CHÁNH VĂN
86.-Ẩn tu xót cảnh đạo đời suy
Lý học Đông Tây đã dự tri
Thiên giáo chỉ rành cơ tận
thế
Tiên ghi tận diệt đến thời
kỳ.
87.-Ẩn tu lý đạo nói sao cùng !
Nhân-quả nghiêm minh xử
lạnh lùng !
Tài, sắc, giàu, sang âu
cảnh tạm
Sáng tươi chiều héo đoá Phù
Dung.
88.-Ẩn tu thế chiến biết kỳ ba
Nước lửa sơn lâm khắp hải
hà
Mấy cuộc lọc thanh đầy
huyết-lệ
Bay hồn thảm khổ, lướt khôn
qua
89.-Ẩn tu bom đạn, rõ điềm hung
Tan-tác thành đô quả đất
rung
Đổi cảnh, đổi người, thời
tiết đổi
Núi nhô, núi sụp, chuyện
khôn cùng.
90.-Ẩn tu mạt-kiếp thấy lời ghi
Trước mất Lăng Nghiêm pháp
diệu kỳ
Lần lượt các kinh đều diệt
hết
Duy còn Phật hiệu độ
cơ-nguy.
GIẢNG GIẢI
BÀI SỐ 86
Ẩn tu xót cảnh đạo đời suy
Lý học Đông Tây đã dự tri
Thiên giáo chỉ rành cơ tận
thế
Tiên ghi tận diệt đến thời
kỳ.
NHƯ Ý : Theo Luật VÔ THƯỜNG, thì cả ĐẠO lẫn ĐỜI đều ở
trong chu kỳ SANH, TRỤ, DỊ, DIỆT ( hay THÀNH, TRỤ, HOẠI, KHÔNG), nay đã đến thời kỳ DỊ, DIỆT (hay HOẠI, KHÔNG), có lẽ do Huyền-cơ của chư Thánh muốn cảnh giác Nhân-loại
lánh Dữ làm Lành, nên Tây Phương đã có NOSTRADAMUS ở Pháp , cùng các bậc TIÊN
TRI ở Đức, Nga, Mỹ...
Đông Phương
cũng có Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM ở Việt-Nam và các
đấng TIÊN TRI ở Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa, cho đến CÁC TÔN-GIÁO CŨNG CÓ
HUYỀN-KÝ VỀ CÁC TAI NẠN CHUYỂN BIẾN MAI SAU, đây là một trong những Phương-tiện
Độ-sanh đường vội cho là Dị-đoan Phù-phím.
Gần đây, ở Thượng Hải đàn cơ bút mở ra rất nhiều. Sự chỉ dạy bỏ dữ làm lành và những thuyết luân hồi nhân quả thiển cận của các đàn ấy, đều rất có ích cho thế đạo, lòng người. Nhưng mấy điểm nói về cơ trời, Phật pháp, thì không khỏi mơ hồ, lầm lẫn.
Chúng ta là đệ tử Phật,
không nên bài bác việc đó, vì có trở ngại cho sự LÀM LÀNH của người, song cũng
chẳng nên PHỤ HỌA khen ngợi, vì sẽ mang lỗi đem điều ức đoán viễn vông khiến
cho Phật pháp HƯ LOẠN, chúng sanh nghi lầm.
Ấn Quang này tự xét mình nhiều nghiệp chướng nhưng quyết
không dám theo tình bỏ lý, gây sự lầm lỗi cho người. Những lời trên đây xin
châm chước tình lý mà làm theo mới khỏi điều tệ hại.
Lá Thư Tịnh Độ
Thơ đáp một Cư Sĩ ở Vĩnh
Gia
Tiết 40.- Nói Chung Về Nghiệp Si
Người tu khi với sự lý của
mọi vấn đề không thể hiểu minh bạch, rồi từ đó dẫn sanh tất cả điều mê hoặc,
khiến cho tâm niệm chẳng yên, đó là lúc nghiệp si nổi lên. Chẳng hạn như trong
khi đang tu, thoạt nhớ có kẻ nói phải niệm chừng nào nhứt tâm bất loạn mới được
vãng sanh, nay xét mình khó nỗi đến trình độ ấy, công hành đạo e luống uổng,
rồi sanh ý phân vân, đó là hiện tướng của nghiệp si. Si mê là nguồn gốc của tất
cả phiền não. Tham, Sân do Si mà Mạn, Nghi, Ác Kiến cũng đều do Si.
Như khi khởi niệm: Sự hành
đạo siêng nhọc của ta, chưa chắc người xuất gia đã bằng; đó là Ngã Mạn
phiền não. Lúc niệm Phật, bỗng sanh ý nghĩ: Cõi Cực Lạc trang nghiêm dường
ấy, mình nghiệp dày phước mỏng, biết có được vãng sanh hay chăng? Đó là Nghi
phiền não.
Ác kiến là sự thấy hiểu cố chấp xấu ác, gồm năm điều Thân
kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến Thủ kiến, và Giới Thủ kiến. Như đang tu hành,
chợt nghĩ: thể chất mình vẫn yếu, hôm nay lại nghe mỏi nhọc, nếu niệm Phật thêm
lâu nữa sợ e phải đau; đó là Thân kiến. Hoặc nghĩ: Chết rồi như đèn
tắt, nếu có đời trước sao mình không nhớ? Tốt hơn là nên tu tiên để được sống
lâu không chết. Đây là Ðoạn kiến và Thường kiến trong
Biên kiến. Hoặc suy tưởng tại sao có người làm lành lại mạng yểu, chết một cách
dữ dằn; kẻ làm nhiều điều ác lại sống lâu, chết rất tốt đẹp yên ổn? Vậy thì tu
hành đâu có ích lợi chi! Đây là lối chấp Tà kiến, không thấu suốt lý
nhân quả ba đời. Có kẻ lại nghĩ: trước kia mình tu theo cách luyện
điển của giáo phái khác, mới ít tháng liền có sự biến đổi; nay sao niệm Phật đã
lâu mà không thấy chuyển động gì? Đây là Kiến Thủ kiến, tức là chấp lấy
sự nhận thức sai lầm của mình. Hoặc lại suy nghĩ: Bên đạo khác họ sát sanh
vẫn cầu được về Thiên Đường; mình cũng cầu sanh Cực Lạc, vậy cần chi phải giữ
giới sát? Đây là Giới Thủ kiến, tức sự chấp hiểu lầm lạc về giới pháp.
Hình thức của nghiệp si
rất nhiều; nhưng người tu Tịnh Độ cần
nhứt là phải y theo kinh Phật, và đặt trọn vẹn đức tin vào đó. Đối với đạo lý sâu xa, điều nào không biết thì nên
tìm hỏi nơi bậc thiện tri thức. Nghiệp si dễ khiến cho người lạc mất chủ hướng
khi bị các thuyết khác đả phá, mà môn Tịnh Độ lại là pháp thâm diệu khó tin
hiểu. Theo kinh luận, người niệm Phật nên y theo ba lượng để củng cố lòng tin.
1. Lý Trí Lượng: là
sự suy lường tìm hiểu của lý trí. Chẳng hạn như suy nghĩ: Các thế giới đều do
tâm tạo, đã có cõi người thuộc phân nửa nghiệp thiện ác, tất có tam đồ thuộc
nhiều nghiệp dữ, và các cõi trời thuộc nhiều nghiệp lành. Như thế tất cũng có
cõi Cực Lạc do nguyện lực thuần thiện của Phật, và công đức lành của chư Bồ Tát
cùng những bậc thượng thiện nhơn.
2. Thánh Ngôn
Lượng: là giá trị lời nói của Phật, Bồ Tát trong các kinh luận. Đức
Thế Tôn đã dùng tịnh nhãn thấy rõ y báo, chánh báo cõi Cực Lạc, và
diễn tả cảnh giới ấy trong các kinh Tịnh Độ. Các bậc đại Bồ Tát như Văn Thù,
Phổ Hiền đều ngợi khen cõi Cực Lạc và khuyên nên cầu vãng sanh. Người Phật tử
nếu không lấy lời của Phật, Bồ Tát làm mực thước, thử hỏi còn phải tin ai hơn?
3. Hiện Chứng
Lượng: là lối tìm hiểu do sự thấy biết hoặc chứng nghiệm hiện thật, để
khởi lòng tin. Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục đã chứng minh rất nhiều vị
niệm Phật được vãng sanh, và ở Việt Nam ta cũng có nhiều Phật tử tu
Tịnh Độ được về Cực Lạc. Chẳng những thế, mà hiện tiền khi tịnh niệm các vị ấy
cũng thấy cảnh Tịnh Độ hiện bày. Nếu không có cõi Cực Lạc, và không có Phật A
Di Đà tiếp dẫn, thì làm sao những vị ấy thấy rõ và được kết quả vãng sanh?
Trên đây là ba lượng mà
hành giả Tịnh Độ phải y cứ để giữ vững lòng tin. Lại theo Ấn Quang pháp
sư, người niệm Phật không nên
đem sự tu Tịnh Độ thỉnh giáo các vị thiện tri thức bên Thiền Tông. Bởi lối đáp của những vị ấy đều đi về bổn phận,
tức là nói về lý tánh, mà Tịnh Độ thì thuộc về tướng tông. Vì chỗ chủ trương
khác nhau như thế, nếu kẻ sơ học chưa dung thông tánh tướng, e không được lợi
ích chi, mà còn tăng thêm lòng nghi ngại phân vân bất nhứt.
Niệm Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Theo bút giả, khi xét về
vấn đề thế-giới-quan của Phật-giáo, ta nên thận trọng trong ba điểm:
1. Chớ một mặt
theo lòng tin tưởng của mình: Đức tin cố nhiên là điều rất tốt cho
người học đạo, nhưng lòng tin luôn luôn phải dung hòa với lý trí. Nếu nghe đâu
tin đó, tất dễ bị lạc lầm. Điểm nầy chính Đức Phật cũng có đem khuyên răn các
đệ-tử.
2. Đừng quá chấp
nê theo lý trí: Lý trí là một hướng dẫn tinh thần tốt trên đường đời
cũng như đường đạo. Nhưng ta chớ quên rằng lý trí con người vẫn ở trong phạm vi
hữu hạn, theo sự thấy biết hay dự đoán của giác quan.
Một thí dụ gồm cả chứng
minh hiện thật: Như khi xưa vua Tự-Đức và triều thần, vì chưa tiếp xúc với nền
văn minh Âu-Tây, nên khi nghe cụ Phan-Thanh-Giản đi Pháp về, nói có thứ đèn
không đốt mà cháy, xe thuyền không có ngựa kéo, người bơi, hoặc trương buồm mà
vẫn chạy được; ai nấy đều cho là vô lý, là đi xa về kiếm chuyện nói dối. Cho
đến cụ Nguyễn-Tri-Phương là một bạn đồng liêu thân nhất của cụ Phan, cũng một
mực lắc đầu không tin. Thế thì nếu căn cứ nơi lý trí của mấy vị ấy, đèn điện,
xe hơi, tàu thủy không có hay sao?
Còn một điều không đáng
tin nơi giác quan của chúng-sanh, mà Đức Phật gọi đó là “Biệt-nghiệp-vọng-kiến”.
Thí dụ: người bị bịnh nóng sảng sốt, nhìn lên mái nhà thấy mấy cây đòn tay
tưởng là những con rắn lăng quăng; biệt-nghiệp-vọng-kiến của chúng-sanh cũng
như thế, loài người thấy chất ở dưới
sông là nước, các thủy tộc thấy đó là nhà cửa, chư thiên nhìn ra là lưu ly,
Ngạ-quỷ thấy là một vùng máu lửa. Có được sự thấy xác đáng nhất, âu chỉ là chư Phật.
Kinh Pháp-Hoa nói: “Bất
như tam giới kiến ư tam giới chi tướng, Như-Lai tri kiến vô hữu thác mậu”. Câu
nầy có nghĩa: “Cái thấy tam giới của Như-Lai; không phải lầm lạc như cái thấy
tam giới của chúng-sanh”. Dẫn ra lời nầy dường như hơi xa vấn đề, nhưng để cho
chúng ta đừng vội tự hào rằng lý trí của mình luôn luôn là đúng, và
đừng đem tâm hiểu biết của phàm-phu mà trắc lượng, phê bình sự hiểu biết của
hiền-thánh.
Cho nên trong kinh có
đoạn Phật bảo: “Phải suy xét kỹ, đừng vội
tin một lời gì, dù người ta bảo đó là lời của Như-Lai nói”. Nhưng cũng có đoạn Phật bảo: “Phải tin nơi lời
thành thật chắc chắn của Như-Lai, vì cảnh giới nầy không phải là sức các ngươi
có thể hiểu biết được”. Ta nên suy gẫm lại điểm ấy.
3. Không nên cực
đoan y cứ theo khoa học: Xin lập lại, đây không phải ý nghĩa phủ nhận
khoa học, mà là một cảnh giác nhắc ta nên dè dặt, đừng chấp nhận khoa học theo
lối cực đoan. Vì dù sao, khoa học vẫn còn ở trên con đường suy luận,
chưa đi đến chỗ kết luận. Đã có vài nhận định, trong thời gian quá khứ
khoa học cho là đúng, nhưng trong hiện tại nó đã thành sai.
Theo đó suy ra, việc nầy
là xác thật ở hiện kim, biết đâu tương lai nó lại chẳng có thể hóa nên lầm lạc?
Như trước kia người kia
bảo trái đất vuông, bây giờ nó chẳng phải vuông mà là tròn, có thể mai sau nó
sẽ thành hình méo. Hoặc như mặt trời người ta vẫn cho là định tinh, nhưng gần
đây một vài nhà khoa học lại bảo rằng nhật cầu có sự xê dịch. Sở dĩ bút giả nêu
lên điểm nầy, vì nhận thấy trước trào lưu văn minh mới đa số người Ðông-phương
cho cái gì của Tây-phương cũng là hay mà quên cái hay cố hữu của mình, cái gì của khoa học cũng là đúng, mà không xét kỹ xem nó
có phải thật đúng hay không? Do đó, mới ghi ra
đây một cảnh giác dè dặt như thế thôi.
Dung hội ba điểm trên để
xét qua vấn đề thế-giới-quan của Phật-giáo, ta có thể ước lượng như sau: có lẽ
một ít chi tiết về thế-giới-quan của Phật-giáo là sai lạc, chẳng hạn như trong
một việc mà các Kinh-luận nói khác nhau, nhưng phần chánh yếu như các cõi trời,
tứ-đại-bộ-châu, địa-ngục, thì quyết nhiên có thật vì các kinh lập luận
tương đồng.
Thí dụ như
Hương-thủy-hải là có, nhưng kinh Khởi-Thế-Nhân-Bản nói biển Hương-thủy ngoài
núi Tu-Di bề ngang rộng 84.000 do-tuần. Luận Câu-Xá nói rộng 80.000 do-tuần.
Hoặc như tứ-đại-bộ-châu có thể là bốn quả địa cầu như nhật cầu, nguyệt cầu
chẳng hạn, nhưng có lẽ vì muốn giản dị hóa cho người thời bấy giờ dễ hiểu, hay
vì lý do khoa học thuở xưa chưa được tinh minh, nên người ghi chép diễn tả một
hòn đảo.
Phần chi tiết có lẽ sai
là thế, còn phần chánh yếu thỉ chung vẫn là đúng. Sự đúng nầy căn cứ
nơi trí-lượng, hiện-thật-lượng và thánh-ngôn-lượng mà quyết đoán, tuyệt không
phải lời nói mơ hồ. Dù sao, bản ý của bút giả chẳng qua chỉ muốn ghi
lại nơi đây một khái niệm về thế-giới-quan của Phật-giáo vậy. Vì phạm vi của
bài có hạn, cũng để khỏi đi xa vấn đề xin miễn giải thích về ba lượng đã nói,
mong gặp lại một dịp khác.
Tiết III.- Những Lời Huyền Ký Về Thời Mạt Kiếp
Khi Ðức Thế-Tôn sắp
niết-bàn, Ngài có huyền ký tình trạng trong đời mạt-pháp và lúc chánh-pháp sắp
diệt. Xin dẫn ra đây ít đoạn để cho hàng Phật-tử xuất-gia tại-gia tự kiểm điểm,
gạn bỏ điều ác, tu tập pháp lành.
Trong kinh Đại-Bi, Đức
Phật bảo: “Nầy A-Nan! Khi ta niết-bàn rồi, trong thời gian 500 năm rốt sau,
nhóm người giữ giới, y theo chánh-pháp, lần lần tiêu giảm; các bè đảng
phá giới, làm điều phi pháp, ngày tăng thêm nhiều. Do chúng-sanh phỉ
báng chánh-pháp, gây nhiều ác hạnh, nên phước thọ bị tổn giảm, các tai nạn đáng
kinh khiếp nổi lên. Bấy giờ có nhiều Tỷ-khưu đắm mê danh lợi, không tu thân,
tâm, giới, huệ. Họ tham trước những y, bát, thức ăn, sàng tòa, phòng
xá, thuốc men, rồi ganh ghét tranh giành phỉ báng lẫn nhau, thậm chí đem nhau
đến quan ty, lời nói như đao kiếm.
Cho nên, A-Nan! Đối với
những vị xuất-gia tu phạm hạnh, thân khẩu ý thực hành đạo từ bi, ông nên cung
cấp những thức cúng dường cho đầy đủ. Vị nào đối với các phạm hạnh hoặc thấy,
hoặc nghe, hoặc tin, hoặc làm, hoặc nhiều, hoặc ít, ông nên làm thế nào cho họ
không khởi lòng não loạn, nên vâng giữ điều nầy! Tại sao thế? Vì trong cõi ngũ
trược vào thời mạt kiếp, có nhiều sự khổ nạn như: đói, khát, giặc,
cướp, nắng hạn, bão lụt, các loài trùng phá hại mùa màng, tóm lại có nhiều nhân
duyên làm cho chúng-sanh bị xúc não.
A-Nan! Lúc bấy giờ có các
hàng trưởng-giả, cư-sĩ, tuy bị nhiều sự khổ não bức thiết, song vẫn sanh lòng
tịnh tín, cung kính tôn trọng ngôi Tam-bảo, bố thí, giữ giới, tụng kinh, tu các
công đức, khuyên người y theo Phật-pháp làm lành. Do thiện căn đó, khi mạng
chung họ được sanh về Thiên-đạo, hưởng các điều vui. Còn các Tỷ-khưu ác
kia, ban sơ dùng đức tin, tâm lành, bỏ tục xuất-gia; nhưng sau khi xuất-gia, họ
lại tham trước danh lợi, không cố gắng tu hành, nên kết cuộc bị đọa vào ác
đạo”...
Kinh Đại-Tập nói: “Trong
đời mạt-pháp, có những vua, quan, cư-sĩ ỷ mình giàu sang quyền thế, sanh tâm
kinh mạn, cho đến đánh mắng người xuất-gia. Nên biết những kẻ gây
nghiệp ấy, sẽ bị tội đồng như làm cho thân Phật ra huyết...”
Kinh Ma-Ha-Ma-Gia nói:
“Khi đấng Nhất-thiết-trí vào Niết-bàn rồi, một trăm năm sau,
có Tỷ-khưu Ưu-Ba-Cúc-Đa, đủ tài biện thuyết như Phú-Lâu-Na, độ vô
lượng chúng.
Hai trăm năm sau, có Tỷ-khưu Thi-La-Nan-Đà, khéo
nói pháp yếu, độ mười hai ức người trong châu Diêm-Phù.
Ba trăm năm sau, có Tỷ-khưu Thanh-Liên-Hoa-Nhãn thuyết
pháp độ được nữa ức người.
Bốn trăm năm sau, có Tỷ-khưu Ngưu-Khẩu thuyết
pháp độ được một vạn người.
Năm trăm năm sau có Tỷ-khưu Bảo-Thiên thuyết
pháp độ được hai vạn người, và khiến cho vô số chúng-sanh phát tâm
Vô-thượng-bồ-đề. Đến đây thời kỳ chánh-pháp đã chung mãn.
Sáu trăm năm sau, 96 thứ ngoại-đạo phục hưng, nhiều
tà thuyết nổi lên phá hoại chánh-pháp. Lúc ấy có Tỷ-khưu Mã-Minh ra
đời, dùng tài huệ biện hàng phục ngoại giáo.
Bảy trăm năm sau, có Tỷ-khưu Long-Thọ ra đời,
dùng sức chánh trí xô ngã cột phướn tà kiến, đốt sáng ngọn đuốc Phật-pháp.
Tám trăm năm sau, hàng xuất-gia phần nhiều tham trước danh lợi,
giải đãi buông lung, trong trăm ngàn người tu, chỉ có một ít người đắc đạo.
Chín trăm năm sau, trong giới tăng ni, phần nhiều là hạng nô tỳ
bỏ tục xuất-gia.
Một ngàn năm sau, các Tỷ-khưu nghe nói pháp bất-tịnh-quán,
pháp-sổ-tức, buồn chán không thích tu tập, trong trăm ngàn người chỉ có ít
người được vào chánh định.
Từ đó về sau, lần lần hàng xuất-gia hủy phá giới-luật, hoặc uống rượu, hoặc sát sanh, hoặc đem bán đồ vật
của ngôi Tam-bảo, hoặc làm hạnh bất tịnh, nếu có con thì trai làm tăng, gái làm
ni, chỉ còn số ít người biết giữ giới hạnh, gắng lo duy trì và hoằng dương
chánh giáo. Khi áo cà-sa của tăng ni biến thành sắc trắng, đó là triệu
chứng Phật-pháp sắp diệt...”
Trong kinh Pháp-Diệt-Tận, Đức Phật bảo: “Về sau, khi pháp của ta sắp diệt, nơi
cõi ngũ trược nầy tà đạo nổi lên rất thạnh. Lúc ấy có những quyến thuộc
ma vào làm Sa-môn để phá rối đạo pháp của ta. Họ mặc y phục như thế
gian, ưa thích áo cà-sa năm sắc, ăn thịt uống rượu, sát sanh, tham trước mùi
vị, không có từ tâm tương trợ, lại ganh ghét lẫn nhau.
Bấy giờ có các vị Bồ-Tát,
Bích-Chi, La-Hán vì bản nguyện hộ trì Phật-pháp, hiện thân làm Sa-môn, tu hành
tinh tấn, đạo hạnh trang nghiêm, được mọi người kính trọng. Các bậc ấy có đức
thuần hậu, từ ái, nhẫn nhục, ôn hòa, giúp đỡ kẻ già yếu cô cùng, hằng đem kinh
tượng khuyên người phụng thờ đọc tụng, giáo hóa chúng-sanh một cách bình đẳng,
tu nhiều công đức, không nệ tổn mình lợi người.
Khi có những vị Sa-môn đạo
đức như thế, các Tỷ-khưu ma kia ganh ghét phỉ báng, vu cho những điều xấu, dùng
đủ cách lấn áp, xua đuổi, hạ nhục, khiến cho không được ở yên. Từ đó các
Tỷ-khưu ác càng lộng hành, không tu đạo hạnh, bỏ chùa chiền điêu tàn hư
phế, chỉ lo tích tụ tài sản riêng, làm các nghề không hợp pháp để sinh
sống, đốt phá rừng núi làm tổn hại chúng-sanh không có chút từ tâm.
Lúc ấy có nhiều kẻ nô tỳ
hạ tiện xuất-gia làm tăng ni, họ thiếu đạo đức,
dâm dật tham nhiễm, nam nữ sống lẫn lộn, Phật-pháp suy vi chính là do bọn nầy.
Lại có những kẻ trốn phép vua quan, lẫn vào cửa đạo, rồi sanh tâm biếng nhác
không học không tu. Đến kỳ tụng giới trong mỗi nửa tháng, họ chỉ lơ là gắng
gượng, không chịu chuyên chú lắng nghe. Nếu có giảng thuyết giới luật, họ lược
bỏ trước sau, không chịu nói ra hết.
