CHÁNH VĂN
11.- Ẩn tu cửa đạo trải bao năm
Kinh nghiệm nhiều phen vẫn
lạc lầm
Quen lắm lại càng thêm việc
lắm
Cung đàn Hạ-Lý, mấy tri âm
?
12.- Ẩn tu ngùi ngậm bạn chung sơ
Nối gót ra đi chẳng hẹn chờ
Ngàn dặm cố nhân hồn lẫn
vẫn
Mười năm việc cũ nửa phai
mờ !
13.- Ẩn tu ưu cảm bởi nhơn tình
Điên đảo luân thường lại
sát sinh
Khiến lắm tai trời thêm ách
nước
Vầng hồng xế bóng sắp tây
khuynh.
14.- Ẩn tu xét thấy chốn Tăng-Già
Ganh-hại thị-phi lắm bất
hoà !
Danh vị, chùa chiền tranh
đệ tử
Ưu Đàm, Lan Huệ héo mầm
hoa.
15.- Ẩn tu rõ biết chuyển cơ trời !
Nhân-quả lọc thanh đạo với
đời !
Tai biến dập dồn trăm cảnh
chết
Núi xương sông máu, thảm
đầy vơi !
GIẢNG GIẢI
BÀI SỐ 11
Ẩn tu cửa đạo trải bao năm
Kinh nghiệm nhiều phen vẫn
lạc lầm
Quen lắm lại càng thêm việc
lắm
Cung đàn Hạ-Lý, mấy tri âm
?
NHƯ Ý : Lời xưa nói: “Khúc CAO họa quả, có nghĩa khúc ĐIỆU
càng cao thì người Họa ÂM càng ít.”
Điệu DƯƠNG XƯNG BẠCH
TUYẾT, vì âm vận ôn hòa hớn hở, nên dễ họa, khúc HẠ LÝ BA NHƠN bởi âm giai dìu
dặt thăng trầm, nên rất khó họa ĐÀN; bậc chân tu vì THUẬN theo giải thoát, TRÁI
với nhân tình, nên dễ bị người hiểu lầm chê trách.
Một câu A Di Ðà
Ý chỉ diệu bao nhiêu?
Bạn tri âm thường ít
Kẻ tai gỗ riêng nhiều !
Nhứt cú Di Ðà
Ý chỉ như hà?
Tri âm thường thiểu
Mộc nhĩ thiên đa!
TRIỆT NGỘ ÐẠI SƯ
LƯỢC GIẢI
Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm
Như bài kệ trên đã dẫn, ta thấy đại khái ý chỉ của câu niệm Phật cao diệu như
thế nào! Cho nên Thành Thời Ðại Sư đã nói trong một Ðề Từ:
" Mà trong A Di
hồng danh thâm.
Nghìn muôn khôn tìm ra
tri âm!
( Cung đàn Hạ-Lý, mấy tri âm ?)
Thiên Như lòng từ soi
chân đăng.
Ðưa người mau ra vòng mê
lầm...
Ôi câu hồng danh mầu
thâm xa.
Sâu cùng chư tông làng
Thiền Na.
Buông ra thâu vào đều
như như.
Tương tư mơ đầy trời
liên hoa !"
Ðiệu đàn niệm Phật cao
siêu mầu nhiệm như thế, trừ ra bậc tri âm, chớ kẻ tai gỗ làm sao nghe thấu? Vì
thế nhiều kẻ đã lầm đánh giá Niệm Phật là pháp thấp kém chỉ để cho kẻ ngu dốt,
hạng người già cả tu hành. THẬT ĐÁNG CẢM XÓT VÌ CẢNH ÍT TRI ÂM, như
lời một bậc tiền bối đã than:
Nga nga hồ chí tại cao
sơn
Dương dương hồ ý tại lưu thủy
Ðàn Bá Nha ít kẻ tri âm
Những nghe qua xót trộm lại đau thầm
Chung Kỳ mất, đập cầm không muốn khảy!
ẤN QUANG pháp sư, một bậc
cao tăng cận đại ở Trung Hoa, cũng đã bảo:
"Thời mạt pháp đời
nay, chúng sanh nghiệp nặng tâm tạp. Nếu ngoài môn Niệm Phật mà TU các
pháp khác, nơi phần gieo trí huệ phước đức căn lành thì CÓ, nơi phần liễu
thoát luân hồi trong hiện thế thì KHÔNG.
Tuy có một vài vị cao đức
hiện những kỳ tích phi thường, song đó đều là những bậc Bồ Tát nương theo bản
NGUYỆN mà làm mô phạm để dẫn dắt chúng sanh đời mạt pháp, như trong Kinh Lăng
Nghiêm đã nói.
Nhưng các vị ấy cũng chỉ
vừa theo trình độ chúng sanh mà thị hiện NGỘ đạo chớ không phải CHỨNG đạo.
Chỉ riêng pháp môn Tịnh
Độ, tuy ít người tu chứng được Niệm Phật TAM MUỘI như khi xưa, nhưng có
thể nương theo NGUYỆN LỰC của mình và BẢN NGUYỆN của Phật A Di Đà, mà đới
nghiệp vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc. Khi về cõi ấy rồi thì không còn
luân hồi, không bị thối chuyển, lần lần tu tập cho đến lúc chứng quả
VÔ SANH."
ĐÀM LOAN
Đời Bắc Ngụy, Đàm Loan
pháp sư người ở Nhạn Môn, tỉnh Sơn Tây. Thuở niên thiếu, nhân du lãm cảnh Ngũ
Đài Sơn, thấy thần tích linh dị, ngài phát tâm xuất gia.
Về sau, trong khi đọc
kinh Đại Tập, thấy văn nghĩa sâu mầu, Pháp sư nguyện chú giải ra cho mọi người
đều thông hiểu. Nhưng sự nghiệp ấy mới được nửa chừng, ngài bỗng phát bịnh
nặng, thay thầy đổi thuốc nhiều phen. Sau khi đã tạm thuyên giảm, Pháp sư than
rằng: “Mạng người rất mong manh, cơn vô thường khó định. Ta nghe bậc thần tiên
có phép tu TRƯỜNG SANH. Có lẽ trước nên cầu pháp ấy cho thân thể được kiện
khang, sau mới hưng sùng Phật giáo!”
Nghĩ đoạn, ngài qua
Giang Nam tìm các nhà đạo học như Đào Ẩn Cư, Đạo Hoằng Cảnh, khẩn cầu
về Tiên thuật. Các vị ấy trao cho MƯỜI QUYỂN Tiên kinh. Ngài vui vẻ mang
trờ về.
Giữa đường, đến Lạc
Dương, Pháp sư gặp BỒ ĐỀ LƯU CHI Tam tạng, nhân hỏi: “Trong
đạo Phật có pháp trường sanh bất tử như Tiên kinh nầy chăng?” Lưu Chi thượng
nhơn nói: “Ở phương nầy làm gì có pháp trường sanh bất tử?
Mười quyến kinh mà ông
mang theo, nếu tu tập, chỉ có hiệu năng tạm thời không chết, KÉO DÀI mạng Sống.
Nhưng đến khi Tiên báo mãn, nghiệp lực hiện, kết cuộc vẫn xoay vần trong nẻo
luân hồi. Như vậy, có chi gọi rằng quí?
Luận về trường sanh BẤT
TỬ, kỳ thật chỉ có Phật pháp mà thôi!”
Nói xong, Tam tạng lấy
trong đãy ra quyển KINH THẬP LỤC QUÁN trao cho và bảo: “Tu học theo đây, thì
không còn luân chuyển trong sáu đường, thoát ly hẳn ba cõi. Sự vinh hư thành
bại, đường họa phước xuống lên, cũng không còn ràng buộc được. Nói về thọ
lượng, thì số kiếp như cát sông Hằng chẳng thể sánh ví bằng. Đây mới đích thật
là phép trường sanh của đấng KIM TIÊN chúng ta vậy”.
Ngài Đàm Loan nghe nói
cả mừng, tiếp nhận và cảm tạ. Sau khi tham duyệt cùng so sánh kỹ hai pho sách,
Pháp sư liền ĐỐT BỎ Tiên kinh, chuyên tu theo QUÁN KINH. Từ đó ngài quán biệt
được nghĩa sâu của pháp môn Niệm Phật, đem Thập Lục Quán kinh ra hoằng hóa.
Lại soạn văn Lễ Tịnh Độ
nối tiếp kệ văn của Tổ LONG THỌ, và trứ tác bộ VÃNG SANH LUẬN, chú truyền trong
đời. Ngụy chúa rất mến trọng, vời tới cung đình, tứ hiệu là THẦN LOAN. Kế đó,
lại sắc cho Pháp sư trụ trì ngôi Đại Già Lam tại Tinh Châu, sau thuyên chuyển
sang Huyền Trung Tự ở Phần Châu.
Niên hiệu Hưng Hòa thứ
tư, một đêm ngài đang thiền quán, bỗng thấy có vị Phạm tăng đi đến bảo: “Ta là
LONG THỌ, đã về Tịnh độ từ lâu. Vì ông ĐỒNG CHÍ, nên nay đến
thăm viếng và báo cho hay là tịnh duyên đã thành thục”.
Xuất định, Pháp sư TỰ
BIẾT đã đến kỳ vãng sanh, tập họp tăng chúng lại răn dạy và bảo:
“Nẻo luân chuyển
rất xa vời, kiếp trần lao nhiều mỏi nhọc. Sự khổ nơi địa ngục rất đáng kinh sợ,
duyên sen cõi Cực Lạc cần phải gắng tu!”
