mà niệm Phật, cầu
lòng bi của Phật cứu khổ cho ta, sự trì niệm như thế khẩn thiết biết dường bao!
Khi niệm Phật đã thuần
thục, thì trong sáu trần chỉ có thinh trần, năng dụng của sáu căn đều gởi nơi
nhĩ căn, không còn biết thân mình đang vi nhiểu, lưỡi mình đang uốn động, ý có
phân biệt hay không, mũi thở ra hay vào, mắt mình nhắm hay mở. Khi ấy sự viên thông của đức Quán Âm, Thế Chí chính là
một, căn tức là trần, trần tức là căn, căn trần tức là thức, mười tám giới dung
hợp thành một giới.
Khi làm xong một việc,
vừa nói xong một lời, chưa khởi tâm niệm Phật, mà một câu hồng danh cuồn cuồn tuôn
ra, đó là triệu chứng Tam muội dễ thành tựu vậy.
Tu tịnh nghiệp, cảnh cô
tịch chừng nào hay chừng nấy, tiếng niệm cao thấp mau chậm tùy nghi, làm sao
cho hợp thành một phiến. Nên biết khi ấy thân tuy đơn chiếc mà tâm chẳng lẻ
loi, vì tâm của chư Phật cùng đức Di Đà chưa từng tạm rời ta, ta khởi niệm thì
Phật biết, mở miệng thì Phật nghe, lo gì sự cô tịch?
Bịnh là cái bước đến sự
chết, chết là cửa ải đưa đến cảnh tịnh uế Thánh phàm. Trong khi bịnh, phải
tưởng là mình sắp chết, chuyên niệm hiệu Phật, quyết đợi lúc mạng chung, như
thế sẽ có quang minh tiếp dẫn mà toại bổn nguyện vãng sanh của mình.
Nếu trong lúc ấy tạm
đình câu niệm Phật, thì tâm luyến ái, buồn rầu, sợ hãi, tất cả tạp niệm đều
hiện ra, như thế làm sao vượt qua nẻo sanh tử?
Thế nên lúc bịnh nguy
phải ghi nhớ bốn chữ A Di Đà Phật nơi tâm chớ quên, và những kẻ xung quanh cũng
phải niệm bốn chữ ấy để thường thường nhắc nhở người bịnh. Nên biết trăm kiếp
ngàn đời, siêu hay đọa, toàn do ở một niệm trong khi ấy. Tại sao thế? Vì sáu
nẻo luân hồi đều do một niệm làm chủ. Nếu một niệm chuyên chú nơi Phật, thì hình tuy hoại mà
thần không hoại, liền nương theo đó mà vãng sanh.
Hỡi người tu tịnh
nghiệp! Nên nhớ bốn chữ A Di Đà Phật nơi lòng đừng quên!
Niệm Phật Phải Đoạn Tuyệt
Phiền Não
Thanh sắc tài danh thế lợi
trêu
Bể trần chìm nổi kiếp vô liêu!
Giai nhân kiệt sĩ chừ đâu vắng?
Dấu sử nghìn thu để hận nhiều!
Hươu Tần tranh đuổi khắp giang san
Cỏ xót, mây thương, cuộc thảm tàn!
Lầu Hán vui trăng ai đó mấy?
Hơn thua thù hận thuở nào tan?
May gặp Như Lai ánh huệ không
Nước dương quyết rửa sạch mê lòng!
Đã lên non pháp quên tìm báu
Lần lựa đi về tiếc uổng công!
Vượt hết non cao vực thẳm rồi
Bên đường bỗng thấy sắc hoa tươi
Mới hay siêu đọa do mình cả
Mà cõi mười phương cũng huyễn thôi.
BÀI SỐ 57
Ẩn tu ý Tổ cảm thông tri
BI TRÍ tuỳ cơ độ Mạt-thì
Đâu phải chấp đua như thế
tục
Mà riêng khen Tịnh đạo
huyền vi.
NHƯ Ý : Ấn-Quang Pháp sư nói: Chư Phật thấy tất cả chúng
sanh là Phật, nên tìm đủ cách để độ thoát Chúng sanh. Chúng sanh thấy Chư Phật
là Chúng sanh, nên tìm đủ cách để làm tổn hại.
Chư Phật Bồ tát đã chứng
đạo lý Chân-ngã Vô-ngã, nhận rõ tất cả Chúng sanh Hữu tình cho đến vạn vật VÔ
TÌNH đều là bản thân bản thể của mình, cho nên vận tâm TRÍ BI, mở muôn cửa Pháp
khi Quyền khi Thật, lúc Ẩn lúc Hiện toàn vì thương xót độ sanh, Tuyệt không có
Ý hơn thua tranh chấp.
Thở xưa vì người học Đạo
phần đông Căn-tánh sáng lẹ, lại nghiệp nhẹ Tâm-thuần hợp với tông Thiền,
có thể một đời được ngộ Đạo chứng Đạo, nên chư Bồ Tát Tổ Sư hết sức tuyên
dương về TÂM tông.
Giả sử đời này Tu chưa
được tỏ Ngộ, thì Chánh pháp còn Thạnh, bậc Tri thức còn đông, trong các Kiếp
sau cũng lần đi đến chỗ ngộ Chứng, lúc ấy Thiền Tông được lưu truyền rất thạnh,
vượt bỏ các môn phái khác lại đằng sau, đến khi không còn nhìn thấy TÔNG TÍCH
NGUỒN GỐC nữa.
Đến Thời Mạt Pháp,
quần chúng căn cơ càng lúc càng Kém-tối, cảnh đời và đạo Đức càng lúc càng Suy-mòn,
chư cổ Đức quán biết mới tuyên dương Tịnh Tông để cứu thời Mạc-hậu, lúc đầu vì
thế lực và tập quán môn tu thiền còn quá thạnh, các ngài phải thì hiện trước
NGỘ CHỨNG về Thiền, sau mới Tuyên Dương Tịnh Độ, tuy thế vẫn còn bị bác phá.
Lần lần vì Tịnh Pháp hợp
thời cơ, nên thế lực càng lúc càng song hành với Thiền, rồi lấn lướt hơn bên
Thiền, nên các Thiền-giả kém suy hiểu, mới phát khởi mối tranh chấp, cảnh
phân hóa nguyên do từ đó.
Đời Lương Võ Đế vì
luận đạo không hợp cơ, Đức Đạt Ma Tổ Sư bỏ lên ẩn trên non Thiếu Thất, vua
Lương-võ hỏi ngài CHÍ CÔNG, một vị Cao Tăng Đắc Đạo vị đó là ai?
Chí-Công đáp, đó
là hóa thân của Bồ Tát Quán-Thế-Âm, bệ hạ không thể mời thỉnh trở về được đâu,
lại tương truyền rằng ngài Bát Nhã Đa La, tổ thứ 27 của Thiền Tông ở Ấn Độ, là
hóa thân của Đại-Thế-Chí Bồ Tát.
Đức Quán-Âm, Thế-Chí phụ
Đức Phật A-Di-Đà tiếp dẫn chúng sanh về Cực Lạc, chính thức là nhân vật
của Tịnh-độ mà khi ỨNG HÓA, vì thuận theo căn cơ để độ sanh cũng PHẢI ỨNG HÓA
trong Thiền-Tông, xem Thế thì biết chư Bồ-tát Tổ-sư đâu có phân biệt ?
Tiết 3.- Sự Chuyển Hướng Từ
Thiền Sang Tịnh
Từ xưa, môn Thiền Trực Chỉ
rất thạnh hành ở Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản. Nước Việt Nam ta dân tánh
giàu về trực giác, lại được ảnh hưởng bởi Phật Giáo Trung Quốc, nên khi xưa
Thiền Tông hầu như ở ngôi vị độc tôn. Nhất là vào đời Lý, Trần, tăng ni có cả
nửa thiên hạ và hầu hết đều tu Thiền.
Thời ấy Phật Giáo ở Việt
Nam cực thạnh, nhiều cảnh già lam tăng chúng vân tập rất đông. Bởi thế nên mới
có lời truyền ngữ: “Tăng phòng tam thiên ốc,
sái tảo thất thập phu”. Câu này nói lên sự
hưng thạnh của Phật Giáo bấy giờ qua ý nghĩa: “Phòng chư tăng nhiều tới ba ngàn
gian, mỗi buổi sáng phải dùng đến bảy mươi người mới quét dọn kịp”.
Nhưng cơ duyên cũng theo
thời mà chuyển biến. Ở Trung Hoa từ đời Tống về sau, chư tôn túc như các ngài:
Nhất Nguyên, Thiên Như, Ngẫu Ích, Triệt Ngộ, Liên Trì... sau khi tham ngộ Thiền
Tông, quán xét thời cơ, vì lòng thương xót lợi sanh, hết sức hoằng dương pháp
môn Tịnh Độ. Sự lần lần chuyển hướng từ Thiền sang Tịnh khởi sanh từ lúc đó.
Khi ấy có rất nhiều vị thiền đức khác tuy bề ngoài truyền bá tông Thiền, nhưng
bên trong lại mật tu Tịnh Độ, để bảo đảm không thối đọa.
Đây có thể gọi là thời kỳ
Thiền Tịnh song hành. Cho nên trong một ngôi chùa trước kia chỉ có Thiền Đường,
bây giờ lại thêm Niệm Phật Đường để cung ứng cho chư tăng tu tập. Bắt đầu từ
đời Ngụy, Minh, Thanh về sau, thế lực của Thiền Tông lần suy kém, bởi ít người
tu chứng. Trái lại, môn Niệm Phật lại lần chiếm ưu thế, tăng tục nhiều kẻ tu Tịnh
Độ được vãng sanh. Bây giờ tuy Thiền Tông vẫn lưu hành, nhưng trên thật tế
chính là thời kỳ Tịnh Độ đã nắm quyền hướng dẫn.
Bởi ảnh hưởng đó mà ở Việt
Nam, môn Niệm Phật hầu như phổ cập. Sau này do ảnh hưởng của sự chấn hưng Phật
Giáo trong nước và sự hoằng hóa của chư Tăng Ni du học từ Nhật Bản và các xứ
Nam Tông Phật Giáo trở về, Thiền Tông Việt Nam có lẽ sẽ tái phục. Nhưng sự thật
phần đông hành giả duy hợp tu về Giáo như Chỉ Quán Thiền, hoặc Tứ Thiền Bát
Định, chớ khó nỗi tham cứu thoại đầu thật hành môn Thiền Trực Chỉ của bên Tông như
thuở xưa.
Có kẻ bảo: Căn tánh của ta
vị tất chẳng bằng cổ nhơn, chỉ tại ta tự khinh nên không cố gắng. - Sự tự lực
cố gắng tuy lúc nào cũng đáng khuyến khích, nhưng lời này thật ra không đúng.
Nếu cãn tánh phần đông chẳng kém, tại sao Phật nói có ba thời kỳ: Chánh Pháp,
Tượng Pháp và Mạt Pháp? Và tại sao trong các kinh khác cũng nói đến năm thời
kiên cố, từ Chánh Pháp Kiên Cố cho đến Đấu Tranh Kiên Cố? Vả lại, tam tạng kinh điển thời nay tăng thêm nhiều và
đầy đủ hơn xưa, tại sao người tu chứng tuyệt ít? Có phải do thời nay căn cơ của quần chúng phần
đông đều yếu kém chãng?
Ấn Quang đại sư bảo: “Như
mùa Hạ mặc áo vải, mùa Ðông mặc áo bông; sự tu hành cũng thế, không thể trái
thời tiết cơ duyên được. Dù đức Đạt Ma tổ sư tái hiện ngay lúc này, nếu muốn
hợp thời cơ để cứu độ chúng sanh mau được giải thoát, cũng không có pháp nào
hơn môn Niệm Phật”. Thế nên nếu thuyết pháp không hợp cơ, tất chúng sanh bị
chìm trong biển khổ (Thuyết pháp bất đậu cơ,
chúng sanh một khổ hải).
Kính khuyên các bậc đồng
nhơn, tuy tu môn khác, cũng nên lấy Tịnh Độ làm chỗ chỉ quy. Còn như nếu thấy
mai trắng chẳng kém cúc vàng, bút giả cũng xin hết lòng tùy hỷ!
Một câu A Di Ðà
Là Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế.
Còn vượt khỏi bách phi
Huống rơi vào tứ cú!
( Nhứt cú Di Ðà
Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế.
Thượng siêu bách phi
Khởi lạc tứ cú! )
LƯỢC
GIẢI
Trước tiên xin giải qua về
Tứ Cú, Bách Phi.
Tứ Cú là bốn câu gồm: Có, không, cũng có cũng không, và
chẳng phải có chẳng phải không.
Bách Phi: Bách là ước số lấy một trăm làm giới hạn. Phi là
chẳng phải, tiêu biểu cho nghĩa bác phá. Ðây nói chân lý vốn phi hữu, phi vô,
phi thường, phi đoạn, phi sanh, phi diệt, phi nhứt, phi dị, phi lai, phi khứ,
phi hữu biên, phi vô biên v.v... cho đến cả một trăm thứ phi.
Tại sao thế? Bởi lý tánh ấy
tuyệt ngôn luận, dứt tâm tư, chẳng thể dùng lời nói và sự suy nghĩ mà viện đến
và diễn tả được.
Còn Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế là thế nào? Ðây là nghĩa chân thật bậc nhứt, bên Tông mệnh
danh là: Một bước trên đầu sào trăm trượng, bên Giáo gọi là: Bất Nhị pháp môn
hay Thánh Ðế.
Xin mượn lời vấn đáp của
vua Lương Võ hỏi tổ Ðạt Ma để tạm giải thích:
Hỏi: "Bạch ngài! Sao gọi là Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế hay
Thánh Ðế?".
Ðáp: "Rỗng rang không tánh!".