Nếu có đọc tụng kinh văn,
họ không rành câu, chữ, không tìm hỏi bậc cao minh, tự mãn cầu danh, cho mình
là phải. Tuy thế, bề ngoài họ cũng ra vẻ đạo đức, thường hay nói phô,
để hy vọng mọi người cúng dường. Các Tỷ-khưu ma nầy sau khi chết sẽ bị
đọa vào Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh trải qua nhiều kiếp. Khi đền tội xong, họ
thác sanh làm người ở nơi biên địa, chỗ không có ngôi Tam-bảo.
Lúc Phật-pháp sắp diệt
người nữ phần nhiều tinh tấn, ưa tu những công đức.
Trái lại, người nam phần nhiều kém lòng tin tưởng, thường hay giải đãi khinh
mạn, không thích nghe pháp, không tu phước huệ, khi thấy hàng Sa-môn thì rẻ
rúng chê bai, xem như đất bụi.
Lúc ấy, do nghiệp ác của
chúng-sanh, mưa nắng không điều hòa, ngũ sắc hư hao, tàn tạ, bịnh dịch lưu
hành, người chết vô số. Thời bấy giờ, hàng quan liêu phần nhiều khắc nghiệt
tham ô, lớp dân chúng lại nhọc nhằn nghèo khổ, ai nấy đều mong cho có giặc
loạn. Trong thế gian lúc ấy khó tìm được người lương thiện, còn kẻ ác thì nhiều
như cát ở bãi biển, đạo đức suy đồi, chư thiên buồn thương rơi lệ.
Nầy A-Nan! Lúc đạo pháp ta
sắp diệt, ngày đêm rút ngắn, con người đoản mệnh, nhiều kẻ mới bốn mươi tuổi,
tóc trên đầu đã điểm bạc. Về phần người nam, bởi nhiều dâm dật nên hay yểu
chết, trái lại người nữ sống lâu hơn. Lúc ấy có nhiều tai nạn nổi lên, như giặc
cướp, bịnh tật, bão lụt, nhơn dân hoặc không tin hiểu đó là nghiệp báo, hoặc vì
sống quen trong cảnh ấy, xem như là việc thường.
Bấy giờ nếu có bậc Bồ-Tát,
Bích-Chi, La-Hán dùng bi tâm ra giáo hóa, do nghiệp ác của chúng-sanh và sức
ngoại ma xua đuổi, cũng ít ai đến dự pháp hội. Còn bậc tu hành chân chánh, phần
nhiều ẩn cư nơi núi rừng xa vắng, giữ đời sống an vui đạm bạc, được chư thiên
hộ trì. Khi nhơn thọ giảm còn 52 tuổi, áo cà-sa của hàng Sa-môn đổi
thành sắc trắng, kinh Thủ-Lăng-Nghiêm và Bát-Chu-Tam-Muội tiêu diệt trước, các kinh khác lần lần diệt sau,
cho đến không còn văn tự.
Nầy A-Nan! Như ngọn đèn
dầu trước khi sắp tắt, ánh đèn bỗng bừng sáng lên rồi lu mờ và mất hẳn.
Đạo-pháp của ta đến lúc tiêu diệt cũng có tướng trạng như thế. Từ đó về sau
trải qua ức triệu năm, mới có Phật Di-Lặc ra đời giáo hóa chúng-sanh”.
Tiết IV.- Đức Từ Thị Và Hội Long Hoa
Gần đây, có nhiều thuyết
tuyên truyền nói không bao lâu hội Long-Hoa sẽ mở, Ðức Di-Lặc sẽ ra đời giáo
hóa chúng-sanh. Có người lại quả quyết rằng: độ chừng 40 năm nữa, sẽ có hội Long-Hoa mở ra tại núi Cấm. Chẳng những ở Việt-Nam, mà thời gian trước tại
Trung-Hoa cũng có thuyết ấy.
Đó là do những người của
các giáo phái khác không tham khảo chính xác về đạo Phật, nghe nói hội
Long-Hoa rồi phụ họa theo mà tuyên truyền, nếu có người thử hỏi ý
nghĩa của hai chữ Long-Hoa, không chừng họ chẳng hiểu nữa là khác!
Cũng có giáo phái cố ý
đem hội Long-Hoa của đạo Phật làm của mình, nên mới sanh ra sự đồn đãi như
trên. Xét ra họ được điểm tốt là
khuyên mọi người cố gắng làm lành “để rồi gần đây sẽ gặp Di-Lặc”. Nhưng cũng có điều lỗi lầm là đã vô tình hoặc cố ý
làm sai lạc giáo thuyết trong kinh Phật.
Theo Phật-giáo, Ðức
Thích-Ca ra đời lúc nhơn thọ còn 100 tuổi. Qua mỗi trăm năm thọ số con người
bớt xuống 1 tuổi, giảm đến khi nhơn thọ còn 10 tuổi rồi lại tăng lần đến lúc
84.000 tuổi là mãn tiểu-kiếp thứ chín của trụ kiếp.
Sang tiểu-kiếp thứ mười,
lúc nhơn thọ từ 84.000 tuổi giảm còn 80.000 tuổi, Ðức Di-Lặc mới ra đời. Từ khi
Phật Thích-Ca niết-bàn đến nay đã được 2.508, ta tạm kể chẵn là 2.500 năm, mức
sống con người hiện thời 75 tuổi là thượng thọ. Lấy mức nhơn thọ 75 tuổi kể
theo số niên kiếp tăng giảm, thì từ đây đến lúc Ðức
Di-Lặc ra đời còn 8.805.500 năm nữa.
Lúc Ðức Di-Lặc thành
chánh giác, Ngài ngồi nơi một gốc đại thọ, cành cây như mình rồng, hoa nở tủa
ra bốn bên như những đầu rồng, nên gọi cây nầy là Long-Hoa-bồ-đề. Sau khi thành
đạo quả, Phật Di-Lặc cũng ngồi nơi đây mà thuyết pháp, nên lại có danh từ Long-Hoa-pháp-hội.
Theo kinh Di-Lặc-Hạ-Sanh
và Trường-A-Hàm, thì khi Ðức Di-Lặc giáng sinh, nhơn thọ được tám muôn tuổi.
Bấy giờ mực nước biển giảm xuống để lộ thêm 3.300 du-thiện-na đất liền, châu
Nam-Thiệm-Bộ chu vi rộng được một vạn du-thiện-na. Dưới đây là một đoạn kinh tả
cảnh tượng vui đẹp thanh bình trong lúc đó:
Thuở ấy nước giàu thạnh
Dân không bị hình phạt
Khỏi tất cả tai ách
Chúng nam nữ trong xứ
Đều do thiện nghiệp
sanh.
Đất khắp nơi bằng phẳng
Không có những chông gai
Cỏ xanh tốt dịu mềm
Điêm như bông nệm
Ngoài nội mọc lúa thơm
Đủ hương vị ngon lạ.
Các cây sanh y phục
Mọi vẻ đều tươi sáng
Cây cao ba câu-xá
Hoa trái thường sung
mãn.
Bấy giờ người trong nước
Đều sống tám muôn tuổi
Không có các tật bịnh
Tướng mạo rất xinh đẹp
Sắc lực đều đầy đủ
Tâm hằng được an vui
Khi biết mình mệnh chung
Đến Thi-lâm xả thọ.
Chỗ Luân-vương đóng đô
Là thành
Diệu-Tràng-Tướng
Dọc mười hai do-tuần
Bảy do-tuần ngang rộng.
Những kẻ ở trong đó
Ðều đã chủng nhân mầu
Đây là nơi phước địa
Người hưởng cảnh nhàn
vui
Lâu đài để trấn quốc
Bằng bảy báu nguy nga
Các cửa ngõ trong ngoài
Đều trang nghiêm mỹ lệ
Những hào lũy quanh
thành
Cũng xây bằng chất báu
Hoa tươi khắp bốn bề
Chim lành bay đậu hót
Ngoài thành cây Đa-la
Đủ bảy vòng bao bọc
Lưới đẹp cùng linh ngọc
Giăng nối các hàng cây.
Mỗi cơn gió thoảng qua
Tiếng linh khua thanh
diệu
Dường như nhạc bát âm
Khiến lòng người vui vẻ.
Trong ngoài nhiều ao hồ
Trong hồ nhiều sen lạ
Vườn hoa cùng hương lâm
Trang nghiêm cảnh thành
ấy...
Đại khái, nhơn loại thời
đó đều xinh đẹp sống lâu, trai gái 500 tuổi mới có vợ chồng. Cảnh
vật trong nước sáng sủa tốt tươi, không có các loài ruồi muỗi rắn rết độc
trùng; gạch ngói sạn đều biến thành lưu ly. Con người thuở ấy không bị khổ vì
chiến tranh, khỏi lo nhọc về sự ăn mặc. Tất cả đều hiền lành, tu mười nghiệp
thiện, sau khi chết phần nhiều được sanh lên cõi trời.
Nhưng phước đức chưa
được đầy đủ, nên bấy giờ loài người còn có những nghiệp tướng như: nóng, lạnh,
đói, khát, tiểu tiện, đại tiện, tham dục, thích ăn uống, suy già. Tuy nhiên, do
phước nghiệp, khi đại tiểu tiện xong, đất chỗ ấy nứt ra rồi khép lại che dấu uế
vật, hoa sen đỏ liền ló lên tuôn ra mùi thơm đánh tan xú khí.
Vị Luân-vương thời đó
tên là Hướng-Khê. Vua cai trị bốn
châu, có bảy báu, một ngàn người con và đủ cả bốn binh. Trong nước có bốn kho
tàng lớn; mỗi kho chứa trăm vạn ức châu báu. Vị Quốc-sư cũng chính phụ tướng
đại-thần đương triều là Thiện-Tịnh Bà-La-Môn, ông nầy có bà phu-nhơn xinh đẹp
tên là Tịnh-Diệu.
Di-Lặc Bồ-Tát từ cõi
trời Đâu-Suất giáng sinh làm con trai của vợ chồng Quốc-sư. Bồ-Tát lúc sanh ra, có đủ 32 tướng tốt, thân hình
đầy đặn, khuôn mặt đoan trang tươi sáng như trăng rằm, đôi mắt trong đẹp như
cánh hoa sen xanh. Khi Bồ-Tát lớn lên, ngài thông thuộc các nghề, kẻ tùy học
được 84.000 người.
Một năm nọ, vua
Hướng-Khê làm tràng Diệu-bảo để mở hội Thí-vô-giá, các phạm-chí vì
giành giựt châu báu làm gãy nát bảo tràng. Bồ-Tát thấy thế ngộ lý vô thường, xuất-gia tu thành
Phật, hiệu là Từ-Thị Như-Lai.
Trong hội thuyết pháp
đầu tiên, Ðức Từ-Tôn độ được 96 ức người thành đạo quả; hội thứ hai độ được 94
ức người và hội thứ ba độ được 92 ức người. Nơi thiền-môn, vào kỷ niệm Ðức
Di-Lặc, chư tăng ni thường đọc bài tán, trong ấy có câu: “Long-Hoa tam
hội nguyện tương phùng” (Ba hội Long-Hoa nguyền được gặp). Câu nầy là
chỉ cho ba pháp hội đã nói trên.
Nhưng thật ra, Ðức
Từ-Thị Như-Lai thuyết pháp rất nhiều hội, chớ không phải chỉ có ba hội ấy. Sở
dĩ trong kinh nói có ba là muốn nêu ra tánh cách quan trọng và lớn lao nhất của
ba hội trong nhiều pháp hội đó thôi. Người nào muốn dự ba hội Long-Hoa, nên thực
hành đúng ba điều kiện, theo lời nguyện của Ðức Di-Lặc như sau:
1. Những vị tăng ni
xuất-gia trong giáo pháp của Phật Thích-Ca-Mâu-Ni, nếu có thể giữ gìn
giới hạnh trang nghiêm, tương lai sẽ được tham dự và độ thoát trong
pháp hội đầu tiên của ta.
2. Hàng Phật-tử
tại-gia, nếu giữ đúng Ngũ-giới, Bát-quan-trai-giới, phụng thờ và cung
kính cúng dường ngôi Tam-bảo, sẽ được độ thoát trong pháp hội thứ hai
của ta.
3. Những kẻ tuy chưa giữ
giới, nhưng có lòng chánh tín đối với ngôi Tam-bảo biết kính lễ Phật và
đem tâm thành cúng dường Phật, Pháp, Tăng, sẽ được độ thoát trong pháp
hội thứ ba của ta.
Trên đây là đại lược về
thời kỳ giáng sinh thành Phật của Ðức Di-Lặc ở tương lai. Nếu vị nào muốn nghe
pháp và được hóa độ trong ba hội Long-Hoa, cần nên chú ý.
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Tiết 2.- Những Huyền Ký Về Tịnh
Độ
Trong Kinh Vô Lượng Thọ,
đức Thích Tôn có lời huyền ký: “Đời tương lai kinh đạo diệt hết, ta dùng lòng
từ bi thương xót, riêng lưu trụ kinh này (Vô Lượng Thọ Kinh) trong khoảng một
trăm năm. Nếu chúng sanh nào gặp kinh này, tùy ý sở nguyện, đều được đắc độ”(Đương
lai chi thế, kinh đạo diệt tận, ngã dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh chỉ trụ
bá tuế. Kỳ hữu chúng sanh trị tư kinh giả, tùy ý sở nguyện, giai khả đắc độ.
- Vô Lượng Thọ Kinh).
Nơi Kinh Đại Tập, đức
Thế Tôn đã bảo: “Trong đời mạt pháp, ức ức người tu hành, ít có kẻ nào đắc đạo,
chỉ nương theo pháp môn Niệm Phật mà thoát luân hồi” (Mạt pháp ức ức nhơn tu
hành, hãn nhứt đắc đạo, chỉ y Niệm Phật pháp môn, đắc liễu sanh tử. - Đại
Tập Kinh).
Ngài Thiên Như thiền sư,
sau khi đắc đạo cũng đã khuyên dạy: “Mạt pháp về sau, các kinh diệt hết, chỉ
còn lưu bốn chữ A Di Đà Phật để cứu độ chúng sanh. Nếu kẻ nào không tin, tất sẽ
bị đọa địa ngục” (Mạt pháp chi hậu, chư kinh diệt tận, chỉ lưu A Di Đà Phật tứ
tự cứu độ chúng sanh. Kỳ bất tín giả, ưng đọa địa ngục. – Thiên Như ký
ngữ).
Bởi đời mạt pháp về sau
khi các kinh đều ẩn diệt, chúng sanh căn cơ đã yếu kém, ngoài câu niệm Phật,
lại không biết pháp môn nào khác để tu trì. Nếu không tin câu niệm Phật mà tu
hành, tất phải bị luân hồi. Và trong nẻo luân hồi, việc lành khó tạo, điều ác
dễ làm, nên sớm muộn gì cũng sẽ bị đọa địa ngục.
Ấn Quang pháp sư, một bậc cao tăng cận đại ở Trung Hoa, cũng đã bảo:
“Thời mạt pháp đời nay,
chúng sanh nghiệp nặng tâm tạp. Nếu ngoài môn Niệm Phật mà tu các pháp khác,
nơi phần gieo trí huệ phước đức cãn lành thì có, nơi phần liễu thoát luân hồi
trong hiện thế thì không. Tuy có một vài vị cao đức hiện những kỳ tích phi thường,
song đó đều là những bậc Bồ Tát nương theo bản nguyện mà làm mô phạm để dẫn dắt
chúng sanh đời mạt pháp, như trong Kinh Lăng Nghiêm đã nói. Nhưng các
vị ấy cũng chỉ vừa theo trình độ chúng sanh mà thị hiện ngộ đạo chớ không phải
chứng đạo.
Chỉ riêng pháp môn Tịnh
Độ, tuy ít người tu chứng được Niệm Phật Tam Muội như khi xưa, nhưng
có thể nương theo nguyện lực của mình và bản nguyện của Phật A Di Đà, mà đới
nghiệp vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc. Khi về cõi ấy rồi thì không còn
luân hồi, không bị thối chuyển, lần lần tu tập cho đến lúc chứng quả Vô
Sanh.
Những lời huyền ký như trên cho chúng ta
thấy pháp môn Niệm Phật rất hợp với nhân duyên thời tiết, và trình độ cãn cơ
chúng sanh đời nay. Vì thế đức Như Lai mới dùng nguyện lực bi mẫn lưu trụ Kinh
Vô Lượng Thọ để khuyến hóa về môn Niệm Phật. Lại, chư Bồ Tát, Tổ Sư cũng khởi
lòng hoằng nguyện thương xót, tùy theo thời cơ, chỉ dạy pháp môn Tịnh Độ để cứu
vớt chúng sanh.
Do những sức nguyện ấy,
mà môn Tịnh Độ được phổ cập trong phần đông quần chúng.
64. Tất Ra Tăng A Mục Khê Da
Hóa hiện Dược Vương đại bồ tát
Trừ “ÔN” diệt “DỊCH” cứu hằng sa
Phổ lịnh hữu tình ly tật khổ
Cam lộ biến sái hàm thức nha
NAM-MÔ DƯỢC-VƯƠNG BỒ-TÁT (3 LẦN)
MA-HA-TÁT (1 LẦN)
Thứ Mười Sáu
(1 LẦN)
Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]
Án-- vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.
(108 LẦN)
[
ÔN là bệnh truyền nhiễm.
DỊCH là bệnh lây cho mọi người.
CHO NÊN, NẾU QÚI VỊ
MUỐN DIỆT TRỪ BỊNH ÔN DỊCH THÌ PHẢI TRÌ TỤNG
]
Một câu A Di Ðà
Hợp thời tiết nhân duyên
Hương lạ hằng thoang thoảng
Liên xã lập nhiều miền.
(Nhứt cú Di Ðà
Nhân duyên thời tiết
Dị hương thường văn
Liên xã sang kiết.)
LƯỢC GIẢI
Pháp môn Tịnh Ðộ sở sĩ càng lúc càng được thạnh hành, bởi có nhiều lý do:
Về phần nhân duyên: Ðiều thứ nhứt đức A Di Ðà có pháp duyên rất lớn
với chúng sanh ở Ta Bà, bằng chứng là các chùa đều có thời khóa Tịnh Ðộ, và
hàng Phật tử khi gặp nhau thường chào với câu "A Di Ðà Phật".
Ðiều thứ hai, đức Di Ðà
Thế Tôn có bốn mươi tám bi nguyện độ sanh rộng lớn, rất thích ứng với cảnh ngộ
cần cứu cấp nơi cõi ngũ trược này.
Về phần thời tiết, như lời Phật đã huyền ký. Bắt đầu từ thời mạt pháp trở về sau, muốn chắc
chắn được giải thoát, chỉ có pháp môn Niệm Phật.
Bởi những nguyên nhân ấy, nên chư thiện tri thức xưa nay đã sáng lập ra Liên Xã
khắp nơi để hướng dẫn người tu hành. Và các hành giả niệm Phật cũng cảm được
nhiều điềm thoại ứng như: thấy sen lành, nghe hương lạ.
Long Thọ Bồ Tát
(Nhân vì Ngài sanh dưới
cội cây có rồng ở, lại đắc đạo ở Long Cung, nên gọi là Long Thọ Bồ tát dòng
Phạm Chí, người xứ Nam Thiên Trúc, rộng hiểu các môn học thế gian, mới xuất gia
ba tháng đã thông suốt tam tạng.
Bấy giờ Long Vương rước
Ngài xuống Long Cung; trong chín tuần Ngài xem Long Tạng chưa đầy muôn một,
liền ngộ vô sanh nhẫn. Khi trở về nhân gian, Bồ tát hoằng truyền Phật giáo, tạo
ra bộ Bà Sa Luận, trong ấy có khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây phương. Sau
Ngài vào Nguyệt Luân Định mà tịch.
Trong kinh Lăng Già, đức
Phật đã huyền ký: Sau xứ Nam Thiên
Trúc. Có Long Thọ Tỳ kheo. Hay hiển nghĩa trung đạo. Chứng Sơ Hoan Hỷ địa. Sanh
về cõi Cực lạc.)
Luận Đại Trí Độ nói: "Niệm Phật Tam muội có thể trừ các thứ
phiền não và tội đời trước. Lại nữa, niệm Phật Tam muội có phước đức lớn hay độ
chúng sanh. Cho nên các Bồ tát muốn độ sanh, nếu tu các pháp Tam muội khác, tất
không bằng môn Niệm Phật Tam muội, vì môn này có phước đức lớn, mau diệt các
tội. Phật là pháp vương, Bồ tát là pháp tướng, chỗ Bồ tát tôn trọng duy có
Phật, Thế Tôn. Bồ tát thường khéo tu nhân duyên niệm Phật, nên thường gặp chư
Phật, như kinh Bát Chu có nói: "Bồ tát vào Tam muội này, liền hiện
sanh về cõi Phật A Di Đà".
Luận Bà Sa nói: "Đức A Di Đà có bản nguyện như thế này:
"Nếu người xưng niệm danh hiệu và quy y nơi ta, kẻ ấy quyết được
quả Vô thượng Bồ đề".
Cho nên, phải thương nhớ
niệm Phật. Lại dùng kệ khen ngợi Phật rằng:
Trí huệ sáng vô lượng.
Thân như tòa kim sơn.
Con dùng thân, miệng ý,
Chắp tay cúi đầu lạy.
Chân Phật ngàn bức luân,
Sắc hoa sen mềm dịu,
Kẻ thấy đều vui mừng,
Cúi đầu lễ chân Phật.
Tướng bạch hào sáng đẹp,
Trong sạch như trăng
thu,
Ánh tỏa khắp mặt vàng,
Nên con cúi đầu lạy,
Nếu người muốn thành
Phật.
Tâm niệm A Di Đà,
Theo thời vì hiện thân,
Cho nên con quy mạng.
Người xưng niệm nơi
Phật,
Sức công đức không
lường,
Thì liền được vào định.
Cho nên con thường niệm.
Nếu người trồng căn
lành,
Nghi thì hoa không nở,
Kẻ lòng tin trong sạch,
Hoa nở liền thấy Phật
Do nhân duyên phước này,
Tất được đức thắng diệu,
Nguyện các loài chúng
sanh,
Cũng đều được như vậy.
BÀI SỐ 87
Ẩn tu lý đạo nói sao cùng !
Nhân-quả nghiêm minh xử
lạnh lùng !
Tài, sắc, giàu, sang âu
cảnh tạm
Sáng tươi chiều héo đoá Phù
Dung.
NHƯ Ý : Ấn Quang pháp sư bảo: “Tất cả Lý của thế gian và xuất thế gian đều
không ngoài hai chữ TÂM TÁNH. Tất cả Sự của thế gian và xuất thế gian, đều
không ngoài hai chữ NHÂN QUẢ”.
Làm Lành hưởng VUI Làm
Dữ chịu KHỔ, Vui cùng Khổ đều là Giả Tạm, trở về Chân-Tánh
mới là Giải-Thoát Thường-Hằng.
Muốn biết nhân đời trước,
Xem sự hưởng đời nay,
Muốn biết qủa đời sau,
Xem việc làm kiếp này.
KINH NHÂN QUẢ BA
ĐỜI
Vậy Cư sĩ nên bền chí
niệm Phật để mau tiêu túc nghiệp, chớ sanh lòng phiền não rồi oán trời
trách người, cho nhân quả là hoang đường, chê Phật
pháp không linh nghiệm.
Nên biết chúng ta từ vô
thỉ đến nay, gây nghiệp ác vô lượng vô biên, như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giả
sử nghiệp ác có hình tướng, mười phương hư không chẳng thể dung chứa hết”.
Thế thì sự tu trì lơ là
chút ít, đâu dễ dứt trừ hoặc chướng hết được. Đức Thích Ca, A Di Đà vì thương
xót chúng sanh không đủ sức dứt nghiệp, riêng mở pháp môn “nương
nhờ Phật lực, đới nghiệp vãng sanh”. Ân đức ấy thật vô cùng rộng
lớn, dù trời đất cha mẹ cũng khó sánh trong muôn một.