Nói xong, dạy hàng đệ tử
cao tiếng niệm Phật. Ngài bước xuống tòa, nghiêm kính day về TÂY rập đầu cúi
lạy mà viên tịch.
Lúc ấy, đại chúng thấy
tràng phan bảo cái hương hoa thơm đẹp từ Tây phương nhiều như mây bay đến. Nhạc
trời rền vang nổi giữa hư không giây lâu mới dứt. Tin đồn đến triều, vua
sắc cho dựng bia xây tháp ngài tại Văn Cốc ở miền tây Phần Châu. Dân chúng
đương thời gọi Pháp sư là Đàm Loan BỒ TÁT.
BÀI SỐ 12
Ẩn tu ngùi ngậm bạn chung
sơ
Nối gót ra đi chẳng hẹn chờ
Ngàn dặm cố nhân hồn lẫn
vẫn
Mười năm việc cũ nửa phai
mờ !
NHƯ Ý : Chung-Sơ cũng gọi là Chung thủy hay Sơ chung,
chỉ cho bà ân hậu có trước có sau, cụ Phan SÀO NAM (BỘI CHÂU)
trong điếu văn cho bạn là Nguyễn Thuận Hiền có câu: “Trăng tây
hồ lai láng nét sơ chung”.
Một danh tăng khi
bạn viên tịch có câu đối đầy Thái cảm, xin ghi ra đây để kỷ niệm
cho nét sơ Chung ấy, “Bất huệ nhân dĩ đắc xả thân tiên,
tri kỷ lễ thành Hồng Hạnh võ, đại khai sĩ Hữu duyên Quy Phật
bảo, Cố Nhân Mộng đoạn bích đào Nguyên.”
NIỆM PHẬT CHỚ SỢ CƯỜI,
ĐỪNG CHỜ HẸN
Chớ hẹn đến già rồi niệm Phật.
Đồng hoang mồ trẻ thấy đông người.
Ngay giờ quyết dứt, liền thôi dứt.
Chờ hẹn cho xong, chẳng lúc xong!
Khi xưa, có vị Tăng khuyên
người bạn là Trương Tổ Lưu niệm Phật. Ông bạn bảo: "Tôi có ba việc làm
chưa xong: Một là quan tài ông thân còn để ở nhà mồ chưa
chôn, hai là đứa con trai chưa cưới vợ, ba là
đứa con gái chưa gả chồng. Chờ ba việc đã xong, tôi sẽ vâng lời." Mấy
tháng sau, ông bạn bị bạo bịnh chết. Vị tăng đến tụng kinh cầu siêu, và điếu
một bài thi rằng:
Bạn tôi tên là Trương Tổ
Lưu
Khuyên ông niệm Phật, hẹn
ba điều.
Ba điều chưa vẹn, vô
thường bắt
Đáng trách Diêm Vương
chẳng nể nhau!
Trong bài thi, ý vị tăng
nói: Ông hẹn khi xong ba việc sẽ niệm Phật, nhưng ngặt nỗi vô thường bất ngờ
đến, nó có chờ hẹn ông đâu? Xem đấy chúng ta ai dám bảo đảm rằng MÌNH chẳng là
ông Trương Tổ Lưu thứ hai?
Cho nên người quyết chí tu
hành, được hở giây phút nào liền niệm Phật ngay lúc ấy, đừng nên
đạp nhầm dấu xe đổ của người xưa mà để hận ngàn thu.
Bên đường xe tang buồn đi
qua
Chiều hôm mồ hoang sương
trăng tà
Vô thường đời trần thương
ôi mau!
Người đi rồi lần sang
phiên ta.
Nghìn xưa xa vời trong
mông lung
Tài hoa tan về nơi vô
cùng!
Luân hồi không cầu đường
siêu thăng
Dù cho hiền minh sao anh
hùng?
Hoàng hôn mây hồng in non
xa
Dung hoa thầm khô theo suy
già
Di Đà chuyên tu phòng lâm
chung
Tương tư mơ về trời Liên
Hoa.
Niệm Phật Phải Dự Bị Lúc Lâm Chung
DƯƠNG LIÊN HÀNG
Cư sĩ Dương Liên Hàng,
người thời Trung Hoa Dân Quốc, quê ở huyện Dư
Diêu tỉnh Triết Giang.
Ông nhà nghèo từ nhỏ theo nghề buôn bán, tánh lịch
thiệp quán xuyến hơn
người. Năm Dân Quốc thứ mười một, Liên Hàng được biết người bạn cùng xóm là
Đồng Giác Hàng tu tịnh nghiệp, trong lòng ưa thích hằng qua lại để nghe lời chỉ
giáo.
Sau đó, ông thọ quy giới
làm hàng Phật tử tu tại gia. Phần văn học tuy cư sĩ còn yếu kém, song về nghĩa
lý kinh Phật, sự giải ngộ lại hơn người. Tháng chín năm Quý Hợi, các bạn ở Liên
Xã ước hẹn cùng nhau thệ nguyện phát lòng Bồ Đề, Liên Hàng cũng có dự trong
cuộc lễ ấy.
Cuối mùa Xuân năm Giáp
Tý, vì đau bịnh, cư sĩ LÉN phá giới sát sanh, nhân đó lần lần xa cách với các
liên hữu. Đến tháng bảy, bịnh ông càng them nặng, bạn đồng tu đến thăm, ai cũng
bảo rằng tất sẽ chết. Liên Hàng cũng xét biết mình khó sống, tự cảnh giác ĂN
NĂN việc đã làm.
Đầu tháng tám, ông gượng
đau đến trước bàn Phật, hết lòng phát lộ chí thành sám hối, nguyện GIỮ LẠI năm
giới, thề không tái phạm. Từ đó cư sĩ buông bỏ muôn duyên, dứt trừ ÁI DỤC, một
lòng thầm niệm hồng danh Phật, chờ đến lúc mạng chung.
Các liên hữu biết công
phu trì niệm của cư sĩ còn cạn, nên trước khi ông lâm
chung sáu ngày, thỉnh
người đến trợ niệm. Mấy hôm rốt sau, những bạn đồng tu cũng tự mình đến niệm
Phật giúp duyên.
Cuộc trợ niệm khởi đầu
từ ngày mười hai tháng tám. Qua ngày rằm, Liên
Hàng bỗng tự cảm thấy
thần khí thanh nhẹ tươi tỉnh. Đến ngày mười bảy cư
sĩ bảo trong giấc mơ
thấy một vầng ánh sáng như năm sáu ngọn đèn điện
chói lòa. Vào chiều tối,
xem thần sắc ông cũng như thường, các liên hữu cho
là chưa đến giờ, tiếp
tục niệm Phật tới sang canh hai, rồi sắp sửa muốn ra về.
Các vị ấy không ngờ
rằng, lúc đó sự TRỢ NIỆM đã đến hồi tinh thuần đắc lực.
Liên Hàng nghe tiếng
niệm Phật bỗng ngưng bặt, liền nói:
"Tôi hãy còn chưa
đến Tây Phương, mong nhờ chư liên hữu trợ niệm cho suốt đêm nay."
Chúng nghe lời nói có vẻ
khác lạ, lại cao tiếng niệm Phật. Không đầy nửa
giờ sau, cư sĩ bỗng cười
bảo:
"Tôi đã đến Tây
Phương. Ôi! Ao thất bảo to rộng quá! Kìa! Hoa sen thật là đẹp! Ánh quang minh
cũng sáng đẹp vô cùng!"
Rồi ông lại dặn đại
chúng cao tiếng trợ niệm đừng nghỉ. Từ trước Liên Hàng vẫn lặng lẽ nằm yên. Đến
lúc bây giờ tay và đầu ông đều hoạt động, miệng liên tiếp nói to:
"Ôi! Hoa sen
thật tươi xinh! Ao báu thật sang đẹp!"
Lúc ấy mặt của cư sĩ
tươi cười hớn hở, trông như người bất chợt có việc vui mừng vượt quá hy vọng.
Như thế qua một giờ sau, ông trở lại lặng yên không nói, tay chân cũng không
động, chỉ nằm ngửa mắt chăm chú nhìn tượng Phật trước giường.
Kế tiếp đôi tròng lần
lần lờ lạc, hơi thở cũng lần yếu mòn. Đến năm giờ sáng ngày mười tám, cư sĩ mới
tắt hơi. Đêm ấy liên hữu chỉ có bốn người, mà vừa thay phiên nhau lớn tiếng trợ
niệm suốt đêm, vừa thỉnh thoảng lại xen đôi lời sách tấn. Như thế
cứ tiếp tục niệm cho đến sau khi cư sĩ tắt hơi một giờ rưởi, mới
đổi phiên cho những vị khác vừa đến.
Sự trợ niệm vẫn tiếp tục
cho tới lúc thân thể kẻ mãn phần lạnh hẳn, người nhà đều bị ngăn không được khóc thương. Đến mười
giờ trưa, một liên hữu thăm dò thử, thì các nơi khác đều lạnh, duy ĐẢNH ĐẦU còn
nóng
như nước sôi.
Trong kinh, có bài kệ
nói:
ĐẢNH Thánh, MẮT sanh
trời.
Người TIM, ngạ quỉ BỤNG.
Bàng sanh ra ĐẦU GỐI.
Địa ngục LÒNG BÀN CHÂN.
Khi người chết các nơi
khác đều lạnh, duy ĐẢNH ĐẦU nóng sau rốt, là kẻ ấy đã
sanh về cõi Thánh, cõi Phật; MẮT nóng sau rốt là sanh lên cõi
trời; chỗ TIM ngực nóng sau rốt là sanh lại cõi người. Còn nếu
ở BỤNG thì kẻ đó sanh về cõi ngạ quỉ, ở ĐẦU GỐI đầu
thai vào loài bàng sanh; ở LÒNG BÀN CHÂN, tất đọa xuống địa ngục.