Quy kết lại, ý bài kệ trên nói: Một câu A Di Ðà, nếu vận dụng đến mức cùng tột,
hành giả sẽ lìa tứ cú, vượt khỏi bách phi, đi ngay vào Ðệ Nhứt Nghĩa Môn, tức thể nhập chân tâm vậy.
Qua năm bài kệ liên quan nhau nói trên, từ diễn dịch cho đến quy nạp, ở điểm
nào câu niệm Phật cũng dung thông không ngại. Nhưng luận về phần căn bản, các
lối chấp của nhà tu học Phật pháp xưa nay chẳng ngoài hai điểm: Có và Không.
Bước đầu tiên vào đạo, và
cũng thuộc phần đa số, người tu Phật thường hay chấp Có. Khi làm các công đức
lành, họ sanh niệm trước tướng, đôi khi dẫn đến sự tự mãn khoe khoang. Lối chấp
này gây trở ngại cho bước ngộ đạo, tiến trình đến cảnh giới giải thoát.
Sau khi đi sâu thêm vào biển Phật pháp, xem đến kinh Kim Cang, Pháp Bảo Ðàn,
hoặc nghiên cứu về thiên lý cao siêu, hầu hết lại rơi vào lối chấp Không. Do
đó, có nhiều kẻ đã không xem trọng điểm ăn chay, giữ giới, bác bỏ sự niệm Phật tụng
kinh cùng các việc làm lành, cho là thấp kém trước tướng, chẳng hợp với trình
độ cao siêu của lý Không.
Họ đâu hiểu lý Không của
Ðại thừa là làm tất cả công đức hữu vi mà không chấp thấy có tướng làm. Chẳng
hạn như kinh Kim Cang bảo Bồ Tát bố thí chẳng nên trụ tuớng, là không chấp thấy
mình là người thí cho, đây là vật trao giúp, kia là kẻ được ân huệ nhận lãnh.
Bố thí như thế công đức mới vô hạn lượng, rộng lớn như hư không. Trong ấy cũng
nói về tụng kinh này sẽ được công đức như thế nào?
Vậy thì kinh Kim Cang, một
áo điển diễn đạt về lý Không của Ðại Thừa đâu từng bác bỏ việc tụng kinh, bố
thí?
Trong hai lối chấp trên,
chấp Có hãy còn gốc luân hồi, song chấp với những việc lành, cũng sẽ được phước
báu cõi Nhơn Thiên. Ðến như chấp Không, bác phá tất cả sự tướng thì quả thật là
tai hại. Kinh Phật gọi đó là tội phá chánh kiến, bởi vì bài bác nhân quả. Nó
gây sự lầm lạc cho mình và người hủy hoại Phật pháp, khiến cho đương nhơn dễ sa
vào địa ngục!
Ðây là hiện tượng mà các
bậc thiện tri thức gọi là nhức đầu đau tim (thống tâm tật thủ) vì nó gây tổn thương rất nhiều cho Phật giáo. Chấp Không
như thế lại dễ khiến cho loài Không Ma dựa vào tác hại, làm hành giả đảo điên.
Bút giả đã gặp một Thượng
Tọa thuật lại câu chuyện như sau: Theo ý tôi, vị Thượng Tọa ấy nói, việc tham thiền
chỉ thích hợp riêng cho một số ít người bậc thượng căn. Thời nay, phần đông
hàng tăng, tục khi tu, nên lấy niệm Phật làm phần chánh, tụng kinh hoặc trì chú
làm phụ. Bởi tham thiền mà chưa thể thường nhiếp tâm vào định, hoặc hiểu sai
lầm rồi trụ tâm nơi cái ngoan không ám muội, tất sẽ bị loài không ma dựa vào.
Chính tôi đã mục kích vài ba người trong trường hợp này.
Ðộ nọ, có một sư cô đến gặp
tôi đảnh lễ, trình thưa rằng: "Huynh đệ con hơn mười người, trước kia đã
thọ giáo với một vị tự xưng là Khán Không thiền sư. Vị này bảo phải gạt hết
tướng có, trụ tâm vào nơi không. Huynh đệ con thật hành theo một thời gian, về
sau tất cả đều bị loài ma ám nhập, nói việc vị lai quá khứ, luận thuyết toàn là
lý Không. Riêng phần con, nó đã dựa vào hơn mười năm. Hiện thời khi gặp tượng
hay kinh Phật, nó giục bảo phải đập phá xé bỏ. Gặp hàng Tăng Ni, lại giục bảo
phải chửi mắng, nói những lời thô tục.
Con tự kềm hãm chống trả
lại, tìm nhiều bậc Pháp sư cầu cứu, song họ đều nói con ma này uy lực cao không
thể trục xuất ra được.
Nay con đến đây đảnh lễ cầu
xin thầy có phương pháp chi giải thoát dùm con!".
Tôi nghe nói, bảo sư cô ấy
tạm nằm nơi ghế dựa, rồi ngồi phía sau để tay kiết ấn nơi đảnh mà trì chú Chuẩn
Ðề. Tụng một lát, cô ấy chuyển lời nói con ma năn nỉ xin tha, vì nó ra ngoài bơ
bơ không nơi nương tựa. Tôi không chấp thuận, tiếp tục trì chú mãi. Ban sơ, sư
cô nghiêng trở, dằn vật mình, kế tiếp lần lần thở gấp gần như đứt hơi. Tôi thấy
thế liền dừng lại, vì biết nếu cứ trì tụng tiếp, nó có thể liều chết giết người
bịnh trước, phó mặc cho sự thể ra sao thì ra. Ðã có vài vị pháp sư bị cảnh ma
giết người bịnh trong trường hợp này.
Tối hôm ấy, tôi trì chú,
cầu nguyện xin chư thần giúp đỡ. Hơn một giờ đêm, trong giấc mơ tôi thấy có hai
vị Kim Cang sứ giả. Một vị thân màu đen như sắt, khôi giáp toàn trắng; vị kia
thân trắng như bạc, khôi giáp toàn đen. Trước tiên, Thiết sứ giả lấy ra một
binh khí lạ dường như xa luân múa lên. Giây phút, từ binh khí ấy phát tiếng kêu
vo vo, phóng ánh sáng lạ mắt. Kế tiếp vị Ngân sứ giả đưa tay ra ngăn lại bảo:
"Hãy từ từ xem nó có chịu cải hối hay không đã!".
Tới đây, cảnh tượng đều ẩn
mất. Thức tỉnh, tôi ngẫm nghĩ biết chư vị mách bảo: Nên khuyến hóa hơn là dùng uy lực gây oan trái.
Sáng ra tôi thuyết giáo chỉ
rõ lối chấp sai lầm không lợi ích cho con ma nghe, nó xin sẽ chuyển hướng tu
theo chánh pháp. Riêng phần sư cô nọ, tôi bảo vì loài ma đã dựa vào quá lâu,
nên thể phách của nó có phần dính liền với thể xác. Nếu vội trục xuất, e cho
thân của người bịnh sẽ bị tổn. Tôi truyền ấn và chú Chuẩn Ðề, bảo cô nên hằng
ngày trì tụng. Với uy lực của chú, ma sẽ từ từ xuất ra. Sư cô ấy vâng lời.
Nói xong vị Thượng Tọa kết luận: Sự nhận thức cùng tu tập sai lầm, gây nên tổn
hại và cứu gỡ khó khăn là như thế.
Quán-Thế-Âm Bồ Tát
(Theo Kinh Bi Hoa, về kiếp
quá khứ, thuở đời Phật Bảo Tạng, khi đức A Di Đà còn làm Luân Vương, thì Bồ tát
làm vị Thái tử thứ nhất của Ngài, hiệu là Bất Thuấn. Lúc Thái tử đối trước đức
Bảo Tạng phát đại nguyện rồi, Phật liền ban cho danh hiệu là Quán Thế Âm.
Hiện tại, Bồ tát ở cõi Cực
lạc phụ giúp Phật A Di Đà mà hoằng hóa và tiếp dẫn chúng sanh. Về sau, Bồ tát
kế vị đức A Di Đà mà thành Phật, hiệu là Biến Xuất Nhất Thế Công Đức Sơn Vương Như Lai; thế giới Cực lạc đổi tên lại là Nhất Thế Trân Bảo Sở
Thành Tựu. Về phần nhân hạnh quả đức cùng sự ứng hóa của Bồ tát, trong kinh
Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, và Đại Bi có nói đến).
Kinh Đại Bi Đà la ni nói: "Nếu chuyên xưng danh hiệu và cúng dường
đức Bổn Sư ta là Phật A Di Đà, thì sẽ được vô lượng phước, tiêu trừ vô lượng
tội, khi mạng chung lại được vãng sanh về cõi Cực lạc. Bấy giờ đức Như Lai đưa
tay tiếp dẫn và xoa đầu kẻ ấy mà bảo rằng: "Người đừng sợ hãi, vì đã được
sanh về nước ta".
Kinh Quán Thế Âm Bồ tát
Thọ Ký nói: "Kẻ nào
phát lòng Vô thượng Bồ đề, nguyện sanh về Cực lạc, đều được thấy cõi ấy, lại
thấy Phật A Di Đà cùng các hàng Bồ tát và Thanh văn. Người đó thấy như thế rồi,
vui mừng khấp khởi, xướng lên rằng: "Nam Mô A Di Đà Như Lai, Ứng cúng,
Chánh biến tri!"
Bấy giờ trong pháp hội
có 84.000 chúng sanh đều phát lòng Bồ đề, nguyện trồng căn lành để được vãng
sanh về Cực lạc.
Đại-Thế-Chí Bồ Tát
(Theo Kinh Bi Hoa, về kiếp
quá khứ, thuở đời Phật Bảo Tạng, khi đức A Di Đà còn làm Luân Vương, thì Bồ tát
làm vị Thái tử thứ hai của Ngài, hiệu là Ma Ni. Lúc Thái tử Ma Ni đối
trước với đức Phật Bảo Tạng phát thệ nguyện rồi, Phật liền ban cho danh hiệu là
Đắc Đại Thế, và thọ ký cho sau thành Phật hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương.
Hiện tại, Bồ tát ở cõi Cực
lạc phụ giúp Phật A Di Đà hoằng hóa và tiếp dẫn chúng sanh. Về sau Bồ tát thành
Phật kế đức Quán Thế Âm, thế giới, thời kiếp và Phật sự cùng Phật Công Đức Sơn
Vương đồng. Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ tát nói pháp Môn niệm Phật thật rất là tinh
khiết, người tu tịnh nghiệp nên tuân theo).
Kinh Lăng Nghiêm nói: "Tôi nhớ hằng hà sa kiếp về trước, có
mười hai đức Như Lai nối nhau ra đời trong một kiếp, vị đầu tiên là Vô Lượng
Quang, vị Phật rốt sau hiệu là Siêu Nhựt Nguyệt Quang. Đức Phật sau này dạy tôi
pháp môn Niệm Phật Tam muội.
Ví như có hai người, một
kẻ chuyên nhớ, một kẻ chuyên quên, hai người ấy dù gặp nhau cũng như không gặp,
thấy cũng như không thấy. Nếu hai người đều nhớ nhau, sức nhớ tưởng càng sâu,
thì từ đời này đến đời khác, hai kẻ ấy đồng như hình với bóng, không xa rời
nhau được.
Các đức Như Lai trong
mười phương mẫn niệm chúng sanh cũng như mẹ nhớ con, nếu con cứ lẫn tránh, dù
mẹ có nhớ cũng không biết làm sao! Trái lại, nếu con nhớ mẹ, cũng như mẹ nhớ
con, thì mẹ con đời đời chẳng cách xa nhau.
Nếu tâm của chúng sanh
hằng nhớ Phật, niệm Phật, thì đời này, đời sau, quyết định sẽ thấy Phật, cách
Phật không xa, chẳng cần dùng phương tiện chi khác, tâm mình được khai ngộ.
Như người nhuộm các thứ
hương, thân kẻ ấy có mùi thơm đó gọi là hương quang trang nghiêm. Chỗ bản nhân
của tôi là dùng tâm niệm Phật được chứng vào vô sanh nhẫn, nay ở cõi này nhiếp
thọ người niệm Phật đem về Tịnh độ.
Nay Phật hỏi về viên
thông, tôi không lựa chọn, nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối luôn được Tam ma địa, đây là bậc nhất.
Niệm Phật
Phải Phát Lòng Bồ Đề
Ba cõi không an dường hỏa
trạch
Đâu miền chân lạc khỏi tang thương?
Người vô thường,
Cảnh vô thường!
Khuyên gọi cùng nhau tỉnh mộng
Quay về bể giác thanh lương.
Khởi lòng BI TRÍ
Nguyện độ mười phương.
Ba tăng kỳ kiếp tu muôn hạnh.
Bền lòng không thối chuyển
Cầu ngôi vị Pháp Vương!
BÀI SỐ 58
Ẩn tu thời mạt nhớ câu than
Đức Tín Tỳ Kheo kém
Thiện-nam
Cư-sĩ lại thua hàng Tín-nữ
Thiên Như huyền ký để lời
vàng.
NHƯ Ý : Thiên-Như đại sư sau khi đắc đạo dùng Huệ-nhãn
nhìn về tương lai có than rằng :“ Đời mạt pháp về sau, hàng Tỳ-kheo lòng tin
thua Cư-sĩ, hàng Cư-sĩ lòng Tin lại thua Nữ-nhân”.
Kinh Hoa Nghiêm cũng nói, lòng TIN là bước đầu của đạo, là MẸ sanh
ra các công đức, bởi giáo lý của Phật cao siêu, cảnh giới chư Phật Bồ-tát, chúng
sanh không thể THẤY hiểu được, nên phải Tin theo lời Phật, đừng đem kiến thức
của Phàm-phu mà phán đoán SAI lầm.