Vậy Cư sĩ nên hết lòng
sám hối, tự có thể nhờ Phật gia bị khiến cho nghiệp tiêu, thân tâm yên ổn. Như
bệnh khổ bức bách không thể nhẫn chịu, thì hôm sớm ngoài thời niệm Phật, cư sĩ
nên chí thành niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm. Vì với bổn nguyện tầm
thinh cứu khổ, Bồ tát hiện thân khắp mười phương quốc độ; chúng sanh trong lúc
nguy biến nếu có thể trì tụng kính lạy, Ngài sẽ tùy cơ cảm mà giúp đỡ, khiến cho thoát khổ được vui.
...
Người thông minh đời
nay, tuy học Phật pháp nhưng vì chưa gần gũi với bậc cụ nhãn tri thức, nên
hầu hết đều chuyên trọng lý tánh, bác bỏ sự tu và nhân quả. Họ
đâu biết, nếu sự tu nhân quả đã mất, lý tánh cũng không còn. Lại có những
kẻ tài cao, văn từ quỉ thần kinh động mà xét đến hành vi thì không khác
chi hạng vô trí thức, truy nguyên đều do bác bỏ sự tu nhân quả mà ra.
Mối tệ ấy khiến cho
nhiều người lầm lạc noi theo, đó là dùng thân báng pháp, tội lỗi không
ngằn! Bậc thượng trí thấy thế càng thêm xót thương đau đớn!
Bộ Pháp Uyển Châu Lâm
nói rõ nhân quả, sự lý đều đầy đủ, những tích báo ứng cũng tinh tường, có thể
khiến cho người xem kinh sợ, dù ở nơi nhà tối cũng như đối trước Phật, trời,
không dám khởi niệm ác. Với bộ này, bậc thượng, trung, hạ đều được lợi ích,
chắc không đến nỗi lầm đường, chấp lý bỏ sự mà theo thói tà vạy, ngông cuồng.
Ngài Mộng Đông đã bảo: “Người khéo nói TÂM TÁNH, quyết không bỏ NHÂN QUẢ;
kẻ tin sâu nhân quả tất rõ suốt tâm tánh, đó là lẽ đương nhiên”.
Lời của Ngài là một chí luận
ngàn đời,
cũng là mũi kim đâm trên
đỉnh đầu những kẻ cuồng huệ.
Thơ Đáp Cho Cư Sĩ Đặng Bá
Thành
Phật giáo là một pháp công
cộng trong mười phương pháp giới, ai cũng nên tu và đều có thể tu. Bởi
chưa thấy rõ bản sắc của Phật giáo, một nhóm Nho sĩ lập luận mù quáng
rằng: Đạo Phật bỏ nhơn luân, hại chánh lý! Tại sao mà biết họ
sai lầm?
Vì đức Phật đối với kẻ làm
cha nói lành, với con nói thảo,
với vua nói nhân, với tôi nói trung, cho đến chồng vợ kính yêu, anh em hòa
thuận; tất cả lời hay hạnh tốt ở đời, trong Kinh Phật đều nói rành rẽ. Thế thì
cùng với Nho giáo có khác chỗ nào?
Hơn nữa, về điểm chỉ rõ lý
nhân quả ba đời, trong đạo Nho không thấy nói. Đến như những
việc: dứt hoặc chứng chơn, đầy đủ Bồ đề, về nơi vô đắc, thì
Nho giáo phải kém thua xa. Tiếc cho hàng Nho sĩ kia chưa thấy, nếu họ được xem
kỹ và hiểu sâu lý ấy, chắc sẽ đau thương rơi lệ, tiếng khóc động cõi đại thiên,
hối hận vì mình đã khinh báng Phật giáo!
Nhưng dùng lời báng pháp
tội nhỏ, dùng thân báng pháp tội lớn vô cùng! Đời nay có những người ưa nói Đại
thừa cho rằng mình đã ngộ đạo, bảo:
Ta chính là Phật, cần gì
phải niệm Phật?
Phiền não tức Bồ đề, cần gì
dứt phiền não?
Dâm, giận, mê là giới,
định, huệ, cần gì trừ bỏ dâm, giận, mê?
Lời nói của họ thật cao
trên chín từng mây, việc làm xét lại ở dưới chín lớp đất! Những
người như thế, gọi là oan gia của nhà Phật, so với kẻ không biết
Phật pháp mà khinh báng, tội còn nặng hơn muôn phần. Với hạng sau này,
luận về công họ nghiên cứu Phật pháp chẳng phải toàn là vô ích, nhưng chỉ
làm cái nhân được độ về sau. Còn tội dùng thân báng pháp quyết phải chịu
khổ trong đường ác đạo không biết bao nhiêu kiếp số.
Thơ đáp Cư Sĩ Đặng Tân An
Kinh nói: “Bồ tát
sợ nhân, chúng sanh sợ quả.” Vì tránh quả khổ nên Bồ tát dứt trước
những nhân ác, do đó tội chướng tiêu trừ, công đức đầy đủ, cho đến khi
thành Phật mới thôi.
Chúng sanh thường gây nhân
ác, lại muốn khỏi quả khổ, có khác nào kẻ sợ bóng mình mà cứ chạy trốn dưới ánh
mặt trời?
Nhiều người mới làm lành
chút ít đã mong được phước lớn, khi gặp cảnh nghịch liền cho rằng: “làm
lành mắc họa, không có nhân quả”, rồi từ đó lui sụt sơ tâm, trở
lại chê bai Phật pháp. Những kẻ ấy không hiểu “lý nhân quả thông cả ba đời” và “tâm mình có thể cải tạo hoàn cảnh”.
Nhân quả thông cả ba đời
là thế nào?
Như đời này làm lành hoặc
dữ, đời này hưởng phước hay mang họa, đó là hiện báo.
Đời này làm lành hoặc dữ,
đời sau được phước hay mang họa, là sanh báo.
Đời này làm lành hoặc dữ,
đời thứ ba, thứ tư, hoặc mười, trăm, ngàn, muôn đời, cho đến vô lượng vô biên
kiếp về sau mới được phước hay mang họa, gọi là hậu báo.
Hậu báo thì sớm chầy không
định, đã gây nhân tất có quả, đó là lẽ tự nhiên.
Tâm mình có thể cải tạo
hoàn cảnh là thế nào?
Ví như có người gây nghiệp
ác sẽ phải vĩnh viễn bị đọa vào Địa ngục, nhiều kiếp chịu thống khổ; người ấy
bỗng sanh tâm sợ hãi, hổ thẹn, phát lòng Bồ đề, đổi dữ làm lành, tụng kinh niệm
Phật, tự tu và khuyên người, cầu sanh về Cực lạc.
Do sự hối cải ấy, nghiệp
Địa ngục trước kia liền tiêu diệt, đổi thành quả khổ nhẹ trong hiện đời như:
hoặc bị người khinh chê, hoặc đau bệnh, nghèo nàn, cùng gặp những việc không
vừa ý. Chịu những khinh báo như thế xong, người ấy có thể thoát đường sanh tử,
nhập Thánh siêu phàm.
Như Kinh Kim Cang nói: “Nếu
có người thọ trì kinh này mà bị kẻ khác khinh chê, người đó đời trước gây
tội nghiệp đáng đọa vào ác đạo, do đời này bị sự khinh chê nên tội trước
liền được tiêu diệt, sẽ chứng quả Vô thượng Bồ đề.”
Đây chính là nghĩa: tâm mình
có thể cải tạo hoàn cảnh vậy.
Thơ gởi Cư Sĩ Vệ Cẩm Châu
Ấn Quang Pháp Sư
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.
BÀI KỆ CỦA THẤT PHẬT
Chư ác mạc tác
Không được sát sanh, không
được trộm cướp, không được tà hạnh, không được nói dối, không được uống rượu,
say sưa, không được bán rượu, cho đến không được tà kiến, hủy báng Tam Bảo v.v
…
Tất cả những điều như vậy,
gọi là những điều răn cấm không cho làm, thâu nhiếp đúng theo luật pháp oai
nghi của Phật định chế ấy hợp lại thành một khối, khối đó gọi là “Nhiếp
luật nghi giới”, cũng là tụ tịnh giới thứ nhứt của Bồ tát.
Chúng thiện phụng hành
Ngoài những điều xấu ác
cần răn cấm không cho phạm, còn có những thiện pháp phải thực hành, nếu không
làm thời phạm. Như phải kính Phật trọng Tăng, phải cúng dường Tam Bảo bằng cách
xây dựng tháp thờ Phật, biên soạn ấn loát kinh điển để lưu truyền, tứ sự cung
cấp cho người xuất gia hành đạo, phải lễ Phật, niệm Phật. phải tọa thiền tham
cứu, phải học Kinh Luật, phải nghe diễn giảng, phải tập chánh định, phải tu trí
huệ, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, sáu môn ba la mật v.v… phải siêng tu tập, nhẫn
đến Thánh hạnh phải làm, Thánh đức phải theo.
Cúng dường Tam Bảo nhẫn
đến chánh định, trí huệ v.v… là những thiện pháp mà người đã thọ giới Bồ tát
phải thực hành. Những điều nầy gom lại thành một khối gọi là “Nhiếp
thiện pháp giới”. Đây là tụ tịnh giới thứ hai của Bồ tát.
Tự tịnh kỳ ý
LÀM “Nhiêu ích hữu tình giới” MỚI VIÊN MÃN.
Trong các điều luật của Bồ tát lại còn có những điều
luật bắt buộc phải làm lợi ích cho người, cho vật. Như gặp người bệnh tật thì
phải lo cứu tế. Thấy người bệnh tật lẻ loi, cô độc không có cả thuốc men, không
ai săn sóc, gặp rồi bỏ lãng mà đi, không tìm phương tiện giúp đỡ là phạm giới
đối với người đã thọ giới Bồ tát. Nghĩa là buộc phải săn sóc người bệnh, nếu
người đó thiếu sự săn sóc. Lại như thấy người đói mà mình có đồ ăn thì phải
chia, phải sớt, phải cho, phải bố thí, đây cũng là một điều bắt buộc phải làm.
Cho đến phải cứu độ chúng sanh, phải làm cho chúng sanh hết khổ, phải làm cho
chúng sanh được vui, dầu rằng có sự làm chưa được, nhưng mà trong tâm lúc nào
cũng mong muốn, như nguyện cho tất cả chúng sanh được giải thoát, được thành
Phật.
Những điều giới trong phạm vi phải có những việc làm,
những lời nói hay là những tâm niệm đem lại sự lợi ích cho chúng sanh, để đưa
chúng sanh khỏi khổ sanh tử mà đến quả giải thoát thành Phật đó, gom lại thành
ra một khối, gọi là “Nhiêu ích hữu tình giới”. Đây là tụ tịnh giới thứ
ba của Bồ tát.
Thị chư Phật giáo.
Những điều giới răn cấm việc ác gom lại thành một khối.
Những điều giới bắt buộc phải làm những thiện pháp gom lại thành một khối và
những điều giới phải đem sự lợi ích, sự giải thoát cho chúng sanh gom lại thành
một khối, gọi chung là ba tụ tịnh giới của Bồ tát.
Một là “ Nhiếp
luật nghi giới” những điều ác phải răn chừa.
Hai là “Nhiếp
thiện pháp giới” những điều lành phải làm.
Ba là "Tự tịnh kỳ
ý" LÀM "Nhiêu
ích hữu tình giới" những điều giới đem sự lợi ích cho chúng sanh.
Một câu A Di Ðà
Là kho báu vô tận
Tám chữ mở toang ra
Khắp cho không tiếc lẫn.
( Nhứt cú Di Ðà
Vô tận bảo tạng
Bát tự đả khai
Phổ đồng cúng dường.)
LƯỢC GIẢI
Tám chữ trên đây, là
"Ðại từ đại bi A Di Ðà Phật". Trong Tịnh Ðộ Thánh Hiền
Lục có thuật chuyện một hành giả niệm Phật, khi lâm chung thấy tám chữ
ấy hiện ra giữa hư không to lớn, sắc như vàng ròng. Tám chữ ấy hàm ý tiêu biểu
cho bốn mươi tám bi nguyện độ sanh rộng lớn của đức A Di Ðà Thế Tôn. Song về sự
trì niệm thì yếu ước lại chỉ có sáu chữ "Nam mô A Di Ðà Phật".
Sao gọi là tám chữ, hay sáu chữ mở kho báu vô tận?
Theo Hiển Giáo, sáu chữ ấy tiêu biểu cho sự nương về kho vô lượng
thọ mạng, vô lượng quang minh, vô lượng công đức.
Theo Mật giáo, về quyển Thánh Tài Tập, sáu chữ đó là chủng tử của
năm đức Phật.
Hai chữ Nam Mô có
nghĩa là quy mạng. Mạng là Thọ Thường Trú, tức chỉ cho đức Tỳ Lô Giá Na
Như lai. Còn bốn chữ kia, theo thứ tự là chủng tử của bốn đức
Phật: A Súc Bệ, Bảo Sanh, A Di Ðà, và Bất
Không Thành Tựu. Cho nên sáu chữ hồng danh là kho bí mật, gồm thâu tất cả
chánh báo, y báo khắp mười phương.
Theo Tâm giáo, sáu chữ này
là kho chân tâm, gồm nhiếp tất cả nhân quả, tánh tướng, phước huệ, sự lý. Vì thế nên gọi: "Một câu A Di Ðà là kho báu
vô tận".
Về điểm dùng tám chữ hay yếu ước lại sáu chữ, để mở kho báu vô tận, cổ nhơn đã
có câu:
"Lục tự đả khai vô
tận tạng.
Thâu lai phóng khứ chỉ
như nhiên".
Hai câu này có ý nghĩa:
Niệm sáu chữ hồng danh có thể mở toang kho báu vô tận như trên đã nói. Và khi
đã thể nhập vào kho chân tâm, thì niệm tức là vô niệm, vô niệm tức là niệm,
buông ra thâu vào đều ở trong trạng thái như như.
Chư Phật Thế Tôn, chư Bồ Tát, chư Tổ, vì lòng bi nguyện, đã đem tám chữ hay sáu
chữ nầy mà phổ thí cúng dường khắp tất cả loài hữu tình, để cho chúng sanh mở
được cửa và thọ dụng kho báu vô tận ấy.
TỪ HY
Từ Hy tự Mộng Bạch,
người đời Thanh, nguyên là một nho sĩ. Thuở thiếu thời ông từng du ngoạn đất
Sầm Điền, thấy cảnh sông núi thắng tươi, lòng dạ thanh thoát; gặp việc trung
hiếu tiết nghĩa, liền khắp tuyên dương. Tuổi trung niên, mở trường dạy học ở
tình ngoài. Đến hơn bốn mươi, được người quen là Châu Lân Thơ tặng cho tập Long
Thơ Tịnh Độ Văn, xem xong liền tin thờ Phật, lấy hiệu là Mộng Liên.
Kế tiếp ông đến am Tôn
Thắng quy y với Lượng Khoan hòa thượng, được pháp danh là Như Siêu. Từ đó cư sĩ
giữ thập trai, lập nhựt khóa trì niệm, quyết cầu sanh về Tây phương. Hơn sáu
mươi tuổi, Từ Hy lại nương ngài Linh Thứu Nghĩa thọ giới Bồ Tát, sự tu tập càng
thêm tinh tấn. Bấy giờ chư Tăng ở am Sô Sư quyên tiền xây dựng ngôi Đại Thông
Các, ông hết sức giúp đỡ cho đến khi lạc thành.
Năm Đạo Quang thứ hai
mươi mốt, vào mùa hạ, cư sĩ bỗng thanh lý việc nhà, bảo gia nhơn rằng: “Người
đời sống được bảy mươi, đã mừng xưa nay ít có. Ta nay may mắn thọ được bảy mươi
hai tuổi, mùa thu nầy mạng chung cũng đã vừa thời!” Kế đó ông viết
một thiên nhan đề là Phản Bổn Tỏa Ngôn nhắc nhở các việc khi mình sắp mãn phần.
Trong ấy có đoạn nói:
“Kiếp người như gởi tạm,
đã sanh tất có tử. Cái chết vẫn là việc thường của nhơn thế, nhưng vì ân tình
giữa vợ chồng con cái từ đây vĩnh biệt, nên chẳng khỏi có sự kêu gọi khóc
thương. Tuy nhiên phải biết sống gởi thác về, được yên ổn mãn phần là phước.
Huống chi chúng ta đã tu tịnh nghiệp, chính muốn vượt qua biển khổ, về đến cõi
sen. Như thế, lúc lâm chung cần
phải giữ một lòng không loạn, mới mong được ý nguyện vãng sanh. Nếu để nghe tiếng kêu khóc, tất kẻ sắp chết dễ bị
tình ái kéo lôi, tâm tư rối loạn khóc than. Sau khi ta tắt hơi, ít nhứt phải
hơn bốn giờ, mới được thay y phục cùng di động, càng chậm càng tốt.
Thuở xưa cha của Thiệu Khang Tiết tiên sinh, cũng là trượng nhơn của ngài Y
Xuyên, lúc sắp chết bảo người nhà rằng: “Phải đợi khi thành liệm xong mới được
cử ai, chớ vội kêu khóc làm cho ta lạc lối!” Lời nầy có ghi trong quyển Khang
Tiết Ngoại Truyện.
Cư sĩ có viết mấy lời
chọn lọc về Thiền và Tịnh như sau:
Tham thiền chẳng niệm
Phật
Phải như thùng lọt đáy.
Thảng còn một điểm nghi
Kết cuộc uổng công lực!
Niệm Phật lại tham thiền
Hai việc chính là một
Tham niệm dính liền nhau
Chẳng thể dễ phóng dật.
Không tham cũng chẳng niệm
Đắc đạo mới bỏ pháp.
Nếu chưa đến bờ kia
Biển khổ không thuyền vớt.
Mùa thu năm ấy, quả như
lời đã nói, cư sĩ vương bịnh. Mỗi ngày ông cho người mời chư Tăng hoặc các liên
hữu luân phiên đến nhà trợ niệm. Lại dặn trước giường thiết bàn Phật, hương đèn
tiếp nối luôn. Từ đầu hạ tuần tháng bảy đến đầu hạ tuần tháng tám, suốt ba mươi
ngày. Từ Hy không ăn cơm cháo được, chỉ uống nước gạo rang tiếp sức mà thôi.
Người nhà rước y sĩ đến, ông tự biết không thể qua khỏi, kiên quyết chẳng chịu
uống thuốc. Khi bịnh ngặt sắp mãn phần, cư sĩ mạnh mẽ đem hết tàn lực chắp tay
niệm Phật to tiếng mà vãng sanh.
– Vợ của Từ Hy là Nghiêm
thị, thuở bình cư cũng trì chú niệm Phật. Đến bảy mươi ba tuổi, vì vương chứng
kiết lỵ, nằm liệt trên giường, song vẫn liên tiếp thầm trì niệm. Một hôm bà cảm
thấy sự đau khổ nơi thân bỗng tiêu tan, chứng điếc tai từ lâu cũng dứt hẳn,
nghe được tiếng lớn nhỏ gần xa. Người con là Lập Phương đem việc vãng sanh để
sách tấn. Nghiêm thị bảo: “Mẹ vẫn thường niệm Phật, chưa từng tạm quên”. Vào
khoảng canh hai đêm ấy, bà bảo người nhà rằng: “Rạng ngày ta sẽ đi!” Rồi ngồi
dậy cầm chuỗi, lớn tiếng niệm hết một tràng, tới đó mỏi sức mới chịu nằm xuống.
Đến sáng hôm sau, bà nhìn quanh thốt lời giã biệt rằng: “Đã tới thời khắc ta
vãng sanh!” Nói đoạn gượng ngồi lên, chắp tay nghiêm chỉnh. Lập Phương khuyên:
“Mẹ nên đi thẳng một đường, đừng nghĩ ngợi chi cả!” Nghiêm thị quả quyết ứng
tiếng đáp: “Được!” Rồi niệm Phật độ mười hơi mà thoát hóa.
– Bạn đồng sư của Từ Hy
là Kim Đình Đống tự Hữu Lan, người ở Tô Châu cũng chuyên tu tịnh nghiệp. Mùa
đông năm Đạo Quang thứ hai mươi, ông mang bịnh. Biết mình sắp mãn phần, ông cho
thỉnh thầy quy y là Lượng Khoan hòa thượng cùng vài thiện hữu đến thưa rằng:
“Hữu Lan đã đến bờ vực sống chết, xin thầy và các đồng bạn giúp cho thành tựu
duyên sen!” Hòa thượng và đại chúng đồng thanh xưng danh hiệu Phật trợ niệm.
Giây lát, ông nói:
“Hiện thời tôi thấy
trước mắt đất đai đều là bảy báu hợp thành, chân đạp bước lên mềm mại êm như
bông. Những tiếng nghe bên tai đều nhiệm mầu khó diễn tả. Lại thấy xa
xa về phương Tây có tám chữ sắc vàng rất phân minh”. Một liên hữu cải chính
nói: “Anh lầm rồi! Nay đại chúng chỉ niệm tụng có sáu chữ thôi”. Kim Đình Đống
đưa tay chỉ bảo: “Cực Lạc Thế Giới A Di Đà
Phật, chẳng phải tám chữ là gì?”
Độ một lúc lâu, cư sĩ
lại chắp tay thưa với thầy rằng: “Đệ tử xin đi!” Rồi nhắm mắt mà hóa.
NHÂM CUNG NHƠN
Nhâm Cung nhơn là vợ của
Châu Vận Tuyền tiên sanh ở Hải Diêm. Từ trẻ bà đã tin Phật pháp, sau khi về nhà
họ Châu, sự giúp đỡ chồng nuôi dạy con đều tròn chức phận. Tánh bà đoan trang
nghiêm chánh, đối đãi với người rất ân hậu. Mùa đông năm Giáp Thìn thời Quang
Chữ nhà Thanh, chồng mãn phần, lúc ấy Cung nhơn đã năm mươi chín tuổi. Trải
nhiều phen cảnh tang thương biến đổi, nhân cảm việc chồng từ trần, bà nghĩ cuộc
đời như huyễn, mạng vô thường, bỗng sanh tâm tư thoát tục. Sau khi xét
định kỹ, Cung nhơn liền đem việc nhà giao cho con trai và dâu, rồi buông hết
muôn duyên trường trai niệm Phật. Sự tu hành của bà rất tinh chuyên, không lúc
nào dám trễ bỏ.
Mùa đông năm Đinh Tỵ
thời Dân Quốc, Cung nhơn bỗng vương chứng bán thân bất toại, tay chân tê nhức,
lúc đi đứng phải có người dìu đỡ. Bà cho ngăn riêng một gian nhà, phía
trước thờ Phật, sau là chỗ nghỉ, ở yên tịnh tu niệm, như người nhập thất. Nhân
đó tâm càng định, niệm lực càng được tinh chuyên.
Mùa hạ năm Tân Dậu, hai
con là Điều Sanh, Cát Sanh được nghe cư sĩ Phạm cổ Nông giảng diễn về Phật
pháp, anh em mới phát tâm học Phật và đem những điều đã hiểu biết về khuyên
giải lại cho mẹ nghe. Nhân đây, lòng tin nguyện cầu sanh của bà càng thêm
chuyên thiết. Tháng giêng năm Giáp Tý, Điều Sanh lại có duyên dự cuộc hành
trình với các vị cư sĩ đi nghe giảng kinh, Cung nhơn bảo: “Mẹ đã cao tuổi, con
chớ nên đi xa lâu!” Đến ngày hai mươi bốn, bà lại vương chứng thương phong, rồi
kế ho suyễn. Sang ngày hai mươi tám, bịnh thêm nặng, người nhà mời các nữ liên
hữu đến niệm Phật để giúp sức cầu nguyện. Nghe tiếng xưng hồng danh, Cung nhơn
liền được tâm an, hơi thở điều hòa, rồi chợp mắt thiếp đi một lúc.
