CHÁNH VĂN
41.-Ẩn tu chợt nhớ Hổ Khê xưa !
Suối bạc non xanh đệ nhứt
thừa
Một giống Bạch Liên truyền
đất Việt
Hương sen còn đậm hạt thu
mưa !
42.-Ẩn tu riêng mến đạo Đông Lâm
Biển Phật thuyền Sen thật
chẳng lầm
Liên lậu trước chùa ghi
nhựt khoá
Đến nay còn dậy khúc Thanh
âm.
43.-Ẩn tu trần niệm chẳng còn dư
Kinh điển dường quên, tám
vạn tư
Chẳng biết Lư Sơn mày mặt
thật
Chỉ nhân mình ở tại non Lư.
44.-Ẩn tu nghĩ chuộng sắc thanh-duyên
Thanh sắc đâu bằng cõi Bảo
Liên
Sắc rực ánh vàng thanh suối
ngọc
Tô Đà hương phạn lại tham
thiền.
-Ẩn tu
nghĩ kẻ sắc thanh tranh
Thanh sắc đâu bằng cõi Thái
Thành
Sắc đẹp ba hai thanh phạm
tám
Ăn xong thiền duyệt lại
kinh hành.
45.-Ẩn tu khuyên khách mến giang hồ !
Nên học Liên phương niệm
Phật đồ
Về cõi Bảo Hoa đi dạo khắp
Muôn trời tịnh diệu nét
Xuân tô !
GIẢNG GIẢI
BÀI SỐ 41
Ẩn tu chợt nhớ Hổ Khê xưa !
Suối bạc non xanh đệ nhứt
thừa
Một giống Bạch Liên truyền
đất Việt
Hương sen còn đậm hạt thu
mưa !
NHƯ Ý : HỔ KHÊ là con suối bên Chùa Đông Lâm của
HUỆ VIỄN đại sư cùng Tịnh Chúng ở, bởi suối ấy thường có CỌP đến
uống nước và kêu RỐNG nên gọi Hổ Khê .
(
Đại sư ở Lô Sơn hơn ba mươi năm, chân
không bước ra khỏi núi. Ngài khước từ mọi sự liên lạc không cần thiết với đời,
nguyện giải quyết vấn đề sanh tử ngay trong kiếp hiện tại. Khi có khách đến
viếng, lúc ra về Đại sư chỉ tiễn chân tới cầu suối HỔ KHÊ trước chùa rồi trở vào.
Có một lần, hai danh nhân là nho sĩ
Đào Uyên Minh và đạo gia Lục Tu Tĩnh tìm đến yết kiến. Vì cơ luận khế hợp, khi
đưa khách ra về, bất giác Đại sư bước ra khỏi cầu suối hồi nào không hay. Vừa
lúc ấy, ánh tịch dương chợt rọi đến, in bóng người bên vách núi. Cả ba như bừng
tỉnh, đứng lại nhìn nhau cả cười, rồi chia tay tạm biệt. Người sau dựng Tam
Tiếu Đình tại nơi đây để lưu niệm. Trong Tây Phương bách vịnh, Nhất Nguyên đại
sư có biên ký điều trên như sau:
Tây Phương cổ giáo Thế Tôn Tiên
Đông độ khai tông hiệu Bạch Liên
Thập bát đại hiền vi thượng thủ
Hổ Khê tam tiếu chí kim truyền.
Tạm dịch:
Tây phương Phật dạy trước tiên
Truyền sang Đông độ Bạch Liên mở đàng
Mười Tám hiền, học hạnh toàn
Hổ Khê dường hãy còn vang tiếng cười.
)
Ẩn tu chợt nhớ HỔ KHÊ xưa !
