CHÁNH VĂN
91.-Ẩn tu khuyên khắp sớm hồi đầu
Lìa khỏi dòng mê, sóng nước
sâu
Phước huệ đủ trong câu niệm
PHẬT
Tám muôn tư pháp cũng gồm
thâu.
92.-Ẩn tu chầm chậm bóng dương đi
Ngoài cửa hoa nhàn liễu rũ
mi
Đại-mộng hỏi ai người sớm
tỉnh?
Ngày xuân chưa dễ hẹn
tiên-tri !
93.-Ẩn tu khẩn nguyện khắp nơi-nơi
Niệm PHẬT xứng cơ lại hợp
thời
Biển mộng hỏi ai, thuyền
lạc bến
Sông mê này chút ánh sen
rơi !
94.-Ẩn tu nghĩ tiếc bậc tài cao !
Biển luỵ trần ai đắm kiệt
hào !
Giọt lệ Tần-Đình thương đất
nước
Bên song kiếm ẩn thán công
hầu !
95.-Ẩn tu nhìn lắm kẻ chơi vơi
Gào khóc quên tu cũng huyễn
thôi !
Niệm PHẬT để cho tròn tánh
PHẬT
Kiếp người chẳng uổng được
thân người.
GIẢNG GIẢI
BÀI SỐ 91
Ẩn tu khuyên khắp sớm hồi
đầu
Lìa khỏi dòng mê, sóng nước
sâu
Phước huệ đủ trong câu niệm
PHẬT
Tám muôn tư pháp cũng gồm
thâu.
NHƯ Ý : Cổ đức bảo : “Chí Tâm Niệm Phật, thì MỘT
NGÀN BẢY TRĂM CÔNG ÁN, TÁM MUÔN TƯ PHÁP cũng gồm thâu ở trong đó”.
Có người cho rằng Tịnh
Độ Giáo thuộc về hành môn không phải lý môn, nghĩa là Đức Thích Ca chỉ trần
thuật cảnh Cực Lạc, rồi khuyên người niệm Phật để cầu sanh, không thiệp đến
phần lý thuyết. Nhưng thật ra, lý để đi đến hành, trong hành tức đã có
ẩn phần giáo lý.
Vả lại pháp môn của Đức
Phật chia làm Không Tông, Hữu Tông, Hiển Giáo, Mật Giáo, tất cả đều
nương tựa và làm sáng tỏ cho nhau. Cho nên nếu nhận định rằng: không
có Duy Thức hay Thiền, thì Mật và Tịnh Độ thành ra thần quyền mê tín,
hoặc không có Tịnh Độ cùng Mật, tất Duy Thức và Thiền thành ra lý
thuyết trệ không, đều là biết qua các tông phái Phật Giáo bằng lối nhìn
phiến diện.
Chẳng hạn như bên Thiền
Tông, tuy chỉ dạy tham một câu thoại đầu, nhưng trong ấy đã hàm ẩn vô biên đạo
lý. Tịnh Độ Tông cũng thế, một câu niệm Phật gồm cả Thiền, Giáo, Luật, Mật, nên
cổ đức đã phán định pháp môn nầy thuộc về đốn giáo. Và Ngẫu Ích Đại Sư, một vị
đích truyền thuộc phái Thiên Thai, cũng bảo: “Một câu Phật hiệu nếu niệm cho
thuần thục, thì ba ngàn oai nghi tám muôn tế hạnh, bao nhiêu công án của Thiền
Tông và đạo lý cực tắc của Giáo môn đều ở trong đó”.
Để chứng minh câu niệm
Phật hàm đạo lý nhiệm mầu, và giải mối nghi cho những vị tìm hiểu cùng hành trì
về môn nầy, bút giả xin phiên dịch quyển Thập Nghi của ngài
Trí Giả, tập Hoặc Vấn của ngài Thiên Như, họp lại tạm lấy nhan
đề là Tịnh Độ Quyết Nghi Luận. Trong đây phần nhiều bàn giải những
nghi vấn hơi cao, đáng lẽ bút giả phải phụ thích thêm những nghi điểm thông
thường về Tịnh Độ, song vì tự thân kém sức khỏe lại Phật sự bận nhiều, nên xin
hẹn chờ dịp khác.
Nội dung quyển nầy trừ
một vài điểm phụ giải có ghi chú, ngoài ra toàn là những luận thích của bậc
danh đức.
Học giả có thể đặt niềm tin
tưởng nơi cổ huấn, mà mở đường vào Tịnh Độ Huyền Môn.
Ngoài song non xanh giăng màn hoa
Triền non thanh tuyền buông cầm ca
Trong song kìa ai im như mơ
Ngồi xem Thiên Như câu Di Đà
Người đời đều ưa cơ Thiền sâu
Hành nhơn ai vào tâm vương mầu
Đèn sương trơ vơ ngoài trời thu
Non Tu vi trần đều gồm thâu
Mà trong A Di hồng danh thâm
Ngàn muôn khôn tìm ra tri âm!
Thiên Như lòng từ soi chân đăng
Đưa người mau ra vòng mê lầm
Hư không chim bay dường như tranh
Lưu tuyền quanh co triền non xanh
Người đi xa xa làn mây trôi
Di Đà chân như nầy tâm lành
Ôi câu hồng danh mầu thâm xa
Sâu cùng chư tông làng thiền na
Buông ra thâu vào đều như như
Tương tư tâm đầy trời Liên Hoa
Thuật ý Thành Thời Đại
Sư
Liên Du Thích Thiền Tâm
dịch
Bản Hoài Ra Ðời Của Ðức Phật
Kinh Pháp-Hoa nói:
“Chư Phật Thế-Tôn chỉ vì
một nhân duyên lớn mà hiện ra đời. Xá-Lợi-Phất! Sao gọi là chư Phật Thế-Tôn chỉ
vì một nhân duyên lớn mà hiện ra đời?
- Ðó là các Ðức Như-Lai vì
muốn cho chúng-sanh mở mang tri-kiến-Phật để được thanh tịnh
mà hiện ra đời.
Vì muốn chỉ bày tri-kiến-Phật
cho chúng-sanh mà hiện ra đời.
Vì muốn cho
chúng-sanh tỏ ngộ tri-kiến-Phật mà hiện ra đời.
Vì muốn cho
chúng-sanh chứng vào tri-kiến-Phật mà hiện ra đời”.
Ðại ý đoạn kinh trên, chư
Phật ra đời với bản hoài muốn cho tất cả chúng-sanh đều thành Phật. Có thành
Phật mới đi đến chỗ độ mình độ người một cách viên mãn. Nhưng xét lại trong
hàng Phật-tử xuất-gia, tại-gia, phần đông sự phát tâm hướng đạo đã sai
với mục đích căn bản ấy.
Có kẻ đi đến chùa để cầu
cho gia quyến bình yên, làm ăn phát đạt. Có người cúng dường tu phước để cầu sự
vui ngũ dục đời sau.
Có kẻ gặp cảnh duyên trắc
trở, mượn câu kinh tiếng kệ để an ủi tâm hồn.
Có người vì tránh nạn
duyên, hoặc mến cảnh chùa tịch mịch, hay muốn an hưởng thanh nhàn, nên mới
nương cửa Phật.
Tóm lại, nhân duyên vào
đạo tuy nhiều, nhưng ít ai thiết thật xa lìa danh lợi cầu quả giải
thoát để độ mình độ người.
Tuy rằng đối với phàm-phu,
đôi khi nghịch cảnh cũng là bước đầu dẫn đến Niết-bàn, hay chắp tay trước thánh
tượng, niệm một tiếng nam-mô, cũng là gieo nhân giải thoát, nhưng người đã
nương về Tam-bảo, cũng nên chuyển hướng tâm
nguyện và hành vi cho đúng với bản hoài của Phật.
Lộ trình giải thoát với
tiêu điểm lợi mình lợi người, rất trắc trở khó khăn, nếu chẳng phải là người có
chí kiên nhẫn, đức dũng tiến, tất không thể đi đến nơi đến chốn. Cho nên quan
niệm tu hành theo lối cầu an như:
“Ðã đem mình đến am mây.
Tuổi nầy gởi với cỏ cây cũng vừa”, thật đã sai lầm, không
những trái với bản tâm của Phật, còn lạc với thật nghĩa hướng đạo của mình.
Bản hoài ra đời của chư
Phật đại để là thế. Tuy nhiên, vì căn cơ chúng-sanh có muôn vàn sai khác, nên
các Ðức Thế-Tôn khi xuất hiện đều dùng vô số phương tiện dẫn dắt kẻ hữu duyên
đi từ bậc thấp đến cao. Giáo pháp của Phật tuy nhiều, nhưng có thể chia làm ba
bậc, hay ba thừa, tức là Tiểu-thừa, Trung-thừa và Đại-thừa. Hay gọi cách khác
là hạ, trung, thượng-thừa.
Nếu nói rộng ra thì có đến
năm thừa là: Nhơn, Thiên, Thanh-Văn, Duyên-Giác, và Bồ-Tát thừa. Ðây
là kể năm thừa theo lối thông truyền. Theo kinh Ðại-Thừa-Trang-Nghiêm-Công-Ðức,
cách phu diễn năm thừa có hơi khác qua thứ lớp như sau: Bồ-Tát-thừa,
Duyên-Giác-thừa, Thanh-Văn-thừa, Chủng-chủng-tánh-thừa và Nhơn-Thiên-thừa.
Ðể diễn tiến theo tuần tự
thấp đến cao, từ cạn đến sâu, những chương và thiên sau, bút giả sẽ lần lượt
trình bày khái quát về những giáo pháp ấy.
Ðại Thừa Kiết Tập
Khi Ðức Như-Lai còn tại
thế, đối với hạng dung thường, Ngài chỉ thuyết pháp một cách phổ thông bình
đẳng, không phân chia là Ðại-thừa, Tiểu-thừa chi cả.
Tuy nhiên, trong lời
thuyết pháp của Phật, đôi khi có hàm ẩn giáo lý Ðại-thừa. Chẳng hạn như trong
kinh Tiểu-thừa, chúng ta thấy có danh từ A-Ðà-Na-thức; A-Ðà-Na là thức thứ tám,
thức nầy không phải cảnh giới Thanh-Văn có thể thấu triệt được. Cho nên khi đọc
tới danh từ trên đây, họ chỉ hiểu là thức thứ bảy của ngã chấp mà thôi. Sự
dẫn chứng Ðại-thừa-pháp hàm ẩn trong kinh giáo Tiểu-thừa, quyển Nhiếp-Ðại-Thừa-Luận có
phân tích rành rẽ.
Sở dĩ Ðức Thế-Tôn không
đem giáo nghĩa Ðại-thừa mở rộng giảng cho hạng tiểu căn nghe, vì sợ họ
không hiểu rồi sinh lòng phỉ báng mà mang đọa. Theo trong kinh, chấp
nhận được giáo lý Ðại-thừa, chỉ có ba hạng:
1. Hạng Ðăng-Địa Bồ-Tát: Bậc Bồ-Tát khi đã
chứng pháp-thân, thấy vô số Tịnh-độ, Uế-độ ở mười phương, được nghe chư Phật
mười phương thuyết pháp. Bởi lý do nầy, đối với Phật-bảo, Bồ-Tát tin chắc có vô
lượng chư Phật ở tha phương thế-giới, không như hàng Thanh-Văn chỉ biết
trong phạm vi tam-thiên-giới của cõi Ta-Bà và chỉ tôn thờ một vị Phật là Ðức
Thích-Ca-Mâu-Ni.
Ðối với Pháp bảo, Bồ-Tát
tin hiểu có vô lượng pháp môn độ sinh, không như hàng Thanh-Văn chỉ chấp
nhận pháp Tứ-đế, Thập-nhị-nhân-duyên và các tiểu pháp khác.
Ðối với Tăng-bảo, Bồ-Tát
hiểu rằng có vô lượng chư Bồ-Tát ở mười phương, không như hàng
Thanh-Văn chỉ biết có Di-Lặc Bồ-Tát sau sẽ thành Phật và các vị A-la-hán như
Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên...
2. Hạng Thanh-Văn tin nơi lời của Phật và phát tâm
Ðại-thừa: Ðại-thừa tuy không
phải là cảnh giới của hàng Thanh-Văn, nhưng do họ tin lời của Phật mà chấp
nhận. Như trong kinh Pháp-Hoa, Ðức Thế-Tôn bảo: “Xá-Lợi-Phất! Pháp môn nầy với
đạo quả của ông, hãy còn nương nơi ta mà tin hiểu... Bao nhiêu hàng
Thanh-Văn khác, chỉ tùy thuận Như-Lai mà tín thọ, chớ không phải do trí huệ của
chính mình”.
3. Hạng phàm-phu có chủng tử Ðại-thừa: Ðây là những hạng Ðại-thừa chủng tánh trong năm
tánh theo kinh Phật. Hạng nầy nhiếp luôn cả Sơ-phát-tâm Bồ-Tát và Hiền-vị
Bồ-Tát. Tuy chưa chứng đạo quả nhưng hàng Ðại-thừa chủng tánh do nhiều
kiếp về trước đã huân tập pháp Đại-thừa, nên một khi nghe đến pháp nầy liền tín
thọ.
Như kinh
Kim-Cang, kinh Vô-Lượng-Thọ đều nói: “Nếu có người nào nghe
pháp nầy mà tin thuận, nên biết kẻ ấy không phải chỉ gieo căn lành nơi
một hai Đức Phật, mà đã từ vô lượng chư Phật về trước rồi”.
Lại, Đại-thừa có nhiều
pháp môn, nên sự huân tập của hàng Ðại-thừa chủng tánh cũng có ít nhiều sai
biệt. Như cũng đồng Ðại-thừa chủng tánh mà có kẻ tin pháp Bát-nhã, song
không tin pháp Bí-mật, hay tin pháp Bí-mật nhưng không tin
pháp Tịnh-độ, hoặc tất cả đều tin.
Còn hạng không có chủng
tánh nầy, dù đọc hết bao nhiêu pháp tạng, kết cuộc sự tin hiểu và lối giải
thích nếu không Tiểu-thừa cũng thế gian, không thế gian cũng ngoại-đạo. Thật đúng như câu:
“Nhất đại-tạng-kinh đô
khán tận.
Bất tri thùy thị cá
trung nhơn?”
(Một đại-tạng-kinh xem
đã hết.
Biết ai là kẻ ở trong đây?).
Trong một đời giáo hóa,
Ðức Thế-Tôn phần nhiều nói giáo pháp thông thường. Tuy nhiên, đối với hạng đại
căn, Ngài lại diễn môn Đại-thừa đặc biệt. Những kỳ thuyết pháp nầy, có
khi Đức Phật nói ở Thiên-cung, Long-cung, hay nơi hải đảo, non cao, hoặc riêng
trong chúng hội có căn cơ kham tin nhận đại pháp.
Từ trước đến đây, sở dĩ
có cuộc dẫn giải dài dòng, là để học giả tin pháp Ðại-thừa có thật, nhưng rất
khó tin, nếu không phải là người đã sẵn đại căn. Vì khó tin nên khi Phật nói
kinh Pháp-Hoa ở non Linh-Thứu, đã có 5000 vị Thanh-Văn chứng
tứ-đạo-quả, rút lui ra khỏi pháp hội. Và đã có Đại-thừa pháp, tất
nhiên có cuộc kiết-tập giáo nghĩa nầy.
Căn cứ theo kinh, cuộc
kiết-tập Đại-thừa-giáo đã diễn ra ba lần ở ba nơi:
Lần thứ nhất, như kinh
Bồ-Tát-Xử-Thai nói: Sau khi Ðức Thế-Tôn diệt độ bảy hôm, ngài Ma-Ha-Ca-Diếp
dùng thần thông chiêu tập 500 vị A-la-hán đến Sa-La-Song-Thọ. Ðồng thời lại có
các bậc Ðại A-la-hán ở mười phương vân tập tới bản xứ. Lúc ấy trong đại hội có
tám ức bốn ngàn chúng A-la-hán. Sau khi thỉnh Tôn-giả A-Nan lên tòa thất bảo,
ngài Ðại Ca-Diếp nói:
“Pháp tạng của Phật,
nhân giả đã thọ trì. Vậy xin trùng tuyên lại đừng để sót mất một lời một chữ.
Về các tạng: Bồ-Tát, Thanh-Văn, Giới-luật, xin tập hợp mỗi bộ loại cho rành
rẽ”.
Khi ấy, giữa chúng hội,
ngài A-Nan trùng tuyên pháp tạng chia thành ba bộ loại: Bồ-Tát, Thanh-Văn và
Giới-luật. Riêng về tạng Bồ-Tát, tôn-giả lại phân ra tám biệt tạng là:
Thai-Hóa, Trung-Ấm, Ðại-Phương-Ðẳng, Giới-Luật, Thập-Trụ-Bồ-Tát, Tạp-Tạng,
Kim-Cang và Phật-Tạng.
Lần thứ hai, như Luận-Trí-Ðộ nói:
Sau khi Phật nhập diệt, các vị Bồ-Tát Văn-Thù, Di-Lặc dùng thần thông đem ngài
A-Nan đến núi Thiết-Vi. Tại nơi đây đã có vô lượng chúng Bồ-Tát, Thanh-Văn cùng
Thiên-long-bát-bộ vân tập. Lúc đó, giữa chúng hội, ngài A-Nan kiết-tập ba tạng
Kinh, Luật, Luận, của Ðại-thừa. Kế đó các Bồ-Tát lại đem ngài đến núi
Kỳ-Xà-Quật, kiết-tập ba tạng Tiểu-thừa.
Lần thứ ba, như Ðại-Nhật-Kinh-Sớ nói:
“Cuộc kiết-tập Bí-mật-tạng chia làm ba bộ phái:
1. Bộ phái
Tự-môn: Bộ nầy do ngài A-Nan kiết-tập gồm hai môn loại: Kim-Cang-giới
và Thai-Tạng-giới.
2. Bộ phái
Sơn-môn: Bộ nầy cũng kiết-tập hai môn loại trên, nhưng Bồ-Tát
Kim-Cang-Thủ làm Chánh-hội-chủ, Tôn-giả A-Nan làm Phó-hội-chủ.
3. Bộ phái
Ðông-tự: Bộ nầy do Kim-Cang-Thủ Bồ-Tát kiết-tập lại Tạp-bộ của hai môn
loại trước.
Tóm lại, hai kỳ kiết-tập
trước gọi chung là Ðại-thừa-kiết-tập, xứ sở là Sa-La-Song-Thọ và
Thiết-Vi-Sơn. Kỳ kiết-tập sau gọi là Bí-mật-kiết-tập, xứ sở chưa được
rõ.
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Tổng-Nhiếp-ThiênTý Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Bốn Mươi Hai
Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74]
Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,
tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.
Một câu A Di Ðà
Hay trống không ác đạo
Ức muôn đức hồng danh
Khó nghĩ bàn kỳ ảo!
(Nhứt cú Di Ðà
Không chư ác thú
Vạn đức hồng danh
Na dung tư nghị.)
LƯỢC GIẢI
Trong Tam Bảo
Cảm Ứng Yếu Lược Lục có ghi một sự tích công đức Niệm Phật. Xin mượn
nêu ra để giải thích bài kệ trên với tánh cách chứng thật.
Một vị Bà-la-môn ở nước
A Du Sa xứ Thiên Trúc có cô vợ rất đẹp. Vì tình si mê ái nhiễm sâu nặng, ông ta
gần gũi mãi cũng không thấy chán đủ. Người vợ lại là một tín đồ Phật giáo; muốn
nhân cơ hội đó hóa độ chồng, mới đặt điều kiện:
"Nếu khi sắp gần
gũi, phải gõ chiếc trống đồng, cả hai cùng niệm hồng danh A Di Ðà một lúc lâu
cô mới chấp thuận". Ông chồng bất đắc dĩ
phải tuân theo.
Ba năm sau, vị Bà-la-môn bị bạo bịnh tắt hơi, chỉ nơi ngực mãi còn nóng ấm, nên
người nhà chưa dám thiêu hóa. Trải qua năm ngày, ông chợt sống lại, gọi vợ khóc
bảo rằng:
"Tôi chết do nghiệp
nặng bị đọa vào địa ngục Phất Thang. Khi quỉ tốt dùng đinh ba vích tội nhơn vào
vạc dầu sôi, chĩa sắt đụng thành vạc đánh keng một tiếng. Lúc ấy tôi đang kinh
hồn lạc phách, chợt nhớ tới việc bà bảo gõ trống đồng niệm Phật, nên
bất giác lớn tiếng niệm Nam Mô A Di Ðà Phật. Lạ thay, ngay lúc ấy vạc
dầu sôi liền biến thành ao sen nước trong mát, các tội nhơn đều hiện tướng tốt
ngồi trên đài sen, rồi cùng bay về Tịnh Ðộ. Diêm Vương nghe báo sanh
lòng hoan hỷ, thả cho tôi trở về!".