Khi xưa một vị VUA xứ
Ai-Cập trong giấc mộng chỉ có 3 GIỜ, mà thấy mình ở trên cõi Trời
đến 8 NGÀY, nhà Vua không tin hỏi một vị Quốc-Sư, Ông này bảo nhà
Vua úp mặt xuống chậu nước rồi ngước đầu lên, liền chỉ trong khoảnh khắc ấy, vị
Quốc Sư dùng thần thông làm cho Vua thấy mình rơi xuống BIỂN, rồi lại được vào
bờ đói khát quá phải tìm cách sinh nhai, có gia đình vợ con sống trong cảnh vất
vã, trải qua 60 NĂM, một ngày kia xuống Biển tắm, cúi đầu xuống nước rửa mặt
rồi ngước lên, thì quá ra mình đang ngồi giữa Hoàng-Triều.
Lại câu chuyện ông Phí
Trường-Phòng, Thấy vị Hồ-Tiên vai mang Hồ-Lô, rồi mỗi tối lại chui vào đó
NGỦ, thấy làm lạ Ông xin cho được vào Hồ lô thì thấy một vùng trời đất khác, có
đủ Nhật Nguyệt non sông, bởi THỜI gian và KHÔNG gian đều là HUYỄN, phép Tiên
còn có thể hóa hiện như vậy, huống chi là Pháp Phật ?
Cho nên,
Viên-Chiếu Thiền sư một cao Tăng Việt-Nam đã có câu: Càn khôn Chỉ ở đầu lông
nhỏ, Nhật Nguyệt nằm trong hạt cải mầm. Nguyên tác, “Càn Khôn tận thị Mao đầu Thượng, Nhật Nguyệt bao Hàm
giới tử Trung”.
Cõi Cực-lạc và Phật
A-Di-Đà ở ngoài tam giới, vượt tầm hiểu biết của trần gian, nên phải Tin
lời Phật, tiếc thay loài người kiến thức đã nông cạn lại không Tin lời của Như
Lai, làm sao vào biển ĐẠI THỪA PHẬT PHÁP rộng rãi bao la.
Cho nên, khi
nói Kinh A-Di-Đà đức Thế-tôn đã dự biết điều này, bảo Ta vì tất cả
thế gian nói Pháp khó Tin này, thật là rất khó.
Bút giả từng nghe một vị
Thượng-tọa than, đời này phần Đông Thanh-niên Tăng học đạo, thì nói lý cao xa
tận chín tầng mây, trong khi việc bái sám công phu lại biếng trễ không làm nổi,
tệ nhất là mấy Ông nương CỬA CHÙA tranh thủ học cho có bằng cấp Tú
Tài, Cử nhân, Tiến sĩ... lại buông lung ngã theo lý thuyết THẾ GIAN, không còn
được mấy người đáng TIN cẩn.
Trong Kinh nói,
THẾ TRÍ BIỆN THÔNG là một trong TÁM NẠN, rất đúng! Mấy ông học NGOÀI ĐỜI
giỏi, lý thuyết LANH LỢI, thật ra Tôi nói không lại họ, Tôi có một đứa
Đệ-tử học đến trình độ Cử-nhân, vì giới LUẬT cẩu thả, Tôi quở trách, nó Đáp :
Đức THÍCH CA, GIA TÔ, LÃO TỬ hay KHỔNG TỬ, Bất quá cũng chỉ là những Triết-gia,
mỗi Ông đều mang một cặp KIẾNG MÀU khác nhau, đời nầy mà còn hữu Bại cứ khư khư
ôm bộ TỨ PHẦN LUẬT hoài, thì làm sao tiến hóa nổi, Ông đó sau đi Tuyên húy Phật
giáo rồi ra Thế-gian, vị Thượng Tọa nói tiếp, còn Tôi thì không dám cho đứa
Đệ-tử nào đi học Thế-pháp nữa.
Vị Thượng Tọa buồn vì
cảnh ngộ Riêng mà nói như thế, Thật ra trong chư Thanh-niên TĂNG học đời nay,
nhiều vị có Ngôn-hạnh đáng khen không đến nỗi kém như vậy.
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
PHẨM 'TỰA' THỨ NHẤT
24.-
Bấy giờ, đức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh từ trong chánh-định mà dậy, vì
Diệu-Quang Bồ-tát nói kinh đại-thừa tên 'Diệu-Pháp-Liên-Hoa Giáo-Bồ-tát Pháp
Phật Sở Hộ-Niệm', trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.
25.-
Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân
tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng
bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc
là tâm mà sanh lười mỏi.
( Cho
nên, ta thấy cho dù “CÁC NHÀ BÁC HỌC, KHOA HỌC, THIÊN VĂN, VẬT LÝ, NGUYÊN TỬ…”
Ở CÙNG TẬN ĐỜI VỊ LAI, CŨNG KHÔNG THỂ HIỂU ĐƯỢC LOẠI “THẦN TÚC THÔNG” NÀY,
NẾU HỌ KHÔNG HỌC “KINH HOA NGHIÊN”, “LĂNG NGHIÊM” VÀ “PHÁP HOA.”
Tại sao? Vì Phật, Bồ-tát và người ở
Tịnh-độ, thì “TỰ-TẠI” với thời gian không gian, có thể đêm 60 tiểu
kiếp ở trong khoảng thời gian “một bửa ăn”. Như đức
Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh chẳng hạn.)
KINH DIỆU PHÁP LIÊN
HOA
PHẨM 'ÐỀ BÀ ÐẠT ÐA' THỨ MƯỜI HAI
7.---
Bấy giờ, ngài Xá-Lợi-Phất nói với Long-nữ rằng: "Ngươi nói không bao lâu
chứng được đạo vô-thượng, việc đó khó tin. Vì sao? Vì thân gái nhơ-uế chẳng
phải là pháp-khí, thế nào có thể được thành vô-thượng chính-giác? Ðạo Phật xa
rộng phải trải qua vô-lượng kiếp cần khổ chứa nhóm công-hạnh, tu đủ các độ, vậy
sau mới thành được.
Lại
thân gái còn có năm điều chướng: một, chẳng được làm Phạm-Thiên-Vương; hai,
chẳng được làm Ðế-Thích; ba, chẳng được làm Ma-vương; bốn, chẳng được làm
Chuyển-luân Thánh-vương; năm, chẳng được làm Phật. Thế nào
thân gái được mau thành Phật?".
Lúc đó,
Long-nữ có một hột châu báu, giá-trị bằng cõi tam-thiên đại-thiên đem dâng đức
Phật. Phật liền nhận lấy. Long-nữ nói với Trí-Tích Bồ-Tát cùng tôn-giả
Xá-Lợi-Phất rằng: "Tôi hiến châu báu, đức Thế-Tôn nạp thọ, việc đó có mau
chăng?".
---Ðáp:
"Rất mau".
---Long-nữ
nói: "Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc
đó".
Ðang
lúc đó cả chúng-hội đều thấy Long-nữ thoạt nhiên biến thành nam-tử, đủ
hạnh Bồ-tát, liền qua cõi Vô-Cấu ở phương Nam, ngồi tòa sen báu thành bậc
Ðẳng-chánh-giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẽ đẹp, khắp vì tất cả
chúng-sanh trong mười-phương mà diễn nói pháp mầu.
( Hoặc có thể đêm “3 A TĂNG KỲ KIẾP” ở
trong khoảng thời gian hiến châu. Như Long-Nữ thành Phật chẳng hạn. Long-Nữ làm
được việc nầy, chứng tỏ đây là một vị Bồ-tát nhất sanh bổ xứ thị hiện.)
KINH HOA NGHIÊM
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
THỨ BA MƯƠI CHÍN
Hán Dịch: Ðại Sư
Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí
Tịnh
Di-Lặc Đại Bồ-Tát
Vị Thiện-tri-thức thứ 51
Ðến nước Hải-Ngạn, Thiện-Tài dùng tâm tôn trọng như vậy,
cúng-dường như vậy, xưng tán như vậy, quán-sát như vậy, nguyện lực như vậy,
tưởng niệm như vậy, vô-lượng cảnh-giới trí-huệ như vậy, ở trước đại
lâu-các Tỳ-Lô-Giá-Na Trang-Nghiêm-Tạng gieo năm vóc đảnh lễ, tạm thời nhiếp
niệm tư duy quán-sát…
Bấy giờ
Thiện-Tài nói kệ rằng:
Lâu các đây là chỗ ở của
Ðức Từ-Thị lợi ích thế-gian
Quán-đảnh đại-bi thanh-tịnh-trí
Pháp-Vương-Tử nhập Như-Lai cảnh.
…
Sau khi dùng vô-lượng pháp xưng tán để tán dương chư Bồ-Tát ở
trong đại lâu-các Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm, Thiện-Tài cung kính đảnh
lễ nhất-tâm nguyện thấy Di-Lặc Bồ-Tát để
thân-cận cúng-dường, bèn thấy đức Di-Lặc Bồ-Tát từ chỗ khác đến,
vô-lượng Thiên, Long, Bát-Bộ, Ðế-Thích, Phạm-Vương, Tứ-Thiên-Vương cùng vô-lượng
thân-quyến và vô-số chúng-sanh theo Di-Lặc Bồ-Tát.
Thiện-Tài vui mừng hớn hở, gieo mình mọp lạy.
Di-Lặc Bồ-Tát quan-sát Thiện-Tài, chỉ-thị với đại-chúng về
công-đức của Thiện-Tài mà nói kệ rằng:
…
Ngươi dùng tâm tín giải
Mà đến kính lễ ta
Chẳng lâu sẽ vào khắp
Tất cả phật-pháp-hội.
Lành thay chân Phật-Tử
Cung kính tất cả Phật
Chẳng lâu đủ các hạnh
Ðến bờ phật công-đức.
Ngươi nên mau đến chỗ
Của Ðại-Trí Văn-Thù
Ngài sẽ khiến ngươi được
Hạnh thâm-diệu Phổ-Hiền.
…
Nầy Thiện-nam-tử! Như ngươi hỏi Bồ-Tát thế nào học
bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Ngươi
nên vào trong lâu các Tỳ-Lô-Giá-Na-Ðại-Trang-Nghiêm nầy,
ngươi quán-sát khắp nơi thời có thể biết rõ học bồ-tát-hạnh, học
rồi thời thành-tựu vô-lượng công-đức.
Thiện-Tài
Ðồng-Tử cung kính hữu-nhiễu Di-Lặc Bồ-Tát, rồi thưa rằng:
Xin
Ðại-Thánh mở cửa lâu các cho tôi được vào.
Lúc ấy
Di-Lặc Bồ-Tát đến trước cửa LÂU CÁC đàn chỉ ra tiếng, cửa liền mở.
Bồ-Tát bảo Thiện-Tài vào.
Thiện-Tài
rất hoan-hỷ đi vào trong lâu các, cửa liền đóng lại.
…
Thiện-Tài
ở một chỗ thấy tất cả chỗ. Nơi tất
cả chỗ đều thấy như vậy.
Thiện-Tài
thấy lâu các Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm-Tạng có bất-tư-nghì cảnh-giới tự-tại như
vậy, lòng rất vui mừng hớn hở vô-lượng, thân tâm nhu nhuyến, rời tất cả
tưởng, trừ tất cả chướng, diệt tất cả hoặc, chỗ thấy chẳng quên, chỗ nghe đều
nhớ, chỗ nghĩ chẳng tạp, chứng nhập môn vô-ngại giải-thoát, vận dụng tâm cùng
khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp.
Vừa mới
cúi đầu, do thần-lực của Di-Lặc Bồ-Tát, Thiện-Tài tự thấy thân của mình ở khắp
trong tất cả lâu các, thấy đủ những cảnh-giới tự-tại bất-tư-nghì:
Những là
thấy Di-Lặc Bồ-Tát lúc mới phát tâm tên hiệu như
vậy, chủng-tộc như vậy, thiện-hữu khai ngộ khiến gieo trồng căn lành như vậy,
thọ mạng như vậy, ở kiếp như vậy, gặp Phật tại quốc-độ như vậy, tu hành như
vậy, phát nguyện như vậy.
Chư Phật
Như-Lai ấy, những chúng-hội, thọ-mạng, thân-cận cúng-dường đều thấy rõ cả.
Hoặc thấy
Di-Lặc Bồ-Tát tối-sơ chứng được từ-tâm tam-muội, từ đó đến
nay hiệu là từ-thị.
PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ
( PHẬT THUYẾT KINH
A DI ĐÀ, CÒN KHÓ HƠN LÀ Ở CÕI TA BÀ NGŨ TRƯỢC
TU CHỨNG VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC).
Xá- Lợi- Phất! Như Ta
hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức
Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà
nói lời này:
“Đức Thích Ca Mâu Ni
Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm
món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền trược, não trược, chúng sanh trược,
mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này”.
Xá- Lợi- Phất! Phải biết
rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô
Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó
là rất khó!
Một câu A Di Ðà
Hợp thời tiết nhân duyên
Hương lạ hằng thoang thoảng
Liên xã lập nhiều miền.
( Nhứt cú Di Ðà
Nhân duyên thời tiết
Dị hương thường văn
Liên xã sang kiết.)
LƯỢC GIẢI
Pháp môn Tịnh Ðộ sở vĩ càng lúc càng được thạnh hành, bởi có nhiều lý do:
Về phần nhân duyên:
Ðiều thứ nhứt đức A Di Ðà
có pháp duyên rất lớn với chúng sanh ở Ta Bà, bằng chứng là các chùa đều có
thời khóa Tịnh Ðộ, và hàng Phật tử khi gặp nhau thường chào với câu "A Di
Ðà Phật".
Ðiều thứ hai, đức Di Ðà Thế
Tôn có bốn mươi tám bi nguyện độ sanh rộng lớn, rất thích ứng với cảnh ngộ cần
cứu cấp nơi cõi ngũ trược này.
Về phần thời tiết, như lời Phật đã huyền ký. Bắt đầu từ thời mạt
pháp trở về sau, muốn chắc chắn được giải thoát, chỉ có pháp môn Niệm Phật.
