CHÁNH VĂN


 

16.- Ẩn tu nghĩ muốn thoát dòng mê !

Vững lái phong ba lúc nặng nề

Niệm Phật, niệm Tâm, tâm niệm Phật

Mây tan thấy rõ lối đi về.

 

17.- Ẩn tu Tín, Nguyện Niệm hồng danh

Thời mạt chướng sâu đạo khó thành

Chờ đến Liên-bang lên pháp-nhẫn

Đem thuyền Bát Nhã độ quần sanh.

 

18.- Ẩn tu Hoa Tạng mến môn huyền

Muốn kết Dao-đài hội Thắng Liên

Theo bước Đàm-Loan chơi bảo-các

Bích Câu lạc dấu, Giáng-Kiều tiên.

 

19.- Ẩn tu tế độ chẳng quên lòng !

Bi, Trí đôi đường phải suốt thông

Y sĩ nhân tâm dù đã sẳn

Còn rành nhân thuật mới thành công !

 

20.- Ẩn tu chi quản nệ công-lao

Mà chẳng tuyên dương tiếng Hải-trào

Sông lớn khơi nguồn từ núi thẳm

Xuống trần càng đục biết làm sao ?

 

 

GIẢNG GIẢI

 

BÀI SỐ 16

 

 

Ẩn tu nghĩ muốn thoát dòng mê !

Vững lái phong ba lúc nặng nề

Niệm Phật, niệm Tâm, TÂM NIỆM PHẬT

Mây tan thấy rõ lối đi về.

 

NHƯ Ý: Phật Tức TÂM, nên niệm PHẬT tức là niệm CHƠN Tâm, dùng chơn tâm THANH tịnh, niệm hồng danh A DI ĐÀ, để chứng TỰ tánh Phật, SANH về cõi Phật gọi là TÂM NIỆM PHẬT.

 

Khi niệm cùng cực, trần tình không, khế hợp với tự tánh DI ĐÀ, thì nghĩa mầu của THIỀN và GIÁO điều hiện bài. Sanh về cực lạc mà không thấy có TƯỚNG  vãng sanh nên gọi SANH tức VÔ sanh, tuy vô-sanh song chẳng ngại gì có tướng PHẬT tiếp dẫn, ngồi trên đài vàng SANH về cực lạc, nên gọi vô-sanh tức sanh, đường lối đi về đã thấy rõ.

 

 

Mỗi câu tràng hạt Phật là TÂM

PHẬT rõ là tâm, uổng chạy tìm!

Bể Phật dung hòa tâm với cảnh

Trời tâm bình đẳng Phật cùng sanh

 

 Bỏ tâm theo Phật còn mơ mộng

Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành.

Tâm, Phật nguyên lai ĐỀU giả huyễn

Phật, tâm đồng diệt đến viên thành.

 

 

Hỏi: Thể của các pháp là không, xưa nay vẫn VÔ SANH và bình đẳng vắng lặng. Khi tâm ta thanh tịnh, dù ở UẾ-ĐỘ cũng thanh tịnh; trái lại như KHÔNG thanh tịnh, tuy ở Tịnh-Độ vẫn phiền não rộn ràng. Nếu đã có sanh tất phải có diệt hay có sanh là có tử. Thế thì bỏ Ta-Bà cầu sanh về Cực Lạc, chẳng là trái đạo lý ư?

 

- Đáp: Vấn đề này có hai nghĩa. Xin thể theo lời của Trí-Giả đại sư trong Thập Nghi Luận và phụ thêm đôi chút ý kiến để giải thích, phân làm tổng đáp cùng biệt đáp.

 

Về phần TỔNG đáp, nếu cho rằng cầu về Tịnh Độ là bỏ đây tìm kia, không hợp với lý Chân Như bình đẳng. Thế thì trụ Ta Bà không cầu sanh Cực Lạc, há không bị lỗi bỏ kia chấp đây sao?

Còn như bảo: "Tôi không cầu kia cũng không chấp đây", lại cũng mắc vào lỗi đoạn diệt. Cho nên kinh Kim Cang Bát Nhã nói: "Tu Bồ Đề! Ông đừng nghĩ rằng: Nói phát tâm vô thượng Bồ Đề là đoạn diệt hết tướng của các pháp. Tại sao thế?

Vì phát tâm vô thượng Bồ Đề, đối với các pháp không nói tướng đoạn diệt."

 

 

Về phần BIỆT đáp, xin giải thích về lý vô sanh và tâm tịnh.

 

VÔ-SANH cũng chính là lý “bất sanh bất diệt”. Bất sanh là các pháp do nhân duyên giả hợp mà sanh, không tự thể, nên không thật có tướng sanh. Vì nó hư huyễn, không phải thật từ đâu sanh hiện, nên gọi là “Bất-sanh”.

Bất-diệt là khi các pháp hoại diệt, cũng không tự tánh, không bảo rằng mình hoại diệt. Vì nó không thật có chỗ trở về, dứt mất, nên gọi là “bất diệt”.

 

Cho nên lý vô sanh hay bất sanh diệt, không phải "ngoài các pháp sanh diệt mà có."

 

Vì thế chẳng phải không cầu sanh Tịnh Độ mà gọi là vô sanh, hoặc sanh về Cực Lạc, là có tử diệt, trái với lý vô sanh đâu! Đó là luận về lý, riêng về sự thì người sanh Tịnh Độ tất lên ngôi Bất-Thối, sống lâu vô lượng vô biên A-TĂNG -KỲ kiếp. Trong thời gian ấy tiến tu đã dư CHỨNG quả Vô Sanh. Như thế đâu còn vấn đề: có sanh có diệt, hoặc có sanh có tử mà phòng ngại!

Lý tâm tịnh cũng thế, dùng tâm thanh tịnh ở Ta Bà hành đạo, cùng trụ tâm thanh tịnh ở Cực Lạc để tu tiến, nào có ngại gì?

 

Kinh Duy Ma nói:

 

"Tuy biết các cõi Phật, cùng với hữu tình không, mà thường tu Tịnh Độ, để giáo hóa quần sanh."

 

Cho nên người trí tuy siêng cần niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, mà KHÔNG chấp có tướng sanh, vì nó không thật có; tuy biết rõ các pháp xưa nay hằng thanh tịnh vắng lặng, mà không ngại gì CẦU sanh Tây Phương, mượn thắng duyên tu tiến để giáo hóa loài hữu tình. Đây mới là CHÂN vô sanh, và cũng thật là NGHĨA tâm tịnh tùy chỗ thanh tịnh.

 

Trái lại, kẻ kém hiểu biết bị tướng sanh ràng buộc, nghe nói sanh liền nghĩ là thật có sanh, có tử diệt; nghe nói vô sanh lại chấp không sanh về đâu cả. Họ đâu biết sanh chính là vô sanh, vô sanh há NGẠI gì sanh; và tâm tịnh lại có ngại gì cầu về Cực Lạc ư?

 

Vì không hiểu lẽ ấy, họ sanh lòng tranh chấp thị phi, khinh chê người cầu sanh Tịnh Độ, thật lầm lạc xiết bao!


 

NIỆM PHẬT THẬP YẾU

HT. THÍCH THIỀN TÂM SOẠN

 

 

TÔN THỊ

 

Tôn Thị có chồng họ Dưxóm Sương-cư, quê ở Tử Châu, và nguyên là mẹ của Chiêu Minh Hòa thượng. Khi Hòa thượng chủ trì chùa Cao Mân ở Dương Châu, rước thân mẫu về phụng dưỡng nơi một gian tịnh thất bên chùa.

Tôn thị lúc mới đến ở, rất đỗi nhớ nhà. Mỗi khi cùng Hòa thượng tiếp chuyện, bà thường đề cập đến chuyện quê hương gia sự. Hòa thượng vì mẹ nói về các pháp: Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, khuyên bà nên xả bỏ tất cả, NHỨT TÂM NIỆM PHẬT để cầu sanh về Cực Lạc. Nhưng nói mãi Tôn thị vẫn chẳng tỉnh ngộ. Hòa thượng liền ẩn bóng, chuyển lời bảo:

“Nếu muốn được gặp mặt, phải ráng niệm Phật!”

 

Bà mời gọi mãi cũng chẳng đến. Cuối cùng không biết làm sao, bà phải gắng gượng trì danh hiệu Phật, nhưng bước đầu còn khó khăn, chưa thể liên tục. Được ba năm, công tịnh niệm càng thuần, bà phát lòng tin sâu, xin thọ giới Bồ Tát, rồi sớm hôm lễ niệm rất tinh cần. Lúc ấy Hòa thượng mới đến thăm và hỏi:

 

 “Mẹ còn nhớ nhà chăng?”

Bà đáp: “Niệm Phật rất tốt, tôi không còn nhớ nhà nữa!”

 

Một hôm Tôn thị ngồi trước sân, đối diện với tháp chùa mà niệm Phật. Bỗng nhiên tâm nhãn mở sáng, bà thấy thế giới Kim Sắc hiện ra, quang cảnh trang nghiêm chói rực rỡ không ngằn mé. Lúc ấy tường vách núi rừng dường như tan rã tiêu trầm. Bà cả mừng, đứng lên sấn bước muốn đi tới, đột nhiên tất cả đều ẩn mất.

 

Từ đó sáu căn của bà lặng lẽ, khi động tịnh ăn ở câu Phật hiệu THƯỜNG HIỆN KHỞI, KHÔNG SANH RA VỌNG NIỆM KHÁC. Trải qua khoảng thời gian lâu như thế, đêm nọ Tôn thị mộng thấy đi đến một nhà, có người đàn bà đang nằm chỗ sắp sanh. Bà kinh hãi tự nghĩ: Mình chí nguyện cầu về Tây phương, tại sao lại đến chỗ này?

 

Vả lại sự luân hồi, hết ra bào thai này, lại vào bào thai khác, thật rất đáng sợ!” Nghĩ xong, vội chạy trở ra, bỗng giựt mình thức giấc. Sáng ngày, bà đem việc ấy thuật lại với Chiêu Minh Hòa thượng và nói:

“Duyên đời của tôi đã mãn. Xin tập họp chư tăng trợ niệm để đưa tôi về Tây phương!” Hòa thượng y như lời. Bà ngồi day mặt về Tây, chắp tay niệm Phật theo chư tăng mà vãng sanh.

Lúc bấy giờ nhằm niên hiệu Càn Long thứ hai mươi bảy.

 

 

Một câu A Di Đà
Cần ở điểm Tin sâu.
Mầm hoa sen chín phẩm
Từ tâm đây nhô đầu.

 

Nhứt cú Di Đà
Yếu tại Tín thâm
Liên hoa cửu phẩm
Sưu tại thử tâm.

  

LƯỢC GIẢI

 


Lòng TIN là phần tư lương trước tiên của môn Niệm Phật. Hoa sen chín phẩm ở Tịnh độ cũng từ lòng Tin này mà nẩy mầm nhô đầu lộ mọc lên. Nhưng Tin cần phải sâu chắc, có thể tóm gọn trong ba điểm:


Một là tin CÕI CỰC-LẠC trang nghiêm tốt đẹp kia vẫn thật có, không phải chuyện hư huyễn hay thí dụ. Vì đức Phật Thích Ca không bao giờ nói dối, Ngài đã diễn tả rành rẽ từng chi tiết của cảnh ấy trong ba kinh Tịnh độ. Vì đã có rất nhiều người niệm Phật trong đời hiện tại, do tâm thanh tịnh, từng chứng kiến cảnh giới này.


Hai là tin SỰ VÃNG SANH về cõi kia cũng hiện thật. Vì đức A Di Đà Thế Tôn không bao giờ nguyện suông, nói mà chẳng thật hành. Vì từ xưa đến nay có rất nhiều người niệm Phật, khi lâm chung hiện ra điềm lành, được Tây phương Tam Thánh hiện thân tiếp dẫn sanh về Cực Lạc.


Ba là TIN MÌNH dù còn phiền hoặc, dù nghiệp chướng nặng nề đến đâu, nếu chí tâm niệm Phật cầu nguyện vãng sanh tất sẽ được tiếp dẫn. Vì trong kinh Vô Lượng thọ đã nói, kẻ tạo nghiệp ngũ nghịch thập ác khi lâm chung dùng mười niệm cũng được vãng sanh.

 

Vì trong truyện ký đã có ghi, những kẻ tạo ác nhiều như Hùng tuấn, Duy Cung, nhờ biết hồi tâm niệm Phật đều được sự tiếp dẫn.

 

 

BÀI SỐ 17

 

Ẩn tu Tín, Nguyện Niệm hồng danh

Thời mạt chướng sâu đạo khó thành

Chờ đến Liên-bang lên PHÁP NHẪN

Đem thuyền BÁT NHÃ độ quần sanh.

 

NHƯ Ý:  PHÁP NHẪN nói cho đủ là Vô-sanh Pháp-nhẫn, NHẪN có nghĩa

An-trụ, Vô-sanh Pháp-nhẫn là An trụ nơi Pháp vô sanh, cũng có thể giải là trụ nơi CHÂN THỂ không còn chấp thấy CÓ chúng sanh và CÁC pháp.

 

 BÁT NHÃ tức Trí-huệ, dùng Trí-huệ tùy cơ tùy thời, đem vô số PHƯƠNG TIỆN để cứu độ chúng sanh.