Truyện ký trên, chứng
minh công năng niệm Phật có thể làm tiêu tan trống không cảnh Ðịa Ngục. Lẽ dĩ
nhiên, đối với các ác đạo khác như Ngạ-quỉ, Súc-sanh, Tu-la cũng lại như
thế. Câu Nam Mô A Di Ðà Phật là kết tinh phước huệ của vô lượng công
đức lành khi Phật còn tu Bồ Tát đạo nên mới gọi Vạn Ðức Hồng Danh. Bởi
thế, hồng danh này có công năng rộng lớn kỳ diệu chẳng thể nghĩ bàn!
Trong kinh gọi đó là vô
tác thần lực, nghĩa là sức thần thông đương nhiên, không phải do Phật tác ý
khởi niệm xui khiến nên. Ðại khái, bài kệ trên tán dương và nêu rõ công đức của
câu hồng danh khiến cho hành giả tăng thêm phần tín, hạnh, nguyện.
Một câu A Di Ðà
Không thể thí dụ tất!
Gương xưa nơi đài cao
Thủy ngân rơi xuống đất.
(Nhứt cú Di Ðà
Vô khả thí dụ!
Cổ cảnh đương đài
Thủy ngân đọa địa.)
LƯỢC GIẢI
Công năng niệm Phật rất
mầu nhiệm, không thể nào dùng thí dụ mà nói ra cho hết được!
Về thể, thì Niệm Phật sẽ phát hiện Ðại Viên Cảnh Trí, ảnh hiện
mọi cảnh giới: như tấm gương xưa để nơi đài cao chiếu rõ và in bóng cảnh vật
một cách không phân biệt. Ðã vô phân biệt thì làm sao dùng lời nói mà diễn tả
thí dụ?
Về dụng, câu niệm Phật viên dung không ngại như hạt thủy
ngân rơi xuống mặt đất liền lăn tròn. Sự trì niệm hồng danh có đủ Thiền, Giáo,
Luật, Mật, một ngàn bảy trăm công án,
tám muôn tư pháp tạng.
Nói rộng ra, lục độ vạn
hạnh, tất cả hành môn đều dung thông hàm chứa trong câu niệm Phật.
HỒ YỂN
Cư sĩ Hồ Yển, tự Đại
Phu, quê ở Tiền Đường. Đời Tống, ông làm quan Tuyên nghĩa lang. Lúc lớn tuổi
trí sĩ thường cùng Thanh Chiếu Luật sư tới lui tham luận về đạo lý.
Một hôm ông cảm bịnh,
sai con mời ngài Thanh Chiếu đến. Khi Luật sư tới thăm, có nhắc nhở rằng:
“Bình sanh Đại Phu đã
cùng Huệ Hanh nầy thân cận nhau, há chẳng rõ một việc lớn sau rốt đó ư?”
Hồ Yển nói:
“Có phải là tâm thanh
tịnh thì cõi Phật thanh tịnh chăng?”
Thanh Chiếu bảo:
“Trong tất cả thời, cư
sĩ đã được không một niệm nhiễm ô chưa?”
Ông đáp:
“Chưa được!”
Luật sư nói:
“Như thế thì đâu có thể
luận đến việc tâm thanh tịnh cõi Phật thanh tịnh!”
Hồ Yển hỏi: “Kinh nói:
Xưng một câu A Di Đà Phật, diệt được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sanh tử,
là thế nào?”
Thanh Chiếu đáp:
“Đức A Di Đà có thệ
nguyện sâu, oai đức lớn, phước huệ ánh sáng và thần lực đều không thể nghĩ bàn!
Do đó nên khi xưng danh hiệu ngài, tội chướng tự tiêu. Như vầng nhựt rạng chiếu
giữa trời, tuyết sương đâu còn nữa!”
Hồ Yển nghe nói cảm ngộ
lớn, một lòng chí thiết xưng danh hiệu Phật. Lại sai con thỉnh chư tăng đến trợ
niệm. Độ một tháng qua, cuối cùng Thanh Chiếu luật sư lại tới thăm.
Cư sĩ bảo:
“Ngài đến sao muộn thế?
Đã phiền hai vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí giáng lâm từ lâu rồi!”
Luật sư nghe nói, liền
cùng chư tăng xưng danh hiệu Phật trợ niệm. Được một lúc, cư sĩ an nhiên mà qua
đời.
Một câu A Di Đà
Là việc đầu công án
Không thương lượng chi
khác
Thẳng ngay liền quyết
đoán,
Ví như đống lửa lớn
Nhảy vào liền cháy tan
Lại như gươm Thái A
Xông vào liền đứt đoạn
Sáu chữ gồm nhiếp thâu
Tám muôn tư pháp tạng
Một câu giải quyết xong
Ngàn bảy trăm công án
Mặc ai không thích nghe
Ta tự tâm tâm niệm
Xin bất tất nhiều lời
Gắng một lòng không loạn.
THẬT HIỀN ĐẠI SƯ
(Liên Tông Thập Nhất Tổ)
BÀI SỐ 92
Ẩn tu chầm chậm bóng dương
đi
Ngoài cửa hoa nhàn liễu rũ
mi
Đại-mộng hỏi AI người sớm tỉnh?
Ngày xuân chưa dễ hẹn
tiên-tri !
NHƯ Ý : Ngày tháng Lặng-lẽ trôi qua, AI là người sớm
Tỉnh cơn Đại-mộng? Nếu còn say giấc thì không thể hẹn biết trước, lúc
nào mới hưởng được Cảnh Trời Xuân Giải Thoát.
LỜI KHẢI BẠCH
Kính bạch chư tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, Đại đức
Tăng Ni!
Kính thưa Phật tử trong và ngoài nước!
Suốt cuộc đời hành đạo của
Hòa thượng Tôn Sư là một sự nghiệp vĩ đại: dịch kinh, giảng kinh và tụng kinh.
Kinh của Ngài dịch là những bộ kinh lớn quan trọng của Phật giáo Đại thừa,
cương yếu lập tông của các Tông phái. Về giảng kinh thì phần đông chư tôn Hòa
thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư qua các trường lớp Phật học ngày trước đều
thọ nhận sự giáo dưỡng của Ngài. Về tụng kinh thì Ngài dạy phải thuộc
lòng kinh thì mới gọi là tụng kinh. Khi mới vào chùa, Ngài rất siêng
năng tụng niệm.
Ngoài các thời khóa quy
định, Ngài còn tụng thêm ở thất riêng. Thích kinh nào là học thuộc lòng kinh đó
và tụng niệm thường xuyên. Khi về Trường Phật Học Liên Hải, mỗi sáng sớm Ngài
đều trì kinh Pháp Hoa trọn bộ, trì xong mới dùng sáng. Về sau, Ngài giữ thời
khóa nhất định: mỗi ngày đều tụng kinh Hoa Nghiêm phẩm Phổ Hiền, bài kệ phẩm
Phương Tiện, phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa, kinh Kim Cang, kinh
A-di-đà và cuối cùng là niệm Phật hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực
Lạc. Bây giờ, sức yếu, Ngài chỉ tụng thầm. Tụng thầm mà vẫn thuộc thì
sự nhiếp tâm rất cao.
Trước tấm gương vĩ đại đó,
chúng con thật lấy làm hổ thẹn. Về ba phương diện trên, chúng con chưa có phần
nào tương ứng. Nay Hòa thượng Tôn Sư tuổi hạc đã cao, sức khỏe mỗi ngày một
yếu, thế mà chúng con chưa làm được gì để gọi là “tri ân báo ân” đối với sự
nghiệp của Ngài.
Chúng con từng nghe:
“Nhạn bay ngang trời
Bóng chìm đầm lạnh
Nhạn không có ý để lại dấu
tích
Nước không có ý lưu giữ
bóng hình.”
Dù biết phù sinh hư ảo,
vạn vật vô thường, song trước ân đức vô bờ của Hòa thượng Tôn Sư, chúng con
cũng muốn lưu lại chút dư âm trong một đời tu học và hành đạo của Ngài, nhằm
lợi lạc quần sanh. Thế nên, chúng con bèn họp đại chúng, cùng nhau thỉnh chư
Tôn túc chỉ dạy để chúng con thực hiện bộ Trí Tịnh Toàn Tập, hầu
ghi lại dấu ấn vàng son trong một đời hoằng hóa của Ngài, tuy muộn màng nhưng
vẫn còn kịp lúc.
Thầm nguyện Ngài từ bi trụ
thế, gia trì trí lực cho chúng con để chúng con có thể sớm hoàn thành mỹ mãn
công trình Phật sự quan trọng nầy. Rất mong, bộ Toàn Tập sẽ đem lại lợi ích lớn
cho Phật giáo Việt Nam, cũng như cho Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước.
Nguyện cầu Tam Bảo gia hộ
cho Hòa thượng Tôn Sư trụ thế dài lâu để chúng con còn nhờ ân giáo dưỡng và
cũng mong ân Tam Bảo gia hộ cho chúng con được đầy đủ thắng duyên thực hiện
hoàn mãn bộ Toàn Tập nầy, để tỏ lòng tri ân báo ân Hòa thượng Tôn Sư trước khi
Ngài về Phật.
Chúng con xin tri ân chư
Tôn túc Hòa thượng, Thượng tọa đã sách tấn, động viên, cố vấn, hướng dẫn chúng
con trong quá trình thực hiện.
Chúng tôi cũng xin tri ân
đến tất cả huynh đệ Tăng Ni, Phật tử trong Ban Biên tập đã dốc lòng, dốc sức
làm việc để sớm hoàn chỉnh từng bộ, đưa vào in ấn.
Chúng tôi cũng không quên
ghi nhận công đức của chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử đã cúng dường tịnh tài để
chúng tôi đầy đủ phương tiện thực hiện công trình.
Xin nhất tâm tùy hỉ trước
mọi tấm lòng hướng về việc làm đầy ý nghĩa nầy. Trong lúc thực hiện không tránh
khỏi những sơ sót, kính mong chư Tôn đức khắp mười phương niệm tình chỉ dạy
cho.
Chùa Vạn Đức, ngày 19/02 Tân Mão (28/03/2011)
TM. Ban Biên tập
Tỳ-kheo Thích Hoằng Tri
Từ đây Tôi chẳng phải là
Tôi,
Mà cả Trần-gian cũng thế
thôi.
Họ NGUYỄN, NHỰT-THĂNG
rày đã chết,
Sau cổng Thiền-môn đóng
kín rồi.
Nhựt-Thăng Tu-sĩ
Ất-Dậu - 1945
Mỹ-Tho,
Vĩnh-Tràng-Tự – THÍCH
PHẬT-ẤN Hòa-thượng
Kính-gởi:
Sắc-Tứ,
Linh-Thứu-Tự – THÍCH THÀNH-ĐẠO
Đại-lão Hòa-thượng
pháp-huynh,
Nam mô
A-Di-Đà-Phật,
Kính bạch pháp-huynh
tôn-giả,
Người mang thư này tên
NHỰT-THĂNG, họ NGUYỄN sanh-quán tại xã Bình-Xuân, huyện Hòa
Đồng – tỉnh Gò-Công. Tuổi Ất Sửu (1925), cha tên Nguyễn Văn-Hương, mẹ tên Trần
Thị-Dung – năm nay vừa đúng 20 tuổi.
Là một tục-gia đệ-tử của
tôi pháp-danh là Trí-Hiền, vì muốn tránh chướng-duyên ngăn-cản và truy-tìm của
song-thân cùng với gia-đình trên đường xuất- gia tu học cầu giải-thoát, nên
được tôi chấp-nhận cho phép y rời Vĩnh-Tràng bổn-tự đến nơi pháp-huynh và
quý-tự để xin xuống tóc xuất-gia.
Ngưỡng mong pháp-huynh
thương xót lấy Trí-Hiền và vì tôi mà mở lòng từ- bi, chấp-nhận làm Thế-độ sư và
y-chỉ sư để cho y được tăng-thượng thêm pháp-duyên trên con đường tu-học
hiện-tại và tương-lai.
Nam-mô từ-mẫn cố,
đại-từ-mẫn cố.
Bái bạch.
Trụ-trì Vĩnh-Tràng Tự
Hòa-thượng THÍCH PHẬT-ẤN
Lạy này tạ hết những
niềm thương,
Phụ-mẫu đệ-huynh khắp
mọi đường.
Lạy thứ hai, tay nâng
dâng trả,
Tình nhà, nợ nước, nghĩa
quân-vương.
Lạy thứ ba con xin
Kính-lễ,
Ơn dầy sanh-dưỡng mấy
mươi sương.
Lạy thứ tư, từ nay
vĩnh-biệt,
Chôn đời, theo Phật chốn
ĐOÀI-PHƯƠNG.
Thích Thiền-Tâm
ĐOÀI-PHƯƠNG : Phương ĐOÀI trong Bát-Quái là ở PHƯƠNG TÂY.
Từ nay tên gọi THÍCH
THIỀN-TÂM,
Chôn vùi dĩ-vãng chốn xa-xăm.
Nguyễn-Nhựt-Thăng kia rày khuất dạng,
Đã chết lâu rồi, tự mấy năm!
TRÍ-HIỀN
THÍCH THIỀN-TÂM
Có nhà tu thiền hỏi:
“Tất cả các pháp, đều như
mộng huyễn. Cõi Ta bà cố nhiên vẫn huyễn, song cảnh Cực Lạc cũng lại là mộng.
Như thế, niệm Phật cầu về Cực Lạc nào có ích chi ?
Đại sư đáp:
– Không phải thế
đâu! Các bậc Bồ Tát từ đệ Thất địa trở về trước, đều tu hành trong huyễn mộng.
Đến như bậc Đẳng Giác vẫn còn ở trong mộng lớn vô minh. Duy có Phật mới là bậc
Đại Giác, hoàn toàn thức tỉnh.
Đang lúc còn trong mộng,
thì cảnh vui cùng khổ vẫn uyển nhiên! Như thế, cam chịu cảnh mộng khổ ở Ta bà,
sao bằng về hưởng cảnh mộng vui nơi Cực Lạc?
Phương chi, mộng ở Ta Bà
là từ mộng vào mộng. Mộng ở Cực Lạc là từ mộng ra khỏi mê, lần lượt đến ngôi
Đại Giác. Cho nên mộng cảnh tuy vẫn đồng, mà kết qủa ở đôi nơi rất khác
xa, vì thế phải niệm Phật cầu về Cực Lạc!
TẾ TỈNH ĐẠI SƯ
(Liên Tông Thập Nhị Tổ)
Tiết 61.- Mười Phương Tịnh Độ Và Đâu Suất Tịnh Độ
Trong mười phương quốc
độ, có vô số cõi Phật mầu đẹp tinh sạch trang nghiêm, chẳng hạn như thế
giới Tịnh Lưu Ly trong Kinh Dược Sư, thế giới Chúng
Hương và Diệu Hỷ trong Kinh Duy Ma Cật. Nhưng tại sao
ta không niệm danh hiệu chư Phật để cầu sanh về các Tịnh Độ ở mười
phương, lại chỉ phát nguyện sanh về Cực Lạc? - Trong ấy có ba
nguyên do:
1. Do sự giới thiệu
khuyên dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, bảo nên cầu sanh về cõi
Cực Lạc. Theo lời cổ đức, thì ngoài sự kiện cõi Cực Lạc có nhiều duyên nhiệm
mầu thích hợp cho việc nhiếp hóa căn cơ ở các cõi Uế Độ, đức Bổn Sư không muốn
thuyết minh nhiều về những Tịnh Độ khác, sợ e chúng sanh khởi niệm so sánh phân
vân, tâm không qui nhứt. Do việc đủ duyên nhiệm mầu để nhiếp hóa, mà không
những riêng ở tại cõi Ta Bà, các chúng sanh ở vô số thế giới trong mười
phương đều cầu về Cực Lạc.
2. Do đức A Di
Đà Thế Tôn có 48 lời thệ rộng lớn trang nghiêm cõi Tịnh Độ, nguyện
tiếp dẫn từ bậc Bồ Tát, cho đến hàng phàm phu nhiều tội ác.
3. Do vì chúng sanh ở
cõi này có nhân duyên lớn với Phật A Di Đà và Bồ Tát Quán Thế
Âm ở cõi Cực Lạc. Điều minh chứng là khi các Phật tử gặp nhau đều chào mừng
bằng câu A Di Đà Phật và lúc bị tai nạn thường niệm danh hiệu
đức Quán Thế Âm.
Bởi những lẽ trên, mà
cõi Cực Lạc có những điểm ưu thắng để cầu sanh hơn các Tịnh Độ ở mười phương.
- Về Đâu Suất Tịnh Độ,
Phương Luân cư sĩ, một vị uyên bác về Phật học đã trình bày ý kiến của ông như
sau:
Tại thế giới này, về
phương trên có cung trời Đâu Suất nội viện, do đức Di Lặc Bồ Tát làm
chủ. Nơi ấy cũng tốt đẹp trang nghiêm, đức Di Lặc hằng thuyết pháp,
chư thượng thiện câu hội tu hành, nên gọi là Đâu Suất Tịnh Độ. Trong Kinh Di
Lặc Thượng Sanh và Hạ Sanh, đức Thích Tôn cũng giới thiệu quốc độ ấy rất tinh
tường và khuyên nên cầu sanh.
Sở dĩ có sự giới thiệu
đó, bởi bản ý đức Thích Tôn muốn cho hành giả trước theo Di Lặc Bồ Tát học tập,
tương lai lại theo ngài hạ sanh mà được đắc quả trong ba hội Long Hoa. Điều này
chính do đức Bổn Sư khuyến tán, nhân đó người tu Phật cũng có nhiều vị cầu về
Đâu Suất Tịnh Độ.
Hơn nữa, Di Lặc Bồ Tát
từng nói luận Du Già Sư Địa, Ngài là thỉ tổ của tông Duy Thức. Thế
nên người tu về Duy Thức Tông phần nhiều đều có tâm nguyện cầu sanh Đâu Suất,
cho chỗ tu hành tiến đến mức cao thâm. Đối với việc này, người cầu sanh Cực
Lạc chỉ có tán thán đức Thích Tôn lòng từ bi vô lượng, khéo mở nhiều phương
tiện độ sanh.
Lại cũng tán dương những
vị cầu về Đâu Suất tâm háo học không chán mỏi, ý nguyện trở xuống cõi trược để
hóa độ rất tinh thành. Nhưng Đâu Suất nội viện chưa là cảnh tối thắng, và chẳng
phải chỗ thành đạt chắc chắn cho những kẻ căn cơ trung, hạ. Bởi trong ấy có ba
sự kiện:
1. Đâu Suất nội viện về
y báo chẳng trang nghiêm rộng lớn nhiệm mầu bằng Cực Lạc. Về chánh báo
lại cũng kém hơn, vì ở Tây Phương hiện có đức Phật A Di Đà đang thuyết
pháp, vô lượng bậc Nhứt Sanh Bổ Xứ Bồ Tát giúp thêm phần khuyến tấn dắt dìu. Vả
lại ở Cực Lạc dân chúng thọ mạng vô biên, là chỗ nương về tốt đẹp an ổn nhứt.
2. Đức Di Lặc không
có bản nguyện tiếp dẫn như Phật A Di Đà sanh về Đâu Suất hoàn toàn nhờ
tự lực, sợ e khi lâm chung bịnh khổ hôn mê, không nắm vững kết quả.
3. Đâu Suất nội viện rất
khó vãng sanh. Như khi xưa Huyền Giác đại sư giới hạnh trang nghiêm, tham thiền
ngộ đạo, thông suốt tam tạng đến chỗ sâu mầu. Khi lâm chung Ngài hội hàng đệ tử
lại, làm kệ phó chúc xong, bỗng ngửa mặt lên hư không nói:
"Lạ này, ta đã phát
nguyện sanh về Đâu Suất nội viện, sao nay lại làm vị thiên chủ ở cung trời Dạ
Ma?"