Bởi những nguyên nhân ấy, nên chư thiện tri thức xưa nay đã sáng lập ra Liên Xã
khắp nơi để hướng dẫn người tu hành. Và các hành giả niệm Phật cũng cảm được
nhiều điềm thoại ứng như: thấy sen lành, nghe hương lạ.
Thiên-Như Đại Sư
(Ngài họ Đàm, hiệu Duy
Tắc, người ở Vĩnh Hưng, đắc pháp với Trung Phong Minh Bản Thiền sư. Niên hiệu
Chí Chánh năm đầu, Đại sư trụ ở Chùa Sư Tử Lâm nơi thành Tô Châu, các bậc tể
quan, trưởng giả trong thời ấy, phần nhiều đến tham học với Ngài. Vua thường
xuống chiếu vời hỏi, Ngài đều lấy duyên cớ bịnh cáo từ.
Đại sư đã mật khế tông
Thiền lại kiêm hoằng dương giáo pháp Tịnh độ, từng viết ra quyển "Tịnh Độ Hoặc Vấn" phá các điều nghi, khuyên người niệm Phật cầu sanh
Tây phương.
Ngài tu hành rất tinh tấn,
nhập diệt vào năm Hồng Võ ngươn niên đời nhà Minh, khi tịch điềm lành rất
nhiều, thọ 71 tuổi.)
Có kẻ hỏi: Phương tu viện quán, pháp niệm duy tâm, dường như
là hành môn của bậc thượng căn. Còn mười nguyện trong Kinh Hoa Nghiêm, mười tâm trong Kinh Bảo Tích, cũng là công dụng của
bậc đại trí. Trên đường tu, nếu căn cơ cùng giáo pháp không hợp, e cho công
hạnh khó thành. Nay tôi xét lại căn tánh mình, chỉ nên chuyên trì danh hiệu,
thêm lễ Phật sám hối mà thôi, chẳng hay tôn ý thế nào?
Đại sư đáp: Tốt lắm! Người biết tự lượng đó! Lời ngươi nói hợp
với thuyết chuyên tu vô gián của Ngài Thiện Đạo. Vô gián tu là thân chuyên lễ
Phật A Di Đà không lễ tạp, miệng chuyên xưng hiệu A Di Đà không xưng tạp, ý
chuyên tưởng Phật A Di Đà không tưởng tạp.
Niệm Phật, hoặc duyên
tưởng 32 tướng, buộc tâm cho định khi mắt mở nhắm đều thấy Phật. Hoặc có kẻ
chuyên xưng danh hiệu, giữ không tán loạn, trong hiện đời cũng được thấy. Trong
hai điều trên đây, muốn được thấy Phật, phần nhiều pháp xưng danh hiệu là hơn.
Pháp xưng danh, cần phải
buộc lòng đừng cho tán loạn, mỗi niệm nối nhau duyên theo hiệu Phật, từng câu
từng chữ rõ ràng. Lại xưng danh hiệu Phật, chớ quản nhiều ít, một tâm một ý,
niệm niệm nối nhau. Như thế mới diệt được tội nặng sanh tử trong tám mươi ức
kiếp, nếu chẳng vậy, rất khó tiêu tội.
Có kẻ hỏi: Một đời tàn ác, khi lâm chung dùng mười niệm cũng
được vãng sanh. Vậy thì bây giờ tôi buông theo duyên đời đợi lúc sắp chết sẽ
niệm Phật, có được chăng?
Đại sư đáp: Khổ thay! Lời này đã hại chính mình, lại hại cho
hàng Tăng, tục, nam, nữ trong đời nữa! Phải biết kẻ phàm phu nghịch ác khi lâm
chung niệm Phật được là do kiếp trước có căn lành, khiến cho gặp bậc thiện tri
thức chỉ bảo mà được sự may mắn trong muôn một ấy.
Luận Quần Nghi nói: có mười hạng khi lâm chung không niệm Phật
được:
1. Khó gặp bạn lành, nên
không người khuyên niệm.
2. Bịnh khổ buộc thân,
không rỗi rảnh để niệm Phật.
3. Trúng phong cứng họng,
nói không ra tiếng.
4. Cuồng loạn mất sự sáng
suốt.
5. Thình lình gặp tai nạn
nước lửa.
6. Thoạt bị hùm sói ăn
thịt.
7. Bị bạn ác phá hoại lòng
tin.
8. Hôn mê mà chết.
9. Thoạt chết giữa quân
trận.
10. Từ nơi chỗ cao té
xuống.
Những việc trên đây ở
trong đời thường có, đó là do túc nghiệp hoặc hiện nghiệp chiêu cảm, bỗng nhiên
xảy ra, không kịp trốn tránh. Khi gặp một việc không may, bất cập, trong mười
việc trên đây, thì làm sao niệm Phật được.
Giả sử không bị
những ác duyên như trên, thọ bịnh sơ sài mà qua đời, e cho lâm chung, khi thân
tứ đại sắp ly tán, bị sự đau đớn dường như dao cắt, như con cua bị rớt vào nước
sôi trong lúc thống khổ bức bách, bối rối kinh hoàng ấy, đâu có rỗi rảnh để
niệm Phật?
Giả sử không bị bịnh
mạng chung, lại e duyên đời chưa dứt, niệm tục khó quên, tham sống sợ chết, tấm
lòng rối loạn không yên. Thêm vào đó, việc nhà chưa phân minh, chuyện sau chưa
sắp đặt, vợ con khóc lóc kêu gọi, trăm mối lo sợ, thương sầu, như thế làm sao
niệm Phật được?
Giả sử lúc chưa chết,
thì lại bịnh khổ, đau đớn rên la, tìm thuốc tìm Thầy, lo việc khẩn cầu cúng tế,
tạp niệm rối ren, vị tất đã niệm Phật được?
Giả sử trước khi chưa
bịnh, thì lại bi sự già khổ, suy lờ lụm khụm, buồn rầu ão não, e cho lo những
việc trên cái thân già yếu còn chưa xong, đâu rỗi để niệm Phật.
Giả sử trước khi chưa
già, còn đang trẻ trung khỏe mạnh, hoặc như tâm cao vọng chưa dứt, việc thế tục
còn buộc ràng, rong ruổi Đông Tây, suy thế này tính thế khác, nghiệp thức mơ
màng, cũng không niệm Phật được!
Giả sử kẻ được an nhàn
thong thả, có chí tu hành, nhưng nếu không nhìn thấu cảnh đời là giả mộng, thân
tuy được yên, tâm còn bấn loạn, không thể buông bỏ muôn duyên, khi gặp việc
đến, không thể tự chủ, theo cảnh mà điên đảo, cũng không niệm Phật được!
Ngươi thử xét lại, đừng
nói già bịnh, trong lúc còn trẻ trung nhàn nhã, nếu có một việc đeo đẳng nơi
lòng, còn không niệm Phật được thay, huống chi là đợi đến lâm chung?
Vậy muốn cho khi sắp
chết được chánh niệm vãng sanh, thì ngay bây giờ phải xét rõ việc đời là huyễn
mộng, tùy duyên an phận qua ngày, không còn tham luyến, được rỗi rảnh lúc nào
thì niệm Phật lúc ấy, đừng hẹn chờ lần lựa, hoặc để hư phí thời giờ. Như thế
thì tư lương ta đã dự bị xong, lúc ra đi mới không điều chi chướng ngại.
Niệm Phật
Phải Dứt Trừ Lòng Nghi
Niềm tin là bước đạo sơ
nguyên,
Mà nỗi trần ai lắm sự duyên!
Thoạt tưởng sen lành say cõi Tịnh
Lại nghe mai đẹp mến non Thiền.
Bồ Đề gieo khéo nguyền viên giác
Không hữu còn thương chấp nhị biên
Tín đức ví bền như hạnh nguyện
Mưa hoa đồng dạo cảnh Tây Thiên.
BÀI SỐ 59
Ẩn tu lòng đạo muốn tăng
cao
Phải quán TAM ĐỒ khổ lớn
lao
Phát ý Bồ đề siêng niệm
Phật
Bởi cơ nước lửa sắp dâng
trào.
TAM ĐỒ: HỎA ĐỒ, ĐẠO ĐỒ và HUYẾT ĐỒ
1) HỎA ĐỒ tức là “ĐỊA NGỤC”,
chốn lửa đốt cháy ngày đêm.
2) ĐẠO ĐỒ tức là “NGẠ QUỶ”, thường
dùng dao gậy chém đập nhau.
3) HUYẾT ĐỒ tức là “SÚC SANH”,
thường bị cắt cổ mổ bụng máu chảy lai láng.
NHƯ Ý : Trong một quyển sách PHẬT Trung Hoa nhan
đề, “Tử Hậu Chi Thẩm Phán”, có ghi chuyện Anh nông dân nghèo dốt chất phát, mỗi
đêm điều đến ngủ trọ tại nhà Chùa, ban ngày dò xét Anh là kẻ ít nói, không biết
một Chữ, song tối lại nhắm mắt, thốt lời sang sảng gọi Tên họ những người mới
chết ở các Tỉnh, huyện, thôn, lần lượt Xử-án, lời nói thì thông suốt Tam giáo,
xuất Kinh nhập Luận.
Còn lý lẽ lại vững chắc
phân minh, các Thư-sinh tập hợp đến Chùa ghi chép lại, sau Tìm hỏi tên Họ nơi
cư trú, ngày tháng mãn phần cho đến hành vi của đương sự lúc bình thường đều
đúng cả, những điều ghi chép lại gồm mấy mươi chuyện là nội dung của quyển sách
trên. Có người đem hỏi ý kiến Nguyệt-Hà Pháp sư một danh Tăng đương thời.
Ngài đáp: Nói về Lý Minh Đức Chánh-tâm của đạo NHO, Giác-Ngộ
Vô-Vi của đạo PHẬT, duy có hàng Quân-tử, bậc Thượng-căn mới thực hành nổi,
nhưng mà cần có sự Linh ứng của Qủy thần, CHO thấy được Tội Phước NHÂN QUẢ, mới
đủ sức Cảnh giác được Lòng người.
Khiến cho phát Tâm khinh
sợ bỏ dữ làm lành, cho nên từ xưa đến nay thỉnh
thoảng chư Bồ-tát Thánh thần, thường dùng Huyền nghi, khiến thể hiện các sự
kiện đó, mà trường hợp này
chỉ là một, những người tu căn TRÍ KÉM phải thường xem chuyện Nhân-quả hay y theo Kinh mà
quán cảnh khổ Tam-đồ thì đạo Tâm mới dễ thăng tiến, sự hóa độ có nhiều
phương tiện, lắm người chỉ nghe chuyện Ma quỷ, Địa ngục hay các Sấm ký nghi về
cơ Tận Diệt tương lai cũng phát Tâm ăn Chay bỏ dữ làm lành, tụng Kinh niệm
Phật, thế nên BIẾT Vua Diêm-la
thật là Di-Lặc, đối với trước vạt dầu Chuyển-Pháp-Luân, chuyển đến TÌNH
TRẦN điều DỨT sạch, tiêu tan NGÃ PHÁP chứng Chân-thường.
Lá Thư Tịnh Độ
Ấn-Quang Pháp Sư
Thơ đáp một Cư Sĩ ở Vĩnh Gia
Vân-Thê Đại sư lập pháp
dạy người đều từ nơi chỗ bình thật đi vào. Nếu y
theo đó tu trì, sẽ được ngàn muôn yên ổn, quyết không đến nỗi được ít cho là đủ và bị ma dựa phát cuồng.
Vương Canh Tâm chưa hiểu
rõ yếu chỉ nhập đạo, đã vội tự hào múa bút lớn lời mạt sát tất cả, tuy có tâm
hoằng pháp, nhưng thật ra là gây tội phá hoại pháp môn. Ấy cũng bởi y không gần
bậc tri thức và tự xét hai chứng bệnh: tim đập, ác mộng của mình.
Những bệnh ấy đều là
triệu chứng của nghiệp ác đời trước. Nhưng, hiện cảnh tuy có tốt xấu, chuyển
biến chỉ tại nơi ta. Cảnh xấu hiện mà chuyên tâm niệm Phật thì nhân dữ sẽ hóa
ra lành, nghiệp ác đời trước trở thành vị đạo sư trong hiện tại. Tiếc vì người
đời phần nhiều bị nghiệp ràng buộc, không thể cải tạo, nên thành ra cảnh té
giếng bị đá rơi theo, trên khổ lại càng thêm khổ!
Tha tâm thông có nhiều
thứ không đồng, nay xin nói ước về tâm thông của
những bậc đắc đạo.
Như Trù Am Đại sư, bất
luận ai hỏi kinh sách gì, Ngài đều có thể đọc thuộc rành rẽ, không sai một chữ.
Tại sao thế? Vì Đại sư nghiệp hết tình không, lòng như gương sáng; lúc có người
hỏi đến những kinh sách họ đã từng xem, Ngài liền nhìn vào những câu chữ in trong thức thứ tám
của người ấy, đọc lại rành mạch.
Cho nên cổ đức
nói: “Kinh pháp một phen nhiễm vào thức thần, hằng làm giống
đạo.” Việc trên đây có thể làm bằng cớ để cho ta tin. Vì khi người xem
kinh sách, bóng dáng của những thứ ấy in vào tâm thức không mất. Bởi vô minh
che lấp, nên lâu ngày họ quên, những bậc có tha tâm thông nhìn nơi tâm thức của
người ấy, tùy theo lời hỏi đọc lại rõ ràng.
Đến như có người hỏi
những kinh sách họ chưa được thấy, bậc tha tâm thông có thể nhìn vào tâm thức của những người khác
đã xem rồi, vì họ mà đọc lại. Trên đây, là việc lấy
tâm người khác làm tác dụng cho tâm mình, không phải nơi lòng các vị ấy thường
có bao nhiêu thứ kinh sách đã ghi nhớ lâu ngày không quên.