 

 

Thơ Hỏi: – Đại đức Đoạn-Phàm có đem về thơ phúc đáp của Tôn-giả. Duyệt xem, thấy lời và ý ân cần, thật rất cảm lòng chiếu cố! Nhưng nỗi riêng chưa tỏ hết, còn xin có mấy điểm trình bày:

 

1. Kinh Pháp Hoa, trong phần khen công đức thọ trì có dẫn: “Nếu người nữ nào thọ trì phẩm này sẽ thoát hẳn nữ thân, sanh về Cực Lạc”. Như thế sự vãng sanh Tịnh độ, phải chăng là nhân quả của NỮ-NHƠN ? Lại nữa, kinh Lăng Nghiêm trong phần tuyển lựa viên thông, đức Văn Thù đã bác môn Niệm Phật của ngài Thế Chí là vô thường, SANH-DIỆT. Vậy ý Tôn giả nghĩ thế nào?

 

2. Tề Kỷ thiền sư, khi các học giả đọc đến hai câu kệ của ngài Thiện Đạo: “Duy có đường tắt tu hành. Chỉ niệm A Di Đà Phật” đã quát to: “Vẫn còn quanh lỗi cũ, niệm được cái gì?” Thiền sư lại bảo: “Y như trước bỏ cha trốn đi, lưu lạc tha phương, khổ thay A DI ĐÀ PHẬT ! ” Lời của một bậc ngộ đạo nói như vậy, há không có ý vị ư?

 

3. Bởi thế bậc thức đạt đã bảo: “Trải nhiều kiếp cần khổ tu hành không bằng một niệm ngộ VÔ SANH PHÁP NHẪN”. Người trí cần phải vượt khỏi môn quyền học tam thừa, không còn ngã và ngã sở. Nay sự VÃNG SANH Tịnh độ, ta là người hay sanh, Cực Lạc là chỗ sanh về, thì năng, sở, người, cảnh còn phân biệt rõ ràng, đâu gọi là cứu cánh?

 

4. Nếu như nói: “Hoa nở thấy Phật ngộ vô sanh”. Đây tất phải đợi sau khi vãng sanh thấy đức Di Đà mới được ngộ đạo, phải chăng là QUÁ CHẬM trễ xa vời?

 

5. Trong thơ trước, tôi đã khuyên tôn giả “Vì căn Tịnh độ nói Tịnh độ, với cơ Hoa Nghiêm nói Hoa Nghiêm” thật đã vì ngài mà tỏ bày hết tâm não. Tôn giả lại không lưu ý, nên vừa rồi thính chúng nơi pháp hội của ngài từ Hàng Châu sang đất Tô, vị nào cũng nôn nao cầu về chín phẩm. Nhân khi cùng nói chuyện, tôi vừa đề cập đến thượng thừa thì họ đều sửng mắt kinh lòng!

 

Đó là lỗi của thầy, hay của hàng đệ tử? Đấng đại trượng phu KHÍ LƯỢNG phải xung thiên, nay ngài đã ra ứng thế, mở pháp đường, lên giảng tọa, sao không đủ tác lược của BẬC ĐẠI NHƠN, mà chỉ bắt trước hành động những ông già bà cả ăn chay ở đầu làng xóm ngõ?

 

Nếu một mai bị bậc lanh lợi thông suốt hỏi đến, sẽ toan ẩn mình trên sao Bắc Đẩu, hay chui thân vào núi Thiết Vi ư?

 

6. Thế thì việc Tôn giả muốn vời tôi cùng làm BẠN SEN nơi Cực Lạc, khác nào bảo kẻ nầy gánh gai bỏ vàng, đuổi theo vật mà chạy vào mê lộ? Há chẳng nghe nói:

 

Nếu là chim ĐẠI BÀNG KIM SÚY, mới dương cánh đã vượt cao chín tầng mây; ngựa Nhiếp ảnh thần câu, vừa cất vó đã ra ngoài vạn dặm. Hạng nầy không còn theo thứ lớp mà ăn uống, cũng không tùy tiện chịu vùi thân. Người xưa bảo:

 

“Nếu muốn cứu cánh việc ấy, phải đứng trên chót vót đỉnh non cao, đi sâu tận lòng đáy biển thẳm. Như chưa bỏ được sự êm ấm của khuê phòng, thì có chỗ nào dùng được!”

 

Cho nên, Phật pháp là việc lớn, không phải phàm thường. Mong ngài nghĩ lại!

 

CHÂU HOẰNG ĐẠI SƯ
(Liên Tông Bát Tổ)

 

Thơ Đáp: – Mấy điều huệ cố của cư sĩ, lời hay lẽ diệu, luận biện điệp trùng, thật là đáng ngợi khen, đáng ngưỡng vọng. Nhưng trộm nghĩ: lòng thương tôi TUY SÂU, song tiếc đã lắm lời phí uổng!

Nếu cư sĩ quả muốn tuyên dương Thiền tông, ức chế Tịnh độ, thì không cần nói chi nhiều. Sao chẳng bảo:

 “Chư Phật trong ba đời bị miệng ta nuốt mất hết cả. MỘT ĐỨC PHẬT còn chẳng lập, có ai là A Di Đà?”

 

Lại sao không bảo:

 “Nếu người biết được tâm, đại địa không tấc đất. MỘT TẤC ĐẤT đã không, nơi nào là cõi Cực Lạc?”

 

Chỉ dùng HAI lời ấy thôi, đủ gồm hết những điều cư sĩ muốn nói. Nay nghĩ nếu mỗi mỗi thơ đáp, e phạm lỗi ĐẤU TRANH. Nếu hẳn không trả lời, vì đạo pháp có tương quan, lại chẳng thể im lặng. Vậy xin tỏ bày ước lược như sau:

 

1. Cư sĩ dẫn kinh Pháp Hoa, nói sự vãng sanh Tịnh độ là nhân quả của người nữ. Thế thì việc LONG NỮ thành Phật, cũng là nhân quả của người nữ ư?

Lại dẫn kinh Lăng Nghiêm nói: Đức Văn Thù bác niệm Phật là vô thường, sanh diệt, không viên thông. Thế tại sao ngài Kiều Trần Như tỏ ngộ hai chữ KHÁCH TRẦN có thể gọi là suốt lý vô thường, hợp lẽ BẤT sanh diệt, lại chẳng được trọn là pháp viên thông?

Nếu quả thật: Đức Quán Âm đỗ cao, ngài Thế Chí thi rớt, thì sao cư sĩ chẳng nghe biết điều thí dụ: “CỬA RỒNG CHẠM TRÁN” là lời của kẻ quê mùa miền Đông dã ở nước Tề ?

 

2. Về những điều của Tề Kỷ thiền sư bảo, cư sĩ đã học Thiền, sao chẳng biết đó là những nhà tông sư vì người cởi chấp mở trói, Ý ở ngoài lời, lại cứ theo văn tự hiểu thành sự thật, mà chịu chết dưới câu nói như thế?

Nếu quả vậy, thì cổ đức bảo: “Đạp trên đỉnh đầu PHẬT TỲ LÔ mà đi”, cũng là đạp thật sự hay sao? Những cơ phong ấy trong các Ngữ lục có ngàn muôn ức. Lão hủ bốn mươi năm về trước cũng đã từng dùng đến để cho lời nói cao siêu xuất cách, câu văn mạnh mẽ hùng hào. Về sau xét lại biết hổ thẹn, không còn dám theo lề lối cũ, nay chợt nghĩ đến hãy còn ĐỎ mặt.

Như Tề Kỷ thiền sư nói: “Y như trước bỏ cha trốn đi, lưu lạc tha phương, khổ thay A Di Đà Phật!”

 

Xin cũng dùng chuyên ngữ đối đáp: “Nay chính thật như CON NHỚ MẸ, trở lại quê xưa, VUI thay A Di Đà Phật!” Thử đem lường câu nói nầy với lời ngài Tề Kỷ, xem bên nào ít nhiều nặng nhẹ, và có bao khoảng cách xa?

 

3. Trong thơ lại dẫn lời cổ nhơn bảo: “Trải nhiều kiếp cần khổ tu hành, không bằng ngộ một niệm Vô-sanh pháp-nhẫn”.

Xin hỏi: “Cư sĩ đã CHỨNG được Vô sanh pháp nhẫn chưa?” Nếu chứng được thì không nên cho rằng: Ta là người hay sanh, Tịnh độ là chỗ sanh về. Tại sao? Bởi TÂM tức là CẢNH, ai là người hay sanh? Cảnh tức là tâm, đâu là chỗ được sanh?

Vì không còn thấy năng sở, nên TUY VÃNG SANH mà chưa từng có sanh. Đó mới là chân vô sanh. Nếu cho không sanh về đâu mới là vô sanh, thì thành ra lỗi đoạn diệt, THIÊN (lệch) KHÔNG vậy.

 

4. Cư sĩ bảo: Nếu đợi hoa nở thấy Phật mới ngộ vô sanh là chậm trễ xa vời. Kẻ hiểu thiền tông sao chẳng biết: Từ mê được ngộ như giấc chiêm bao DÀI mới thức tỉnh? Người niệm Phật tùy theo căn cơ, có vị trong HIỆN ĐỜI đã kiến tánh. Đó là hoa sen nở trong giây phút. Có kẻ SAU KHI vãng sanh mới kiến tánh. Đó là hoa nở về lâu.

Bởi căn cơ có sáng tối, công phu có trễ siêng, nên hoa nở mới có sớm muộn, đâu được nhất khái cho là sai chậm ư?

 

5. Trong thơ còn đề cập đến mấy vị tăng ở núi hoang nào đó, khi hỏi tới thượng thừa thì đều sửng mắt kinh lòng! Cư sĩ khuyên tôi với căn Hoa Nghiêm thì nói Hoa Nghiêm, với cơ Tịnh độ thì đàm Tịnh độ. Nay những kẻ ấy thuộc về hàng độn căn, chính nên giảng Tịnh độ, sao cư sĩ không tùy bịnh cho thuốc, LẠI LUẬN THƯỢNG THỪA với họ làm chi?

Cư sĩ lại bảo tôi đã ra ứng thế, mở pháp đường, lên giảng tọa, mà không đủ tác lược của bậc đại nhơn. Lão hủ chưa từng dám dương với danh dự ra ứng thế, nên tự ưng không có tác lược của bậc đại nhơn. Điều này hãy tạm gác qua, không cần bàn luận.

Nhưng nếu bỉ người tu Tịnh độ là hạng ông già bà cả ăn chay quê mùa, thật ra không phải chê các vị đó đâu, mà chính là bỉ đức VĂN THÙ, PHỔ HIỀNMÃ MINH, LONG THỌ vậy!

Đâu riêng gì những vị Bồ Tát ấy, mà chư Tổ Huệ Viễn, Thiện Đạo, Thiên Thai, Vĩnh Minh, chư đại thiện tri thức, các hàng danh nhơn niệm Phật, theo cư sĩ, cũng là hạng quê mùa cả ư?

Song hạng quê mùa nếu biết niệm Phật được vãng sanh, sẽ lên NGÔI Bất thối chuyển, cũng đâu nên XEM RẺ khinh chê? Những ông già bà cả ăn chay niệm Phật, cũng đáng khen là họ biết giữ theo quy củ quê mùa của chính mình. Còn hạng thông minh tài biện, ĂN THỊT UỐNG RƯỢU, vọng nói bát nhã, hôm sớm cứ tìm chư tăng gạn thiền nói đạo thì thế nào?

Đến như việc các ông già bà cả khi bị kẻ lanh lợi thông suốt hỏi đến, thì chẳng cần lên sao Bắc Đẩu, vào núi Thiết Vi làm chi cho cao xa. Họ chỉ cần đặt GIƯỜNG NẰM nơi cổ họng, trải TÒA NGỒI trên đôi mắt của các vị lanh lợi thông suốt ấy. Làm như thế để chi?

Để dạy chúng hãy tạm đóng môn tam muội nơi cửa miệng, biết nhắm mắt hồi quang phản chiếu xét trở lại CHÍNH mình đó thôi!

 

6. Cư sĩ cho rằng việc khuyên niệm Phật cầu sanh Tịnh độ là điên đảo, đuổi theo vật vào mê lộ, là gánh gai bỏ vàng, làm khuất nhục đến mình. Nhưng các thí dụ ấy còn chưa thân thiết. Nay lão hủ xin đem một thí dụ khác thay thế:

Có một lão nông dân chân thật gởi thiếp vào cửa vị phú trưởng giả, mời đến nhà ở đồng ruộng của mình VIẾNG CẢNH. Mọi người nghe nói đều cười.

Lão nông lại quét dọn đường sá sạch sẽ, đến mời thỉnh lần nữa. Người gác cửa nhà phú trưởng giả cười bảo:

“Chủ nhơn lần trước không quở TRÁCH ông là may lắm rồi. Ông định làm mặt dày hay sao?”

Lão ông đáp:

“Tôi thấy trong các nhà giàu, có kẻ làm giàu mà bất nhơn. Có người ngoài giàu nhưng TRONG NGHÈO. Có kẻ chưa giàu song tỏ ra kiêu mạn trước. Có người chỉ giữ kho, giữ sổ sách ở nhà giàu, mà tự cho là mình giàu. Vả lại cảnh giàu sang như Kim cốc, My ô, nay còn đâu ư?

Tôi là một lão già ở đồng ruộng, an hưởng sự vui thái bình, nên quên phận thấp kém của mình, mới THƯƠNG XÓT mà mời thỉnh. Thôi từ nay cũng xin tự biết lỗi rồi!”.

