CHÁNH VĂN
36.-Ẩn tu thôi mặc dở hay đời
Chỉ ước lâm chung dự biết
thời
Nương nguyện Phổ-Hiền sanh
Cực-Lạc
Rồi dong thuyền độ khắp nơi
nơi.
37.-Ẩn tu an phó bịnh suy già
Nhơn thế xưa nay vẫn thế mà
Giữ chắc hồng-danh thuyền
tế độ
Muôn trùng bao quản ngọn
phong ba !
38.-Ẩn tu suy gẫm sức hồng danh
Phước huệ tăng-kỳ kết tụ
thành
Sáu chữ chí tâm tiêu vạn
tội
Một câu chín phẩm thoát
siêu sanh.
39.-Ẩn tu tuy chửa đến Tây Phương
Cành ngọc chim linh ứng
mộng thường
Rõ biết tâm lành sanh cảnh
tịnh
Quả nhân cảm hiện lẽ chiêu
chương.
40.-Ẩn tu niệm Phật suốt thâu canh
Cam lộ từ răng đượm ngọt
thanh !
Khát nước đã nhờ công đức
thuỷ
Lam Kiều chi nhọc hỏi Vân
Anh ?
GIẢNG GIẢI
BÀI SỐ 36
Ẩn tu thôi mặc dở hay đời
Chỉ ước lâm chung dự biết
thời
Nương nguyện Phổ-Hiền sanh
Cực-Lạc
Rồi dong thuyền độ khắp nơi
nơi.
NHƯ Ý : Người Á đông, nhất là những người ở
nước có Triết lý Tam-giáo, THÍCH ĐẠO NHO, khi đã chìm nổi nhiều với cuộc đời,
thường có ý hướng về sự THOÁT tục; để tiêu biểu cho việc đó, XIN tạm dịch hai
câu của Cao-Bá-Quát như sau : Việc thế nổi chìm xin chớ hỏi, trong xa khói sóng
có ĐÀO NGUYÊN. Nguyên tác, “Thế sự thăng trầm Quân mạc vấn, Yên ba thâm Xứ Hữu Ngư châu.”
Động Đào-Nguyên
ĐÀO NGUYÊN còn gọi là động Bích. Đây là chỗ TIÊN ở.
Tương truyền đời nhà Tấn (265-419), có người chài cá ở huyện Vũ Lăng, một hôm
chèo thuyền đi ngược ven theo bờ suối. Càng đi xa chừng nào thì thấy
có nhiều hoa đào trôi theo dòng nước đổ xuống. Đến một quãng, bỗng
thấy trước mặt hiện ra một rừng đào. Hoa đào đỏ rực
rỡ làm cho ngư phủ càng thấy say sưa thích thú.
Định có người ở gần đấy nên bỏ thuyền, lên bờ. Vượt qua rừng đào, đến một ngọn núi. Dưới chân núi có một cửa hang nhỏ hẹp, vừa chui được một người. Bên trong thấp thoáng có ánh sáng.
Gợi tính tò mò, chàng lách mình vào cửa hang. Lúc đầu, cửa hang còn hẹp,
sau rộng dần, rồi cả một thế giới hiện ra: Ruộng vườn tươi tốt,
nhà cửa thôn ấp liên tiếp nhau; tiếng gà, tiếng chó nghe rõ mồn
một; thanh niên thiếu nữ đều say sưa công việc đồng áng. Trên
mặt mọi người hiện nét vui tươi chất phác hồn nhiên.
Người già, con trẻ đều có vẻ ung dung thanh thản.
Những người ở đây thấy chàng ngư phủ thì lấy làm kinh ngạc hỏi: làm sao đến được chốn này? Ngư phủ trình bày sự thực. Các bực phụ lão đem vợ con ra chào mừng khách lạ, dọn cơm rượu đãi khách. Ngư phủ ăn uống lấy làm ngon lạ, vì tuy cơm rượu mà tính chất khác thường.
Những bực phụ lão lại nói:
- Tổ tiên chúng tôi tránh loạn đời Tần, đem cả gia
đình vào ở đây, từ đó cách biệt với bên ngoài. Hiện
nay, chúng tôi không còn biết nhà Hán, huống hồ là nhà Ngụy, và nhà
Tấn.Cuối cùng, họ lại dặn ngư phủ: sau khi ra khỏi chốn này, xin đừng cho ai
biết có họ ở đây.
Người đánh cá ở chơi một hôm rồi xin cáo biệt.
Từ đời nhà Tần (221 trước D.L.) đến nhà Tấn (419 sau Dương lịch) mà họ đến đây
tránh nạn kể ra có trên sáu trăm năm. Người đánh cá cho mình may
mắn đã được gặp tiên. Nên khi trở về, nhiều người đến thăm hỏi,
trước còn tìm cách giấu nhưng cuối cùng chuyện thấu đến
quan Thái Thú sở tại, ngư phủ đành phải thuật cả việc lại.
Có tính hiếu kỳ, viên Thái Thú sai người đi theo chàng ngư phủ
tìm lại động ĐÀO NGUYÊN, nhưng hai người bị lạc đường đành
phải trở về.
Nguyễn Tử Quang
Điển hay tích lạ
Cũng có vị
khi đã ở trong cửa ĐẠO, nhưng xét thấy chúng sanh nghiệp NẶNG, mình
lại CHƯA đủ khả năng tế độ; như CHÍNH mình còn bị trói KHÔNG thể mở trói cho
người; Nên đành phải để sự XUẤT trần trước rồi mới NHẬP trần sau, đó là tâm sự
của bà Công-chúa em gái vua Nhật-tôn: “Lên bờ cứu khổ mong quay lại, biển ái trong xa nước đục
lờ.” Mấy câu này nói
lên ý tưởng trên đây.
Cũng
như THIỆN-TÀI đã trải qua 51 vị THIỆN-TRI-THỨC rồi, sự giác ngộ đã đến
ĐẲNG–GIÁC BỒ-TÁT, cùng với DI-LẠC BỒ-TÁT không sai khác.
Vậy mà DI-LẠC bồ tát lại khuyên THIỆN TÀI nên trở về BỔN-SƯ của mình là
BỒ-TÁT VĂN-THÙ, để trình bày SỞ HỌC, SỞ HÀNH, SỞ CHỨNG bồ-tát đạo và cầu sự thọ
ký (ẤN CHỨNG) cho.
VĂN-THÙ bồ tát ẤN-CHỨNG như thế nào?
Ngài không hiện thân ra như các vị thiện tri thức khác, mà từ xa 110
DO-TUẦN, ngài đưa Tay XOA-ĐẦU THIỆN TÀI để ẤN CHỨNG , là ý nói ngài
VĂN THÙ lúc nào cũng ở bên cạnh đệ tử của mình dù “XA” hay “GẦN”,
cũng như THIỆN TÀI chưa bao giờ rời CĂN-BẢN TRÍ (TRÍ KIM-CANG) mà không tự
biết, giống như KẼ CÙNG-TỬ trong KINH PHÁP-HOA, cho nên ngài phải XOA ĐẦU
ẤN-CHỨNG cho.
Vì cảnh-giới của chư PHẬT không phải bậc ĐẲNG-GIÁC có thể hiểu
được, phải dùng “TÍN-CĂN” mới chứng nhập được. “TÍN-CĂN” LÀ
TIN MÌNH CÙNG VỚI PHÁP GIỚI CHÚNG-SANH CŨNG CÓ “ĐẦY ĐỦ ĐỨC-TƯỚNG
TRÍ-HUỆ” NHƯ CHƯ PHẬT.
VĂN-THÙ-SƯ-LỢI BỒ TÁT
Vị Thiện Tri Thức thứ 52
dạy THIỆN TÀI về “TÍN-CĂN”
để thành tựu hạnh PHỔ-HIỀN và NHẬP PHÁP GIỚI được viên
mãn.
KINH VĂN:
Y lời dạy của Di-lặc
Bồ-Tát, Thiện-Tài đi qua hơn một trăm mười (110) thành đến nước Phổ-Môn, thành Tô-Ma-Na, ở nơi cửa thành suy tìm VĂN-THÙ
SƯ-LỢI, trông được gặp gỡ kính thờ.
Bây giờ VĂN-THÙ SƯ-LỢI
Bồ-Tát từ xa đưa tay hữu qua khỏi một trăm mười (110) do-tuần
áp trên đầu (xoa đầu) THIỆN-TÀI mà
nói rằng:
Lành thay! Lành thay! Nầy Thiện-nam-tử! Nếu rời “TÍN-CĂN” thời tâm yếu kém, lo sợ ăn-năn công-hạnh chẳng tròn đủ, thối thất tinh-cần, nơi một thiện-căn sanh lòng trụ trước, với chút ít công-đức đã cho là đủ. Chẳng thể phát khởi hạnh nguyện, chẳng được thiện-tri-thức nhiếp thọ, chẳng được Như-Lai ức niệm, chẳng biết được pháp-tánh như vậy, lý-thú như vậy, pháp-môn như vậy, công-hạnh như vậy, cảnh-giới như vậy, đều không thể biết khắp, biết nhiều, tột nguồn đáy, hiểu rõ, xu nhập giải-thoát, phân-biệt, chứng biết, chứng đắc, tất cả điều trên đây đều không thể được.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát
tuyên nói pháp ấy cho THIỆN-TÀI được lợi ích hoan-hỷ thành-tựu
vô-số pháp-môn, đầy đủ vô-lượng đại-trí quang-minh, khiến được
Bồ-Tát vô-biên-tế đà-la-ni, vô-biên-tế nguyện, vô-biên-tế tam-muội, vô-biên-tế
thần-thông, vô-biên-tế trí, khiến vào đạo-tràng phổ-hiền-hạnh.
Lại để Thiện-Tài ở tại chỗ
cũ, Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát nhiếp thần-lực chẳng hiện.
Kệ tụng:
Niềm
tin là bước đạo sơ nguyên,
Mà nỗi
trần ai lắm sự duyên!
Thoạt tưởng sen lành say cõi Tịnh
Lại nghe mai đẹp mến non Thiền.
Bồ Đề gieo khéo nguyền viên-giác
Không hữu còn thương chấp nhị-biên
Tín-đức
ví bền như hạnh nguyện
Mưa hoa
đồng dạo cảnh Tây-thiên.
( Niệm Phật Phải
DỨT-TRỪ-LÒNG-NGHI - HT THIỀN-TÂM )
KINH VĂN:
Lúc bấy giờ ngài Phổ Hiền đại Bồ Tát khen ngợi công đức thù thắng của đức Như
Lai rồi, bèn bảo các vị Bồ Tát và Thiện Tài rằng: "Này Thiện Nam Tử! Công
đức của Như Lai, giả sử cho tất cả các đức Phật ở mười phương, trải qua số kiếp
nhiều như cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật diễn nói
không ngừng, cũng không thể trọn hết được.
Nếu ai muốn trọn nên công
đức của Phật, thời phải tu mười điều hạnh nguyện rộng lớn. Những gì là mười
điều?
Một là kính lễ các đức
Phật.
Hai là khen ngợi đức Như Lai.
Ba là rộng sắm đồ cúng dường.
Bốn là sám hối các nghiệp chướng.
Năm là tùy hỉ các công đức.
Sáu là thỉnh đức Phật thuyết pháp.
Bảy là thỉnh đức Phật ở lại đời.
Tám là thường học tập theo Phật.
Chín là hằng thuận lợi chúng sanh.
Mười là hồi hướng khắp tất cả.
Bất cứ tu pháp nào đủ
“TỨ PHÁP GIỚI” đều là “Phổ Hiền Hạnh Nguyện”, tức là công
đức không cùng tận.
1.Hư không 2. Chúng
sanh 3. nghiệp của chúng sanh 4. phiền não của
chúng sanh không cùng tận, nên hạnh nguyện của Phổ-hiền cũng không cùng tận,
THÂN, KHẨU, Ý không hề nhàm chán, BẢO HỘ CHÁNH PHÁP được thường trụ, thì Vũ-trụ
sẽ không bị hủy diệt, thì tất cả công đức khác mới được thành tựu.
Lại người này lúc lâm
chung, phút cuối cùng, tất cả căn thân đều hư hoại, tất cả thân thuộc đều phải
bỏ lìa, tất cả oai thế đều bị thối thất, cho đến các quan phụ tướng đại thần,
cung thành trong ngoài, voi ngựa xe cộ, trân bảo kho đụn v.v... tất cả đều
không đem một món nào theo được. Chỉ có mười nguyện vương này chẳng rời
người mà thôi. Trong tất cả thời gian nó thường ở trước dẫn đường, trong khoảnh
khắc liền sanh về cõi Cực Lạc. Ðến Cực Lạc rồi liền thấy đức A Di Ðà Phật cùng
các ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Di Lặc Bồ
Tát, v.v... các vị Bồ Tát này sắc tướng đoan nghiêm, công đức đầy đủ chung cùng
vây quanh. Lúc bấy giờ người ấy tự thấy mình gá sanh nơi hoa sen báu, được đức
Phật xoa đầu thọ ký. Sau khi được thọ ký rồi, trải qua vô số trăm ngàn muôn ức
na do tha kiếp, khắp cả mười phương bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới,
dùng sức trí huệ tùy theo tâm của chúng sanh mà làm lợi ích. Chẳng bao lâu sẽ
ngồi nơi Bồ Ðề đạo tràng hàng phục quân ma, thành bực Chánh Ðẳng Chánh Giác
giảng nói pháp mầu vì diệu. Có thể làm cho chúng sanh trong những cõi Phật như
số cực vi trần của chúng sanh mà dạy dỗ cho thành thục, nhẫn đến cùng tận kiếp
hải, có thể làm lợi ích tất cả chúng sanh một cách rộng lớn.
Này thiện nam tử! Các chúng
sanh kia hoặc nghe, hoặc tin nơi nguyện vương rộng lớn này, rồi thọ trì đọc
tụng và giảng nói cho người nghe. Công đức của chúng sanh kia chỉ có đức Phật
Thế Tôn biết, ngoài ra không ai hiểu thấu. Vì thế nên những người được nghe
mười điều nguyện vương này chớ sanh lòng nghi ngờ, nên phải lãnh thọ, thọ rồi
nên đọc, đọc rồi có thể tụng thuộc, tụng thuộc rồi nên gìn giữ luôn, cho đến
biên chép vì người mà giảng nói. Những người như vậy, trong một niệm tất cả
hạnh nguyện đều được thành tựu, được phước vô lượng vô biên. Có thể ở trong
biển khổ phiền não cứu vớt chúng sanh, khiến chúng được giải thoát, đều được
vãng sanh về thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà.
( KINH HOA NGHIÊM-Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện)
SÁM PHỔ HIỀN
Ðệ-tử chúng đẳng,
tùy-thuận tu tập
Phổ-Hiền Bồ-tát,
thập chủng đại nguyện:
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như-Lai,
Tam giả quảng tu
cúng-dường,
Tứ giả sám-hối
nghiệp-chướng,
Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,
Lục giả thỉnh chuyển
pháp-luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ
thế,
Bát giả thường tùy Phật
học,
Cửu giả hằng thuận
chúng-sanh,
Thập giả phổ giai hồi-hướng.