Bởi không hiểu lẽ này,
nhiều người cho đó là phép chi kỳ lạ, thật ra chỉ là cảnh trạng nghiệp tiêu trí
sáng, cõi lòng không không mà thôi.
Trong sự phò cơ có rất nhiều
linh quỉ giả mạo tiên, Phật, Thánh, thần. Loài
quỉ thấp kém hoặc khi
không có tha tâm thông; hạng cao thì biết được lòng
người, nên có thể mượn
sự thông minh trí thức của người mà làm thi phú.
Ông Kỹ Văn Đạt có thuật
rằng: “Cơ bút phần nhiều là việc dối mượn của
hạng ma quỉ linh thiêng.
Một độ nọ, tôi cùng người anh là Đản Nhiên có thí
nghiệm về việc này. Tôi
vốn có thiên tư về thi văn mà chữ viết dở, anh tôi thì
chữ tốt, song không có
khiếu văn chương. Khi tôi phò bút thì thi từ thông
suốt, nét chữ lếu láo.
Trái lại, đến phiên anh tôi thì nét chữ cứng đẹp, thi từ
tầm thường.
Lại một việc, lúc hỏi
đến chỗ bí yếu trong những bài giảng bút mạo lấy của người xưa, cơ lên nói: năm
tháng lâu quá không còn ghi nhớ.
Vì những lẽ ấy, tôi biết
là giả dối.” Thế là loài quỉ tuy linh, song chỉ có thể
mượn được sự hiểu biết
hiện tại của người. Đến như các việc trong tâm thức
có, nơi sự biết hiện tại
vì lâu nên quên, hoặc những chữ nghĩa chính
mình
không hiểu, thì quỉ không
thể chỉ dẫn ra được. Cho nên tha tâm thông
của linh quỉ sánh với bậc đắc đạo, thật kém xa như trời vực. Tuy nhiên, vì hai
việc ấy có chỗ giống nhau, e rằng cư sĩ bị cơ bút mê hoặc, tôi mới dẫn giải ra
đây.
Lại xin nói thêm một
việc trong Tống Cao Tăng Truyện: Ngài Tăng
Giám qua nhà Vương Xử
Hậu thọ trai, thấy chủ nhân đang cao giọng ngâm
nga xem ra dáng đắc ý,
nhân hỏi là đọc văn gì? Xử Hậu đáp: “Đây là quyển
vở trúng Tiến Sĩ của
tôi.” Giám mỉm cười mà rằng: “Dưới thềm gió mát, lại có sự thung dung
như thế ư?” Nói đoạn, lấy trong túi ra một tập, bảo: “Quyển ông
đang đọc ấy có phải là đây chăng?”
Xử Hậu xem ra thì chính
là văn từ mình đã làm trong ngày thi, liền nói: “Đây là bút tích của tôi chép
ra sau này.” Tăng Giám bảo: “Cố nhiên không phải là nguyên tác của ông, điều đó
tôi vẫn biết.” Xử Hậu nói tiếp: “Nhưng sao trong túi kia lại có bài văn ấy?”
Sư đáp: “Không phải chỉ
riêng bài này, từ khi ông đọc sách đến giờ, cho đến những lúc đùa cợt, một nét
bút nét vẽ, nơi túi của tôi đều có đủ.” Xử Hậu kinh sợ, không dám hỏi nữa.
Ngài Trù Am chỉ có tha
tâm thông, chưa thấy có thần thông. Tăng Giám Đại sư đã có tha tâm thông lại kiêm cả thần thông,
có thể đem bóng dáng kinh sách trong tàng thức, hiện thành hình chất đưa cho
người xem, kỳ thật trong túi của Ngài không chứa sẵn thứ ấy.
Gần đây, ở Thượng Hải
đàn cơ bút mở ra rất nhiều. Sự chỉ dạy bỏ dữ làm
lành và những thuyết luân
hồi nhân quả thiển cận của các đàn ấy, đều rất có
ích cho thế đạo, lòng
người. Nhưng mấy điểm nói về cơ trời, Phật pháp, thì
không khỏi mơ hồ, lầm
lẫn.
Chúng ta là đệ tử Phật,
không nên bài bác việc đó, vì có trở ngại cho sự làm lành của người, song cũng
chẳng nên phụ họa khen ngợi, vì sẽ mang lỗi đem điều ức đoán viễn vông khiến
cho Phật pháp hư loạn, chúng sanh nghi lầm.
Ấn-Quang này tự
xét mình nhiều nghiệp chướng nhưng quyết không dám theo tình bỏ lý, gây sự lầm
lỗi cho người. Những lời trên đây xin châm chước tình lý mà làm theo mới khỏi
điều tệ hại.
Mười món lợi ích của sự
niệm Phật, xin xem chương “Thập Chúng Thắng
Lợi” ở những trang sau
cuối bộ Tịnh độ Chỉ Qui. “Hồi hướng” là tâm suy nghĩ, miệng phát ra lời tín nguyện, đem
công đức mình xoay về nơi nào. Việc ấy nên để vào khoảng sau lúc công khóa tối
và buổi trưa, khi tụng kinh niệm Phật xong. Niệm Phật phải từ mai đến chiều
không nên hở dứt; nếu trong tâm hằng có
niệm cầu sanh, cũng là thường thường hồi hướng.
Các Kinh Đại thừa đều
khiến cho chúng sanh mau thành Phật, chỉ tiếc phần đông khi đọc kinh thiếu lòng chí thành, nên
không được hoàn toàn lợi ích.
Chương “Đại Thế Chí Bồ
tát” ở quyển năm Kinh Lăng Nghiêm, chính là lời
chỉ dạy tối thượng về
tông Tịnh độ.
Câu “Người quân tử học
vì mình” là ý nói bậc quân tử mỗi niệm đều tự xét mình, xem có trái đạo cùng
chăng?
Cảnh giới “thức ngủ như
một”, chỉ có dụng công phu đáo để mới được.
Nhưng nếu khi thức hằng
nhiếp tâm niệm Phật, lâu ngày tự nhiên dù trong
mộng cũng ít khởi vọng
niệm.
Một câu A Di Ðà
Lòng thương xót khổ tâm!
Ðẩy thuyền nặng muôn hộc
Kéo cung mạnh ngàn cân.
( Nhứt cú Di Ðà
Lão bà tâm khổ!
Vận vạn hộc chu
Phát thiên quân nỗ.)
LƯỢC
GIẢI
Vì lòng đại từ đại bi, đức Thích Tôn cùng hằng hà sa số chư Phật ở sáu phương,
đều hiện tướng lưỡi rộng dài, khen nói công đức không thể nghĩ bàn của môn Niệm
Phật, khuyên chúng sanh nên phát nguyện cầu sanh về Cực Lạc.
Từ xưa đến nay, chư Tổ cũng
đã dẫn kinh viết luận rất nhiều, để tán dương môn Tịnh Ðộ. Tâm xót thương sâu
rộng, lời khổ thiết khuyên răn của chư Phật, Bồ Tát, Tổ Sư như thế, thật đã hết
lòng hết sức.
Ví như người đẩy thuyền chở
nặng muôn hộc, giương cung cứng mạnh ngàn cân, sự dụng tâm vận lực đã đến mức
điểm cuối cùng vậy.
Giác-Minh Diệu Hạnh Bồ
Tát
(Theo bộ Tây phương xác
chỉ, Bồ tát tự bày tỏ túc nhân như sau: "Thuở trước, về đời vua Minh
Đế nhà Tấn, ta là một kẻ bần cùng. Tự thương cảnh ngộ của mình, Ta phát đại
nguyện rằng: "Tôi vì túc nghiệp nên chịu quả báo nghèo khổ này. Từ đây tôi
nguyện niệm Phật tu hành, nếu không được thấy Phật A Di Đà và sanh về Cực lạc
để thành tựu tất cả công đức, thì dù có phải tan nát thân mạng này, tôi cũng
không thôi bỏ".
Phát nguyện rồi, trong bảy
ngày đêm Ta chuyên tinh tưởng niệm, liền được tâm khai, thấy thân tướng Phật A
Di Đà, đẹp đẽ sáng chói, đầy khắp mười phương thế giới.
Lúc ấy Ta được Phật thọ ký
cho, và về său năm 75 tuổi Ta thoát hóa, sanh về Cực lạc. Nay vì bản nguyện lợi sanh, Ta trở lại cõi này, tùy
phương hóa độ".)
Trong Bộ Tịnh độ Thánh
Hiền Lục có nói: "Từ năm Sùng Trinh thứ 16 đời nhà Minh, đến năm Thuận Trị
thứ 4 đời nhà Thanh, Bồ tát thường hay giáng thần nơi Ngô môn chỉ dạy về pháp
môn niệm Phật.
Trong bộ Tây phương xác
chỉ, Bồ tát dạy: "Tâm vốn không niệm, niệm do tưởng sanh, cái tưởng ấy giả
dối, khiến cho chúng sanh mãi chịu luân hồi. Nay các ngươi nên biết một câu A
Di Đà Phật đây, không từ nơi tưởng mà sanh, chẳng do nơi niệm mà có, không dính
mắc trong ngoài, chẳng có tướng mạo chi. Hiểu rõ như thế thì trừ hết các
vọng tưởng, cùng với pháp thân của Phật cùng đồng không khác, không thể phân
biệt.
Niệm như thế thì
không phiền não trần lao, không đứt đoạn, không bỏ cuộc, thế là nhứt tâm. Được
chỗ nhất tâm này, mới gọi là "giữ lấy danh
hiệu" mới gọi là "một lòng không loạn."
Nếu niệm Phật không nhất
tâm, phải quyết ý dứt những tư tưởng vẩn vơ, chậm rãi mà niệm, làm sao cho tiếng hiệp với tâm, tâm hiệp cùng tiếng. Cứ như thế niệm mãi, lâu lâu vọng tưởng sẽ lặng
dừng, tâm cảnh sẽ sáng tỏ chứng vào Niệm Phật Tam muội. Kệ rằng:
Nói ít một câu chuyện,
Niệm nhiều một câu Phật.
Đánh được vọng niệm
chết,
Hứa pháp thân ngươi
sống.
Trước khi niệm Phật, phải
phát đại nguyện sanh về Cực lạc, rồi sau chí thành
khẩn thiết xưng Thánh hiệu đức A Di Đà. Khi niệm phải khiến cho tiếng duyên
theo tâm, tâm duyên theo tiếng, tâm và tiếng nương nhau, giữ cho bền lâu đừng
mất, thì sẽ được vào Chánh ức niệm Tam muội.
Đại để người tu tịnh
nghiệp, khi đi đứng nằm ngồi, đều phải hướng về phương Tây thì cơ cảm dễ thành,
căn cảnh dễ thuần thục. Trong thất chỉ cúng một tượng Phật, một quyển kinh, một
lư hương, còn bàn, ghế và giường mỗi thứ chỉ một cái, không nên để nhiều
vật khác. Ngoài sân cũng phải quét dọn sạch sẽ, để cho khi đi kinh hành không
bị trở ngại.
Điều cần yếu là làm sao
cho tâm mình không vướng một mảy trần, dứt bặt muôn điều lo nghĩ, rổng rang
trong sáng, không biết có thân, có đời, cũng không biết hành động của mình hôm
nay là việc tu hành. Được như thế thì cùng với đạo ngày càng gần, với đời
ngày càng xa, có thể xu hướng về tịnh nghiệp.
Phép tu Tịnh độ không
ngoài hai chữ chuyên cần, chuyên thì không thêm một việc chi khác, cần thì không
bỏ phí phút giây. Lại phép trì danh, cần mỗi chữ mỗi câu tâm và tiếng nương
nhau, không xen lẫn một mảy niệm đời, lâu ngày thành thục, quyết định được sanh
về Cực lạc, ngồi tòa bảo liên, lên ngôi bất thối.
PHỤ: Bài Kệ Phát Nguyện
Của Đại Từ Bồ Tát
Phật mười phương ba đời,
A Di Đà bậc nhất,
Chín phẩm độ chúng sanh,
Oai đức không cùng cực
Nay con đại qui y,
Sám hối tội ba nghiệp
Có bao nhiêu phước lành,
Hết lòng xin hồi hướng.
Nguyện chúng bạn đồng
tu,
Cảm ứng theo thời hiện,
Khi lâm chung, cảnh
Phật,
Hiện trước mắt rõ ràng
Kẻ thấy, nghe tinh tấn,
Đồng sanh về Cực lạc,
Thấy Phật khỏi sanh tử,
Như Phật độ muôn loài.
BÀI
SỐ 60
Ẩn tu nhìn khắp cảnh ban
mai
Người vật ra đường chim
nhảy bay
Tất cả chỉ vì lo vóc
huyễn
Nhọc, già, bịnh, chết
mấy ai hay?
NHƯ Ý : Giữa cuộc sống con Người buôn ba chạy Đông
sang Tây, xuôi Nam ngược Bắc cũng gì lo Vấn đề Ở, ĂN, MẶC,
trong sự CHEN LẤN sinh hoạt đó làm LÀNH thì ít, tạo ÁC thì nhiều.
Có nhà du lịch
đến Ấn-Độ hỏi một Đạo-sĩ, ở Xứ này có DI LẶC không ?
Đạo-sĩ đáp: Có chứ.
Đời người ai
cũng trải qua cảnh SINH, GIÀ, BỊNH, CHẾT cùng những nhọc nhằn khổ não về THÂN
TÂM, sau khi chết lại không biết mình đi về đâu mà không mấy ai nghĩ đến,
đó thật là điều hết sức lạ.
Cổ thi
nói:
"Ta
thấy người khác chết.
Trong
lòng nóng xót xa!
Chẳng
phải xót kẻ mất.
Vì sẽ đến
phiên ta!"