 

Nói xong cùng nhau cười rộ mà chia tay.

 

Lặng ngồi chốn tĩnh lâu
Trăng sáng, gió canh thâu!
BÁT-NHÃ hương lòng nhẹ.
Lăng Già niệm ý sâu
Phật, Tâm chung một vẻ
Thiền, Tịnh chẳng hai mầu
Ngưng chuỗi, thầm riêng hỏi
Hoa đêm điểm điểm đầu...

 

( Niệm Phật Phải Hành Trì Cho Thiết Thật)


 

CHÂU LÂN THƠ

 

Cư sĩ Châu Lân Thơ tự Văn Tuyền, người đời Thanh, nguyên là hàng chư sanh ở Tân Dương. Lúc gần năm mươi tuổi, ông bị bịnh nặng suýt chết, sau khi được lành mạnh, sanh niệm sợ hãi mới để tâm nghiên cứu về kinh Phật. Ông duyệt xem nội điển rất nhiều, thường đem các sách khuyến thiện tặng cho người.

Bấy giờ Lượng Khoan hòa thượng từ chùa Sư Lâm thối viện, về trụ ở am Tôn Thắng, nổi tiếng là bậc hạnh giải kiêm toàn. Lân Thơ nghe danh đến thọ Tam quy ngũ giới, được pháp danh là Như Nhân. Cư sĩ gọi các bạn đồng tu đến kiết Liên xã ở am Tôn Thắng, mỗi tháng họp một lần, lễ Đại Bi sám pháp và niệm Phật.

 

 Mỗi kỳ hội đều có giảng diễn về pháp môn Tịnh độ, và cùng trình bày chỗ kinh nghiệm để sách tấn lẫn nhau, về sau cư sĩ đôi mắt lần kém không xem kinh sách được, nhưng khóa tụng càng siêng cần. Khi đi đứng nằm ngồi, đều thầm niệm Phật hiệu không dứt.

 

Đến bảy mươi tuổi, Vân Thơ vương bịnh dây dưa vài tháng. Trước khi mãn phần mấy ngày, cư sĩ mộng thấy hào quang sắc trắng chiếu sáng rực rỡ. Thức giấc, ông viết mấy bài kệ như sau:

 

I


Lạc bước trần lao danh lợi mê
Đua toan nào kể tội muôn bề!
Vợ nhà hờn trách khi cùng quẫn
Kiếp tạm ngày qua luống ủ ê!

 

II


Lần hồi vui đạo biết an phần
Dưỡng tánh gìn lòng lại nẻo chân,
Ứng phó tùy cho xong nợ trước
Cảnh duyên hoa mộng mặc xoay vần!

 

III


Trôi dạt tha hương bảy chục thu
Nổi chìm vinh nhục há không do?
Quay đầu bến giác đi về thẳng
Tùy cảnh chi sờn bước tịnh du.

 

IV


Nghiệp báo ngày nay trả dứt xong
Rất may tánh Phật chẳng mê lòng.
Vô-sanh đặt bước đường bằng ổn
Liên quốc miền vui trước mắt trông!

 

Khi bịnh ngặt sắp mãn phần, cư sĩ gắng sức ngồi lên niệm Phật mà hóa. Tuy tắt hơi đã lâu, song hai tay vẫn chắp lại chẳng buông ra. Các liên hữu dò thăm, đỉnh đầu rất nóng. Bấy giờ nhằm mùa đông năm Đạo Quang thứ hai mươi lăm.

 

 

 

 Một câu A Di Ðà

Cần ở nơi Nguyện thiết

Lòng về tợ lửa nung

Mắt thương khóc ra huyết.



Nhứt cú Di Ðà
Yếu tại Nguyện thiết.
Thốn tâm dục phần
Song mục lưu huyết.

 

 

LƯỢC GIẢI

 


NGUYỆN
 là phần tư lương thứ hai của môn Niệm-Phật. Nhưng Nguyện phải tha thiết, không THAM LUYẾN trần cảnh, gia tư, quyến thuộc, không mong cầu hưởng sự vui phước báu nhơn thiên nơi đời sau. Chỉ nguyện mau sanh về Cực Lạc, để thoát khỏi nỗi khổ luân hồi, để sớm thấy Phật và chứng kiến cảnh trang nghiêm của Liên Bang, để độ thoát mình, kẻ oan, người thân và vô lượng chúng sanh trong vòng chìm đắm.

Chí nguyện cầu sanh ấy nung nấu như lửa đốt lòng, đôi mắt thương cảm tha thiết trông về hầu như TUÔN RA huyết lệ.





BÀI SỐ 18

 

Ẩn tu Hoa Tạng mến MÔN HUYỀN

Muốn kết Dao-đài hội Thắng Liên

Theo bước Đàm-Loan chơi bảo-các

Bích Câu lạc dấu, Giáng-Kiều tiên.

 

NHƯ Ý : Trong CÕI Hoa Tạng có  10 THẾ GIỚI chủng, mỗi thế giới chủng gồm 20 tầng lớp, hàm chứa hàng hà sa vô biên cõi Phật, nghĩa mầu về THẬP QUYỀN MÔN của Hoa Tạng giới, muốn thấu hiểu phải duyệt KINH HOA NGHIÊM. Các liên hữu tùy theo công đức sẽ được ngồi lên LIÊN đài,  KIM đài cho đến GIAO đài là đài bằng Ngọc-Giao, dự hội thắng liên nơi bảo trì cõi cực lạc. Tuy nói ao báo, nhưng cõi BẢO TRÌ  này còn rộng lớn hơn cả đại dương ở cõi Ta-bà .

 

Đàm Loan pháp sư trước học Đạo  nơi đào Nguyên Minh, trên đường về ngài gặp bồ đề Lưu-Chi Tam Tạng,  liền đốt  10 quyển TIÊN kinh, tu theo THẬP LỤC QUÁN KINH, được sang về hư không BẢO CÁT ở cõi cực lạc, Tú-Quyên ở thôn bích câu vì có tiền duyên, nên được kết đôi với nàng dáng kiều và được nàng dẫn độ cho tu hành trở về TIÊN GIỚI, theo ĐÀM LOAN tức là lạc dấu dáng kiều rồi.

 

 

Một câu A Di Ðà
Là một Ðại Tạng Kinh
Dọc, ngang giao chói sáng
Tuyệt đối, thể u linh.

Nhứt cú Di Ðà
Nhứt Ðại Tạng Kinh
Tung hoành giao thái
Tuyệt đãi u linh.


 

LƯỢC GIẢI

 


Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:


Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.


Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về CHÂN tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!


Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết VỌNG tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề.

 

TÂM cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!


 

KINH VĂN:

 

Hạ phẩm hạ sanh là thế nào? - Hoặc có chúng sanh tạo tội ngũ nghịch thập ác, làm đủ các việc chẳng lành; kẻ ngu ấy do nghiệp ác đáng lẽ phải bị đọa vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng.

Nhưng khi lâm chung, người này nhờ gặp thiện tri thức dùng nhiều cách an ủi, nói phép mầu cho nghe, lại dạy bảo tưởng niệm Phật. Đương nhơn tuy nghe lời dạy, song vì sự khổ bức ách, không yên rảnh để quán tưởng đức Vô Lượng Thọ Như Lai.

Thấy thế, thiện hữu lại bảo: "Nếu ông không thể tưởng đức Phật kia, thì nên chí thành xưng "Nam Mô A Di Đà Phật" tiếng tăm liên tiếp không dứt cho đủ mười niệm." Hành giả vâng lời. Và do nhờ xưng danh hiệu Phật nên mỗi mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử.

Khi mạng chung, người ấy thấy hoa sen vàng rực rỡ như vầng nhật hiện ra trước mặt. Trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.

Như thế mãn mười hai Đại kiếp hoa sen mới nở. Khi hoa nở, hai vị đại sĩ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng tiếng đại bi vì hành giả nói rộng về thật tướng của các pháp và cách trừ diệt tội chướng.

Đương nhơn nghe rồi thân tâm vui đẹp, liền phát lòng vô thượng bồ đề. Đây là cảnh hạ phẩm hạ sanh.

Môn tưởng trên gọi là hạ bối vãng sanh, thuộc về pháp quán thứ mười sáu.

 

KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ 


Đời Lưu Tống, Ngài Cương-Lương Gia-Xá Dịch


Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm

 

(Để đánh tan mối tệ sai lầm ấy và đem lại sự lợi ích cho người tu, bút giả duyệt trong đại tạng, dung hội và trích yếu phần chú sớ của các Ngài Thiên Thai, Thiện Đạo, Nguyên Chiếu, mà ghi lại lời giải thích bổn kinh Quán Vô Lượng Thọ này. Xin nhấn rõ, trong đây toàn lời SỚ GIẢI của ba vị tổ sư trên, bút giả chỉ là người sưu tập và ghi chép mà thôi.)

 

SỚ GIẢI:

Tội ngũ nghịch là: Giết cha, Giết mẹ, Giết A La Hán, Phá sự hòa hợp của chư Tăng, và Làm cho thân Phật ra máu. Vì năm tội này trái ân phụ đức, nên gọi là "nghịch."

Thập ác là ba nghiệp dữ của thân, bốn nghiệp dữ của miệng, và ba nghiệp dữ của ý; tất cả ác nghiệp đều nhiếp về mười điều này. "Mười niệm", ước về số ít là 10 CÂU, nhiều là 10 HƠI.

Hỏi: - Tại sao nghe danh đề của 12 loại kinh ĐẠI THỪA chỉ trừ tội trong ngàn kiếp, mà chỉ xưng niệm câu HỒNG DANH lại được tiêu tội đến năm mươi ức kiếp?

 

Đáp: - Người tạo nghiệp bị chướng nặng, gia dĩ lúc lâm chung sự khổ bức bách, nghe tên nhiều loại kinh tâm do PHÙ TÁN, nên sức diệt tội phải kém. Còn danh hiệu Phật CHỈ là một, đương nhơn do nhiếp tâm chuyên chú, gây thành tác dụng mạnh, nên diệt tội được nhiều.

 

Hỏi: - Theo kinh VÔ LƯỢNG THỌ, đoạn bốn mươi tám điều đại nguyện, có câu "Duy trừ những người tạo ngũ nghịch và báng chánh pháp, ngoài ra đều được vãng sanh."

Nay trong chương Hạ phẩm hạ sanh của QUÁN KINH đây lại nhiếp thủ người tạo ngũ nghịch, không thâu kẻ BÁNG chánh pháp là ý thế nào?

Đáp: - Việc ấy nên hiểu theo nghĩa ức chỉ môn, tức là lời nói ngăn đón trong Phật pháp. Bởi người đã tạo tội ngũ nghịch tất nghiệp chướng rất nặng nề, khó hồi tâm hướng về chánh pháp, nên đức Như Lai mới nói lời rào đón trước, để cho kẻ ấy được dễ dàng trong sự vãng sanh.

Nếu người tạo ngũ nghịch thập ác mà biết HỒI tâm niệm Phật, tất đức Phật sẵn sàng tiếp dẫn. Chư Phật lòng từ vi vô lượng, đối với kẻ lỗi lầm biết quay đầu về hướng thiện, lẽ nào lại không tiếp độ? Cho nên quán kinh nhiếp thủ người TẠO ngũ nghịch, là bởi ý đó.

 

Trong kinh đây không nói đến kẻ BÁNG PHÁP, là bởi nếu đã tạo tội nặng mà biết tin tưởng chánh pháp, thì còn có thể hóa độ, bằng trái lại thì dù có khuyên bảo, chỉ e luống vô công.

 

Tuy nhiên, nếu có người trước kia không tin tưởng, THƯỜNG phỉ báng chánh pháp sau bị tai nạn, hay thấy ác tướng, hoặc gặp duyên sự gì, biết thức tỉnh trở lại nẻo chánh chơn, thì chư Phật với tâm bình đẳng từ bi vẫn sẵn sàng TIẾP ĐỘ.

 

Vì thế, KINH QUÁN PHẬT TAM MUỘI nói: "Nếu trong hàng tứ chúng, có kẻ báng kinh đại thừa, tạo tội ngũ nghịch, phạm bốn trọng giới, mà biết chí tâm hệ niệm quán tưởng MỘT tướng hảo của Phật trong một ngày đêm, thì các tội chướng thảy đều tiêu diệt." Thế thì những kẻ báng chánh pháp nếu có thể hồi tâm, tất đều vãng sanh chớ chẳng phải là không được thâu nhiếp đâu!

 

Nhưng người báng chánh pháp dù được vãng sanh, phải ở trong hoa sen, trải qua nhiều kiếp. Trong thời gian lâu xa ấy, đương nhơn tuy hưởng sự vui như TAM THIỀN, song còn ba điều chướng là: Không được THẤY Phật và Thánh chúng, không được NGHE chánh pháp, không được thừa sự CÚNG DƯỜNG các đức Thế Tôn.

 

Tuy thế, cũng còn hơn là kẻ không hồi tâm để bị đọa vào địa ngục A Tỳ! Về hạ phẩm vãng sanh đến đây đã xong.

 

Có lời khen rằng:

 

Hạ bối căn non, kém hiểu biết,

Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp

Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,

Không tin đại thừa, báng chánh pháp.

Lâm chung tướng khổ hội như mây,

Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.

Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh

Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.

Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,

Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.