Nguyện tương dĩ thử thắng
công-đức,
Hồi-hướng vô-thượng chơn
pháp-giới,
Tánh tướng Phật, Pháp cập
Tăng-già,
Nhị đế dung thông tam-muội
ấn,
Như thị vô-lượng công-đức
hải,
Ngã kim giai tất tận
hồi-hướng,
Sở hữu chúng-sanh thân,
khẩu, ý,
Kiến hoặc đàn báng ngã
pháp đẳng,
Như thị nhứt thiết chư
nghiệp-chướng
Tất giai tiêu-diệt tận vô
dư,
Niệm niệm trí châu ư
pháp-giới,
Quảng độ chúng-sanh giai
bất thối,
Nãi chí hư-không thế-giới
tận,
Chúng-sanh cập nghiệp
phiền-não tận,
Như thị tứ pháp quảng
vô-biên,
Nguyện kim hồi-hướng diệc
như-thị.
Nam-mô Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát. (3 lần)
BẠT NHỨT-THIẾT NGHIỆP-CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH-ĐỘ ĐÀ-RA-NI
Nam-mô a di
đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa điệt dạ tha.
A di rị đô bà
tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan
đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca
lệ ta bà ha.
( 21 lần)
Quang,
thọ khó suy lường
Sáng lặng khắp mười phương!
Thế-Tôn-Vô Lượng-Quang
Cha lành cõi Liên-bang.
Thần-lực chẳng Tư-nghì
Sống lâu A-tăng-kỳ,
A-Di-Đà Như Lai
Tiếp-dẫn lên liên đài.
Cực-Lạc
cõi thuần tịnh
Công-đức lạ Trang-nghiêm
Nơi tất cả quần sanh
Vượt lên ngôi Bất-thối
Mười phương Hằng-sa Phật
Đều ngợi khen Vô-lượng
Cho nên
nay chúng con
Nguyện sanh về An-Dưỡng.
Nam-mô A-DI-ĐÀ Phật
(Tùy ý, hoặc 1 ngàn câu trở lên)
KINH NIỆM
PHẬT BA LA MẬT
Đời Tấn, ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn ra Hán.
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.
PHẨM THỨ BẢY
KHUYẾN PHÁT NIỆM
PHẬT và
ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN
Lúc bấy giờ, ngài
Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát bạch Phật rằng:
- Thưa Thế-Tôn, con nay
vì thương tưởng chúng sanh nơi thời Mạt pháp, khi ấy kiếp
giảm, thọ mạng ngắn, phước đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều,
kẻ chân thật tu hành rất ít. Con sẽ ban
cho người niệm Phật thần chú Đà-ra-ni nầy, để THỦ
HỘ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng trừ sạch phiền
não, được mau chóng sanh về Cực-Lạc. Gọi là Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn
Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Đà-ra-ni. Liền nói thần chú:
Nam-mô a di
đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa điệt dạ tha.
A di rị đô bà
tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan
đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca
lệ ta bà ha.
Người niệm
Phật phải giữ giới, ăn chay, thân khẩu ý đều
phải thanh khiết. NGÀY ĐÊM SÁU THỜI, mỗi thời tụng HAI MƯƠI MỐT BIẾN. Như
vậy, diệt được các tội: Tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, và hủy
báng Chánh pháp. Thường được đức Phật A-Di-Đà HIỆN trên đỉnh
đầu. Hiện đời an ổn, phước lạc. Hơi thở cuối cùng, được tùy
nguyện mà vãng sanh Cực-Lạc. Hoặc tụng đến BA CHỤC muôn biến, liền
thấy Phật NGAY trước mặt mình.
BÀI KỆ THỨ 9
Một câu A Di Ðà
Tròn đầy mười thập nguyện
Ðâu phải đức Phổ Hiền
Dạy lầm cho xong chuyện!
Nhứt cú Di Ðà
Mãn thập đại nguyện
Khởi đắc Phổ Hiền
Thác giáo liễu biện!
LƯỢC GIẢI
Trong kinh Hoa Nghiêm,
phẩm Nhập Bất Tư Nghị Giải
Thoát Cảnh Giới, sau khi đức Phổ Hiền nói
mười Ðại Nguyện Vương, ngài liền tự phát thệ và khuyên Thiện Tài đồng tử cùng
hải chúng Bồ Tát trong biển thế giới Hoa Tạng đều nên niệm Phật hồi hướng về
Cực Lạc. Lời phát thệ như sau:
Tôi nguyện khi lúc sắp
mạng chung
Dứt trừ tất cả điều chướng ngại
Diện kiến đức Phật A Di Ðà
Liền được sanh về cõi An Lạc.
Tại sao thế? Vì muốn vào cảnh giới bất tư nghị giải thoát, muốn thành tựu các
công đức, muốn chứng Phật quả phải thật hành mười đại nguyện vương, và muốn
không bị nhiều chướng duyên làm cho thối chuyển, muốn sớm mau hoàn mãn mười Ðại
Nguyện Vương ấy, tất phải cầu sanh Cực Lạc!
Cho nên lời đức Phổ Hiền
khuyên dạy chư Bồ Tát niệm Phật cầu về Cực Lạc không phải là điều dạy bảo cạn
cợt, lạc lầm, nói suông rồi cho xong chuyện! Mà chính đó là lời khuyên dạy tối
quan yếu, bao gồm ý vị rất sâu sắc, phải suy gẫm nhiều mới thấu hiểu!
PHÁP CHIẾU ĐẠI SƯ
(Liên Tông Tứ Tổ)
Pháp Chiếu đại sư, chưa
rõ là người bậc thế nào? Trong năm Đại Lịch thứ hai đời nhà Đường, hàng đạo tục
được biết ngài ở chùa Vân Phong tại Hoành Châu, thường chuyên cần tu tập.
Một buổi sáng, vào lúc
thanh trai, ngài thấy trong bát cháo ở Tăng đường; hiện rõ bóng mây ngũ sắc.
Trong mây hiện ra cảnh sơn tự, phía Đông bắc chùa có dãy núi, chân núi có khe
nước. Phía Bắc khe nước có cửa ngõ bằng đá. Trong ngõ đá lại có một ngôi chùa
to, biển đề “Đại Thánh Trúc Lâm Tự”. Mấy hôm sau, ngài lại thấy nơi bát cháo hiện rõ cảnh
chùa lớn ấy, gồm vườn ao, lâu đài tráng lệ nguy nga, và một vạn Bồ Tát ở trong
đó.
Ngài đem cảnh tượng ấy
hỏi các bậc tri thức. Một vị cao Tăng bảo: “Sự biến hiện của chư Thánh khó nghĩ
bàn được. Nhưng nếu luận về địa thế non sông, thì đó là cảnh Ngũ Đài Sơn”. Nghe lời ấy ngài có ý
muốn đến viếng Ngũ Đài thử xem sự thật ra thế nào”.
Năm Đại Lịch thứ tư, Đại
sư mở đạo tràng niệm Phật tại chùa Hồ Đông. Ngày khai hội cảm mây lành giăng
che chốn đạo tràng. Trong mây hiện ra cung điện lầu các Phật A Di Đà cùng hai
vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí hiện thân vàng sáng chói cả hư không. Khắp thành
Hoành Châu, bá tánh trông thấy đều đặt bàn đốt hương đảnh lễ. Cảnh tượng ấy
hiện ra giây lâu mới ẩn mất. Do điềm lành này, rất nhiều người phát tâm
tinh tấn niệm Phật. Đạo tràng khai liên tiếp được năm hội.
Một hôm, Đại sư gặp cụ
già bảo: “Ông từng có ý niệm muốn đến Kim Sắc thế giới tại Ngũ Đài Sơn, để đảnh
lễ đức Đại Thánh Văn Thù sao đến nay vẫn chưa thật hành ý nguyện?”. Nói xong
liền ẩn mất. Được sự nhắc nhở, ngài sửa soạn hành trang, cùng mấy pháp hữu,
đồng viếng Ngũ Đài.
Năm Đại Lịch thứ năm,
vào ngày mùng sáu tháng tư, Đại sư cùng đồng bạn mới đến chùa Phật Quang ở
huyện Ngũ Đài. Đêm ấy, vào khoảng canh tư, ngài thấy ánh sáng lạ từ xa chiếu
đến thân mình, liền nhắm phỏng chừng tia sáng mà theo dõi. Đi được năm mươi dặm
thì đến một dãy núi, dưới chân núi có khe nước, phía Bắc khe có cửa cổng bằng
đá.
Nơi cửa có hai vị đồng
tử đứng đón chờ, tự xưng là Thiện Tài và Nan Đà. Theo chân hai đồng tử dẫn đường, ngài đến một ngôi
chùa nguy nga, biển đề: “Đại Thánh Trúc Lâm Tự”. Nơi đây đất vàng, cây báu, ao
sen, lầu các rất kỳ diễm trang nghiêm. Cảnh giởi qủa đúng như ảnh tượng đã thấy
nơi bát cháo khi trước.
Ngài vào chùa, lên giảng
đường, thấy Đức Văn Thù bên Tây, đức Phổ Hiền bên Đông. Hai vị đều ngồi tòa sư tử báu cao đẹp, đang thuyết pháp cho
một muôn vị Bồ tát ngồi phía dưới lặng lẽ lắng nghe. Pháp Chiếu bước đến chí
thành đảnh lễ, rồi qùy xuống thưa rằng: “Kính bạch Đại Thánh! Hàng phàm phu đời
mạt pháp, cách Phật đã xa, chướng nặng nghiệp sâu, tri thức kém hẹp, tuy có
Phật tánh mà không biết làm sao hiển lộ. Giáo pháp của Phật lại qúa rộng rãi
mênh mông, chưa rõ pháp môn nào thiết yếu dễ tu hành cho mau được giải thoát?”
Đức Văn Thù bảo:
Thời kỳ này chính là
đúng lúc các người NÊN niệm Phật. Trong các hành môn không chi hơn niệm Phật và
gồm tu phước huệ. Thuở đời qúa khứ, ta nhờ quán Phật, niệm Phật, cúng dường Tam
Bảo mà ĐƯỢC Nhất thiết chủng trí. Tất cả các pháp như: Bát Nhã Ba La Mật, những môn thiền định rộng sâu, cho đến chư Phật cũng từ
niệm Phật mà sanh. Vì thế nên biết, Niệm Phật là vua trong các pháp môn”.
Ngài Pháp Chiếu lại hỏi:
Bạch Đại Thánh! Nên niệm
như thế nào?
Đức Văn Thù dạy:
Về phương Tây của thế
giới này, có Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực Lạc. Đức Thế Tôn đó nguyện lực không
thể nghĩ bàn! Ngươi nên chuyên niệm danh hiệu của ngài nối tiếp KHÔNG dán đoạn,
thì khi mạng chung, quyết được vãng sanh, chẳng còn bị thối chuyển.
Nói xong, hai vị đại
Thánh đồng đưa tay vàng xoa đầu ngài Pháp Chiếu và bảo rằng:
Do ngươi niệm Phật, nên
không lâu sẽ chứng được qủa Vô thượng Bồ Đề. Nếu thiện nam tín nữ nào muốn mau
thành Phật, thì không chi hơn niệm Phật. Kẻ ấy nhất định sẽ mau lên ngôi Chánh
Đẳng Chánh Giác.
Được hai vị Đại Thánh
thọ ký xong ngài Pháp Chiếu vui mừng đảnh lễ rồi từ tạ lui ra.
Hai đồng tử khi nãy theo
sau tiễn đưa. Vừa ra khỏi cổng, ngài quay lại thì người và cảnh đều biến mất.
Ngài liền dựng đá đánh dấu chỗ ấy, rồi trở về chùa Phật Quang.
Đến ngày 13 tháng 4,
Pháp Chiếu Đại sư cùng hơn năm mươi vị Tăng đồng đến hang Kim Cang, thành tâm
đảnh lễ hồng danh ba mươi lăm đức Phật. Vừa lạy được mười lượt, ngài bỗng thấy
hang Kim Cang rộng lớn thanh tịnh trang nghiêm có cung điện bằng lưu ly, đức
Văn Thù, Phổ Hiền đồng ngự trong ấy.
Hôm khác, ngài lại đi
riêng đến hang Kim Cang, gieo mình đảnh lễ, nguyện thấy Đại Thánh. Đang khi lạy
xuống vừa ngước lên, Đại sư bỗng thấy một Phạm Tăng tự xưng là Phật Đà Ba LỴ. Vị này đưa ngài vào một
đại điện trang nghiêm, biển đề là Kim Cang Bát Nhã Tự. Toàn điện nhiều thứ báu
lạ đẹp mầu, ánh sáng lấp lánh. Dù đã nhiều lần thấy sự linh dị, nhưng ngài vẫn
chưa thuật lại với ai cả.
Tháng chạp năm ấy, ngài
nhập đạo tràng niệm Phật nơi chùa Hoa Nghiêm định kỳ tuyệt thực tu hành, nguyện
vãng sanh về Tịnh độ. Đêm đầu hôm, ngày thứ bảy, đang lúc niệm Phật, Đại sư
bỗng thấy một vị Phạm Tăng bước vào bảo: “Ông đã thấy cảnh giới ở Ngũ Đài Sơn, sao không truyền
thuật cho người đời cùng được biết?”. Nói xong, liền ẩn
mất.
Hôm sau, trong lúc niệm
Phật, vì Phạm Tăng hiện ra, bảo y như trước. Ngài đáp: “Không phải tôi dám giấu
kín thánh tích, nhưng chỉ sợ nói ra người đời không tin sanh sự chê bai mà
thôi”. Phạm Tăng bảo: “Chính đức Đại Thánh Văn
Thù hiện tại ở núi này, mà còn bị người đời hủy báng, thì ông còn lo ngại làm
chi? Hãy đem những cảnh
giới mà ông thấy được truyền thuật với chúng sanh làm duyên cho kẻ được biết,
phát khởi tâm Bồ đề”. Ngài tuân lời, nhớ kỹ lại những sự việc đã thấy, rồi nghi
chép ra truyền lại cho mọi người.
Năm sau, sư Thích Huệ
Tùy ở Giang Đông cùng với chư Tăng chùa Hoa Nghiêm, theo Pháp Chiếu đại sư đến
hang Kim Cang lễ Phật. Kế đó lại đến chỗ dựng đá lúc trước để chiêm ngưỡng dấu
cũ. Đại chúng còn đang ngậm ngùi ngưỡng vọng, bỗng đồng nghe tiếng chuông hồng
chung từ vách đá vang ra. Giọng chuông thanh thoát ngân nga, nhặt khoan ràng
rẽ.
Ai nấy đều kinh lạ đồng
công nhận những lời thuật của ngài Pháp Chiếu là đúng sự thật. Vì muốn cho
người viếng cảnh đều phát đạo tâm, Tăng chúng nhân cơ duyên ấy, khắc những sự
việc của ngài nghe thấy vào vách đá. Về sau ngay nơi đó, một cảnh chùa trang
nghiêm được dựng lên, vẫn lấy hiệu là Trúc Lâm Tự để lưu niệm.
Triều vua Đức Tông, Pháp
Chiếu đại sư mở đạo tràng niệm Phật tại Tinh Châu, cũng liên tiếp được năm hội.