Thần thức thoát ly từ nơi nào, thì chỗ đó nóng sau cùng. Cư sĩ đảnh đầu nóng
sau rốt, chứng tỏ ông đã vãng sanh về Cực Lạc vậy.
Như Liên Hàng cư sĩ, GIỚI PHẨM KHÔNG TRÒN, công hạnh tu trì lại còn non kém. Nhưng ĐƯỢC vãng sanh, xét ra toàn nhờ sức trợ niệm của các bạn đồng tu. Xem đây, ta thấy sự TRỢ NIỆM rất thiết yếu cho hành giả lúc lâm chung. Bấy giờ nhằm ngày 18 tháng bảy, năm Dân Quốc thứ 13 (1924), cư sĩ được ba mươi tuổi.
KHI TẮT HƠI CHO ĐẾN LÚC TRUY TIẾN
Người mới tắt hơi, điều
thiết yếu là không nên vội di động. Hoặc kẻ chết thân mình dính chất dơ cũng
không nên gấp lau rửa, phải đợi qua tám tiếng đồng hồ, hay ÍT NHỨT CŨNG BA GIỜ,
mới được tắm rửa thay đổi y phục.
Trước và sau khi chết,
người thân không được khóc lóc. Bởi khóc là vô ích mà lại có hại, vì làm cho kẻ
mạng chung sanh niệm quyến luyến, không được giải thoát. Chỉ nên gắng sức niệm
Phật mới thật có ích cho vong nhơn.
Nếu muốn khóc lóc, phải
đợi tám giờ sau. Tại sao thế? Vì bịnh nhơn tuy tắt hơi nhưng thức A-LẠI-DA còn
chưa đi. Nếu khi ấy lay động, tắm rửa thay y phục, hoặc kêu khóc, họ vẫn còn
cảm giác đau đớn hoặc sanh buồn giận bi thương mà phải sa đọa. Điều này rất
quan hệ, rất cần yếu, nên để ý ghi nhớ kỹ.
Thuyết thăm dò HƠI NÓNG để
nghiệm xem sanh về đâu, tuy có chứng cớ, song cũng không nên câu chấp. Nếu bịnh
nhơn bình thời tín nguyện chân thiết, khi lâm chung chánh niệm rõ ràng, có thể
chứng nghiệm là vãng sanh. Nhiều người không kỹ, cứ mãi thăm dò, rờ chỗ này chỗ
kia, làm động niệm kẻ mạng chung, cũng có hại rất lớn.
Sau khi bịnh nhơn TẮT HƠI,
người trợ niệm vẫn phải tiếp tục niệm Phật cho đến BA GIỜ ĐỒNG HỒ SAU (có
thể thăm dò HƠI NÓNG để nghiệm xem sanh về đâu), để cho sự vãng sanh được
bảo đảm.
Trợ niệm xong, liền đóng
cửa phòng lại canh chừng cho kỹ, kẻo loài mèo chó hoặc kẻ không am hiểu đổ xô
vào xúc chạm, đợi mãn TÁM GIỜ sẽ tắm rửa thay đổi y phục. Nếu luôn trong tám
giờ, có người ở gần bên niệm Phật, là điều rất tốt. Ngoài ra cấm tuyệt không
nên làm điều chi khác. Xin nhắc lại trong khoảng thời gian này, người chết vẫn
còn cảm giác.
Sau tám giờ nếu tay chân
người chết đã cứng không thể chuyển động, nên dùng vải thấm nước nóng đắp bao
quanh khớp xương. Làm như thế giây lâu, có thể sửa tay chân co duỗi như thường.
Trong đám tang của người
quá cố, thân nhơn nên làm đơn giản, đừng quá rườm rà mà tốn vô ích. Điều cần
thiết là phải nên dùng đồ chay, chớ có sát sanh để đãi đằng cúng tế.
Bất đắc dĩ cần có chút ít
đồ mặn, thì nên mua thịt cá chết, hoặc người ta đã làm sẵn bán ngoài chợ. Nếu
sát sanh để cúng tế đãi đằng, tất người mãn phần bị oan đối không được giải
thoát. Dù kẻ mạng chung đã được vãng sanh, phẩm sen cũng vì đó mà bị giảm thấp.
Theo
ngài Ấn Quang, nên niệm bốn chữ (A DI [MI] ĐÀ
PHẬT) để cho bịnh nhơn dễ thâu nhận trong khi tinh thần thể chất quá suy yếu.
Nhưng ý
kiến của Hoằng Nhứt đại sư, thì muốn niệm bốn chữ hay sáu
chữ (NAM MÔ A DI [MI] ĐÀ PHẬT), tốt hơn nên hỏi bịnh nhơn, để
thuận với tập quán ưa thích thuở bình nhựt của người bịnh, khiến cho họ có thể
niệm thầm theo.
Nếu trái
với tập quán ưa thích, tức là phá hoại CHÁNH NIỆM của người bịnh, tất mình cũng
có tội.
A LẠI DA THỨC
( Phật Học Phổ Thông – HT.
Thích Thiện-Hoa )
Bài tụng thứ hai
Hạo hạo tam tàng bất khả
cùng
Uyên thâm thất lãng cảnh
vi phong
Thọ huân trì chủng căn
thân khí
Khứ hậu lai tiên tác chủng
ông
Dịch nghĩa
Chơi vơi ba tàng không
cùng tột
Vực sâu, bảy sóng, cảnh
làm gió
Chịu huân, trì chủng và
thân cảnh
Đến trước đi sau làm chủ
ông
LƯỢC GIẢI
Ba tàng là Năng tàng, Sở
tàng và Ngã ái chấp tàng. Bởi thức này có công năng duy trì các chủng tử, nên
gọi là "Năng tàng".
Vì thức này là chỗ để chịu
cho các pháp hiện hành huân vào, nên gọi là "Sở tàng".
Thức thứ Bảy chấp kiến phần
của thức này làm Ngã, nên gọi là "Ngã ái chấp tàng".
Thể và dụng của thức này
sâu rộng vô cùng; hàng phàm phu và Nhị thừa không thể thấu tột. Chúng hữu tình
từ vô thỉ đến nay, cũng do thức này mà sanh tử tương tục không cùng tột, nên
trong bài tụng nói:
"Chơi vơi ba tàng
không cùng tột".
Biển tàng thức rất là sâu
rộng, gió bốn duyên (căn, cảnh, chủng tử và tác ý) một phen thổi vào, thì sóng
bảy thức nhấp nhô nổi dậy.
Thức này có công năng duy
trì chủng tử, căn thân, thế giới và chịu cho các phép hiện hành huân vào.
Thức này làm ông Chủ; vì
khi chúng hữu tình chết thì nó đi sau, còn khi sanh thời nó
lại đến trước.
Cổ nhơn có làm bài kệ, để
tả trạng thái người chết, trong lúc thần thức sắp rời thân xác, có thể kinh
nghiệm biết người chết rồi được THĂNG lên hay ĐỌA xuống.
Chánh văn
Đảnh Thánh, nhãn sanh
Thiên
Nhơn tâm, Ngạ quỉ phúc
Bàn sanh tất cái ly
Địa ngục khước tâm xuất.
Dịch nghĩa
Thánh đầu, Trời tại mắt
Người tim, Ngạ quỉ bụng
Súc sanh hai chân xuống
Địa ngục bàn chân ra.
BÀI SỐ 13
Ẩn tu ưu cảm bởi nhơn tình
Điên đảo luân thường lại
SÁT SINH
Khiến lắm tai trời thêm ách
nước
Vầng hồng xế bóng sắp tây
khuynh.
NHƯ Ý: Bởi Nhân Sanh cư xử trái với LUÂN THƯỜNG
đạo đức, lại tạo nhiều SÁT NGHIỆP, nên khắp thế giới xảy ra những tai ách,
chiến tranh, bão lụt, hạn hán, động đất, sâu rầy, mất
mùa, thời tiết bất hòa, dịch Bịnh lan tràng khắp nơi, căn cứ theo luật NHÂN
QUẢ, thì năm châu sẽ đi dần đến cảnh đại nạn, như là mặt
trời xế về Tây sắp lặn, màn đêm sẽ dần buông xuống, người hiểu đạo
thấy thế làm thương lo.
LUÂN THƯỜNG: gồm có NGŨ LUÂN và
NGŨ THƯỜNG
NGŨ LUÂN: Cha (Mẹ) con,
Vua tôi, Chồng vợ, Anh (Chị) em, Thân bằng quyến thuộc. NGŨ LUÂN là mỗi
người phải giữ đúng BỔN PHẬN của mình.
NGŨ THƯỜNG: NHÂN,
LỄ, NGHĨA, TRÍ, TÍN.
NHÂN là phải có LÒNG thương NGƯỜI, thương VẬT.
LỄ là khi cư xử với NGƯỜI, phải TÔN TRỌNG hòa
nhã.
NGHĨA là lấy LẼ PHẢI công bằng, mà cư xử với nhau.
TRÍ là phải PHÂN BIỆT được thiện ác, đúng
sai.
TÍN là phải làm ĐÚNG theo LỜI đã hứa.