Mười hai đại kiếp hoa sen nở

Đại nguyện theo với tiếng đại bi.

 

Hỏi: - Luận Vãng Sanh nói: "Người nữ kẻ căn thiếu. Nhị thừa chủng không sanh." Như thế tại sao trong kinh này Phật lại ấn hứa cho người nữ được vãng sanh?

 

Đáp: - Đó là ý nói ở Cực Lạc không có người nữ cùng kẻ sáu căn không đủ, chứ chẳng phải nữ nhơn và kẻ thiếu căn niệm Phật không được vãng sanh đâu! Còn "nhị thừa chủng" là chỉ cho hàng định tánh Thanh Văn lấy quả Vô dư niết bàn làm cứu cánh, không tin có cõi Cực Lạc. Nếu những vị này hướng về đại thừa, PHÁT tâm niệm Phật tất đều được vãng sanh.

 

  

Thứ Hai Mươi Ba

 

Ma Hê Ma Hê [26]

Án-- phạ nhựt-ra, ca rị ra tra hàm tra.

 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn được đạo tiên, nên cầu nơi Tay cầm hóa hiện
                            Mây-Ngũ-Sắc.”

 

 

Thần-chú rằng: Ma Hê Ma Hê [26]


Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra, ca rị ra tra hàm tra.


Kệ tụng:

Vị đạo cầu tiên nguyện trường sinh
Thọ dữ thiên tề bất giảm tăng
Toại tâm như ý thông biến hóa
Ngũ sắc tường vân túc hạ đăng.


“ĐẠO TIÊN”, cầu trường sanh thì có, cầu “BẤT TỬ” thì không,

Tưởng rằng Thọ-mạng sánh bằng “TRỜI ĐẤT”, không tăng không giảm.

Dù có thần thông biến hóa toại tâm như ý, nhưng vẫn còn ở trong “TAM GIỚI” mà thôi.

Khi Trì NGŨ SẮC VÂN THỦ NHÃN, thì bỏ được ngã chấp, RA KHỎI TAM GIỚI.




Tóm lại, nếu “Qúy-vị” trì Ngũ Sắc Vân Thủ Nhãn Ấn Pháp, thì không còn trụ ở ÂM THANH SẮC TƯỚNG, không còn trụ ở TAM TÂM TỨ TƯỚNG, nên “ĐƯỢC TRƯỜNG SANH BẤT TỬ”, và cũng có khả năng như Bồ-tát Quán-thế-âm giúp cho 10 chúng TIÊN LÌA NGÃ CHẤP, chứng được “THẬT TƯỚNG”, như tâm nguyện họ mong cầu.( Thọ dữ thiên tề bất giảm tăng)  Hữu cầu tắc ứng là đây chăng?

 


LƯ THỊ

 

Lư Thị, tên Phước Trí, vợ của Trình Quý. Thanh, trước tiên ở Huy Châu, sau cả nhà thiên cư về Hồ Châu.

Quý Thanh thờ Phật rất kính thành, gắng sức tu phước nghiệp. Lư thị cũng đem hết tài sản phụ giúp vào việc ấy. Cô ăn chay trường, mỗi ngày niệm Phật ba muôn câu, kiệm ước phần mình, rộng giúp kẻ dưới, chưa từng mắng người.

Niên hiệu Sùng Trinh thứ năm đời Minh, cô đau nặng, thỉnh bậc Pháp sư cao đức đến thọ năm giới. Sau khi được nghe lời pháp yếu về Tịnh độ, cô bèn quyết ý vãng sanh. Quý Thanh vì vợ tụng KINH HOA NGHIÊM, đến đoạn Thiện Tài tham phỏng năm mươi ba bậc thiện tri thức, mỗi mỗi đều giải thích rành rẽ. Lư thị lãnh ngộ được tất cả.

Quý Thanh lại sách tấn về việc vãng sanh, bảo rằng: “Trăm kiếp ngàn đời, quan trọng ở giờ phút lâm chung nầy. Cô phải gắng sức thẳng về Tây phương, chớ nên do dự!”

Lư thị nghe xong, phát tâm mạnh mẽ như quên cả đau bịnh, cao tiếng niệm Phật liên tiếp cả đêm ngày, như thế suốt cả nửa tháng. Bà mẹ và con gái đến thăm hỏi, cô đều từ tạ bảo đi nơi khác, xin đừng làm rối loạn tâm mình.

Ngày mùng tám tháng mười một năm ấy, Lư thị bỗng thấy hoa sen hiện ở trước mặt, Hóa Phật duỗi tay xuống tiếp dẫn. Nỗi vui mừng tràn ngập cả thân tâm, cô bảo người nhà mau nấu nước thơm đem đến cho mình tắm gội và thay y phục mới sạch.

Xong mọi việc, cô nằm nghiêng bên mặt, chắp tay hướng về Tây, liên tiếp xưng danh hiệu Phật mà qua đời. Lúc ấy vừa đúng giờ ngọ. Đến chiều, người nhà thử rờ NƠI ĐẢNH, còn cảm thấy nóng ran cả bàn tay. Cô hưởng dương được ba mươi chín tuổi. Ngẫu ích đại sư vì cô viết truyện ký, có phụ, thêm lời khen ngợi rằng:

 

Thương chúng sanh ba cõi
Ái dục sâu thành căn!
Gốc ái nếu chẳng nhổ
Làm sao được vãng sanh?


Cõi hoa sen sáng sạch
Lìa hẳn các trần tình.
Duyên ái này dứt được
Chất ngọc kia mới thành
Mạnh mẽ thay Phước Trí
Bậc nữ lưu hùng anh!


Suốt ngày đêm nửa tháng
Công tịnh niệm ân cần
Mẹ con, niềm ái luyến
Như khô mộc, hàn băng
Hoa hiện, Phật tiếp dẫn
Mắt nhìn thấy rõ ràng
An lành nằm xả báo
Vĩnh viễn từ khổ luân.


Nay ta xin tùy hỉ
Nguyện cùng các đồng nhơn
Dứt trừ lưới ân ái
Chứng nhập Diệu HUYỀN MÔN!


 

Một câu A Di Ðà
Cần ở chỗ Hạnh chuyên.
Chỉ nêu cao một niệm
Dứt sạch cả muôn duyên.

Nhứt cú Di Ðà
Yếu tại Hạnh chuyên
Ðơn đề nhứt niệm
Trảm đoạn vạn duyên.



LƯỢC GIẢI

 


Sau rốt, HẠNH là phần tư lương thứ ba của môn Niệm Phật. Song Hạnh cần phải tinh chuyên. Ðiều này có thể tóm lại trong hai câu:

"Rủ sạch muôn duyên. Một lòng niệm Phật".

Muốn rủ sạch muôn duyên, phải thấu đáo cảnh Ta Bà là khổ, mọi sự vật đều vô thường, như huyễn mộng, mà không còn niềm tham luyến.

Muốn một lòng Niệm Phật, phải hâm mộ cảnh Cực Lạc y báo, chánh báo vui đẹp trang nghiêm, mong mỏi cầu về như con thơ nhớ mẹ, như lữ khách tưởng nghĩ trở lại quê xưa.


Ba điểm Tín, Nguyện, Hạnh trên tuy giải thích riêng từng phần, song thật ra cả ba đều liên quan hỗ trợ lẫn nhau. Như cái đảnh có ba chân, nếu thiếu một phải sụp đổ tất cả vậy.

 

 

BÀI SỐ 19

 

Ẩn tu tế độ chẳng quên lòng !

BI, TRÍ đôi đường phải suốt thông

Y sĩ nhân tâm dù đã sẳn

Còn rành nhân thuật mới thành công !

 

 

NHƯ Ý : Muốn thực hiện lòng nhân ái, tất phải có trước nhân ái  HOÀN BỊ,  ví như Y BÁC SĨ tuy có tâm cứu đời, nhưng về Y THUẬT phải rành rẽ chắc chắn,  mới khỏi lầm lẫn làm CHẾT người, trái vi LÒNG NHÂN của mình.

Người tu PHẬT cũng thế, muốn thực hiện TỪ BI, phải có đủ TRÍ HUỆ (PHƯƠNG-TIỆN TÙY CƠ) muốn cứu độ chúng sanh trước phải CHỨNG vô-sanh.


 

Tiết 41 - PHẢI DIỆT NIỆM BUỒN CHÁN

 

Người hoài bão tâm thương đời, hay kẻ có lòng lo đạo, trên đường chí nguyện thường thường phải trải qua ba giai đoạn.

 

Giai đoạn thứ nhứt là tâm nhiệt THÀNH sốt sắng.

 

Giai đoạn thứ hai là niệm buồn rầu CHÁN nản.

 

Giai đoạn thứ ba là lòng BI TRÍ tùy cơ.

 

Nhưng thông thường, những vị hữu tâm ấy hay bỏ cuộc và tiêu tán chí niệm ở đoạn hai, ít ai đi đến đoạn ba.

 

Vượt đoạn hai để đi đến đoạn ba là người có tâm BI TRÍ rộng lớn, như con thần LONG khi bay lên mây xanh, lúc ẩn nơi lòng biển cả. Nhà Nho gọi điều này là: "dụng chi tắt hành, xả chi tắc tàng."

 

Đây là ý nói: "Bậc chân nho đời hữu đạo thì đem đạo LƯU HÀNH, đời vô đạo lại lui về ở ẨN." Như đức Khổng Tử khi đem đạo thánh hiền truyền hóa, các vua thời Đông Châu không ai chấp nhận, Ngài lui về viết sách dạy học trò, chí thương lo cứu đời không khi nào BỊ thối giảm.

 

Kẻ chưa thấu hiểu thời tiết cơ duyên, chưa suốt được đạo lý này, thường hay chán buồn bi phẫn!

 

( Niệm Phật Thập Yếu)

 

Kinh Duy Ma cũng nói:

 

 “Chính bịnh của mình còn không tự cứu được, đâu có thể cứu được bịnh cho kẻ khác.”

 

Luận Trí Độ cũng nói:

 

 “Ví như hai người, mỗi kẻ đều có thân nhân bị nước lôi cuốn; một người tánh gấp nhảy ngay xuống nước để cứu vớt, nhưng vì thiếu phương tiện nên cả hai đều bị đắm chìm. Một người sáng tỉnh hơn vội chạy đến lấy thuyền bơi ra cứu vớt, nên cả hai đều không bị nạn trầm nịch.”

 

Bậc Bồ Tát mới phát tâm vì chưa đủ nhẫn LỰC nên không thể cứu chúng sanh, cũng như người trước. Những vị Bồ Tát thường gần gũi Phật chứng được VÔ-SANH Nhẫn, mới có thể nhập thế và cứu độ vô lượng chúng sanh cũng như người sau.

 

Như trẻ thơ không nên rời mẹ, nếu rời mẹ thì hoặc rơi vào hầm giếng, té xuống sông đầm, hoặc đói khát mà chết. Lại như chim non chưa đủ lông cánh, chỉ có thể nhảy chuyền theo cành cây; đợi chừng nào lông cánh đầy đủ, mới có thể bay xa, thong thả vô ngại. Phàm phu không nhẫn lực, chỉ nên chuyên niệm Phật A Di Đà cho được nhất tâm, đợi khi tịnh nghiệp thành tựu, lúc lâm chung sẽ được Phật tiếp dẫn vãng sanh, quyết định không nghi.

 

Khi thấy Đức A Di Đà chứng quả Vô Sanh rồi, chừng ấy sẽ cỡi thuyền Pháp Nhẫn vào biển luân hồi cứu vớt chúng sanh, mặc ý làm vô biên Phật sự.

 

Cho nên bậc bi tâm hành giả, như muốn giáo hóa nơi địa ngục, vào biển trầm luân, nên chú ý đến nhân duyên cầu sanh Tịnh Độ. Điều nầy Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận gọi là Dị Hành Đạo.

 

( Tịnh Độ Thập Nghi Luận)

 

 

 KINH NIỆM PHẬT BA LA MẬT

(PHÁT NGUYỆN NIỆM PHẬT THEO TRƯỞNG GIẢ DIỆU NGUYỆT)

 

NGHI THỨC

 

NIỆM PHẬT 

ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN




Đức Phật Thế-Tôn, Chánh Biến Tri
Tướng hảo đoan nghiêm đều viên mãn,
Rủ lòng đại từ bi vô hạn,
Mở bày đại pháp cứu quần mê.


NIỆM PHẬT hiện tiền đắc Phật tướng,
Thâm nhập cảnh giới bất tư nghị.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Quyết định một lòng xưng niệm Phật,
Hồng danh chứa nhóm vô lượng nghĩa,
Lợi lạc muôn ức chúng hữu tình.
Đức Phật Thế-Tôn, đấng Vô-thượng
Tri kiến, giác ngộ đều quang minh,
Rắc rải tuệ nhật khắp mười phương,
Rưới trận mưa pháp như Cam lộ.


NIỆM PHẬT vãng sanh cõi Cực-Lạc,
An nhiên chứng đắc Vô-Sanh-Nhẫn.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Gìn giữ thân tâm bằng Phật hiệu,
Hồng danh tỏ ngộ Chân Như Tánh,
Dẫn dắt chúng sanh vào Tam-muội.
Đức Phật Như-Lai đấng Bất-động
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng đoạn thường,
Xa lìa chấp hữu hoặc chấp vô,
Tự tại chỉ bày phương tiện lực.