Đệ tử thưa hỏi, Ngài
bảo:
"Chẳng phải việc
các ngươi hiểu được."
Giây lát lại nói:
"Trên trời tân khách thật đông nhiều!" Nói xong liền tịch.
Lại sau khi Phật diệt độ
chín trăm năm, ở xứ Thiên Trúc có ba
vị Bồ Tát huynh đệ với nhau là Vô Trước, Thế Thân và Sư
Tử Giác, tu môn Nhật Quang Định, đồng phát nguyện sanh Đâu Suất nội viện.
Ba người cùng ước hẹn,
ai sanh lên trước phải xuống báo tin cho hay. Sau Sư Tử Giác mãn
phần trước, trải qua ba năm tuyệt vô âm tín.
Kế đó ngài Thế
Thân viên tịch rồi cũng bặt tin luôn.
Hai năm sau vào một buổi
chiều tối, ngài Vô Trước đang ngồi giảng kinh, bỗng thấy giữa hư không ánh sáng
chói lòa, một vị thiên tử áo mão trang nghiêm hiện xuống, tự xưng mình là Thế
Thân, bảo đã được sanh lên Đâu Suất nội viện.
Ngài Vô Trước hỏi:
"Tại sao đến bây
giờ mới cho hay?"
Thế Thân đáp:
"Em vừa sanh lên,
được đức Di Lặc xoa đảnh thuyết pháp, nghe pháp xong đi nhiễu ba vòng rồi xuống
đây liền. Bởi thời gian tại Đâu Suất một ngày đêm, ở dưới này đến bốn trăm năm,
nên thành ra làm cho anh nhọc lòng chờ đợi."
Vô Trước lại hỏi:
"Còn Sư Tử Giác ở
đâu?"
- Đáp: "Trong khi em đi nhiễu, nhìn ra thấy Sư Tử
Giác lạc vào ngoại viện, đang say mê theo thiên nhạc."
Như ngài Huyền Giác là
bậc cao tăng, ngài Sư Tử Giác là hàng Bồ Tát, mà một vị chỉ lên đến cung trời
thứ ba, một vị tuy lên được cung trời thứ tư, nhưng lại lạc vào ngoại viện, bị
cảnh ngũ dục thắng diệu làm mê. Những bậc cao minh như thế mà còn không đạt được
kết quả sanh về Đâu Suất Tịnh Độ, thì kẻ căn cơ dung thường, tất chưa
dễ chiếm phần hy vọng. Nhớ lại khi xưa Bạch Lạc Thiên từng đề thi rằng:
Có người đi biển lại
thần châu
Nói thấy cung viên hải đảo mầu
Thật đẹp, tiên đồng tay trỏ bảo:
Sẽ chờ Bạch Lạc bước lên lầu.
Đã mến Không môn, chẳng học tiên
Chuyện ni e cũng việc hư truyền
Bồng Lai chẳng phải nơi ta ở
Về chỉ về cung Đâu Suất Thiên.
Bạch Lạc Thiên trước học
tiên cầu về Bồng Lai, sau lại bỏ tiên học Phật cầu về Đâu
Suất. Đến lúc tuổi già, ông lại niệm Phật cầu sanh về Cực Lạc.
Đây có thể gọi là càng suy gẫm lựa chọn, càng đi đến chỗ tinh vi vậy.
Thứ Hai Mươi Lăm
Chư thiên khoái lạc
thắng nhơn gian
Phát nguyện vãng sanh đa
trở nan
Đản tự thủ trì hồng liên
hoa
Đàn chỉ vãng sanh phi
đẳng gián.
Bà Đà Ma Yết Tất Đà Dạ [70]
Án-- thương yết lệ, tát-phạ hạ.
Một câu A Di Ðà
Cũng không, cũng có tướng
Non sông nơi giấc mộng
Hoa, liễu ở trong gương.
(Nhứt cú Di Ðà
Diệc vô diệc hữu.
Mộng lý sơn xuyên
Cảnh trung hoa, liễu.)
LƯỢC GIẢI
Bài kệ trên nêu rõ ý: Câu niệm Phật nói không cũng được, nói có cũng
được. Ví như bóng cành hoa, cội liễu lộ trong gương sáng, cảnh non cao,
sông rộng hiện giữa giấc mơ.
Trường hợp ấy, nói không
cũng được vì đó chỉ là hình bóng, là cảnh mơ; nói có cũng được, bởi nó vẫn có
ảnh tượng của cảnh vật vậy.
NGÔ BỈNH TÍN
Cư sĩ Ngô Bỉnh Tín, tự
Tử Tài, người đời Tống, quê ở Minh Châu. Trong năm Thiệu Hưng, ông làm quan tại
triều, đối nghịch với thừa tướng Tần Cối, bị biếm truất, bèn từ chức về cất
ngôi tĩnh am ở phía nam đô thành để tu dưỡng.
Từ đó, cư sĩ gác bỏ mọi
việc, hôm sớm khi thì lễ Phật tụng kinh, lúc lại ngồi yên tĩnh niệm. Ông sắm
sẵn một chiếc quan tài, ban đêm sau thời khóa tụng, lại vào đó nằm, để
nhớ rằng mình là người sắp chết mà chí tâm tu niệm. Cư sĩ có đặt lời
ca, các Phật sự cho một đồng tử y theo đó mà gọi mình thức giấc. Mỗi tinh sương
cứ đến canh năm, đồng tử tới gõ vào quan tài, ca lên rằng:
Ông Ngổ Bỉnh Tín
Tỉnh mộng về ngay!
Ba cõi không yên chẳng nên ở
Tây phương Cực Lạc có liên đài!
Ông Ngô Bỉnh Tín
Tỉnh mộng về ngay!
Nghe gọi, cư sĩ liền
thức dậy tụng niệm. Khi Tần cối chết, vua xuống chỉ triệu ông làm quan Lễ bộ
thị lang, kế đó cải nhiệm sang trấn Thường Châu. Đên năm thứ 26 đương triều,
lại bị triệu về kinh. Khi xe đến nhà trạm tại Túc Sơn, cả đoàn tạm dừng nghỉ.
Giây phút, gia nhơn và kẻ tùy tùng bỗng nghe tiếng nhã nhạc du dương trên trời.
Ông nhìn quanh bảo:
“Ta vốn ở cõi thanh
tịnh, vì sai một niệm lạc đến nơi nầy. Đài vàng đã chờ đón giữa hư không, ta
sắp đi đây!”
Nói xong, chắp tay niệm Phật mà hóa.
BÀI SỐ 93
Ẩn tu khẩn nguyện khắp
nơi-nơi
Niệm PHẬT xứng cơ lại
hợp thời
Biển mộng hỏi ai, thuyền
lạc bến
Sông mê này chút ánh sen
rơi !
NHƯ Ý : Trong Đời mạt Pháp, môn niệm
PHẬT là hợp Thời-cơ nhất, vì ngoài Tự-lực còn được
Phật-lực gia bị Tiếp-dẫn, trong buổi hoàng hôn mờ tối của Đời và Đạo, ánh
HOA SEN báu Kỳ-diệu này còn rơi sót lại, để soi sáng Kẽ mê đường.
TÂY
PHƯƠNG NHỰT KHÓA
Chớ quản gió-sương sông-núi cách,
Hoa sen Bảo-Tích sắc
hương-mầu.
I. LỜI PHI-LỘ VÀ
PHỤNG-KHUYẾN
1. Thích ứng cả ba căn
2. Gồm tự-lực, tha lực
3. Giải thoát ngay trong
hiện-kiếp
4. Hợp với thời-tiết,
cơ-duyên
5. Luận về NGƯỜI và CẢNH
thời nay
6. Vài điều kết yếu
II. NGHI THỨC
MẬT TÔNG
1. Lễ bái sám hối
2. Trì chú niệm Phật
3. Phát nguyện hồi
hướng
CHƯƠNG I
LỜI PHI-LỘ VÀ PHỤNG-KHUYẾN
Hiện nay, Người tu
Tịnh-độ càng ngày càng đông. Sở-dĩ như thế, bởi vì môn Niệm-Phật có những
yếu-tố :
1) Thích ứng cả ba căn
2) Gồm tự-lực, tha lực
3) Giải thoát ngay trong
hiện-kiếp
4) Hợp với thời-tiết,
cơ-duyên
5) Luận về NGƯỜI và CẢNH
thời nay
6) Vài điều kết yếu
1.- NIỆM-PHẬT THÍCH-ỨNG CẢ BA CĂN
Các pháp-môn khác, nếu như thấp thì bậc THƯỢNG-CĂN chẳng thích tu, và nếu như
cao tất các bậc TRUNG, HẠ-CĂN không kham tu.
Chẳng hạn như về THIỀN-TÔNG, thì đạo-lý thật mầu-nhiệm cao-siêu, một niệm đi
thẳng vào chân-tâm sáng-suốt, ứng-dụng tự-tại, vượt khỏi đầu sào trăm trượng,
như nhạn bay giữa thái-hư dấu-vết chẳng còn lưu.
Nhưng khúc điệu càng cao, người họa lại càng thêm thưa ít. Nếu chẳng phải bậc
Huệ-căn gieo sẵn, chỉ e cho vẽ cọp không thành.
Nên cổ-đức đã bảo:
“Chẳng phải căn thượng-thượng,
Dè-dặt chớ khinh-truyền.”
(Phi thượng-thượng căn,
Thận vật kinh hứa ).
Bởi nếu không phải là bậc THƯỢNG-CĂN triệt-ngộ thiền-cơ thì chẳng thể nhập được
ngay vào chân-không, mà phần nhiều lại lạc vào lối chấp thiên-không. Rồi
từ đó bác phá nhân-quả, sự tướng, tăng lòng ngã-mạn, cống-cao.
Về điều nầy trong bài CHỨNG-ÐẠO-CA,
VĨNH GIA HUYỀN-GIÁC thiền sư có nói:
"Nếu chấp cái không trống-rỗng,
rồi bác phá nhân-quả thì ương-họa lan-tràn !".
(Hoát-đạt không, Bác nhân-quả,
Mãng-mãng, đảng-đảng chiêu ương-họa !).
Thật ra THIỀN-TÔNG cần phải duy-trì và phục-hưng, cho chúng-sanh được độ-thoát
an-vui, vườn hoa Phật-giáo thêm thắm-tươi đầy đủ màu-sắc hơn. Nếu có bậc tu
THIỀN chân chánh làm lợi-ích cho mình và người, cũng đáng nên cúi đầu đảnh-lễ.
Rất tiếc nhiều kẻ mới vào cửa mầu THIỀN học, liền chuộng những huyền-lý cao
siêu, vội xem thường sự: Thờ cúng, Tu phước, Giữ giới, Sám hối, Tụng kinh, cho
là hành-môn thấp nhỏ, chấp-trước sự-tướng.
Cảnh-trạng một kẻ mê đường dẫn nhiều người lạc lối,
khiến cho ngay những bậc tôn-đức bên THIỀN trông thấy cũng thê-lương cho
Phật-pháp, xót-dạ, đau lòng !
Nếu huyễn-sắc tức là chân-không thì dù tham THIỀN, niệm PHẬT, tụng KINH,
hay hành-trì tất-cả sự-tướng trong đạo-pháp, cũng đều là chân không. Bậc
liễu-đạt tùy-niệm ứng-dụng tự-tại không dính-mắc, như trái hồ-lô lăn tròn trên
mặt nước, can chi mà phòng-ngại!
Cho nên chư Cổ-đức bên THIỀN đã cảnh-giác: " THIỀN-TÔNG nếu đi đúng
tất mau chứng-quả BỒ-ÐỀ, còn lạc lầm thì đọa vào địa-ngục như tên bắn !".
Các Pháp-môn cao, với bậc THƯỢNG-CĂN mới được sự lợi-ích thiết-thật LÀ NHƯ THẾ
ẤY.
Còn
môn TỊNH-ÐỘ thì thích ứng tất cả ba căn-cơ: THƯỢNG, TRUNG, HẠ. Bậc
THƯỢNG-THƯỢNG căn như các ngài: VĂN-THÙ, PHỔ-HIỀN, LONG-THỌ, TRÍ-GIẢ và
các bậc cao-đức khác nữa xưa nay, phần nhiều đều tu về môn nầy.
Như trong kinh HOA-NGHIÊM, THIỆN-TÀI đồng-tử khi đi tham-phỏng bậc tri-thức đầu
tiên là ÐỨC-VÂN BỒ-TÁT, ngài ÐỨC-VÂN đã đem môn NIỆM-PHẬT TAM-MUỘI mà truyền
dạy. Ðến lúc cuối cùng, PHỔ-HIỀN đại sĩ cũng nói MƯỜI ÐẠI NGUYỆN vương, khuyên
THIỆN-TÀI và chư-vị Bồ-tát trong Hoa-tạng Hải-hội niệm Phật hồi-hướng về
CỰC-LẠC. Do đấy, nên bảo niệm PHẬT là pháp-môn thấp kém, chỉ để cho hạng
tầm-thường, ngu-dốt tu, là quan-niệm rất sai lầm!
Ðến như bậc hạ-căn, thì trong TỊNH-ÐỘ THÁNH-HIỀN LỤC đã ghi chép các sự-tích.
Kẻ ngu-muội dốt-nát, phá-giới phạm-trai, nghèo khổ tật-nguyền, cho đến loài
chim theo lời người dạy xưng danh-hiệu Phật, biết hồi-tâm sám-hối, trì-niệm
chuyên-thành, đều được nguyện lực của PHẬT nhiếp-thọ, tiếp-dẫn sanh về Cực-lạc.
Cho nên một bậc danh-đức xưa đã khen môn Tịnh-độ là:
“Bảo-phiệt ra khỏi Ta-bà,
Huyền-môn để thành Phật-đạo”.
(Xuất Ta-bà chi bảo-phiệt,
Thành Phật-đạo chi huyền-môn).
Cũng trong ý đó,
Ấn-Quang Ðại-sư có câu đối :
“Bỏ đường tắt Tây-phương, chín giới chúng-sanh,
trên khó thể viên-thành quả-giác.
Lìa cửa mầu Tịnh-độ, mười phương chư PHẬT,
dưới không toàn độ thoát loài-mê”.
Nói theo kinh:
“Pháp-môn niệm-Phật,
Quả thật như chiếc lưới báu cực to,
Có thể vớt tất-cả các loài cá lớn nhỏ trong
tam-giới,
Đưa lên bờ Niết-bàn vậy”.
2. - NIỆM-PHẬT GỒM TỰ-LỰC VÀ THA-LỰC
Trừ hai pháp-môn TỊNH-ÐỘ và MẬT-TÔNG, các pháp-môn khác đều nương vào nơi
TỰ-LỰC, tức là sức tu của chính mình, để cầu giải-thoát. Luận riêng về TỊNH-ÐỘ,
thì môn nầy gồm cả "Tự-lực" và "Tha-lực". Tự-lực là sức
trì-niệm của riêng mình; Tha-lực là sức nhiếp-thọ hộ-niệm trong hiện-tại và sự
tiếp-dẫn vãng-sanh của PHẬT khi lâm-chung.
Có người bảo người Tu môn niệm PHẬT là hèn-yếu, chỉ ỷ-lại vào tha-lực,
cũng là quan-niệm cạn-cợt, sai-lầm.
Hành-giả Tịnh-độ Thân lễ-kính PHẬT, Miệng xưng danh PHẬT, Ý chuyên tưởng
PHẬT, nhiếp-tâm từ LOẠN vào ÐỊNH, cho đến cả khi ÐI, ÐỨNG, NẰM, NGỒI.
Vận-dụng cả ba nghiệp để hành-trì, cố-gắng hết sức mình, đó là chứng-minh
thực-tế và hiển-nhiên về Tự-lực.
Như thế, tại sao lại bảo rằng niệm PHẬT là hèn-yếu, chỉ ỷ lại vào tha-lực ?
Cho nên, niệm-PHẬT chính là đem hết tự-lực của mình để cảm thông với tha-lực
của PHẬT, cứu-cánh là dung-hòa TỰ với THA, TÂM và PHẬT, đi sâu vào CHÁNH ức
NIỆM Tam-muội. Bước đầu tiên khi đã có sự cảm thông, thì hành-giả sẽ được
Phật phóng quang-minh thường-trụ nơi đảnh nhiếp-thọ, hiện-tiền tiêu-trừ
tội-chướng tai bịnh, phước-huệ lần-lần tăng, khi mãn-phần lại được tiếp-dẫn
sanh về Cực-lạc.
Sỡ-dĩ người xưa nay khi đề-cập đến môn Tịnh-độ, phần nhiều nhấn-mạnh về
Tha-lực, đó là hàm-ý chú-trọng sự tiếp-độ đến chỗ giải thoát. Vì nếu không được
sức Phật nhiếp-thọ tiếp-dẫn, thì đạo lực tầm-thường của hành-giả không thể sanh
về cõi Cực-lạc cách đây mười muôn ức Phật độ.
Bởi dù cho đạo lực của lục-thông La-Hán, cũng chỉ ở
phạm-vi thấy biết, dạo đi trong cõi Tam-thiên đại-thiên, thuộc thế giới Ta-bà
nầy mà thôi. Và khi còn hoặc-nghiệp mà không được tiếp-dẫn vãng-sanh
Cực-lạc, bước lên cảnh-giới Bất thối-chuyển, nương nơi thắng-duyên của cõi ấy
mà tiến-tu, tất phải tùy nghiệp chịu cảnh luân-hồi, không biết chừng nào mới
được giải-thoát !
Vì sự vãng-sanh có điểm rất quan-hệ như vậy, nên Tha-lực của Tịnh-độ được
chú-trọng nhiều, khiến cho kẻ nông-cạn vội nhận lầm là môn nầy chỉ ỷ-lại vào
nơi Tha-lực, không cần tự lực.
Ðến đây, thấy nên giải-thích thêm vài ba nghi-vấn. Có kẻ nói:
“Bậc Bồ-tát chứng
vô-sanh nhẫn đã dứt hoặc-nghiệp, thoát khỏi luân-hồi, cần chi phải cầu về
Cực-lạc ? Và các vị ấy có thần thông đi đến vô-lượng thế-giới, lại cần
chi niệm Phật để cầu sự tiếp-dẫn ?”
Xin đáp, theo kinh nói:
"Sự cất chân lên để bước xuống của PHẬT, bậc
Ðẳng-Giác Bồ-tát còn không hiểu-thấu, huống chi hàng Thập-địa Bồ-Tát ! Các vị
ấy tuy dứt kiến tư và trần-sa hoặc, song Vô-minh hoặc hãy còn, nên cần phải
gần-gũi PHẬT để học đạo-pháp thành PHẬT. Thật ra, chư đại Bồ-tát có hai việc:
Trên cầu về mười phương Tịnh-độ để học vô-lượng pháp-môn của Như-Lai, Dưới hiện
thân khắp mười phương uế độ để giáo-hóa các loài hàm-thức.
Pháp-thân của chư vị thường-trú, tuy ở cõi Tịnh mà không lìa cõi uế, và dù ở
uế-độ vẫn không rời khỏi Tịnh-độ. Còn việc Bồ-tát niệm Phật để cầu tiếp-dẫn, ví
như một học-giả đến viếng bậc Thầy của mình, tuy có thể tự-tại đi vào nhà,
nhưng theo lễ phải xin phép. Và vị Thầy đúng theo tâm-niệm dìu-dắt hàng
hậu-lai, cũng vui vẻ tiếp đón. Việc như Bồ-tát muốn về Cực-lạc, niệm hồng-danh
Phật để cần-cầu, và Đức Phật tùy bản-nguyện, đến tiếp dẫn cũng lại như thế.
Nhưng Sự tiếp-dẫn của Phật tùy-niệm ứng-hiện, trong một sát na có thể đồng-thời
đến vô-biên thế-giới ở mười phương, tiếp-dẫn số chúng-sanh như vi-trần, như
gương trăng sáng hiện bóng khắp các điểm nước, sông, hồ, đâu có tướng đến đi và
đâu có chi nhọc-mệt mà phòng-ngại!”.
3.- NIỆM-PHẬT GIẢI-THOÁT NGAY TRONG HIỆN-KIẾP
Với các pháp-môn khác,
hành-giả phải dứt trừ hết hoặc-nghiệp mới vượt sự sống-chết, luân-hồi. Riêng
môn Tịnh-độ, dù cho hoặc-chướng hãy còn, vẫn có thể hiện-đời nương nơi
nguyện-lực của PHẬT, đới-nghiệp vãng-sanh, tiến thẳng lên bờ giải-thoát. Về
điểm nầy, trong bức thư phúc-đáp cho TỊNH-TU pháp sư, ngài ẤN-QUANG đã nói như
sau:
"Có hai đường tiến đến chổ giải-thoát là: THÁNH-ÐẠO
và VÃNG-SANH.