Đến lúc tỉnh dậy, bà
nói:
“Vừa rồi ta mộng thấy
một lão nương mặt hồng hào, tóc bạc trắng đưa cho một chiếc bánh in bảo ăn. Sau
khi dùng xong, ta cảm thấy thanh sảng nhẹ nhàng.”
Nhân mới hỏi:
“Tôi có được giải thoát
khỏi sự khổ chăng?”
Lão nương đáp:
“Sẽ được giải thoát, hãy
cố gắng niệm Phật!”
Ta nghe nói liền niệm
Phật hơn một trăm câu rồi chợt tỉnh!”
Sau khi đó các chứng:
thương phong, khí suyễn và bán thân bất toại của bà đều được khỏi hẳn. Đêm ấy
Cung nhơn ngủ một giấc yên lành. Sáng ra thức dậy, bà cảm thấy thân tâm thơ
thới nhẹ nhàng không còn bịnh khổ, lại thoảng nghe có mùi hương. Đến ngày hai
mươi tháng hai, Cung nhơn sanh chứng uất muộn khó thở, người nhà lại rước nữ
chúng tới trợ niệm. Sang ngày hai mươi hai, bà tự biết mình không qua khỏi, dặn
gia quyến chớ nên than khóc, phải luân phiên cao tiếng trợ niệm để mình được
nương sức niệm theo. Đến canh ba, Cung nhơn an lành mà qua đời.
Ban sơ tay chân của bà
đều lạnh trước, chỉ nơi ngực còn nóng rất lâu. Mọi người vẫn để yên, cao tiếng
niệm Phật tiếp tục không dứt. Hơi nóng mới lần lần chuyển lên tới miệng,
mắt, sau cùng đạt thẳng lên đảnh đầu. Sự trợ niệm vẫn kéo dài đến nửa
đêm hôm sau mới chấm dứt. Lúc tẩn liệm, tay chân Cung nhơn còn dịu mềm, sắc mặt
tươi như sống. An táng xong, người nhà đem những tờ Tây phương công cứ của bà
đã ghi số câu niệm Phật lúc bình nhựt ra thiêu hóa. Khi lửa tắt, trên
tro hiện ra tướng một vị Tăng đứng trên hoa sen, nét rõ ràng in như vẽ.
LỜI BÌNH:
Ấn Quang pháp sư bảo:
“Tất cả LÝ của thế gian và xuất thế gian đều không ngoài hai
chữ TÂM TÁNH. Tất cả SỰ của thế gian và xuất thế gian, đều
không ngoài hai chữ NHÂN QUẢ”.
Nhâm Cung Nhơn bị vương nhiều bịnh, là chịu quả của nghiệp sát
kiếp trước; cảm mộng lành được khỏi khổ, bởi nhờ nhân tu niệm của kiếp này. Lúc
lâm chung hơi nóng trụ nơi ngực, đáng lẽ bà phải chuyển sanh làm người tu thêm
một kiếp nữa mới được giải thoát. Song nhờ công đức của gia đình và các liên
hữu luân phiên chí tâm trợ niệm, nên kết cuộc bà lại được vãng sanh. Điểm nầy cho thấy sự trợ niệm lúc lâm chung rất là thiết
yếu.
BÀI SỐ 88
Ẩn tu thế chiến BIẾT kỳ ba
Nước lửa sơn lâm khắp hải
hà
Mấy cuộc lọc thanh đầy
huyết-lệ
Bay hồn thảm khổ, lướt khôn
qua.
NHƯ Ý : Có nhiều kẻ bảo: “CHIẾN-TRANH NGUYÊN-TỬ không
thể xảy ra, vì sẽ gây cuộc tàn phá LỚN LAO, mà không ai THẮNG ai BẠI.”
Nhưng theo CHÂN-LÝ thì
có NHÂN-SÁT tức có QUẢ-SÁT, dù rằng NHÂN LOẠI cố gắng HẠN CHẾ không cho
xảy ra.
3. Linh Văn Cứu Giúp Thế Giới Tránh Khỏi Ngày Tận Thế
Trên đời, nếu có một người biết niệm Chú Lăng Nghiêm,
thì thế giới này sẽ không bị hủy diệt, giáo pháp cũng sẽ
không bị diệt vong.
Hiện tại tôi giảng Chú Lăng
Nghiêm cho quý vị nghe, Chú Lăng Nghiêm này trong trăm ngàn vạn kiếp cũng chưa
có ai giảng được một lần, mà cũng không dễ gì giảng được một lần. Lúc tôi giảng
cho quý vị, tôi biết là không có ai nghe mà liền hiểu được ngay cả. Cho dù có
người tự cho rằng mình hiểu được, thì đó cũng không phải là thực sự hiểu. Có
người tự cho là mình đã hiểu rồi, cho nên không chú ý nghe, thì đó cũng giống
như không hiểu vậy. Chú Lăng Nghiêm là linh văn cứu giúp cho trời đất không bị
hủy diệt. Chú Lăng Nghiêm cũng là linh văn cứu giúp thế giới tránh khỏi ngày
tận thế. Cho nên, tôi thường nói rằng, trên đời này nếu có một người biết niệm
Chú Lăng Nghiêm, thì thế giới này sẽ không bị hủy diệt, giáo pháp cũng không bị
diệt vong. Đợi đến lúc thế giới không còn có ai biết niệm Chú Lăng Nghiêm nữa,
bấy giờ Phật Pháp đành phải bị diệt vong!
Hiện tại đã có một số thiên
ma ngoại đạo, ngông cuồng tung ra lời đồn đại rằng Kinh Lăng Nghiêm và
Chú Lăng Nghiêm đều là giả, là ngụy tạo. Đó chính là con cái cháu chắt của loài
ma do các thiên ma ngoại đạo phái đến để tung ra những lời đồn đại ngông cuồng
này, khiến cho người ta không còn tin tưởng vào Kinh Lăng Nghiêm và
Chú Lăng Nghiêm nữa. Đến lúc người người đều không còn tin tưởng Chú Lăng
Nghiêm, thì sẽ không có ai niệm Chú này nữa, bấy giờ thế giới này sẽ mau chóng
bị hủy diệt! Nếu muốn thế giới không bị diệt vong, thì quý vị hãy nhanh chóng
niệm Chú Lăng Nghiêm, đọc tụng Kinh Lăng Nghiêm. Nếu quý vị có thể
ngày ngày niệm Chú Lăng Nghiêm, thì sự nguy hiểm của bom nguyên tử, bom khinh
khí cũng sẽ không thể xảy đến cho quý vị. Vì thế, quý vị nên nhất tâm niệm Chú
Lăng Nghiêm.
Hiện tại tôi giảng Chú Lăng
Nghiêm cho quý vị, thì ngay lúc này đây, có thể không có một người nào hiểu
được, nhưng mười năm, một trăm năm, hoặc một ngàn năm sau, có người đọc được
những chú giải đơn sơ cạn cợt này của tôi, biết đâu lúc đó họ sẽ hiểu được một
cách rõ ràng sâu sắc hơn về Chú Lăng Nghiêm. Quý vị được nghe Chú Lăng Nghiêm
rồi, thì không nên vội cho rằng điều này là quá dễ dàng. Bốn câu kệ tụng này
xem ra thì rất đơn giản, nhưng đó là những gì từ trong tâm tánh tôi lưu xuất
ra, hoàn toàn không phải là do tôi sưu tầm, trích dẫn, hoặc sao chép từ các
sách vở khác. Quý vị theo học với tôi, bất luận là kệ tụng hay hay dở, đó đều
là theo cách nhìn của tôi—tôi y theo những hiểu biết về Chú Lăng Nghiêm của tôi
mà viết ra. Nếu quý vị muốn thật sự hiểu được Chú Lăng Nghiêm, thì phải chú ý
học hỏi, chớ để thời gian trôi qua lãng phí!
LINH VĂN CỦA TRỜI ĐẤT CỨU THẾ GIỚI
© 2018
Vạn Phật Thánh Thành
Tán lễ Thích-Tôn:
Vô thượng năng nhơn.
Tăng kỳ cửu viển tu
chơn.
Ðẩu suất giáng thần,
Trường từ bửu vị kim
luân, tọa Bồ-đề tòa đại phá ma quân.
Nhứt đổ minh-tinh đạo
thành, giáng pháp lâm.
Tam thừa chúng đẳng qui
tâm.
Vô sanh dĩ chứng.
Hiện tiền chúng đẳng qui
tâm.
Vô sanh tốc chứng.
Tứ sanh cửu hữu, đồng đăng hoa tạng huyền môn,
bát nạn, tam đồ cộng nhập tỳ lô tánh hải.
NAM-MÔ TA BÀ THẾ-GIỚI, TAM GIỚI ĐẠO-SƯ, TỨ SANH TỪ-PHỤ,
NHƠN THIÊN GIÁO CHỦ THIÊN BÁ ỨC HÓA THÂN
BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT.
Thứ Sáu
Hàng phục oán ma kinh quỉ thần
Vũ trụ cát tường chánh khí tồn
Hộ pháp vệ giáo công huân phổ
Tăng già hợp hòa đạo dịch hưng.
Ta Ra Ta Ra [43]
Án-- phạ nhựt-ra chỉ-nảnh, bát-ra nể bát đa dã, tát-phạ hạ.
ÐÁT ĐIỆT THA
1) ÁN
2) A NA LỆ
3) TỲ XÁ ĐỀ
4) BỆ RA
5) BẠT XÀ RA
6) ÐÀ RỊ
7) BÀN ĐÀ BÀN ĐÀ NỂ
8) BẠT XÀ RA BÁN NI PHẤN
9) HỔ HỒNG ĐÔ LÔ UNG PHẤN
10) TA BÀ HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(108 lần)
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền
Tâm
Thiên thứ ba
Tiết III: Lời Phật Dạy
Về Sự Ðoạn Nhục Thực
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn
khắp thế-giới, đó là do nghiệp sát của chúng-sanh chiêu cảm.
Vì thế nên cổ-đức đã bảo: “Tất cả chúng-sanh không nghiệp
sát. Lo gì thế-giới động đao binh!” Vậy muốn cho tai nạn chiến
tranh tiêu giảm, không gì hơn dứt từ cái nhân của nó, nghĩa là mọi người đều
nên ăn chay giới sát phóng sanh. Nhưng về việc nầy phận sự thì dễ nhận
biết, phần lý ít người suốt thông. Bởi thế nhiều kẻ khi ăn chay giới sát phóng
sanh, không thể phát tâm chí thành thương xót, nên công đức cũng vì đó mà trở
thành kém ít. Vậy khi làm các điều thiện trên, hành giả phải nhận hiểu phần lý
của nó như bốn điểm ở đoạn trước đã nói.
1- Vì lòng thương xót chúng-sanh
2- Vì tránh ác báo của nghiệp sát
3- Vì muốn dứt tâm tham nhiễm nơi vị
trần
4- Vì để cho thân tâm nhẹ nhàng, dễ
thực hành trên đường tu
Ngoài ra lại cần phải hiểu rằng: tất cả chúng-sanh đều có đủ
đức tướng trí huệ của Như-Lai, nhưng vì bị nghiệp hoặc che lấp tánh diệu minh
nên chìm đắm vào hàng dị loại, chỉ biết tìm cầu món ăn, tránh sợ cái chết mà
thôi. Nếu những chúng-sanh ấy ngày kia nghiệp chướng tiêu giảm, được nghe
chánh-pháp, đều có thể tiến tu và được thành quả Phật.
Lại nên nghĩ: ta cùng tất cả chúng-sanh từ vô thỉ đến nay ở
trong nẻo luân-hồi, vì Vô-minh che lấp nên đổi thay sanh sát lẫn nhau. Trong
nhiều kiếp, các loài kia thường làm cha mẹ, anh chị em, chồng vợ, con cái của
ta; và ta cũng đã từng làm cha mẹ, anh chị em, chồng vợ, con cái của cái loài
ấy. Chúng-sanh kia do sức nghiệp ác hoặc ở cõi người, hoặc ở trong hàng dị
loại, thường bị ta giết hại; ta cũng do sức nghiệp ác, hoặc ở cõi người, hoặc ở
trong hàng dị loại, thường bị nó giết hại. Cảnh tương sanh tương sát như thế đã
diễn ra từ vô lượng kiếp chẳng biết chừng nào dứt, phàm-phu vì mê nên không
hiểu, nhưng Như-Lai thì thấu suốt rõ ràng. Việc ấy nếu không nghĩ đến thì thôi,
người biết nghĩ suy tất không xiết thẹn thuồng, bi mẫn!
Nay ta do túc phước được làm người, nên giải trừ oan kết, ăn
chay giới sát phóng sanh; lại vì cứu độ mình và muôn loài, niệm Phật hồi hướng
cầu sanh Cực-Lạc. Xin dẫn một đoạn trong kinh Lăng-Già về nhân
duyên đoạn trừ nhục thực mà Ðức Thế-Tôn đã dạy, để cho hàng Phật-tử thêm sự suy
gẫm trên bước đường ăn chay tu thiện:
“... Có vô lượng nhân duyên mà hàng Bồ-Tát phải sanh
lòng thương xót, không nên ăn tất cả các thứ thịt. Ta nay vì ông nói ra đây một
phần ít:
- Nầy Ðại-Huệ! Tất cả loài hữu-tình từ vô thỉ đến nay ở trong
vòng sống chết luân-hồi vô tận, không có chúng-sanh nào chẳng từng làm cha mẹ
anh em con cái quyến thuộc, cho đến chủ tớ, bạn bè, thân thích lẫn nhau. Vậy
đối với chúng-sanh đã vì nghiệp lực phải chịu đọa làm thân thủy tộc, cầm thú,
nỡ nào bắt nó mà ăn thịt? Bậc Bồ-Tát-Ma-Ha-Tát phải quán sát xem tất cả loài
hữu-tình đồng với thân mình, nên nghĩ các thứ thịt kia từ những sanh mạng biết
vui khổ thương đau mà có, đâu nỡ an nhiên mà ăn?
- Nầy Ðại-Huệ! Các bọn La-sát nghe ta nói điều nầy còn nên dứt
trừ sự ăn thịt, huống nữa là người ưa vui theo đạo pháp? Trong mỗi đời, Bồ-Tát
quán thấy chúng-sanh đều là quyến thuộc, thường nghĩ xem đồng như con, nên
không ăn tất cả các thứ thịt. Những người bán các thứ thịt trâu bò chó ngựa heo
dê nơi chợ phố hàng quán, vì tâm tham lợi nên tạo nghiệp giết hại; thịt là sở
do của tâm hạnh tạp uế như thế, làm sao Bồ-Tát nên thọ dụng?
- Nầy Ðại-Huệ! Tất cả các thứ thịt đều là chất tinh huyết ô
uế, người cầu thanh tịnh làm sao nên ăn? Kẻ ăn thịt, chúng-sanh thấy đều sợ
hãi, người tu từ tâm làm sao nên ăn? Khi gặp bọn thợ săn cùng kẻ hạ tiện làm
nghề bắn giết, bẫy lưới tàn hại sanh linh, loài chó trông thấy kinh hãi sủa
vang, tất cả cầm thú thảy đều dớn dác trốn chạy. Sở dĩ như thế, bởi các
chúng-sanh ấy đều nghĩ rằng: những người nầy lộ vẻ hung ác dường như quỷ
La-sát, nếu ta đến đó tất bị bắt giết, vậy phải nên xa lánh là hơn. Cũng như
thế, người ăn thịt thường bị chúng-sanh ghét sợ xa lánh. Vì lẽ đó, bậc Bồ-Tát
tu hạnh từ bi không nên ăn thịt.
- Nầy Ðại-Huệ! Kẻ ưa ăn thịt, thân thể hôi nhơ, tiếng dữ đồn
xa, người lành bậc hiền-thánh không thích gần gũi, vì thế Bồ-Tát không nên ăn
thịt. Huyết nhục là chất chúng Tiên từ bỏ, các Thánh chẳng ưa, bởi thế Bồ-Tát
không nên thọ dụng. Bồ-Tát vì tâm từ mẫn, vì giữ gìn lòng tin của chúng-sanh
khiến cho Phật-pháp không bị chê bai, nên không ăn thịt. Nếu đệ-tử của ta ưa ăn
thịt, sẽ bị người tục đem lòng khinh báng nói rằng: Tại sao hàng Sa-môn tu
nghiệp thanh tịnh, lại không bằng hạnh trong sạch của thiên tiên, mà như ác thú
mang đầy bụng thịt cá đi dạo thế gian, làm cho chúng-sanh thảy đều ghét sợ? Và
như thế là kẻ ấy đã phá hạnh thanh tịnh, mất đạo Sa-môn, thiếu tư cách để điều
phục người. Cho nên, Bồ-Tát vì lòng từ mẫn, muốn nhiếp hộ mọi người khiến cho
không sanh tâm niệm ấy, chẳng thọ dụng đồ huyết nhục.
- Nầy Ðại Huệ! Như khi thiêu người chết cùng thiêu thịt của
loài vật, cả hai mùi khí vị không tinh sạch đồng như nhau, tại sao trong ấy
thịt người không ăn, lại ăn thịt loài vật? Vì thế, người ưa hạnh thanh tịnh
không nên ăn thịt. Các hàng thiện nam thiện nữ tu hành khổ nhọc chốn a-lan-nhã,
hoặc trụ nơi từ tâm, hoặc trì chú thuật, hoặc cầu giải thoát, hoặc hướng về
Đại-thừa, nhưng vì bởi còn ăn thịt nên bị nhiều sự chướng ngại, công hạnh không
được thành tựu. Cho nên Bồ-Tát nếu muốn được lợi mình và lợi ích cho
chúng-sanh, quyết không nên ăn thịt.
- Nầy Ðại Huệ! Kẻ ưa ăn thịt khi thấy hình dáng loài vật đã
sanh tâm thèm mùi vị. Bậc Bồ-Tát phải thương nghĩ chúng-sanh cũng như mình, tại
sao vừa thấy hình đã muốn ăn thịt? Bởi thế, Bồ-Tát phải dứt trừ nhục thực.
Người ăn thịt thì nơi miệng thường hôi nên chư thiên lánh xa, hằng bị Dạ-xoa
ác-quỷ đoạt mất tinh khí. Kẻ ấy giấc ngủ không yên, khi tỉnh dậy lo lắng, tâm
nhiều sợ hãi; do tham ăn không biết vừa đủ, nên thêm nhiều tật bịnh, dễ sanh
ghẻ độc, bị các loài tế trùng cắn đúc, mà cũng vẫn không biết chán nhàm.
- Nầy Ðại Huệ! Ta thường bảo: ăn thịt chúng-sanh chẳng khác
chi ăn thịt con mình, vậy đâu phải thật Như-Lai hứa cho đệ-tử ăn thịt? - Thịt
chẳng phải thơm ngon, thịt không tinh sạch, ăn thịt sanh nhiều tội ác, làm hư
các công đức, bị chư tiên-thánh rời bỏ, làm sao Như-Lai lại hứa cho đệ-tử ăn
thịt? Bởi thế, kẻ nào nói Như-Lai chấp nhận cho đệ-tử ăn thịt, tức là phỉ báng
ta.
- Nầy Ðại Huệ! Nên biết thức ăn thanh tịnh là những thứ như:
lúa, nếp, đậu, bắp, đường, tô du... Các thứ ấy chư Phật đời quá khứ đã hứa cho,
ta nay cũng khuyên bảo như vậy”.
“BÁT-NHÃN TÂM-KINH” nói rằng :
Quán-tự-tại Bồ-tát “QUÁN THẤY”...
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức;
( không có ngũ-uẩn)
vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp;
( không có 12 nhập)
vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới;
(không có 18 giới)
vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận;
(không có 12 nhân duyên)
vô khổ, tập, diệt, đạo;
(không có 4 đế)
vô trí diệc vô đắc.
(không có TRÍ của Bồ-tát do tu Lục-độ, cũng không có ĐẮC qủa
Phật)
Lại nói, Tam-thế chư Phật, y
Bát-nhã-ba-la mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
(Ba
đời “Chư Phật” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA”)
Còn nói, Bát-nhã là Đại-thần, là đại
minh, là vô-thượng, là vô đẳng đẳng chú... như lại phải nhờ thần-chú “Yết-đế Yết-đế, Ba-la
yết-đế, Ba la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.”, để tiêu trừ vô-minh vi tế của
“A-LẠI-DA THỨC” (sở tri chướng), mà thành tựu “ĐẠI VIÊN
CẢNH TRÍ” hay “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”, TỨC THÀNH PHẬT.
Tóm lại, “QUÁN-TỰ-TẠI
BỒ-TÁT” y “VÔ SỞ ĐẮC”,
mà đắc “PHẬT QỦA”
Ma-ha Bát-nhã Ba la-mật-đa.
MAHA PRAJNA PARAMITA
(108 lần)
Năm Thứ Mười Ba niên hiệu Đại Nghiệp, Đức Tứ Tổ Đạo Tín dẫn đồ chúng đến
Cát Châu thì gặp bọn cướp vây thành bảy tuần (bảy mươi ngày) chẳng lui tan, mọi
người đều sợ hãi.
Tổ thương xót, dạy bày niệm MAHA PRAJNA PARAMITA (Ma Ha Bát Nhã Ba La
Mật Đa.) Khi ấy, bọn cướp nhìn lên trên thành như có thần binh, bèn
bảo nhau:
“Trong thành ắt có dị nhân, không thể đánh được”. Bèn
lần lần bỏ đi.
( KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG
THÔNG)
MA-HA BÁT-NHÃ
BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH
Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã
Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất
dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc
phục như thị.
Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng,
bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung
vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô
sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh,
diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt,
đạo; vô trí, diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y
Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố,
viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã
Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại
thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ
nhứt thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú,
tức thuyết chú viết:
Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế,
ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.
Ma-ha Bát-nhã Ba la-mật-đa.
MAHA PRAJNA PARAMITA
(108 lần)
The Heart of
Prajna Paramita Sutra
Translated by Tang Dharma Master of
the Tripitaka Hsüan-Tsang on imperial command.
When Avalokiteshvara Bodhisattva was
practicing the profound prajna paramita, he illuminated the five skandhas and
saw that they are all empty, and he crossed beyond all suffering and
difficulty.
Shariputra, form does not differ from
emptiness; emptiness does not differ from form. Form itself is emptiness;
emptiness itself is form. So, too, are feeling, cognition, formation, and
consciousness.
Shariputra, all dharmas are empty of characteristics. They are not
produced. Not destroyed, not defiled, not pure, and they neither increase
nor diminish.
Therefore, in emptiness there is no
form, feeling, cognition, formation, or consciousness; no eyes, ears,
nose, tongue, body, or mind; no sights, sounds, smells, tastes, objects
of touch, or dharmas; no field of the eyes, up to and including no
field of mind-consciousness; and no ignorance or ending of ignorance, up
to and including no old age and death or ending of old age and death.
There is no suffering, no accumulating, no extinction, no way, and no
understanding and no attaining.
Because nothing is attained, the
Bodhisattva, through reliance on prajna paramita, is unimpeded in his
mind. Because there is no impediment, he is not afraid, and he leaves
distorted dream-thinking far behind. Ultimately Nirvana!
All Buddhas of the three periods of
time attain Anuttarasamyaksambodhi through reliance on prajna
paramita. Therefore, know that prajna paramita is a great spiritual
mantra, a great bright mantra, a supreme mantra, an unequalled mantra. It
can remove all suffering; it is genuine and not false. That is why
the mantra of prajna paramita was spoken. Recite it like this:
Gate gate paragate parasamgate bodhi
svaha!
Copyright © Buddhist Text Translation Society
MAHA PRAJNA PARAMITA
(108 lần)
TÂY TRAI TỊNH ĐỘ THI
Cõi thanh đạo quả dễ
tròn nên
Tập quán hèn thô tự đổi liền.
Cá lội bể khơi lìa lưới rập
Nhạn bay trời rộng thoát cung tên.