NIỆM PHẬT  an trụ nơi bản giác,
Tùy nghi hòa hợp với tánh Không.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Trang nghiêm tự thân bằng niệm Phật,
Hồng danh hiển phát Hư-Không-Tạng,
Tức thời thẳng vào Viên-giác-tánh.
Con nay xưng tán Đại Đạo-Sư,
Khen ngợi hồng danh vô lượng lực.


Nguyện đem hồi hướng khắp chúng sanh,
Mong cầu hết thảy cùng niệm Phật.


Nam-mô A DI ĐÀ Phật

(Tùy ý, hoặc 1 ngàn câu trở lên)

  

Nam-mô ÐẠI HẠNH Phổ-hiền Bồ-tát 

( 3 lần)

 

BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN

ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI

 

NAM-MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA.

A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA. 

( 21 lần)

 

Nam-mô ÐẠI BI Quán-Thế-Âm Bồ-tát

( 3 lần)

 

VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHƠN NGÔN

 

NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA. 

NAM MÔ A RỊ DA.  A MI TÁ BÀ DA.  TÁT THA GA TÁ DA.  A RA HA TI.  SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA.  TÁT DA THA. 

UM !  A MI RỊ TI.  A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ GA BÊ.  A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ.  A MI RỊ TÁ SI TÊ.  A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.

A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ.  A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI.  A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI.  SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI.  SẠT VA MA CA LI.  SA KHẤT SÁ DU CA LI.  SÓA HA.


UM! BÚT RUM!  HÙM!

 ( 21 lần)

 

[

 

CHƠN NGÔN LÀ  LỜI NÓI CỦA  PHẬT, BỒ-TÁT hay AN LA HÁN... ĐÃ NHIỀU ĐỜI NHIỀU KIẾP KHÔNG NÓI LỜI VỌNG-NGỮ.

Cũng như Bồ-tát QUÁN THẾ ÂM trong KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI chẳng hạn:

 

“Nếu trong đời vị lai, TÔI (Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM) có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần CHÚ NÀY (chú Đại-Bi), thì xin khiến cho thân tôi liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt.

Khi tôi phát thệ rồi, thì ngàn tay ngàn mắt đều hiện đủ nơi thân...”( ĐÂY LÀ CHƠN NGÔN).

 

 UM! BÚT RUM!  HÙM!  "NHỨT-TỰ CHUYỂN-LUÂN VƯƠNG THẦN CHÚ", được phối-hợp vào CHÚ VÔ-LƯỢNG-THỌ này có công-năng làm cho các CHƠN-NGÔN này (nói riêng) và các chơn ngôn khác  mau được  HIỆU-LỰC và CHÓNG thành-tựu.

 

Lại  CHUYÊN NIỆM “ Nam Mô A Di Đà Phật”. Nghĩa là ngoài thời khóa kể trên, trong một ngày đêm, khi nào có thể liền nhiếp THÂN TÂM vào danh hiệu “NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT”, lâu ngày sẽ được NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT, mới biết diệu dụng của câu niệm phật “BẤT KHẢ TƯ NGHỊ”, không thể dùng văn tự ngôn ngữ SUY NGHĨ mà bàn luận biết được.  Cho nên, qúi vị phải hành trì cho thiết thật.

 

Lặng ngồi chốn tĩnh lâu
Trăng sáng, gió canh thâu!
Bát-Nhã hương lòng nhẹ.
Lăng-Già niệm ý sâu


Phật, Tâm chung một vẻ
Thiền, Tịnh chẳng hai mầu
Ngưng chuỗi, thầm riêng hỏi
Hoa đêm điểm điểm đầu...



( Niệm Phật Phải Hành Trì Cho Thiết Thật)

 

 

Tuy nhiên, nếu qúi vị thích chuyên trì “CHÚ ĐỊA BI”, chuyên trì “ 1 THỦ NHÃN”, chuyên “ THAM-THIỀN”, chuyên “TỤNG KINH”… thì cũng phải hành như “CHUYÊN” NIỆM PHẬT vậy).

]

 

Chuyên tụng một phẩm Kinh

Một Chân-Ngôn, hiệu Phật

Thì thành tựu các nguyện

Thỏa mãn các mong cầu

Chỉ sợ người không tin

 Hoặc tin mà không sâu

Lại ngại không thực hành

Hoặc hành không bền lâu

Hoặc tuy hành bền lâu

Không chí tâm khẩn cầu

 

Chí tâm là không vọng

Trì niệm quên thân tâm

Lặng lẽ dứt phân biệt

Không trong, ngoài, người, cảnh

Khi đi, đứng, thức, ngủ

Chẳng bỏ câu trì niệm

Lúc hưỡn, gấp, an, nguy

Cũng vững vàng trì niệm

Cho đến khi sắp chết

Vẫn như thế trì niệm

Ðắc, thất đều do đây

Cần chi hỏi tri thức

 

Không hành như trên đây

Phật cũng khó cứu vớt

Huống nữa là phàm Tăng

Giúp ích được gì đâu

 

Nhớ lời Cổ Ðức dạy:

 

“Ta có một bí quyết

Khẩn thiết khuyên bảo nhau

Là hết lòng THÀNH kính

Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”

Hãy ghi nhớ lời nầy

Lắng lòng suy gẫm sâu.

 

( PHÁP YẾU TU HÀNH)

 

 

TRIỆT NGỘ ÐẠI SƯ

BÀI KỆ THỨ 6

 

Một Câu A Di Đà
Khi lâm chung Phật hiện
Tứ biện khó thân tuyên
Sáu phương đồng khen ngợi.

Nhứt cú Di Đà
Lâm chung Phật hiện
Tứ biện thân tuyên
Lục phương cộng tán.



LƯỢC GIẢI

Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm


Liên Trì Đại Sư nói: “Một câu A Di Đà gồm: Đại thiện căn, đại phương tiện, đại phước đức, đại trí huệ, đại giải thoát, đại từ bi. Câu niệm Phật đã có nhiều công đức lớn như thế, nên người niệm Phật mau diệt nhiều tội chướng, mau sanh nhiều phước huệ, khi lâm chung quyết định Phật sẽ hiện thân tiếp dẫn sanh về Cực Lạc.

Cho nên chư Phật sáu phương hiện ra tướng lưỡi rộng dài, tiêu biểu cho sự tuyên thuyết pháp môn tối thượng thừa, mà ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của Tịnh độ.

Đã là pháp môn công đức không thể nghĩ bàn; thì đức Thích Ca Mâu Ni và chư Phật dù đã dùng Tứ biện tài là: Từ vô ngại biện, Nghĩa vô ngại biện, Pháp vô ngại biện và Lạc thuyết vô ngại biện, cũng không thể tuyên dương ngợi khen cho hết được.




HOÀNG PHỦ SĨ PHƯƠNG

 

Hoàng Phủ Sĩ Phương, tự Tử Nghi, người ở Tiền Đường, gia thế chuyên nghề Y SĨ. Lúc trẻ tuổi Sĩ Phương đọc quyển Long Thơ Tịnh Độ Văn, giật mình tỉnh ngộ, quy hướng về Phật pháp. Từ đó ông cùng Tư Tề đại sư làm bạn phương ngoại, đồng tu tịnh nghiệp. Bình thời cư sĩ viết về Tịnh độ rất nhiều, nay xin lược trích vài đoạn thiết yếu như sau:

 

“…Môn Tịnh độ rất cao siêu mầu nhiệm, cũng rất giản dị dễ thật hành. Nếu kẻ nào phát tâm trì danh, cầu sanh về Cực Lạc, thì không luận sang hèn, trí ngu, nam nữ, trẻ già, đều được toại nguyện. Nhưng tiếc vì hàng phàm phu phần đông mê tối, căn trí thấp kém, nên sanh nhiều niệm do dự nghi nan.

 

Đại khái như nghi: mình từ kiếp trước đến đời nầy, tạo nhiều nghiệp bất thiện, công phu niệm Phật chẳng bao nhiêu, mà cảnh Tịnh độ lại quá mầu đẹp, e không đủ phước để vãng sanh.

Họ không biết tánh của tội chướng từ vô thỉ kiếp đến nay vốn hư giả. Nếu chuyên trì danh hiệu Phật, tất sẽ mau tiêu trừ những tội nặng trong nhiều kiếp sống chết. Ví như mây đen dù dầy đặc, sóng gió lớn thổi liền tan. Và như gian nhà tuy tối, nhưng đèn đốt lên liền sáng.

Mây đen với cảnh tối tăm vốn hư giả, nếu biết dùng gió mát và ánh sáng của tâm thanh tịnh mà niệm Phật, tất cảnh mây đen cùng tối tăm ấy sẽ tiêu trừ. Lại ví như tàng đá dù to, được thuyền chở có thể sang đến bờ bên kia.

Và tội lỗi dù nặng, quyền lực của hoàng ân có thể tha bổng. SỨC tu hành của mình và SỨC nguyện của Phật đều rộng lớn khó nghĩ bàn, đại để cũng như thế.

…Kẻ học Phật nông cạn, thường đọa lạc vào cái “KHÔNG’ thiên lệch, chấp theo lý mà bỏ sự. Học cho rằng cõi Tịnh độ là quyền thuyết, tâm THANH TỊNH tức là Tịnh độ. Họ chưa hiểu các kinh Đại thừa đều nói ở mười phương có hằng sa vô biên cõi Phật.

Tâm cùng các cõi chẳng phải một, chẳng phải khác, các cõi DO tâm sanh, một tâm đủ các cõi. Cảnh diệu hữu mười phương tức là chân không, chân không là diệu hữu. Cõi Cực Lạc do công đức của tịnh tâm tạo thành, cõi TA-BÀ do nghiệp TRƯỢC ÁC của uế tâm hiển lộ.

Cảnh Cực Lạc phương Tây cũng hiện hữu như cảnh Ta Bà phương đông, đều ở trong thể rộng lớn của chân tâm, và cũng đều là hư danh, giả huyễn. Nghiệp ái luyến nặng thì đọa ở Ta Bà, tâm niệm Phật chuyên tất sanh về Cực Lạc.

Tâm có nhơ sạch, thì tùy theo chỗ ứng hợp của nó mà sanh về. Như vầng trăng soi khắp các dòng nước, nước trong thì trăng tỏ, nước đục tất trăng mờ. Trăng ví như tâm bản lai, nước ví như các thế giới.

Một tâm bao hàm muôn cõi, đừng nghĩ là có hay không, hư hoặc thật, bởi vì sự cùng lý xưa nay vốn viên dung không ngại…

Cư sĩ có làm mười hai bài theo điệu khúc để khuyến tấn người niệm Phật, gọi là Thập nhị thời tụng. Các bài ấy như sau:

 

Sáng sớm giờ Dần(3 AM-5 AM)


Thường thời khóa tụng phải chuyên cần
Một khắc công phu môn Thập niệm
Hay siêu sanh tử thoát trầm luân.
Pháp ít có
Diệu khôn phân!
Vãng sanh toàn bởi Tin làm nhân
Nếu như tin nhận không nghi hoặc
Là kẻ duyên sen đã có phần!

 

Nhựt hiện giờ Mão (5 AM-7 AM)


Sương sớm dễ tan, người dễ lão.
Thử đem tính lại bạn quen thân
Mồ xanh nhiều kẻ chôn phương thảo
Sớm tu hành
Mong đảm bảo!
Tất bóng trân châu giờ quí báu!
Khi nhàn chẳng chịu niệm Di Đà
Sao khỏi lâm chung nhiều áo não!

 

Nhựt lên giờ Thìn (7 AM-9 AM)


Ở đời lựa xóm tựa người lành.
Chớ hướng Trời, Người cầu phước báo
Phước tan sáu nẻo lạc loài thân!
Sanh Đao Lợi
Làm Chuyển Luân
Tạm thời khoái lạc phải đâu chân?
Khắp khuyên niệm Phật về Tây cảnh
Vĩnh viễn tiêu đao thoát tục trần!

 

Bóng cao giờ Tỵ (9 AM-11 AM)


Nấu cơm khói khắp nhà quyền quý.
Mình ăn khỏi đói chính mình no
Mình tự tu trì khỏi sanh tử.
Đạo cảm thông
Mâu vô tỷ!
Con mẹ nhớ nhau rồi toại chí
Đem hết thăn tâm thấy Nguyện vương.
Mười vạn tấc gang trong ý nghĩ

 

Đứng bóng giờ Ngọ (11 AM-1 PM)


Phật nhựt khắp nơi đều sáng tỏ,
Đường ngay bằng thẳng ít người đi
Cứ lối quanh co tìm chịu khổ!
Không nói Thiền
Chẳng sánh Tổ,
Niệm Phật mỗi câu hằng tự chủ
Thân hình tuy chửa thoát Ta Bà
Thức thần đã ở Liên hoa độ,

 

Chênh bóng giờ Mùi (1 PM-3 PM)


Thân nhơ, cảnh ác có chi vui?
Nổi chìm lên xuống đà bao kiếp
Trong đục khôn phân chịu lấp vùi!
Phải mạnh tiến
Chớ nhác lui!
Vỡ thường chợt đến cũng tay xuôi
Lông mày chữ “Chết” treo ngang mãi
Niệm Phật chừng ni mới biết mùi?