Mỗi đêm vua và người trong cung nghe tiếng niệm Phật rất thanh thoát từ xa đưa
vẳng lại. Sau khi cho người dò tìm, được biết đó là tiếng niệm Phật ở đạo tràng
tại Tinh Châu, nhà vua phái sứ giả mang lễ đến thỉnh ngài vào triều. Ngài mở
đạo tràng niệm Phật tại hoàng cung, cũng gồm năm hội. Vì thế, người đương thời
gọi ngài là Ngũ Hội Pháp Sư.
Từ đó Đại sư tinh tấn tu
hành, ngày đêm không trễ. Một đêm nọ ngài thấy vị Phạm Tăng khi trước là Phật Đà Ba LỴ hiện đến bảo: “Hoa sen công đức của
ông nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc đã thành tựu. Ba năm sau là đúng thời kỳ hoa
nở, ông nên chuẩn bị”.
Đến kỳ hạn, Đại sư gọi
Tăng chúng lại căn dặn rằng: “Ta về Cực Lạc, mọi người phẳi gắng tinh tu!” Nói
xong, ngài ngồi ngay yên lặng mà tịch.
BÀI SỐ 37
Ẩn tu an phó bịnh suy già
Nhơn thế xưa nay vẫn thế mà
Giữ chắc hồng-danh thuyền
tế độ
Muôn trùng bao quản ngọn
phong ba !
NHƯ Ý : SANH GIÀ BỆNH CHẾT là thông lệ của kiếp
người, bậc lớn tuổi nên thực hành câu, Trẻ vui NHÀ Già vui CHÙA.
Đừng vì thế mà sanh ra
phiền muộn, Bài thi của Sư-cụ Bích-liên đã đề cập đến điểm này, Có thân có khổ
vậy thôi thì, Già bệnh mà buồn có ích chi, mình được sống còn không mấy
bữa, Quê Xưa cần nhẹ gót TÂY-QUY, nhưng muốn được Tây Quy phải giữ Chắc con thuyền HỒNG DANH, đi đứng nằm ngồi, khi ăn lúc ngủ đều phải niệm phật,
niệm cho đến hơi thở cuối cùng.
CHÍ TÂM là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài,
người, cảnh
Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
PHÁP-YẾU-TU-HÀNH
H.T Thích-Thiền-Tâm
Tiết 26 - Hạnh Tinh Chuyên Cũng Là Điểm Không Thể Thiếu
Như trên đã nói, điểm
thiết yếu của môn Niệm Phật là phải phát NGUYỆN vãng sanh. Nếu nghĩ rằng: "Ta chỉ cầu niệm hồng danh muôn đức của Phật A Di
Đà cho thật nhiều, tự nhiên sẽ có vô lượng công đức; dù không vãng sanh, công
đức ấy cũng chẳng mất." Nghĩ như thế là
sai lầm nguy hiểm và thiếu trí huệ.
Bởi có HẠNH mà không
NGUYỆN thì công đức ấy sẽ biến thành phước báo ở đời sau.
Đời thứ hai đã hưởng si phước tất dễ tạo nghiệp, sang đời thứ ba
nhất định phải bị đọa lạc tam đồ, đó là điều sai lầm, nguy hiểm!
Vì thế, ở trên
mới gọi TÍN NGUYỆN là "huệ hạnh".
Đã có đủ Tín Nguyện
mà thiếu phần Hạnh, ví như chiếc thuyền có lái không chèo, cũng không
thể vãng sanh. Có kẻ nghe nói: "Chỉ cần tín nguyện chân
thiết, khi lâm chung mười niệm hay MỘT niệm cũng quyết được sanh Tây Phương",
thì liền nghĩ rằng:
"Nếu
như thế cần chi phải vội gấp, để lúc sắp chết niệm Phật cũng
được!" Ý niệm này cũng sai lầm, bởi vì quá xem thường hành môn Niệm Phật.
Phải biết, điểm quan yếu để vãng sanh, theo trong kinh văn là:
"Người ấy khi lâm chung lòng không điên đảo". (Thị nhơn chung thời tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh
A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ - Kinh Phật Thuyết A Di Đà).
Như quả lúc
lâm chung lòng không điên đảo, thì niệm mười niệm hay một niệm cũng được vãng
sanh. Nhưng ai dám bảo rằng: mình khi lâm chung lòng không điên đảo?
Nếu lúc bình thời không
tinh chuyên dụng công, đến khi mạng chung bốn đại phân ly, sức nghiệp dồn dập,
thân tâm bị sự khổ làm cho kinh hoàng mê loạn, sợ e một
niệm cũng không thể thật hành huống chi mười niệm?
Như muốn cho khi lâm
chung có phần bảo đảm, lúc bình thời hành giả phải tinh chuyên niệm Phật
cho nhiều, và gắng tu tập trình độ "Nhứt Tâm Bất Loạn". Bằng chỉ đợi khi sắp chết mới niệm, trên đạo
lý nói ra thì cố nhiên suốt thông, nhưng lại e trên sự thật chẳng
phải là đơn giản.
Cho nên các hành giả niệm
Phật phải gắng dụng công, đừng lơ là khinh thường sự hành trì, mà rước lấy nỗi
thất bại.
Một câu A Di Ðà
Ðem toàn thân đội trải
Mạng người rất vô thường
Tháng ngày không trở lại.
Nhứt cú Di Ðà
Toàn thân đảnh đái
Nhơn mạng vô thường
Quang âm bất tái!
LƯỢC GIẢI
Cổ nhơn đã bảo: Trên
đường tiến tu đạo giải thoát, có bốn điều khó:
ÐIỀU THỨ NHẤT là: Thân NGƯỜI rất khó được. Khi xưa đức Phật đã nói
với ngài A Nan: "Chúng sanh được thân trời, người ít như đất nơi móng tay.
Ðọa bốn ác thú nhiều như đất miền đại địa". Ðọa vào các nẻo như: Tu La,
bàng sanh, ngạ quỉ, địa ngục, bị nhiều nỗi thống khổ và nghiệp ác làm chướng
ngại đường tu đã đành, nhưng sanh lên cõi trời cũng bị sự vui khiến cho mê đắm khó
tu nữa! Thế nên duy có thân người mới dễ tiến tu đạo giải thoát mà thôi.
Người xưa đã từng diễn
tả sự khó được của thân người qua mấy câu thi như:
Ngàn năm cây sắt đơm hoa dễ
Một mất thân người khó lại sanh!
(Thiên niên thiết thọ
khai hoa dị
Nhứt thất nhơn thân tái phục nan!)
Hoặc:
Tam đồ một đọa trăm ngàn kiếp
Lại cõi nhơn thiên chẳng hẹn ngày!
(Tam đồ nhứt đọa bá
thiên kiếp
Tái xuất đầu lai hữu kỷ thời!)
Thân người đã khó được như thế, nhưng làm thân người mà không tàn tật, không
sanh nơi Biên Ðịa, được ở nơi trung tâm văn hóa đạo đức cũng là điều khó. Và
đây là CÁI KHÓ THỨ HAI.
Dù được ở miền trung quốc có văn hóa đạo đức, nhưng không dễ gì được gặp và nghe hiểu Phật pháp. Bởi chánh pháp như hoa Ưu-đàm-bát-la, rất lâu mới nở hiện nơi cõi đời. Ðây là ĐIỀU KHÓ THỨ BA.
Lại tuy được gặp và nghe hiểu Phật pháp để tu hành, nhưng còn ĐIỀU THỨ
TƯ rất khó là không dễ gì thoát khỏi tam giới, dứt hẳn nổi khổ sống
chết luân hồi. Bởi nhân loại phần đông nghiệp nặng căn tối, chướng duyên rất
nhiều, kiếp sống lại vô thường ngắn ngủi, mới vừa thấy đó, bỗng lại mất đi.
Nay chúng ta hân hạnh
được thân người, lại rất may mắn gặp môn Tịnh Ðộ là pháp cực nhiệm mầu, một đời
có thể đới nghiệp vãng sanh thoát vòng sống chết, thì phải đem toàn thân mà
gánh vác thọ trì, đừng nên lần lựa hẹn chờ, hoặc thờ ơ biếng trễ.
Tại sao thế?
Vì bóng quang âm
thấp thoáng như thoi đưa, tuổi xuân không trở lại, mạng người thoạt còn thoạt
mất không biết đâu mà lường. Khi xưa có thiền sinh hỏi một vị tôn đức:
"Bạch ngài! Thế nào là sự tiến tu của hành giả?" Vị tôn đức đáp:
"Thấy nói Kinh Kha
xưa dõng mãnh.
Một đi thà chết chẳng
quay về!".
(Kiến thuyết Kinh Kha
lữ.
Nhứt hành cánh bất hồi).
Hành giả đem toàn thân trải đội một câu A Di Ðà, cũng phải như thế.
HUỆ NHỰT
Huệ Nhựt đại sư, họ Tân,
người ở Đông Lai. Ngài đắc độ vào thuở vua Trung Tôn đời Đường. Buổi thiếu
thời, rất mến hạnh sang Tây Vức thỉnh kinh của Nghĩa Tịnh tam tạng.
Sau đó, đại sư theo thương
khách nương thuyền vượt biển sang Ấn Độ. Trải qua ba năm ngài đến xứ Thiên
Trúc, đi khắp nơi lễ thánh tích của Phật, và tìm thỉnh các bản kinh chữ Phạn.
Cuộc hành trình ghi đậm nhiều kinh lịch gian khổ, khiến đại sư rất nhàm chán
cõi Ta Bà. Do đó ngài tham phỏng khắp các vị Tam tạng Pháp sư ở Thiên Trúc, xem
cõi nước nào thuần vui không khổ, và pháp hạnh nào mau được thấy Phật. Các vị ấy
đều khuyên nên tu Tịnh độ, cầu về Cực Lạc. Đại sư đảnh lễ, nguyện xin tin nhận
thật hành.
Cuộc du hành đưa ngài dần
đến xứ Kiền Đà Ca thuộc miền Bắc Ấn Độ. Phía đông bắc thành vua nước ấy có tòa
núi to, trên núi có đền thờ Bồ Tát Quán Thế Âm. Tương truyền, nếu kẻ nào đến
được trước tượng đảnh lễ cầu thỉnh, Bồ Tát sẽ hiện thân dạy bảo cho những điều
cần thiết.
Đại sư đến nơi đảnh lễ bảy
ngày, rồi tuyệt thực niệm thánh hiệu đại sĩ, liều chết cầu được ứng nghiệm.
Tới đêm thứ bảy, Quán Thế
Âm Bồ Tát hiện thân sắc tử kim cao hơn một trượng ngồi trên đài sen báu giữa hư
không, duỗi cánh tay xuống xoa đầu ngài rồi bảo:
“Ngươi muốn hoằng pháp,
lợi mình lợi người, cần phát tâm niệm thánh hiệu đức A Di Đà, nguyện về thế
giới Cực Lạc ở phương Tây. Khi đến cõi ấy sẽ thấy Phật và Ta, được sự lợi ích
lớn. Ngươi nên ý thức pháp môn Tịnh độ rất mầu nhiệm, vượt hơn tất cả hạnh tu!”
Nói xong, liền ẩn mất.
Lúc bấy giờ do tuyệt thực
lâu, đại sư đã khổn bại. Nhưng sau khi nghe Bồ Tát dạy bảo, tinh thần ngài bỗng
phấn chấn, sức khỏe lần phục hồi. Từ đó lòng đã kiên quyết, nguyện nhứt tâm
hành trì không thối chuyển.
Sau khi ấy, ngài vượt ngọn
Thông Lãnh, trở về Trung Quốc. Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ bảy đời Đường, mới
về tới Trường An. Cuộc hành trình trước sau kể có mười tám năm, trải qua hơn
bảy mươi nước. Lúc vào kim điện triều kiến, dâng lên tượng Phật và các bản
kinh, đại sư được vua tứ hiệu là Từ Mẫn tam tạng. Từ đó ngài tinh tấn niệm
Phật, hoằng truyền về môn nầy, trứ tác quyển Vãng Sanh Tịnh Độ Tập lưu hành nơi
đời.
Đến năm Thiên Bảo thứ bảy,
đại sư viên tịch. Trước giờ lâm chung, ngài thấy hoa sen lớn hiện ra trước mặt,
sáng chói rực rỡ như vầng mặt trời.
TÂY TRAI TỊNH ĐỘ THI
Nhật lặn lòng mơ hướng
Lạc bang
Đường về quê thẳng tợ
giây đàn!
Giữa trời nhạc đón nhiều thanh điệu
Trên nước sen chào mỗi sắc quang.
Cây bích cành dao trời báu lạ
Áo châu cơm ngọc cảnh vui nhàn.
Năm mươi niên trải nhiều luân lạc
Tiếp dẫn cha trao đại bảo tàng.
Mỗi đóa sen hàm một
thánh thai
Cộng thành nở đẹp cánh
hoa tươi.
Nơi thân anh lạc tùy tâm hiện
Đầy bát hương tô ứng niệm bày
Kim điện chói ngời mờ nhật nguyệt
Ngọc lâu sáng sạch tuyệt trần ai.
Pháp vương chỉ rõ đường chân đế
Ánh giác đài tâm tỏa
rộng khơi.
Châu thành điện các, ngọc viên lâm
Ngồi đứng kinh hành đất bảo kim.
Xá lợi vang hòa tuyên diệu kệ
Tần dà thảnh thót trổi tiên âm.
Soi lòng tỏ ngộ vô sanh lý
Luyện tánh tròn linh bất động tâm
Chạm mắt nơi nơi đều Tịnh độ
Xưa nay trong sáng dứt suy tầm!
Cõi lành, câu Phật kết
nhân duyên
Hai sáu thời gian giữ hiện tiền!
Mỗi xuống hoàng hôn thêm hướng niệm
Xa theo trời lặn đến Tây thiên.
Phật đà tay báu xin xoa đảnh
Đại sĩ thân vàng nguyện hóa duyên.
Chẳng mượn bào thai thành chất huyễn
QUÊ XƯA đã sẵn ngọc trì liên.
BÀI SỐ 38
Ẩn tu suy gẫm sức hồng danh
Phước huệ Tăng-kỳ kết tụ
thành
Sáu chữ chí tâm tiêu vạn
tội
Một câu chín phẩm thoát
siêu sanh.
NHƯ Ý : ĐỨC A-DI-ĐÀ trong vô lượng vô biên a tăng Kỳ-kiếp
đã tu sáu độ muôn hạnh, đến khi thành PHẬT mới có TÔN hiệu ấy. Bởi thế nên
Hồng-danh của ngài là sự KẾT-TỤ, là tinh túy của TRÍ-HUỆ Phước-đức đã tu bồ-tát
hạnh trong VÔ BIÊN KIẾP; trong KINH có chỗ nói về 10 CÔNG ĐỨC CỦA SỰ
NIỆM PHẬT.
TRÍ-ĐỘ LUẬN cũng đề cập
đến công năng Thù Thắng của niệm PHẬT tam-muội. Nên NIỆM Phật sẽ tiêu TỘI
chướng, sanh PHƯỚC Huệ trừ TÀ ma, trị LÀNH bệnh; hiện ra các tướng Kiết-tường.
Có vị phật tử đến chùa
than nghèo khổ, một Sư-cụ bảo: Chỉ sợ MI không thuộc câu A-di-đà, nếu
THUỘC CÂU A-DI-ĐÀ HƯỞNG TỚI GIÀ CŨNG KHÔNG HẾT, chỉ cần phải lưu ý đến
chữ THUỘC (Là hết lòng THÀNH KÍNH) này.