Luân hồi đã dứt đường sanh tử
Phiền não còn đâu niệm đảo điên?
Một điểm không tâm là Cực Lạc
Nhiễm mê khó dự bảo trì liên.
Vô biên cảnh đẹp vịnh khôn cùng
Tầm mắt du quan chẳng chán trông!
Hạt thóc chứa bao trời đất rộng
Mười phương thu lại chót đầu lông.
Trong đền châu ngọc giăng cùng khắp.
Ngoài các lan can bọc giáp vòng.
Chậm bước còn đang nghe nhạc lạ
Từ đâu loan phụng liệng hư không?
Lâu đài bảo thọ ngắm
mênh mang
Niệm Phật thiền tư giữa cảnh nhàn!
Cây báu sắc xen đâu chỉ một
Chim linh điệu xướng cỏ muôn ngàn.
Tô đà thơm diệu đầy ngân trản
Cam lộ ngọt thanh khắp ngọc bàn.
Chẳng giống Tuyết sơn nhiều tuyết lạ
Kẻ vô phước biến vị tân toan.
Ba cõi đã hay chẳng ổn
lành
Quyết tìm Cực Lạc chứng Vô sanh.
Ví không niệm Phật công phu chắc
Đâu được đài sen nguyện lực thành?
Ngút tỏa lầu cao lồng diệu sắc
Gió đùa cây biếc nổi cầm thanh!
Từ nay chân giả không lầm lạc
Mắt cá, trân châu nhận rõ
lành.
Tiết III.- Bốn Giai Đoạn Của Đại Kiếp
1. Kiếp-thành: Khi thế-giới đã tiêu
hoại, chỉ còn một khoảng hư không trống rỗng trải qua thời gian rất lâu xa. Do
nghiệp lực của chúng-sanh, bấy giờ từ nơi không gian bỗng nhiên biến hiện ra
áng mây to rộng che khắp một vùng bằng khoảng Tam-thiên-đại-thiên-thế-giới. Kế
đó lại có mưa to đổ xuống, mỗi giọt mưa lớn như cái bánh xe. Cứ mưa như thế hết
trận nầy đến trận khác.
Do nghiệp chúng-sanh, có
nhiều trận mưa sai biệt: có cơn mây mưa lớn tên là Năng-Diệt, làm
cho tiêu tan những hơi nóng bức.
Có cơn mây mưa lớn tên
là Năng-Khởi, làm cho nước dâng lên cao.
Có cơn mây mưa lớn tên
là Năng-Chỉ, làm cho nước lắng hạ xuống.
Có cơn mây mưa lớn tên
là Năng-Thành, hay tạo thành chất ngọc ma-ni và các thứ trân bảo.
Có cơn mây mưa lớn tên
là Phân-Biệt hay khu phân các vùng của Đại-thiên-thế-giới.
Mưa như thế trải qua ngàn
muôn năm, nước lần lần dâng cao đến cõi Phạm-Thiên. Trong khi mưa lại có bốn
thứ gió to xen lẫn.
Một là Năng-Trì-phong-luân,
thứ gió nầy duy trì khiến cho nước không tan rã.
Hai là Năng-Tiêu-phong-luân,
thứ gió nầy làm cho nước tiêu bớt.
Ba là Kiến-Lập-phong-luân,
thứ gió nầy làm cho các xứ sở được thành lập.
Bốn là Trang-Nghiêm-phong-luân,
thứ gió nầy phân bố các xứ sở một cách thiện xảo.
Khi nước đã dâng lên cao
đầy khắp cõi Đại-thiên, lại có những hoa sen to lớn tự sanh ra che trải giáp
mặt nước. Thứ hoa sen nầy có 1.000 cánh, tên gọi là Như-Lai-Xuất-Hiện-Công-Đức-Bảo-Trang-Nghiêm,
chư thiên ở cõi trời Tịnh-Cư trông thấy, bay xuống đếm xem được bao nhiêu hoa
sen, liền biết trong đại-kiếp nầy có bao nhiêu vị Phật ra đời.
Sau khi hoa sen mọc ra
không bao lâu, bỗng có cơn gió lớn tên gọi A-Na-Tỳ-La, thổi
nước xao động thành những cụm bọt to đọng đặc lại.
Kế tiếp lại có thứ gió tên
gọi là Thiện-Tịnh-Quang-Minh, gió nầy thành lập các Thiên-cung
thuộc cõi Sắc.
Trước tiên cõi Tam-thiền
được thành lập, thứ đến cõi Nhị-thiền, thứ nữa đến cõi Sơ-thiền. Kế tiếp lại có
thứ gió tên là Tịnh-Quang-Minh-Trang-Nghiêm, gió nầy thành lập các cung điện
của Không-cư-thiên thuộc cõi Dục.
Kế tiếp lại có thứ gió tên
là Kiên-Mật-Vô-Năng-Hoại, gió nầy thành lập các Luân-Vi-Sơn lớn nhỏ và
Kim-Cang-Sơn. Kế tiếp lại có thứ gió tên Thắng-Cao, gió nầy thành lập các núi
Tu-Di. Kế tiếp lại có thứ gió tên là Bất-Động, gió nầy thành lập mười loại núi
lớn là: núi Khê-Đà-La, núi Tiên-Nhơn, núi Phục-Ma, núi Đại-Phục-Ma, núi
Trì-Song, núi Ni-Dân-Đà-La, núi Mục-Chơn-Lân-Đà, núi Ma-Ha-Mục-Chơn-Lân-Đà và
Hương-Sơn, Tuyết-Sơn. Kế tiếp lại có thứ gió tên là An-Trụ, gió nầy thành lập
các miền đại địa của Đại-thiên-giới.
Kế tiếp lại có thứ gió tên
là Trang-Nghiêm, gió nầy thành lập các cung điện của Địa-cư-thiên, cung điện
Long-vương và thần Càn-Thát-Bà. Kế tiếp lại có thứ gió tên là Vô-Tận-Tạng, gió
nầy thành lập tất cả biển lớn của cõi Đại-thiên. Kế tiếp lại có thứ gió tên là
Phổ-Quang-Minh-Tạng, gió nầy thành lập các báu ma-ni của Đại-thiên-thế-giới. Kế
tiếp lại có thứ gió tên là Kiên-Cố-Căn, gió nầy thành lập tất cả các cây
Như-Ý. Như thế do nghiệp duyên của chúng-sanh không đồng, nên tự nhiên
nổi lên những thứ gió sai biệt để tạo thành các cõi sai biệt.
(Đoạn thành lập các núi
trên đây là trích dẫn theo kinh Hoa-Nghiêm, Xin lược dẫn thêm một đoạn trong luận Du-Già-Sư-Địa để học giả so sánh):
Bấy giờ giữa hư không
lại nổi lên các Giới-tạng-vân. Do những ánh mây nầy, có nhiều thứ mưa to đổ
xuống, nước mưa đều y trụ trên Kim-tánh-địa-luân. Kế đó lại có gió mạnh khởi
lên cổ động làm cho nước thành những chất đặc. Các chất tinh diệu bậc thượng hợp
thành núi Tu-Di. Núi nầy khi hoàn thành, thể chất của nó là bốn thứ báu: vàng,
bạc, lưu ly, pha lê. Những chất đặc bậc trung, kết thành bảy núi vàng như: núi
Trì-Song, núi Trì-Trục, núi Chiêm-Mộc, núi Thiện-Kiến, núi Mã-Nhĩ, núi
Tượng-Nhĩ, núi Trì-Địa. Bảy dãy núi nầy an lập theo thứ lớp và đều vây quanh
núi Tu-Di.
Những chất đặc bậc hạ
kết thành bốn đại-châu, tám trung-châu, núi Thiết-Vi, cung điện của hàng
Phi-thiên, Long-cung, Tuyết-Sơn, bờ núi bao quanh A-Nậu-Trì, các chánh ngục,
biên ngục, và một phần biệt xứ của loài Ngạ-quỷ, Bàng-sanh.
Cung điện của hàng
Phi-thiên ở dưới chân núi Tu-Di gần mé nước Long-cung ở rải rác theo các
Hương-thủy-hải, giữa bảy núi vàng. Trong các Long-cung nầy có tám đại
Long-vương, thọ lượng đồng một trụ kiếp.
Tám Long-vương ấy là: Trì-Địa long-vương, Hoan-Hỷ long-vương,
Mã-Loa long-vương, Mục-Chơn-Lân-Đà long-vương, Ý-Mãnh long-vương, Trì-Quốc
long-vương, Đại-Hắc long-vương, Ế-La-Diệp long-vương.
Tóm lại, kiếp thành là giai
đoạn thế-giới đang thành lập. Thời gian nầy kể có 20 tiểu-kiếp.
2. Kiếp-trụ: Kiếp-trụ là gì? Ấy là
thế-giới đã thành, có thể khiến cho chúng-sanh được an trụ mà thọ dụng. Kinh
Hoa-Nghiêm nói:
“Tam-thiên-đại-thiên-thế-giới
đã thành lập, khiến cho vô lượng chúng-sanh được nhiều sự nhiêu ích: những loài
thủy tộc được sự nhiêu ích của nước; những loài ở lục địa được
sự nhiêu ích của đất; những loài ở cung điện được sự nhiêu
ích của cung điện; những loài ở hư không được sự nhiêu ích của hư
không”.
Khi thế-giới mới vừa thành
lập, đất như chất sữa đặc, có đủ mùi vị thơm tho ngon đẹp. Lúc ấy hàng chư
thiên phước, mạng đều hết, từ cõi trời Quang-Âm hóa
sanh xuống miền đại địa. Loài hữu-tình nầy
các căn đầy đủ, thân có ánh sáng, bay đi tự tại giữa hư không lấy sự hỷ lạc làm
thức ăn, thọ số rất lâu dài.
Bấy giờ thế-giới không có
mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, thời tiết và ngày đêm, cũng không phân biệt
ai là nam, nữ, sang, hèn mọi người gặp nhau chỉ gọi là “Tát đỏa, tát
đỏa”.
Tát đỏa có nghĩa là “độ” là vượt qua (bể khổ) cũng như đưa
người khác vượt qua (bể khổ) đến bờ giải thoát.
(ĐẠI-BI CÚ GIẢI)
Khi đó các hữu-tình hóa
sanh thấy lớp địa tô trắng nhuyễn, lấy ngón tay chấm đưa vào lưỡi nếm thử. Nếm
vài ba lần, cảm thấy thơm ngon, mùi vị đặc biệt, họ liền sanh lòng tham trước.
Những kẻ nào ăn chất địa tô nhiều, thân thể lần lần thô phì, người ăn ít thì
nhan sắc quang nhuận hơn. Do đó họ sanh tâm phân biệt tốt xấu hơn kém. Khi
các hữu-tình ấy tham nhiễm chất địa tô, thì thần thông ánh sáng và diệu sắc của
thân thể cũng lần suy mờ và mất hẳn, thế-giới trở nên tối tăm.
Lúc đó các ngọn hắc phong
thổi vào mặt biển, từ nơi đây phát hiện mặt trời, mặt trăng bay lên hư không
soi sáng thế gian. Người thời bấy giờ thấy mặt trời mọc thì mừng, thấy mặt trời
lặn thì lo lắng sợ hãi, từ đó mới có ngày đêm phân biệt.
Khi loài người đã sanh
lòng hơn kém thị phi, phước đức cũng suy giảm, chất địa tô biến thành địa bì,
mùi vị kém hơn trước. Lần lần chất địa bì cũng diệt, sanh ra chất địa phu; chất
địa phu lại diệt, biến ra chất địa phì, mùi vị như rượu bồ đào. Kế đó chất địa
phì cũng mất, từ dưới đất mọc lên cây bồ đào trái ngon ngọt, nhơn loại hái thứ
trái ấy mà ăn, ăn hết lại có trái khác sanh ra tiếp tục. Lần lần cây bồ đào
thưa thớt không còn trái, từ dưới đất lại mọc lên thứ gạo không có vỏ thóc bên
ngoài; thứ gạo nầy không cần gia vị mà vẫn có đủ mùi chất thơm ngon.
Bấy giờ loài người
hóa sanh ăn thứ gạo thơm, còn lại cặn bã nơi thân, thể chất lại biến
sanh ra đại, tiểu tiện đạo, hiện rõ căn hình nam nữ. Những kẻ
tình nhiễm hơi nặng biến thành nữ nhơn, người tình nhiễm nhẹ hơn biến thành nam
tử; hai bên đối nhau cười nói, dục niệm càng tăng, lần lần đi đến sự phối hợp
và kết thành chồng vợ ở chung nhau. Từ đấy loài người sanh ra đều từ
thai tạng của mẹ.
Thứ gạo thơm thuở ấy dài
độ bốn tấc, ban mai cắt chiều liền sanh, chiều cắt mai lại sanh, hạt nào hạt
nấy đều chín mọng. Trong khi đó đôi kẻ sanh tâm lười biếng, họ cắt luôn thật
nhiều, để dành ăn trong ba ngày, năm ngày, hoặc nhiều ngày. Những người kia
trông thấy thế bắt chước làm theo, do nghiệp tham lam phóng dật ấy, gạo lần lần
sanh ra vỏ thóc, khi cắt rồi không mọc lại liền như lúc trước. Trước cảnh trạng
ấy, loài người buồn rầu khóc lóc, cùng nhau phân chia ranh giới của ruộng
nương, mỗi gia đình đều tàng trữ lúa riêng, rồi ra sức gieo trồng để tự
nuôi sống.
Thời gian sau, lại có kẻ
tham lam lười biếng, không chịu gắng sức làm việc, lén cắt trộm lúa của
người khác, nhân đó sanh ra sự tranh đấu lẫn nhau. Bấy giờ đại chúng
họp lại lựa bậc có đức công cử lên làm điền chủ, với nhiệm vụ xử đoán
việc phải quấy, trách phạt kẻ có tội, mỗi người đều trích bớt phần ăn
của mình để thù đáp công lao của vị ấy. Đây là mầm móng xuất phát hàng
vua chúa và giai cấp Sát-Ðế-Lỵ về sau.
Lúc đó lại có những kẻ
thấy nhơn loại lần trở nên ô nhiễm xấu xa, sanh lòng thương xót yểm ly, bỏ vào
núi tu hành, giữ hạnh trong sạch được mọi người tôn kính cúng dường. Đây
là nguồn gốc của hàng xuất-gia tu tịnh hạnh và giai cấp Bà-La-Môn về sau.
Lại có những kẻ học tập
các kỹ nghệ, hoặc giúp việc cho người khác để tự mưu sanh. Đây là hàng thứ dân
và tiện dân, cũng là nguyên ủy của hai giai cấp Phệ-Xá, Thủ-Ðà-La sau
nầy.
Tóm lại, thời gian của kiếp-trụ
cũng gồm có hai mươi tiểu-kiếp. Mỗi tiểu-kiếp khi tăng thạnh đều có bốn bậc
Luân-vương ra đời, lúc giảm cực đều có tiểu-tam-tai.
3. Kiếp-hoại: Khi trụ-kiếp đã mãn,
thế-giới bắt đầu hư hoại đây gọi là kiếp-hoại. Sự hư hoại nầy có hai phương
diện: thú-hoại và giới-hoại.
Thú-hoại là chỉ cho sự tiêu hoại của chúng-sanh
trong Thất-thú, tức là hữu-tình-giới. Lúc đó những chúng-sanh nào có
phước nghiệp liền được sanh về các tầng trời không tiêu hoại, hoặc sanh về các
thế-giới khác tương xứng với nghiệp của mình. Những chúng-sanh nghiệp
nặng, sau khi thân xác tiêu tan liền được chuyển sanh về ác đạo ở tha phương.
Giới-hoại là sự tiêu hoại của non sông vạn vật, tức
là khí-thế-giới.
Về kiếp-hoại lại có tướng
đại-tam-tai là: hỏa-tai, thủy-tai và phong-tai.
Khi hỏa-tai sắp khởi,
những chúng-sanh có phước đức đều sanh lên cõi Nhị-thiền. Do nghiệp của loài
hữu-tình kế đó hắc phong nổi lên dữ dội, khởi thỉ có hai mặt trời hiện ra, làm
cho nước ở các ao hồ rạch nhỏ đều khô cạn. Kế tiếp có ba mặt trời hiện ra, làm
cho nước ở các sông lớn đều khô cạn. Kế lại có bốn mặt trời hiện ra, làm cho
nước ở A-Nậu-Trì (Vô-nhiệt-trì) khô cạn. Khi năm mặt trời hiện ra biển lớn đều
khô; sáu mặt trời hiện ra núi non đất liền bốc cháy khói lên ngùn ngụt; bảy mặt
trời hiện ra núi Tu-Di sập đổ, chư thiên trời Lục-Dục thảy đều mạng
chung, sức lửa hủy hoại cả Dục-giới và tầng Sơ-thiền của Sắc-giới. Lúc
ấy từ cõi trời Quang-Âm trở xuống, vạn vật đều thành tro bụi, chư thiên mới hóa
sanh lên đây thấy cảnh tượng chưa từng có ấy, đem lòng sợ hãi. Các thiên-tử cựu
trụ đến an ủi rằng: “Chư vị chớ lo sợ, kiếp lửa không thể tiêu hủy được cõi
nầy”.
Khi thủy-tai nổi lên,
những chúng-sanh có phước đức đều sanh trước lên cõi Tam-thiền. Do nghiệp lực
của loài hữu-tình, tam-thiên-thế-giới nổi lên cơn mưa mãnh liệt. Từ cõi
Tam-thiền trở xuống, cung điện chư thiên, núi Tu-Di, Thất-Kim-Sơn, Tứ-đại-châu
đều ẩn hình trong biển nước. Cả cõi Dục và tầng Sơ-thiền, Nhị-thiền của
Sắc-giới đều bị sức nước xung phá tiêu tan. Ví như một khối muối to bỏ
xuống nước bị tiêu tan thế nào những sắc chất của cõi nầy cũng bị tiêu tan như
thế ấy.
Khi phong-tai nổi lên,
những chúng-sanh có phước đức đều sanh trước lên cõi Tứ-thiền. Do nghiệp lực
của loài hữu-tình, có cơn gió mãnh liệt tên là Đại-Tăng-Già nổi lên. Từ cõi
Tứ-thiền trở xuống, cung điện chư thiên, núi non, tất cả các sắc chất đều va
chạm nhau tan nát như vi-trần trong sức quay cuồng dữ dội của gió. Nói
chung, phong-tai tiêu hoại đồng thời tất cả trời Tam-thiền, Nhị-thiền,
Sơ-thiền, và 1.000.000.000 cõi Dục của Đại-thiên-thế-giới.
Đại-tam-tai không phải
đồng thời khởi lên trong một đại-kiếp. Như đại-kiếp thứ nhất bị
hỏa-tai tiêu hoại, đến đại-kiếp thứ tám mới bị thủy-tai tiêu
hoại, cứ bảy lần hỏa-tai có một lần thủy-tai, bảy lần
thủy-tai mới có một lần phong-tai. Đại-tam-tai tuần hoàn 64 lần trong
một kiếp vận, nếu đại-kiếp thứ nhất bị hỏa-tai tiêu hoại, đến đại-kiếp thứ 64
mới có phong-tai tiêu hoại thế-giới. Như thế trong một kiếp-vận (64 đại-kiếp),
có 56 lần đại hỏa-tai, 7 lần đại thủy-tai, 1 lần đại phong-tai.
Hiển-Tông-Luận nói:
“Chư thiên cõi Sơ-thiền do
sức phiền não vi tế của tâm sở tầm, từ bên trong, nên chiêu cảm hỏa-tai bên
ngoài.
Chư thiên cõi Nhị-thiền do
sức nhuận trạch của tâm khinh an, hoan hỷ bên trong, nên chiêu cảm thủy-tai bên
ngoài.
Chư thiên cõi Tam-thiền do
sức dao động của tâm lạc thọ bên trong, nên chiêu cảm phong-tai bên ngoài.
Bậc Sơ-thiền vì có đủ ba
tai nạn bên trong, nên phải thọ ba tai nạn bên ngoài. Bậc Nhị-thiền vì có hai
tai nạn (thủy, phong-tai) bên trong, nên phải thọ hai tai nạn
bên ngoài. Bậc Tam-thiền vì có một tai nạn (phong-tai) bên
trong, nên phải thọ một tai nạn bên ngoài”.
Cứ theo đây mà xét thì
trong thời kỳ hỏa-tai cũng có thủy-tai và phong-tai, nhưng thế lực của nước và
gió kém hơn lửa, nên chỉ kể phần lửa là đại hỏa-tai. Trong thời kỳ thủy-tai
cũng có hỏa-tai và phong-tai, nhưng thế lực của lửa và gió kém hơn nước, nên
chỉ kể phần nước là đại thủy-tai. Trong thời kỳ phong-tai cũng có hỏa-tai và
thủy-tai, nhưng thế lực của lửa và nước kém hơn gió, nên chỉ kể phần gió là đại
phong-tai. Hỏa-tai phá hoại đến cõi
Sơ-thiền, thủy-tai phá hoại đến cõi Nhị-thiền, phong-tai phá hoại đến cõi
Tam-thiền.
Tạp-Tâm-Luận nói: “Bậc Tứ-thiền không có lửa giác-quán như
Sơ-tịnh-lự, không có nước hoan-hỷ như Nhị-tịnh-lự, không có gió lạc-thọ như
Tam-tịnh-lự nên không bị tam-tai làm hại. Vì thế cõi Tứ-thiền vĩnh viễn không
tiêu hoại. Nhưng đệ Tứ-thiền chưa được gọi là chân thường vì định cảnh nầy
không vĩnh viễn tương tục khi sức định đã mòn thế lực của nó phải tiêu
tan. Vì thế cõi Tứ-thiền tuy không bị tam-tai, nhưng còn bị sự sanh
diệt vô thường làm hư hoại.
Tướng hư hoại ấy như thế
nào? Như khi vị thiên-tử cõi Tứ-thiền mới hóa sanh, cung điện và bao nhiêu
y-báo tùy thân cũng đồng thời hiện; khi họ mạng chung y-báo riêng cũng đồng
thời tiêu diệt”.
Trên đây là tướng trạng
chung về sự tiêu hoại của thế-giới. Mỗi lần thế-giới hoại diệt đều trải qua một
thời gian là 20 tiểu-kiếp.
Tóm lại các tướng hữu vi là
pháp sanh diệt, ba cõi đều vô thường, hàng Phật-tử không nên tham trước.
Cổ-đức đã bảo:
“Lục-dục còn mang tướng
ngũ suy,
Tam-thiền chưa khỏi với
phong-tai.
Dù cho tu đến
Phi-phi-tưởng.
Cũng chẳng bằng lên
Bát-Nhã-đài”.
4. Kiếp-không: Sau khi đã trải qua đại
tai, vạn vật đều tiêu tan, chỉ còn một khoảng không gian vô hình. Trạng thái
nầy kéo dài 20 tiểu-kiếp mới qua giai đoạn thành lập của thế-giới tương lai.
Thời kỳ trống không ấy gọi
là không kiếp. Không kiếp không có ngày đêm thời tiết, làm sao mà biết
được là trải qua 20 tiểu-kiếp. Đây là do trí huệ vô ngại của Phật thấy
suốt mười phương, so sánh với các cõi trời không hư hoại và trụ của thế-giới
phương khác, nên biết rõ thời gian ấy trải qua 20 tiểu-kiếp.
Như một năm có bốn
mùa: xuân, hạ, thu, đông; một đại-kiếp phải trải qua bốn kiếp tướng
là thành, trụ, hoại, không, liên tục không dứt. Thời tiết hết đông
kế sang xuân, kiếp tướng hết thời kỳ trống không lại qua thời kỳ thành lập.
Đối-Pháp-Luận nói: “Như suốt qua phương đông có vô lượng
thế-giới, các cõi ấy hoặc sắp thành, hoặc đang hoại, hoặc đang thành, hoặc đã
thành rồi trụ, hoặc đã hoại rồi không. Cũng thế, vô biên quốc độ ở mười phương
sanh diệt theo bốn giai đoạn: thành, trụ, hoại, không, liên tục không
dứt.