Ấn Quang Đại
Sư nói: -Pháp môn Tịnh Độ do Phật Thích Ca, Di Đà kiến lập, Bồ Tát Văn Thù,
Phổ Hiền chỉ quy, đức Mã Minh, Long Thọ hoằng dương, và các Tổ: Huệ Viễn, Thiên
Thai, Thanh Lương, Vĩnh Minh, Liên Trì, Ngẫu Ích xướng đạo để khuyên khắp
thánh, phàm, ngu, trí, đồng tu hành vậy.
Đã tu tịnh nghiệp, phải
giữ LUÂN THƯỜNG, làm hết bổn phận, dứt niệm tà, gìn lòng thành kính, trừ bỏ các
điều ác, vâng làm những việc lành, ĐỪNG GIẾT HẠI, gắng ăn chay, thương tiếc hộ
trì mạng sống loài vật, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương.
Bên trong phải vì ông
bà, cha mẹ, anh em, chị em, bên ngoài vì thân thích, bạn bè, xóm giềng, làng
nước, đem pháp môn Tịnh Độ này mà phụng khuyến, chẳng luận người có TIN làm
cùng không, chỉ hết sức mình khiến cho mọi người đều biết PHÁP mầu nhiệm này mà
thôi.
QUÊ HƯƠNG CỰC LẠC
Việt Dịch: HT Thiền
Tâm
Có những Phật tử tuy ăn
chay, bố thí, tụng kinh, niệm Phật, nhưng chỉ chú ý
về hình thức, không quan
tâm đến việc dứt trừ phiền não vọng duyên. Nên
biết, nếu phiền vọng
tăng một phần, tất đạo tâm phải thối một phần, dù có
tụng kinh niệm Phật cũng
không được thanh tịnh. Cho nên trong Kinh Pháp
Bảo Đàn, đức Lục Tổ đã
bảo:
Người mê tu phước chẳng tu
đạo
Bảo rằng tu phước ấy là
đạo
Bố thí cúng dường phước
không lường
Nơi lòng ba ác vẫn còn
tạo.
Chữ Đạo của đức Lục Tổ nói, chỉ cho CHÂN tâm thanh tịnh. Tất cả đường lối tu hành đều là phương tiện trở về chân tâm ấy. Chứng được chân tâm mới hoàn phục tánh bản giác, thoát nỗi khổ luân hồi, mà điểm căn bản để tu chứng, là phải dứt trừ phiền não vọng niệm.
NIỆM PHẬT THẬP YẾU
Tiết 34 - Phương
Diện Khai Tâm
CỐ NGUYÊN
Cố Nguyên, tự Thanh Phủ,
hiệu Bảo Tràng cư sĩ, quê ở Ưng Thiên, là hàng Chư sanh trong niên hiệu Gia
Tĩnh đời Minh. Thuở thiếu thời tánh ông hào sảng, văn thi hay, hội họa khéo,
chữ viết cứng đẹp, được nhiều người cậy nhờ mến chuộng. Nhưng đến năm bốn mươi
tuổi, ông bỏ hết tập nghệ cũ, dứt hẳn rượu thịt, tạo một gian lầu nhỏ, thường ở
trên đó tịnh tu về thiền quán. Bên mình chỉ có một tiểu đồng để sai khiến, hàng
phụ nữ và người nhà ít khi được thấy mặt ông.
Mỗi đêm cứ vào canh năm,
cư sĩ đánh mõ lớn tiếng niệm Phật. Ở trong xóm có anh đồ tể, mỗi khi
nghe tiếng mõ thì thức dậy giết heo. Một hôm anh say rượu dậy trễ,
giận hờn trách vợ. Người vợ bảo: “Ông không nghe tiếng đánh mõ niệm Phật của vị
tu hành kia sao? Tự mình không biết tội, còn giận trách tôi là thế nào?” Anh
đồ tể ngạc nhiên như sực tỉnh, từ đó dẹp bỏ con dao sát sanh, lo làm lành niệm
Phật. Nhiều bạn đồng nghiệp của anh cũng noi theo gương đó mà đổi
nghề.
Cố Nguyên vẫn quen thân
với Vân Cốc thiền sư ở chùa Thê Hà cùng nau kết bạn sen cầu sanh về Cực Lạc.
Một hôm nọ, Hám Sơn Đức Thanh đại sư đến Thê Hà chơi, thấy một vị mặc áo tràng
đi ngang qua, tướng nhàn nhã như chim hạc, đôi mắt nhìn thẳng không chớp động,
dường như quên hẳn mọi việc thế trần. Người ấy vào điện Phật, lễ tháp Xá lợi,
rồi đứng yên chắp tay chiêm ngưỡng. Giây phút nơi đảnh Tháp bỗng hiện ánh sáng
năm sắc rực rỡ trong suốt. Hám Sơn đại sư lấy làm lạ, đem hỏi ngài Vân Cốc,
Thiền sư nói: “Đó là Bảo Tràng cư sĩ. Ông ta đang vào pháp Tây phương quán
đấy!”.
Sau Cố Nguyên cảm bịnh
nhẹ, thỉnh vài vị tăng đến cùng niệm Phật. Sau thời khóa, nội nhân của ông chạy
lên nói: “Hiện thời mùi hương sen thơm đầy cả nhà!” Chúng đều kinh lạ mừng rỡ.
Cư sĩ vẫn điềm nhiên bảo: “Hơn nửa tháng nay tôi đã ngồi trên đài liên hoa,
thấy chơn thân của đức A Di Đà khắp hư không, thế giới đều thành kim sắc.
Phật tươi cười nhìn
xuống và lấy áo ca sa phủ trên đầu tôi. Như thế quyết định tôi sẽ được sanh về
Cực Lạc!” Mấy người con sa nước mắt thưa: “Cha về Tây phương là điều vạn hạnh,
còn bọn chúng con sẽ ra thế nào?” Cư sĩ mỉm cười bảo: “Các con nghĩ rằng ta chết
thật ư? Há chẳng thấy mặt trời chìm xuống phương tây rồi mọc trở lại
phương đông, như thế đâu phải là lặn mất?”
Rồi cho biết trước ngày
giờ vãng sanh. Đến thời, cư sĩ tắm gội thay y phục, ngồi kiết già mà thoát hóa.
Mùi hương sen sực nức cả trong ngoài, ba ngày mới tan hết.
NHỰT THĂNG TU SĨ
Hòa Thượng Thích THIỀN TÂM
Có một đêm vào khoảng 3, 4
giờ sáng thì NGÀI nằm chiêm bao, mơ thấy mình đi trên con đường mòn nhỏ dẫn lên
sườn đồi thì nghe sau lưng có tiếng ai gọi lớn rằng:
– Ê, Tu sĩ, Tu sĩ. Trần Tu
sĩ chờ ta đi với.
Lúc đó ngài cũng không mấy
gì để ý đến, vì không phải là tên của mình nên cứ mặc nhiên, lầm lủi bước đi vế
phía trước mặt thì nghe cũng vẫn là tiếng gọi đó vang lên y như trước. Trong
tâm ngài lấy làm ngạc nhiên và nghĩ rằng chẳng lẽ phía sau lưng mình còn có
thêm một người nào khác nữa đi theo sao?
Liền quay đầu lại xem thử
thì không thấy ai hết. Đang khi còn lấy làm lạ thì thấy từ phía xa xa ở dưới
chân đồi có một người vừa chạy lên vừa lấy tay vẫy gọi mình bảo “chờ ta với”.
Thấy vậy nên ngài dừng lại
chờ xem có chuyện gì không, một lúc sau thì người kia chạy lên đến nơi, đó là
một lão ông khoảng chừng 7, 8 mươi tuổi, dáng người quắc thước, phong cách hiên
ngang, nắm lấy tay ngài vừa cười vừa nói:
– Ê, Tu sĩ hèn lâu mới gặp
lại nhà ngươi. Xem ngươi cũng không khác gì lúc xưa cho lắm.
Ngài lấy làm lạ, hỏi lão
ông ấy rằng:
– Thưa cụ, chẳng hay cụ
đang nói với ai vậy?
Lão ông ấy đáp:
– Thì ta đang nói chuyện
với ngươi mà. Bộ ngươi quên ta và ngươi là ai sao?
Tu sĩ chính là ngươi đó.
Ngài nói:
– Thưa cụ, chắc cụ nhận
lầm người rồi đó, cháu tên Nguyễn Nhựt-Thăng chớ đâu phải
tên Tu-sĩ.
Lão ông nói:
– Vậy ngươi hãy xem kỹ lại
mình rồi sẽ cùng ta nói chuyện tiếp.
Nghe lão ông bảo vậy, tuy
trong lòng lấy làm lạ nhưng ngài cũng nghe theo, cúi đầu ngó xuống trước ngực
thì thấy toàn thân của mình đã biến thành ra một người đàn ông khác lạ từ lúc
nào rồi, người mới này khoảng 5 mươi, mình mặc áo nâu sòng, chân mang dép râu,
đầu cạo trọc tóc, rõ ràng là hình tướng của một ông thầy tu nghèo nơi miền sơn
cước.
Trong khi ngài còn ngẩn
ngơ không hiểu vì sao bỗng nhiên mình lại hóa thành một người khác như vậy, thì
lão ông lại vỗ tay cười ngất mà nói rằng:
– Quả là vui, quả là vui,
hèn lâu mới gặp lại cố nhân. Nhưng mà này, ngươi đừng lấy làm lạ, để ta nói rõ
cho ngươi hiểu. Đây là thân trong kiếp trước của ngươi đó. Nguyên trong kiếp
trước ta cùng ngươi đồng tu tại đây. Ta họ Đồng, ngươi họ Trần, người trong
vùng gọi là Trần Tu sĩ, ngươi xuất gia năm 13 tuổi và cùng ta ở tại ngôi chùa
trên kia.