Về THÁNH-ÐẠO, tức đường tu chứng lên
quả THÁNH không chi thẳng tắt mau lẹ hơn môn "Trực-chỉ thiền".
Nhưng tu Thiền giữa thời buổi nầy, trong hiện đời chưa dễ gì ngộ-đạo, huống chi
là chứng-đạo ư ?
Nếu như không chứng quả, trong mười người tu đã lạc-lối hết tám chin, bởi khi
luân hồi sẽ bị nhiều chướng-duyên làm cho thối-chuyển, dễ mê-muội
túc-căn. Tu Thiền, nếu chứng được sơ-quả Tu đà-hoàn, tuy còn 7 lần sanh
lên cõi Trời, 7 phen trở lại nhơn-gian, nhưng sẽ không lo thối-chuyển.
Khi chứng đến quả A-LA-HÁN, mới dứt hẳn luân-hồi.
Ngoài ra, thì không nhứt-định, có kẻ đời hiện-tại tu-hành rất tốt, kiếp sau
được hưởng phước, say đắm theo dục-lạc, tạo nghiệp ác rồi bị đọa vào địa-ngục.
Dù cho năm ba đời giữ được thiện-căn, không tạo nghiệp ác, song ai có thể
bảo-đảm những kiếp về sau lại chẳng gây nghiệp rồi bị đọa tam-đồ!
Chẳng nói đâu xa, ngay trong đời hiện-tại, rất
nhiều hành-giả trước siêng-năng, sau biếng-trễ, đạo-tâm dần-dà thối-chuyển, đến
nỗi có kẻ phải hoàn tục. Những đời về sau, theo đà mạt-kiếp, Phật-pháp lần suy
kém, bậc thiện tri-thức rất khó tìm, sự giải-thoát lại còn xa hơn nữa!
Riêng có đường lối VÃNG-SANH, là niệm PHẬT cầu về Tịnh-độ, thì dù cho hoặc-chướng
hãy còn, vẫn có thể nương theo nguyện-lực tiếp-dẫn của đức A-DI-ÐÀ, vượt ngang
ba cõi, đới-nghiệp thẳng sang Cực-lạc. Thật ra, cũng như bên Thiền, giữa thời
Mạt-pháp nầy, người tu Tịnh-độ đến cảnh-giới "SỰ nhứt-tâm bất-loạn"
rất là ít có, huống chi là cảnh "LÝ nhứt tâm", và đi sâu vào
" Niệm-Phật Tam-muội"!
Nhưng nếu thuở bình-nhựt
chuyên trì-niệm, khi lâm-chung, chủng-tử của câu hồng-danh đã huân-tập từ lâu
phát-hiện, liền khiến cho tạm-thời được nhứt-tâm. Lúc ấy chỉ cần gia thêm
ý-niệm tha-thiết, rủ sạch trần-duyên hướng về Liên-Quốc, quyết-định sẽ
được sự cảm-thông tiếp-dẫn.
Khi đã về đến cõi ấy rồi, trên có PHẬT, Bồ-tát, dưới là
các hàng Thượng thiện-nhơn, nước chảy, chim kêu, nói ra pháp-diệu, không còn bị
các duyên ăn, mặc, ở và sanh-kế (y, thực, trụ, hành) làm vướng-bận, sống
lâu vô-lượng kiếp, lo chi đạo-quả không thành! Pháp-sư đã hỏi, tôi chỉ y
theo chỗ thấy hiểu của cổ-đức và căn-cứ nơi Phật-lý mà giải-đáp, "XIN
SUY-GẨM KỸ RỒI TÙY-TÂM LỰA CHỌN ..."
Lời trên đây của Ðại-sư,
đã vạch rõ chỗ ổn-đáng và khó bảo đảm trên đường giải-thoát của thời nay, giữa
TỊNH cùng THIỀN.
4.- NIỆM PHẬT HỢP THỜI-TIẾT, CƠ-DUYÊN
Trong thời Chánh-pháp và Tượng-pháp, con người phần nhiều nghiệp nhẹ, tâm
thuần, hoàn-cảnh sinh-hoạt giữa xã-hội lại đơn-giản, có thể tu các pháp-môn về
Thánh-đạo. Thời ấy, Thiền-tông đặc-biệt hưng-thạnh, hành-giả căn-cơ sang lẹ,
thấy non xanh hoa-nở, nghe gió thổi suối reo đều có thể ngộ-đạo.
Nhưng từ thời mạt-pháp
về sau, nhơn tâm khác xưa, sự sinh-hoạt, tổ-chức giữa xã-hội lần-lần phức-tạp,
căn-cơ người tu phần nhiều là bậc Trung, Hạ. Cho nên muốn bảo-đảm
sự giải-thoát, cần phải hướng về pháp hợp với thời-tiết, cơ duyên là MÔN
NIỆM-PHẬT. Về điều nầy, xin dẫn những chứng-liệu như sau:
Trong kinh "ÐẠI-TẬP NGUYỆT-TẠNG",
đức Thích Tôn đã lời huyền-ký: "THỜI MẠT-PHÁP, ỨC-ỨC KẺ TU-HÀNH, SONG ÍT
CÓ NGƯỜI ÐẮC-ÐẠO, CHỈ NƯƠNG THEO PHÁP-MÔN NIỆM-PHẬT MÀ THOÁT KHỎI
LUÂN-HỒI." (Mạt-pháp, ức-ức nhơn tu-hành, hản nhứt đắc-đạo. Duy
y niệm-Phật, đắc độ sanh-tử).
Nơi kinh "VỘ
LƯỢNG-THỌ", Phật cũng bảo: "TRONG ÐỜI TƯƠNG-LAI, KHI KINH-ÐẠO
DIỆT HẾT, TA DÙNG SỨC TỪ-BI, THƯƠNG XÓT, RIÊNG LƯU-TRỤ KINH NẦY MỘT TRĂM
NĂM. CHÚNG-SANH NÀO GẶP KINH NẦY, TÙY THEO SỞ-NGUYỆN, ĐỀU CÓ THỂ
ÐẮC-ÐỘ."(Ðương-lai chi thế, kinh đạo diệt-tận, ngã dĩ từ-bi ai-mẫn, đặc
lưu trữ kinh, chỉ trụ bá tuế. Kỳ hữu chúng-sanh, trị tư kinh giã, tùy-ý
sở-nguyện, giai-khả đắc-độ)
Ðức Như-lai là bậc
trí-huệ rộng sâu, vì sao chẳng lưu lại các pháp kia, mà chỉ lưu môn Tịnh-độ ?
Ðó là thâm-ý PHẬT đã chỉ rõ : "THỜI MẠT-PHÁP VỀ SAU, ÐƯỜNG TU HỢP VỚI
CƠ-DUYÊN CHÚNG-SANH, CHỈ LÀ MÔN TỊNH-ÐỘ”.
Nơi đoạn Minh-Giáo
của AN-LẠC TẬP, Ðạo-Xước Thiền-sư có lời bình-luận : " NẾU
GIÁO-PHÁP HỢP VỚI THỜI-CƠ, THÌ DỄ TU, DỄ NGỘ. NHƯ GIÁO-PHÁP TRÁI THỜI-CƠ, TẤT
KHÓ TU, KHÓ NHẬP. Nên Kinh Chánh-Pháp Niệm nói: " HÀNH-GIẢ KHI NHỨT-TÂM
CẦU-ÐẠO, PHẢI QUAN-SÁT VỀ PHƯƠNG-TIỆN THỜI-CƠ, NẾU TRÁI VỚI PHƯƠNG-TIỆN ÐÓ, TẤT
BỊ THẤT-LỢI”.Tại sao thế ?
Như cọ gỗ ướt để tìm lửa
thì không thể được, vì trái thời. Và như bẻ cây khô để tìm nước, cũng chẳng thể
có, vì không trí-huệ. Ðức Như-lai đã phân-định năm thời kiên-cố sau khi Ngài
nhập-diệt, mỗi thời là năm trăm năm. Trong các thời Chánh-pháp và
Thiền-định Kiên-cố, hành-giả nên chọn Thánh-đạo, tu Ðịnh-huệ làm phần chánh,
cầu Tịnh-độ làm phụ”.
Từ cuối thời Ða-văn
kiên-cố bước sang thời Tháp-tự và Ðấu-tranh kiên-cố về sau, nên lấy
Tịnh-độ làm phần chánh, tu Thánh-đạo làm phụ".
Ngoài những chứng-liệu trên, còn lời huyền-ký của bậc chơn-tu đắc đạo là
Thiên-Như Thiền-sư, cùng những điểm nhận-định và biện-chứng của các bậc
danh-đức xưa nay. Trong phạm-vi khái-ước nầy không thể nêu ra hết được. Bên
Trung-Hoa từ cuối đời nhà Tống về sau, các bậc Tôn-đức quan-sát rõ thời-cơ, đều
chuyển lần từ Thiền trở sang xiển-dương Tịnh-độ. Tuy nhiên vì Thiền tông
lưu-hành hưng-thịnh từ lâu thành phong-thái, nên thường có sự tranh-đua giữa
TỊNH VÀ THIỀN.
Song, đó chỉ là
Kiến-chấp của một số người chưa Quán-triệt Phật-lý cùng Thời-cơ, còn các bậc
cao Tăng đã Liễu-đạt, thì chỉ tùy-duyên mà duy hộ chánh-pháp, tuyệt không có
tâm-niệm phân-biệt đây kia. Cứ trung-thật mà luận, chúng hữu-tình có nhiều
tâm-bệnh cùng sở-nguyện, riêng một môn Tịnh-độ vẫn không thể phổ-cập và
thích-ứng để hoằng dương chánh-pháp, lợi-ích quần-sanh, nên rất cần sự có
mặt của các pháp-môn.
Theo thiển-ý, trong thời
Mạt-pháp, hành-giả các tông-khác, tuy hoằng-truyền bản-môn, nhưng cũng nên
nghiên-cứu Tịnh tông và quy-hướng về lối vãng-sanh để bảo-đảm cho sự
giải-thoát, như chư Tôn-đức bên Tông Tào-động, ngoài hoằng Thiền trong kiêm tu
Tịnh khi xưa. Và người tu Tịnh-độ cũng cần học-hỏi các TÔNG khác,
để thêm tiến-ích cho đường hành-đạo của mình, bởi mỗi TÔNG như những đóa-hoa,
đều sáng tươi riêng phần đặc-sắc. Lời dẫn-luận trên, chỉ y theo quan
điểm từ-mẫn lợi sanh của PHẬT và chư Cổ-đức, nêu ra một đường lối
tu-tập thích-ứng với thời-tiết và cơ duyên mà thôi.
Ở Trung-Hoa vào thời cận đại, có phong-trào chấn-hưng Phật-giáo do một số
danh-tăng và Phật-tử trung-kiên cổ-xúy. Quán-sát hành-vi lúc sanh-thời và khi
lâm-chung của ít người trong nhóm đó, những biểu-tượng mà thường nhơn không thể
có được, nhiều nhà học Phật quả-quyết đó là các bậc Bồ-tát tái-lai để duy hộ
chánh-pháp. Trong hạng các người phi-thường ấy :
Dế-Nhàn pháp-sư giảng-kinh khắp nơi, chấn-hưng về Thiên-Thai tông
Hư-Vân Thượng-nhơn tu chỉnh các danh-lam, thánh-tích của Phật-giáo,
chấn-hưng về Thiền tông.
Ấn-Quang đại-sư dùng thơ-tín, kinh, tượng độ vô-số người,
chấn-hưng về Tịnh-độ tông.
Hoằng-Nhứt đại-sư nghiêm giữ giới-hạnh, soạn thành bộ "Nam-Sơn
Luật Uyển Tông-thư, chấn-hưng về luật tông.
Thái-Hư đại-sư vận-động cuộc canh-tân Phật-giáo, chấn-hưng về
Duy-thức tông.
Kim-Cang Thượng-sư Hô-Ðồ Khắc-Ðồ Tây-Khang đến truyền-dương về
Mật-tông.
Đến như cư
sĩ Dương-Nhân-Sơn trọn đời thành-lập Bang, Hội sưu-tầm
và ảnh ấn các tượng Phật, Bồ-Tát và "Tam-tạng kinh-điển", để cho
chánh-pháp khỏi bị sớm hủy-diệt về sau.
Riêng ngài ẤN-QUANG đã đem sự vãng-sanh
lúc lâm-chung, chứng-minh cho lời nói và hành-động buổi bình-thời, thì không
cần bàn luận.
Còn Dế-Nhàn
pháp-sư tuy hoằng dương kinh Pháp-Hoa, truyền dạy môn Tam-Quán, nhưng
lúc lâm-chung vẫn theo gót đấng khai-tổ bản-tông là Thiên-Thai Trí-Giả, niệm
Phật sanh về Cực-lạc.
Hư-Vân Thượng-nhơn tuy thị-hiện ngộ-đạo, làm mô-phạm hướng-dẫn
hành-giả tu Thiền, song khi gặp hoàn-cảnh, cơ-duyên cũng khuyên người
niệm-Phật.
Hoằng-Nhất đại-sư lưu lại bút-tích "Bi-Hân Giao-Tập", lúc
lâm-chung khi thấy Tây-phương Tam-Thánh đến rước.
Thái-Hư đại-sư hoằng dương Duy-Thức, song hằng khen-ngợi mười
phương Tịnh-độ, nhưng vì không muốn trái với ứng-tích của đấng khai-tổ là
Di-lặc Bồ-tát, nên hồi-hướng cầu sanh Ðâu-Suất Tịnh-Độ.
Thượng-sư Hô-Ðồ Khắc-Ðồ tuy-truyền pháp "Thánh cứu-độ Phật mẫu", gồm
21 Độ Mẫu, hóa-thân của đức Quán-Âm để cứu nạn tai thời mạt-kiếp, song cũng
khuyên hàng đệ-tử đem công-đức trì-niệm hồi-hướng về Cực-lạc.
Dương-Nhân Sơn cư-sĩ lúc mãn phần, ngồi chắp tay nói với các hàng
đạo-hữu: "Bản-nguyện của tôi cùng bản nguyện đức A-Di-ÐÀ dung-hợp
nhau" , rồi niệm Phật mà hóa.
Có phải chăng các bậc
danh-đức trên đây, tuy mỗi người làm một Phật-sự, song đã dùng bản thân, hoặc
lời nói mà ngầm khuyên các hành giả chú trọng về sự giải-thoát, vãng sanh.
5.- LUẬN VỀ NGƯỜI VÀ CẢNH THỜI NAY
Nói-chung trên
phương-diện hoằng-dương đạo-pháp, mỗi Tông đều phát-huy những đặc-điểm
của mình, để người học Phật tùy sở-thích mà thu-nhập. Nhưng bình-tâm thử-nghiệm
xét, lúc nầy là thời buổi nào ?
Thời nầy LUẬN VỀ NGƯỜI, thì
chúng sanh phần nhiều đều nặng nghiệp. Bên Trung-Hoa, khoảng cuối đời nhà Thanh
bước sang thời Dân-quốc, Cư-sĩ Cao-Hạt-Niên khi hỏi đạo nơi các danh-lam, gặp
một vị cao-tăng ẩn-tu bảo:
“Thời nay, trong 100 kẻ
ác, mới có một người thiện. Trong 100 kẻ thiện, mới có một người hướng về đạo.
Trong 100 kẻ hướng về đạo, mới có một người giữ vững tâm-nguyện, không
thối-chuyển trên bước đường tu-hành.”
Thuở-xưa , trong lúc
phú-pháp cho Huệ-Khả Ðại-sư, Tổ Ðạt-Ma có dạy:
“Khoảng 200 năm về sau,
người học LÝ thì nhiều, song ngộ LÝ rất ít. Người nói Lý thì nhiều, song hành
LÝ rất ít. Người hành LÝ hoặc nhiều, song chứng LÝ rất ít. Nên ý-thức, chỉ
riêng bước đầu là phần học Phật-lý, nhiều kẻ nếu chẳng vướng về chấp CÓ, giữ
chặt lấy SỰ-TƯỚNG, thì cũng lạc vào chấp KHÔNG, bài-bác nhân-quả! Mấy ai là bậc
hiểu sâu Phật thừa, liễu ngộ DIỆU-HỮU TỨC CHƠN KHÔNG, CHƠN-KHÔNG TỨC DIỆU-HỮU ?
Cư-sĩ tuy mộ-đạo, song dè-dặt đừng sa vào kiến-chấp đó”.
Cao Hạt-Niên cư-sĩ có
hỏi đến chỗ tiến chứng của nhiều bậc Trưởng-lão. Tất-cả đều khiêm-nhường Svà
thành-thật trình-bày, đại-khái như: Nghiệp-chướng nặng, Còn nhiều tán-loạn,
hôn-trầm, Giới-hạnh và oai-nghi kém-khuyết, Bước tu chưa đạt đến thật-địa…Khi
cư-sĩ đề-cập đến những kẻ xưng mình đã chứng-ngộ, thì các vị ấy đều cảnh-giác:
“Theo kinh Lăng-Nghiêm,
đức PHẬT có huyền-ký : Gần thì thập-thế 1000 năm (mỗi thế có 100 năm), xa thì
bách-sanh 3000 năm (mỗi sanh có 30 năm), có rất nhiều ma ngoại ám-nhập
người tu, hoặc ẩn-bóng trong chánh-pháp. Thời buổi nầy, nếu có ai tự-xưng đã
chứng-ngộ, hoặc bảo rằng mình là PHẬT, TỔ hiện-thân, đó đích-thị là hàng ma
ngoại”.
Những điều trình-thuật trên
đây, cho chúng ta thấy CON NGƯỜI THỜI NAY HOẶC-NGHIỆP và MA-CHƯỚNG QUÁ NHIỀU !
LUẬN VỀ CẢNH, thì những tai-nạn : Ðộng đất, núi lở, bảo-lụt, trộm-cướp,
chiến-tranh, lửa cháy, hạn-hán, mưa nắng trái thời, sâu trùng phá-hoại,
dịch-chướng lan-tràn, đã diễn ra ở nhiều nơi. Nhìn đến tương-lai, trận
thế-chiến thứ ba chắc đâu tránh khỏi ! Các phái Tiên đều bảo buổi nầy là thời
mạt-kiếp, có sự thanh-lọc rộng-lớn. Ðạo Chúa nói sẽ có tận-thế trước năm hai
ngàn.
Còn riêng bên đạo Phật,
khi HƯ-VÂN thiền-sư xuất-thần lên cung trời Ðâu-xuất, được nghe DI-LẶC Bồ-tát
nói pháp-môn Duy-Tâm thức định. Nơi đoạn kết-thúc, Bồ-tát đọc bài kệ dài, trong
ấy có mấy câu:
“Kiếp-nghiệp đương đầu.
Cảnh-tích phổ-giác.
Khổ-hải từ-hàng.
Vô-linh thối-khước”.
Ðại-ý của đức DI LẶC
bảo, ở trần-giới tam tai tiểu-kiếp đã bắt đầu, gồm các nạn: Ðói-khát,
tật-dịch và chiến-tranh. Bồ-tát khuyên thiền-sư và những hành-giả đạo
Phật, nên làm chiếc thuyền từ trong biển khổ, nhắc-nhở chúng-sanh thức-tỉnh
trước các tai-nạn ấy, mà gắng lo tu-hành, đừng để thối-chuyển ...Nói khái-quát,
đi sâu vào thời mạt-pháp, chúng-sanh nghiệp nặng, thế-giới nạn-tai, cảnh nước
lửa lầm-than đã hiện ra trước mắt. Thời buổi nầy, thật ra còn không nên có sự
phân-biệt giữa các tôn-giáo, huống chi trong các môn phái đạo Phật! Hiện nay
các đạo đều thi nhau đóng con thuyền tế-độ giữa cảnh sóng-gió, trầm-luân.
Thần-đạo thì độ thuộc-phái trở về cảnh-giới Thần. Tiên-đạo thì độ các người có
căn Tiên.
Còn Phật-đạo, tất phải
khuyên kẻ hữu-duyên về nơi Phật-cảnh.