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng THÀNH KÍNH
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
Lắng lòng suy gẫm sâu
Công đức làm sao được?
Phật là ÐẠI-Y-VƯƠNG
Pháp là DIỆU-TIÊN-DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma , quỷ mị
Nạn động đất, xe, thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải thoát
PHÁP YẾU TU HÀNH
H.T Thích-Thiền-Tâm
10 CÔNG ĐỨC CỦA SỰ NIỆM
PHẬT
Trong kinh nói: “ Người
nào CHÍ TÂM niệm Phật, được mười món công đức như sau:
1.- Thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, Đức A-Di-Đà
phóng quang nhiếp thọ.
2.- Thường được các vị Đại Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm
thủ hộ.
3.- Ngày đêm thường được chư Thiên cùng Đại lực Thần
tướng ẩn hình ủng hộ.
4.- Tất cả Dạ-xoa, ác quỉ, rắn độc, thuốc độc đều
không thể làm hại.
5.- Không bị những tai nạn: nước, lửa, đao, tên, gông,
xiềng, lao ngục, giặc cướp, oan gia, cùng các thứ chết dữ.
6.- Những tội đã làm thảy đều tiêu diệt, những kẻ chết
oan vì mình đều được giải thoát, không còn kết oán rằng buộc.
7.- Ban đêm nằm ngủ thường thấy điềm lành, hoặc thấy
sắc thân thắng diệu của Phật A-Di-Đà.
8.- Tâm thường vui vẻ, sắc thường tươi nhuận, khí lực
đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp lợi ích.
9.- Mọi người trông thấy đều vui mừng, cung kính hoặc
lễ bái cũng như kính Phật.
10.- Khi mạng chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được Tây phương Tam-Thánh tiếp dẫn sanh về Tịnh-Độ hưởng sự an vui không cùng!”
Ngài lại tạo bộ luận Đại
Trí Độ, trong đoạn khai thị về pháp môn Tịnh độ có dạy:
“Niệm Phật tam muội có
thể trừ các thứ phiền não và những tội đời trước. Các pháp tam muội khác, có
môn trừ được nghiệp dâm không thể trừ được nghiệp sân. Có môn trừ được nghiệp
sân không thể trừ nghiệp dâm. Có môn trừ được nghiệp si, không thể trừ dâm,
sân. Có môn trừ được ba độc tham, sân, si, không thể trừ các tội đời trước. Môn
Niệm Phật tam muội có thể trừ các thứ phiền não và các thứ tội chướng. Lại nữa,
Niệm Phật tam muội có phước đức lớn, hay độ chúng sanh. Chư Bồ Tát muốn mau
diệt tội chướng, được nhiều phước đức, sớm độ chúng sanh, không chi hơn tu môn
Niệm Phật tam muội…”
( LONG-THỌ ĐẠI SĨ )
Một câu A Di Ðà
Thưởng kẻ có công hay
Yến tiệc vua đầy trước
Châu mái tóc nơi tay.
Nhứt cú Di Ðà
Hữu công giả thưởng.
Vương thiện dinh tiền
Kế châu tại chưởng.
LƯỢC
GIẢI
Trong kinh Pháp Hoa, đức
Phật có thí dụ đại khái: "Như vua Chuyển Luân đem quân dẹp giặc, thấy
những binh tướng có công, đều tùy phần mà thưởng, hoặc cho y phục, châu báu,
chí đến thành ấp tụ lạc. Duy hạt minh châu nơi mái tóc chẳng đem cho, vì riêng
trên đảnh vua chỉ có MỘT viên bảo châu ấy thôi. Nếu vua thấy vị nào có công
lớn, mới đem hạt ma ni vô giá để từ lâu nơi mái tóc ra cho.
Ðức Như Lai cũng như thế,
nếu thấy hàng đệ tử y theo các kinh khác dứt trừ ba độc năm ấm, liền ban cho
các pháp thiền định, giải thoát, chí đến thành Niết Bàn, bảo rằng đã diệt độ.
Nhưng riêng kinh Pháp Hoa lại không nói ra, vì kinh này rất sâu khó tin, quí
báu bậc nhứt. Nếu hàng đệ tử nào có công lớn phá các vô minh phiền não, vượt ra
ba cõi, phát tâm Ðại Thừa, mới đem kinh Pháp Hoa là tạng bí mật, từ lâu hằng
nghiêm cẩn giữ gìn, ngày NAY tuyên thuyết".
MÔN NIỆM PHẬT cũng như thế, là Bí Mật Tạng chỉ thưởng riêng cho
những kẻ có công tin nhận diệu pháp thành Phật này. Tin tưởng và thật hành theo
môn Niệm Phật tức như người đã có trước mặt yến tiệc đầy đủ sơn hào hải vị của
vua ban, đã cầm vào TAY viên minh châu nơi mái tóc của Chuyển Luân vương vậy.
HỒ YỂN
Cư sĩ Hồ Yển, tự Đại
Phu, quê ở Tiền Đường. Đời Tống, ông làm quan Tuyên nghĩa lang. Lúc lớn tuổi
trí sĩ thường cùng Thanh Chiếu Luật sư tới lui tham luận về đạo lý.
Một hôm ông cảm bịnh,
sai con mời ngài Thanh Chiếu đến. Khi Luật sư tới thăm, có nhắc nhở rằng: “Bình
sanh Đại Phu đã cùng Huệ Hanh nầy thân cận nhau, há chẳng rõ một việc lớn sau
rốt đó ư?” Hồ Yển nói: “Có phải là
tâm thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh chăng?” Thanh Chiếu bảo: “Trong tất cả thời, cư sĩ đã được
không một niệm nhiễm ô chưa?” Ông đáp: “Chưa được!”
Luật sư nói: “Như thế
thì đâu có thể luận đến việc tâm thanh tịnh cõi Phật thanh tịnh!” Hồ Yển hỏi:
“Kinh nói: Xưng một câu A Di Đà Phật, diệt được tội nặng trong tám mươi ức kiếp
sanh tử, là thế nào?”
Thanh Chiếu đáp:
“Đức A Di Đà có thệ nguyện sâu, oai đức lớn, phước huệ
ánh sáng và thần lực đều không thể nghĩ bàn! Do đó nên khi xưng danh hiệu ngài,
tội chướng tự tiêu. Như vầng nhựt rạng chiếu giữa trời, tuyết sương đâu còn
nữa!”
Hồ Yển nghe nói cảm ngộ
lớn, một lòng chí thiết xưng danh hiệu Phật. Lại sai con thỉnh chư tăng đến trợ
niệm. Độ một tháng qua, cuối cùng Thanh Chiếu luật sư lại tới thăm.
Cư sĩ bảo: “Ngài đến sao
muộn thế?
Đã phiền hai vị Bồ Tát
Quán Âm, Thế Chí giáng lâm từ lâu rồi!” Luật sư nghe nói, liền cùng chư tăng xưng danh
hiệu Phật trợ niệm. Được một lúc, cư sĩ an nhiên mà qua đời.
HOẰNG NGUYỆN VÀ ĐẠI HẠNH
Thuật theo Kinh : Vô Lượng Thọ
Trong thời kỳ tu nhơn, Đức Từ Phụ ta vì lòng từ bi quá thiết đối với tất cả chúng sanh, chẳng những muốn sao cho mọi loài đều khỏi tất cả sự khổ, mà còn nặng trĩu lấy quan niệm : Để tất cả chúng sanh ở vĩnh viễn trong sự an vui hoàn toàn và bảo đảm chắc chắn trên con đường đi đến quả Phật.
Vì quan niệm đại từ này, nên lúc còn là một vị Bồ Tát, Đức Từ Phụ ta luôn canh cánh bên lòng một tâm chí bất di dịch : Tạo một thế giới vô cùng trang nghiêm thanh tịnh thuần vui, để làm gia hương của muôn loài, của tất cả chúng sanh mười phương.
Tâm trí cao thượng đại từ đại bi ấy đã làm cho vua Vô Tránh Niệm (tiền thân của Từ Phụ) lập nguyện nơi Đức Bảo Tạng Như Lai, và cũng đã làm cho Sa môn Pháp Tạng tha thiết thỉnh cầu Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai hiện hai trăm mười ức thế giới của thập phương chư Phật cho người được thấy được nghe, rồi người lọc lựa lấy thuần những sự trang nghiêm thanh tịnh nhứt trong những thế giới ấy, để hiệp thành một Tịnh Độ của người sau này. Và liền đó trong thời gian năm kiếp, người đã chuyên cần suy gẫm những công hạnh phải tu để thực hiện Tịnh Độ ấy.
Việc lọc lựa và suy gẫm này đã kết thành 48 điều hoằng nguyện, mà người đã trịnh trọng tuyên ra, dưới sự chứng minh của Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai.
HOẰNG NGUYỆN
Do 48 điều nguyện này nên Đức Từ Phụ có những thiện duyên với chúng sanh trong mười phương nhứt là cõi trược uế khổ não. Đọc và suy gẫm kỹ ta sẽ được nhiều lợi ích lớn :
1. Lòng tín nhiệm nơi Đức Từ Phụ càng sâu.
2. Tăng trưởng Bồ-đề tâm
3. Rõ được cảnh giới trang nghiêm ở cõi Cực Lạc.
4. Hiểu được đặc điểm cao quý của người Cực Lạc.
5. Ham mộ về Cực Lạc và phấn chí tu hành.
Vì có nhiều lợi ích lớn ấy, nên Cổ đức rất trọng 48 đại nguyện này. Người thời thuộc nằm lòng, vị thời siêng lễ lạy. Mong chư độc giả cố gắng lướt qua quan niệm nhàm phiền.
Điều nguyện thứ 1.- Lúc tôi thành Phật, nếu trong cõi nước tôi có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 2.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi sau khi thọ chung còn lại sa vào ba ác đạo, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 3.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi thân chẳng màu vàng ròng tất cả, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 4.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi thân hình có kẻ tốt người xấu chẳng đồng nhau, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 5.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng có Túc mạng thông, ít nhứt là biết rõ những việc trong trăm nghìn ức na-do-tha kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 6.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng được thiên nhãn, ít nhứt là thấy rõ trăm nghìn ức na-do-tha thế giới của chư Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 7.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng được thiên nhĩ, ít nhứt là nghe và thọ trì tất cả lời thuyết pháp của trăm nghìn ức na-do-tha Đức Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 8.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng được tha tâm trí, ít nhứt là biết rõ những tâm niệm của tất cả chúng sanh trong trăm nghìn ức na-do-tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 9.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng được thần túc, khoảng một niệm, ít nhứt là lướt qua khỏi trăm nghìn ức na-do-tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 10.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi còn có quan niệm tham chấp lấy thân, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 11.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng trụ Chánh định tụ, nhẫn đến trọn diệt độ, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 12.- Lúc tôi thành Phật, nếu quang minh còn hữu hạn, ít nhứt chẳng chiếu thấu trăm nghìn ức na-do-tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 13.- Lúc tôi thành Phật, nếu thọ mạng còn hữu hạn, ít nhứt chẳng đến trăm nghìn ức na-do-tha kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 14.- Lúc tôi thành Phật, chúng Thanh Văn trong cõi nước tôi, nếu có ai tính đếm biết được số bao nhiêu, dầu đó là vô lượng Bích Chi Phật đồng tính đếm trong trăm nghìn kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 15.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi thọ mạng còn hữu hạn, trừ người có bổn nguyện riêng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 16.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi còn có người nghe danh từ bất thiện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 17.- Lúc tôi thành Phật, nếu vô lượng chư Phật trong thập phương thế giới chẳng đều ngợi khen xưng danh hiệu của tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 18.- Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn sanh về cõi nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác, trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng Chánh pháp.