 

Xế bóng giờ Thân (3 PM-5 PM)


Thương nỗi kiếp sinh mãi chuyển vần!
Thân nầy chẳng tính đời nay độ
Còn đợi khi nào mới độ thân?
Tu kịp lúc
Chớ hẹn lần
Lâu dài ác đạo dễ trầm luân!
Ngàn Phật tuy thương khôn cứu vớt
Trần sa kiếp đọa khổ muôn phần,

 

Nhựt lặn giờ Dậu (5 PM-7 PM)


Tàn dương sắp tắt màn đêm rủ
Tử sanh việc lớn biết chăng ai?
Kẻ ngu tầm mắt nhìn gần gũi,
Luyến tiền tài
Thích trà rượu
Dong ruổi đông tây đâu biết đủ?
Bôn ba chẳng rảnh niệm Di Đà
Già chết kề bên đành thúc thủ!

 

Hoàng hôn giờ Tuất (7 PM-9 PM)


Dĩa đèn le lói soi u thất
Lên giường từ biệt dép cùng giày
Hồn mộng mê mờ tối như mực
Gẫm thân người
Thương dễ mất!
Muốn thoát luân hồi mau niệm Phật
Vô biên tội chướng một thời tiêu
Phật huệ sáng như ngàn mật nhựt

 

Cảnh yên giờ Hợi (9 PM-11 PM)


Danh lợi sang giàu đâu vẫn mãi?
Giấc đẹp hoàng lương chửa tỉnh mơ
Ngàn năm ước tính dường si dại?
Chút dần dà
Thành trễ nải!
Hơi thở chẳng vào nhiều kiếp hối!
Luống phụ Tây phương đấng Nguyện vương
Tay vàng chờ đón ân sơn hải!

 

Nửa đem giờ Tý (11 PM-1 AM)


Đôi cõi sạch dơ còn mộng mị
Lò khổ Ta Bà chẳng luyện nung
Đâu tắt lừa lòng chán sanh tử?
Biết chán lìa
Phải dừng nghỉ
Cảnh đẹp Liên bang vui khó ví!
Não phiền trước mắt bởi từ đâu?
Nẻo sáng trời Tãy mau liệu lý.

 

Gà gáy giờ Sửu (1 AM-3 AM)

 


Đã quyết về Tây nên khéo hiểu.
Cảnh khổ là duyên giúp tiến tu
Miệng niệm tâm nghe rành Phật hiệu
Gác dở hay
Quên đủ thiếu!
An lòng biết đủ tùy duyên liệu
Hoa sen đâu mọc ở gò cao
Trong bùn sắc ngọc hương thanh nhiễu!

 

Cư sĩ niệm Phật rất tinh tấn. Về sau ẨN TU, không biết sự lâm chung như thế nào?

 

 

BÀI SỐ 20

 

Ẩn tu chi quản nệ công-lao

Mà chẳng tuyên dương tiếng Hải-trào

Sông lớn khơi nguồn từ núi thẳm

Xuống trần CÀNG ĐỤC biết làm sao ?

 

NHƯ Ý : Con SÔNG rộng dài càng chảy xuống thấp, lại càng bị các con sông RẠCH nhỏ khác, đổ dồn lại làm cho nó dẫn đục, lớp người sau sau đạo Đức càng kém người trước trước, trong thời mạc hậu các bậc thánh hiền đều ẨN TÍCH, chỉ độ những kẻ hữu duyên, điều này đức PHẬT đã nói trong KINH mà hành TU-SĨ cũng phải ý thức mới khỏi bị MA nạn.

 

 

Niệm Phật

 

Phải Khắc Kỳ Cầu Chứng Nghiệm

 

 

Sức tu của người thời nay, phần nhiều bị Phiền Não ma hoặc Ngoại ma phá hoại, chưa đủ để cho THIÊN MA phải ra tay. Loại ma này chỉ đến với những vị tu cao. Nếu Thiên ma quyết phá, những vị sức tu tầm thường khó có hy vọng thoát khỏi.

 

Trong KINH LĂNG NGHIÊM, vì thương đường tu nhiều hiểm nạn, đức Phật khuyên các hành giả tham thiền nên kiêm trì MẬT CHÚ, để được nhờ thần lực gia hộ, thoát khỏi nạn ma thành tựu chánh định.

 

Ấn Quang đại sư đã bảo:

 

"Mới xem qua, dường như Kinh Lăng Nghiêm khác quan điểm với Tịnh Độ, nhưng xét nghĩ sâu mới thấy kinh này trong vô hình đã khen ngợi tuyên dương Tịnh Độ. Tại sao thế?

Bởi bậc đã chứng đệ tam thánh quả A NA HÀM, còn có thể bị ma cảnh làm cho thối đọa; thì sự niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ càng nổi bật thêm tánh cách trọng yếu, trong ánh sáng NHIẾP HỘ của đức A DI ĐÀ không còn nạn ma."

 

 

ĐẲNG GIÁC

 

 

Như-lai ngược dòng trở lại, vị Bồ-tát đó thuận dòng đi tới, giác-ngộ vào chỗ giao-tiếp với nhau; gọi là Đẳng-giác.

 

[

 

ĐẲNG-GIÁC là sự giác ngộ đồng với CHƯ PHẬT. 12 CHỦNG LOẠI CHÚNG-SANH thì hướng tới QỦA PHẬT, còn CHƯ PHẬT thì hướng tới chúng sanh để HỘ NIỆM, làm cho chúng sanh PHÁT BỒ ĐỀ TÂM, tu hành được sự giác ngộ như PHẬT; thì gọi là ĐẲNG-GIÁC BỒ-TÁT.

 

]

 

A-nan, từ tâm Càn-huệ đến Đẳng-giác rồi, giác đó mới bắt-đầu được Sơ-càn-huệ-địa trong tâm Kim-Cang.

 

]

 

“Càn-Huệ-Địa” nghĩa là “ tình dục khô cạn (Càn), chỉ thuần còn Trí-huệ (Huệ).” ĐÂY LÀ “ĐỊA-VỊ” TU CHỨNG ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI TU-THIỀN (Địa).

 

Từ Càn-huệ địa đến Đẳng-giác rồi, vì còn chấp mình LÀ ĐẲNG-GIÁC BỒ-TÁT, NÊN CÒN CÓ VI-TẾ SANH-TƯỚNG VÔ-MINH, phải dùng “TÂM KIM-CANG” để phá trừ tất cả sở đắc, như là SƠ-CÀN-HUỆ-ĐỊA trong TÂM KIM-CANG, THẬP TÍN trong TÂM KIM-CANG…ĐẲNG-GIÁC trong TÂM KIM-CANG. CHO NÊN, GỌI LÀ SƠ-CÀN-HUỆ-ĐỊA TRONG TÂM KIM-CANG.

 

]

 

DIỆU GIÁC

 

 

Như vậy lớp-lớp tu đơn, tu kép 12 vị mới cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.

 

 

[

 

 

Tu Đơn, tu kép 12 vị :

 

    1) CÀN HUỆ ĐỊA        

    2) THẬP TÍN                          

    3) THẬP TRỤ

    4) THẬP HẠNH

    5) THẬP HỒI HƯỚNG

    6) NOÃN

    7) ĐẢNH

    8NHẪN

    9) THẾ ĐỆ NHỨT

   10) THẬP ĐỊA

   11) ĐẲNG-GIÁC

   12) TÂM KIM CANG

 

 

( dùng TÂM KIM CANG phá trừ từng phần VÔ MINH cho đến VI TẾ VÔ MINH mới cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.)

 

 

]

 

Các thứ địa ấy, đều lấy trí Kim-cang quán-sát mười thứ ví-dụ như-huyễn sâu-xa, trong Xa-ma-tha, dùng phép Tỳ-bà-xá-na của các đức Như-lai mà thanh-tịnh tu-chứng, lần-lượt đi sâu vào.

 

[

 

Các địa vị ấy, đều dùng “TÂM KIM-CANG” hay “TRÍ KIM-CANG” QUÁN LÝ “NHƯ-HUYỄN SÂU-XA”, tức là CHỈ và QUÁN KHÔNG HAI, ĐỊNH HUỆ BẤT NHỊ mà thanh tịnh tu chứng, lần lượt đi sâu vào.




 

Dùng “TRÍ KIM-CANG” QUÁN LÝ “NHƯ-HUYỄN SÂU-XA” LÀ:

 

 

 

1. Quán NGƯỜI như huyễn

2. Quán ÁNH NẮNG (DƯƠNG DIỆM) như huyễn

3. Quán TRĂNG DƯỚI NƯỚC như huyễn

4. Quán HOA ĐỐM TRONG HƯ KHÔNG như huyễn

5. Quán TIẾNG VANG TRONG HANG ĐỘNG như huyễn

6. Quán THÀNH CÀN THÁT BÀ ( LÀM BẰNG HƠI SƯƠNG TRONG BIỂN) như huyễn

7. Quán MỘNG như huyễn

8. Quán BÓNG như huyễn

9. Quán TƯỢNG TRONG GƯƠNG như huyễn

10. Quán ẢO HÓA như huyễn.

 

]

 

Thân như bọt

Bể thương tang

Chìm nổi kiếp mênh mang!

Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn

Chỉ nương Vô Lượng Quang.

 

Trời niệm tâm

Núi kiên quyết

Vọng tình xin cách tuyệt

Dần dà khó thể nhập Liên Bang

Khi nao thật được nhàn?

 

 

Thân như bọt

Bể thương tang

Chìm nổi kiếp mênh mang!

Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn

Chỉ nương Vô Lượng Quang.

 

 

 

A-nan, như thế, đều dùng ba tiệm-thứ tăng-tiến, nên khéo thành-tựu 55 vị trong đường Bồ-đề chân-thậtLàm cái quán như vậy, gọi là chính-quán; nếu quán cách khác, gọi là tà-quán".

 

 

]

 

Muốn thành tựu 55 vị trong đường Bồ-đề chân thật, trước phải tu 3 TIỆM THỨ TĂNG TIẾN là:

 

    1) Không ăn NGŨ VỊ TÂN

    2)PHẢI NGHIÊM TRÌ GIỚI LUẬT

    3)PHẢI NGĂN CHẶN VỌNG KHỞI CỦA HIỆN NGHIỆP PHÁT SANH

 

KẾ TIẾP dùng TÂM KIM CANG quán LÝ NHƯ HUYỄN, để thành tựu 55 địa vị tu chứng.

 

 

 

Năm mươi lăm vị trong đường Bồ đề ( vì Càn-huệ-địa là con đường mà chẳng CHÂN-THẬT, còn DIỆU-GIÁC thì CHƠN THẬT mà chẳng phải là con đường, ĐÂY LÀ QỦA PHẬT. cho nên, chỉ có 55 vị trong đường Bồ-đề chân-thật mà thôi.)

 

 

1. Thập tín [10]

2. Thập trụ [10]

3. Thập hạnh [10]

4. Thập hồi hướng [10]

5. Tứ gia hạnh [4]

6. Thập địa [10]

7. Đẳng giác [1]




Tuy biết con đường CHƠN THẬT chứng nhập CHƠN TÂM, nhưng trải qua các địa vị tu chứng  gặp phải 50 loại ma chướng cùng với tập khí nhiều đời khó đoạn trừ, nếu MÊ MỜ CHƠN TÁNH,  tự nghĩ rằng mình đã CHỨNG THÁNH, THÀNH PHẬT thì sẽ đi vào  TÀ MA NGOẠI ĐẠO, khó CÓ NGÀY quây đầu trở lại theo CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT.



Cho nên, PHẬT dạy phải trì CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM”, thì không bị những TẬP KHÍ NHIỀU ĐỜI cùng MA-CHƯỚNG đến phá HOẠI CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT THẲNG đến qủa DIỆU-GIÁC của CHƯ PHẬT.

 

 

LĂNG  NGHIÊM THẦN CHÚ  có 5 hội:

 

HỘI THỨ NHẤT

TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI

( VAIROCANA SATTHATA PATTRAIN )

 

Đây là “TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI”, có nghĩa: Những lời bí mật của 12 pháp môn đoạn dưới đều từ nơi PHÁP-THÂN hay TỲ LÔ CHÂN TÁNH LƯU LỘ RA.

 

HỘI THỨ HAI

THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI

( SAKYAMUNI SATATHA PRASASITA)

 

Đây là “THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI” hay LĂNG NGHIÊM GIÁO CHỦ HỘI, có nghĩa: Năm bộ Tam-Bảo trong thần chú gồm chư DƯỢC-XOA, THẦN-VƯƠNG, KIM-CANG MẬT-TÍCH, cho đến tất cả Pháp môn, đều do đức Phật  Thích Ca và chư Phật THỊ HIỆN RA.

 

HỘI THỨ BA

QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI

(AVALOKITE SHVARAYA SUPARANA MAHA PAYUH PATTAYA)

 

Đây là “QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI”. Bốn môn trong đây đều là do đức Quán-Thế-Âm trên đồng dưới hiệp, VIÊN-THÔNG TU CHỨNG chẳng thể nghĩ bàn, đức mầu VÔ-TÁC thành tựu một cách tự-tại.

 

HỘI THỨ TƯ

KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI

(VAJRA PANIYA SATTATHA PATTRA)

 

Đây là “KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI”, do HỎA-THỦ-KIM-CANG BỒ-TÁT KHAI HIỂN, nên chư Kim-Cang-Tạng-Vương sau khi nghe niệm chú, đều dùng sắc lịnh để hộ vệ, đối với kẻ ác thì chiết phục, với kẻ thiện thì nhiếp thâu.