6.- VÀI ĐIỀU KẾT-YẾU
Qua trên, Tệ-nhơn đã trình-bày môn Tịnh-độ qua bốn
yếu-điểm, rồi luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay, khái-lược các điều quan-yếu, để
phụng-khuyến đồng bạn trong biển mê tối trầm-luân, cùng hướng bước về nẻo
sáng-suốt an-lành của pháp-môn Tịnh-độ. Đó là phần lý-thuyết, còn phần
thực-hành sẽ có NGHI-THỨC ở chương sau.
Trong khi trình-luận, có
mấy điểm đề-cập đến giới-hạn giữa TỊNH và THIỀN, cũng bởi-vì lý-do bất đắc-dĩ
và cần-thiết:
“Vì một ít vị học Thiền,
bài-bác việc tụng-kinh, niệm Phật qua nhiều điểm, khiến đa-số Phật-tử bối-rối
hoang-mang hỏi đến, nên bất đắc-dĩ phải biện-minh.
Vì nương theo gót từ-bi
của Phật và chư Tôn-đức, đã nói về pháp hợp thời-cơ để làm lợi-ích cho người
học-đạo, nên cần-thiết phải giải-thích. Bởi nếu nói pháp chẳng hợp cơ, tất chúng-sanh
chìm trong bể-khổ.”
“Thuyết pháp bất đậu cơ,
Chúng sanh một khổ hải. ”
Thật ra, tệ-nhơn rất
thích Thiền-tông và có-thể bảo là có căn-cơ về môn ấy. Nói mến-thích, vì
Thiền-tông có những đặc-điểm của nó. Chẳng-hạn như, khi học-giả đến hỏi một
Thiền-sư: Thế nào là đạo ?
Sư đáp:
“Một áng khói mây phong
cửa động,
Muôn chim về tổ chợt mê
đường!”
Chỉ dùng hai câu vừa
văn-nhã, vừa giản-dị bao-quát để phá những khái-niệm phân biệt về đạo, đưa vào
chân-tâm, Thiền-tông đã tỏa ra một hương vị thanh-thoát. Lại như câu chuyện,
khi ngài Pháp-Nhãn hỏi Như-Tắc Thiền-sư: Sao chưa từng thấy giám-viện phỏng-đạo
?
Như-Tắc đáp, Tôi đã có
chỗ sở-nhập do sư Thanh-Lâm khai-thị, vì khi tôi hỏi: Thế nào là Phật ?
Thanh-Lâm đáp: “Bính-Ðinh đồng-tử đi tìm lửa”. Ngài Pháp-Nhãn bảo: “Khá hay! Nhưng e ông chưa hiểu,
vậy thử tỏ bày chỗ kiến-giải xem sao ?
Như-Tắc thưa: “Bính,
Ðinh (là hai can trong thập can) thuộc hành HỎA, tức là lửa, đem lửa tìm lửa,
cũng như chính mình là PHẬT mà lại đi tìm PHẬT”. Pháp-Nhãn nói: “Quả-nhiên
Giám-viện hiểu sai rồi !” Như-Tắc không tỏ ra sắc giận, quay mình bỏ
đi. Ngài Pháp-Nhãn bảo thị-giả: “Người nầy nếu trở lại thì cứu được,
bằng không chắc chẳng thể cứu-độ”. Như TẮC Thiền-sư đi nửa đường, bỗng
suy nghĩ: “ Ông ta là bậc Thiện tri-thức của đại chúng gồm 500 vị, chẳng lẽ lại
trêu mình ?”. Liền trở lại, sám-hối cầu khai-thị.
PHÁP-NHÃN bảo đề khởi
lại câu hỏi trước. Sư liền đảnh-lễ thưa : “Bạch Tôn-đức, thế nào là PHẬT ?”
PHÁP-NHÃN đáp: “BÍNH-ÐINH đồng-tử đi tìm
lửa!”. Nghe xong NHƯ-TẮC
chợt tỏ ngộ.
Lối giải đáp của ngài
PHÁP-NHÃN là đúng ngay ý-thức tìm cầu về Phật đã có sẵn của NHƯ-TẮC thiền-sư,
hốt-nhiên đưa sư đi thẳng vào cảnh-giới siêu-thức. Cảnh-giới tỏ-ngộ ấy
sâu hay cạn và như thế nào, đều không phải lời nói, tâm-tư mà có thể đến được,
chỉ do đương-nhơn tự biết lấy, như chính mình thể-nhận khi uống nước hoặc nóng
hoặc lạnh mà thôi. Và đây cũng lại là một hương-sắc thơm đẹp của bên Thiền.
Còn nói có căn về Thiền, vì tệ-nhơn lúc trẻ tuổi đang trên đường học đạo, một
hôm đứng tựa gốc cây, bỗng-nhiên muôn niệm đều tiêu-tan, tâm cảnh thoạt vào cõi
rất mực an-tĩnh, nhẹ-nhành, sáng-suốt. Cảnh thoát trần không thể
diễn-tả ấy, chỉ kéo dài không đầy năm phút. Khi hoàn lại trạng thái cũ, Tệ nhơn
suy-nghĩ biết đó là túc-tập về tu Thiền trong một tiền-kiếp của mình. Từ
ấy hằng ưa-thích thiền tĩnh-tọa. Trên bước tu, tuổi càng lớn, sự lịch-duyệt
càng sâu, tự xét mình thiện căn tuy có song hoặc-nghiệp còn nhiều, lối
luận-thuyết cao-siêu, sự hiểu biết chút ít về đạo, không thể đưa đến chỗ
giải-thoát được. Do đó lần-lần hướng về Tịnh-độ, sám-hối, niệm Phật, cầu nguyện
lực của Như-Lai hộ trì, tiếp dẫn.
Ðến nay, Thành-thật mà
nói: “Gương tánh hãy mờ, gót tu chưa ổn, căn-thân chẳng tịnh, hạnh-kiểm
còn sơ”. Soi gương Bá-Ngọc, hơn 50 vẫn còn thấy lỗi-lầm. Hướng gót
Triệu-Châu, tuổi 80 còn mong học hỏi. Với danh-phận xuất-gia, tự thấy còn chưa
xứng-đáng, chẳng qua trên cương-trường hoằng-hóa, phải cố-gắng đóng cho trọn
vai-tuồng của mình đó thôi. Nhìn về tương-lai, Xét về bổn-phận, Xin mượn hai
câu sau đây để tự diễn-tả:
Quý Tử áo thô nhiều vẻ thẹn,
Lưu-lang suối cũ luống bàng-hoàng!
CHƯƠNG II
NGHI THỨC MẬT TÔNG
Từ đây trở về sau, những đoạn nào có kép vòng đơn ( ), là các
điều căn-dặn hoặc dẫn-giải, in bằng chữ nghiêng. Chữ lớn thẳng là phần
xướng-tụng hành-trì. Trải nhiều năm kinh-nghiệm, tệ-nhơn xét thấy các hành-giả
thời nay có những ma-chướng, mà đạo-lực kém-yếu của phần đông người thời
mạt-pháp khó nổi vượt qua. Ðó là những ma-chướng nội-tâm, ma-chướng
ngoại-cảnh và ma-chướng thuộc giới vô-hình. Vì thế, sau khi nghiên-cứu trong
Ðại-tạng, tệ-nhơn đã dựa vào kinh-nghiệm của chính mình và nhiều hành giả khác
thuật lại, dung-hợp môn tu Tịnh-độ thuộc Mật-giáo cùng Hiển-giáo soạn ra
nghi-thức nầy.
Trong đây chú-trọng về sự khái-quát đơn-giản, lời gọn mà ý-tứ đầy-đủ.
Pháp-nghi nói sau chia ra làm ba phần:
1. Lễ bái sám hối
2. Trì chú niệm Phật
3. Phát nguyện hồi hướng
Xin lưu-ý, Pháp-nghi chỉ
là hình-thức, là khuôn-mẫu, để cho “hành-giả” nương vào nơi sự-tướng mà
tiến-tu, mà hướng về chơn-cảnh. Còn tiến-trình sâu hay cạn, thấp hay cao,
công-đức ít hoặc nhiều , còn tùy tâm chí-thành, sức trì-niệm của
các hành-giả.
1. - PHẦN LỄ-BÁI SÁM-HỐI
( Trước tiên rửa tay, rửa mặt, lễ phục nghiêm-chỉnh. Khi
đến nơi lễ tụng, Hành-giả dùng ẤN KIẾT-TƯỜNG, tay trái ngón cái nắm co
đầu ngón vô danh, vẽ và tưởng chữ RAIN (RĂN)
sắc trắng trong lòng tay
mặt 3 lần. Rồi tay mặt cũng kiết ấn vẽ vào lòng tay trái y
như vậy. Kế tiếp đốt hương rồi bước lui đứng chấp tay trước bàn Phật, đọc bài
kệ tán)
Sắc thân PHẬT mầu đẹp,
Trong đời không ai bằng.
Khó sánh-ví, nghĩ bàn!
Nên nay con
đảnh-lễ.
Sắc thân PHẬT vô-tận,
Trí-huệ cũng như thế.
Tất-cả pháp thường-trụ,
Nên nay con quy-y.
Bi, trí, nguyện-lực lớn,
Ðộ khắp cả hàm-linh.
Khiến bỏ thân phiền-não,
Sanh về cõi
thanh-lương.
Nay con tịnh ba nghiệp,
Quy-y và lễ tán.
Nguyện cùng các
hữu-tình,
Ðồng sanh về
Cực-lạc.
(Hành giả có thể đọc bài kệ tán khác mà mình thích)
PHỔ-LỄ CHƠN-NGÔN
UM! VA JI RA VẮT (7 lần)
( AUM ! VÀJRA VÃT)
( Trong khi tụng chú, kiết ẤN
KIM-CANG HIỆP-CHƯỞNG để trên đầu, chấp hai tay lại ngón so le, hữu áp tả.
Theo Mật-giáo, nên tưởng mình hiện thân khắp pháp-hội 10 phương, lễ kính
chư PHẬT. Xong xả ấn ngay nơi đảnh.)
1. NHỨT-TÂM
ÐẢNH-LỄ: Hoằng-dương môn TỊNH-ÐỘ, THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT, Trăm ngàn ức
hóa-thân, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)
2. NHỨT-TÂM
ÐẢNH-LỄ: Thường-tịch quang Tịnh-Ðộ, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Pháp-thân mầu
thanh-tịnh, Khắp pháp-giới chư Phật. (1 lạy)
3. NHỨT-TÂM
ÐẢNH-LỄ: Thật-báo trang-nghiêm độ, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Thân tướng hải
vi-trần, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)
4. NHỨT-TÂM
ÐẢNH-LỄ: Phương-tiện Thánh cư độ, A-Di-ÐÀ Như-lai, Thân trang-nghiêm
giải-thoát, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)
5. NHỨT-TÂM
ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc Phương Tây, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Thân căn-giới
đại-thừa, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)
6. NHỨT-TÂM
ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc Phương Tây, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Thân hóa đến mười
phương, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)
7. NHỨT-TÂM
ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, Giáo, hạnh, lý ba kinh, Y chánh đều
tuyên-dương, Khắp pháp-giới tôn PHÁP. (1 lạy)
8. NHỨT-TÂM
ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, QUÁN THẾ-ÂM Bồ-tát, Thân tử-kim
muôn-ức, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)
9. NHỨT-TÂM
ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, ÐẠI THẾ-CHÍ Bồ-tát, Thân, trí sáng
vô-biên, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)
10. NHỨT-TÂM
ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, VĂN-THÙ Ðại Bồ-tát, Thân thị-hiện
Trí-mầu, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)
11. NHỨT-TÂM
ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, PHỔ-HIỀN Ðại Bồ-tát, Thân hạnh, nguyện
sát-trần, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)
12. NHỨT-TÂM
ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, Thanh-Tịnh Ðại-hải chúng, Thân
phước-trí trang-nghiêm, Khắp pháp-giới thánh-chúng. (1 lạy)
(Kế tiếp, quỳ trước bàn Phật, chấp tay, chí-thành, đọc
bài kệ Sám-hối)
Quy-mạng mười phương
PHẬT,
Tôn PHÁP, hiền-thánh
TĂNG,
Tam-thánh cõi Cực-Lạc,
Xin thương-xót
chứng-minh,
Vô-thỉ kiếp đến nay,
Con mê lạc luân-hồi.
Do bởi tham, sân, si,
Từ nơi thân, khẩu, ý.
Tạo tứ-trọng,
ngũ-nghịch,
Thập ác, vô-biên tội.
Nay đem tâm chí-thành,
Tỏ bày cầu sám-hối.
Nguyện nhớ sức gia-trì,
Thân-tâm đều thanh tịnh.
Xin phát đại Bồ-đề,
Ðộ mình, người
giải-thoát.
NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MA HA TÁT. (3 lần)
(Đứng lên chấp tay xướng)
Ðệ-tử Sám-hối, phát-nguyện rồi, chí-tâm đảnh-lễ
Tam-bảo. (1 lạy)
2.- PHẦN TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT
( Ngồi kiết già hoặc bán
già trước bàn Phật. Tịnh tâm trong giây phút, rồi Tưởng chữ RĂN
sắc Trắng trên đầu, phóng ánh sáng Đỏ.)
( Kế dùng ấn Kiết
tường Viết và Tưởng chữ RĂN cùng chữ
HÙM cũng đều sắc Trắng, gia trì Hai lòng bàn
tay và Chuỗi, mỗi nơi ba lần.
Lại tiếp dùng ấn Kiết
tường, gia trì SỔ CHÂU chân ngôn sau đây nơi
tràng Chuỗi, xong búng Ba cái, xả ấn trên Đảnh.)
GIA TRÌ SỔ CHÂU CHÂN NGÔN
UM! VAI RÔ CA NA MA RA XÓA HA (7 lần)
(AUM! VAIROCANA MARA SVÀHÀ)
( Xả ấn xong, vẫn ngồi chắp tay tụng bài Hương tán)
Nguyện mây hương mầu này,
Hiện
khắp mười phương cõi.
Tất
cả các Phật độ,
Vô
lượng hương trang nghiêm.
Đầy
đủ Bồ Tát đạo,
Thành
tựu Như Lai hương.
Nam mô Hương Vân
cái Bồ Tát ma ha tát (3 lần)
(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)
Quang, thọ khó suy
lường,
Sáng
lặng khắp mười phương.
Thế
Tôn Vô Lượng Quang,
Cha
lành cõi Liên ban.
Thần
lực chẳng tư nghì,
Sống
lâu A tăng kỳ.
A
Di Đà Như Lai,
Tiếp
dẫn lên liên đài.
Cực
Lạc cõi thuần tịnh,
Công
đức lạ trang nghiêm.
Nơi
tất cả quần sanh,
Vượt
lên ngôi Bất thối.
Mười
phương hằng sa Phật.
Đều
ngợi khen Vô Lượng.
Cho
nên hôm nay con,
Nguyện
sanh về An Dưỡng.
Nam mô Liên trì hải
hội Phật Bồ Tát. (3 lần)
(Tiếp tụng)
PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN
UM ! SOA PHẠ VA SUÝT ĐA, SAT VA ĐẠT MA,
SOA PHẠ VA SUÝT ĐA HÀM.
UM ! RĂN RĂN RĂN.
(7 lần)
( AUM! SVABHÀVA
SUDDHA, SARVA DHARMA,
SVABHÀVA SUDDHA HÀM.
AUM! RAIN RAIN RAIN.
Khi tụng chú này,
kiết Chuẩn Đề biệt ấn. Cả hai tay, ngón cái nắm co ba ngón:
trỏ, vô danh và út. Kế hiệp hai lại, hai ngón giữa dụm đầu nhau dựng
đứng. Tụng xong xả ấn nơi đảnh.
Đây là phối hợp chú Tịnh
tam nghiệp và Tịnh pháp giới. Chân ngôn này có công năng
khiến cho bên trong: thân, khẩu, ý, y phục, bên ngoài từ chỗ ở của mình đến
hoàn cảnh rộng xa đều thanh tịnh. Do chú này, tội chướng đều được tiêu trừ, có
thể thành tựu các việc thù thắng.)
HỘ THÂN CHƠN NGÔN
UM ! VA JI RA, A NGHĨ NI, BÁ RA NĂM BÌ ĐÁ DA, XÓA HA.
UM ! XỈ RĂN, XỈ RĂN, XỈ RĂN.
(7 lần)
( AUM! VAJRA ANGI PRA
NÀMBIDHÁYA SVÀHÀ.
AUM! SRAIN SRAIN SRAIN.
Khi tụng chú này,
kiết ấn Bị giáp hộ thân, Hành giả xoa hai tay vào trong, hữu áp tả,
hai ngón giữa dựng đầu dính vào nhau, hai ngón cái áp vào ngón vô danh. Hai
ngón trỏ cong lại như lưỡi câu, những không đụng vào lưng hai ngón giữa.
Đây là phối hợp chú hộ
thân trong nghi Thập bát đạo và Mạn Thù Nhất Tự chân
ngôn, khi kiết tụng ấn chú này, thân của đương nhơn liền được mặc giáp trụ. Tất
cả loài ma làm chướng ngại, bỗng thấy hành giả oai đức tự tại, ánh sáng bao phủ
chói ngời, liền tan rã bỏ chạy. Sức chân ngôn nầy có thể bảo về được bản thân
và tất cả mọi người quanh. Các ách nạn như: nước, lửa, cọp, sói, sư tử, dao
gậy, gông xiềng thảy điều tiêu diệt. Khi tụng chú này xong 7 biến liền xả ấn
nơi đảnh.
Kế hai tay đều kiết ấn
Kim cang quyền, ngón cái bấm vào gốc ngón vô danh, nắm chặt lại. Rồi đem ấn
in vào các nơi: trán, yết hầu, hai vai, ngực, rún, hai bắp đùi, sau thận môn,
xương gu cổ và đảnh rồi xả ấn. Trong khi ấy miệng tụng chữ Hùm liên
tiếp, cho đến khi xả ấn rồi mới thôi. Đây là pháp thức trấn tà ma không cho xâm
nhập vào thân.)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ
DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ.
A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A
MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA
NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ
NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(54 hoặc 108 lần)
( NAMO RATNATRÀYAYA.
NAMO ÀRYA
AMITABÀYA. TATTHÀGATAYA. ARAHATI.
SAMYAKSAMBUDDHAYA. TADYATHÀ !
AUM ! AMIRTI,
AMIRTA NABÀVE. AMIRTA SAMBÀVE, AMIRTA GABE, AMIRTA SUDDHE, AMIRTA
SITE, AMIRTÁ VICALANTE,
AMIRTA VICALANTA
GÀMINI. AMIRTA GAGANA KITICALI, AMIRTA LODO VISABHALI.
SARVARITHA SADDHÀNI, SARVA MACALI. SAKSA YÙKALI.
SVÀHÀ.
AUM ! BHRUM, HÙM.
Khi tụng chân ngôn này,
kiết ấn Vô Lượng liên hoa. Hai xoa bên ngoài hữu áp tả. Dựng hai
ngón giữa đầu dụm cong lại như cánh sen. Có thể kiết ấn này tụng chân
ngôn ba lần, xả ấn lên đảnh, rồi lần chuỗi ký số. Đà ra ni này, tụng
một biến, diệt các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác trong tự thân, tất cả tội
chướng đều tiêu diệt.
Nếu hàng xuất gia tăng ni,
hoặc tại gia thiện tín, phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến trở lại được giới
phẩm thanh tịnh. Khi kiết ấn tụng chơn ngôn nầy, liền cảnh giác đức Vô Lượng
Thọ Như Lai phóng quang trụ nơi đảnh của hành-giả, và được sự nhiếp thọ. Tụng
đến một vạn biến, Tâm bồ đề hiển hiện trong thân không quên mất.
Người trì niệm lần lần thể
nhập vào tịnh tâm tròn sáng mát mẻ trong sạch như trăng thu, tiêu tan tất cả
phiền não. Khi lâm chung, hành giả thấy Phật A Di Đà cùng với vô lượng
trăm ức chúng Bồ Tát vây quanh đến an ủi tiếp dẫn. Đương nhơn liền sanh về phẩm
Thượng thượng ở Cực Lạc.
Câu: “UM! BÚT
RUM! HÙM!” là chân ngôn “Nhứt Tự chuyển luân”, như
bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau
kiến hiệu và thành tựu. Trên đây là pháp thức Tịnh độ của Mật giáo. Các vị
tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng chú nầy.