Điều nguyện thứ 19.- Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát Bồ-đề tâm tu các công đức nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 20.- Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước tôi và tu các công đức chí tâm hồi hướng muốn sanh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 21.- Lúc tôi thành Phật, nếu như hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, tất cả chẳng đều đầy đủ ba mươi hai đại nhơn tướng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 22.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở cõi khác sanh về nước tôi, cứu cánh quyết đều đến bậc Nhứt sanh bổ xứ, trừ người có bổn nguyện riêng tự tại hóa hiện, vì chúng sanh mà phát hoằng thệ tu các công đức độ thoát mọi loài, đi khắp các thế giới tu Bồ Tát hạnh, cúng dường thập phương chư Phật, khai hóa vô lượng chúng sanh, làm cho tất cả đều đứng vững nơi đạo Vô thượng Chánh giác, siêu xuất công hạnh của các bậc thông thường, hiện tiền tu tập đức của Phổ Hiền, nếu chẳng như thế thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 23.- Lúc tôi thành Phật, các Bồ Tát trong cõi nước tôi, thừa thần lực của Phật mà đi cúng dường thập phương chư Phật, trong khoảng thời gian một bữa ăn, nếu không đến khắp vô lượng vô số ức na-do-tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 24.- Lúc tôi thành Phật, các Bồ Tát ở trong cõi nước tôi, khi ở trước thập phương chư Phật hiện công đức của mình muốn có những vật cúng dường, nếu không được đúng như ý muốn, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 25.- Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát trong cõi nước tôi không diễn thuyết được Nhứt thiết trí, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 26.- Lúc tôi thành Phật, nếu các Bồ Tát trong cõi nước tôi chẳng đều được thân kim cương na la diên, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 27.- Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi, tất cả đồ dùng của nhơn thiên, hình sắc đều sáng đẹp sạch sẽ rất tột vi diệu, không có thể tính biết, dầu là người được thiên nhãn. Nếu có người biện danh số các đồ ấy được rõ ràng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 28.- Lúc tôi thành Phật, nếu Bồ Tát trong cõi nước tôi, dầu là người ít công đức nhứt, chẳng thấy biết được cội cây đạo tràng cao bốn trăm muôn do tuần, vô lượng quang sắc, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 29.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong cõi nước tôi nếu thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết Kinh pháp, mà chẳng được trí huệ biện tài, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 30.- Lúc tôi thành Phật, nếu có ai hạn lượng được trí huệ biện tài của Bồ Tát trong cõi nước tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 31.- Lúc tôi thành Phật, cõi nước tôi thanh tịnh, nơi nơi đều soi thấy tất cả vô lượng vô số bất tư nghị thế giới ở mười phương, như là thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng được như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 32.- Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi từ mặt đất vàng lên đến hư không, lầu nhà cung điện, ao nước hoa cây, tất cả vạn vật đều là vô lượng chất báu và trăm nghìn thứ hương hiệp chung lại mà thành. Vạn vật đều xinh đẹp kỳ diệu, mùi thơm xông khắp thập phương thế giới, Bồ Tát các nơi ngửi đến mùi thơm ấy thời đều tu hạnh của Phật. Nếu chẳng như vậy, tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 33.- Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, được quang minh của tôi chạm đến thân, thời thân tâm nhu nhuyến nhẹ nhàng hơn thiên nhơn. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 34.- Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương nghe danh hiệu của tôi mà không được Vô sanh Pháp nhẫn cùng các môn thâm tổng trì, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 35.- Lúc tôi thành Phật, các người nữ trong vô lượng bất tư nghị ở mười phương vui mừng tin mến phát Bồ-đề tâm, nhàm ghét thân gái. Nếu sau khi mạng chung mà còn làm thân người nữ nữa, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 36.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương nghe danh hiệu tôi, vẫn thường tu phạm hạnh mãi đến thành Phật. Nếu chẳng đặng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 37.- Lúc tôi thành Phật, hàng nhơn thiên trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương nghe danh hiệu tôi, cúi đầu đảnh lễ, năm vóc gieo xuống đất, vui mừng tin mến tu Bồ Tát hạnh, thời chư Thiên và người đời đều kính trọng người đó. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 38.- Lúc tôi thành Phật, hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi muốn có y phục, thời y phục tốt đúng pháp liền theo tâm niệm của người đó mà tự nhiên đến trên thân. Nếu còn phải cắt may nhuộm giặt, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 39.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi hưởng thọ sự vui sướng không như vị lậu tận Tỳ kheo, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 40.- Lúc tôi thành Phật, các Bồ Tát trong cõi nước tôi tùy ý muốn thấy vô lượng thế giới nghiêm tịnh của chư Phật ở mười phương, thời liền được thấy rõ cả nơi trong cây báu đúng theo ý muốn như thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 41.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó nhẫn đến lúc thành Phật mà các sắc căn còn thiếu xấu, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 42.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, thảy đều được giải thoát Tam muội. Trụ Tam muội đó, trong khoảng thời gian một niệm, cúng dường vô lượng bất tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà vẫn không mất chánh định. Nếu chẳng như vậy thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 43.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi, sau khi mạng chung thác sanh nhà tôn quý, nếu chẳng như vậy thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 44.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn hở, tu Bồ Tát hạnh vẹn đủ công đức, nếu chẳng như vậy thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 45.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi đều đặng Phổ đẳng Tam muội, trụ Tam muội này mãi đến lúc thành Phật, thường được thấy vô lượng bất tư nghị tất cả chư Phật. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 46.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong cõi nước tôi muốn nghe pháp gì, thời liền tự nhiên đặng nghe pháp ấy. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 47.- Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng được đến bậc bất thoái chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 48.- Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, mà chẳng liền được đệ nhứt Âm hưởng nhẫn, đệ nhị Nhu thuận nhẫn, đệ tam Vô sanh Pháp nhẫn, ở nơi Phật pháp chẳng liền được bậc bất thoái chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
ĐẠI HẠNH
Trong Vô Lượng Thọ Kinh, sau lúc tường thuật 48 điều hoằng nguyện của Pháp Tạng Bồ Tát xong, Đức Bổn Sư phán tiếp :
Sau khi lập hoằng nguyện này rồi, Pháp Tạng Bồ Tát chuyên chí trang nghiêm tịnh độ. Cõi nước của người tu tạo rất rộng lớn tốt đẹp, siêu thắng hơn tất cả, y nhiên thường lập, không hư, không đổi. Trong thời gian vô lượng bất tư nghị triệu tải kiếp, người gây trồng vô lượng đức hạnh Đại thừa. Không có tưởng niệm : dục, sân, hại. Chẳng hề ham mê cảnh lục trần : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Người thành tựu nhẫn lực không kể đến sự khổ nhọc. Lúc nào người cũng thiểu dục tri túc : không tham, không sân, không si. Tâm người thường yên lặng nơi chánh định, trí huệ vô ngại. Người không bao giờ có lòng dua dối. Nét mặt người luôn luôn vui vẻ, lời nói dịu dàng, niềm nở hỏi han. Chí nguyện luôn tinh tấn dũng mãnh không hề nhàm mỏi : Người chuyên cần cầu lấy pháp trọn lành để lợi ích quần sanh. Với Tam Bảo thời người cung kính. Với Sư trưởng thời người phụng thờ. Người dùng công hạnh đại trang nghiêm hoàn mãn của người mà làm cho chúng sanh thành tựu công đức. Người quan sát các pháp đều như huyễn, như hóa, không tạo tác, không sanh khởi, luôn trụ trong môn giải thoát : không, vô tướng, vô nguyện. Người xa hẳn lời nói thô cộc : hại mình, hại người, mình người đồng hại. Người tu tập trọn nên lời nói hiền lành : lợi mình, lợi người, mình người đồng lợi. Người vất bỏ sự giàu sang, xa tránh những tài sắc. Người thực hành sáu pháp Ba-la-mật : bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, và dạy mọi người cùng thực hành. Người giáo hóa an lập vô số chúng sanh làm cho đều đứng vững nơi đạo Vô thượng Chánh giác. Vì độ chúng sanh mà người hiện thân trong mọi loài, cùng đồng hình thể, cùng đồng ngôn ngữ, để tùy cơ tùy thời mà dìu dắt...
Pháp Tạng Bồ Tát có vô lượng công đức như vậy không thể kể hết. Người thực hiện hoàn thành những hoằng nguyện của người đã lập : Người đã thành Phật hiệu là A Di Đà tại Cực Lạc thế giới, cách đây mười muôn ức cõi về hướng Tây, và hiện tại đang thuyết pháp nơi ấy...
LỜI PHỤ.- Trong 48 điều hoằng nguyện, nguyện nào cũng đồng một mục đích đại từ bi :
Làm cho chúng sanh ở vĩnh viễn trong cảnh an vui hoàn toàn và bảo đảm chắc chắn trên con đường thành Phật.
Đến đại hạnh độ mình độ người để thực hiện bốn nguyện trên, trong ấy, bao nhiêu là sự dũng mãnh tinh tấn, bao nhiêu là sự kiên nhẫn cần lao. Kể sao xiết nơi hạnh thanh tịnh ! Kể sao xiết nơi trí cao thượng ! Không nệ khó, không nệ nhọc. Thật là làm những điều khó làm, nhẫn những điều khó nhẫn.
Vì ai mà trong lúc tu nhơn, Đức Từ Phụ ta phải trải qua thời gian vô lượng số kiếp cần khổ thực hành Bồ Tát hạnh như thế ? Chỉ vì chúng sanh ! Vì để cứu khổ ban vui cho mọi loài, cho chúng ta thôi !
Nhơn hạnh của Đức Từ Phụ chúng ta đã được biết. Giờ đây chúng ta nên đọc đến những trang Kinh, mà nơi ấy, Đức Bổn Sư của chúng ta giảng về quả địa của Từ Phụ.
Thân tướng thù thắng của A Di Đà Phật và hai vị Bồ Tát phụ bật.
Cảnh Tịnh Độ trang nghiêm : “Cực Lạc thế giới”.
BÀI SỐ
39
Ẩn tu tuy chửa (chưa) đến Tây Phương
Cành ngọc chim linh ứng
mộng thường
Rõ biết tâm lành sanh cảnh
tịnh
QUẢ-NHÂN cảm hiện lẽ CHIÊU CHƯƠNG. (ĐƯƠNG NHIÊN)
NHƯ Ý : Như trên Đã nói HỒNG DANH A-DI-ĐÀ là kết tinh
của vô lượng Phước-Đức Trí-Huệ, nên khi niệm Phật thì những công năng quả báo
lành ứng HIỆN.
Có nhiều vị hoặc TRONG
Giấc-mộng hoặc ĐANG lúc niệm-Phật, thấy Hoa sen Ao báu, Lưới châu, Lầu ngọc,
Chim linh, Đất vàng… Cho đến Phật, Bồ tát cảm hiện; những điều này trong Vãng
Sanh lục và Tịnh Độ Thánh Hiền lục (MẤY ĐIỆU SEN THANH) đều có ghi chép.
NIỆM PHẬT THẬP YẾU
Tiết 16 - Những Điều Làm
Giảm Phá Niềm Tin
Trong giới tu hành, có
những kẻ cũng khuyên dạy niệm Phật, song lại giáo hóa theo cách thức của ngoại
đạo. Lại có những vị vì chưa thông hiểu hay nhận thức sai lạc về Tịnh Độ, nên
sanh ra bài báng. Đại khái như bảo:
Tịnh Độ là môn hành trì
của ông già bà cả, hạng căn cơ thấp kém - tu Tịnh Độ là ỷ lại yếu
hèn, không thể tự lực giải thoát nổi, phải nhờ cậy vào tha
lực – hay niệm Phật là pháp hủ bại chờ chết, chỉ độ tử chớ không
độ sanh.
Những sự lạm dụng và hiểu
lầm trên đây, có mối hại dẫn dắt quần chúng theo đường tà và khiến thối chuyển
cùng hủy hoại niềm tin của người niệm Phật, nên cần phải giải thích để làm sáng
tỏ pháp môn Tịnh Độ.
Xin để qua những người
không tin Nhân-quả, Phật pháp, mà chỉ nhìn xét những vị có hình thức dính dáng
với đạo Phật.
Có những người hình
thức là Tăng Ni, cũng ở Chùa hay Am Cốc, nhưng
không học hiểu Phật pháp,
chỉ tu luyện theo bàng môn. Họ là những kẻ
mang chiêu bài Phật Giáo
bán tạp hóa ngoại đạo.
Những người này có đồ
chúng của họ, đều bí mật truyền đạo cho nhau. Nhiều người tuy nói tham thiền,
song kỳ thật chuyên luyện điển, hoàn toàn không hiểu Thiền là gì. Đối với môn
Tịnh Độ, họ bảo phải tưởng câu niệm Phật từ đơn điền thẳng tắt ra sau lưng, đi
dọc lên theo xương sống rồi vòng xuống trở lại đơn điền, gọi là chuyển pháp
luân. Đó là cách luyện khai
thông hai mạch Nhâm, Đốc, theo ngoại phái, không phải của đạo Phật.
Có kẻ dạy phải nín thở
niệm Phật luôn một hơi, rồi nuốt ực nước bọt một cái, gọi là để củng cố chân
nguyên.
Có kẻ đem sáu chữ Nam Mô A
Di Đà Phật bố khắp châu thân.
Có người lại
giải thích Kinh A Di Đà theo ngoại thuyết như: Ao sen thất bảo là bao
tử, bảy hàng cây báu là xương sườn, bát công đức thủy là máu, tủy, và các thứ
nước không sạch trong thân...
Những kẻ đã mượn Phật pháp
để tu theo ngoại đạo này đâu phải là chánh tín, làm sao được vãng sanh giải
thoát?
Một câu A Di Ðà
Là một đóa bảo liên
Lý duy tâm mầu nhiệm
Pháp hợp lẽ THIÊN NHIÊN.
Nhứt cú Di Ðà
Nhứt đóa bảo liên
Duy tâm chi diệu
Pháp chỉ như nhiên.
LƯỢC
GIẢI
Câu HỒNG DANH mà chúng
ta đang hành trì là kết tinh công đức của Phất A Di Ðà đã tu từ vô lượng vô
biên kiếp về trước. Cho nên khi chúng sanh khởi tâm niệm một câu Phật hiệu,
theo nhân quả của lý "các pháp do tâm
tạo", trong vô hình tự nhiên
có ánh sáng và hoa sen phát hiện mà mắt phàm thường không thể nhìn thấy.
Tuy nhiên cũng có vài
trường hợp do tâm CHÍ THÀNH nên hoa sen hiện rõ, có thể mục kích được với đôi
mắt thường. Bởi thế hành giả mới chứng biết được lý ấy.
Nhắc tới điều này, bút giả bỗng nhớ lại chuyện thầy Thiện Lộc, thân phụ sư cô
Diệu Châu, ở ngôi am sau chùa Vạn Ðức tại Thủ Ðức, đã thuật lại cho các liên
lữu biết.
Một đêm nọ vào khoảng
tám giờ tối, thầy đang quì chí tâm niệm Phật theo thời khóa đầu hôm, bỗng thấy từ cạnh bàn Phật ở ngay trước mặt mọc ra một
búp hoa sen đỏ to bằng cái tách. Vừa trì niệm vừa
nhìn kỹ từng chi tiết, thầy thấy cuống hoa uốn lượn cong, búp sen ngửa lên, rồi
lần lần theo tiếng Phật hiệu nở to ra bằng đĩa bàn. Ðộ mười lăm phút sau, đóa
hoa ấy biến mất. Ðây là một trong nhiều chuyện hiện thật mà chư liên hữu ở khắp
mọi nơi đã mục kích và trần thuật lại.
Ðể nói rộng thêm, câu niệm Phật chẳng những có công đức hiện ra tướng hoa sen,
mà còn hiện đủ các tướng thuộc chánh báo, y báo ở Cực Lạc. Trong các truyện vãng sanh, có vị trước giờ phút thọ
chung, đại chúng bỗng thây mặt đất xung quanh bỗng hóa thành ra vàng ròng.
Có vị đang nằm bịnh,
tràng phan, lầu các hiện trong tảng băng để gần bên giường.
Có vị đang niệm Phật,
thân tướng trang nghiêm của đức A Di Ðà hoặc chư Bồ tát hiện giữa hư không, bay
trên ngọn đèn lưu ly.
Có vị trong khi trì
niệm, chợt nghe mùi hương lạ bay thơm cùng khắp.
Công đức trang nghiêm
thanh tịnh của câu niệm Phật tùy tâm hiển hiện, đại khái là như thế.
CHÂU THỊ
Nhà lan thanh vắng, giậu
cúc lơ thơ, trời thu phân cảnh vật tiêu sơ, người liên nữ bền lòng TÍN NGUYỆN!
Đó là gia cảnh của Châu thị, và bà đang theo thời khóa thành tâm niệm Phật.
Châu thị nguyên là vợ của
họ Chương. Từ trẻ bà đã biệt thờ kính Quán Thế Âm đại sĩ, TIN SÂU NHÂN QUẢ, từ
hòa hiếu thuận và ưa thích điều lành. Đến sáu mươi tám tuổi, Châu thị mới được
nghe biết sự lợi ích của pháp môn Tịnh độ, liền trường trai niệm Phật ra TIẾNG
một muôn câu, ngoài số ấy đều tùy thời tùy cảnh niệm THẦM.
Công phu hành trì như thế
đã trải hơn mười năm. Mấy năm sau cùng vì tránh sự phiền nhiễu, Châu thị thường
tĩnh tọa nơi gian nhà riêng, sự tu trì càng thêm mật thiết. Có đôi lúc bà ngồi
yên nhắm mắt hướng về Tây, luôn hai ba ngày không ăn uống nơi cổ tay MẠCH không
còn nhảy; duy có nét mặt sáng tươi, toàn thân nóng ấm. Sau khi ấy, người nhà
hỏi về tình trạng lúc đương thời, bà đáp:
“Ta thấy mình ngồi niệm
Phật trên tòa sen to đẹp, quên hẳn thời khắc, lòng rất sáng nhẹ an vui!”
Đến năm Dân Quốc thứ hai
mươi, vào khoảng tháng sáu, Châu thị bỗng cảm bịnh. Đứa con trai suất lãnh
người nhà luân phiên trợ niệm. Vài hôm trước khi mãn phần, bà nói với gia thuộc
rằng: “Ta còn lưu trụ hai ngày nữa, các con nên tạm nghỉ ngơi. Hãy chuẩn bị nấu
nước thơm cho ta tắm gội, và y phục giày dép đều phải đổi thứ mới sạch!”