Kinh Bảo Tích nói: Bấy
giờ Di Lặc Bồ tát bạch Phật rằng: "Bạch đức thế Tôn! Như Thế
Tôn đã nói những công đức lợi ích của Phật A Di Đà và thế giới Cực lạc. Lại
bảo: Nếu có chúng sanh nào phát mười thứ tâm, một lòng chuyên niệm hướng về
Phật A Di Đà, khi người ấy mạng chung sẽ được sanh về thế giới của đức Phật
kia. Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là phát mười thứ tâm, và do tâm này sanh về Cực
lạc?"
Phật bảo: "Này Di
Lặc! Mười thứ tâm ấy không phải hạng người phàm phu, bất thiện có thể phát được.
Những gì là mười tâm:
1. Đối với chúng sanh khởi
lòng ĐẠI TỪ không làm tổn hại.
2. Đối với chúng sanh khởi
lòng ĐẠI BI không làm bức não.
3. Với chánh pháp của Phật
khởi lòng HỘ TRÌ không tiếc thân mạng.
4. Với tất cả pháp lành
sanh lòng thắng nhẫn, không CHẤP TRƯỚC.
5. Tâm an vui trong sạch,
tôn trọng, không tham LỢI DƯỠNG, sự cung kính.
6. Tâm cầu CHỦNG TRÍ của
Phật, trong tất cả thời không xao lãng.
7. Đối với tất cả chúng
sanh hằng tôn trọng CUNG KÍNH, không khinh rẻ là
hèn
thấp.
8. Không say đắm theo THẾ
LUẬN, đối với phần Bồ đề sanh lòng quyết định.
9. Tâm THANH TỊNH tu các
căn lành, không hề tạp nhiễm.
10. Đối với các đức Như
Lai, XẢ LÌA các tướng, lòng tùy niệm.
Di Lặc! Đó là mười thứ
phát tâm của Bồ tát, do tâm nào sẽ được sanh về cõi Cực lạc của Phật A Di Đà.
Di Lặc! Nếu có người nào trong mười tâm này, tùy ý thành tựu được một tâm, ưa thích muốn về Cực lạc, quyết không lẽ nào không
được vãng sanh.
Tiết I:- Vấn
Ðề Khổ Trong Ðạo Phật
Thử nhìn khi cuộc sống
ban mai bừng dậy ở đô thành, ta thấy trên các nẻo
đường, khuôn chợ, hè
phố, quả là hiện cảnh của một suối người ồn ào rộn rịp.
Trong ấy, có già trẻ nam
nữ, có sang hèn, nghèo giàu, có kẻ xinh đẹp, người xấu thô, kẻ khoẻ mạnh vẹn
toàn, người yếu gầy tàn tật. Số người đông đảo gồm nhiều hạng sai biệt ấy đang
làm gì?
Tất cả đều đi về vấn đề
mưu sinh, lo ăn, mặc và ở. Trong cuộc sống hỗn độn,
cũng vì việc đó mà loài người tranh đua, giành giựt, lường gạt, cướp bóc, cho
đến giết hại lẫn nhau. Từ thế kỷ nầy đến thế kỷ khác, hết đời trị đến đời loạn,
giữa cái vui bào ảnh sự khổ triền miên, qua bao nhiêu lớp tang thương, loài
người vẫn sống trong cảnh ấy.
Người xưa không thấy
cảnh trăng ngày nay, người nay cũng không thưởng thức được cảnh trăng thời xưa,
song vầng trăng đã chứng kiến biết bao sự đổi thay của lớp người kim cổ!
( Cổ nhơn bất kiến kim
thời nguyệt, kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhơn.)
Và nếu gương trăng
có được mối suy tư, chắc cũng sẽ tự hỏi: “Dòng đời cứ
liên tục như thế, con
người từ đâu sanh ra? Khi chết sẽ đi về đâu? Và cái gì là
cứu cánh của kiếp
người?”
Nhưng vì gương nga không
có mối suy tư, nên cuộc đời xưa nay vẫn như thế.
Nếu có chăng thì cũng
chỉ một ít sự cảnh giác nho nhỏ về thân thế của loài
người - những cây sậy
biết suy tư. Chẳng hạn như:
Khi tỉnh mộng, lúc tàn
canh,
Giật mình, mình lại
thương mình xót xa!
Hay:
Còn ai, ai tỉnh, ai mê?
Hỡi ai thiên cổ đi về
những đâu?
Ðời đáng chán hay
không đáng chán?
Cất chén quỳnh xin hỏi
bạn tri âm?
Hoặc là:
Nghĩ thân phù thế mà
đau,
Bọt trong bể khổ, bèo
đầu bến mê!
Hoặc nữa:
Trong trời đất cổ kim,
kim cổ,
Mảnh hình hài, không có,
có không!
Nhưng con người chỉ
thoạt bừng tỉnh đôi phút rồi mơ màng trở lại, nên cuộc đờiđâu cũng vào đó, và
thế nhơn vẫn nối dõi mãi kiếp sống mộng trong cõi ngàn năm mây bay.
Trong giấc mơ vô tận ấy,
ai là người đã thức tỉnh?
Thuở xưa Ðức
Thích-Ca khi còn là Thái-tử, nhân lúc đi du ngoạn ngoài bốn cửa thành, Ngài đã
nhận thức sâu xa cái khổ của kiếp người qua các tướng già, bịnh, chết. Và Ngài cũng đã phát giác con đường thoát khổ qua hình dáng
tự tại của vị Sa-môn xả hết sự dục nhiễm ở đời, xuất-gia đi tìm chân lý.
Cho nên sau khi đắc đạo,
Ðức Mâu-Ni Thế-Tôn hằng đem thuyết bát-khổ, tam-khổ để cảnh giác hàng môn đệ
khuyên họ thắp sáng ngọn đuốc tự tỉnh, cố gắng vượt suối băng đồi, dìu dắt nhau
hướng về chân trời giải thoát.
Bát-khổ là gì?
Ðó là tám nỗi khổ của
kiếp người gồm có: sanh, già, bệnh, chết,
thương xa lìa, oán gặp
gỡ, sự mong cầu không toại ý, và năm ấm lẫy lừng.
Về mối khổ thứ nhất,
theo huệ nhãn của Đức Phật thấy, thì con người khi còn ở trong thai, tâm thức
mơ màng, sống giữa cảnh giới nhơ nhớp tối tăm như cảnh tù ngục. Khi bà mẹ dùng
thức ăn quá nóng, thai nhi như bị nằm gần lò lửa, và khi dùng thức ăn quá lạnh,
thai nhi như ở trong chỗ giá băng. Ðến ngày sanh nở, đứa trẻ thoát ra khỏi thai
cung lẫn lộn với máu huyết, ở trong trạng thái nguy hiểm thừa sống thiếu chết.
Khi mới sanh ra con người chỉ là một khối thịt non, cơn đói khát, lúc lạnh
nóng, khi bị kiến muỗi cắn đốt, duy biết khóc la. Tình trạng ấy thật đáng
thương xót, mà loài người trong vô lượng kiếp vẫn mãi chịu sự SANH khổ
đó. Vì thế nên tiên đức đã than:
“Vừa khỏi bào thai lại
nhập thai.
Thánh-nhơn trông thấy
động bi ai!
Huyễn thân xét lại toàn
nhơ khổ.
Dứt vọng mau về tánh bản
lai”.
Cây cỏ đã có lúc tươi
tắn sởn sơ, rồi sẽ phải đi đến chỗ điêu tàn cằn cỗi. Con
người cũng thế, có sanh
tất có già, sanh đã khổ mà già cũng khổ. “Nhớ thuở còn thơ dong ngựa trúc.
Thoắt trông nay tóc điểm màu sương!” Con người dù là thư sinh mặt trắng hay
thiếu nữ má hồng, ngày kia cũng phải trải qua cảnh ấy. Khi đã đến tuổi xế tàn,
thì con người chịu đủ các thứ suy khổ: da nhăn tóc bạc, lưng mỏi gối dùn, tai
lãng mắt lờ, răng long má cóp, ăn chẳng biết ngon, ngủ không yên giấc. Như thân
cây đã trải qua bao sương nắng rồi đến lúc ủ rũ xác xơ, con người chịu nhiều
nỗi lao lực lao tâm rồi lại tới cảnh suy già tàn tạ, tình trạng ấy nào có vui
chi? Vì thế Đức Phật mới bảo: GIÀ là khổ!
Lão-tử đã than: “Ta có
họa lớn, vì ta có thân”. Thật vậy, đã có thân thì khi đói
khát, lúc thời tiết nóng
lạnh, khi muỗi mòng cắn đốt, lúc cực nhọc vất vả, con
người đều cảm thấy khổ.
Nói riêng về sự đau bệnh, không ai có thể tránh khỏi,
khác chăng chỉ ít nhiều
nặng nhẹ mà thôi. Các chứng ngoại cảm nội thương, nếu nhẹ thì chỉ một đôi bữa
hay năm mười ngày, như nặng có khi triền miên trải qua năm tháng, làm cho con
người chịu nhiều nỗi nhọc mệt khổ đau. Nếu vương nhằm những ác bệnh như: lao
trái, phong cùi, ung thư, cổ trướng... mà lại gặp cảnh nghèo nàn, không tiền
thang thuốc, đời kẻ ấy kể như đã mất hết sinh thú.Có thân là có bệnh, có bệnh
tức có khổ, cái thuyết “BỊNH là khổ” quả thật một mối đáng quan
tâm, mà người đời hầu hết đều mơ màng, ít ai suy gẫm sâu để tìm lối thoát.
Như đóa hoa, trải bao
phen tươi tốt lại đến lúc tàn tạ héo khô, kiếp nhơn sinh
mãn thuở trắng răng sang
hồi đầu bạc, rồi kết cuộc đi về nẻo chết. Ðó là nói theo thông thường, thật ra
cái chết không hẹn kẻ ấu thơ hay người tuổi tác. Trước khi chết con người
thường trải qua cơn đau khổ về thể chất lẫn tinh thần.
Về thể chất thì khi thần
thức sắp rời bỏ báo-thân, đương nhơn bị sức nghiệp ác làm cho chân tay co rút,
mình mẩy nhức đau.
Về tinh thần thì còn nỗi
hãi hùng kinh sợ, hoặc tham luyến tiếc thương đối với thân nhơn, tài sản.
Chúng-sanh vì chấp ngã,
phần nhiều hay tham sống sợ chết, nên sự chết là mối lo ngại của con người. Hơn
nữa, biển nghiệp mênh mang, khi chết không biết thần thức sẽ trôi giạt về đâu,
thật là một điều đáng bi thảm! Vì thế Đức Phật đã bảo: CHẾT là
khổ!
Sống trong đời ai cũng
có thân bằng quyến thuộc. Ðó là những người ân, những kẻ đồng lao cộng khổ, hay
những người cùng gần gũi nhau, hiểu biết nhau, nên nếu chưa phải là bậc giải
thoát, tất không tránh khỏi sự tương quan về tình cảm. Vì thế, trong hoàn cảnh
xa lìa người thân mến, ai cũng cảm thấy một nỗi buồn!
Cảnh tử biệt tuy sầu,
nhưng còn dễ nguôi hơn cảnh sanh ly làm cho người mãi trông mong thương
nhớ! “Thà rằng tử biệt, ai nỡ
sanh ly”, đó là câu tục ngữ biểu
dương sự buồn khổ của đương nhơn trong tình chia cách. Có người đã vì cảnh biệt
ly mà sầu thương vàng võ, đôi khi đi đến cái chết. Cho nên thương mà xa
cách, xác thật là sự khổ của kiếp người.
Thương xa lìa đã khổ, mà
oán gặp gỡ cũng khổ. Ở gần những kẻ không đồng
tâm chí, không hiểu biết
nhau, thường có sự trái nghịch ý kiến, có mối buồn giận bất hòa, làm sao sanh
được niềm tươi vui an lạc? Nếu những người ấy là kẻ đối đầu, rắp tâm mưu hại
nhau, thì thật đương nhơn phải sống trong phút giây âu lo hồi hộp. Trong trường
hợp oan gia gặp gỡ, mà lại lâm vào hoàn cảnh khó nỗi thoát ly, thì kiếp nhơn
sinh đã hầu như vô vị, sự khổ còn chi hơn? Ðức Phật nói oán ghét gặp gỡ rất
khổ, là như thế đó.
Con người sống với nhiều
hy vọng. Có kẻ nghèo muốn cầu cho giàu hoặc sự
sanh nhai vừa đủ, xấu
muốn được đẹp, không danh phận muốn được thi đỗ hay có địa vị cao sang, đau
bịnh tàn tật muốn được vẹn toàn khỏe mạnh, gia đình tan tác muốn cho tụ hội
đoàn viên, nam nữ thương nhau muốn cho được phụng loan hòa hợp, không con muốn
cho có người thừa tự, con cháu ngỗ nghịch muốn cho nó trở nên thảo thuận hiền
lương; tóm lại từ việc nhỏ đến to, con người có muôn ngàn ước vọng. Nếu sự mong
ước đó không thành, tất kẻ ấy phải ôm lấy sự buồn rầu đau khổ. Cho đến có người
vì thất vọng mà mang bịnh hoặc quyên sinh. Nên sự mong cầu không toại ý
cũng là một mối khổ của kiếp người.
Chân tánh của ta bị năm
uẩn che lấp, năm uẩn nầy cũng gọi là năm ấm, tức là: sắc, thọ, tưởng, hành,
thức. Năm ấm đây đại khái chỉ cho phiền não. Như một khoảng không gian trong
tạnh mà bị khói lửa un xông, thì không khí ở nơi đó trở nên ngột ngạt nóng bức.
Tâm tánh trong sạch của
ta cũng như thế, nếu bị khói lửa phiền não ngũ ấm un xông, thì con người ấy đâu
còn sự sáng suốt, mát mẻ, an vui?
Những vị tu hành đi sâu
vào thiền định, không những thấy một niệm
phi
pháp là khổ nhọc, mà một
niệm hợp pháp cũng là mối trần lao. Cho nên các bậc
thánh-giả đã quan niệm năm ấm chẳng khác nào kiếp lửa thiêu đốt thế gian.