Tất cả cảnh đều là PHẬT
cảnh, TÂM cảnh hay đệ nhất THỪA, đệ nhất nghĩa ĐẾ, tức
là CHƠN NHƯ thật thể. Cho nên, TÔ ĐÔNG PHA có câu : “Khê thanh tức thị quảng trường thiệt, sơn sắc vô phi thanh tịnh thân”. Tạm dịch, Suối Reo tức tiếng Quảng trường thiệt (Tướng Lưỡi rộng dài của
Phật), non biếc nguyên là Tịnh Pháp Thân.(
Pháp Thân thanh tịnh của Như Lai)
Suối bạc non xanh đệ nhứt THỪA
Chữ THU trên đây chỉ cho
Thời Mạt Pháp, bởi nhà Phật có câu: “Phật Pháp như THU hào chi mạc”. Tạm dịch, Pháp Phật SUY DUY giống như chót lông
Chim mùa Thu. Khi xưa Sơ Tổ VIỄN CÔNG lập nên Bạch Liên Xã, rồi lần truyền sang
Việt-Nam đó là Tịnh độ Tông, mà có lúc đã rất thịnh hành nơi chùa
LIÊN PHÁI ở Bắc-việt, đến nay đã đi sâu vào Thời Mạt Pháp mà Hương Sen tức TÔNG
CHỈ NIỆM PHẬT hãy còn lẫn thơm ĐẬM ĐÀ trong HẠT MƯA THU.
Một giống Bạch Liên truyền đất Việt
Hương sen còn đậm hạt thu mưa !
Tiết 3 Sự Chuyển Hướng Từ Thiền Sang Tịnh
Từ xưa, môn Thiền Trực
Chỉ rất thạnh hành ở Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản. Nước Việt Nam ta dân
tánh giàu về trực giác, lại được ảnh hưởng bởi Phật Giáo Trung Quốc, nên khi
xưa Thiền Tông hầu như ở ngôi vị độc tôn. Nhất là vào đời Lý, Trần, tăng ni có cả
nửa thiên hạ và hầu hết đều tu Thiền. Thời ấy Phật Giáo ở Việt Nam cực thạnh,
nhiều cảnh già lam tăng chúng vân tập rất đông. Bởi thế nên mới có lời truyền
ngữ:
“Tăng phòng tam thiên
ốc, sái tảo thất thập phu”.
Câu này nói lên sự hưng
thạnh của Phật Giáo bấy giờ qua ý nghĩa:
“Phòng chư tăng nhiều
tới ba ngàn gian, mỗi buổi sáng phải dùng đến bảy mươi người mới quét dọn kịp”.
Nhưng cơ duyên cũng theo
thời mà chuyển biến. Ở Trung Hoa từ đời Tống về sau, chư tôn túc như các ngài:
Nhất Nguyên, Thiên Như, Ngẫu Ích, Triệt Ngộ, Liên Trì... sau khi tham ngộ Thiền
Tông, quán xét thời cơ, vì lòng thương xót lợi sanh, hết sức hoằng dương pháp
môn Tịnh Độ. Sự lần lần chuyển hướng từ Thiền sang Tịnh khởi sanh từ lúc đó.
Khi ấy có rất nhiều vị
thiền đức khác tuy bề ngoài truyền bá tông Thiền, nhưng bên trong lại mật tu
Tịnh Độ, để bảo đảm không thối đọa. Đây có thể gọi là thời kỳ Thiền Tịnh song
hành. Cho nên trong một ngôi chùa trước kia chỉ có Thiền Đường, bây giờ lại thêm
Niệm Phật Đường để cung ứng cho chư tăng tu tập. Bắt đầu từ đời Ngụy, Minh,
Thanh về sau, thế lực của Thiền Tông lần suy kém, bởi ít người tu chứng. Trái
lại, môn Niệm Phật lại lần chiếm ưu thế, tăng tục nhiều kẻ tu Tịnh Độ được vãng
sanh. Bây giờ tuy Thiền Tông vẫn lưu hành, nhưng trên thật tế chính là thời kỳ
Tịnh Độ đã nắm quyền hướng dẫn.
Bởi ảnh hưởng đó mà ở
Việt Nam, môn Niệm Phật hầu như phổ cập. Sau này do ảnh hưởng của sự chấn hưng
Phật Giáo trong nước và sự hoằng hóa của chư Tăng Ni du học từ Nhật Bản và các
xứ Nam Tông Phật Giáo trở về, Thiền Tông Việt Nam có lẽ sẽ tái phục. Nhưng sự
thật phần đông hành giả duy hợp tu về Giáo như Chỉ Quán Thiền,
hoặc Tứ Thiền Bát Định, chớ khó nỗi tham cứu thoại đầu thật hành môn Thiền Trực Chỉ của bên Tông như
thuở xưa.