Hai hôm sau, vào giờ Tỵ,
bà ngồi ngay thẳng hướng về Tây, nhắm mắt không nói năng chi cả. Con trai thấy
thế, lại gọi người nhà vây quanh, đồng cao tiếng niệm Phật. Độ vài mươi phút kế
đó, Châu thị ngồi yên ổn mà tắt hơi, gương mặt lộ nét tươi vui hòa nhã. HƠN HAI
GIỜ SAU, đảnh đầu của bà hãy còn nóng.
Có điều đáng kỳ diệu là
đang lúc làm lễ nhập liệm, đứa cháu nội gái của bà, vì quá thương khóc nên ngã
xuống hôn mê. Mẹ đứa bé này tức là dâu của Châu thị, cũng đã niệm Phật vãng
sanh từ mấy năm về trước. Khi được người nhà vực tỉnh dậy, bé gái nói:
“Con thấy từ phương Tây
phóng tới ánh sáng to rộng rực rỡ. Đức Quán Thế Âm thân tướng nghiêm đẹp, tay
cầm cành dương liễu, theo sau có vô số Bồ Tát nương giữa hư không bay
đến. Trong giây phút mẹ cùng bà
nội thân tướng cao lớn tươi tốt hơn lúc bình thường, theo sau chư Bồ Tát bay về
phương Tây.
Ngoài ra lại còn có vô số
hoa lạ, tràng phan bảo cái hiện giữa hư không, tất cả cảnh vật đều trang nghiêm
rực rỡ khác thường. Trông thấy cảnh ấy lòng con chợt an vui, quên hẳn sự xót xa
thương khóc. Bấy giờ con không còn lo buồn nữa, vì biết rõ mẹ và bà nội đã về
cảnh Phật!”
LỜI BÌNH:
Phàm sanh về Cực Lạc,
không luận Trai gái già trẻ, đều hiện thành THÂN NAM đủ ba mươi hai tướng tốt. Đứa bé thấy mẹ cùng bà nội đều còn
thân NGƯỜI NỮ, đó là phương tiện hiện ra tướng cũ, để cho nó dễ nhận
biết. Độc giả khi xem đến đoạn nầy, CHỚ HOÀI NGHI!
CỰC LẠC DU LÃM KÝ
(Hòa Thượng Thích THIỀN-TÂM dịch)
Theo trong KINH, ở thế giới Cực-Lạc không có nam nữ phân biệt,
tại sao nơi đây lại hiển hiện nhiều hài tử ?
Ngài đáp:
- Đúng như thế, ở đây không phân tướng nam nữ, ngươi hãy tự
nhìn kỹ lại xem mình thế nào?
Bị Bồ-Tát cảnh báo, tôi kinh lạ chợt phát hiện ra mình cũng
biến thành thân Nữ-hài 13 tuổi, trang-phục đồng một dạng thức như các nữ-chúng kia.
Tôi tiếp tục hỏi với giọng đầy-kinh ngạc:
- Tại sao lại như thế này?
Đức Quán-Thế-Âm lộ vẻ từ-bi mỉm cười bảo:
- Nơi đây có một vị Bồ-Tát làm chủ-tể, muốn biến nam thì toàn
chúng đều hóa thành nam, muốn biến nữ thì toàn chúng thành nữ. Kỳ thật, chẳng
luận biến nam hay nữ, khi đã hóa sinh trong hoa sen, tức không còn thân huyết
nhục, thể-chất đều là ngọc báu trong suốt, bên ngoài chỉ có tướng người, thật
ra không phân nam nữ.
Tôi
quan sát lại thân thể mình quả đúng như lời Bồ-Tát nói, không thấy da thịt,
xương, gân, tủy, não, chỉ là chất ngọc thủy tinh trong trắng.
BÀI SỐ 40
Ẩn tu niệm Phật suốt thâu
canh
Cam lộ từ răng đượm ngọt
thanh !
Khát nước đã nhờ công đức
thủy
Lam Kiều chi nhọc hỏi Vân Anh ?
( Lam Kiều vốn thật nơi TIÊN ở,
Hà tất nhọc nhằn ĐẾN Ngọc
Kinh.)
NHƯ Ý : BÙI-HÀNG trên chiếc thuyền đò dọc to rộng, thấy
một THIẾU-PHỤ rất đẹp nghi không phải người PHÀM , dâng bài thơ ƯỚM HỎI (Hỏi thử để thăm dò
ý kiến xem có thuận không ) như sau:
Kẻ Hồ người Việt còn mơ
tưởng,
Huống gặp THIÊN
TIÊN cách bức mành,
Cung Khuyến thẳng như
chầu NGỌC ĐẾ,
Xin theo loan hạc đến
mây xanh.
Thiếu phụ không
nói sai thị nữ đưa lại bài thơ khác,
NHẤP chén Quỳnh Tương suối cảnh sinh,
Huyền Sương giã
thuốc thấy VÂN ANH.
LÂM KIỀU cũng QUÁN
THẦN TIÊN đấy,
Chi phải NHỌC MÌNH đến
Ngọc kinh.
( NHẤP là UỐNG một chút hoặc uống từng chút một bằng cách chỉ hớp ở đầu môi nhấp thử ngụm rượu.)
Sau đó chàng nhân có
Diệp qua cầu LAN , vào QUÁN gần đó xin nước uống thấy 1 nàng tuyệt đẹp hỏi ra
tên là vân Anh, nhớ lại chuyện trước Chàng liền Xin cầu hôn, bà Mẫu đòi sính lễ
một chiếc CHÀY Ngọc vì bà hiệu có một chiếc CỐI Ngọc, cần thêm Chày để giã
luyện vị thuốc tiên tên là Huyền-xương.
Kết cuộc, Bùi hàng tìm
được Chày Ngọc và Thành Hôn cùng cô Gái, về sau TIÊN ĐƠN luyện thành, Vợ
Chồng cùng bà Mẫu đồng bay lên mây; câu chuyện LAM KIỀU là thế, duyên kiếp
trước đã đưa BÙI HÀNG gặp VÂN ANH và thành đạo quả.
Hành giả Tịnh độ khi
niệm PHẬT (đến TÂM CHÍ THÀNH,
quên cả THỜI gian KHÔNG gian: Ẩn tu niệm Phật suốt thâu canh ) cũng
sẽ Cảm Hiện Nước Cam
Lồ thơm ngọt nơi miệng
và sau sẽ sanh về AO BÁU thơm lành có BÁT CÔNG ĐỨC thủy ở Tây Phương.
Nước có tám thứ công đức
ấy là:
THƠM NGỌT, MÁT SẠCH,
TRONG SÁNG , CHÂN NHUẬN VÀ TÙY TÂM.
( Nước ao đã từ Như-ý-châu
vương sanh, tức là thuộc về như ý thủy. Nước này có tám công đức:
1. Trong
sạch, trơn nhuần, nhiếp về sắc nhập.
2. Thơm tho,
không mùi hôi, nhiếp về hương nhập.
3. Nhẹ nhàng.
4. Mát mẻ.
5. Nhu nhuyễn;
ba điều này nhiếp về xúc nhập.
6. Ngon ngọt,
nhiếp về vị nhập.
7. Uống vào điều
hòa, thích ý.
8. Uống xong tăng
ích thân căn, tiêu trừ các bệnh; hai điều nhiếp về pháp nhập. )
Lam Kiều
LAM KIỀU là một cái cầu
bắc trên sông Lam, thuộc tỉnh Thiểm Tây bên Tàu, tương truyền là nơi TIÊN ở.
Đời nhà Đường, triều Mục
Tông (821-825), có một chàng nho sĩ tên BÙI HÀNG, lều chõng đi thi bao lần đều
hỏng. Một hôm, Bùi Hàng thuê đò đi Tương Hán định sang ghé Ngọc Kinh để xem
phong cảnh. Cùng đáp một chuyến đò có một mỹ nhân tên Vân Kiều, sắc nước hương
trời, con người đoan trang, thùy mị. Bùi Hàng sinh cảm mến, mong được giao
duyên, mới mượn thơ thay lời, nhờ người Nữ Tỳ của giai nhân đưa hộ:
Kẻ Hồ, người Việt còn
thương nhớ,
Huống cách người tiên chỉ
bức mành.
Ví được Ngọc Kinh cùng nối
gót,
Xin theo loan hạc đến mây
xanh.
(Bản dịch của Phan Như
Xuyên)
Nguyên văn:
Đồng vi Hồ Việt do hoài
tưởng,
Huống ngộ thiên tiên cách
cẩm bình.
Thắng nhược Ngọc Kinh
triều hội khứ,
Nguyện tùy loan hạc nhập
thành vân.
VÂN KIỀU xem thơ, vui vẻ
mỉm cười. Nhưng thơ đi mà tin chẳng lại, Bùi Hàng rất lo lắng, băn khoăn. Nhưng
khi đò sắp ghé bến, Bùi Hàng bỗng tiếp được thơ do người Nữ tỳ của giai nhân
đưa đến:
Uống rượu Quỳnh Tương trăm
cảnh sinh,
Huyền Sương giã thuốc thấy
Vân Anh.
Lam Kiều vốn thật nơi tiên
ở,
Hà tất nhọc nhằn đến Ngọc
Kinh.
Nguyên văn:
Nhất ẩm Quỳnh Tương bách
cảnh sinh,
Huyền Sương đảo tận kiến
Vân Anh.
Lam Kiều tự hữu thần tiên
quật,
Hà tất khí khu thượng Ngọc
Kinh.
Bùi Hàng không hiểu ý
nghĩa ra sao, định hỏi; nhưng thuyền vừa ghé bến thì Vân Kiều đã thoáng mất.
Nghiền ngẫm hai câu thơ cuối,
( Lam Kiều vốn thật nơi TIÊN ở,
Hà tất nhọc nhằn ĐẾN Ngọc
Kinh.)
Bùi Hàng KHÔNG đến Ngọc
Kinh, mà hỏi dò người, tìm đến Lam Kiều. Trời trưa nắng gắt, Bùi Hàng mệt mỏi,
mồ hôi nhuễ nhoại. Ghé vào hàng nước, nghỉ chân, hỏi nước uống. Bà lão chủ quán
bảo người con gái đem nước ra. Nàng rất đẹp, trông dáng vẻ tựa Vân Kiều. Bùi
Hàng hỏi, thì ra nàng là em của Vân Kiều, tên VÂN ANH. Bùi Hàng mừng rỡ, cho là
gặp duyên trời định, mới thuật lại cả hai bài thơ.
Bà lão cười, bảo: - Hẳn là
con Vân Kiều muốn xe duyên EM nó cho cậu đó. Bùi Hàng nghe nói lấy làm hớn hở.
Nhưng bà lão cho biết là hiện bà có cái CỐI ngọc , song thiếu chiếc CHÀY ngọc
để giã thuốc HUYỀN SƯƠNG, nếu Bùi Hàng tìm được Chày ngọc thì bà sẽ gả
Vân Anh cho. Bùi Hàng bằng lòng.
Nhưng đi tìm mãi khắp nơi
mà không biết ở đâu có chày ngọc. Lòng buồn tha thiết. Tưởng hoàn toàn thất
vọng, chàng đi lang thang. May mắn, một hôm, chàng gặp được TIÊN cho chiếc chày
ngọc. Thế là duyên thành. Sau cả hai vợ chồng Bùi Hàng đều tu thành tiên cả.
Nguyễn Tử Quang
Điển hay tích lạ
CAM LỘ PHÁP THỦY
Lòng NÓNG giận là tập tánh từ kiếp trước, muốn đối trị, nên tưởng như mình ĐÃ chết. Thế thì mặc ai bôi hương thoa lọ, nơi ta nào có can gì? Dù gặp những cảnh trái lòng đến đâu đi nữa, cũng cứ tưởng rằng mình đã chết, tự nhiên tánh giận hờn không thể nổi lên.
Đây là món “CAM LỘ PHÁP
THỦY” của đức Như Lai truyền dạy, để rửa hết kết nghiệp của tất cả chúng sanh.
Nay tôi vì các hạ thuật lại, không phải tự tôi đặt điều ức thuyết. Nếu không niệm Phật cầu về Tây phương, tuy sanh lên chỗ cực tôn quí như trời Phi Phi Tưởng, khi phước báo đã hết, vẫn bị luân chuyển trong sáu đường. Như dùng hết lòng thành khẩn niệm Phật, dù sắp đọa VÀO Địa ngục A tỳ, cũng có thể nhờ Phật tiếp dẫn.
Vậy muôn lần xin chớ tự
coi là THẤP KÉM, cho rằng mình nghiệp nặng e không được vãng sanh. Nếu CỐ giữ
quan niệm ấy thì quyết định CHẲNG được sanh Tây phương, vì bởi thiếu sự TÍN NGUYỆN chơn thiết nên
không do đâu để cảm đến Phật.
Ấn Quang Pháp Sư
Thơ Đáp Cư Sĩ Cừu Bội Khanh
Thứ Bốn Mươi Mốt
Cơ khát hữu tình vọng
thanh lương
Khô mộc trùng sinh phóng
dị quang
Phổ khánh từ bi sâm tạo
hóa
CAM LỘ thiên lệ tế thập
phương.
Tô Rô Tô Rô [45]
Án-- Tố rô tố rô, Bác-ra tố rô, Bác-ra tố rô,
tố rô tố rô dã, Tát-phạ hạ.
( 108
lần)
PHÁT NGUYỆN
Đệ tử chúng con, hiện là
phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu
nặng, luân chuyển sáu
đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được
nghe danh hiệu, bản
nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm,
cầu nguyện vãng sanh.
Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng
quang nhiếp thọ. Đệ tử
chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang
minh, nguyện Phật thị
hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán
Âm Thế Chí, các chúng Bồ
Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ
đẹp quang minh, xin đều
thấy rõ.
Con nguyện lâm chung
không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi
đảnh
Thế Chí kim đài trao đỡ
gót.
Trong một sát na lìa ngũ
trược,
Khoảng tay co duỗi đến
liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ
Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng
sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô
Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại
Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi
quần sanh
Hay lấy trần lao làm
Phật sự,
Con nguyện như thế Phật
chứng tri.
Kết cuộc về sau được
thành tựu.
Nam-mô Tây-phương Cực-Lạc thế-giới,
đại-từ, đại-bi tiếp dẫn đạo sư
A-DI-ĐÀ-PHẬT.
(1 lần)
Nam-mô A-DI-ĐÀ Phật
(Tùy ý, hoặc 1 ngàn câu trở lên)
( Lại CHUYÊN
NIỆM “ Nam Mô A Di Đà Phật”. Nghĩa là ngoài thời khóa kể trên, trong
một ngày đêm, khi nào có thể liền nhiếp THÂN TÂM vào danh hiệu
“NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT”, lâu ngày sẽ được NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT, mới biết diệu dụng
của câu niệm phật “BẤT KHẢ TƯ NGHỊ”, không thể dùng văn tự ngôn ngữ SUY NGHĨ mà
bàn luận biết được. Cho nên, qúi vị phải hành trì cho thiết
thật.
Tuy nhiên, nếu qúi vị
thích chuyên trì “CHÚ ĐỊA-BI”, chuyên trì “ 1 THỦ-NHÃN”, chuyên “ THAM-THIỀN”,
chuyên “TỤNG KINH”… thì cũng phải hành như “CHUYÊN” NIỆM PHẬT vậy).
Kinh nói rằng: “Nếu
muốn cho tất cả loài hữu tình đói khát được no đủ mát
mẻ, nên cầu nơi Tay hóa nước CAM-LỘ.”