Chúng-sanh ba cõi đều còn trong phạm vi mù mịt nóng bức của năm ấm, nhưng riêng
về loài hữu-tình ở Dục-giới, nghiệp phiền não có phần thô trọng hơn. Vì thế Đức
Phật đã bảo: năm ấm lẫy lừng là khổ!
Trong Bát-khổ trên đây,
bốn món trước thuộc về khổ vật chất, bốn món sau
thuộc về khổ tinh thần.
Sự khổ về vật chất, tinh thần của kiếp người, có thể khái quát trong tám điều
ấy. Ngoài thuyết Bát-khổ còn có thuyết Tam-khổ là:
Khổ-khổ,Hoại-khổ, và
Hành-khổ.
Khổ-khổ là sự khổ tăng thượng, đại ý chỉ cho trên mối khổ
nầy còn thêm nỗi khổ khác; chẳng hạn như trên sự nghèo nàn còn thêm tật bệnh,
trên khổ vật chất còn thêm khổ tinh thần.
Hoại-khổ là nỗi khổ sau khi cuộc vui đã hoại, đại khái chỉ
cho sự buồn khổ trên cảnh tướng vô thường. Thí dụ như khi bạn bè thân quyến tụ
hợp là vui, lúc chia tay lại buồn; khi đắc thời được quyền chức thì vui, lúc
thất thế mất công danh lại khổ.
Hành-khổ là sự khổ do nghiệp hoặc lưu hành trong tâm thức,
nhẹ thì nó làm cho chúng-sanh mờ mịt tán loạn không được an điềm sáng suốt,
nặng thì khiến cho nổi lên nghiệp tham, sân, si vui buồn bất định.
Trong Tam-khổ đây,
chúng-sanh ở cõi dục có đủ ba, nơi cõi sắc chỉ có Hoại-khổ và
Hành-khổ; còn cõi Vô-sắc duy có Hành-khổ.
Tóm lại, dù Tam-khổ hay
Bát-khổ, đều y cứ trên pháp hữu vi. Nếu chúng-sanh
còn chấp trước pháp hữu
vi dù thô hay tế, tất còn có khổ. Chính sự vui của thế gian, Đức Phật cũng cho
là mối vui điên đảo, là khổ chớ không phải thật vui. Nên Ngài đã bảo: “Ba cõi
đều vô thường. Các pháp hữu vi không có chi là vui”. (Tam giới đại vô thường. Chư hữu vô hữu lạc).
Sự vui chân thật theo đấng
Ðiều-Ngự, là cảnh vắng lặng, trong sạch, sáng suốt, giải thoát của Niết-bàn
thuộc đức Trí, và lòng thương xót cứu độ chúng-sanh thuộc đức Bi.
Tiết II:- Tịnh Ðộ Phương Tây
Về Uế-độ, đại khái như
cõi Ta-Bà hiện tại mà chúng ta đang ở, không có chi kỳ
đặc đáng kể. Dưới đây,
xin trích dẫn các kinh Vô-Lượng-Thọ, Quán-Vô-Lượng-Thọ,
Phật-Thuyết-A-Di-Đà, lược thuật về chánh-báo, y-báo cõi Cực-Lạc, một
Tịnh-độ vị trí thuộc phương Tây của thế-giới nầy. Hiểu qua y chánh cõi Cực-Lạc,
tức sẽ quan niệm chung được những y chánh các cõi tịnh ở mười phương; vì quan
cảnh cõi Cực-Lạc thế nào, những Tịnh-độ khác về sự thanh tịnh trang nghiêm,
cũng tương tợ như thế ấy.
Chánh-báo cõi Cực-Lạc
1. Thân tướng
trang nghiêm: Thân thể của nhơn dân cõi Cực-Lạc đều là sắc
chân kim, đủ 32 tướng,
dung nghi xinh đẹp nhiệm mầu, hình mạo đồng nhau
không có ai hơn kém. Tất
cả đều thọ thân thể vô cực, tự nhiên. Thân tướng của Tây-Phương-Tam-Thánh lại
càng muôn phần trang nghiêm vi diệu.
2. Thọ mạng vô
lượng: Người ở cõi Cực-Lạc đều sống lâu vô lượng vô biên A
tăng-kỳ-kiếp, trừ những vị có bản nguyện đi đến các cõi khác để độ sanh muốn
trụ thọ mạng dài hay ngắn đều được tùy ý.
3. Thần thông tự
tại: Dân chúng cõi Cực-Lạc đều có ngũ thông là: Thiên-nhĩ thông,
Thiên-nhãn-thông, Tha-tâm-thông, Túc-mạng-thông, và Thần-túc-thông. Nếu vị nào chứng quả A-la-hán, thì kiêm được
Lậu-tận-thông.
4. Thường ở
trong chánh định: Tất cả đều trụ nơi chánh-định-tụ.
5. Không đọa ác
đạo: Kẻ nào được sanh về cõi ấy, tất không còn bị đọa vào ba đường ác
là: Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Bàng-sanh.
6. Hóa sanh nơi hoa sen: Nhơn dân cõi Cực-Lạc đều hóa sanh nơi hoa sen
trong ao thất bảo, thuần
là người nam, không có sự ái-dục và thai-sanh.
7. Thân thể tinh
sạch: Chúng-sanh ở cõi Cực-Lạc thọ thân kim cương, thể chất thơm tho
tinh sạch, không có các uế vật như mồ hôi, đàm dãi, đại tiểu tiện; không thọ
các sự khổ: sanh, già, bịnh, chết, thân ái, biệt ly, oán thù gặp gỡ, mong cầu
không toại ý và năm ấm lẫy lừng.
8. Vui như bậc
lậu-tận: Nhơn dân ở cõi ấy thân tâm thường được an vui như bậc
Lậu-tận-Tỷ-khưu.
9. Đạo tâm không
lui sụt: Những kẻ sanh về cõi nầy, đều thành bậc A-Bệ-Bạt-Trí, đối với
đạo vô thượng không còn thối chuyển, tu hành mạnh mẽ tinh tấn cho đến khi thành
Phật.
10. Trí huệ biện
tài: Nhơn dân cõi Cực-Lạc có vị đọc tụng, thọ trì, diễn giảng kinh
pháp; có vị tư duy diệu nghĩa, nhập định tham thiền; tất cả đều đủ trí huệ biện
tài.
11. Được
Vô-sanh-nhẫn: Đã sanh về cõi ấy tất sẽ chứng được vô-sanh-phápnhẫn và
các môn thâm-tổng-trì.
12. Cúng dường
chư Phật: mỗi buổi sớm mai, nhơn dân nước Cực-Lạc thường đem các thứ
hoa quí lạ đi cúng dường chư Phật ở mười phương. Nếu muốn cúng dường hương mầu,
y phục, bảo cái, tràng phan; do nhờ nguyện lực của Phật A-Di-Đà, đồ cúng dường
quí đẹp đúng theo ý muốn, liền hiện trên không nhóm lại như mây, rồi uyển
chuyển rơi xuống đạo tràng thành pháp cúng dường.
Khi cúng dường và nghe
thuyết pháp xong, trong khoảnh khắc, tất cả đều trở về bản quốc trước giờ thọ
thực.
13. Không ba
ác-đạo: Ở cõi Cực-Lạc không có các loài Địa-ngục, Ngạ-quỷ,
Bàng-sanh, cho đến không
nghe điều chi bất thiện huống nữa là có thật.
14. Gần gũi
Thánh-chúng: Người sanh về cõi Cực-Lạc, thường được gần gũi
các bậc đại Bồ-Tát như
Quán-Âm, Thế-Chí, Văn-Thù, Phổ-Hiền, chung quanh
mình toàn là bậc thượng
thiện, không có thầy tà bạn ác.
15. Oai lực tự
tại: Các bậc Thanh-Văn, Bồ-Tát ở Cực-Lạc, thần thông rộng lớn, oai lực
tự tại, có thể nhiếp trì tất cả thế-giới trong bàn tay.
16. Thân quang
rực rỡ: Ánh sáng nơi thân của chúng Thanh-Văn ở cõi ấy chiếu xa một
tầm, còn quang minh của hàng Bồ-Tát chiếu xa từ 100 do-tuần đến Tam
thiên-đại-thiên-thế-giới.
17. Nhiều
Thanh-Văn, Bồ-Tát: Chúng Thanh-Văn ở pháp hội đầu tiên của Phật
A-Di-Đà nhiều đến vô số. Các chúng Bồ-Tát cũng như vậy. Đức Bổn-Sư bảo ngài
A-Nan: “Người có trí huệ thần thông như bọn ông Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên, đến
kế các bậc Bồ-Tát, Thanh-Văn trong pháp hội đầu tiên ấy, cũng không biết số
lượng là bao nhiêu, huống chi các pháp hội khác!”
18. Bậc
Bổ-xứ-vô-biên: Chúng-sanh sanh về cõi Cực-Lạc đều là bậc A-bệ-bạt-trí.
Trong ấy những vị Nhất-sanh-bổ-xứ Bồ-Tát rất nhiều, không thể dùng toán số tính
kể được, chỉ có thể đem số vô lượng vô biên A-tăng-kỳ để nói mà thôi.
Y-báo cõi Cực-Lạc
1. Quốc độ bằng
phẳng: Toàn cõi Cực-Lạc bằng phẳng, trong sạch không một điểm trần,
không có núi Tu-Di, Kim-Cang và tất cả các núi, cũng không có các biển lớn nhỏ,
sông, suối, giếng, hang.
2. Bảy báu làm
đất: Quốc-độ của Phật A-Di-Đà, đất là lưu ly xen với thất bảo, trong
ngoài chói suốt nhau, dưới có tràng kim cương thất bảo nâng đỡ. Tràng nầy hình
bát giác đều đặn, mỗi phía do tám thứ báu hợp thành. Mỗi hạt bảo châu phóng ra
ngàn tia sáng, mỗi tia sáng có 84.000 sắc chói, đất lưu ly sang như ngàn ức mặt
trời. Mặt đất lưu ly bằng phẳng, có giây hoàng kim cùng thất bảo giăng phân khu
vực và đường xá. Mỗi khu vực rộng rãi bao la, cảnh trí kỳ lệ nhiệm mầu, trang
nghiêm thanh tịnh.
3. Khí hậu điều
hòa: Khí hậu ở cõi Cực-Lạc không nóng không lạnh, thường mát mẻ điều
hòa, không có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.
4. Lưới báu
trang nghiêm: Trên hư không có vô lượng lưới báu chia từng khuôn,
giăng che khắp Phật-độ. Lưới nầy giây bằng chất nhuyễn kim hoặc chơn châu,
trang nghiêm bằng vô lượng kỳ trân tạp bảo, quang sắc rực rỡ như sao. Chung
quanh mỗi khuôn lưới có treo nhiều linh báu, mỗi khi gió nhẹ thoảng qua, các
bảo linh ấy phát ra vô lượng pháp âm mầu nhiệm. Chư thiện nhơn nghe rồi tự
nhiên sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
5. Sáu thời mưa
hoa: Ở cõi Cực-Lạc, ngày đêm sáu thời mưa xuống hoa Mạn đà-la, gió nhẹ
phi phất, hoa bay khắp Phật-độ. Hoa nầy nhu nhuyễn, thơm tho; chư thiện nhơn
lúc bước chân đi, hoa lún xuống bốn tấc, khi giở chân lên, hoa tròn nguyên như
cũ. Thánh-chúng thưởng ngoạn và thọ dụng mưa hoa xong, Mạn-đà-la hoa lần lượt
biến mất, mặt đất trở lại vẻ trang nghiêm, tịnh khiết.
6. Bảo trì thơm
sạch: Ở cõi Cực-Lạc nơi nơi đều có bảo trì rộng rãi mênh mang, trong
ao đầy dẫy nước Bát-công-đức trong sạch thơm tho, vị như cam-lộ. Những ao nầy
do từ một thứ báu đến bảy thứ báu tạo thành, như thành ao bằng hoàng kim, đáy
ao trải cát thủy tinh; thành ao bằng bạch ngân, xa cừ, mã não, đáy ao trải cát
lưu ly; hoặc thành ao bằng bạch ngọc, đáy ao trải cát kim cương nhiều màu.
7. Nước ao tùy
ý: Các thượng thiện nhơn lúc vào ao để tắm, tùy theo ý muốn, nước tự
dâng lên, hoặc ngập đến đầu gối, đến bụng, đến cổ. Nước nầy từ như ý-châu-vương
sanh ra, tùy tâm người mà lên xuống, hoặc sâu, hoặc cạn, hoặc ấm, hoặc mát, rất
điều hòa, thuận thích.
8. Sen báu nhiệm
mầu: Mỗi ao có sáu mươi ức hoa sen thất bảo. Mỗi hoa sen tròn lớn 12
do-tuần, có trăm ngàn ức cánh, đủ các màu xinh đẹp, màu nào chiếu ánh sáng nấy.
Nước Bát-công-đức chảy lên xuống theo cọng sen hoặc lòn vào cánh hoa, phát ra
tiếng thanh tao diễn nói pháp mầu: Khổ, Không, Vô-thường,Vô-ngã và các môn
Ba-la-mật.
9. Cây đạo tràng
thọ: Cây bồ-đề nơi đạo tràng của Phật do các thứ báu hợp
thành, chất báu căn bản
tên là Nguyệt-Quang-Ma-Na-Trì-Hải-Luân. Thân cây
trang nghiêm bằng ngọc
anh lạc treo rủ xuống, chiếu ra ngàn muôn sắc. Trên
ngọn cây có lưới báu phủ
giăng; nơi thân cây và lưới báu tùy thời ứng hiện vô
lượng Phật-sự trang
nghiêm.