Tệ nhơn vì xét thấy nhiều
liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn
nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước
khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.
Vị nào thích tụng
chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ
tán Đại Bi, Chuẩn Đề. Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp
tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp
Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.
Chân ngôn Vô Lượng Thọ
thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất
tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng
lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng
thêm kiến hiệu.
Tụng chân ngôn xong, tiếp
chắp tay đọc bài kệ khen tướng hảo đức A Di Đà và tiếp qua niệm Phật.)
Thân Phật Di Đà vàng rực
rỡ,
Tuyệt vời tươi đẹp tướng
trang nghiêm.
Năm Tu Di uyển chuyển
ngọc hào,
Bốn đại hải biếc xanh
liên mục.
Vô biên hóa Phật cùng Bồ
Tát,
Hiện đầy trong ánh diệu
quang-minh.
Nguyện lành bốn tám độ
hàm-linh,
Chín phẩm sen vàng sanh
Cực Lạc.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, Đại từ đại bi,
Tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.
(Kế tiếp niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật
( Chuyên tụng Vô
Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn
dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm
Phật.
Về
cách trì niệm, tệ nhơn lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho
Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ
cạn đến sâu:
1 – Ký số niệm:
Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người
hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu.
Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10
câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.
2 – Chứng số niệm: Khi
niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu,
liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành
giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 –Chỉ quán niệm: Lúc
mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là
Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha
thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý
tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn
dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.
4 – Tịch tĩnh
niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền
một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo
lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng
sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn
nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh
niệm.
Pháp
thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, tệ nhơn đã
suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng
mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)
3.- PHẦN PHÁT NGUYỆN HỒI
HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay
niệm)
Nam mô A Di Đà Phật (10 lần)
Nam mô Quán Thế Âm
Bồ tát (10 lần)
Nam mô Đại Thế Chí
Bồ tát (10 lần)
Nam mô Thanh tịnh đại
hải chúng Bồ tát (10 lần)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Nay con trì chú xưng
niệm Phật,
Thệ phát lòng bồ đề rộng
lớn.
Cúi xin xót thương nhiếp
thọ con,
Chứng minh sám hối và sở
nguyện.
Về trước đến nay con tạo
ác,
Đều do vô thỉ tham, sân,
si.
Từ thân, miệng, ý phát
sanh ra,
Tất cả chí tâm xin
sám-hối.
Chúng sanh vô biên thề
nguyện độ,
Phiền não vô tận thề
nguyền dứt.
Pháp môn vô lượng thề
nguyền học,
Phật đạo vô thượng thề
nguyền thành.
Con nguyện lâm chung dự
biết thời,
Dứt trừ tất cả điều
chướng ngại.
Diện kiến Tây phương Tam
Thánh tôn,
Liền được sanh về cõi
Cực Lạc.
Xin đem công đức trì
niệm nầy,
Hồi hướng bốn ân và ba
cõi.
Nguyện khắp pháp giới
các chúng sanh,
Đều sanh Cực Lạc thành
Phật đạo.
(
Năm bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc
nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi
hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT-TÂM
ÐẢNH-LỄ: Nam mô Ta Bà giáo chủ, Bổn sư Thích Ca Mâu Ni
Phật, Tây phương Cực Lạc thế giới, Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật, Đại bi Quán
Thế Âm Bồ Tát, Đại lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ Tát,
thập phương tam thế biến pháp giới Tam Bảo.
(Lễ ba lạy lui ra)
CHUNG
NGHI THỨC TỊNH ĐỘ PHỔ THÔNG
I.- PHẦN LỄ-BÁI SÁM-HỐI
(Trước khi
trì tụng, nên súc miệng, rửa mặt, rửa tay sạch sẽ, rồi mặc áo tràng, đốt hương,
kế chắp tay đứng trước bàn Phật đọc bài kệ tán Phật, tiếp theo lễ bái.)
Pháp vương vô-thượng tôn
Tam-giới vô luân thất
Thiên nhơn chi Ðạo-sư
Tứ-sanh chi từ-phụ
Ư nhứt niệm quy-y
Năng diệt tam-kỳ nghiệp
Xưng dương nhược
tán-thán
Ức kiếp mạc năng tận.
Năng lễ, sở lễ tánh
không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư
nghì,
Ngã thử đạo-tràng như
Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh
hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư
Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy
mạng lễ.
PHỔ-LỄ CHƠN-NGÔN
ÁN --PHẠ NHỰT RA VẬT (7 lần)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện,
vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trú
Tam-Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni
Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại
hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật
Bồ-tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi
A-Di Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-Nguyện
Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)
SÁM PHỔ HIỀN
(Quỳ đọc)
Ðệ-tử chúng đẳng,
tùy-thuận tu tập. Phổ-Hiền Bồ-tát, thập chủng đại nguyện:
Nhứt giả lễ kính chư
Phật,
Nhị giả xưng tán
Như-Lai,
Tam giả quảng tu
cúng-dường,
Tứ giả sám-hối
nghiệp-chướng,
Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,
Lục giả thỉnh chuyển
pháp-luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ
thế,
Bát giả thường tùy Phật
học,
Cửu giả hằng thuận
chúng-sanh,
Thập giả phổ giai
hồi-hướng.
Nguyện tương dĩ thử
thắng công-đức,
Hồi-hướng vô-thượng chơn
pháp-giới,
Tánh tướng Phật, Pháp
cập Tăng-già,
Nhị đế dung thông
tam-muội ấn,
Như thị vô-lượng
công-đức hãi,
Ngã kim giai tất tận
hồi-hướng,
Sở hữu chúng-sanh thân,
khẩu, ý,
Kiến hoặc đàn báng ngã
pháp đẳng,
Như thị nhứt thiết chư
nghiệp-chướng
Tất giai tiêu-diệt tận
vô dư,
Niệm niệm trí châu ư
pháp-giới,
Quảng độ chúng-sanh giai
bất thối,
Nãi chí hư-không
thế-giới tận,
Chúng-sanh cập nghiệp
phiền-não tận,
Như thị tứ pháp quảng
vô-biên,
Nguyện kim hồi-hướng
diệc như-thị.
Nam-mô Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát MA-HA-TÁT. (3 lần)
(Đứng lên chấp tay xướng)
Ðệ-tử Sám-hối, phát-nguyện rồi, chí-tâm đảnh-lễ
Tam-bảo. (1 lạy)
II.- PHẦN TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT
(Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật; chắp tay niệm)
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
ÁN LAM (7 lần)
TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN
TU RỊ TU RỊ MA HA TU RỊ TU TU RỊ TA-BÀ-HA (3 lần)
TỊNH BA NGHIỆP CHƠN NGÔN
ÁN TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐÀ TA PHẠ,
ĐẠT MẠ TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐỘ HÁM (3 lần)
PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN
ÁN NGA NGA NẴNG TAM BÀ PHẠ PHIỆT NHỰT RA HỒNG (3 lần)
Nguyện mây
hương mầu này,
Hiện
khắp mười phương cõi.
Tất
cả các Phật độ,
Vô
lượng hương trang nghiêm.
Đầy
đủ Bồ Tát đạo,
Thành
tựu Như Lai hương.
Nam mô Hương Vân
cái Bồ Tát ma ha tát (3 lần)
(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)
Quang, thọ khó suy
lường,
Sáng
lặng khắp mười phương.
Thế
Tôn Vô Lượng Quang,
Cha
lành cõi Liên ban.
Thần
lực chẳng tư nghì,
Sống
lâu A tăng kỳ.
A
Di Đà Như Lai,
Tiếp
dẫn lên liên đài.
Cực
Lạc cõi thuần tịnh,
Công
đức lạ trang nghiêm.
Nơi
tất cả quần sanh,
Vượt
lên ngôi Bất thối.
Mười
phương hằng sa Phật.
Đều
ngợi khen Vô Lượng.
Cho
nên hôm nay con,
Nguyện
sanh về An Dưỡng.
Nam mô Liên trì hải hội Phật Bồ Tát. (3 lần)
(Tiếp tụng)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ
DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ.
A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A
MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ
GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA
PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ
DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(7 hoặc 108 lần)
Thân Phật Di Đà vàng rực
rỡ,
Tuyệt vời tươi đẹp tướng
trang nghiêm.
Năm Tu Di uyển chuyển
ngọc hào,
Bốn đại hải biếc xanh
liên mục.
Vô biên hóa Phật cùng Bồ
Tát,
Hiện đầy trong ánh diệu
quang-minh.
Nguyện lành bốn tám độ
hàm-linh,
Chín phẩm sen vàng sanh
Cực Lạc.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, Đại từ đại bi,
Tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.
(Kế tiếp niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật
(Đứng lên đi nhiễu quanh bàn Phật,
vừa niệm hồng danh : đi ba vòng hoặc nhiều vòng rồi trở lại ngồi. Nên
niệm ra tiếng nho nhỏ theo pháp : “THẬP-NIỆM KÝ-SỐ” lấy 10 câu làm 1 đơn vị,
hoặc chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu : cứ hết 10 câu lần qua hột chuỗi.
Khi niệm đủ số hạn
định, quỳ trước bàn Phật, xưng danh hiệu TỨ THÁNH và đọc bài văn phát
nguyện hồi hướng).
III.- PHẦN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
Nam mô A Di Đà Phật (10 lần)
Nam mô Quán Thế Âm
Bồ tát (10 lần)
Nam mô Đại Thế Chí
Bồ tát (10 lần)
Nam mô Thanh tịnh đại
hải chúng Bồ tát (10 lần)
NGUYỆN
A-Di-Ðà Phật, thường lai
hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn, lâm mạng
chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thinh phân minh, diện phụng Di-Ðà, dữ chư
thánh-chúng, thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.
Nhứt sát na khoảnh, sanh
tại Phật tiền, cụ Bồ-Tát đạo, quảng độ chúng sanh đồng thành chủng-trí.
Chí tâm đảnh lễ : Nam-Mô
A-Di-Ðà Phật Thế-Tôn.
Nguyện ngã Tội chưóng
tất tiêu diệt (1 lạy)
Nguyện ngã Thiện căn
nhựt tăng trưởng (1 lạy)
Nguyện ngã Thân tâm hàm
thanh-tịnh (1 lạy)
Nguyện ngã Nhứt tâm tảo
thành tựu (1 lạy)
Nguyện ngã Tam muội đắc
hiện tiền (1 lạy)
Nguyện ngã Tịnh nhơn tốc
viên mãn (1 lạy)
Nguyện ngã Liên đài dự
tiêu danh (1 lạy)
Nguyện ngã Kiến Phật ma
đảnh ký (1 lạy)
Nguyện ngã Dự tri mạng
chung thời (1 lạy)
Nguyện ngã Vãng sanh Cực
Lạc Quốc (1 lạy)
Nguyện ngã Viên mãn Bồ
tát đạo (1 lạy)
Nguyện ngã Quảng độ chư
chúng-sanh (1 lạy)
Chí tâm qui mạng đảnh lễ
Nam mô Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng
vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp
dẫn đạo sư A-Di-Ðà Như-Lai biến pháp giới Tam bảo (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương
nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương
nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương
nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
CHUNG
Thanh-Liên-HoaThủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Chín
Niệm Phật niệm pháp niệm thánh tăng
Thập phương tịnh độ bảo liên đăng
Hoa khai Phật hiện viên giác quả
Nhậm vận lai vãng sát na trung.
Rị Ðà Dựng [26]
Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra,
bộ
ra bạn đà, hồng phấn tra.
Một câu A Di Ðà
Hợp thời tiết nhân duyên
Hương lạ hằng thoang thoảng
Liên xã lập nhiều miền.
(Nhứt cú Di Ðà
Nhân duyên thời tiết
Dị hương thường văn
Liên xã sang kiết.)
LƯỢC GIẢI
Pháp môn Tịnh Ðộ sở dĩ càng lúc càng
được thạnh hành, bởi có nhiều lý do:
Về phần nhân duyên:
Ðiều thứ nhứt đức A Di
Ðà có pháp duyên rất lớn với chúng sanh ở Ta Bà, bằng chứng là các chùa đều có
thời khóa Tịnh Ðộ, và hàng Phật tử khi gặp nhau thường chào với câu "A Di
Ðà Phật".
Ðiều thứ hai, đức Di Ðà
Thế Tôn có bốn mươi tám bi nguyện độ sanh rộng lớn, rất thích ứng với cảnh ngộ
cần cứu cấp nơi cõi ngũ trược này.
Về phần thời tiết, như lời
Phật đã huyền ký.
Bắt đầu từ thời mạt pháp trở về sau,
muốn chắc chắn được giải thoát, chỉ có pháp môn Niệm Phật.Bởi những nguyên nhân
ấy, nên chư thiện tri thức xưa nay đã sáng lập ra Liên Xã khắp nơi để hướng dẫn
người tu hành. Và các hành giả niệm Phật cũng cảm được nhiều điềm thoại ứng
như: thấy sen lành, nghe hương lạ.
ĐẠI NGỘ
Tỳ kheo ni Đại Ngộ tự
Pháp Lâm, họ Viên, người ở huyện Nam Thông tỉnh Giang Tô. Lúc tuổi trẻ, cha mẹ
hứa gả về nhà họ Thiệu, nhưng chưa làm lễ vu quy mà chồng đã chết. Cô liền thề
không tái giá, rồi vào am Đại Bi ở phía tây bản huyện mà xuất gia làm ni. Bên
nhà chồng chấp theo lễ tục ở đời, dùng trăm cách để cản. Song cô lập chí kiên
quyết, nên rốt cuộc sở nguyện cũng được thành.
Sau khi xuất gia, cô
gắng sức làm công quả, gánh nước, giã gạo, bổ củi, nấu cơm. Những thời tịnh
khóa sớm hôm cũng không trễ bỏ, mỗi ngày càng thêm tinh tấn. Sư cô quyết chí
niệm Phật cầu sanh Cực Lạc, thường nói: “Sự rộng lớn của Phật pháp, duy có môn
Tịnh độ là hợp thời cơ. Ngoài ra, việc tụng kinh lễ sám là để giúp tiêu nghiệp
chướng, tăng phước huệ, khiến cho tịnh nghiệp dễ thành mà thôi”.
Thấy cảnh am hoang phế,
Sư cô ra công quyên góp sửa sang lại, xây dựng Phật đường, liêu phòng, lập vườn
trồng rau, để giúp cho chúng được yên ổn thanh tu. Gặp kẻ đau khổ, Đại Ngộ đều
tùy duyên nói pháp, khiến cho nhiều người cảm mến nương về rất đông.
Lúc lớn tuổi, Sư bà thấy
sắc lực lần suy mòn, vội đi triều lễ các non: Phổ Đà, Cửu Hoa … cảm được nhiều
thoại tướng. Tháng hai năm Dân Quốc thứ mười sáu, Sư bà vương chứng cảm mạo
nhẹ, trong bịnh viết lời kệ rằng:
Việc thế muôn duyên rũ
sạch không
Duy câu Phật hiệu vẫn gìn lòng.
Luân hồi một niệm siêu miền khổ
Kiết sử mười dây thoát mối vòng.
Sáng suốt đài tâm hơi bụi lắng
Nhiệm mầu tánh tịnh ánh trăng trong.
Ngày nay mãn nguyện về Tây cảnh
Thuyền độ rồi soi đuốc huệ hồng!
Đến ngày mười tám, Đại
Ngộ thấy đức A Di Đà phóng quang tiếp dẫn. Sư bà thuật lại cho chúng biết, ngỏ
lời giã biệt, rồi an nhiên niệm Phật mà vãng sanh, hưởng thọ được 73 tuổi. Ngày
hai mươi tám làm lễ trà tỳ, được năm viên xá lợi tròn sáng.
BÀI SỐ 94
Ẩn tu nghĩ tiếc bậc tài cao !
Biển lụy trần ai đắm kiệt hào !
Giọt lệ Tần-Đình thương đất nước
Bên song kiếm ẩn thán công hầu !
NHƯ Ý : Kiếm Hồ NGư Ẩn một trong 3 tài tử Triều Nguyễn, có mấy
câu Tự Cảm:
“Trắc thân Yên thị không
hề Kiếm,
Hồi thủ Hầu Môn dục toái
Cầm”.
Tạm dịch,
“Ngoảnh lại cửa Hầu ĐÀN
muốn Đập,
Ẩn mình Thành thị Kiếm
đeo suông”.
Trong thời Đông Châu,
Thân Bao Tư khóc ba ngày trước sân Tần, khiến vua Tần cảm động cho binh tướng
giúp khôi phục nước Sở, những vị có Tâm Trí Tài Năng như thế, nếu biết Chánh
Pháp tin nhận tu hành, tất Mau thành Đạo quả đâu còn Đắm lụy trong biển Trần
ai.
Bên đường xe tang buồn
đi qua
Chiều hôm mồ hoang sương trăng tà
Vô thường đời trần thương ôi mau!
Người đi rồi lần sang phiên ta.
Nghìn xưa xa vời trong mông lung
Tài hoa tan về nơi vô cùng!
Luân hồi không cầu đường
siêu thăng
Dù cho hiền minh sao anh hùng?
Hoàng hôn mây hồng in
non xa
Dung hoa thầm khô theo suy già
Di Đà chuyên tu phòng lâm chung
Tương tư mơ về trời Liên Hoa.
ĐÔNG CHU LIỆT QUỐC
HỒI THỨ 77
Giọt lệ Bao Tư tràn sân Tần
Chiếc thuyền Chiêu Vương về nước Sở
...
Lại nói chuyện Thân Bao Tư
từ khi quân Ngô phá vỡ được kinh thành nước Sở, liền chốn vào ở trong hang đá
đất Di Lăng, nghe tin Ngũ Viên đào mã mà đánh vào thây Sở Bình vương, lại đang
dò bắt Sở Chiêu vương, mới viết một bức thư sai người đưa cho Ngũ Viên. Trong
thư đại lược nói rằng:
"Nhà ngươi khi trước
đã làm bề tôi Sở Bình vương, nay lại đem thi thể Sở Bình vương ra mà làm tàn
nhục như vậy, dẫu gọi là báo thù, nhưng cũng khí quá lắm! Phàm làm qúa thì
không ai chịu được, nhà ngươi nên mau mau rút quân về, ta đây phải noi theo cái
ước phục Sở".
Ngũ Viên tiếp được thư,
ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi bảo người mang thư rằng:
- Ta bận nhiều việc, không
thể viết thư trả lời được. Nhà ngươi vì ta mà nói lại với Thân Bao rằng:
"trung và hiếu không thể vẹn cả đôi " trời tối đường xa, nên phải đi
ngược làm trái.
Người mang thư về nói với
Thân Bao Tư, Thân Bao Tư nói:
- Ngũ Viên quyết chí diệt
nước Sở, chẳng lẽ ta cứ ngồi yên hay sao! Sở Bình vương phu nhân ngày xưa là
con gái Tần Ai công, thế thì đại vương ngày nay tức là cháu ngoại nước Tần. Vậy
muốn khôi phục nước Sở, tất phải cầu viện nước Tần mới được!
Thân Bao Tư liền thẳng
đường chốn sang nước Tần, đi vội suốt ngày đêm, bàn chân xây xát, máu chảy đầm
đìa, phải xé áo ra mà buộc. Khi đến Uông Châu, Bao Tư vào tâu với Tần Ai công
rằng:
- Nước Ngô tham như lợn,
độc như rắn, lâu nay vẫn muốn cắn nuốt chư hầu, bây giờ đã bắt đầu từ nước Sở
trước. Đại vương tôi bị thua, phải chạy trốn ở nơi thảo dã, có sai tôi sang đây
để cáo cấp với quý quốc, xin qúy quốc nghĩ tình thân thuộc mà đem quân giải cứu
cho.
Tần Công Ai nói:
- Nước Tần ta hẻo lánh ở
về phía tây này, quân hiếm tướng ít, giữ mình không nổi còn giúp được ai!
Than Bao Tư nói:
- Sở và Tần tiếp giáp
nhau. Nay Sở bị Ngô đánh mà Tần không cứu, Ngô đã diệt Sở thì tất có ngày đánh
Tần. Nhà vua giúp Sở, tức là giữ cho Tần đó. Chẳng thà Sở về tay Tần, còn hơn
về tay Ngô. Nếu nhà vua cứu nước Sở khỏi mất thì nước Sở tôi xin đời đời thần
phục nước Tần.
Tần Ai công còn ngần ngại
chưa quyết, nói rằng:
- Quan đại phu hãy về nghỉ
ở công quán, để ta thương nghị các triều thần đã.