Nói đoạn nắm tay ngài dẫn
lên trên đồi thì thấy nơi đó còn vết tích tường long, mái đổ của một ngôi cổ
tự (chùa xưa) hoang tàn, khắp nơi cây cỏ mọc đầy, rêu phong cô tịch.
Lão ông ấy giải thích
tiếp:
– Khi xưa ngươi cùng ta ở
đây trên 30 năm, tu hành cũng khá. Sáng hôm đó ngươi có chuyện phải xuống đồi,
trên đường đi vô tình phạm nhằm một vụ ngộ sát… Mấy năm sau ngươi bị bệnh rồi
qua đời trong sự sầu buồn, hối hận…
Bây giờ ngươi đã chuyển
sang kiếp khác với thân xác và tên họ mới của kiếp này đây. Do nơi túc căn dẫn
dắt nên khiến cho ngươi trong mơ nhớ lại cảnh cũ mà quay trở về tìm.
Ngài nghe vậy mới hỏi:
– Việc ấy đã bao lâu rồi
và bây giờ đây ngài đang làm gì?
Lão ông thở dài nói:
– Trên 200 năm rồi, ngươi
bây giờ thì như thế đó. Còn ta cũng chưa được siêu, vẫn nay ở nơi đây làm một
người thổ địa coi sóc cuộc đất này.
Trong lúc ngài còn đang
bùi ngùi, đi vòng quanh ngôi cổ tự xem lại cảnh xưa thì vấp phải một cục gạch
té nhào.
Giựt mình tỉnh dậy thì
trời gần sáng…
Do đó nên mới có ra bài
thơ này như vậy.
Kế tiếp anh năm ngài hỏi
vì sao mà cuối bài thơ lại ký tên là NHỰT THĂNG TU SĨ, thì ngài giải thích như
sau:
– NHỰT THĂNG là tên của
cha mẹ kiếp này ban cho nên phải quý trọng và đặt ở đầu để tượng trưng cho lòng
kính thương cùng biết ơn hiện tiền phụ mẫu, còn TU SĨ là tên của kiếp tiền
sanh. Sở dĩ ghép liền hai tên lại với nhau như thế là để hàm ý hai tên ấy vốn
của một người, cũng như để nhắc nhở và nung chí cho mình luôn luôn nhớ rằng
kiếp trước ta là một tu sĩ rồi thì kiếp này phải cố gắng lập chí tiến tu tiếp
thêm chớ để cho phải bị mê trần.
(Và cũng vì thế nên từ đó
về sau cho đến trước ngày đi tu, bài thơ nào của ngài đặt ra, phía cuối cũng
đều ký tên là Nhựt Thăng Tu sĩ hết).
Trong mơ biết mình tên
TU SĨ.
Họ TRẦN niên kỷ khoảng
năm mươi.
Xuất gia từ thuở mười ba
tuổi.
Nhập tự tòng sư học Kệ
Kinh.
Ba mươi năm lẻ say mùi
đạo,
Lỡ một ngày kia phạm
SÁT SINH.
Công quá một đời như bọt
nước,
Thức giấc lệ buồn đẫm
ướt mi.
NHỰT THĂNG TU SĨ
Hòa Thượng Thích THIỀN TÂM
SÁU TÁM lắm gian nan,
Nhơn quả chớ than van.
Thấy NINH thời ĐẠI đến,
Gặp PHÚ ắt bình AN.
LIÊN HƯƠNG thơm sực nức,
Còn chút nghiệp phải
mang.
Ngọt chua hai bốn chẳn,
THÂN xuất đáo LIÊN
BANG”.
( Ngài chánh thức về ẨN TU
tại Đại Ninh vào năm 1968 – thị tịch vãng sanh vào tháng 11 Âl năm
1992 – Trước sau có tất cả là 24 NĂM mà ngài trụ ở thôn
Phú An, Đại Ninh này. TỨC LÀ NGÀI ĐÃ BIẾT TRƯỚC 24 NĂM SAU, SẼ ĐƯỢC VÃNG
SANH VỀ CỰC LẠC ).
BÀI SỐ 14
Ẩn tu xét thấy chốn
TĂNG-GIÀ
Ganh-hại thị-phi lắm bất
hoà !
Danh vị, chùa chiền tranh
đệ tử
Ưu Đàm, Lan Huệ héo mầm
hoa.
NHƯ Ý : TĂNG GIÀ nói cho đủ là Tăng-già-lam,
HOA dịch là Tịnh-chúng-viên, chỗ ở của hàng XUẤT GIA, như trên vừa
nói ngoài đời đã thế, trong đạo cũng do CHẤP ngã nặng, nên nghiệp THAM, SÂN,
SI, tật đố lẫy lừng, trong CÁC tông giáo đều có cảnh chia rẻ, ranh ghét, tranh
đua, cho đến giết hại lẫn nhau, khiến cho HOA Ưu-Đàm, Lan-Huệ phải kéo, MẦM đạo
phải khô.
TĂNG GIÀ, dịch là hòa hợp CHÚNG. Theo Luật của PHẬT, thì
phải có từ 4 vị TỶ-KHƯU trở lên, đồng ở một chỗ, LÝ và
SỰ đều hòa hợp với nhau.
Về LÝ Hòa-hợp
là đồng CHỨNG đến cảnh giới A LA HÁN, hay cảnh giới THƯỜNG, LẠC, NGÃ, TỊNH của
chư PHẬT.
Về SỰ hòa hợp là có LỤC-HÒA : THÂN,
KHẨU, Ý, KIẾN, GIỚI, LỢI
1) THÂN hòa đồng trụ
(Là ở chung hòa hợp)
2) KHẨU hòa vô tranh
(Là không tranh cải nhau)
3) Ý hòa đồng duyệt
(Là ý nghĩ phải vui vẽ hòa hợp nhau)
4) KIẾN hòa đồng giải
( Là kiến giải để cùng nhau nhận ra PHẬT TRI KIẾN của
chính mình,
hay là THẬT TƯỚNG của vạn pháp)
5) GIỚI hòa đồng tu
(Là cùng nhau giữ giới luật mà mình đã
THỌ)
6) LỢI hòa đồng quân
( Là được thọ nhận TỨ SỰ về ĂN,
MẶC, Ở, BỊNH phải đồng nhau)
Tu SỰ chẳng chấp TƯỚNG
Thì tức SẮC là KHÔNG
Tu LÝ không bỏ Sự
Ðó tức KHÔNG là SẮC
Lý chính thật Chân-Không
Sự là phần Diệu-Hữu
Chân-Không tức Diệu-Hữu
Diệu-Hữu tức Chân-Không
Nếu chưa đạt lẽ nầy
Thà tu hành chấp CÓ
Ðừng cầu cao bác tướng
Mà lạc vào NGOAN KHÔNG
Ðây chính hầm khổ đọa
Kẻ thông minh đời nay
Ða số mắc lỗi nầy
Xưa có sư Tông-Thắng
Tài huệ biện cao siêu
Vì ỷ giỏi kiêu căng
Nên bị nhục chiết phục
Hỗ thẹn muốn tự tận
Thọ thần hiện thân
khuyên
“ Sư nay đã
trăm tuổi
Tám mươi năm lầm lạc
May nhờ gặp Thánh nhân
Huân tu mà học đạo
Tuy có chút công đức
Mà lòng hay bỉ ngã
Ỷ thông minh biện bác
Lấn người không khiêm hạ
Lời cao hạnh chưa cao
Nên phải bị quả báo
Từ đây nên tự kiểm
Ít lâu thành trí lạ
Các THÁNH đều tồn tâm
NHƯ LAI cũng như vậy ”
Lại có kẻ đua tướng
Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư
Mượn thuyết pháp, tụng
kinh
Ðể mưu cầu lợi dưỡng
Dành đệ tử, chùa chiền
Lập bè đảng, quyến thuộc
Thấy có ai hơn mình
Liền thị phi tật đố
Hại Thầy Bạn, phản Ðạo
Lừa dối hàng tín tâm
Lời nói thật rất cao
Việc làm thật rất thấp
Lý Sự đều sai trái
Hạng ấy hiện rất nhiều
Tạo biển khổ thêm sâu
Khiến đau lòng tri-thức
LÝ, SỰ đại lược thế
PHÁP YẾU TU HÀNH
H.T Thích-Thiền-Tâm
Khoát
đạt không, bát nhân quả,
Mảng
mảng đãng đãng chiêu ương họa.
Khí
hữu TRƯỚC
KHÔNG bệnh
diệc nhiên,
Hoàn
như tỵ nịch nhi đầu hỏa.
(Chứng
Ðạo Ca)
Nói tất cả PHÁP đều không,
không có NHÂN cũng không có QỦA,
Buông lung phóng đãng, mang
tai họa.
CHẤP NGOAN KHÔNG, BÁT NHÂN
QỦA đây là hầm khổ đọa,
Cũng như một người tránh
nạn chết chìm, lại bị chết vì lửa.
DIỆU HIỆP
Diệu Hiệp đại sư, người
ở huyện cần tại Minh Châu. Ngài xuất gia khoảng cuối đời nhà Nguyên sang đầu
triều Minh, nghiên cứu tinh tường về Thiên Thai giáo quán, chuyên tu môn Niệm
Phật tam muội. Đại sư có soạn thuật hai quyển Niệm Phật Trực Chỉ, trong đó
thiên Trực Chỉ Tâm Yếu phá vọng hiển chân, biện giải đến chỗ tinh vi. Văn rằng:
“… Đức Thế Tôn thấy cõi
Ta Bà có các sự khổ: sanh, già, bịnh, chết, nghiệp phiền não thiêu đốt buộc
ràng, nên khuyên chúng hữu tình niệm Phật A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc. Nhưng
cách Phật lâu xa, con đường thánh đạo càng bị cỏ tranh khuất lấp. Nhiều người nghe
nói: “Các pháp đều ở NƠI tâm”, liền lầm nhận nghiệp vọng tưởng
thuộc bóng duyên sáu TRẦN trong thân là tâm mình.