10. Bảo thọ phát
âm: Khắp cõi Cực-Lạc có những cây thất bảo mọc theo hàng lối ngay
thẳng, có thứ cây thuần một chất báu, hoặc hai, ba, cho đến bảy chất báu hợp
thành. Các hàng cây, thân cây, cành, lá, hoa, trái đều có sự tương đối cân
phân. Tất cả Phật-sự ở cõi Cực-Lạc và mười phương thế-giới đều hiện bóng rõ nơi
thân cây như vật hiện trong gương sáng. Những hoa xinh đẹp sắc vàng
Diêm-phù-đàn xen trong kẽ lá, sáng rỡ như những vòng lửa. Trên hoa tự nhiên có
trái thất bảo hình như chiếc bình quý của trời Đế-Thích.
Sự trang nghiêm của bảo
thọ nhìn xem không thể xiết! Gió mát từ thân cây nhẹ nhàng phát ra, nổi lên năm
thứ âm thanh vi diệu, tự nhiên hòa tấu, còn nhiệm mầu hơn tiếng nhạc của trời
Tha-Hóa ngàn muôn ức lần! Âm thanh của bảo thọ diễn nói pháp mầu!
Chúng-sanh ở cõi ấy tai
nghe tiếng tăm, mắt thấy màu sắc, mũi ngửi hương
thơm, lưỡi nếm vị ngon,
thân tắm ánh sáng, ý duyên diệu pháp của cây báu, đều được sáu căn thanh triệt,
trụ nơi bất thối chuyển.
11. Bảo tòa quý
lạ: Ở cõi Cực-Lạc, Phật, Bồ-Tát cùng Thánh-chúng đều ngồi tòa sen báu.
Các liên tọa nầy do từ một hai, cho đến vô lượng chất báu hợp thành, màu sắc
đẹp lạ, quang minh sáng rỡ, nhu nhuyễn lớn nhỏ xứng theo thân thể người ngồi.
Tòa sen của Phật có 84.000 cánh, mỗi cánh rộng 250 do-tuần, có 100 màu. Nơi mỗi
cánh hoa lại hiện 84.000 lằn gân, phóng ra 84.000 tia sáng, có trăm ức châu
ma-ni xen lẫn vào. Đài sen bằng chất Thích-ca-tỳ-lăng-già-bảo, trang nghiêm xen
lẫn tám muôn thứ ngọc kim-cương, ma-ni. Sự kỳ lệ của lien tòa nầy vô cùng, đây
là chỉ kể phần sơ lược.
12. Cung điện
trang nghiêm: Những giảng đường, tinh xá, lâu các, cung điện của Phật,
Bồ-Tát, nhơn dân nơi cõi Cực-Lạc, do vô lượng trân bảo hợp thành, trăm ngàn
muôn lần quý đẹp hơn Tự-Tại-Thiên-cung. Những đền đài nầy có thứ nổi lên giữa
hư không, cao lớn tùy theo ý muốn của người ở, có thứ không theo ý muốn mà trụ
trên bảo địa. Đây là do công hạnh tu hành có hơn kém mà trụ xứ khác nhau, nhưng
sự thọ dụng về ăn mặc thì đều bình đẳng.
13. Thức uống ăn
tinh khiết: Nhơn dân cõi Cực-Lạc khi muốn uống ăn thì bát khí thất bảo
như: vàng, bạc, lưu ly, tùy ý hiện ra trước mặt. Trong các thứ đồ báu ấy có đầy
đủ trăm vị ẩm thực, ăn vào tự nhiên tiêu hóa không còn cặn bã, có vị chỉ thấy
sắc, nghe hương tự nhiên no đủ,
không cần phải ăn uống.
Khi sự việc đã xong, bảo
khí tự nhiên ẩn mất, đúng thời lại hiện ra, không cần phải dọn dẹp.
14. Pháp phục
tùy tâm niệm: Y phục của dân chúng ở cõi nầy, tùy tâm niệm liền hiện
ra nơi thân. Tất cả y phục đều quý đẹp tự nhiên, không cần phải cắt, may,
nhuộm, giặt.
15. Hóa cầm nói
pháp: Đức Phật A-Di-Đà vì muốn cho pháp âm lưu thông, hóa hiện ra vô
số thứ chim tạp sắc kỳ lạ như: Bạch-hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi,
Ca-lăng-tần-già, Cộng-mạng, Hồng, Nhạn, Oan-ương.... Các thứ chim nầy ngày đêm
sáu thời kêu lên tiếng hòa nhã, diễn nói những pháp như: năm căn, năm lực, bảy
phần bồ-đề, tám phần thánh-đạo. Chúng-sanh ở cõi ấy nghe rồi, tự nhiên sanh
lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
16. Hương thơm
bay khắp: Ở cõi Cực-Lạc, từ mặt đất cho đến hư không, cung điện lâu
đài, ao nước cây hoa, đều do vô lượng tạp bảo, trăm ngàn thứ hương kết thành,
sự trang nghiêm kỳ diệu vượt hơn các cõi trời. Mùi hương bay xa đến mười phương
thế-giới, hàng Bồ-Tát nghe rồi đều tu Phật hạnh.
17. Vạn vật nghiêm đẹp:
Tất cả muôn vật ở cõi nầy đều nghiêm, sạch, sáng,
đẹp, hình sắc lạ thường,
vi diệu cùng cực, không thể diễn tả và nói hết số lượng.
18. Quốc độ sáng
trong: Cõi Cực-Lạc sáng sạch trong ngần, in bóng vô số thế-giới của
chư Phật ở mười phương. Sự ảnh hiện nầy rất phân minh, như người nhìn vào gương
soi thấy mặt mình.
Một câu A Di Ðà
Như cọ gỗ lấy lửa
Gỗ nóng khói phát sanh
Chớ tạm dừng lần lựa.
( Nhứt cú Di Ðà
Loại như toản hỏa
Mộc noãn yên sanh
Tạm đình bất khả. )
LƯỢC
GIẢI
Thời xưa ở Ấn Ðộ, khi muốn lấy lửa người ta cọ hai thanh gỗ khô vào nhau. Cọ
đến khi nào gỗ nóng phát sanh ra khói, mới để đồ dẫn hỏa vào, tự nhiên lửa bắt
phừng cháy. Nếu cọ nửa chừng, hoặc đến lúc đã nổi khói mà bỏ dở tạm dừng, thì
gỗ sẽ lần lần nguội đi không phát ra lửa được.
Sự hành trì câu A Di Ðà cũng như thế. Khi chúng sanh ở Ta Bà phát tâm niệm Phật
cầu về Cực Lạc, thì nơi ao báu ở Tây phương đã nở hiện một búp sen. Nếu hành
giả mỗi ngày đều tinh tấn trì niệm, hoa sen ấy sẽ lần lần to lớn. Như nửa chừng
bỏ dở, hoa sen cũng lần khô héo rồi tàn. Bởi đóa sen chín phẩm nơi liên trì,
đều do công đức của hành giả mà thành tựu. Ngày kia công hạnh thành, báo thân
mãn, thần thức của đương nhơn sẽ gởi vào thai sen đó mà hóa sanh. Cho nên người
tu tịnh nghiệp chớ nên niệm Phật nửa chừng rồi bỏ dở, hoặc biếng trễ lần lựa
tạm dừng. Vì trễ sót như thế tất nhiên thai sen sẽ hỏng.
Viết đến đây, bút giả nhớ lại độ trước có được cô Diệu Thuần ở quận Ba Tri tỉnh
Bến Tre, thuật lại cho nghe điềm mộng như sau:
- Bạch thầy! con nằm mơ thấy đến một ngôi chùa, trước chùa có ao to rộng, nước
trong suốt, các đóa hoa sen nhiều sắc, hoặc lớn hoặc nhỏ đua nhau tươi nở. Gần
bờ ao có một hoa sen to lớn độ bằng chiếc mâm thau tròn. Nhưng đóa hoa ấy lại
bị cái chụp úp lên. Con lại gần dở cái chụp thì hoa sen tan rã từng cánh rồi
tàn rụng.
Lúc ấy, giữa hư không bỗng
có tiếng nói: "Hoa sen đó là của liên
hữu Minh Phúc!". Sau khi tỉnh giấc, sáng
ra con đem điềm mộng thuật lại cho đạo hữu Minh Phúc ở tiệm vàng tại bản quận
nghe. Ðạo hữu tỏ sắc lo sợ bảo: "Chết nỗi! Thầy dặn tôi mỗi ngày niệm Phật tối thiểu phải một ngàn
câu. Tôi tinh tấn đã được
vài năm, nhưng gần đây vì công việc quá bề bộn, nên suốt ba tháng nay biếng trễ
không niệm một câu nào. Bây giờ chị thấy hoa sen héo rụng, và chư vị đã mách
bảo như thế, tôi phải sám hối gắng tinh tấn lại mới được!". Thưa thầy! Con
đã biết hoa héo rụng là do Minh Phúc giải đãi, nhưng chưa rõ tại sao lại có cái
chụp ấy?.
Bút giả đáp:
- Chiếc chụp tượng trưng
cho Ngũ Cái nói về phương diện chung, hoặc Ngũ Dục về phương diện riêng. Ngũ
Cái là: tham, sân, si, nghi, hối. Ngũ dục là: sắc đẹp,
tiền của, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Chúng sanh thường bị những
điều trên che đậy, làm cho tham đắm si mê, không biết tỉnh ngộ tu hành.
Minh Phúc tất bị một hoặc
nhiều phần trong các điều ấy che mờ, nên mới biếng trễ không niệm Phật, khiến
cho hoa sen công đức phải héo tàn. Nhưng từ đây biết giác ngộ gắng tu thì đóa
hoa sen khác sẽ tiếp tục mọc lên, thay cho đóa hoa trước. Ðừng nên e ngại rằng
nó tàn rồi mất hẳn, mà phế bỏ sự tu trì.
Khi xưa cô thị nữ của bà
Kinh Dương phu nhơn, trước tiên cũng giải đãi
nên hoa sen héo tàn, sau giác ngộ tinh tấn, hoa lại mọc lên tươi tốt. Kết cuộc
cô được vãng sanh Cực Lạc, cô trở về báo mộng cho phu nhơn biết.
Tuân-Thức Đại Sư
(Sư họ Diệp, quê quán ở
Thái Châu, nhân bà mẹ lễ cầu đức Quán Thế Âm mà sanh ra. Ngài thọ cụ giới lúc
20 tuổi, ban đầu học luật, kế lại vào Chùa Quốc Thanh tập về giáo quán Thiên
Thai. Đại sư chuyên trí cầu về Cực lạc, tu pháp Bát Chu Tam muội, khổ hạnh đến
mửa ra máu. Với lòng kiên quyết, Ngài lấy cái chết làm kỳ hạn, không thôi nghỉ.
Đêm lại, sư mơ màng thấy
đức Quán Thế Âm chỉ tay vào miệng lôi ra mấy con trùng, đầu ngón tay của Bồ tát
nước cam lồ túa ra chảy vào cổ họng mình, nhân đó mà hết bịnh.
Sau Ngài ở Chùa Bảo Vân
suất lãnh đại chúng đồng tu tịnh nghiệp. Đại sư có trứ tác mấy pho sách: Di Đà Sám Pháp, Tịnh Độ Quyết Nghi, Thập Niệm Pháp, Vãnh
Sanh Lược Truyện lưu hành ở đời. Lúc
lâm chung, Ngài đốt hương lễ Tam bảo cầu chứng minh, rồi niệm Phật mà thoát,
hưởng 69 tuổi.)
Đại sư nói: Người tu tịnh nghiệp, khi làm công việc chi, dù trải qua nhiều sự duyên phiền nhọc, song trong tâm
lúc nào cũng không quên câu niệm Phật. Ví như người đời có việc chi cần yếu giải quyết chưa
xong, bỗng gặp duyên khác đến, tuy tới lui ngồi xuống, giao tiếp nói cười, làm
việc này khác lăng xăng, nhưng trong tâm không ngớt lo nghĩ đến chuyện trước
kia.
Người niệm Phật phải tập
tâm niệm của mình cũng y như thế, nếu niệm có thất lạc, phải thâu nhiếp lại,
lâu ngày thành thói quen, chừng ấy sự nhớ niệm được tự tại.
Cho nên kinh
Lăng Nghiêm nói: "Nếu cứ thế mà nhiếp tâm, tự nhiên có thể ngăn
được niệm ác. Giả sử muốn làm ác, do vì nhớ Phật nên việc ác kia không thành,
như người trong thân có mùi thơm, tự nhiên hơi hôi sẽ tan đi mất".
Sớm mai thức dậy phục
sức xong rồi, nên chấp tay hướng về Tây niệm Phật. Nên lấy hơi dài, niệm liên
tiếp luôn hết một hơi, kể là một niệm, niệm đủ mười hơi là mười niệm. Nhưng đừng nên quá cố gắng, hơi hoặc dài ngắn,
tiếng hoặc cao thấp, niệm hoặc chậm mau, đều tùy tiện theo sức mình.
Niệm xong, phát nguyện
vắn tắt cầu sanh Tây phương. Nếu có thờ Phật, nên đối trước Phật mà niệm, nhưng
khi mới vào và lui ra, đều phải lễ ba lạy. Pháp thập niệm này rất tiện lợi cho
người có nhiều duyên sự. Nếu mỗi ngày đều thật hành y
theo đây, lấy trọn đời làm kỳ hạn, thì quyết định sẽ được vãng sanh.
Niệm Phật
Phải Dự Bị Lúc Lâm Chung
Bên đường xe tang buồn đi
qua
Chiều hôm mồ hoang sương trăng tà
Vô thường đời trần thương ôi mau!
Người đi rồi lần sang phiên ta.
Nghìn xưa xa vời trong mông lung
Tài hoa tan về nơi vô cùng!
Luân hồi không cầu đường siêu thăng
Dù cho hiền minh sao anh hùng?
Hoàng hôn mây hồng in non xa
Dung hoa thầm khô theo suy già
Di Đà chuyên tu phòng lâm chung
Tương tư mơ về trời Liên Hoa.
Comments
Post a Comment