Chánh-báo và y-báo ở mười
phương thế-giới có xấu, đẹp, sạch, dơ, đều do đồng nghiệp của chúng-sanh mà cảm
hiện”. Kinh Hoa-Nghiêm cũng nói:
“Ví như lá trong rừng có
non, già, khô, rụng, thế-giới trong các sát chủng cũng có thành, trụ,
hoại, không”.
Thứ Hai Mươi Chín
Niệm tư tại tư vọng quy chơn
Thập phương chư Phật thọ
thủ thân
Tốc chứng tam bối phẩm
tư địa
Ma ha diệu pháp thắng
linh văn.
Phật Ra Xá-Lợi [38]
Nẳng mồ-- ra đát-nẳng, đát ra dạ dã.
Án-- a na bà đế vĩ nhá duệ,
tất địa tất đà lật thế, tát-phạ hạ.
Một câu A Di Ðà
Giải tai nạn trái oan
Quy ngưỡng ánh từ quang
Thấm nhuần niềm pháp hỷ.
(Nhứt cú Di Ðà
Giải nạn giải oan
Từ quang cộng ngưỡng
Pháp hỷ quân triêm.)
LƯỢC GIẢI
Bài kệ trên đều là những lời nói trắng rõ ràng, không có ẩn ý sâu kín nào
khác. Công đức niệm Phật có thể tiêu trừ nghiệp chướng, tai nạn, tà ma,
giải những oan trái đời này cùng đời trước.
Công đức ấy cũng khiến cho
sanh phước đức trí huệ, độ thoát chính mình cho đến kẻ oan người thân. Các điểm
vừa nói đã thể hiện rất nhiều đối với những hành giả niệm Phật từ xưa đến nay.
Trong Mấy Ðiệu Sen Thanh đã có nhiều sự tích trần thuật, độc
giả duyệt kỹ sẽ tự thấy, khỏi phiền dẫn chứng thêm nhiều.
Hành giả tu môn niệm Phật đều thọ hưởng được sự lợi ích an vui của pháp này,
nên gọi là pháp hỷ.
Bởi thế, chẳng những riêng
nơi cõi Ta Bà, mà ở khắp hằng hà sa quốc độ trong mười phương, vô số chúng sanh
cũng tu môn Niệm Phật và đều cùng hướng về ánh sáng từ bi của đức Giáo chủ Tây
phương Cực Lạc thế giới.
Quang,
thọ khó suy lường
Sáng lặng khắp mười phương!
Thế Tôn Vô Lượng Quang
Cha lành cõi Liên Bang.
Thần lực chẳng tư nghì
Sống lâu A tăng kỳ,
A Di Đà Như Lai
Tiến dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh
Công đức lạ trang nghiêm
Nơi tất cả quần sanh
Vượt lên ngôi Bất Thối
Mười phương hằng sa Phật
Đều ngợi khen Vô Lượng
Cho nên nay chúng con
Nguyện sanh về An Dưỡng.
Xá- Lợi- Phất! Nơi ý ông
nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?
Xá-Lợi- Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt
các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.
Xá- Lợi- Phất! Đức Phật
đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp,
nên hiệu là A Di Đà.
"Quang,
thọ khó suy lường"
Xá- Lợi- Phất! Lại trong
cõi Cực Lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối
chuyển.
Trong đó có rất nhiều vị
bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà hết được, chỉ có
thể dùng số vô lượng vô biên a – tăng – kỳ để nói thôi!
Xá- Lợi- Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện
cầu sanh về nước đó.
Ví sao? Vì đặng
cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.
“Vượt
lên ngôi Bất Thối”
Xá- Lợi- Phất! Vì nếu có
thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó,
và nghe danh hiệu của Đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn
ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối
chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Xá- Lợi- Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và
của các đức Phật nói.
PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ
“Mười phương hằng sa Phật
Đều ngợi khen Vô Lượng”
THIÊN NHƯ
Thiên Như đại sư, họ
Đàm, tự Duy Tắc, người ờ Vĩnh Tân. Sau khi xuất gia, ngài đi tham
học các nơi, cuối cùng lãnh thọ tâm ấn và nối dõi pháp tịch cho Trung
Phong Minh Bản thiền sư.
Niên hiệu Chí Chánh năm
đầu đời nhà Nguyên, thiền sư chủ trì chùa Sư Tử Lâm nơi thành Tô Châu. Các bậc
tể quan trưởng giả trong thời ấy, phần nhiều đều đến học đạo với ngài. Vua
thường xuống chiếu vời hỏi, ngài đều lấy duyên có bịnh cáo từ. Thiền sư đã mật
khế thiền cơ, lại nối dõi theo tổ Thiên Thai và Vĩnh Minh, kiêm hoằng dương
giáo pháp Tịnh độ. Ngài có viết ra quyển Tịnh Độ Hoặc Vấn, phá tan
các điều nghi, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây phương. Nay xin được trích
ra những đoạn răn nhắc có phần thiết yếu như sau:
Hỏi:- Phương tu viên quán, niệm duy tâm, dường như là hành
môn của bậc thượng căn. Còn mười nguyện trong kinh Hoa Nghiêm, mười tâm trong
kinh Bảo Tích, cũng là dụng công của bậc đại trí. Trên đường tu, nếu căn cơ
cùng giáo pháp không họp, e cho công hạnh khó thành. Nay tôi xét lại căn tánh
mình, chỉ nên chuyên trì danh hiệu, thêm lễ Phật sám hối mà thôi. Chẳng hay tôn
ý như thế nào?
Đáp: – Tốt lắm! Ông biết tự lượng đó! Lời ông nói hợp với
thuyết Chuyên tu vô gián của Tổ Thiện Đạo. Vô gián tu là thân chuyên lễ Phật A
Di Đà, không lễ tạp. Miệng chuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, không xưng tạp.
Y chuyên tưởng Phật A Di Đà, không tưởng tạp..
Có người trì danh lại
kiêm quán tưởng, hoặc chuyên trì danh hay chuyên quán tưởng. Trong hai điều
trên, muốn dễ thấy Phật, phần nhiều pháp trì danh là hơn. Cách xưng danh, cần
phải buộc tâm đừng cho tán loạn, mỗi niệm nối nhau duyên theo hiệu Phật, từng
câu từng chữ rõ ràng. Lại xưng danh hiệu Phật, chớ quản ít nhiều, duy một tâm
một ý, chí thành niệm niệm nối nhau. Như thế, mỗi câu mới diệt được tội nặng
trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Nếu chẳng vậy, trong mỗi câu sức diệt tội sanh
phước rất ít, và nghiệp chướng khó mau tiêu trừ.
Hỏi:- Người xuất gia còn phải lo cất chùa độ chúng, làm
nhiều Phật sự. Như thế làm sao nhứt tâm để niệm Phật?
Đáp:- Trừ bậc Bồ Tát nương theo bi nguyện tái lai để hoằng
hóa, còn hạng phàm phu tăng, điều chánh yếu là phải gắng tu hành lo giải quyết
vấn đề luân hồi sanh tử. Ngoài ra các việc khác đều thuộc phần thứ yếu. Nếu
chẳng thế, ngày kia việc khổ luân hồi đến, độ mình chưa được còn nói độ ai? Vả
lại, việc đời như mộng, dâu bể đổi thay. Biết bao chùa cảnh triều vua trước, mà
đến nay còn thấy nữa đâu? Dù cho tạo lắm chùa chiền, rộng làm Phật sự, chỉ e
phải kết thân với bậc sang giàu thế lực, rồi khởi lòng đắm lợi tranh danh, chạy
theo quyền vị. Những tưởng mình đã nhiều việc tốt, song đâu biết đó là trái với
gốc đạo, phạm đến điều răn dạy của Tổ sư. cổ đức bảo: “Công nghiệp hữu vi, sanh
nhiều tội lỗi, thiên đường chưa tạo, địa ngục trước thành, khó liễu tử sanh,
đều thành gốc khổ. Dưới lớp ca sa, thân người dễ mất, trong vòng thiết tỏa,
phải chịu lửa gươm!” Tổ sư đã dinh ninh dạy bảo như thế, dù kẻ lòng gang dạ
sắt, nếu biết xét nghĩ, nghe rồi cũng phải rơi lệ. Cho nên, nếu chẳng lấy sự
giải thoát làm chánh yếu, ngày sau hối hận cũng không kịp!
Hỏi:- Kinh nói: “Một đời tạo ác, khi lâm chung dùng mười
niệm xưng danh hiệu Phật, cũng được đới nghiệp vãng sanh”. Thế thì bây giờ, tôi
cứ buông thả theo duyên đời, đợi lúc sắp chết sẽ niệm Phật, có được không?
Đáp:- Lầm thay! Khổ thay! Lời nầy đã làm hại chính mình,
lại gây hại cho hành tăng tục, nam nữ trong đời nữa! Kinh văn nói vẫn không
sai, nhưng trong ấy còn có mật ý sâu xa mà duy bậc trí huệ mới hiểu thấu suốt.
Phải biết kẻ phàm phu nghịch ác khi lâm chung niệm Phật được, là do kiếp trước
đã có căn lành, nên khiến cho gặp bậc thiện tri thức chỉ bảo, mới được sự may
mắn trong muôn một ấy thôi. Luận Quần Nghi nói: “Có mười hạng người khi lâm
chung không niệm Phật được:
1- Khó gặp bạn lành, nên
không người khuyên niệm.
2- Đau bịnh, nghiệp chướng làm khổ thân tâm, nên không an ổn rỗi rảnh để niệm
Phật.
3- Trúng phong cứng họng, nói không ra tiếng.
4- Cuồng loạn mất sự sáng suốt.
5- Thình lình gặp tai nạn nước, lửa.
6- Bỗng bị ác thú vồ ăn thịt.
7- Bị bạn ác phá hoại lòng tin.
8- Hôn mê mà chết.
9- Thoạt chết giữa quân trận.
10- Từ nơi chỗ cao té xuống.
Những việc trên đây
trong đời thường có, bất luận tăng hay tục. Đó là do túc nghiệp hoặc hiện
nghiệp chiêu cảm, bỗng nhiên xảy ra, không kịp trốn tránh. Nếu chẳng may gặp
một trong mười việc trên đây, thì lúc thiếu duyên lành hay bất cập đó, làm sao
mà niệm Phật? Chừng đó dù cho có đức Phật sống cũng không cứu nổi, phải tùy
nghiệp chịu khổ đọa trong cảnh bát nạn tam đồ. Bấy giờ muốn nghe danh niệm
Phật, cũng không dễ gì được!
Nếu không bị những ác
duyên trên, thọ bịnh sơ sài mà qua đời, e cho khi lâm chung thân tứ đại ly tán,
chịu sự đau đớn vô hạn, dường như con cua rớt vào lửa, hay con đồi mồi sống bị
đắp nước sôi gỡ vảy. Trong lúc thống khổ bức bách, bối rối kinh hoàng ấy, đâu
có rỗi rảnh để niệm Phật?
Ví như không bị đau bịnh
mà mãn phần, lại e duyên đời chưa dứt, niệm tục khó quên, tham sống sợ chết,
tâm tình rối loạn không yên. Thêm vào đó, việc nhà chưa phân minh, chuyện sau
chưa sắp đặt, vợ con khóc than kêu gọi, trăm mối lo sợ đau buồn, như thế làm
sao niệm Phật được?
Lại ví như trước khi
chưa chết, chẳng may vướng chút bịnh khổ nơi thân, đã rên rỉ đau đớn, chạy
thuốc tìm thầy, lo việc khẩn cầu cúng tế, tạp niệm rối ren, làm sao niệm Phật
được?
Giả sử trước khi chưa
đau bịnh mãn phần, thì bị sự khô suy già lụm cụm, nhiều nỗi ảo não buồn lo, e
cho an bài những việc trên cái thân suy lão còn chưa xong, vị tất an lòng để
niệm Phật?
Lại giả sử trước khi
chưa già, còn đang trẻ trung khỏe mạnh, hoặc như tâm cao vọng chưa tiêu dứt,
việc thế tục còn buộc ràng, rong ruổi đông tây, suy vầy tính khác, nghiệp thức
mênh mang, cũng không niệm Phật được!
Cho giả sử kẻ được an
nhàn mạnh khỏe, có chí tu hành, nếu không nhìn thấu cảnh đời là huyễn mộng,
thân tuy được yên, nhưng tâm còn bấn loạn. Trong cảnh nhìn chưa thấu, nắm chưa
chắc, đạp chưa vững, không thể buông bỏ muôn duyên ấy, khi gặp việc đến chẳng
thể tự chủ, theo cảnh mà đảo điên, cũng không thể niệm Phật được!
Ông thử xét lại, đừng
nói chi lúc sắp chết hay già bịnh, ngay trong khi còn trẻ trung khỏe mạnh, được
no ấm nhàn nhã có chí tu hành, nếu chưa sáng suốt dứt khoát, bị một việc đeo
đẳng nơi lòng, còn không niệm Phật được thay, huống chi là đợi đến lâm chung?
Lại còn bảo cứ buông thả theo duyên đời, ông thật là người mê nói việc si, chỗ
dụng tâm còn rất lạc lầm nông nổi!
Cho nên ông phải xét
nghĩ kiếp người mong manh ngắn ngủi, như lửa nháng thân đá, như chớp giựt lưng
trời, mới còn đó đã mất đi, có chi là trường cửu? Phải nhận định cho chắc, rồi
thừa lúc chưa già chưa bịnh, gác qua thế sự, rũ sạch thân tâm, được một ngày
quang âm lo một ngày niệm Phật, được một khắc rỗi rảnh, tu một khắc công phu.
Như thế đến lúc lâm chung mọi việc an bài, trời Tây cũng sẵn mở lối đường quang
đãng! Bằng chẳng thế đến khi duyên nghiệp đối đâu, chừng ấy ăn năn đã muộn! Nên
suy nghĩ kỹ!
Hỏi:- Lời ngu giả đã tu thành lỗi lầm, dù có dong xe bốn
ngựa cũng không thể với lại kịp! Nghe qua mấy điều đại sư chỉ dạy, ai lại chẳng
lạnh lòng! Hiềm vì nỗi lòng người tuy dễ tinh tấn song cũng dễ thối lui, khi
nghe lời khuyên nhắc thì dõng mãnh siêng năng, lúc gặp việc chi chướng ngại,
lại giải đãi ngã theo hướng khác. Phần đông đều bảo: kết quả của sự niệm Phật
có lẽ đợi sau khi chết rồi, còn hiện tại chỉ thấy nhọc nhằn mà không lợi ích
chi thiết thật cả. Phải chăng đó cũng là duyên có thích đáng, trong sự thối tâm
biếng trễ của người tu?
Đáp:- Chỗ thấy của ông chưa được rộng. Trong kinh nói:
người nào chí tâm thọ trì danh hiệu Phật, hiện đời sẽ được mười điều thắng lợi:
1. Ngày đêm thường được tất cả chư thiên, đại lực
thần tướng, và hằng sa quyến thuộc ẩn hình ủng hộ.
2. Thường được hai mươi lăm vị đại Bồ Tát như đức
Quán Thế Âm và tất cả Bồ Tát theo ủng hộ bên mình.
3. Hằng được chư Phật ngày đêm hộ niệm. Đức A Di Đà
thường phóng ánh sáng nhiếp thọ người ấy.
4. Tất cả ác quỉ như Dạ xoa, La sát đều không thể làm
hại. Tất cả rồng độc, rắn độc và thuốc độc đều không thể xâm phạm.
5. Không bị những tai nạn như: nước trôi, lửa cháy,
giặc oán, đao tên, gông xiềng, tù ngục, hoạnh tử.
6. Những nghiệp ác về trước lần lượt tiêu diệt. Những
oan mạng bị đương nhơn giết, nhờ công đức niệm Phật, đều được giải thoát, không
còn theo báo phục.
7. Đêm nằm nghỉ yên ổn, hoặc mơ thấy điềm lành, hay
thấy sắc thân thắng diệu của Phật A Di Đà.
8. Tâm thường an vui, nhan sắc sáng nhuận, khí lực
đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp.
9. Thường được mọi người kính trọng giúp đỡ, hoặc
hoan hỷ lễ bái cũng như kính Phật.
10. Khi lâm chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện
ra, được thấy Phật A Di Đà và các thánh chúng tay bưng đài vàng tiếp dẫn vãng
sanh về Cực Lạc, cùng tận kiếp vị lai hưởng thọ sự vui nhiệm mầu.
Mười điều lợi ích như
trên, chính do kim khẩu của Như Lai nói ra, mà kinh văn đã ghi chép lại. Niệm
Phật đã có lợi ích trong hiện tại và tương lai như vậy, thì đó chính là pháp
khẩn yếu trong môn thế và xuất thế gian. Cho nên người tu chỉ gắng tinh tấn,
đừng mang tâm niệm hoài nghi.
Đại sư ngoài việc hoằng
pháp lợi sanh, còn tự tu hành rất tinh tấn. Ngài nhập diệt vào năm Hồng Võ
ngươn niên đời nhà Minh. Khi tịch điềm lành hiện ra rất nhiều, thọ được 71
tuổi.
HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC
"ĐÃ TỪNG trôi nổi riêng
thương khách
Muốn nhủ đồng nhơn lại CỐ
HƯƠNG!"
Xin mượn hai câu thơ
trên để bày tỏ tâm sự tôi vậỵ
Mùa an cư năm Canh Tý
(1960)
Dịch giả: Liên-Du kính ghi
BÀI SỐ 89
Ẩn tu bom đạn, RÕ điềm hung
Tan-tác thành đô quả đất
rung
Đổi cảnh, đổi người, thời
tiết đổi
Núi nhô, Đất sụp, chuyện khôn
cùng.
NHƯ Ý : SẤM KÝ ĐẠO TIÊN có ghi hai đoạn:
“Ngọn thủy triều nô nức
Sục Sôi,
Bầu địa giới một phen
rung chuyển”.
và
“Trong hai ngàn biến đổi
Thất-sơn,
Biến Thiên biến Địa biến
Nhơn thay đời”.
Đương thời giảm kiếp,
trình đạo đạo đức của nhân loại mỗi ngày một kém, trái lại tội ác mỗi ngày
một thêm. Do sức nghiệp của đa số người chiêu cảm, nên khắp thế giới nổi lên
những hiện tượng: động đất, bão, lụt, núi lửa, nắng hạn, thời tiết bất
thường.
So với mấy mươi năm về
trước, những chuyện chém giết trộm cướp, dâm loàn, lường gạt giữa ngày nay, đã
khiến cho người có lòng với thế đạo nhân tâm phải bàng hoàng lo sợ!
Kinh Phật nói: "Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo".
Vậy muốn cải thiện con
người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên. Ở đây, tôi muốn
nói là mọi người phải dứt trừ tâm niệm xấu ác, ví như muốn được dòng
nước trong, đừng để cho nguồn vẩn đục.
Muôn luận ngàn kinh
nghĩa rối phiền,
HƯƠNG QUÊ một quyển để
lưu truyền.
Niềm vui thôn cũ đành
rành nói,
Dựng tấm bia vàng chỉ lộ
nguyên.
Tuyển trong kinh luận
những điều hay,
Đề vịnh Tây phương động
cảm hoài!
Chớ nói có nhà về chẳng
được,
Lòng quê không tận tợ
Tây Trai!
Trôi nổi lìa cha mấy hạ
đông ,
Trời Tây gia nghiệp
nguyện làm xong,
Tay vàng mong tưởng ơn
dìu dắt.
Dám để Từ Tôn mỏi mắt
trông.
Nghiệp sạch, tình không
chuyện dễ gì?
Pháp vương môn diệu
chẳng tư nghì!
Ngày nay biết được đường
hương lý.
Thẳng bước chừng trông
thất bảo trì.
Khổ nhiều vui ít, cõi Ta
bà,
Muốn thoát trầm luân dễ
được mà?
Lãng tử về quê lòng rộn
rã,
Cha lành xem lại thật Di
Đà.
Phật thương muôn loại
thể thương con.
Con bỏ cha trông những
mỏi mòn!
Chớ mãi xa đi mà lạc
bước,
Ao quỳnh công đức nước
đương thơm.
Luân hồi muôn kiếp lại
ngàn sanh,
Sớm trữ tư lương Tín,
Nguyện, Hành.
Mười vạn ức đường nguyên
chẳng cách,
Chớ theo biên địa ở nghi
thành!
Đường mê tuy lạc, chửa
xa dài,
Chóng trở về Tây một
kiếp này,
Ví được quê xưa cùng gặp
mặt,
Hương sen lẩn quất lối
kim đài.
Bảy hàng cây báu ánh lòa
lòa,
Chín phẩm hương đài bốn
sắc hoa.
Nhiếp cả sáu căn thành
tịnh niệm,
Mới hay An dưỡng thật
quê nhà.
Muôn trùng lầu các bóng
linh lung!
Mình với hoa quang lẫn
một vùn
Chim nước rừng cây đều
thuyết pháp
Không ngằn vui vẻ cảnh
liên cung!
Năm Dần quốc thứ 30,
ngày rằm tháng giêng.
Cư sĩ Hoàng Thơ Vân kính
đề
Hương Quê Cực Lạc
Việt Dịch: Thích Thiền
Tâm
Tiết II.-Kiếp Lượng
Danh từ “Kiếp”,
Phạm-ngữ gọi kiếp-ba (kalpa), Trung-Hoa dịch là Trường-thời hoặc Đại-thời, chỉ
cho thời gian quá dài, khó dùng năm tháng ngày giờ mà tính kể được. Nhưng
“kiếp” trong Phật-giáo cũng có khi không nhất định.
Theo luận
Lập-Thế-A-Tỳ-Đàm, có trường hợp một tiểu-kiếp kể là một kiếp, hoặc
hai mươi, bốn mươi, sáu mươi, tám mươi tiểu-kiếp kể là một kiếp.
Ngoài ra lại còn có những
thời kiếp như: bàn-thạch-kiếp, giới-tử-kiếp, hằng-sa-kiếp, vi-trần-kiếp,
hải-kiếp...
Bàn-thạch-kiếp là ví như có một tảng đá vuông, chu vi của bề mặt
là 40 dặm, cứ mỗi trăm năm lấy cái áo rất nhuyễn nhẹ mà phất qua một lần, phất
đến chừng nào đá mòn tan, kể là một kiếp.
Giới-tử-kiếp là ví như có một vòng thành cao, chu vi bốn mươi
dặm, trong ấy đổ đầy những hạt cải, cứ mỗi trăm năm lấy ra một hạt cải, đến
thời gian nào lấy hết số hạt cải, kể là một kiếp.
Hằng-sa-kiếp là cát ở sông Hằng rất nhuyễn mịn và nhiều, cứ mỗi
hạt cát kể là một đại-kiếp, tính hết tất cả số kiếp của cát sông Hằng, gọi là
hằng-sa-kiếp.
Vi-trần-kiếp là như đem đất của cõi Đại-thiên nghiền thành bụi
nhỏ, mỗi hạt bụi kể là một đại-kiếp, gồm chung tất cả số kiếp của bụi đó, gọi
là vi-trần-kiếp.
Hải-kiếp là như nước tất cả biển của cõi Đại-thiên, cứ mỗi
giọt nước kể là một đại-kiếp, tính hết số của bao nhiêu giọt nước những biển
ấy, gọi là hải-kiếp.
Kinh Hoa-Nghiêm nói: “Phật trong vô biên kiếp-hải xa. Vì độ
chúng-sanh cầu giác đạo”. (Phật ư vô biên đại-kiếp hải. Vị chúng-sanh cố cầu
bồ-đề).
Tóm lại, riêng một phương
diện, “kiếp” không có hạn kỳ nhất định, đại để chỉ cho ý nghĩa thời gian dài vô
lượng năm.