Do đó nên bảo:
“Phật ở NƠI đây, cõi Cực Lạc cũng ở TRONG ấy,
không cần tìm cầu ĐÂU xa!” Họ không biết thể huyễn bóng duyên
sáu trần đó, thuộc về VỌNG tâm, vốn không bền chắc. Nếu tiền
trần tiêu tan, vọng tâm ấy liền diệt. Như thế, làm sao có cõi Cực Lạc ở trong
đó được?
Có kẻ lại miễn cưỡng
bảo: “Các bậc ngộ đạo thấy tánh đều nói cõi Phật ở nơi tâm. Đã thấy tánh, lẽ
đâu còn chấp bóng duyên của sáu trần nữa!” Các người ấy đâu biết rằng sự ngộ
đạo thấy tánh đó, là ngộ được bản tâm chân thật, chớ không phải là vọng tâm như
họ tưởng.
Muốn ngộ được chân tâm
ấy, phải thấu suốt tâm vọng thuộc bóng duyên sáu trần vốn ở trong huyễn thân,
huyễn thân lại ở trong thế giới, và tất cả thế giới thật lành hoặc nhơ ác đều ở
trong hư không.
Thể hư không ấy tuy bao
gồm tất cả y báo chánh báo của mười phương, rộng lớn không ngằn mé, nhưng lại ở
trong chân tâm sáng suốt bất động vô cùng vô tận của ta, ví như một cụm mây nhỏ
điểm lơ lửng giữa khoảng thái thanh bao la lặng lẽ.
Chân tâm đã rộng lớn như
thế, làm sao tất cả mười phương thế giới hoặc nhơ hoặc sạch lại không ở trong
tâm?
Thế thì đức Phật hoặc
các bậc ngộ đạo nói các pháp ở nơi tâm, là chỉ cho chân tâm đó, chớ không phải
vọng tâm thuộc bóng duyên sáu trần trong huyễn thân nầy đâu! Chân tâm ấy vượt
niệm hiểu biết, lìa sự thấy nghe, dứt hẳn các tướng sanh, diệt, thêm, bớt.
Tất cả thế giới gồm thân
chư Phật và chúng sanh đã ở trong chân tâm đó, thì cảnh Ta Bà cùng Cực Lạc đều
là tâm của ta. Cho nên các hữu tình ở trong đó tùy ý bỏ đông cầu tây, chán cõi
nhơ thích cảnh sạch, dù có trước tướng, vẫn không lìa ngoài chân tâm.
Bởi thế, khi cảnh tướng
đẹp của cõi Cực Lạc và đức A Di Đà hiện ra, tức từ tâm ta hiển lộ. Và khi tâm
ta hiển lộ thì đức A Di Đà hiện ra. Tâm ta là tâm đức Phật kia, đức Phật kia là
Phật của tâm ta, đồng một thể không khác, nên gọi “duy tâm Tịnh độ, bản tánh Di
Đà”.
Cho nên khi nói duy tâm
hay bản tánh, chẳng phải chỉ cho cái vọng tâm sanh diệt thuộc bóng duyên sáu
trần trong huyễn thân. Và ở phương Tây chẳng phải không có cõi Cực Lạc cùng đức
A Di Đà, mà nói không cần tìm cầu. Cầu đức Phật kia chính là cầu tâm mình, muốn
sớm ngộ chân tâm mình, phải cầu đức Phật kia.
Thế thì tại sao đời nay
các nhà thức giả vừa mới biết chút ít lý thiền, những tăng sĩ nông cạn phá rối
Phật pháp, không nghiên tầm sâu chân lý để ngộ cảnh tức là tâm?
Mà trở lại ở trong môn
Bất nhị, họ chia trong chia ngoài, phân tâm phân cảnh, dạy người tìm trong bỏ
ngoài, lìa cảnh để cầu tâm, khiến lòng thương ghét thêm rộng nhiều, niệm phân
biệt càng sâu đậm?
Khi phân chia cảnh, thì
cho cõi Cực Lạc ở ngoài, dạy người chẳng nên cầu vãng sanh … Và khi phân chia
tâm, lại lầm nhận vọng thức là tâm, bảo cõi Cực Lạc ở trong đó.
Càng sai lầm hơn nữa, họ
cho chân tâm là rỗng không, lìa tất cả cảnh tướng nhân quả lành dữ tội phước,
nên từ đó muốn tỏ ra mình là vô ngại, lại buông lung theo duyên đời, dạy người
không cần lễ Phật. Tụng kinh, sám nguyện, tu phước bảo là trước tướng.
Đối với cảnh Thiên cung,
Địa ngục và các cõi Tịnh, độ, tuy nghe trong kinh nói đến, nhưng vì mắt phàm
không thấy, họ bác hẳn nói không có, cho lời kinh là quyền thuyết.
Họ lại bảo cảnh vui hiện
tại, hay một niệm vui tươi là Thiên đường, cảnh khổ trước mắt, hoặc một niệm
phiền não là Địa ngục. Sự hiểu biết cạn cợt nông nổi như trên, thật đáng thương
xót!
Phải biết tâm ta cùng
tâm Phật đồng một chân thể. Đức A Di Đà chứng ngộ đầy đủ tâm ấy, nên phóng ánh
sáng oai đức soi khắp mười phương, dùng sức nguyện thương xót rộng sâu nhiếp
lấy những chúng sanh niệm Phật. Ta tuy đồng một tâm thể với Phật, nhưng bởi bị
sức nghiệp vô minh phiền não che lấp buộc ràng, chưa chứng ngộ được bản tâm,
nên cần phải tu tất cả hạnh lành, và niệm Phật để cầu sanh Cực Lạc.
Vì tất cả pháp chẳng
phải khác, nên muôn hạnh đều hướng về chân tâm, đều trôi về biển Phật. Bởi tất
cả pháp chẳng phải đồng, nên tuy cùng một tâm thể, vẫn có thiện có ác, có uế có
tịnh, thì ở địa vị phàm phu phải bỏ ác cầu thiện, bỏ uế cầu tịnh, phát nguyện
cầu sanh để mau chứng quả chân tâm.
Khi tu hành như thế, ví
như một giọt nước gieo vào biển, tất cả sẽ đồng một vị một thể với biển cả. Lúc
được chứng ngộ toàn thể chân tâm, thì trong ánh đại quang minh sẽ thấy tất cả
cảnh tướng thiện ác nhơ sạch ở mười phương thế giới đều như bóng như huyễn,
sanh diệt không dừng.
Sự thiện ác nhơ sạch
sanh diệt như huyễn ấy, cũng tức là tâm, nhưng không làm ngại đến tâm thể đại
quang minh, như một cụm mây nhỏ không làm ngại đến hư không bao la rộng rãi.
Chứng ngộ được như thế mới có thể nói là vô ngại.
Đa số hàng thiện tín nơi
thôn ấp quê mùa, tuy không thông hiểu Phật lý, nhưng vì tin có Phật và cõi Cực
Lạc, chuyên tâm làm lành phát nguyện niệm Phật, nên khi lâm chung được sự lợi
ích vãng sanh, lên ngôi Bất thối chuyển, mau chứng quả Đại bồ đề.
Trái lại người có chút
ít học thức thông minh, bởi chưa thấu suốt lý tánh, bác sự tướng, trệ vào thiên
không, dù tu đạo hạnh, kết cuộc lại lạc vào vòng ngoại đạo, chìm trong nẻo luân
hồi.
Cho nên hàng Phật tử
chân chánh, về chữ TÍN phải tin có tội phước nhân quả, có Địa
ngục Thiên đường, có mười phương Tịnh độ.
Về chữ NGUYỆN,
nên phát tâm cầu sanh Cực Lạc, để sớm thoát ly nỗi khổ ở Ta Bà, mau chứng ngộ
bản tâm, khởi sự luân hồi sống chết, rồi độ tất cả chúng sanh đồng thành Phật
quả.
Về chữ HẠNH,
phải hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng, tu các nghiệp lành, thọ trì tam
quy, giữ gìn giới phẩm, phát lòng Bồ đề, tụng kinh niệm Phật, khuyên người tu
hành, đem tất cả công đức ấy hồi hướng về Tây phương.
Phải nghĩ mạng người vô
thường, chỉ mong manh trong hơi thở, việc thế tục quanh quẩn buộc ràng, móc nối
nhau không dứt. Nếu chẳng phát tâm mạnh mẽ, cắt một dao cho đứt đoạn, nhảy hết
sức để vượt qua, thì biết chừng nào mới được an nhàn giải thoát?
Nay tôi thiết tha đảnh
lễ, KÍNH khuyên các Phật tử, nên một lòng thật ngộ thật tu,
nguyện ngày kia đồng làm bạn lành nơi cõi Liên hoa thế giới…”
Về sau khi lâm chung,
đại sư biết ngày giờ trước, an tường niệm Phật mà vãng sanh.
Một câu A Di Ðà
Tánh thể vốn tự không
Các sao chầu Bắc Ðẩu
Muôn nước chảy về Ðông.
Nhứt cú Di Ðà
Tánh bản tự không
Tinh giai củng Bắc
Thủy tận triều Ðông.