 

Chư Kim-Cang Mật-Tích cũng đều hiện phần bản tích ứng hóa của mình.

 

HỘI THỨ NĂM

VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI

(MANJUSRI SATTVA SITATA PATTRAI)

 

Đây là “VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI”. Đức Văn-Thù hay Mạn-Thù-Thất-Lỵ sau khi lãnh chú đến che chở hộ trì rồi thay đại chúng thưa hỏi pháp môn tu. Nếu chẳng phải là bậc đại trí đức thì không thể thông hiểu và hoằng truyền pháp môn nầy.

Năm hội trên tượng trưng cho NGŨ-TRÍ ĐẢNH của Tỳ Lô Giá Na. Hiệp cả năm hội lại gọi chung là PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ CỨU CÁNH KIÊN CỐ ĐẠI BẠCH TÁN CÁI THẦN CHÚ.


(VSNISA JVALA SURAM GAMA MAHA SITATA PATTRAM)

 

CỰC LẠC DU LÃM KÝ

(Hòa Thượng Thích THIỀN-TÂM)

 

 

PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ

MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA

THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ

 

 

PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ là trên ĐẢNH PHẬT phóng ra 10 đạo hòa QUANG bách bảo và TỤ lại trên ĐẢNH CHÚNG-SANH trong Pháp Giới, khi tụng Thần Chú Thủ-Lăng Nghiêm.

Đây là Hóa Thân Phật dùng THẦN CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM để  “ẤN-TÂM” cho Qúy-vị sẽ thành Phật trong vị lai.

 

ĐẠI (Lớn) là “THỂ” của  Chú Lăng Nghiêm, không đối đãi phân biệt, biến khắp tận cùng hư không pháp giới, nên gọi là MA HA.

 

BẠCH (Trắng)  là “TƯỚNG” của Chú Lăng-Nghiêm, thanh tịnh không ô nhiễm, nên gọi là TÁT ĐÁT ĐA. 

 

TÁN CÁI (Tàng Lọng)  là “DỤNG” của Chú Lăng Nghiêm, có khả năng che chở, bảo hộ, TRUỞNG DƯỠNG THIỆN CĂN,  TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG TRONG VÔ LƯỢNG KIẾP, KHÔNG TRẢI QUA 3 A-TĂNG KỲ, MÀ QÚY VỊ  CŨNG CHỨNG ĐƯỢC PHÁP THÂN, nên gọi là BÁT ĐÁT RA.

 

CỨU CÁNH KIÊN CỐ   THỦ LĂNG NGHIÊM ĐẠI ĐỊNH, định này là VUA trong các định.

 

THẦN  là thần diệu linh thông, khó mà suy lường được.

 

CHÚ là khi qúy vị TỤNG , thì có công năng PHÁ TÀ LẬP CHÁNH, tiêu trừ nghiệp ác, phát sanh phước đức căn lành.

 

 

TRÊN ĐẢNH CỦA PHẬT TỲ LÔ GIÁ NA (PHẬT PHÁP-THÂN)  LƯU LỘ RA  NGŨ-TRÍ. CHO NÊN, GỌI  LÀ “NGŨ-TRÍ” ĐẢNH CỦA TỲ -LÔ-GIÁ-NA.


Thật sự, thì tấc cả PHẬT có cùng một PHÁP THÂN, bao gồm NGŨ TRÍ.



NGŨ TRÍ

 

NGŨ TRÍ là năm loại trí được trình bày theo Mật giáo. Năm trí này miêu tả tất cả những khía cạnh của Tuyệt đối, của Chân như mà con người có thể thực hiện được khi đã chuyển hoá thân tâm. Thân tâm gọi cụ thể ở đây là Ngũ uẩn, năm nhóm với năm cấu uế, phiền não  phụ thuộc là tham dục, sân, Si, hoặc vô minh, mạn và ganh ghét. Năm trí bao gồm:

 

1)      PHÁP GIỚI TRÍ 

TRÍ cùng  khắp hư không, vì dùng LƯỚI ĐẠI QUANG MINH chiếu khắp PHÁP GIỚI CHÚNG SANH. CHO NÊN, GỌI LÀ PHÁP GIỚI TRÍ. 


2)      ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ 

3)      BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ 

4)     DIỆU QUÁN SÁT TRÍ 

5)     THÀNH S TÁC TRÍ 



1.   PHÁP GIỚI TRÍ là trí siêu việt của Pháp giới, trí tột cùng. Căn cơ của trí này là Sắc uẩn cùng với Vô minh, và thuộc về Thân trong ba động cơ tạo nghiệp là Thân, khẩu, ý. Trong Mạn-đà-la thì Pháp giới trí thuộc về Đại Nhật Phật, nằm ở trung tâm.


50. ÐA THA GIÀ ĐA CU RA DA

多他伽跢俱囉耶

TATHĀGATA KULĀYA

Đức Phật Tỳ Lô Giá Na

 

2.   ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ  là trí như một tấm gương lớn, trí giúp người nhìn vạn vật với một tâm thức Vô ngã, không muốn chiếm đoạt, phân biệt đúng sai, chấp nhận vạn vật với mỗi sắc thể riêng của nó. Trí này được ví như một tấm gương vì một hạt bụi nó cũng không bỏ qua nhưng nếu hạt bụi này bay đi, gương không lưu lại dấu vết gì. Nguồn gốc của trí này là Thức uẩn cùng với tâm trạng sân hận, thuộc về ý trong ba cửa tạo nghiệp. Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc về Phật Bất Động, nằm ở phương Đông.


52. NAM-MÔ BẠT XÀ RA CU RA DA

南無跋闍囉囉耶

NAMO VAJRA KULĀYA

Đức Phật Dược Sư

 

3.   BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ  là trí giúp con người thấy rõ sự bình đẳng giữa mình và chúng sinh. Tinh thần Từ bi của đạo Phật cũng xuất phát từ trí này chứ không phải xuất phát từ ý nghĩ "tội nghiệp, đáng thương" – cách nhìn của một người "trên cơ" nhìn xuống. Người Phật tử phát triển Bồ-đề tâm, phát triển lòng từ bi vì đã nhận ra chính mình trong tất cả hoàn cảnh, tất cả chúng sinh. Nguồn gốc của trí này là Thụ uẩn cùng với tâm trạng Kiêu mạn. Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc về Phật Bảo Sanh, vị trí ở phương Nam.


53. NAM-MÔ MA NI CU RA DA

南無摩尼囉耶

NAMO MANI KULĀYA

Đức Phật Bảo Sanh


4.   DIỆU QUÁN SÁT TRÍ  là trí giúp người ta biến chuyển khả năng phân biệt, thị phi bằng trí thức bình thường thành trí huệ Bát-nhã, tuỳ cơ ứng biến, làm việc đúng thời điểm và địa điểm, không cần "dụng công." Nguồn gốc của trí này là Tưởng uẩn cùng với tâm trạng Tham dục. Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc về Phật A-di-đà, giáo chủ phương Tây.


51. NAM-MÔ BÁT ĐẦU MA CU NA DA

南無般頭摩囉耶

NAMO PADMA KULĀYA

 Đức Phật A Di Đà

 

5.   THÀNH S TÁC TRÍ  là trí giúp người hoàn thành tất cả mọi việc mà không tạo Nghiệp, đó là hành động Vô vi, xuất phát từ một tâm đã chứng ngộ được Vô ngã của chính bản thân và các Pháp Hữu vi. Nguồn gốc của trí này là Hành uẩn cùng với tâm trạng ganh ghét. Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc về Phật Bất Không Thành Tựu, giáo chủ phương Bắc.

 

373. TẦN ĐÀ RA TẦN ĐÀ RA

頻陀囉頻陀囉

VIDARA VIDARA

Đức Phật Bất Không Thành Tựu


Cách trình bày như trên thuộc về truyền thống của Kim cương thừa Tây Tạng.




  PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ

MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA

THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ



ÐỆ NHỨT

 

Nam-mô tát đát tha tô già đa da a ra ha đế tam-miệu tam-bồ-đà-tỏa.Tát đát tha Phật đà cu-tri sắc ni sam.

Nam-mô tát bà bột đà bột địa, tát đa bệ tệ.

Nam-mô tát đa nẩm tam-miệu tam-bồ-đà cu-tri nẩm. Ta xá ra bà ca tăng-già nẩm.

Nam-mô lô kê a-la-hán đa nẩm.

Nam-mô tô lô đa ba na nẩm.

Nam-mô ta yết rị đà già di nẩm.

Nam-mô lô kê tam-miệu già đa nẩm. Tam miệu già ba ra để ba đa na nẩm.

Nam-mô đề bà ly sắt nỏa.

Nam-mô tất đà da tỳ địa da đà ra ly sắt nỏa. Xá ba noa yết ra ha ta ha ta ra ma tha nẩm.

Nam-mô bạt ra ha ma ni.

Nam-mô nhơn đà ra da.

Nam-mô bà già bà đế, lô đà ra da. Ô ma bát đế, ta hê dạ da.

Nam-mô bà già bà đế.

Na ra dả noa da. Bàn-giá ma-ha tam mộ đà ra.

Nam-mô tất yết rị đa da.

Nam-mô bà già bà đế, ma ha ca ra da. Ðịa rị bác lặc na già ra. Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A địa mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị già noa.

Nam-mô tất yết rị đa da.

Nam-mô bà già bà đế. Ða tha già đa cu ra da.

Nam-mô bát đầu ma cu na da.

Nam-mô bạt xà ra cu ra da.

Nam-mô ma ni cu ra da.

Nam-mô già xà cu ra gia.

Nam-mô bà già bà đế, đế rị trà du ra tây na, ba ra ha ra noa ra xà dà, đa tha già đa da.

Nam-mô bà già bà đế.

Nam-mô a di đa bà da, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, a sô bệ da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, bệ sa xà da cu lô phệ trụ rị da, bát ra bà ra xà da, đa tha già đa da.

Nam-mô bà già bà đế, tam bổ sư bí đa, tát lân nại ra lặc xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, xá kê dã mẫu na duệ, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, lặc đác na kê đô ra xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da, đế biều nam-mô tát yết rị đa, ế đàm bà giá bà đa, tát đác tha già đô sắc ni sam, tát đác đa bác đác lam.

Nam-mô a bà ra thị đam, bác ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha, ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bạc ra bí địa da sất đà nể, a ca ra mật rị trụ, bát rị đát ra da nảnh yết rị, tát ra bà bàn đà na mục xoa ni, tát ra bà đột sắc tra đột tất phạp bát na nể phạt ra ni, giả đô ra thất đế nẫm, yết ra ha ta ha tát ra nhã xà, tỳ đa băng ta na yết rị, a sắc tra băng xá đế nẫm, na xoa sát đác ra nhã xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắc tra nẫm, ma ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết rị, tát bà xá đô lô nể bà ra nhã xà, hô lam đột tất phạp nan giá na xá ni, bí sa xá tất đác ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã xà, a bát ra thị đa cu ra ma ha bác ra thiện trì, ma ha điệp đa, ma ha đế xà, ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nể, a rị da đa ra, tỳ rị cu tri, thệ bà tỳ xà da, bạc xà ra ma lễ để, tỳ xá lô đa, bột đằng dõng ca, bạt xà ra chế hắt na a giá, ma ra chế bà bác ra chất đa, bạc xà ra thiện trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, tô ma lô ba, ma ha thuế đa, a rị da đa ra, ma ha bà ra, a bác ra, bạt xà ra thương yết ra chế bà, bạt xà ra cu ma rị, cu lam đà rị, bạt xà ra hắc tát đa giá tỳ địa gia kiền giá na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đá na, bệ lô giá na cu rị da, dạ ra thố sắc ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bạt xà ra ca na ca ba ra bà, lô xà na bạt xà ra đốn trỉ giá, thuế đa giá ca ma ra sát xa thi ba ra bà, ế đế di đế, mẫu đà ra yết noa, ta bệ ra sám, quật phạm đô, ấn thố na mạ mạ tỏa.

 

  

ÐỆ NHỊ

 

Ô hồng, rị sắt yết noa, bác lặc xá tất đa, tát đát tha già đô sắc ni sam. Hổ hồng, đô lô ung chiêm bà na. Hổ hồng, đô lô ung tất đam bà na. Hổ hồng, đô lô ung ba ra sắc địa da tam bác xá noa yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, tát bà dược xoa hắt ra sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, giả đô ra thi để nẫm, yết ra ha, ta ha tát ra nẫm, tỳ đằng băng tát na ra. Hổ hồng, đô lô ung, ra xoa, bà già phạm tát đát tha già đô sắc ni sam, ba ra điểm xà kiết rị, ma ha ta ha tát ra, bột thọ ta ha tát ra thất rị sa, cu tri ta ha tát nê đế lệ, a tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca ma ha bạt xà lô đà ra, đế rị bồ bà na, man trà na, ô hồng, ta tất đế bạc bà đô, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.