Thần-chú rằng: Tô Rô Tô Rô [45]
Chân-ngôn rằng: Án--
tố rô tố rô, bác-ra tố rô,
bác-ra
tố rô, tố rô tố rô dã, tát-phạ hạ.
( Có bản thiếu 2 chữ “TỐ RÔ” )
Kệ tụng:
Cơ khát hữu tình vọng
thanh lương
Khô mộc trùng sinh phóng
dị quang
Phổ khánh từ bi sâm tạo
hóa
Cam lộ thiên lệ tế thập
phương.
Chúng-sanh ĐÓI KHÁT cầu cứu độ.
Như Cây khô nhờ nước CAM-LỘ, được sống lại càng thêm tươi tốt dị
thường.
Đại-từ Đại-bi phổ độ khắp PHÁP GIỚI chúng sanh.
Như một trận MƯA Cam-lộ, làm cho 10 PHƯƠNG chúng sanh được NO ĐỦ MÁT MẼ.
Theo KINH LĂNG NGHIÊM
thì muốn chứa đựng nước CAM-LỘ trong TỊNH-BÌNH, để cứu độ 12 LOÀI CHÚNG-SANH,
được mát mẻ no đủ, thì phải lấy nước nóng, tro và nước thơm súc rửa, để trừ bỏ
tất cả chất độc trước đã, rồi mới đựng nước CAM-LỘ.
Nước CAM-LỘ do đâu mà có? Là do người TU hoặc là THAM THIỀN, TRÌ
CHÚ, NIỆM PHẬT… mà sanh ra.
Ẩn tu niệm Phật suốt thâu
canh
Cam-lộ từ răng đượm ngọt thanh !
Khát nước đã nhờ công đức
thuỷ
Lam Kiều chi nhọc hỏi Vân
Anh ?
( Ẩn-Tu Ngẫu Vịnh - HT Thích Thiền-Tâm)
Cũng như “AI” muốn TU-CHỨNG pháp môn “TAM-MA-ĐỊA” của PHẬT,
phải tu 3 TIỆM THỨ trước đã, để trừ tất cả BẢN NHÂN
ĐIÊN-ĐẢO LOẠI-TƯỞNG, rồi mới hoặc TRÌ CHÚ, NIỆM PHẬT, THAM THIỀN… lần lần trải
qua các ĐỊA VỊ tu chứng, giống như người uống được nước CAM-LỘ thì không còn bị
ĐÓI KHÁT nữa.
Như nếu, qúy vị trì CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP thành tựu, thì TÂM qúi vị hướng
tới đâu thì nước CAM-LỘ rưới tới đó, cũng như một trận MƯA LỚN làm
cho 12 chủng loại chúng sanh trong 10 phương PHÁP GIỚI được no đủ
mát mẽ.
KINH VĂN:
Nếu con hướng về nơi non
đao,
Non đao tức thời liền sụp đổ.
Nếu con hướng về lửa, nước sôi,
Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.
Nếu con hướng về cõi địa ngục,
Ðịa ngục liền mau tự tiêu tan.
Nếu con hướng về loài ngạ quỷ,
Ngạ quỷ liền được tự no đủ.
Nếu con hướng về chúng Tu La,
Tu la tâm ác tự điều phục.
Nếu con hướng về các súc sanh,
Súc sanh tự được trí huệ lớn.
QUẢNG ĐẠI VIÊN MÃN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI
Lại nữa, nước CAM-LỘ THỦ
NHÃN ẤN PHÁP cũng có khả năng ĐOẠN TUYỆT tất cả PHIỀN-NÃO
trong THÂN-TÂM của qúy vị. Cũng như người niệm PHẬT A-DI-ĐÀ vậy.
THÂN thì sanh, già, bịnh,
chết, đói, khát, nóng, lạnh, vất vả nhọc nhằn; TÂM thì buồn, giận, lo, thương, trăm điều
phiền lụy.
Thanh
sắc tài danh thế-lợi trêu
Bể trần chìm nổi kiếp vô-liêu!
Giai-nhân kiệt sĩ chừ đâu vắng?
Dấu sử nghìn thu để hận nhiều!
Hươu
Tần tranh đuổi khắp giang-san
Cỏ xót, mây thương, cuộc thảm tàn!
Lầu Hán vui trăng ai đó mấy?
Hơn thua thù hận thuở nào tan?
May gặp
Như-Lai ánh huệ không
Nước dương (nước CAM-LỘ từ cành DƯƠNG) quyết rửa sạch mê lòng!
Đã lên non pháp quên tìm báu
Lần lựa đi về tiếc uổng công!
Vượt
hết non cao vực thẳm rồi
Bên đường bỗng thấy sắc hoa tươi
Mới hay siêu đọa do mình cả
Mà cõi mười phương cũng huyễn thôi.
( Niệm Phật Phải
Đoạn-Tuyệt-Phiền-Não - HT Thích Thiền Tâm )
Lại nữa,
nước CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP cũng có khả năng làm cho “TAM THỪA NGŨ
TÁNH GIAI TỈNH NGỘ”. Cũng như người “THAM THIỀN” vậy.
Chấn pháp lôi, kích pháp cổ,
Bố từ vân hề sái cam lồ.
Long tượng xúc đạp nhuận vô biên,
Tam thừa ngũ tánh giai tỉnh ngộ.
Dịch:
Nổi pháp lôi gióng pháp
cổ,
Bủa mây từ hề, rưới cam
lồ.
Voi rồng dẫm bước nhuận
ân sâu,
Năm tánh ba thừa đều
tỉnh ngộ.
Chấn pháp lôi, kích pháp cổ: Ðây chẳng qua là tỷ dụ. Chẳng phải là tiếng sấm hay tiếng sét thực. Ý nói lời Phật thuyết pháp có thể so sánh như tiếng rống của sư tử, hay âm thanh của sấm sét. Chúng sanh đương mê man trong giấc mộng, nghe được tiếng sấm sét, bèn tỉnh giấc, bỏ tà theo chánh, đó là ý của câu: "Nổi pháp lôi, gióng pháp cổ."
Bố từ vân hề, sái cam lồ: "Bố" là phân bố, rải rộng ra. Rải rộng đám mây pháp từ bi, rưới xuống trận mưa pháp cam lồ, khiến cho chúng sanh, như các cây khô héo, được hưởng mưa pháp trở thành mát mẻ tươi nhuận, để từ đó mà phục hồi được pháp thân và huệ mạng.
Long tượng xúc đạp nhuận
vô biên: Lúc đó các hàng long
tượng trong pháp môn, gặp mưa pháp, họ càng được thấm nhuần gấp bội. Các bậc
long tượng này lại mang pháp âm, pháp vũ hiển dương, khiến cho hết thảy chúng
sanh được giác ngộ, cho nên nói:
Tam thừa ngũ tánh giai
tỉnh ngộ: "Tam thừa" là
chỉ Thanh văn, Duyên giác, và Bồ-tát; Ngũ tánh là chỉ năm loại tánh: Thiện,
ác, định, bất định, xiển đề. Năm loại này là bao quát hết các căn tánh
của chúng sanh, từ hạng thượng căn lợi trí, tới hạng hạ căn ngu độn. Hết thảy
chúng sanh đều được thấm nhuần mưa pháp.
( VĨNH GIA ÐẠI SƯ CHỨNG ÐẠO CA THIỂN THÍCH
Hòa Thượng Tuyên Hóa Thuyết Giảng tại Kim Luân Thánh Tự
)
Lại nữa, nước CAM LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP cũng có khả năng làm cho CÂY KHÔ được sanh cành lá, trổ bông trái, huống chi là chúng sanh có tình thức ư?
KINH VĂN:
Đức Phật bảo ngài A Nan:
- Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn
Đại Bi tâm đà ra ni này và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn
tuyệt. Đà ra ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong ba cõi.
Tất cả bịnh khổ ràng buộc nơi thân, nếu dùng đà ra ni
này mà trị thì không bịnh nào chẳng lành, dùng đại thần chú này tụng
vào cây khô, cây ấy còn được sanh cành lá, trổ bông trái, huống chi là chúng
sanh có tình thức ư? Nếu thân bị đại bịnh, dùng chú này mà trị không
lành, lẽ ấy không bao giờ có.
- Này thiện nam tử! Sức oai thần của Đại Bi tâm đà ra ni
không thể nghĩ bàn! Không thể nghĩ bàn! Khen ngợi không bao giờ hết được, nếu
chẳng phải là kẻ từ thời quá khứ lâu xa đến nay đã gieo nhiều căn lành, thì
dù cho cái tên gọi còn không được nghe, huống chi là được thấy! Nay đại
chúng các ông, cả hàng trời, người long thần, nghe ta khen ngợi phải nên tùy
hỉ.
Nếu kẻ nào hủy báng thần chú này tức là hủy báng 99 ức
hằng hà sa chư Phật kia. Nếu người nào đối với đà ra ni này sanh nghi không
tin, nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn, trăm ngàn muôn kiếp không
bao giờ nghe thấy Phật, Pháp, Tăng, thường chìm trong tam đồ không biết bao giờ
mới được ra khỏi.
Khi ấy, tất cả chúng hội, Bồ Tát Ma ha tát, Kim Cang mật
tích, Phạm vương, Đế Thích, tứ đại Thiên vương, Thiên, Long, quỷ thần, nghe đức
Như Lai khen ngợi môn đà ra ni này xong, thảy đều vui mừng, y lời dạy
mà tu hành.
Tóm lại, nếu qúy vị tu
CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP được thành tựu, thì TÂM qúy vị hướng tới chúng sanh nào
trong pháp giới, thì chúng sanh đó được no đủ mát mẽ, cho dù là CÂY KHÔ còn
được sanh cành lá, trổ bông trái, huống chi là chúng sanh có tình thức
ư?
Cho nên, tất cả sự mong cầu của qúi vị “TRONG ĐỜI HIỆN TẠI” nếu không được thành tựu, thì chú nầy không được gọi là ĐẠI-BI TÂM ĐÀ-RA-NI, không được gọi là CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP, duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành.
45) Tô Rô Tô Rô
Theo trong KINH
ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúy vị trì
tụng câu chú Tô Rô Tô Rô, thì tiếng rơi rụng của LÁ
CÂY ở cõi chư PHẬT sẽ “RƯỚI NƯỚC CAM LỘ”, giúp cho
Qúy vị no đủ mát mẻ. THÂN-TÂM hưởng được AN-LẠC KHÔNG
CÙNG TẬN.
TIẾNG LÁ CÂY RỤNG
(Chư PHẬT
thường TRÌ “CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, làm
cho TIẾNG LÁ CÂY RỤNG “RƯỚI
NƯỚC CAM LỘ”, giúp cho Qúy vị no
đủ mát mẻ. THÂN-TÂM hưởng được AN-VUI KHÔNG CÙNG TẬN.
Và ngược lại nếu “QÚY
VỊ” Thường TRÌ “CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Qúy
vị là “HÓA THÂN” của chư PHẬT, nghĩa là cũng đạt được như chư PHẬT vậy.)
Còn theo “KỆ
TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG “CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP” thành
tựu, sẽ làm cho CHÚNG SANH trong PHÁP GIỚI “NGƯNG TẤT CẢ VỌNG TƯỞNG
ĐIÊN ĐẢO”, NGHE VẠN VẬT THUYẾT PHÁP như “TIẾNG LÁ CÂY
RỤNG”,GIÓ NHẸ THỔI ĐỘNG CÁC HÀNG CÂY BÁU… NGƯỜI NÀO “NGHE” TIẾNG
ĐÓ “TỰ NHIÊN” ĐỀU SANH “TÂM” NIỆM PHẬT, NIỆM
PHÁP, NIỆM TĂNG.
BỔN LAI CHƯ PHẬT VẨN TRỤ
TRONG “TAM-MUỘI PHỔ-QUANG-MINH TRÍ”, LÌA LỜI NÓI VĂN TỰ,
NHƯNG VÌ “TÂM” ĐẠI-BI muốn “KHAI-THỊ” cho chúng sanh “NGỘ NHẬP
PHẬT-TRI-KIẾN”. Cho nên, mới có LỜI NÓI VĂN TỰ “NHƯ THỊ NGÃ VĂN”…
Kệ tụng :
Vạn vật thuyết pháp hữu
thùy thính
Thế giới chúng sanh vọng
tưởng ngưng
Chư Phật bổn nguyên ly
văn tự
“NHƯ THỊ NGÃ VĂN” đại bi
công
KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI
“XUẤT TƯỢNG”
HT. THIỀN-TÂM Dịch ra
VIỆT-VĂN
KỆ TỤNG
HT. TUYÊN-HÓA Kệ-tụng
45. Tô rô tô rô
Tô rô tô rô. Hán dịch là “cam lồ thủy”. Đây cũng chính là Cam lồ thủ nhãn ấn pháp. Trước đây tôi đã giảng về diệu dụng của nước cam lồ rồi. Có thể giúp cho các loài quỷ đói được no đủ và mọi tâm nguyện đều được như ý, làm tiêu tan mọi sự đói khát, thọ nhận được nhiều điều tốt lành khác nữa.
Nước cam lồ này còn gọi
là “Bất tử dược”. Nếu có người sắp chết uống nước cam lồ này thì sẽ được sống
lại. Nhưng không dễ gì gặp được nước cam lồ này nếu không có duyên lành.
ĐẠI BI CHÚ
Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU
CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)
DIÊN THỌ ĐẠI SƯ
(Liên Tông Lục Tổ)
Diên Thọ Đại sư, tự Xung
Huyền, người đời Tống, con của họ Vương ở Tiền Đường. Lúc thiếu thời, ngài
thích tụng kinh Pháp Hoa, cảm đến bầy dê quỳ mọp nghe kinh.
Lớn lên, Xung Huyền được
Văn Mục Vương tuyển dụng, cho làm quan trông nom về thuế vụ. Nhiều lần ngài lấy
tiền công qũy đến Tây Hồ mua cá trạnh phóng sanh. Việc phát giác ra, bị Pháp ty
thẩm định, xử ngài vào tội tử hình. Lúc sắp đem đi chém, Văn Mục Vương bí mật
cho người rình xem, nếu thấy ngài nhan sắc thản nhiên, không tỏ về buồn rầu lo
sợ, thì phải đem về trình lại. Thấy ngài trước sau vẫn an điềm. Sứ giả trao sắc
chỉ cho quan Giám trảm, rồi dẫn về diện kiến vua. Khi Vương hỏi duyên cớ, ngài
đáp: “Tôi tự dụng của công, đáng tội chết. Nhưng toàn số tiền đó, tôi dùng mua
cứu được muôn ức sanh mạng, thì dù thân này có chết, cũng được vãng sanh về cõi
Liên Bang, vì thế nên tôi không lo sợ”. Văn Mục Vương nghe qua cảm động, ra
lịnh tha bổng. Ngài xin xuất gia, Vương bằng lòng.
Sau đó, ngài đến quy đầu
với Thúy Nham thiền sư ở Tứ Minh. Kế lại tham học với Thiều Quốc Sư ở Thiên
Thai, tỏ ngộ tâm yếu, được Quốc sư ấn khả, ngài từng tu Pháp Hoa Sám ở chùa
Quốc Thanh.
Trong lúc thiền quán
thấy đức Quán Thế Âm Bồ Tát rưới nước CAM-LỒ vào miệng, từ đó được biện tài vô
ngại.