LƯỢC GIẢI:
Một tín nữ đến thuật lại
với bút giả: "Có vị sư-cô bảo con bỏ hết ĐỪNG nên niệm Phật nữa, hãy để
lòng yên lặng cho tâm KHÔNG, cảnh không, mới mau ngộ đạo!".
Bút giả nói: "Các
pháp đều như huyễn, câu niệm Phật cũng như huyễn, tự THỂ của nó đã là không
rồi, cần gì phải bỏ?
Nếu muốn chứng được tâm
không, cảnh không, mà còn ngại câu niệm Phật, còn bác bỏ sự tướng, thì đó chính
là THIÊN Không hay NGOAN Không (cái không thiên lệch, trống rỗng, cứng chắc)
của ngoại đạo, chớ chẳng phải ý nghĩa Chân Không của Phật pháp.
Ý nghĩa chân không chân
chánh của đạo Phật ở ngay nơi tất cả cái có thuộc mọi sự tướng, mà không CHẤP
thấy là có (Chân không bất không, diệu hữu phi hữu). Chẳng phải riêng sư cô ấy
lạc lầm, trong hiện tại có rất nhiều vị tu học Phật pháp đã sa vào hầm hố đó.
Thật là điều không may và đáng thương cảm!" Nay nhân tiện xin tạm mượn sự
việc trên để giải thích về ý nghĩa "tự không" của câu niệm Phật.
Theo quan niệm địa dư xưa, người Trung Hoa cho rằng vùng đất của loài người ở
là một châu lớn, chỗ họ cư trú thuộc Trung Quốc. Phía Ðông của châu ấy là biển
cả, muôn dòng nước ở lục địa đều chảy ra đó. Người Việt Nam hấp thụ văn hóa
Trung Hoa, cũng đồng với quan điểm ấy.
Bởi thế cụ Nguyễn Bỉnh
Khiêm mới có câu: "Hồng nhật Ðông thăng tri đại hải. Bạch vân Tây vọng thị
thần châu". Và theo thiên văn học xưa, người Trung Hoa bảo rằng các vì sao
đều chầu hướng về ngôi Bắc Ðẩu. Ðể dẫn giải cho Phật pháp, Triệt Ngộ đại sư
cũng phương tiện mượn quan niệm thế gian ấy mà làm thí dụ.
Bởi tất cả pháp đều từ nơi
biển Chân Không LƯU xuất và đều tan về Chân Không. Bên tông Tịnh Ðộ gọi thể
Chân Không đó là Tự Tánh Di Ðà. Bài kệ trên đại ý:
Câu niệm Phật tánh vốn TỰ
KHÔNG, khi hành giả từ khởi điểm này tu tiến chứng thể tánh ấy một cách viên
mãn, sẽ thức ngộ muôn pháp từ nơi đó mà LƯU xuất, lại cũng QUI nhập về nơi đó.
Như sao Bắc Ðẩu làm chủ
muôn sao, muôn sao chầu về Bắc Ðẩu, biển Ðông dâng nước vào các sông ngòi, nước
sông ngòi đều đổ về biển Ðông vậy.
BÀI SỐ 15
Ẩn tu rõ biết chuyển cơ
trời !
NHÂN-QUẢ lọc thanh đạo với
đời !
Tai biến dập dồn trăm cảnh
chết
Núi xương sông máu, thảm
đầy vơi !
NHƯ Ý : Đạo Phật căn cứ theo thuyết NHÂN-QUẢ, mà luận việc
Hưng suy, còn chư THIÊN và các vị THẦN tiên, vì nắm quyền chưởng QUẢN hạ giới,
nên cũng y theo Nhân-quả mà âm thầm sắp đặt sửa trị, đó gọi là thiên CƠ hay là VẬN
số, cuộc thanh lọc sắp đặt, hiện đã an bài.
Thứ Mười Ba
Mạ Mạ [34]
Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế,
mô
hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.
Kinh nói rằng :- “Nếu muốn trừ những chướng nạn ác
bên thân, nên cầu nơi tay cầm cây phất-trần trắng.”
Theo kinh
“NHÂN-QỦA BA ĐỜI” thì nghiệp chướng chồng chất lên nhau thay đổi theo từng sát
na sinh diệt, theo tâm niệm và hành vi “TRONG NHIỀU KIẾP
TRƯỚC” và “HIỆN TẠI” của mỗi người.
Nhân nào
mạnh hơn hết thì qủa đến trước, cứ thế
mà nhân-qủa từng tự nói tiếp nhau liên tục không dừng.
Nếu nghiệp chướng là “NHÂN QỦA” cố
định, thì tại sao Vua Ca-Lợi cắt đứt tay chân
của Đức Phật, mà được đức Phật độ cho giải thoát trước tiên? Vậy có
phải là do "NGUYỆN LỰC" của đức phật, đã làm tiêu
nghiệp chướng cho Vua Ca-Lợi rồi sao?
Vua Ca-Lợi trong
kiếp trước, kiếp này là KIỀU TRẦN NHƯ
Đức Phật trong kiếp này, kiếp trước là
một vị tiên tu hạnh nhẫn nhục bị Vua Ca-Lợi cắt đứt tay chân .
( KINH KIM CANG)
Công đức làm sao được?
Phật là ÐẠI Y VƯƠNG
Pháp là DIỆU TIÊN DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma, quỷ mị
Nạn động đất, xe, thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải thoát
Chuyên tụng một phẩm Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các nguyện
Thỏa mãn các mong cầu
Chỉ sợ người không tin
Hoặc tin mà không
sâu
Lại ngại không thực hành
Hoặc hành không bền lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu
Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người,
cảnh
Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
Không hành như trên đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là phàm Tăng
Giúp ích được gì đâu
PHÁP YẾU TU HÀNH
H.T Thích-Thiền-Tâm
TRƯƠNG XỈ DIÊN
Trương Xỉ Diên, người
đời Thanh, nguyên là Quốc học sinh ở Thường Thục. Ông tánh hào sảng, tửu lượng
cao, thường cho mình là phi phàm, nghe ai nói đến kinh Phật, liền tác sắc to
tiếng.
Một hôm, Xỉ Diên nhân
được xem quyển Nhân Quả Luân Hồi, bỗng giác ngộ sự sống chết là việc lớn, liền giới sát,
dứt uống rượu, mỗi ngày đều tụng kinh Kim Cang, chú Đại Bi và niệm Phật. Sau
mỗi thời khóa, quì hồi hướng phát nguyện cầu sanh về Tây phương. Kế đó, ông quy
y Tam Bảo, ăn chay trường, chí thành sám hối nghiệp trước. Lúc ấy cư sĩ đang bị
chứng thiên phong, nửa mình bên mặt khô gầy. Có kẻ khuyên nên dùng thịt cá để
điều dưỡng, ông chỉ mỉm cười từ tạ mà thôi.
Mùa xuân năm Đạo Quang
thứ mười chín, cư sĩ tả phẩm Phổ Môn rồi mướn người khắc bản để ấn tống. Có kẻ
hỏi lý do, ông nói: “Đức Quán Thế Âm Bồ Tát bi tâm sâu rộng, ứng thân khắp pháp
giới, là thuyền từ nơi biển khổ, cơ duyên trước mắt, chớ để lầm qua!” Mùa thu
năm ấy, Xỉ Diên mộng thấy mình nuốt hoa sen, nên từ đó càng thêm tinh tấn. Cư
sĩ bảo em là Nhỉ Đán rằng:
“Anh phải tụng phẩm Phổ
Môn một muôn hai ngàn quyển, mới vừa ý nguyện!”
Nhỉ Đán hỏi duyên cớ,
ông than thở đáp:
“Bốn nỗi khổ sanh, già,
bịnh, chết trong đời anh đã trải qua ba thứ, chỉ còn cái chết là chưa biết lúc
nào đến mà thôi. Nhưng chắc nó cũng đã tới gần rồi. Như thế đâu nên lơ là chẳng
lo dự bị tư lương trước ư?”
Đêm mười một tháng giêng
năm Đạo Quang thứ hai mươi, Nhỉ Đản nằm không yên giấc, trong cơn mơ màng nghe
Xỉ Diên tụng phẩm Phổ Môn tiếng rang rảng. Lúc ấy chợt thức tỉnh, liền quay
mình sang định hỏi, thì thấy ông đang nằm nhắm mắt ngủ. Thì ra cư sĩ đã tụng
kinh trong giấc mộng.
Rạng ngày Xỉ Diên thức
dậy sớm, khóa tụng theo thường lệ xong, rồi có việc đến nhà người thông gia.
Vừa tới nơi, ông bị chứng đàm lên ngăn cổ họng, được tạm cứu chữa trở về nhà,
liền nằm bất tỉnh nơi giường.
Chiều ngày mười ba, bạn
đồng tu là Tạ Phụng Ngô khi đến thăm bịnh, bảo người nhà đốt hương nến bày nơi
bàn trước giường Xỉ Diên, rồi lấy hàng chuỗi lúc bình nhựt của ông trao vào tận
tay. Cư sĩ liền nắm lấy để trước ngực lần từng hạt, ánh mắt nhìn thẳng lên, cả
thân mình đều rung động, giây phút tắt hơi mãn phần.
Các liên hữu đều quyết
đoán đó là cái chết lành, tất được sanh về Tây phương. Riêng có người vợ của
ông không tin, đối trước quan tài khấn rằng:
“Nếu quả như thế, xin về
báo mộng cho biết!”
Trải qua năm ngày, đêm
lại người vợ nằm mơ thấy có vị gọi bảo:
“Chớ nên thương khóc!