 

  

ÐỆ TAM

 

Ra xà bà dạ, chủ ra bạt dạ, a kỳ ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tát đa ra bà dạ, bà ra chước yết ra bà dạ, đột sắc xoa bà dạ, a xá nể bà dạ, a ca ra mật rị trụ bà dạ, đà ra ni bộ di kiếm ba già ba đà bà dạ, ô ra ca bà đa bà dạ, lặc xà đàng trà bà dạ, na già bà dạ, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra xoa tư yết ra ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu-bàn trà yết ra ha, bổ đơn na yết ra ha, ca tra bổ đơn na yết ra ha, tất kiền độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, hê rị bà đế yết ra ha, xã đa ha rị nẩm, yết bà ha rị nẩm, lô địa ra ha rị nẩm, mang ta ha rị nẩm, mê đà ha rị nẩm, ma xà ha rị nẩm, xà đa ha rị nữ, thị tỷ đa ha rị nẩm, tỳ đa ha rị nẩm, bà đa ha rị nẩm, a du giá ha rị nữ, chất đa ha rị nữ, đế sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẩm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, trà diễn ni hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha bát du bác đát dạ, lô đà ra hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na ra dạ noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, đát đỏa già lô trà tây hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma-ha ca ra ma đát rị già noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ca ba rị ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, xà dạ yết ra, ma độ yết ra tát bà ra tha ta đạt na hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, giả đốt ra bà kỳ nể hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ rị dương hất rị tri, nan đà kê sa ra dà noa bác đế, sách hê dạ hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na yết na xa ra bà noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, a-la-hán hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ đa ra già hất rị đởm, tỷ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, bạt xà ra ba nể, cu hê dạ, cu hê dạ, ca địa bát đế hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ra thoa vỏng, bà dà phạm, ấn thố na mạ mạ tỏa.

 

 

ÐỆ TỨ

 

Bà già phạm, tát đát đa bác đá ra, Nam-mô tý đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra bà tất phổ tra, tỳ ca tát đát đa bát đế rị, thập Phật ra thập Phật ra, đà ra đà ra, tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà. Hổ hồng. Hổ hồng, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, ta ha, hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề ha đa phấn, ba ra bà ra đà phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát bà đề bệ tệ phấn, tát bà na già tệ phấn, tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà kiền thát bà tệ phấn, tát bà bổ đơn na tệ phấn, ca tra bổ đơn na tệ phấn, tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn, tát bà đột sáp tỷ lê hất sắc đế tệ phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát bà a bá tất ma lê tệ phấn, tát bà xá ra bà noa tệ phấn, tát bà địa đế kê tệ phấn, tát bà đát ma đà kê tệ phấn, tát bà tỳ đà da ra thệ giá lê tệ phấn, xà dạ yết ra ma độ yết ra, tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn; tỳ địa dạ giá lê tệ phấn, giả đô ra phược kỳ nể tệ phấn, bạt xà ra cu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, ma ha ba ra đinh dương xoa tỳ rị tệ phấn, bạt ra xa thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra xà da phấn, ma ha ca ra dạ, ma ha mạt đát rị ca noa.

 

Nam-mô ta yết rị đa dạ phấn, tỷ sắc noa tỳ duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ phấn, a kỳ ni duệ phấn, ma ha yết rị duệ phấn, yết ra đàn trì duệ phấn, miệc đát rị duệ phấn, lao đát rị duệ phấn, giá văn trà duệ phấn, yết la ra đát rị duệ phấn, ca bác rị duệ phấn, a địa mục chất đa ca thi ma xá na, bà tư nể duệ phấn, diễn kiết chất, tát đỏa bà tỏa, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.

 

  

ÐỆ NGŨ

 

Ðột sắc tra chất đa, a mạt đát rị chất đa, ô xà ha ra, già bà ha ra, lô địa ra ha ra, ta bà ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, thị tỷ đa ha ra, bạc lược dạ ha ra, kiền đà ha ra, bố sử ba ha ra, phả ra ha ra, bà tỏa ha ra, bác ba chất đa, đột sắc tra chất đa, lao đà ra chất đa, dược xoa yết ra ha, ra sát ta yết ra ha, bế lệ đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất kiền đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, trạch khê cách trà kỳ ni yết ra ha, rị Phật đế yết ra ha, xà di ca yết ra ha, xá cu ni yết ra ha, lao đà ra nan địa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha, kiền độ ba ni yết ra ha, thập Phật ra yên ca hê ca, trụy đế dược ca, đát lệ đế dược ca, giả đột thác ca, ni đề thập phạt ra, tỷ sam ma thập phạt ra, bạc để ca, tỷ để ca, thất lệ sắt mật ca, ta nể bác đế ca, tát bà thập phạt ra, thất lô kiết đế, mạt đà bệ đạt lô chế kiếm, a ỷ lô kiềm, mục khê lô kiềm, yết rị đột lô kiềm, yết ra ha yết lam, yết na du lam, đản đa du lam, hất rị dạ du lam, mạt mạ du lam, bạt rị thất bà du lam, tỷ lật sắc tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri du lam, bạt tất đế du lam, ô lô du lam, thường già du lam, hắc tất đa du lam, bạt đà du lam, ta phòng án già bác ra trượng già du lam, bộ đa tỷ đa trà, trà kỳ ni thập bà ra, đà đột lô ca kiến đốt lô kiết tri, bà lộ đa tỳ, tát bác lô, ha lăng già, du sa đát ra, ta na yết ra, tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca, mạt ra bệ ra, kiến đa ra, a ca ra mật rị đốt đát liểm bộ ca, địa lật lặc tra, tỷ rị sắc chất ca, tát bà na cu ra, tứ dẫn già tệ yết ra, rị dược xoa, đác ra sô, mạt ra thị phệ đế sam, ta bệ sam, tất đát đa bác đát ra, ma ha bạc xà lô sắc ni sam, ma ha bác lặc trượng kỳ lam, dạ ba đột đà xá dụ xà na, biện đát lệ noa, tỳ đà da bàn đàm ca lô di, đế thù bàn đàm ca lô di, bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di, đác điệc tha.

 

Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bán ni phấn. Hổ hồng, đô lô ung phấn, ta bà ha.



Nam-mô Lăng-Nghiêm Hội-thượng Phật Bồ-tát. 

(3 lần)

  

 

Nhìn gẫm đường trần đầy khổ nhọc

Lòng tưởng Tây Phương cõi Thiên Trúc

Đầu non trăng sáng tiếng chuông ngân

Canh khuya cầm quyển Lăng Nghiêm đọc.

 

 

 

( Niệm Phật Phải Vì Thoát Sanh Tử)

 

 

MINH CHỨNG

 

Thích Minh Chứng tự Vô Trần, họ Ngụy, quê ở Cối Khê. Tánh ông thuần giản ít nói, thuở bé không thích mùi tanh của thịt cá, thường muốn xuất gia. Đến mười lăm tuổi nhân sang viếng cảnh chùa làng gần bên, ông gặp một vị lão tăng mày lớn lông mi thưa dài, mới diện kiến có cảm giác như đã quen biết nhau từ trước. Hỏi ra thì lão tăng ở non Ngũ Đài vừa đến, ông liền nương theo xin làm đệ tử. Lão tăng bảo: “Ba năm sau ngươi mới có thể xuống tóc. Hiện thời phải gắng khổ hạnh làm công quả trong chùa, và học tập các kinh điển trước”.

Từ đó Minh Chứng đến tòng lâm, làm các việc nặng nhọc, học CHÚ LĂNG NGHIÊM, mỗi ngày học thuộc lòng một chữ. Ban đêm thì lễ đức Quán Thế Âm, có khi lạy luôn tới sáng không nằm nghỉ. Trải ba năm như thế, việc tụng chú vừa xong, bỗng bị bịnh bảy ngày, cả mình đau nhức dường như thay đổi gân cốt. Khi bịnh lành trí huệ chợt mở sáng thì lão tăng ở non Ngũ Đài cũng vừa đến, vì xuống tóc, hội chúng lại, truyền cho giới Cụ túc, lại dạy trọn đời phải tụng kinh Pháp Hoa.

Minh Chứng liền giở kinh ra tụng, thấỵ thông suốt không trệ, dường như đã có học tập từ lâu. Kế tiếp tụng sang các kinh như: Hoa Nghiêm, Niết Bàn, cũng đều thông thuộc. Sư liền đến đảnh lễ lão tăng và bạch rằng: “Con nguyện suốt đời đi khất thực cúng dường thầy để báo ân đức!” Nhưng ngay đêm ấy lão tăng bỗng đi đâu mất. Vâng theo lời thầy, mỗi ngày Minh Chứng đều tụng một bộ Pháp Hoa, ngoài y bát ra không chứa để món chi, có người cúng dường liền tùy duyên thí xả. Sư vốn ít nói, ai hỏi đến chi mỉm cười mà thôi.

Nắng lại mưa qua, tu hành một mực như thế trải đúng ba chục năm. Một hôm sau khi tụng kinh xong, sư có vẻ ủ dột không vui, đệ tử hỏi duyên cớ, đáp rằng: “Ta trì tụng một đời mục đích cầu sanh Tịnh độ, nay sao còn đọa vào vòng phước báo hồng trần?” Do đó lại tinh tấn tụng niệm thêm ba năm nữa. Ngày nọ sư bỗng vỗ bàn cười lớn bảo: “Ta đã được đến thế giới hoa sen, thoát ly cõi bụi hồng, từ nay không còn bị nghiệp duyên ràng buộc!”

Hôm sau Minh Chứng liền đến chùa Vân Thê yết kiến Liên Trì đại sư. Khi trở về đến một bờ suối, sư gọi thị giả dặn: “Con hãy đi thông tin trước cho hàng đệ tử biết, ngày mai thầy sẽ vãng sanh”. Hôm sau khi các đồ đệ đã tập họp, Minh Chứng hỏi: “Hiện tại là mấy giờ?” Một vị đáp: “Vừa đến giờ ngọ!” Sư liền bảo nấu nước cho mình tắm gội, xong liền đắp y ngồi niệm Phật, rồi tụng sang danh hiệu Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, bỗng chợt nhắm mắt nín lặng.

Lúc ấy mọi người lại nghe giữa hư không có tiếng niệm: Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát, rất rành rẽ rõ ràng. Hàng đệ tử xem lại thì sư đã chắp tay viên tịch như vào thiền định, mùi hương lạ bay thơm bát ngát.

Bảy hôm sau, các đệ từ mở bảo khám ra thấy dung nghi của sư còn tươi như sống. Bấy giờ nhằm năm Vạn Lịch thứ 21 đời Minh, sư hưởng dương được năm mươi tuổi. Một đệ tử của Minh Chứng là Chơn Định, tự Tịnh Minh, cũng theo lời thầy dạy siêng năng niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ.

Ngoài ra còn kiêm lễ bái các kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, tạo tượng trai tăng, tu các khổ hạnh. Đến bảy mươi hai tuổi, sư cũng biết ngày giờ trước, ngồi day mặt về Tây niệm Phật mà hóa.

 

CỰC LẠC DU LÃM KÝ

(Hòa Thượng Thích THIỀN TÂM dịch)

 

Theo trong KINH, ở thế giới Cực-Lạc không có nam nữ phân biệt, tại sao nơi đây lại hiển hiện nhiều hài tử ?

 

Ngài đáp:

 

- Đúng như thế, ở đây không phân tướng nam nữ, ngươi hãy tự nhìn kỹ lại xem mình thế nào?

 

Bị Bồ-Tát cảnh báo, tôi kinh lạ chợt phát hiện ra mình cũng biến thành thân nữ-hài 13 tuổi, trang-phục đồng một dạng thức như các nữ-chúng kia.

 

Tôi tiếp tục hỏi với giọng đầy-kinh ngạc:

 

- Tại sao lại như thế này?

 

Đức Quán-Thế-Âm lộ vẻ từ-bi mỉm cười bảo:

 

- Nơi đây có một vị Bồ-Tát làm chủ-tể, muốn biến nam thì toàn chúng đều hóa thành nam, muốn biến nữ thì toàn chúng thành nữ. Kỳ thật, chẳng luận biến nam hay nữ, khi đã hóa sinh trong hoa sen, tức không còn thân huyết nhục, thể-chất đều là ngọc báu trong suốt, bên ngoài chỉ có tướng người, thật ra không phân nam nữ.

 

Tôi quan sát lại thân thể mình quả đúng như lời Bồ-Tát nói, không thấy da thịt, xương, gân, tủy, não, chỉ là chất ngọc thủy tinh trong trắng.

 

( Trích: Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 145)

 

Trong 48 nguyện nói được rất rõ ràng: "Ngã tác Phật thời, quốc vô phụ nữ", nếu Thế giới Cực Lạc có một “PHỤ NỮ”, vậy thì A Di Đà Phật không thể thành Phật. Sau cùng Ngài nói "nhược bất nhĩ giả, bất thủ chánh giác", Thế giới Tây Phương Cực Lạc còn có người nữ, A Di Đà Phật không thể thành Phật. A Di Đà Phật thành Phật đến nay đã mười kiếp, Ngài mỗi một nguyện đều đã thực hiện.)

 

1.- Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, “SÚC SANH” thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

...

Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch-hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hoà nhã.

 

Tiếng chim đó diễn nói những pháp như Ngũ-căn, Ngũ-lực, Thất-bồ-đề phần, Bát-thánh-đạo phần..v..v.. Chúng-sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!

 

[

 

Xá- Lợi- Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra.

 

Vì sao? Vì cõi của Đức Phật đó không có ba đường dữ.

 

Xá- Lợi- Phất! Cõi của Đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do Đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hoá làm ra đấy thôi.

 

]


Xá- Lợi- Phất! Trong cõi nước của Đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hoà chung.


Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.


Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của Đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dương ấy.

 

PHẬT THUYẾT KINH A-DI-ĐÀ

 


Comments

Popular posts from this blog