Do túc nguyện muốn
chuyên chủ về Thiền hoặc Tịnh mà chưa quyết định, ngài đến thiền viện của Trí
Giả đại sư, làm hai lá thăm: một lá đề Nhất tâm Thiền định, còn lá kia là:
Trang nghiêm Tịnh độ. Kế lại chí tâm đảnh lễ Tam Bảo sám hối, cầu xin gia bị.
Đến khi rút thăm, luôn bảy lần đều nhằm lá Trang Nghiêm Tịnh Độ. Từ đây ngài
nhất ý tu về Tịnh nghiệp.
Năm Kiến Long thứ hai
đời Tống. Trung Ý Vương thỉnh ngài trụ trì chùa Vĩnh Minh, tôn hiệu là Trí Giác
thiền sư. Ngài ở đây trước sau mười lăm năm, độ được một ngàn bảy trăm vị Tăng.
Đại sư lập công khóa, mỗi ngày đêm hành trì một trăm lẻ tám điều và hai điều
đặc biệt trong đó, là tụng một bộ kinh Pháp Hoa, niệm mười muôn câu Phật hiệu.
Ban đêm khi ngài qua gộp núi khác niệm Phật, những người ở gần nghe tiếng loa
pháp cùng thiên nhạc trầm bổng du dượng. Về kinh Pháp Hoa, trọn đời ngài tụng
được một muôn ba ngàn bộ. Đại sư thường truyền giới Bồ Tát, mua chim cá phóng
sanh, thí thức cho qủi thần, tất cả công đức đều hồi hướng về Tịnh độ. Ngài có
trứ tác một trăm quyển Tông Cảnh Lục, hội chỉ thú dị đồng của ba tông: Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa và Duy Thức.
Đại sư lại soạn ra tập
Vạn Thiện Đồng Quy. Trong đây lời lẽ chỉ dạy về Tịnh độ rất thiết yếu, đại lược
như sau:
Hỏi: –Cảnh duy tâm Tịnh độ đầy khắp mười phương, sao
không hướng nhập, mà lại khởi lòng thủ xả, cầu về Cực Lạc gởi chất ở đài sen.
Như thế đâu hợp với lý vô sanh, và đã có tâm chán uế ưa tịnh thì đâu thành bình
đẳng?
Đáp:- Sanh duy tâm Tịnh độ là phần của các bậc đã liễu
ngộ tự tâm, chứng được pháp thân vô tướng. Tuy nhiên, theo kinh Như Lai Bất Từ
Nghị Cảnh Giới, thì những bậc chứng Sơ địa vào Duy tâm độ, cũng nguyện xả thân
để mau sanh về Cực Lạc. Thế thì biết ngoài tâm không pháp, cảnh Cực Lạc đâu
ngoài Duy Tâm? Còn về Phần “Lý vô sanh mà môn bình đẳng” tuy lý thuyết là như
thế, nhưng kẻ lực lượng chưa đủ, trí cạn tâm thô, tập nhiễm nặng, lại gặp cảnh
trần lôi cuốn mạnh mẽ, dễ gì mà chứng nhập được. Những kẻ ấy cần phải cầu sanh
Cực Lạc, nhờ cảnh duyên thắng diệu ở đó, mới mau chứng vào Tịnh độ duy tâm và
thực hành Bồ Tát.
Thập Nghi Luận cũng nói:
“Bậc trí tuy liễu vô sanh, song vẫn hăng hái cầu về Tịnh độ, vì thấu suốt sanh
thể như huyễn không thể tìm được. Đó mới thật là chân vô sanh. Còn kẻ ngu không
hiểu lý ấy, bị nghĩa sanh ràng buộc nghe nói sanh thì nghĩ rằng thật có tướng
sanh, nghe nói vô sanh lại tưởng lầm là không sanh về đâu cả. Do đó, họ mới
khởi niệm thị phi chê bai lẫn nhau gây thành nghiệp tà kiến báng pháp. Đáng
thương thay!
Hỏi:- Kinh luận nói: “Ngoài tâm không pháp, Phật không
khứ lai”. Nhưng sao người tu Tịnh độ lại thấy Thánh tướng và việc Phật đến rước
là như thế nào?
Đáp:- Kinh Bát Chu nói: “Như người nằm mơ thấy bảy thứ
báu, hàng thân thuộc đều cùng vui mừng. Đến lúc thức tỉnh nghĩ lại, chẳng biết
cảnh sang giàu ấy ở đâu? Sự việc niệm Phật cũng như vậy”. Thế thì biết các cảnh
đều như huyễn, do duy tâm hiện, tức có mà không, tuy hiện tướng khứ lai song
thật không có đến đi. Cho nên, thánh cảnh tuy như huyễn, song chẳng phải không
có huyễn tướng, việc đến đi tuy không thật, song chẳng ngại gì có tướng khứ
lai. Đó là lý trung đạo. Huyễn sắc tức chân không chính huyễn sắc, có và không
đều vô ngại. Tất cả sự và cảnh chúng sanh đang sống ở thế gian này, cũng đều
như thế.
Thật ra, chân cảnh của
duy tâm, không có đông tây cùng phương hướng, không có đến đi qua lại, cũng
không có một pháp nào ngoài tâm. Nhưng với bậc đã dứt trừ nghiệp hoặc, chứng vô
sanh nhẫn, vào thật tướng của pháp thân, mới dám đương sánh huyền lý trên đây.
Còn hàng sơ tâm mới tu, chớ nên lầm tự nhận.
Hỏi:- Theo Quán kinh thì phải nhiếp tâm vào định, quán
y báo chánh báo cõi Cực lạc rõ ràng, mới có thể về Tịnh độ. Tại sao kẻ chưa vào
định, tu môn Trì danh cũng được vãng sanh?
Đáp:- Chín phẩm sen ở Cực lạc gồm nhiếp tất cả công
hạnh thấp cao, song không ngoài hai điểm: Định tâm và Chuyên Tâm.
1. Định tâm hay định
thiện, là những vị tu tập
quán pháp thành công, hoặc trì danh hiệu được vào tam muội. Các vị này sẽ sanh
về thượng phẩm.
2. Chuyên tâm hay tán
thiện, là những người chỉ
niệm danh hiệu chưa được vào tam muội, hoặc tu các công đức lành khác trợ giúp,
rồi phát nguyện hồi hướng. Hạng người này cũng được dự vào các phẩm thấp hơn.
Nhưng cần phải trọn đời quy mạng Tây phương và chuyên cần tu tập. Lúc ngồi nằm
thường xây mặt về Tây phương. Khi niệm Phật, lúc phát nguyện, phải chí thành
không xao lãng. Tâm niệm khẩn thiết ấy ví như kẻ bị gông xiềng tù ngục cầu mau
thoát ly; người lâm cảnh lửa cháy, nước trôi, hoặc giặc cướp rượt đuổi mong
được thoát khỏi nạn. Lại phải vì sự sống chết, phát lòng Bồ đề, cầu sanh Tây
Phương, mau thành Thánh đạo để đền đáp bốn ân, nối thạnh Tam Bảo, độ khắp muôn
loài. Chí thành như thế, quyết chắc sẽ được kết qủa.
Trái lại, nếu lời và
hạnh không hợp nhau, sức tín nguyện yếu kém, tâm không chuyên nhất, sự tu hành
không tương tục thì khó hy vọng thành công. Bởi kẻ biếng trễ như thế e khi lâm
chung bị nghiệp chướng trở ngăn, chẳng gặp bạn lành, lại thêm thân thể đau
nhức, tâm thức hôn mê, không thành chánh niệm. Vì sao? Bởi hiện tại là nhân,
khi lâm chung là qủa. Cần phải nhân cho chắc thật, qủa mới không hư luống, như
tiếng hòa nhã thì vang dịu dàng, hình ngay tất bóng thẳng vậy. Nếu muốn khi sắp
chết mười niệm thành công, thì ngay lúc hiện tại phải một lòng chí thiết tinh
tấn tu hành, tất không còn điều chi lo ngại.
Đại khái, chúng sanh bởi
tâm chia thiện ác, nên báo có khổ vui. Do nơi ba nghiệp tạo thành, mới khiến
sáu đường luân chuyển. Nếu tâm sân hận, tà dâm, đó là nghiệp Địa ngục. Tâm tham
lam, bỏn xẻn là nghiệp Ngạ qủy. Tâm ngu si, tà kiến là nghiệp Súc sanh. Tâm ngã
mạn, tự cao là nghiệp Tu la. Giữ bền Ngũ giới, là nghiệp người. Tiến tu Thập
Thiện là nghiệp Trời. Chứng ngộ nhân không, là nghiệp Duyên giác. Tu trọn Lục
độ, là nghiệp Bồ Tát. Chân từ bình đẳng là nghiệp Phật.
Nếu tâm thanh tịnh niệm
Phật, thì hóa sanh về Tịnh độ, ở nơi bảo các hương đài. Như ý mê tối đục nhơ,
tất bởi chất cõi uế bang, nương cảnh nổng gò hầm hố. Cho nên lìa được tự tâm
không còn biệt thể, muốn được qủa tịnh, phải chủng nhân mầu. Như tánh nước chảy
xuống, tánh lửa bốc lên, lý thế tất nhiên, có chi mà ngờ vực!
Đại sư lại vì người
đương thời còn phân vân giữa Thiền và Tịnh, chưa biết tu môn nào được kết qủa
chắc chắn, nên làm kệ Tứ Liệu Giản để so sánh sự lợi hại như sau:
– Có Thiền không Tịnh độ
Mười người, chín lạc lộ.
Ấm cảnh khi hiện ra
Chớp mắt đi theo nó.
– Không Thiền có Tịnh độ
Muôn tu muôn thoát khổ.
Vãng sanh thấy Di Đà
Lo gì chẳng khai ngộ?
– Có Thiền có Tịnh độ
Như thêm sừng mãnh hổ.
Hiện đời làm thầy người
Về sau thành Phật, Tổ.
– Không Thiền không Tịnh
độ
Giường sắt, cột đồng lửa!
Muôn kiếp lại ngàn đời
Chẳng có nơi nương tựa.
Niện hiệu Khai Bảo thứ
tám, ngày 26 tháng 2 vào buổi sáng sớm. Đại sư lên chánh điện đốt hướng lễ
Phật. Lễ xong, ngài họp đại chúng lại dặn dò khuyên bảo, rồi ngồi kiết già trên
pháp tòa mà thị tịch, thọ được bảy mươi hai tuổi.
Về sau, có vị Tăng từ
Lâm Xuyên đến, trọn năm kinh hành lễ tháp của Đại sư. Có người hỏi duyên cớ, vị
Tăng đáp: Năm trước tôi bị bịnh nặng, thần thức vào cõi u minh, thấy bên tả đại
điện có thờ tượng một vị Hòa thượng. Minh Vương đang cung kính lễ bái tượng ấy.
Tôi thưa hỏi nguyên do, mới biết đó là tượng Diên Thọ thiền sư ở chùa Vĩnh Minh
tại Hàng Châu. Ngài đã vãng sanh về phẩm Thượng thượng nơi cõi cực Lạc. Minh
Vương trọng đức nên kính thờ”.
Theo truyện ký, vào thời
Ngô Việt Vương, tại Hàng Châu có Hòa thượng Hành Tu, trụ trì chùa Pháp Tướng.
Ngài vốn con nhà họ Trần ở Tuyền Nam, sanh ra có tướng lạ, hai tai dài chấm tới
vai, đến bảy tuổi vẫn không nói. Một hôm có người đùa hỏi, ngài bỗng ứng tiếng
đáp: “Nếu không gặp bậc tác gia, nói cho lắm chỉ xô phá lầu khói mà thôi!”.
Sau ngài xuất gia ở chùa
Ngõa Quan tại Kim Lăng, tham phỏng với Tuyết Phong thiền sư, ngộ được tâm ấn.
Từ đó mãnh thú gặp ngài đều thuần thục, từng nổi tiếng là ông Tăng có nhiều sự
phi thường, linh dị. Có một Đại đức hỏi: “Thế nào ý nghĩa của đôi tai dài?”
Ngài không đáp, chỉ kéo dài hai tai mà biểu thị. Lại hỏi: “Chót núi phương Nam
có khó đến chăng”?”. Ngài đáp: “Chỉ tại chưa từng đi đến”. Hỏi: “Sau khi đến rồi
như thế nào?. Đáp: “Một mình nằm nghỉ đỉnh non cao”.
Ngô Việt Vương nhân khi
đến chùa lễ Phật, có hỏi ngài Vĩnh Minh: “Bạch tôn đức! Thời nay có bậc chân
Tăng nào khác chăng?” Đại sư đáp: “Có Hòa thượng Hành Tu, đôi tai dài, chính là
Phật Định Quang ứng thân đấy!”. Vương tìm đến ngài Hành Tu cung kính đảnh lễ,
tôn xưng là Định Quang Như lai ra đời. Ngài bảo: “Vĩnh Minh Đại sư thật khéo
nhiều lời. Ông ta cũng chính là Phật A Di Đà ứng thân đó”. Nói xong, ngồi yên
mà hóa. Ngô Việt Vương vội vã trở về chùa Vĩnh Minh định gạn hỏi hết, thì Đại
sư cũng đã thị tịch.
Do đó, người đương thời
truyền nhau:
Vĩnh Minh đại sư là Phật A Di Đà ứng hóa. Và hàng Tăng tục mới lấy ngày sanh nhật của Đại sư ngày 17 tháng 11 là lễ vía kỷ niệm Phật A Di Đà.
ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT
VIÊN THÔNG VỀ KIẾN ĐẠI
MIỆM PHẬT THẤY PHẬT
Ngài Đại-thế-chí Pháp-vương-tử cùng với năm mươi hai vị Bồ-tát đồng-tu một pháp-môn, liền từ chổ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp trước, có đức Phật ra đời, tên là Vô-lượng-quang; lúc ấy mười hai đức Như-lai kế nhau thành Phật trong một kiếp đức Phật sau hết, hiệu là Siêu-nhật-nguyệt-quang, dạy cho tôi phép Niệm-Phật-tam-muội.
Ví-như có người, một đằng chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu gặp cũng không là gặp, dầu thấy cũng là không thấy; nếu cả hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ mãi, khắc sâu vào tâm-niệm, thì đồng như hình với bóng, cho đến từ đời nầy sang đời khác, không bao-giờ cách-xa nhau.
Thập-phương Như-lai thương-tưởng chúng-sinh như mẹ nhớ con, nếu con trốn-tránh, thì tuy nhớ, nào có ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không cách-xa nhau. Nếu tâm chúng-sinh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau, nhất-định thấy Phật; cách Phật không xa thì không cần phương-tiện, tâm tự được khai-ngộ như người ướp-hương thì thân-thể có mùi thơm, ấy gọi là hương-quang-trang-nghiêm.
Bản-nhân của tôi là dùng tâm niệm Phật mà vào pháp vô-sinh-nhẫn, nay ở cõi nầy tiếp-dẫn những người niệm Phật về cõi Tịnh-độ. Phật hỏi về viên-thông, tôi thu-nhiếp tất-cả sáu căn, không có lựa-chọn, tịnh-niệm kế-tiếp, được vào Tam-ma-đề, đó là thứ nhất."
Comments
Post a Comment