Tuy nhiên, phương diện
khác, “kiếp” cũng có thời hạn nhất định của nó như: giảm kiếp, tăng-kiếp,
tiểu-kiếp, trung-kiếp, đại-kiếp.
1. Giảm-kiếp: Kiếp giảm lấy nhơn
thọ trong thời kỳ tiệm giảm làm hạn lượng. Thọ số của nhơn loại ở châu
Diêm-Phù, mức cực cao là 84.000 tuổi.
Từ 84.000 tuổi mỗi 100 năm
giảm một tuổi, giảm đến chừng nào con người còn 10 tuổi là mức cuối
cùng. Khoảng thời gian nầy kể là một giảm kiếp.
Như thế một giảm kiếp tính
ra có đến 8.399.000 năm (84000-10) x 100. Trong khi thọ lượng được
84.000 tuổi, con người cao 840 trượng, qua trăm năm giảm một tuổi, bề cao cũng
thấp xuống một tấc, qua ngàn năm giảm 10 tuổi, bề cao thấp xuống một
thước.
Đến chừng nhơn loại còn 10
tuổi là thượng thọ, bề cao con người chỉ còn một thước. Trong kiếp giảm, ác
nghiệp của nhơn loại càng ngày càng tăng, phước báo càng lúc càng kém. Như khi
nhơn thọ 84.000 tuổi, do phước nghiệp tăng thạnh, nên có bảy báu hiện ra, điềm lành
tập hợp, năm vị ngon quí, người thần vui đẹp, mưa gió thuận thời, suối ngọt gạo
thơm, dân chúng hiền lành, bậc thánh-vương trị nước.
Lúc nhơn thọ còn mười
tuổi, do ác nghiệp tăng thạnh nên bảy báu ẩn mất, năm vị lợt lạt, điềm dữ hiện
ra, nhơn vật khốn cùng, Quỷ-thần kêu khóc, âm dương trái độ, mưa gió lỗi thời,
cảnh đói khát lan tràn, con người tranh đua lường gạt chém giết lẫn nhau.
Lại trong kiếp giảm có
tiểu-tam-tai là: nạn cơ cẩn, nạn dịch khí, và
nạn đao binh.
Theo luận
Du-Già-Sư-Địa, lúc nhơn thọ giảm còn 30 tuổi, có tai nạn cơ cẩn (đói khát)
kéo dài bảy năm bảy tháng bảy ngày. Trong thời gian nầy cách rất lâu mới có một
cơn mưa, ngũ cốc không sanh loài người chết vô số, xương trắng đầy đồng. Khi đó
nếu người nào tìm được một hạt lúa, họ xem như ngọc ma-ni, đem cất giấu ở trong
rương. Qua một loạt chết chóc kinh khủng nầy, những kẻ còn sống sót khởi lòng
nhàm chán bậc hạ, thật tâm ăn năn sám hối, tai nạn đó mới dứt.
Lúc nhơn thọ giảm còn 20
tuổi, do loài người lui sụt tâm nhàm chán ăn năn trước kia, lần lần làm ác, nên
có tai nạn dịch khí (bịnh truyền nhiễm) nổi lên, trải qua thời gian bảy tháng
bảy ngày, thây chết rải rác ngổn ngang khắp đường sá đồng ruộng, không ai chôn
cất. Khi ấy mọi người tự biết do nghiệp ác nên phải chịu quả khổ như thế, ai
nấy đều ăn năn sám hối, khởi lòng nhàm chán bậc trung, nạn dịch khí liền dứt.
Rồi tháng năm chầm chậm trôi qua, nhơn loại lần lần quên bao nhiêu cảnh khổ,
trở lại tạo thập ác thêm nhiều.
Đến lúc thọ lượng của thế
nhơn còn 10 tuổi, con người sanh ra ít ngày là biết đi, mới năm tháng đã có
chồng vợ. Lúc ấy nhơn loại lấy lúa lép làm thức ăn bậc nhất, lấy tóc kết lại
làm y phục bậc nhất, lấy sắt làm đồ trang nghiêm bậc nhất. Bao nhiêu thức ăn
ngon quí đều ẩn mất, các thứ mật, mía, dầu, muối đều biến chất, không thành mùi
vị. Khi có yến hội lớn, người ta thường nấu xương khô để thiết đãi lẫn nhau.
Bấy giờ lại có tai nạn đao
binh nổi lên. Trước tiên các nước đem binh đánh giết lẫn nhau; trong thân quyến
như cha con, anh em, chồng vợ còn luôn luôn có sự tranh cãi, huống chi đối với
kẻ khác. Đến lúc kiếp mạt, thế lực của nghiệp ác mạnh mẽ cùng cực, trong vòng
bảy ngày, loài người như mê cuồng, tay cầm đến cây, gậy, ngói, đá,
những thứ ấy đều hóa ra đao, kiếm không luận kẻ thân sơ, hễ gặp mặt là tàn sát
nhau.
Ai nấy đều nghĩ rằng: nếu
mình không giết người ta, người ta cũng giết mình. Trong thời gian đó, thây
chết cùng khắp, đường sá vắng người. Qua bảy ngày nầy nghiệp sát tiêu tan, còn
độ một muôn người sống sót, trốn ở trong hang đá rừng núi lần lượt đi ra. Bấy
giờ thế giới hoang sơ, trong vòng mấy muôn dặm khó thấy một bóng người, nên khi
được gặp mặt họ liền ôm nhau mà khóc. Thời gian nầy kiếp giảm đã đến
mức cuối cùng, loài người khởi tâm nhàm chán bậc thượng, lần lần tu pháp lành,
nên phước thọ cũng lần lần tăng thêm.
Nói chung, sở dĩ có kiếp
giảm, là do nghiệp ác tăng trưởng. Theo kinh Trung-A-Hàm, khi nhơn
loại được tám muôn tuổi, trước tiên loài người sanh ra nghiệp trộm cắp, nên thọ
lượng lần giảm xuống còn bốn muôn tuổi. Đến thời gian nầy chúng-sanh lại tăng
thêm nghiệp sát, nên thọ lượng lần giảm xuống còn hai muôn tuổi.
Kế đó vì tăng thêm nghiệp
vọng ngữ, thọ lượng lại giảm xuống còn một muôn tuổi. Rồi sau lại tăng thêm
nghiệp tà dâm, ganh ghét, bất hiếu với cha mẹ, không tôn kính bậc trưởng thượng
và người tu hành đạo đức, nên thọ lượng và thân hình lần chuyển giảm.
Kiếp càng giảm, thì những
người hiền lành tu Thập-thiện bị khinh rẻ xem thường, những kẻ thô bạo làm mười
điều ác, trái lại được tán dương nể trọng. Chẳng hạn như người nhu hòa bị chê
là hèn nhát, kẻ sát hại nhiều được tôn trọng là anh hùng; người thật thà chất
phác bị chê là ngu si, kẻ xảo trá lanh lợi được khen là khôn ngoan mưu trí;
người giữ lễ giáo bị chê là cổ hủ, kẻ ăn chơi phóng đãng được khen là phong nhã
hào hoa.
Trên đây là các điểm sơ
lược về tình hình chung của kiếp giảm.
2. Tăng-kiếp: Khi
thế lực của giảm-kiếp đã mãn, nhơn loại giết nhau hầu hết, lại bắt đầu chuyển
sang kiếp tăng. Qua bảy ngày đao binh, loài người khi gặp mặt liền sanh lòng từ
ái, xem nhau như thân thuộc, đối với cảnh khổ vừa xảy ra, họ đồng có một tâm
niệm ăn năn nhàm chán đến cực điểm. Tất cả đều bảo nhau rằng: “Do chúng ta sanh
lòng si cuồng độc ác nên mới có thảm họa ấy. Từ đây về sau chúng ta phải gắng
sức làm lành, mới mong cảnh khổ kia khỏi tái diễn.
Trước tiên họ giữ giới sát, nên từ 10 tuổi thọ lượng lần lần tăng đến 20 tuổi, sắc
thân người cũng lần lần cao đẹp hơn lên. Thấy giữ hạnh lành có kết quả tốt, mọi
người lại phát nguyện xa lìa sự trộm cắp, thọ lượng lại lần tăng đến 40 tuổi.
Rồi kế tiếp, họ xa lìa những tâm hạnh xấu như: gian dâm, vọng ngữ, tham lam, ganh
ghét, giận hờn, tà kiến cùng tu tập những điều lành nên thọ lượng tăng lần lần
từ 80, 160, 300, 2.000, 5.000, 10.000, 80.000, 84.000 tuổi. Khi mạng sống đã
tăng thì sắc thân của loài người cũng lần lần cao lớn xinh đẹp.
Trong các Kinh-luận, có
thuyết nói thuở kiếp tăng, bề cao nhơn loại từ một thước đến 840 trượng, có
thuyết nói chỉ cao đến 32 trượng là đình chỉ. Khi thọ số nhơn loại được 84.000
tuổi, mọi người đều hiền lành, biết hiếu thuận với cha mẹ, cung kính bậc
Sa-môn, tu các phước nghiệp, nam nữ đến 500 tuổi mới có đôi bạn, mưa gió điều
hòa, vật loại tốt tươi, thức ăn đầy đủ những thượng vị, nhơn dân an lạc, thế
gian không có tai nạn bịnh khổ, đao binh.
Thời gian của kiếp-tăng
cũng có 8.399.000 năm như kiếp-giảm.
Trong kiếp-tăng lại có bốn
bậc luân-vương ra đời.
Khi nhơn thọ được hai muôn
tuổi có Thiết-luân-vương xuất thế, thống trị toàn châu
Nam-Thiệm-Bộ, nhưng phải ra oai thiên hạ mới định.
Lúc nhơn thọ được bốn muôn
tuổi, có Đồng-luân-vương xuất thế, thống trị hai châu
Nam-Thiệm-Bộ, Đông-Thắng-Thần, đợi khi oai đức thạnh hành, thiên hạ mới phục.
Lúc nhơn thọ được sáu muôn
tuổi, có Ngân-luân-vương xuất thế, thống trị ba châu
Nam-Thiệm-Bộ, Đông-Thắng-Thần, Tây-Ngưu-Hóa, còn phải sai sứ đi du thuyết,
thiên hạ mới phục.
Khi nhơn thọ được tám muôn
tuổi có Kim-luân-vương xuất thế, thống trị bốn châu:
Nam-Thiệm-Bộ, Đông-Thắng-Thần, Tây-Ngưu-Hóa, Bắc-Câu-Lư, thiên hạ chỉ trông oai
đức liền qui phục. Kim-luân-vương có bảy báu, một ngàn người con.
Trong bảy báu, món thứ
nhất là Luân-bảo, do chơn kim tạo thành, từ trục giữa ra đến ngoài vành
có 1000 bức trụ, trung gian tinh tế dày đặc. Ngày Luân-vương làm lễ quán đảnh,
Luân-bảo nầy hiện giữa hư không; vua dùng Luân-bảo chở các tướng và bốn binh
bay khắp tứ đại-bộ-châu, các vì vua khác trông oai đức mà thuận hóa, không cần
đánh dẹp.
Báu thứ hai là Ngọc-nữ, Ngọc-nữ nầy hóa sanh nơi
hoa sen xinh đẹp bậc nhất, khéo biết tâm ý của vua mà thừa thuận.
Báu thứ ba là Binh-thần, đây là một bề tôi phụ tá
của vua, sức mạnh và trí mưu đều quán chúng.
Báu thứ tư là Tàng-thần, vị đại-thần nầy có thể
nhìn thấy các kho báu kỳ lạ ẩn tàng ở dưới đất, dưới nước, trong núi, tùy ý vua
dùng mà lấy ra.
Báu thứ năm là Như-ý-châu, hạt châu nầy chiếu sáng
một do-tuần, khiến cho ban đêm như ban ngày, lại có thể tùy ý vua mà làm mưa
xuống các thứ trân bảo vật dụng. (Có chỗ gọi báu thứ năm là Trí-thần, một vị
văn thần giúp vua coi việc chánh trị trong nước).
Báu thứ sáu là Bạch-tượng, đây là một thứ voi to
lớn, thân trắng như tuyết, có đủ sáu ngà.
Báu thứ bảy là Long-mã, một con ngựa quí xuất
sanh từ giống rồng; phi mau vô cùng, có thể trong một ngày đi khắp bốn châu
thiên hạ.
Kim-luân-vương thọ 84.000
tuổi, trong thời gian trị hóa có bảy thứ trân báu là vàng, bạc, lưu ly, pha lê,
xa cừ, xích châu, mã não xuất hiện, các thượng vị nổi lên trên lớp đất mặt rồi
tự xuất sanh ra thứ gạo thơm; mưa gió điều hòa, vật sản phong nhuận, dân chúng
đều tu mười nghiệp lành.
Tiểu-kiếp, trung-kiếp,
đại-kiếp: Cứ một kiếp-tăng, kiếp-giảm là một tiểu-kiếp. Như thế, một tiểu-kiếp có 16.678.000 năm.
Hai mươi tiểu-kiếp là một
trung-kiếp. Trung-kiếp có 333.560.000
năm.
Bốn trung-kiếp hợp thành
một đại-kiếp. Đại-kiếp có 1.334.240.000
năm.
Thế thì một đại-kiếp có 80
tiểu-kiếp. Bốn trung-kiếp trong đại-kiếp là: trung-kiếp-thành, trung-kiếp-trụ,
trung-kiếp-hoại và trung-kiếp-không. Tam-thiên-thế-giới sanh diệt theo tuần tự
thành, trụ, hoại, không của đại-kiếp.
Dưới đây, xin kể lược qua
bốn giai đoạn ấy.
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Bạch-PhấtThủ Nhãn
Ấn Pháp
Thứ Mười Ba
Túc thế sát nghiệp trọng như sơn
Dục tu thánh đạo chướng
vô biên
Hạnh hữu đại bi bạch
phất thủ
Khinh tảo số số chúng
nan quyên
Mạ Mạ [34]
Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế,
mô
hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.
Một câu A Di Ðà
Dứt trừ được định nghiệp
Nhật rạng phá sương thưa
Lò hồng tan điểm tuyết.
(Nhứt cú Di Ðà
Diệt trừ định nghiệp
Hách nhật, khinh sương
Hồng lô phiến tuyết.)
LƯỢC GIẢI
Trong kinh có lời dạy:
"Chí thành xưng một
câu A Di Ðà, diệt được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sống chết, xung quanh
hành nhơn mỗi bề ánh sáng phát ra rộng đến bốn mươi dặm”.
Chí tâm xưng một câu hồng danh, ảnh hưởng còn được như thế huống chi chuyên
thành niệm Phật nhiều năm thì định nghiệp nào mà không dứt trừ?
Công năng diệt nghiệp
của sự Trì Danh ví như vầng nhật chói rạng phá tan mau màn sương thưa, như lò
lửa to dễ làm tiêu mảnh tuyết.
Tổ sư đã mượn hai thí dụ
trên để nêu rõ công đức niệm Phật, và khuyến tấn hành giả gắng sức tu trì.
TỬ NGƯƠN
Ngươn đại sư, con nhà họ
Mâu, quê ở Bình Giang, huyện Côn Sơn. Mẹ là Sài thị nằm mơ thấy một đức Phật vào nhà, hôm sau
sanh ra ngài, nhân đặt tên là Phật Lai. Lớn lên, ngài đến chùa Diên Tường xuất gia, tu tập
về môn Chỉ Quán. Một hôm, trong định nghe tiếng quạ kêu, ngài bỗng
nhiên đại ngộ.
Từ đó, đại sư quy tâm về
miền An Dưỡng, tự hiệu là Vạn Sự Hưu, trong cảnh thuận nghịch ghét thương, chưa
từng động niệm. Mến phong thái Bạch Liên Xã của Viễn công ở Lô Sơn, ngài khắp
khuyên người quy y Tam bào, thọ trì Ngũ giới, niệm Phật năm câu để chứng minh
năm giới và kết tịnh duyên. Đó là ý của đại sư muốn cho mọi người tịnh Ngũ
căn, đắc Ngũ lực, thoát khỏi cảnh đời Ngũ trược về nơi Tịnh độ vậy.
Ngài rút tuyển những yếu
ngôn trong đại tạng, biên soạn thành quyển Thần Triêu Sám Nghi, thay thế chúng
sanh trong pháp giới lễ Phật sám hối, cầu sanh Cực Lạc. Sau đại sư đến ven hồ
Điện Sơn, lập ra Bạch Liên Sám Đường, suấ lãnh hàng tăng tục đồng tu tịnh
nghiệp. Trong khi ấy, lại soạn thuật quyển Viên Dung Tứ Đọ Tam Quán Tuyển Phật
Đồ, để khai thị phần nhãn mục của Liên tông. Ngài có làm bài kệ để khuyên người
phát tịnh nguyện như sau:
Muôn pháp từ tâm sanh
Muôn pháp từ tâm diệt.
Đức Phật Đại Sa môn
Xưa đã từng tuyên thuyết
Trì giới không Tín, Nguyện
Chẳng được sanh Tịnh độ
Duy được phước Nhơn, Thiên
Phước hết luân hồi khổ.
Xem kinh không mắt huệ
Chẳng rõ Phật thâm ý.
Đời sau được thông minh
Tâm loạn khó thoát ly.
Sao bằng niệm Phật tốt
Khỏi danh lợi bôn ba
Đi ngồi hằng tịnh niệm
Chính là A Di Đà.
Nếu giữ giới tu phước
Hồi hướng lại càng tốt.
Như thế sanh Tây phương
Ngàn người chẳng sót một
Thuyết giáo có Thích Ca
Nhiếp thọ, đức A Di
Chư Phật đều hộ niệm
Chư Thiên khéo hộ trì.
Niệm Phật được gần Phật
Công đức chẳng chi hơn.
Sẽ ngồi nơi đạo tràng
Chuyển bánh xe pháp lớn!
Ví nhự gái nhà nghèo
Thai nghén vua Chuyển Luân
Chư Thiên thường mến hộ
Gái nghèo chẳng biết mừng.
Trong bụng có con quý
Ngự trị khắp quần lê
Nay người niệm Phật đây
Ý cũng đồng như thế!
Nhớ Phật, thường niệm Phật
Không lâu sẽ thành Phật
Phật hộ niệm giữ gìn
Phải nên tự biết mình.
Đừng mơ ước đời sau
Được sang giàu tốt số.
Bởi niệm Phật phước to
Sẽ sanh về Tịnh độ!
Ví như nhà kẻ nghèo
Dưới đất có kho báu
Tạng thần hằng giữ gìn
Chẳng cho mất trân bảo.
Người nghèo không tự biết
Nhà mình có báu châu.
Đi khắp nơi làm mướn
Lo cơm áo khổ cầu!
Niệm Phật cũng như thế
Đầy đủ tạng Như Lai
Mà mong cầu việc nhỏ
Đó là ý niệm sai.
Lại như nhà người bịnh
Có trữ sẵn thuốc tiên.
Bịnh nhơn không biết thuốc
Làm sao được lành yên?
Ngày đêm nằm trở trăn
Đau nhức hằng khóc kể
Niệm Phật nguyện sai lầm
Ý cũng đồng như thế!
Phải biết tâm niệm Phật
Hay diệt tham sân si
Hay làm kho báu lớn
Hay làm đại lương y.
Hay thành Pháp vương tử
Hay thành đấng Như Lai
Che chở và tế độ
Cứu khổ khắp muôn loài.
Đừng nghĩ mình phàm phu
Không được sanh Tịnh độ
Chỉ giữ giới trì trai
Sau làm người đắc ngộ.
Lần lượt gắng tiến tu
Mới được sanh về Tây
Thấy nhiều kẻ tu hành
Thường nói như thế ấy.
Chẳng hợp thệ nguyện Phật
Không hợp ý trong kinh
Tà kiến che mê tâm
Luân hồi tự khổ mình!
Đời nầy không vãng sanh
Một lầm, trăm ngàn lầm
Nên người niệm Phật phải
Tin Di Đà nguyện tâm!
Lời Phật hằng chân thật
Không một điểm dối hư
Phải tinh tấn phát nguyện
Đừng tưởng nghĩ tà tư.
Niệm Phật, cầu vãng sanh
Như gió giúp sức lửa
Chẳng khó nhọc nên công
Chư Phật đều ấn hứa.
Gặp báu lại chịu nghèo
Gặp cơm cam đói khổ
Quê thay kẻ mê lầm!
Làm sao được tế độ?
Nay viết kệ phụng khuyến
Xin lần lượt truyền thay
Vi mọi người lưu thông
Làm Sứ giả Như Lai.
Đó mới là con Phật
Mới thật báo ân Phật
Đồng tu tín nguyện hạnh
Về Cực Lạc trường xuân!
Năm Càn Đạo thứ hai, đại
sư phụng chiếu tới điện Diên Thọ giảng thuyết về pháp môn Tịnh độ, được vua tứ
hiệu là Từ Chiếu Tông Chủ. Đến ngày 23 tháng ba, ngài bảo các môn đồ rằng: “Hóa
duyên đã mãn, ta sắp về Tây!” Rồi chắp tay từ biệt đại chúng, lặng lẽ mà thị
tịch. Tới ngày 27, sau khi làm lễ trà tỳ, được Xá lợi vô số. Đại sư có tập Di
Đà Tiết Yếu lưu hành nơi đời.
LỜI BÌNH:
Tử Ngươn đại sư là bậc cổ Phật nương bi nguyện tái lai để độ sanh, thị hiện xuất gia tham thiền được đại triệt đại ngộ.
Nhưng một đời ngài chỉ thuyết hóa bình thường giản dị, khuyên người giữ giới
niệm Phật cầu sanh Tây phương. Như thế đủ chứng tỏ lời cổ đức dạy:
“Pháp môn Tịnh độ cao
siêu mầu nhiệm, duy Phật với Phật mới rõ biết cùng tận. Pháp môn nầy khế hợp
với bản hoài độ khắp chúng sanh của chư Phật”.
BÀI SỐ 90
Ẩn tu mạt-kiếp thấy lời ghi
Trước mất Lăng Nghiêm pháp
diệu kỳ
Lần lượt các kinh đều diệt
hết
Duy còn Phật hiệu độ
cơ-nguy.
NHƯ Ý : Theo lời HUYỀN KÝ của Phật, thì Thời Mạt Kiếp về
sau, Trước Tiên Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm diệt mất, đức Như-Lai
thương xót, dùng sức BI NGUYỆN lưu trụ Kinh Vô-Lượng-Thọ 100 năm để ĐỘ
SANH, sau khi các Kinh đều Tuyệt Tích.
Thiên Như Thiền Sư cũng
bảo :
“Sau Thời Mạt Pháp các kinh diệt hết, chỉ còn 4 Chữ A Di Đà Phật để độ chúng sanh”.
Nầy Vi-Đề-Hy,
trong pháp hội Thủ-Lăng-Nghiêm, TÔI đã trình bày nhân
địa tu hành Nhĩ Căn Viên Thông cho đại chúng.
Nhưng, thời Mạt
pháp các kinh điển dần dần ẩn mất, mà nên biết kinh
Thủ-Lăng-Nghiêm, sẽ bị diệt trước nhất, tiếp sau là kinh Lăng-Già, kinh
Kim-Cương, kinh Ma-Ha Bát-Nhã, kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa ... Nếu
không nương nhờ PHÁP NIỆM PHẬT thì rất khó chứng
đắc Nhĩ Căn Viên Thông.
Bởi vì sao ?
Bởi vì Niệm
Phật Tam-muội chính là món Viên-thông đệ nhất.
KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT
Đời Diêu Tần, ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch
từ Phạn-văn ra Hán-văn
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.
Trong
Kinh Vô Lượng Thọ, đức Thích Tôn có lời huyền ký:
“Đời
tương lai kinh đạo diệt hết, ta dùng lòng từ bi thương xót, riêng lưu trụ kinh
này (Vô Lượng Thọ Kinh) trong khoảng một trăm năm. Nếu chúng
sanh nào gặp kinh này, tùy ý sở nguyện, đều được đắc độ”
(Đương
lai chi thế, kinh đạo diệt tận, ngã dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh chỉ trụ
bá tuế. Kỳ hữu chúng sanh trị tư kinh giả, tùy ý sở nguyện, giai khả đắc độ. -
Vô Lượng Thọ Kinh).