Ông bạn đời của ngươi đã đi xa cách đây mười muôn ức cõi Phật rồi!”
Thức giấc bà lấy làm lạ,
nhưng vì bình sanh chưa từng tụng kinh A Di Đà, nên không biết năm chữ: “Mười
muôn ức cõi Phật” có ý nghĩa gì.
Sáng ra, bà đem điềm ấy
hỏi mấy nhà tu Phật, mới biết chồng mình đã vãng sanh, có chứng nghiệm chắc
chắn.
Là Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế.
Còn vượt khỏi bách phi
Huống rơi vào tứ cú!
Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế.
Thượng siêu bách phi
Khởi lạc tứ cú!
LƯỢC GIẢI
Trước tiên xin giải qua về Tứ cú, Bách phi.
TỨ-CÚ là bốn câu gồm: Có,
không, cũng có cũng không, và chẳng phải có chẳng phải không.
BÁCH-PHI: Bách là ước số
lấy một trăm làm giới hạn. Phi là chẳng phải, tiêu biểu cho nghĩa bác phá. Đây
nói chân lý vốn phi hữu, phi vô, phi thường, phi đoạn, phi sanh, phi diệt, phi
nhứt, phi dị, phi lai, phi khứ, phi hữu biên, phi vô biên v.v… cho đến cả một
trăm thứ phi.
Tại sao thế? Bởi lý tánh
ấy tuyệt ngôn luận, dứt tâm tư, chẳng thể dùng lời nói và sự suy nghĩ mà vịn
đến và diễn tả được.
Còn Đệ nhứt nghĩa đế là
thế nào?
Đây là nghĩa chân thật bậc
nhứt, bên Tông mệnh danh là: Một bước trên đầu sào trăm trượng, bên Giáo gọi
là: Bất nhị pháp môn hay Thánh đế. Xin mượn lời vấn đáp của vua Lương Võ hỏi tổ
Đạt Ma để tạm giải thích:
Hỏi: “Bạch ngài! Sao gọi
là Đệ nhứt nghĩa đế hay Thánh đế?”.
Đáp: “Rỗng rang không
thánh!”.
Quy kết lại, ý bài kệ trên
nói: Một câu A Di Đà, nếu vận dụng đến mức cùng tột, hành giả sẽ lìa tứ cú,
vượt khỏi Bách phi, đi ngay vào Đệ nhứt nghĩa môn, tức thể nhập chân tâm vậy.
Qua năm bài kệ liên quan
nhau nói trên, từ diễn dịch cho đến quy nạp, ở điểm nào câu niệm Phật cũng dung
thông không ngại. Nhưng luận về phần căn bản, các lối chấp của nhà tu học Phật
pháp xưa nay chẳng ngoài hai điểm: Có và Không.
Bước đầu tiên vào đạo, và
cũng thuộc phần đa số, người tu Phật thường hay chấp CÓ. Khi làm các công đức
lành, họ sanh niệm trước tướng, đôi khi dẫn đến sự tự mãn khoe khoang. Lối chấp
này gây trở ngại cho bước ngộ đạo, tiến trình đến cảnh giới giải thoát.
Sau khi đi sâu thêm vào
biển Phật pháp, xem đến kinh Kim Cang, Pháp Bảo Đàn, hoặc nghiên cứu về thiên
lý cao siêu, hầu hết lại rơi vào lối chấp KHÔNG.
Do đó, có nhiều kẻ đã
không xem trọng điểm ăn chay giữ giới, bác bỏ sự niệm Phật tụng kinh, cùng các
việc làm lành, cho là thấp kém trước tướng, chẳng hợp với trình độ cao siêu của
lý Không. Họ đâu hiểu lý Không của Đại thừa, là làm tất cả công đức hữu vi mà
không chấp thấy có tướng làm.
Chẳng hạn như kinh Kim
Cang bảo Bồ tát bố thí chẳng nên trụ tuớng, là không chấp thấy mình là người
thí cho, đây là vật trao giúp, kia là kẻ được ân huệ nhận lảnh. Bố thí như thế
công đức mới vô hạn lượng, rộng lớn như hư không. Trong ấy cũng nói về tụng
kinh này sẽ được công đức như thế nào?
Vậy thì kinh Kim Cang, một
áo điển diễn đạt về lý Không của Đại thừa: Đâu từng bác bỏ việc tụng kinh, bố
thí?
Trong hai lối chấp trên,
chấp CÓ hãy còn gốc luân hồi, song chấp với những việc lành, cũng sẽ được phước
báu cõi Nhơn Thiên.
Đến như chấp KHÔNG, bác
phá tất cả sự tướng, thì quả thật là tai hại. Kinh Phật gọi đó là tội phá chánh kiến, bởi vì bài bác NHÂN QUẢ. Nó gây sự lầm lạc cho
mình và người hủy hoại Phật pháp, khiến cho đương nhơn dễ sa vào địa ngục!
Đây là hiện tượng mà các
bậc thiện tri thức gọi là nhức đầu đau tim (thống tâm tật thủ) vì nó gây tổn
thương rất nhiều cho Phật giáo. Chấp Không như thế lại dễ khiến cho loài không
MA dựa vào tác hại, làm hành giả đảo điên. Bút giả đã gặp một Thượng tọa thuật
lại câu chuyện như sau:
Theo ý tôi, vị Thượng tọa
ấy nói, việc tham thiền chỉ thích hợp riêng cho một số ít người bậc thượng căn.
Thời nay, phần đông hàng Tăng tục khi tu, nên lấy niệm Phật làm phần chánh,
tụng kinh hoặc trì chú làm phụ. Bởi tham thiền mà chưa thể thường nhiếp tâm vào
định, hoặc hiểu sai lầm rồi trụ tâm nói cái NGOAN không ám muội, tất sẽ bị loài
không ma dựa vào.
Chính tôi đã mục kích vài
ba người trong trường hợp này. Độ nọ, có một sư cô đến gặp tôi đảnh lễ trình
thưa rằng:
“Huynh đệ con hơn mười
người, trước kia đã thọ giáo với một vị tự xưng là Khán Không thiền sư. Vị này
bảo phải gạt hết tướng có, TRỤ tâm vào nơi không. Huynh đệ con thật hành theo
một thời gian, về sau tất cả đều bị loài ma ám nhập, nói việc vị lai quá khứ,
luận thuyết toàn là lý không.
Riêng phần con, nó đã dựa
vào hơn mười năm. Hiện thời khi gặp tượng hay kinh Phật, nó giục bảo phải đập
phá xé bỏ. Gặp hàng Tăng Ni, lại giục bảo phải chửi mắng nói những lời thô tục.
Con tự kềm hãm chống trả lại, tìm nhiều bậc Pháp sư cầu cứu, song họ đều nói
con ma này uy lực cao không thể trục xuất ra được. Nay con đến đây đảnh lễ cầu
xin thầy có phương pháp chi giải thoát dùm con!”.
Tôi nghe nói, bảo Sư cô ấy
tạm nằm nơi ghế dựa, rồi ngồi phía sau để tay kiết ấn nơi đảnh mà trì chú Chuẩn
Đề. Tụng một lát, cô ấy chuyển lời nói con ma năn nỉ xin tha, vì nó ra ngoài bơ
bơ không nơi nương tựa. Tôi không chấp thuận, tiếp tục trì chú mãi.
Ban sơ Sư cô nghiêng trở
dằn vật mình, kế tiếp lần lần thở gấp gần như đứt hơi. Tôi thấy thế liền DỪNG
lại, vì biết nếu cứ trì tụng tiếp, nó có thể liều chết GIẾT người bịnh trước,
phó mặc cho sự thể ra sao thì ra. Đã có vài vị Pháp sư bị cảnh ma giết người
bịnh trong trường hợp này.
Tối hôm ấy, tôi trì chú
cầu nguyện xin chư THẦN giúp đỡ. Hơn một giờ đêm, trong giấc mơ tôi thấy có hai
vị KIM CANG sứ giả. Một vị thân màu ĐEN như sắt, khôi giáp toàn trắng; vị kia
thân TRẮNG như bạc, khôi giáp toàn đen.
Trước tiên, Thiết sứ giả
lấy ra một binh khí lạ dường như XA luân múa lên. Giây phút, từ binh khí ấy
phát tiếng kêu vo vo, phóng ánh sáng lạ mắt. Kế tiếp vị Ngân sứ giả đưa tay ra
ngăn lại bảo:
“Hãy từ từ xem nó có chịu
cải hối hay không đã!”.
Tới đây, cảnh tượng đều ẩn
mất. Thức tỉnh, tôi ngẫm nghĩ biết chư vị mách bảo: Nên khuyến hóa hơn là dùng
uy lực gây oan trái.
Sáng ra tôi thuyết giáo
chỉ rõ lối chấp sai lầm không lợi ích cho con ma nghe, nó xin sẽ chuyển hướng
tu theo chánh pháp. Riêng phần Sư cô nọ, tôi bảo vì loài ma đã dựa vào quá lâu,
nên thể phách của nó có phần dính liền với thể xác. Nếu vội trục xuất, e cho
thân của người bịnh sẽ bị tổn.
Tôi truyền ấn và chú Chuẩn
Đề bảo cô nên hằng ngày trì tụng. Với uy lực của chú, ma sẽ từ từ xuất ra. Sư
cô ấy vâng lời.
Nói xong vị Thượng tọa kết luận: Sự nhận thức cùng tu tập sai lầm, gây nên tổn hại và cứu gỡ khó khăn là như thế.
Comments
Post a Comment