Thân Bao Tư nói:
- Đại vương tôi còn đang
chạy trốn nơi thảo dã, chưa ở yên được nước nào, khi nào tôi dám ra nghỉ ở công
quán.
Bấy giờ Tần Ai công chỉ
ham mê tửu sắc, chẳng thiết nghĩ gì đến chính sự. Thân Bao Tư xin mãi mà Tần Ai
công nhất định không chịu phát binh. Thân Bao Tư cứ đội mũ mặc áo, đứng luôn ở trong sân vua Tần,
ngày đêm kêu khóc, không lúc nào im tiếng, cứ như thế trong bảy ngày bảy đêm
liền không ăn uống một tí gì cả. Tần Ai công thấy vậy, kinh ngạc mà rằng:
- Bề tôi nước Sở biết nghĩ
đến vua khẩn thiết như thế ư! Nước Sở có bề tôi hiền như thế mà còn bị
nước Ngô đánh, huống chi là ta không có người bề tôi hiền nào, khi nào nước Ngô
lại để cho yên!
Tần Ai công nói xong, ứa nước mắt khóc, đọc bài thơ Vô Y để tỏ
ý phát binh sang giúp Sở. Thân Bao Tư lạy tạ. Từ bấy giờ Bao Tư mới chịu ăn uống.
...
KINH PHẠM VÕNG
Nếu Phật-Tử, hoặc tự mình giết,
bảo người giết, phương tiện giết, khen tặng sự giết, thấy giết mà tùy-hỉ, nhẫn
đến dùng bùa chú để giết : Nhân giết, duyên giết, cách-thức giết, nghiệp giết.
Phàm tất cả loài hữu-tình có mạng sống đều không được cố ý
giết. Là Phật-Tử, lẽ ra phải luôn luôn có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận, lập thế
cứu giúp tất cả chúng-sanh, mà trái lại tự phóng tâm nỡ lòng sát-sanh, Phật-Tử
này phạm “Bồ-Tát Ba-La-Di Tội”.
( GIỚI SÁT SANH )
Nếu Phật-Tử không đặng cất chứa những binh khí, như dao,
gậy, cung, tên, búa, giáo, v.v… cùng những đồ sát sanh như chài, lưới, rập, bẫy
v.v… Là Phật-Tử, dầu cho đến cha mẹ bị người giết, còn không báo thù,
huống lại đi giết tất cả chúng-sanh ! Không được cất chứa những khí cụ
sát sanh ! Nếu cố cất chứa, Phật-Tử này phạm “Khinh Cấu Tội” .
( GIỚI CHỨA KHÍ CỤ SÁT SANH )
Theo “KINH PHẠM VÕNG BỒ
TÁT GIỚI” thì “PHẠM SÁT-SANH” phải có đủ 4 điều kiện:
1. NHÂN (Tâm mình muốn giết ai đó)
2. DUYÊN (Phải có người đó, phải gặp người đó thì mới giết được )
3. CÁCH THỨC (Dùng Cung tên để giết…)
4. NGHIỆP (Người đó đã chết, thì mới thành nghiệp sát sanh)
TÓM LẠI, BẤT LUẬN DÙNG PHƯƠNG TIỆN TRỢ NHÂN NÀO HOẶC Ở TÂM, HOẶC Ở THÂN, HOẶC
Ở MIỆNG, HOẶC Ở Ý…LÀM CHO CHÚNG SANH PHẢI CHẾT, THÌ BỊ CÙNG
MỘT CỘNG NGHIỆP LÀ SÁT SANH.
Thứ Mười Tám
Bạch sắc bạch quang bạch liên hoa
Thiện công mỹ đức đại vô nhai
Ư thử thủ nhãn cần tu tập
Hà sầu bất chí pháp vương gia.
Kiết Mông [27]
Án-- phạ nhựt-ra, vị ra dã, tát-phạ hạ.
Một câu A Di Ðà
Mở đường lối vãng sanh
Ðó là nhiều phước đức
Chẳng phải ít căn lành.
( Nhứt cú Di Ðà
Khai vãng sanh môn.
Thị đa phước đức
Phi thiểu thiện căn.)
LƯỢC GIẢI
Từ khi Vi Ðề Hy phu nhân chán cõi đời
trược ác, cầu sanh về thế giới đẹp an vui, đức Thích Tôn mới nói ra môn Tịnh Ðộ
mở đường lối vãng sanh, để hành giả được dễ dàng thuận tiến trên bước đường
giải thoát. Muốn làm một bậc thượng thiện nhân cao quý ở cõi đẹp mầu như thế
giới Cực Lạc, phải là người có nhiều phước đức căn lành.
Theo kinh Vô Lượng Thọ:
Chúng sanh nào đời này nghe nói Phật A Di Ðà và cõi Cực Lạc, phát lòng tín
nguyện, chí thiết niệm Phật cầu vãng sanh. Những chúng sanh đó trong tiền kiếp
đã từng gặp nhiều đức Phật và gieo trồng nhiều phước đức căn lành rồi.
PHẬT THUYẾT KINH A-DI-ĐÀ
Dao Tần, Tam-Tạng
Pháp-Sư Cưu-Ma-La Thập dịch
Việt Dịch : HT.Trí-Tịnh
5
NHƠN HẠNH VÃNG SANH
Xá- Lợi- Phất! Chẳng có
thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.
Xá- Lợi- Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di
Đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày,
hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một
lòng không tạp loạn.
Thời người đó đến lúc lâm chung Đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện
thân ở trước người đó.
Người đó lúc chết TÂM
THẦN KHÔNG ĐIÊN ĐẢO, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Đức Phật A Di
Đà.
Xá- Lợi- Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.
Nếu có chúng sanh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi
nước Cực Lạc.
( Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu
thiện-căn phước-đức nhơn-duyên, đắc sanh bỉ quốc.
Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử,
thiện-nư nhơn, văn thuyết A-Di-Đà Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt,
nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt,
nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn.
Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A-Di-Đà
Phật dữ chư Thánh-chúng, hiện tại kỳ tiền, thị nhơn chung thời, TÂM BẤT
ĐIÊN-ĐẢO, tức đắc vãng-sanh A-Di-Đà Phật Cực-lạc quốc-độ.
Xá-Lợi-Phất! Ngã kiến thị lợi, cố
thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát
nguyện, sanh bỉ quốc độ.)
Niệm Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Tiết 26.- Hạnh Tinh Chuyên
Cũng Là Điểm Không Thể Thiếu
Như trên đã nói, điểm
thiết yếu của môn Niệm Phật là phải phát nguyện vãng sanh. Nếu nghĩ rằng:
"Ta chỉ cầu niệm hồng danh muôn đức của Phật A Di Đà cho thật nhiều, tự
nhiên sẽ có vô lượng công đức; dù không vãng sanh, công đức ấy cũng chẳng mất."
Nghĩ như thế là sai lầm nguy hiểm và thiếu trí huệ.
Bởi có hạnh mà không
nguyện thì công đức ấy sẽ biến thành phước báo ở đời sau. Đời thứ hai đã hưởng
si phước tất dễ tạo nghiệp, sang đời thứ ba nhất định phải bị đọa lạc tam đồ,
đó là điều sai lầm, nguy hiểm! Vì thế, ở trên mới gọi tín nguyện là "huệ
hạnh".
Đã có đủ Tín Nguyện mà
thiếu phần Hạnh, ví như chiếc thuyền có lái không chèo, cũng không thể vãng
sanh. Có kẻ nghe nói: "Chỉ cần tín nguyện chân thiết, khi lâm chung mười
niệm hay một niệm cũng quyết được sanh Tây Phương", thì liền nghĩ rằng:
"Nếu như thế cần chi phải vội gấp, để lúc sắp chết niệm Phật cũng
được!" Ý niệm này cũng sai lầm, bởi vì quá xem thường hành môn Niệm Phật.
Phải biết, điểm quan yếu để vãng sanh, theo trong kinh văn là: "Người ấy
khi lâm chung lòng không điên đảo" (Thị nhơn chung thời tâm
bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ - Kinh Phật
Thuyết A Di Đà).
Như quả lúc lâm chung lòng không điên đảo, thì niệm mười niệm hay một niệm
cũng được vãng sanh. Nhưng ai dám bảo rằng: mình khi lâm chung lòng không điên
đảo?
Nếu lúc bình thời không
tinh chuyên dụng công, đến khi mạng chung, bốn đại phân ly, sức nghiệp dồn dập,
thân tâm bị sự khổ làm cho kinh hoàng mê loạn, sợ e một niệm cũng không thể
thật hành, huống chi mười niệm?
Như muốn cho khi lâm
chung có phần bảo đảm, lúc bình thời hành giả phải tinh chuyên niệm Phật cho
nhiều, và gắng tu tập trình độ "nhứt tâm bất loạn".
Bằng chỉ đợi khi sắp
chết mới niệm, trên đạo lý nói ra thì cố nhiên suốt thông, nhưng lại e trên sự
thật chẳng phải là đơn giản. Cho nên các hành giả niệm Phật phải gắng dụng
công, đừng lơ là khinh thường sự hành trì, mà rước lấy nỗi thất bại.
TÀO HÀI HÒA
Cư sĩ Tào Hài Hòa, pháp
danh Quảng Trí tự Thanh Ngũ quê ở huyện Thượng Ngươn tỉnh Giang Nam. Gia đình
ông làm nghề nhuộm tơ lụa do đó lại dời về Tô Châu lập cơ nghiệp.
Mùa thu năm Đạo Quang
thứ bảy, nhân vợ đau yếu, Hài Hòa rước y sĩ Hạ Văn Vinh đến xem bịnh và điều
trị. Văn Vinh là một Phật tử, nên giảng giải về pháp môn Tịnh độ, khuyến tấn tu
hành.
Ban sơ Hài Hòa tin vâng
theo, sau lại sanh nghi hỏi Văn Vinh rằng:
“Có kẻ bảo anh đem hình thức niệm Phật để dối gạt người, việc ấy như thế
nào?”
Văn Vinh đáp:
“Dẫn dụ người tạo nghiệp làm quấy, để cho họ bị sa đọa vào ba đường ác chịu
quả khổ, lưu lạc luân hồi, có thể bảo đó là dối gạt. Khuyên người tu giới định
huệ, ăn chay niệm Phật, cầu sanh cõi Cực Lạc ở Tây phương, để cho họ trở về quê
cũ thành quả Bồ đề, độ mình và tất cả chúng sanh, sao lại gọi là dối gạt?”
Hài Hòa nghe nói chợt
lãnh ngộ, dứt hết mối nghi, lại hỏi:
“Làm thế nào để chắc
chắn đến quê hương Phật quốc?”
Văn Vinh đáp:
“Giữ giới làm nền tảng,
tu phước làm trợ duyên, chấp trì câu hồng danh làm chánh hạnh, niệm cho đến khi
được nhứt tâm. Đó là đường lối trở lại quê xưa Cực Lạc!”
Nghe xong, Hài Hòa vui
mừng khấp khởi, liền đến quy y với ngài Bôi Độ Hải. Mùa xuân năm
sau, lại thọ ngũ giới nơi ngài Nghĩa công ở chùa Linh Thứu. Từ đó cư sĩ mới
thiết thật tinh tấn tu hành.
Một đêm, Hài Hòa nằm mơ
thấy tòa Hắc sơn cao chớn chờ đón trước mặt. Trong ý muốn vượt qua, nhưng lại
bị khe suối ngăn cách. Sau núi, vầng hồng từ từ chìm lặn về phương Tây trong
cảnh ánh chiều ráng đỏ. Tỉnh giấc, cư sĩ nghiệm biết là duyên trần của mình sắp
mãn. Nhân đó lại càng gia công tinh tấn, đem gia tư gồm ba ngàn lượng vàng
trong vài năm lần lượt tu phước bố thí hết.
Tháng tư năm Đạo Quang
thứ mười bốn, thôi làm nghề nhuộm, thu gọn dư sản trở lại quê hương. Trước đó Hài
Hòa khuyên thân mẫu tu Tịnh độ, bà mẹ thấy ông không có con trai, bảo cưới vợ
lẽ. Ông thưa: “Con nguyện cùng mẹ đồng sanh về Cực Lạc. Ở cõi ngũ trược dễ bị
mê lầm gây nhiều tội ác, không nên tạo thêm duyên nghiệp làm chi!”
Về quê chưa bao lâu, bà
mẹ niệm Phật mà qua đời. Đầu tháng sáu năm đó, cư sĩ cũng nhiễm bịnh. Đến ngày
mùng sáu, ngồi kiết già niệm Phật mà thoát hóa. Đứa con gái của cư sĩ thấy thế,
phát lòng tin sâu thiết, niệm Phật liên tục trong bốn mươi chín ngày đêm, cũng
ngồi vãng sanh với nét mặt an lành tươi tỉnh.
LỜI BÌNH:
Trong vòng một trăm ngày
mà mất luôn ba người, kẻ chưa hiểu đạo, theo quan niệm đời tất bàn luận phân vân cho là vô phước. Nhưng cả quyến thuộc
đồng gởi chất nơi thai sen, được thân kim cương đẹp tươi rực rỡ, ở cõi thất bảo
trang nghiêm, và sẽ cùng chứng đắc thần thông giải thoát là điều cực hân
hạnh, đối với bậc trí còn có chi hơn?
BÀI SỐ 95
Ẩn tu nhìn lắm kẻ chơi vơi
Gào khóc quên tu cũng huyễn thôi !
Niệm PHẬT để cho tròn tánh PHẬT
Kiếp người chẳng uổng được thân người.
NHƯ Ý : Hiện-tại và Tương-lai
còn biết bao kẻ Gào Khóc Than-Van trong biển khổ. Nếu
biết sợ khổ mà không sớm lo tu, thì chư Phật cũng đành Thương-Xót Lặng
Nhìn vậy thôi.
KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT
Đời Diêu Tần, ngài
Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn-văn ra Hán-văn
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.
PHẨM THỨ NHẤT
DUYÊN KHỞI
PHẦN THÔNG-TỰ
Chính tôi được nghe như
thế nầy. Một thuở nọ, đức Phật kiết hạ tại núi Kỳ-Xà-Quật, gần
thành Vương-Xá với chúng Đại Tỳ-kheo một muôn hai nghìn người. Đó là các
vị trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Ma-Ha Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên,
Tu-Bồ-Đề, La-Hầu-La, Phú-Lâu-Na, A-Nan, A-Nan-Đà, Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Đề,
Gia-Du-Đà-La…
Lại có tám muôn vị Đại
Bồ-Tát khắp mười phương cùng đến tham dự. Đó là các ngài :
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát, Phổ-Hiền Bồ-Tát, Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát,
Di-Lặc Bồ-Tát, Địa-Tạng Bồ-Tát, Diệu-Âm Bồ-Tát, Đại-Cường Tinh-Tấn Dõng-Mãnh
Bồ-Tát, Đà-La-Ni Tự-Tại Công-Đức-Lâm Bồ-Tát, Trang-Nghiêm-Vương Bồ-Tát ... tất
cả đều có năng lực thâm nhập vô lượng tam muội
môn, tổng trì môn, giải thoát môn, đã chứng Pháp thân,
đắc ngũ nhãn, biện tài vô ngại, thần thông du hý, biến hiện
đủ loại thân tướng khắp các quốc độ để cứu vớt chúng
sanh.
Lại có vô
lượng Đại-Phạm-Thiên Vương, Tự-Tại-Thiên Vương, Đế-Thích-Thiên Vương,
Đâu-Suất-Thiên Vương, Đao-Lợi-Thiên Vương cùng vô số quyến
thuộc dự hội.
Lại có Long Vương,
Khẩn-Na-La Vương, Càn-Thát-Bà Vương, A-Tu-La Vương, Ca-Lâu-La Vương ...
cùng vô số quyến thuộc câu hội.
Lại có Quốc mẫu Vi-Đề-Hy
hoàng thái hậu và vua A-Xà-Thế cùng hoàng tộc, quần thần câu
hội.
Lại có hơn năm trăm vị
Trưởng-Giả cư sĩ của thành Vương-Xá cùng vô số quyến
thuộc câu hội.
Tất cả đại
chúng đều cung kính cúi lạy dưới chân Phật, rồi lui ngồi
một bên.
DUYÊN KHỞI
PHẦN BIỆT-TỰ
Lúc bấy giờ, trong hàng
Ưu-bà-tắc có một vị trưởng-giả tên là Diệu-Nguyệt, trú ngụ tại thành Vương-Xá,
từng quy y Tam-Bảo và thọ trì năm giới cấm, cùng đến
dự pháp hội. Vị Trưởng-Giả này từ vô lượng vô
biên a-tăng-kỳ kiếp quá khứ, từng gần gũi thừa sự cúng
dường vô lượng vô biên muôn ức hằng hà sa đức
Phật, y theo Chánh pháp tu hành. Hiện tại làm
thân cư sĩ, vợ con đông nhiều, nhà cửa nguy nga, kho đụn đầy
rẫy. Tuy ở giữa cảnh ràng buộc mà vẫn trưởng dưỡng tâm
trí giải thoát.
Tuy hưởng dụng ngũ
dục thế gian, nhưng vẫn hoài bão đại nguyện độ sanh của chư
Đại Bồ-Tát. Tuy ở trong chốn bùn lầy dơ bẩn mà vẫn sẵn sàng xả
ly thân mạng, tài sản, quyến thuộc để gieo trồng hạt
giống Bồ-Đề. Tuy ở trong căn nhà lửa chập chùng hiểm nạn, mà vẫn thực
hành Tuệ-giác Vô-lậu, hết lòng thương tưởng chúng
sanh như con một, thể hiện Pháp thí oán, thân bình
đẳng.
Trưởng-giả Diệu Nguyệt từ
trong đại chúng bước ra, đi nhiễu quanh đức Phật ba
vòng. Rồi đến trước Như-Lai, chấp tay quì xuống, gối bên hữu
chấm sát đất, cung kính bạch với đức Phật rằng:
- "Hi hữu Thế-Tôn
! Hi hữu Thế-Tôn ! Được làm thân người là khó, như con rùa gặp bộng
cây nổi, nhưng được gặp Phật ra đời còn khó gấp muôn phần.
Gặp Phật ra đời đã khó,
nhưng được nghe Chánh pháp lại còn khó gấp muôn phần. Được
nghe Chánh pháp đã khó, nhưng làm thế nào để nương theo giáo
nghĩa tu tập lại còn khó gấp vô lượng phần.
Bởi vì sao ? Theo chỗ
con xét nghĩ, thì trong tám muôn bốn ngàn pháp mầu mà Như-Lai đã chỉ dạy, nhằm
đưa hết thảy chúng sanh ngộ nhập Phật tri-kiến, phải có một pháp
mầu cứu vớt những hạng chúng sanh tội khổ, mê đắm, xấu ác. Hôm nay
con phụng vì hết thảy chúng sanh tội khổ nơi thời Mạt pháp, cũng
như phụng vì các bậc trưởng-giả, cư-sĩ, bà-la-môn, sát-đế-lợi, thủ-đà-la tại
thành Vương-Xá nầy, mà khẩn cầu đức Thế-Tôn rủ lòng thương xót, ban
cho chúng con một cách thức tu hành thật dễ dàng để giải
thoát, một con đường thật vắn tắt để hoàn
thành Phật Trí.
Như đức Thế-Tôn từng chỉ
dạy, đời Mạt pháp các chúng sanh trong cõi Diêm-phù-đề cang
cường, ngỗ nghịch, tâm tạp, nghiệp nặng, mê đắm ngũ dục, không
biết hiếu thuận cha mẹ, không biết cung kính Sư-trưởng,
không thực lòng quy y Tam-Bảo, thiếu năng lực thọ
trì năm giới cấm, làm đủ mọi chuyện tệ ác, phỉ báng Thánh
nhân v.v... Cho nên con suy gẫm như thế này, phải có một môn tu
thật giản đơn, thật tiện lợi nhất, dễ dàng nhất để tất cả
những chúng sanh kia khỏi đọa vào các đường ác, chấm
dứt luân chuyển sanh tử khắp ba cõi, được thọ
dụng pháp lạc, sớm bước lên địa vị Vô-thượng Chánh-đẳng
Chánh-giác.