Ngài
Thiên Như thiền sư, sau khi đắc đạo cũng đã khuyên dạy:
“Mạt
pháp về sau, các kinh diệt hết, chỉ còn lưu bốn chữ A Di Đà Phật để cứu
độ chúng sanh. Nếu kẻ nào không tin, tất sẽ bị đọa địa ngục”
(Mạt
pháp chi hậu, chư kinh diệt tận, chỉ lưu A Di Đà Phật tứ tự cứu độ chúng sanh.
Kỳ bất tín giả, ưng đọa địa ngục. – Thiên Như ký ngữ).
Bởi đời
mạt pháp về sau khi các kinh đều ẩn diệt, chúng sanh căn cơ đã yếu kém, ngoài
câu niệm Phật, lại không biết pháp môn nào khác để tu trì. Nếu không tin câu
niệm Phật mà tu hành, tất phải bị luân hồi. Và trong nẻo luân hồi, việc lành
khó tạo, điều ác dễ làm, nên sớm muộn gì cũng sẽ bị đọa địa ngục.
Niệm Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Bây giờ là thời Mạt pháp
đấu tranh kiên cố, mà chúng ta có thể tu trì Phật pháp, làm cho Phật pháp còn
mãi ở đời, hành trì sự nghiệp của Chánh pháp, mỗi ngày tụng trì chú Lăng
Nghiêm, như thế là chúng ta giúp đỡ cho toàn thế giới này vậy! Tại sao thế? Bởi
vì nếu thế giới này không còn một ai tụng chú Lăng Nghiêm cả, thì thế giới sẽ
sớm đi đến chỗ hủy diệt.
Bấy giờ tất cả yêu ma
quỷ quái, ly mị vọng lượng, đều xuất hiện. Hiện tại vì sao chúng không dám xuất
hiện? Vì ở thế giới này vẫn còn có người trì tụng chú Lăng Nghiêm, tu 42 Thủ Nhãn của chú Ðại Bi, tu pháp môn ngàn
tay ngàn mắt, nên yêu ma quỷ quái kiêng sợ, không dám xuất hiện, hoành hành.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm Lược Giảng
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Hán dịch: Dao Tần, Tam-tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập.
Giảng thuật: Hòa Thượng Tuyên Hóa,
Vạn Phật Thánh Thành, Hoa Kỳ.
Tuy biết con đường CHƠN
THẬT ( NHĨ CĂN VIÊN-THÔNG) chứng nhập CHƠN TÂM, nhưng trải qua
các địa vị tu chứng gặp phải 50 loại ma chướng cùng với tập khí
nhiều đời khó đoạn trừ, nếu MÊ MỜ CHƠN TÁNH, tự nghĩ
rằng mình đã CHỨNG THÁNH, THÀNH PHẬT thì sẽ đi vào TÀ MA NGOẠI ĐẠO,
khó CÓ NGÀY quây đầu trở lại theo CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT.
Cho nên, PHẬT BỒ-TÁT dạy
phải trì “CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM, TU 42 THỦ-NHÃN CỦA CHÚ ĐẠI-BI" thì
không bị những TẬP KHÍ NHIỀU ĐỜI cùng MA-CHƯỚNG đến phá HOẠI CON ĐƯỜNG CHƠN
THẬT THẲNG đến qủa DIỆU-GIÁC của CHƯ PHẬT.
LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ có 5 hội:
HỘI THỨ NHẤT
TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI
( VAIROCANA SATTHATA PATTRAIN )
Đây là “TỲ-LÔ-GIÁ-NA
CHÂN PHÁP HỘI”, có nghĩa: Những lời bí mật của 12 pháp môn đoạn dưới đều từ nơi
PHÁP-THÂN hay TỲ LÔ CHÂN TÁNH LƯU LỘ RA.
HỘI THỨ HAI
THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI
( SAKYAMUNI SATATHA PRASASITA)
Đây là “THÍCH-CA ỨNG-HÓA
HỘI” hay LĂNG NGHIÊM GIÁO CHỦ HỘI, có nghĩa: Năm bộ Tam-Bảo trong thần chú gồm
chư DƯỢC-XOA, THẦN-VƯƠNG, KIM-CANG MẬT-TÍCH, cho đến tất cả Pháp môn, đều do
đức Phật Thích Ca và chư Phật THỊ HIỆN RA.
HỘI THỨ BA
QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI
(AVALOKITE SHVARAYA SUPARANA MAHA PAYUH PATTAYA)
Đây là “QUÁN-THẾ-ÂM
HIỆP-ĐỒNG-HỘI”. Bốn môn trong đây đều là do đức Quán-Thế-Âm trên đồng dưới
hiệp, VIÊN-THÔNG TU CHỨNG chẳng thể nghĩ bàn, đức mầu VÔ-TÁC thành tựu một cách
tự-tại.
HỘI THỨ TƯ
KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI
(VAJRA PANIYA SATTATHA PATTRA)
Đây là
“KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI”, do HỎA-THỦ-KIM-CANG BỒ-TÁT KHAI HIỂN, nên chư
Kim-Cang-Tạng-Vương sau khi nghe niệm chú, đều dùng sắc lịnh để hộ vệ, đối với
kẻ ác thì chiết phục, với kẻ thiện thì nhiếp thâu.
Chư Kim-Cang Mật-Tích
cũng đều hiện phần bản tích ứng hóa của mình.
HỘI THỨ NĂM
VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI
(MANJUSRI SATTVA SITATA PATTRAI)
Đây là
“VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI”. Đức Văn-Thù hay Mạn-Thù-Thất-Lỵ sau khi lãnh
chú đến che chở hộ trì rồi thay đại chúng thưa hỏi pháp môn tu. Nếu chẳng phải
là bậc đại trí đức thì không thể thông hiểu và hoằng truyền pháp môn nầy.
Năm hội trên tượng trưng
cho NGŨ-TRÍ ĐẢNH của Tỳ Lô Giá Na. Hiệp cả năm hội lại gọi
chung là PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ CỨU
CÁNH KIÊN CỐ ĐẠI BẠCH TÁN CÁI THẦN CHÚ.
(VSNISA JVALA SURAM GAMA MAHA SITATA PATTRAM)
CỰC
LẠC DU LÃM KÝ
(Hòa Thượng Thích THIỀN-TÂM)
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ là trên ĐẢNH PHẬT phóng ra 10 đạo hòa QUANG bách
bảo và TỤ lại trên ĐẢNH CHÚNG-SANH trong Pháp Giới, khi
tụng Thần Chú Thủ-Lăng Nghiêm.
Đây là Hóa Thân Phật
dùng THẦN CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM để “ẤN-TÂM” cho Qúy-vị sẽ thành Phật trong
vị lai.
CỨU CÁNH KIÊN CỐ là Thủ-Lăng Nghiêm ĐẠI ĐỊNH, định này là VUA
trong các định.
ĐẠI (Lớn) là “THỂ” của Chú Lăng
Nghiêm, không đối đãi phân biệt, biến khắp tận cùng hư không pháp giới, nên gọi
là MA-HA.
BẠCH (Trắng) là “TƯỚNG” của
Chú Lăng-Nghiêm, thanh tịnh không ô nhiễm, nên gọi là TÁT ĐÁT ĐA.
TÁN CÁI (Tàng Lọng) là “DỤNG” của Chú Lăng
Nghiêm, có khả năng che chở, bảo hộ, TRUỞNG DƯỠNG THIỆN CĂN, TIÊU TRỪ
NGHIỆP CHƯỚNG TRONG VÔ LƯỢNG KIẾP, KHÔNG TRẢI QUA 3 A-TĂNG KỲ, MÀ QÚY VỊ
CŨNG CHỨNG ĐƯỢC PHÁP THÂN, nên gọi là BÁT ĐÁT RA.
THẦN là thần diệu linh thông, khó mà suy lường
được.
CHÚ là khi qúy vị TỤNG , thì có công năng PHÁ TÀ LẬP
CHÁNH, tiêu trừ nghiệp ác, phát sanh phước đức căn lành.
TRÊN ĐẢNH CỦA PHẬT TỲ LÔ GIÁ NA (PHẬT PHÁP-THÂN)
LƯU LỘ RA NGŨ-TRÍ. CHO NÊN, GỌI LÀ “NGŨ-TRÍ”
ĐẢNH CỦA TỲ -LÔ-GIÁ-NA.
1) PHÁP GIỚI TRÍ
TRÍ cùng khắp
hư không, vì dùng LƯỚI ĐẠI QUANG MINH chiếu khắp PHÁP GIỚI CHÚNG
SANH. CHO NÊN, GỌI LÀ PHÁP GIỚI TRÍ.
2) ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ
3) BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ
4) DIỆU QUÁN
SÁT TRÍ
5) THÀNH SỞ TÁC TRÍ
Còn thời khóa chiều hôm,
hành giả tụng Di Đà, Hồng danh bảo sám và Mông Sơn thí thực để giúp tiêu
nghiệp, sanh phước và khởi bi tâm, thí thức ăn uống cho cô hồn ngạ quỷ, rồi
niệm Phật đem công đức hồi hướng cầu cho mình và bốn ân ba cõi, tất cả loài hữu
tình đều sanh về Tịnh Độ.
Cho nên hai thời
khóa tụng đều do chư Bồ-tát, Tổ sư dùng trí huệ hiểu rộng thấy xa biên
soạn ra để làm lợi vui cho tất cả chúng sanh, nếu bác bỏ chẳng những là thiển
cận mà sợ e còn có tội với Phật pháp nữa.
Và sau rốt, xin mượn mấy
lời để kết cuộc:
Biển lệ tràn đầy kiếp
chuyển-luân
Ai người biết nghĩ tự
thương thân?
Xuống lên sáu nẻo
Thống não vô ngần!
Con đường sa đọa khôn ly
thoát
Huyễn thân mấy chốc
Tám khổ xoay vần!
Nhục vinh tài sắc bao
nhiêu mộng
Niệm Phật tu hành một kiếp
chân
Sớm mượn đài sen về Cực
Lạc
Mới mong xa dứt lụy hồng
trần
Nhọc nhằn mai lại tối
Già chết chợt đà gần!
Vô Nhất Đại Sư
Thứ Ba Mươi Bảy
Đa văn đệ nhất thuộc A Nan
Quảng học thiện ký Khổng
Nhan Uyên
Độc tụng đại thừa thâm
bát nhã
Trí huệ thao thao như
dũng tuyền.
Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha.
Ma Ha Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha. [53-56]
Án-- a hạ ra, tát ra phạ ni,
nể
dã đà ra, bố nể đế, tát-phạ hạ.
Một câu A Di Ðà
Khiến được Ðại Tổng Trì
Chuyển hết tất cả vật
Sử dụng mười hai thì.
(Nhứt cú Di Ðà
Ðắc Ðại Tổng Trì
Chuyển nhứt thiết vật
Sử thập nhị thì.)
LƯỢC GIẢI
Ðại Tổng Trì là sự thông suốt nắm giữ tất cả pháp với tầm mức
lớn lao rộng rãi. "Muốn được tất cả, phải bỏ tất cả". Ví như tấm
gương sáng lớn mà đem vật gì che áng ở trước, dù là một bình hoa đẹp, tất chỗ
đó mất sự chiếu soi tự tại.
Chơn tâm của chúng ta là
tấm gương Ðại Viên Cảnh Trí, nếu chấp giữ một pháp nào, dù đó là
Phật lý cao siêu mầu nhiệm, tất cũng sẽ bị kém mất sức chiếu soi tự tại, sự
thông suốt tất cả pháp. Như thế làm sao được Ðại Tổng Trì?
Kinh nói: "Thấy
biết mà giữ sự thấy biết là gốc vô minh. Thấy biết không giữ sự thấy biết, đó
mới chính Niết bàn". (Tri kiến lập tri, tức vô minh bản. Tri kiến
vô kiến, tư tức Niết Bàn).
Cho nên chuyên nhứt câu niệm
Phật, xả bỏ tất cả, hành giả quyết sẽ được Ðại Tổng Trì, Ðại Tam Muội.
Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nếu chuyển được vật, tức đồng với Như
Lai". (Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai).
Chúng sanh tâm thường
hướng ngoại, không biết các pháp là huyễn, cho nên bị cảnh lục trần xoay
chuyển, như con trâu lâm cảnh xỏ giàm dắt đi, hằng chịu sự phiền não buộc ràng
không được tự tại. Nếu quán xét các pháp là huyễn, giữ một câu Phật hiệu xoay
chiếu vào trong thì tâm lần lần thanh tịnh tự tại, sẽ làm chủ được các pháp,
không còn bị các pháp sai sử làm chủ nữa.
Ðó gọi là "chuyển
vật" là đồng với Như lai. Trái lại, tức là bị vật chuyển, đồng
với chúng sanh vậy.
Ấn Quang pháp sư bảo: "Một lòng không trụ, muôn cảnh đều nhàn!" (Nhứt
tâm vô trụ, vạn cảnh câu nhàn).
Khi tâm trụ nơi các pháp
thì thấy thời gian có lâu mau, bị cảnh giới làm cho loạn động, sanh niệm ưa,
chán, ghét, thương, khổ, vui, cùng vô lượng phiền não. Như trên, khi hành giả
giữ câu niệm Phật thanh tịnh, không để cho vật chuyển, thì trong mười hai thời
của ngày đêm, hằng được nhàn nhã, tự tại, tùy ý sử dụng mọi sự, việc nào đáng
làm trước hoặc làm sau đều theo tuần tự, chẳng khác vị Ðông y sĩ tùy nghi sử
dụng các hộc thuốc của mình.
Tóm lại, nếu khéo biết tu hành thì cách tự tại sử dụng trong mười hai thời, sự
làm chủ xoay chuyển các pháp, cho đến chứng đắc cảnh giới Ðại Tổng Trì, then
chốt đều do ở nơi câu niệm Phật.
PHẠM NGƯƠN LỄ
Cư sĩ Phạm Ngươn Lễ tự
Dụng Hòa, người đời Thanh, quê ở Tiền Đường. Thuở niên thiếu ông học Nho, tâm
hạnh thành thật, thờ song thân rất có hiếu. Một độ, người cha đau, ông cắt thịt
bắp vế sắc hòa với thuốc đem dâng, bịnh được lành. Mẹ là Dư thị ốm nặng, ông
lại làm như thế một lần nữa, bịnh cũng thuyên giảm.
Không bao lâu, song thân
đều quá vãng, vợ cũng kế tiếp mãn phần. Bấy giờ đang lúc tráng niên, Ngươn Lễ
cảm khái cuộc thế vô thường, dẹp bỏ duyên trần, theo nhà dưỡng chân tu học đạo
Tiên. Trải hơn mười năm như thế, công phu đã có đôi phần hiệu nghiệm. Sau nhân
đọc sách của ngài Liên Trì, ông chợt tỉnh ngộ, đến chùa Vân Thê xin thọ tam quy
ngũ giới. Ngươn Lễ giữ giới hạnh rất bền chắc, những thứ phục dụng bằng tơ tằm
lông thú đều không dùng, bỏ hết lối tu cũ, chuyên về Tịnh độ. Đối
với pháp quán tưởng, cư sĩ lại càng tinh mật. Trước kia khi thân mẫu sắp lâm
chung tinh thần mờ loạn, cư sĩ khuyên chuyên lòng quán tưởng đức Quán Thế Âm,
bà mẹ y lời làm theo. Vài hôm sau, bỗng nói: “Mẹ đã được Bồ Tát tiếp
dẫn đến cảnh giới lạ mầu sáng đẹp!’’ Nói xong vui vẻ mà qua đời. Bởi
duyên do đó, Ngươn Lễ rất tin sự hiệu nghiệm của môn quán tưởng.
Cư sĩ tánh hiền lành, ưa
phóng sanh bố thí, giúp đỡ kẻ nghèo khổ hoạn nạn. Khi làm những việc từ thiện,
ông rất siêng cần chu đáo, không nài mỏi nhọc. Gặp chư Tăng Ni, đều phát tâm
tùy sức cúng dường không bỏ sót. Vì thế đương thời nghe tới tên Ngươn Lễ, hàng
tăng tục đều biết và mến trọng.
Mùa hạ năm Đạo Quang thứ
tám, cư sĩ đóng cửa nhập thất nơi Đại Động Các ở Thành Nam, định kỳ hạn trăm
ngày niệm Phật. Một hôm đang khi ngồi tịnh, huyền công tu Tiên thuở
trước bỗng phát hiện. Lúc ấy ông cảm thấy thanh khí của trời đất từ
giữa hư không kết thành nhiều làn, liên tiếp đi vào đảnh, mũi, miệng, rồi thẳng
xuống đơn điền, cùng với ngươn khí của mình hòa hợp. Bấy giờ thân tâm rất an ổn
nhẹ nhàng và điềm lạc không thể thí dụ. Giây phút có một đứa anh nhi
cao chừng vài tấc, từ đảnh môn xuất hiện. Đứa bé ấy bay liệng xung
quanh đùa giỡn trải một thời gian, rồi do đảnh đầu trở vào. Từ đó về sau, mỗi
khi tu đến mức cực tĩnh quên trần niệm, liền có anh nhi ra vào như trước. Ban
sơ Ngươn Lễ tâm ý rất mừng, sau đó chợt nghĩ:
“Đây có phải là một trong
năm mươi thứ ấm ma của kinh Lăng Nghiêm nói chăng? Nếu ta cho là kỳ đặc tất sẽ
lạc vào bẩy tà. Vả lại người niệm Phật chí ở Tây phương, thánh cảnh không hiện,
lại chuộng thứ nầy để làm gì?”
Do đó thường thường giác
chiếu giữ chánh niệm, anh nhi mới không còn xuất hiện. Nhờ duyên nầy, cư sĩ mới
khế ngộ sâu lý duy tâm, sức tín nguyện hạnh càng thêm thuần chắc, về sau ông
thường bảo người rằng: “Cảnh giới ấy là cửa ải nguy hiểm nhứt thuở sanh bình.
Nếu tôi không sớm giác tỉnh, tất sẽ lạc vào bàng môn. Thế nên biết sự tu hành
cần phải tinh tường dè dặt!”
Mùa hạ năm Đạo Quang thứ
mười một, Ngươn Lễ tĩnh dưỡng nơi chùa Tịch Chiếu ngoài cửa Thanh Thái. Ở địa
phương nầy có bà họ Trầm lòa cả đôi mắt. Bà có chí niệm Phật, song bị con dâu
thường ngăn trở. Cư sĩ nghe biết liền bảo: “Việc nầy có thể dàn xếp ổn thỏa.
Hành động của cô dâu kia là do vì gia cảnh nghèo thiếu, nếu giúp cho sự sống
tất mọi việc đều yên”. Nói đoạn ông vào thành quyên mộ, nhờ người giúp cho Trầm
bà mỗi tháng vài đấu gạo. Bà dùng có dư chuyển giao cho người dâu, nên cô nầy
hoan hỷ không còn ngăn trở nữa. Ngươn Lễ lại diễn nói sự lợi ích về niệm Phật
cho nghe, và dạy bảo cách sám hối phát nguyện. Mấy tháng sau, một người hàng
xóm của Trầm thị tới nói với cư sĩ: “Bà lão niệm Phật hôm trước, nay đã vãng
sanh rồi!” Ngươn Lễ hỏi nguyên do, người ấy thuật lại từng việc:
Sau khi được sự giúp đỡ,
bà lão siêng năng niệm Phật thế nào? Sám hối phát nguyện ra sao? Đến tháng vừa
rồi, Trầm thị biết trước ngày về Tây phương, bảo cho cô dâu hay. Tới kỳ hạn, bà
tắm gội thay y phục, ngồi chắp tay niệm Phật mà vãng sanh Trầm bà di chúc cho
cô dâu nhờ chuyển lời tạ ơn Phạm công. Hiện thời bà vừa mãn phần chưa có quan
quách và đồ tẩn liệm. Cô dâu định bán đứa con gái để lo sắm về việc ấy. Bây giờ
phải làm thế nào?”
Ngươn Lễ nghe nói, liền
bàn với các thiện hữu, góp chung được một số tiền, giao cho người hàng xóm đem
đến giúp cô dâu. Hơn tuần sau, ông lại tới nhà hỏi thăm. Đến nơi thì người dâu
tay đang cầm tràng chuỗi, miệng lâm râm niệm Phật. Thấy cư sĩ đến, cô vui mừng
đón rước kính lời tạ ơn. Vừa ngồi xong, những người hàng xóm hay tin tề tựu,
tranh nhau muốn biết mặt Phạm công. Rồi hết kẻ nọ tới người kia chuyền nhau
thuật lại việc của bà họ Trầm, đại khái y như ông hàng xóm đã nói hôm trước. Họ
lại chỉ một cô bé nói: “Khi mua quan quách tẩn liệm xong, hàng xóm đều bàn
luận: Phạm công vốn người ở trong thành, mà còn chịu từ xa làm việc thiện.
Chúng ta là tình lân lý, đâu nên làm khách bàng quan! Do đó tất cả mới chung
góp tiền mua đất, đem quan tài của mẹ cháu và luôn linh cữu của chồng cháu đã
quàn để từ lâu, đồng một ngày đem đi an táng!” Cư sĩ nghe nói vui vẻ ra về.
Mùa đông năm ấy, Ngươn
Lễ đem những công việc từ thiện của mình làm còn dở dang lo tính toán kết thúc
và chuyển giao trách vụ cho một liên hữu khác. Tháng giêng năm sau, cư sĩ đến
riêng từng nhà các đồng bạn, ân cần khuyến khích tu hành, dường như kẻ sắp đi
xa. Người con trai của cư sĩ có việc đến miền Tòng Giang, ông bảo: “Con đi ra
ngoài, mọi việc nên khéo xử sự. Cha nay tuổi già, thảng có điều chi biến cố,
cũng chớ nên kinh lo. Phải giữ bổn phận mình đối với trách vụ của người giao
phó!” Nghe nói, cậu trai tuy hiểu biết, song chỉ cho đó là lời quá lo xa của
người lớn tuổi mà thôi.
Đến ngày hai mươi bốn
tháng giêng, Ngươn Lễ thức dậy sớm bảo gia nhơn rằng: “Hôm nay ta thấy trong
người hơi mỏi nhọc!” Nói đoạn vẫn dùng cháo sáng như thường. Ăn xong, cư sĩ đi
tản bộ đến trước nhà gần bên đứng bàng hoàng một khắc, rồi trở về ngồi ngay thẳng
nơi giường niệm Phật. Con cháu trong nhà thấy hơi lạ hỏi thăm, ông khoác tay ra
dấu bảo im lặng. Đến giờ Ngọ, tiếng niệm nhỏ lần rồi an ổn mà qua đời. Giờ Dậu
ngày hôm sau nhập liệm, đảnh đầu hãy còn nóng. Bấy giờ nhằm năm Đạo Quang thứ
mười hai, cư sĩ hưởng thọ sáu mươi ba tuổi.
LỜI BÌNH:
Xem cách thức Dụng Hòa
lo kết liễu mọi việc, từ biệt bạn, dặn dò con, chẳng thể gọi là không dự biết
trước giờ lâm chung. Nhưng tại sao ông lại không nói ra minh bạch? Theo thiển
ý, sự biết trước ngày giờ quí ở chỗ tự biết để cho tâm được yên vững, không chủ
đích để phô trương với mọi người. Huống chi nếu đến giờ mà bạn lành đều tụ họp,
hoặc ra có sự lợi ích trợ đạo.
Thảng như quyến thuộc không
nén được thế tình, vây quanh ngậm ngùi thương khóc, há chẳng phải muốn thành mà
trở lại bại ư? Việc cư sĩ Dụng Hòa không nói ra, tất cũng bời lý do đó.
Comments
Post a Comment