Vì sao như vậy ? Sau
khi Như Lai diệt độ khoảng một ngàn năm trở đi, đó là thời
kỳ Chánh pháp cuối cùng, các kinh điển dần dần ẩn mất, chúng
sanh căn cơ hạ liệt, ám độn, ngã chấp sâu
dày, tâm tưởng thô trệ, tà kiến lan tràn, say sưa làm
các nghiệp ác để tự vui.
Do đó tự
nhiên chiêu cảm động đất, đói kém, tật dịch, binh đao, bão
lụt, mất mùa, gió bão, thời tiết viêm nhiệt bức não. Thánh
nhân lại không xuất hiện. Tuổi thọ giảm dần. Nếu ai phát
khởi tâm chí tu hành, cũng không thể tu tập các
môn Giới luật, Thiền định, Trí tuệ, Giải thoát vô lậu.
Không thể tu tập Tứ-niệm-xứ, Bát-chánh-đạo, Tứ-chánh-cần. Không
thể tu tập Tứ-vô-lượng-tâm, không thể tu tập Sáu-ba-la-mật,
hoặc là Bố-thí ba-la mật, nhẫn đến Trí-huệ ba-la-mật, không thể tu
tập bằng các phương tiện của Quán Trí để ngộ
nhập Phật Tri Kiến. Không thể chứng đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm,
A-na-hàm, A-la-hán. Không thể chứng nhập Sơ-thiền nhẫn đến Tứ-thiền.
Không thể chứng nhập Niết-bàn Diệu-tâm. Không thể vào sâu vô
lượng Tam-muội, Thần-thông Du-hí của chư Bồ-Tát, nhẫn đến không
thể thâm nhập cảnh giới thù thắng trang nghiêm của chư
Phật, hoặc rải cỏ nơi đạo tràng, đánh rền trống pháp hàng phục ma
quân.
Vì lý do như
vậy, mà đệ tử chúng con xét nghĩ nên phát khởi Vô-thượng
Bồ-đề-tâm. Khẩn cầu đức Thế-Tôn chỉ dạy giáo pháp nhiệm mầu,
mong lợi lạc hết thảy tội khổ chúng sanh ở thời
kỳ cuối cùng của Chánh pháp".
Trưởng-giả
Diệu-Nguyệt vừa dứt lời thưa thỉnh,
thì bỗng đại địa chấn động mãnh liệt. Khắp hư không, hoa
mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, tuôn rắc
như mưa. Từ phương Tây, xuất hiện vô lượng vô số hằng hà
sa đám mây ngũ sắc, mây chiên đàn hương, mây y
phục cõi trời, mây âm nhạc cõi trời, mây hoa sen báu
trắng bạch v.v... Trong những đám mây ấy phát ra tiếng
sấm lớn, đồng một lúc chầm chậm bay về, nhóm lại phía trên đỉnh
núi Kỳ-Xà-Quật. Tất cả đại chúng đều vui mừng, hớn hở, tự biết
ấy là điềm lành chưa từng có.
Bấy giờ, Quốc
mẫu Vi-Đề-Hy hoàng thái hậu từ trong đại chúng, bước
ra trước Phật đảnh lễ xong, bèn chấp tay thưa:
- "Bạch đức
Thế-Tôn, vì duyên cớ gì mà hiện điềm lành nầy ?"
DUYÊN KHỞI
PHẦN CHÁNH-TÔNG
Liền khi ấy, đức Như-Lai
từ nơi tướng lông trắng chặng giữa chân mày, phóng ra hào quang chiếu
khắp vô lượng vô biên vi trần số thế giới mười
phương mà nói lời nầy:
- "Lành thay ! Các
thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân ! Nay ta vì lời thưa thỉnh của Ưu-bà-tắc Diệu-Nguyệt,
và của Ưu-bà-di Vi-Đề-Hy, lại nương theo Bổn nguyện của vô lượng vô
số bất khả thuyết chư Phật, mà tuyên dương giáo
nghĩa bí mật vi diệu tối thắng đệ nhất, nhằm cứu
độ hết thảy chúng sanh ở trong thời kỳ Phật
Pháp cuối cùng.
Giáo nghĩa nầy, chư
Phật quá khứ đã nói, chư Phật hiện tại đang nói, và
chư Phật vị lai sẽ nói. Tất cả chúng sanh đời Mạt
pháp sẽ nương nơi giáo nghĩa này mà được giải
thoát rốt ráo, mãi mãi xa lìa các đường ác, hiện
đời an ổn, sau khi mạng chung đuợc sanh về cõi Phật, chứng
ngôi vị Bất-thối, dần dần tu tập cho đến khi đắc
A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam Bồ-đề.
Nầy cư
sĩ Diệu-Nguyệt, hãy chăm chú lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói:
- "Diệu-Nguyệt, tất
cả các loại chúng sanh chết ở nơi đây, rồi sanh sang nơi
kia, sống chết nối nhau không dứt. Mỗi khi sắp mạng
chung thì các loại nghiệp lành dữ trong một
đời hiển hiện rõ ràng. Chúng sanh nào sống thuần
bằng tư tưởng, thì bay lên hóa sanh nơi
các cõi Trời. Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và
tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười
phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về
Tịnh-độ.
Chúng sanh nào tình ít, tưởng nhiều thì vào hàng phi tiên, bay đi nhẹ nhàng nhưng
không được xa bằng hạng thuần tưởng.
Chúng sanh nào tình và tưởng bằng nhau thì sẽ phát sanh vào cõi người. Bởi vì sao
như vậy ? Bởi tưởng là thông sáng, tình là mê tối. Nếu tình và tưởng ngang bằng
nhau thì không bay lên và cũng không đi xuống.
Chúng sanh nào tình nhiều, tưởng ít thì sẽ lạc vào bàng-sanh, nhẹ thì làm chim bay,
nặng thì làm thú chạy.
Chúng sanh nào có bảy phần tình và ba phần tưởng, sẽ bị đọa làm thân ngạ quỷ, thường
chịu nóng bức, đói khát trải qua trăm ngàn kiếp dài lâu.
Chúng sanh nào có chín phần tình và một phần tưởng, thì sẽ đọa vào địa ngục. Nhẹ thì vào
nơi địa ngục hữu gián, nặng thì sẽ đọa vào ngục Đại A-tỳ. Nếu ngoài
cái tâm thuần tình ấy, còn kiêm thêm các trọng tội như hủy giới
cấm của Phật, khinh báng Đại-thừa, thuyết pháp sai lầm,
đắm tham của tín thí, lạm thọ sự cung kính, và phạm
vào thập ác ngũ ngịch, thì sẽ chiêu cảm quả báo luân
chuyển sanh về các ngục Vô-gián ở khắp mười phương.
Nầy Diệu-Nguyệt cư
sĩ ! Trong thời kỳ Chánh pháp diệt tận, chúng
sanh nơi cõi Diêm-phù-đề tình nhiều tưởng ít, tâm địa bỏn
sẻn, tham lam ghét ganh, các căn lành phước báo kém cỏi. Lúc sanh
tiền thọ nhận đủ loại nghiệp dữ, sau khi mạng chung sẽ chịu
các quả báo đau khổ trong ba nẻo ác dữ với hạn
kỳ lâu dài. Vì thế mà chư Phật khắp mười phương xót
thương vô cùng, luôn luôn tìm cách cứu trừ khổ não cho
các hạng chúng sanh kia.
Các đức Như-Lai hiện
ra nơi đời, mục tiêu chân chánh là không chỉ tuyên
dương diệu pháp bí áo sâu xa cho những bậc Thánh
giả, hiền nhân - mà mục tiêu khẩn thiết nhất vẫn
lànhằm cứu vớt các loại chúng sanh tội khổ, nặng về tình, nhẹ về
tưởng.
Chư Phật đã
dùng Phật nhãn quán sát khắp mười phương, thấy
rõ nghiệp lực chúng sanh lành dữ không đồng đều,
thấy thân tướng và cảnh giới của chúng sanh xấu
tốt có sai biệt. Nhưng điểm sanh khởi chẳng rời sát-na
tâm sanh diệt, chỗ hội quy cũng không rời sát-na tâm sanh diệt. Muốn hàng
phục và chuyển biến cái sát-na tâm sanh diệt ấy, thì
không có pháp nào hơn là pháp NIỆM PHẬT.
Diệu-Nguyệt cư sĩ,
nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào, đủ lòng tin thì chỉ
cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT,
suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi,
thì hiện tiền chiêu cảm được Y báo, và Chánh
báo của Phật A-Di-Đà ở cõi Cực-Lạc. Lúc lâm
chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, lập
tức vào Phổ-đẳng Tam-muội của đức A-Di-Đà được Phật tiếp dẫn về
Tịnh-độ Tây-phương. Vĩnh viễn xa lìa các đường ác, không
còn luân hồi sanh tử. Đó gọi là quả vị Bất-thối-chuyển.
Từ lúc ấy nhẫn nại về sau, vượt qua Thập-địa, chứng
Vô-thượng-giác.
Diệu-Nguyệt nên
biết, đây thật là pháp vi diệu thù thắng đệ nhất, mà
chư Phật dùng để cứu độ khắp hết thảy chúng sanh. Đây
thật là môn tu thích đáng khế hợp mọi căn cơ mà chư
Phật dùng để đưa hết thảy muôn loài xa rời nẻo khổ, chứng
đắc Niết-bàn tại thế, thành Phật trong một đời.
Đây là môn tu Đại oai
lực, Đại phước đức mà chư Phật
giúp chúng sanh vượt thắng thân phàm phu, mà thâm
nhập cảnh giới Chơn-thường.
Đây là môn tu Đại
bát-nhã, Đại thiền-định, mà chư Phật dùng làm
thuyền bè đưa hết thảy chúng sanh qua thấu bờ bên kia, không còn
sanh già bịnh chết, hoàn toàn hưởng dụng pháp lạc.
Đây là môn tu Đại
trang-nghiêm, đại thanh-tịnh, mà chư Phật dùng để
đưa hết thảy chúng sanh vào giới luật, nhiếp chúng
sanh vào oai nghi, an ổn khoái lạc.
Đây là một môn tu Đại
nhu-hòa, Đại nhẫn-nhục, mà chư Phật giúp hết
thảy chúng sanh tự tại giữa khổ và vô
thường mà thành tựu Tri Kiến Phật.
Đây là môn tu Đại
Bồ-đề, Đại siêu-việt, mà chư Phật dùng
làm cứu cánh để giúp hết thảy chúng sanh thành Phật, như
Phật ngay trong một kiếp.
Đây là môn tu Đại từ-bi,
Đại dũng-mãnh, mà chư Phật dùng để giúp chúng
sanh có được cái Tâm bằng Tâm chư Phật, có được cái nguyện bằng Nguyện chư
Phật, mau chóng vượt qua địa vị phàm phu và tự chứng
Pháp thân từng phần.
Lại nữa trong quá
khứ vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, nhẫn lại đến nay, chư
Phật cũng chỉ dùng một pháp Niệm Phật nầy để độ khắp chúng sanh.
Trong hiện tại cũng có vô lượng vô biên hằng hà
sa chư Phật ở mười phương cũng đang thuyết giảng giáo
nghĩa Niệm Phật nầy để rộng cứu vớt chúng sanh.
Trong đời vị lai,
tất cả chư Phật nếu muốn cứu vớt hết mọi chúng sanh, thì cũng phải do
nơi pháp Niệm Phật này. Do đó mà Như-Lai bảo rằng Niệm
Phật là vua của tất cả các Pháp.
Nầy Diệu-Nguyệt cư sĩ, hãy một lòng tin nhận
lời dạy của Như-Lai. Hãy ghi nhớ kỹ lời dạy của Như-Lai. Hãy thực
hành theo lời dạy của Như-Lai, và hãy chứng đắc Pháp
Nhẫn tối tôn, tối diệu, đệ nhất nầy mà như lai đã ban cho.
Vì sao vậy ? Vì pháp
của Như Lai là chân thật, là giải thoát, là an vui,
là thuận theo sở cầu, sở nguyện của mọi chúng sanh. Vì
pháp của Như-Lai là vắng lặng, không dính mắc, vô
cấu nhiễm, thuận theo tình và tưởng của chúng sanh mà
vẫn giúp chúng sanh thành tựu địa vị Phật Đà, không bị hư
hoại, cho nên chẳng cần phải chán ghét lìa bỏ thế gian, ở
trong chỗ ràng buộc mà tâm vẫn tự tại, thọ dụng pháp
lạc. Và sau khi lâm chung được sanh về cõi
Phật A-Di-Đà".
Thứ Hai Mươi Mốt
Vi diệu nan tư tử liên hoa
Bồ đề tốc chứng giải thoát pháp
Diện kiến thập phương Phật-đà-da
Tùng kim bất lạc lục đạo gia.
Phật Ra Xá Da [40]
Án-- tát ra tát ra, phạ nhựt-ra ca ra, hồng phấn tra.
Một câu A Di Ðà
Là thành Phật tiêu chuẩn
Dùng tâm hạnh niệm Phật
Chứng vào Vô Sanh Nhẫn.
(Nhứt cú Di Ðà
Thành Phật tiêu chuẩn
Dĩ niệm Phật tâm
Nhập Vô Sanh Nhẫn.)
LƯỢC GIẢI
Niệm Phật chẳng riêng
khi lâm chung được sanh về cõi Phật mà thôi.
Trong hiện tại nếu hành giả nhiếp cả sáu căn, giữ cho tịnh
niệm nối luôn, và có thể ngay đời này được ngộ đạo, chứng vào Vô Sanh Pháp
Nhẫn.
Cho nên gọi: Niệm Phật
là tiêu chuẩn thành Phật.
TỬ NGƯƠN
TỬ NGƯƠN đại sư,
con nhà họ Mâu, quê ở Bình Giang, huyện Côn Sơn. Mẹ là Sài thị nằm mơ thấy một
đức Phật vào nhà, hôm sau sanh ra ngài, nhân đặt tên là Phật Lai. Lớn
lên, ngài đến chùa Diên Tường xuất gia, tu tập về môn Chỉ Quán. Một hôm, trong
định nghe tiếng quạ kêu, ngài bỗng nhiên đại ngộ.
Từ đó, đại sư quy tâm về
miền An Dưỡng, tự hiệu là Vạn Sự Hưu, trong cảnh thuận nghịch ghét thương, chưa
từng động niệm. Mến phong thái Bạch Liên Xã của Viễn công ở Lô Sơn, ngài khắp
khuyên người quy y Tam bảo, thọ trì Ngũ giới, niệm Phật năm câu để chứng minh
năm giới và kết tịnh duyên. Đó là ý của đại sư muốn cho mọi người tịnh Ngũ căn,
đắc Ngũ lực, thoát khỏi cảnh đời Ngũ trược về nơi Tịnh độ vậy. Ngài rút tuyển
những yếu ngôn trong đại tạng, biên soạn thành quyển Thần Triêu Sám Nghi, thay
thế chúng sanh trong pháp giới lễ Phật sám hối, cầu sanh Cực Lạc. Sau đại sư
đến ven hồ Điện Sơn, lập ra Bạch Liên Sám Đường, suất lãnh hàng tăng tục đồng
tu tịnh nghiệp. Trong khi ấy, lại soạn thuật quyển Viên Dung Tứ Đọ Tam Quán
Tuyển Phật Đồ, để khai thị phần nhãn mục của Liên tông. Ngài có làm bài kệ để
khuyên người phát tịnh nguyện như sau:
Muôn pháp từ tâm sanh
Muôn pháp từ tâm diệt.
Đức Phật Đại Sa môn
Xưa đã từng tuyên thuyết
Trì giới không Tín, Nguyện
Chẳng được sanh Tịnh độ
Duy được phước Nhơn, Thiên
Phước hết luân hồi khổ.
Xem kinh không mắt huệ
Chẳng rõ Phật thâm ý
Đời sau được thông minh
Tâm loạn khó thoát ly.
Sao bằng niệm Phật tốt
Khỏi danh lợi bôn ba
Đi ngồi hằng tịnh niệm
Chính là A Di Đà.
Nếu giữ giới tu phước
Hồi hướng lại càng tốt
Như thế sanh Tây phương
Ngàn người chẳng sót một
Thuyết giáo có Thích Ca
Nhiếp thọ, đức A Di
Chư Phật đều hộ niệm
Chư Thiên khéo hộ trì.
Niệm Phật được gần Phật
Công đức chẳng chi hơn
Sẽ ngồi nơi đạo tràng
Chuyển bánh xe pháp lớn!
Ví như gái nhà nghèo
Thai nghén vua Chuyển Luân
Chư Thiên thường mến hộ
Gái nghèo chẳng biết mừng.
Trong bụng có con quý
Ngự trị khắp quần lê
Nay người niệm Phật đây
Ý cũng đồng như thế!
Nhớ Phật, thường niệm Phật
Không lâu sẽ thành Phật
Phật hộ niệm giữ gìn
Phải nên tự biết mình.
Đừng mơ ước đời sau
Được sang giàu tốt số
Bởi niệm Phật phước to
Sẽ sanh về Tịnh độ!
Ví như nhà kẻ nghèo
Dưới đất có kho báu
Tạng thần hằng giữ gìn
Chẳng cho mất trân bảo.
Người nghèo không tự biết
Nhà mình có báu châu
Đi khắp nơi làm mướn
Lo cơm áo khổ cầu!
Niệm Phật cũng như thế
Đầy đủ tạng Như Lai
Mà mong cầu việc nhỏ
Đó là ý niệm sai.
Lại như nhà người bịnh
Có trữ sẵn thuốc tiên
Bịnh nhơn không biết thuốc
Làm sao được lành yên?
Ngày đêm nằm trở trăn
Đau nhức hằng khóc kể
Niệm Phật nguyện sai lầm
Ý cũng đồng như thế!
Phải biết tâm niệm Phật
Hay diệt tham sân si
Hay làm kho báu lớn
Hay làm đại lương y.
Hay thành Pháp vương tử
Hay thành đấng Như Lai
Che chở và tế độ
Cứu khổ khắp muôn loài.
Đừng nghĩ mình phàm phu
Không được sanh Tịnh độ
Chỉ giữ giới trì trai
Sau làm người đắc ngộ.
Lần lượt gắng tiến tu
Mới được sanh về Tây
Thấy nhiều kẻ tu hành
Thường nói như thế ấy.
Chẳng hợp thệ nguyện Phật
Không hợp ý trong kinh
Tà kiến che mê tâm
Luân hồi tự khổ mình!
Đời nầy không vãng sanh
Một lầm, trăm ngàn lầm
Nên người niệm Phật phải
Tin Di Đà nguyện tâm!
Lời Phật hằng chân thật
Không một điểm dối hư
Phải tinh tấn phát nguyện
Đừng tưởng nghĩ tà tư.
Niệm Phật, cầu vãng sanh
Như gió giúp sức lửa
Chẳng khó nhọc nên công
Chư Phật đều ấn hứa.
Gặp báu lại chịu nghèo
Gặp cơm cam đói khổ
Quê thay kẻ mê lầm!
Làm sao được tế độ?
Nay viết kệ phụng khuyến
Xin lần lượt truyền thay
Vì mọi người lưu thông
Làm Sứ giả Như Lai.
Đó mới là con Phật
Mới thật báo ân Phật
Đồng tu tín nguyện hạnh
Về Cực Lạc trường xuân!
Năm Càn Đạo thứ hai, đại
sư phụng chiếu tới điện Diên Thọ giảng thuyết về pháp môn Tịnh độ, được vua tứ
hiệu là Từ Chiếu Tông Chủ. Đến ngày 23 tháng ba, ngài bảo các môn đồ rằng: “Hóa
duyên đã mãn, ta sắp về Tây!” Rồi chắp tay từ biệt đại chúng, lặng lẽ mà thị
tịch. Tới ngày 27, sau khi làm lễ trà tỳ, được Xá lợi vô số. Đại sư có tập Di
Đà Tiết Yếu lưu hành nơi đời.
LỜI BÌNH:
Tử Ngươn đại sư là bậc cổ Phật nương bi nguyện tái lai để độ
sanh, thị hiện xuất gia tham thiền được đại triệt đại ngộ.
Nhưng một đời ngài chỉ
thuyết hóa bình thường giản dị, khuyên người giữ giới niệm Phật cầu sanh Tây
phương. Như thế đủ chứng tỏ lời cổ đức dạy:
“Pháp môn Tịnh độ cao siêu mầu nhiệm, duy Phật với Phật mới rõ
biết cùng tận. Pháp môn nầy khế hợp với bản hoài độ khắp chúng sanh của chư
Phật”.
Comments
Post a Comment