Có kẻ bảo: Căn tánh của
ta vị tất chẳng bằng cổ nhơn, chỉ tại ta tự khinh nên không cố gắng. - Sự tự
lực cố gắng tuy lúc nào cũng đáng khuyến khích, nhưng lời này thật ra không
đúng. Nếu căn tánh phần đông chẳng kém, tại sao Phật nói có ba thời kỳ: Chánh Pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp? Và tại sao trong các kinh khác cũng nói đến năm
thời kiên cố, từ Chánh Pháp Kiên Cố cho đến Đấu Tranh Kiên Cố? Vả lại, tam tạng
kinh điển thời nay tăng thêm nhiều và đầy đủ hơn xưa, tại sao người tu chứng
tuyệt ít? Có phải do thời nay căn cơ của quần chúng phần đông đều yếu kém
chăng?
Ấn Quang đại sư bảo:
“Như mùa Hạ mặc áo vải, mùa Ðông mặc áo bông; sự tu hành cũng thế, không thể
trái thời tiết cơ duyên được.
Dù đức Đạt Ma tổ
sư tái hiện ngay lúc này, nếu muốn hợp thời cơ để cứu độ chúng sanh mau được
giải thoát, cũng không có pháp nào hơn môn Niệm Phật”.
Thế nên nếu thuyết pháp
không hợp cơ, tất chúng sanh bị chìm trong biển khổ (Thuyết pháp bất đậu cơ, chúng sanh một khổ hải). Kính khuyên các bậc đồng nhơn, tuy tu môn khác, cũng
nên lấy Tịnh Độ làm chỗ chỉ quy. Còn như nếu thấy mai trắng chẳng kém cúc
vàng, bút giả cũng xin hết
lòng tùy hỷ!
Niệm Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm
Một câu A Di Ðà
Hợp thời tiết nhân duyên
Hương lạ hằng thoang thoảng
Liên xã lập nhiều miền.
Nhứt cú Di Ðà
Nhân duyên thời tiết
Dị hương thường văn
Liên xã sang kiết.
LƯỢC
GIẢI
Pháp môn Tịnh Ðộ sở dĩ càng lúc càng được thạnh hành, bởi có nhiều lý do:
Về phần NHÂN DUYÊN:
Ðiều thứ nhứt, đức A Di Ðà có pháp duyên rất lớn với chúng sanh ở Ta Bà,
bằng chứng là các chùa đều có thời khóa Tịnh Ðộ, và hàng Phật tử khi gặp nhau
thường chào với câu "A Di Ðà Phật".
Ðiều thứ hai, đức Di Ðà Thế Tôn có bốn mươi tám bi nguyện độ sanh rộng
lớn, rất thích ứng với cảnh ngộ cần cứu cấp nơi cõi ngũ trược này.
Về phần THỜI TIẾT, như lời Phật đã huyền ký. Bắt đầu từ thời mạt pháp trở về
sau, muốn chắc chắn được giải thoát, chỉ có pháp môn Niệm Phật.
Bởi những nguyên nhân ấy, nên chư THIỆN TRI THỨC xưa nay đã sáng lập ra LIÊN XÃ
khắp nơi để hướng dẫn người tu hành. Và các hành giả niệm Phật cũng cảm được
nhiều điềm thoại ứng như: THẤY SEN LÀNH, NGHE HƯƠNG LẠ.
Hòa-Thượng Thích-Thiền-Tâm
...
Trời xanh tươi biếc một
mầu
Ánh trăng vẫn sáng một
mầu xưa nay
Mà sao đời đạo đổi thay
Cỏ hoa đượm nét u-hoài
thờ-ơ
“Thuyết pháp bất đậu cơ
Chúng sanh một khổ hải ”
Ðời mạt suy thế đạo lại
thêm thương
Sóng dồn bọt biển tà
dương
Con thuyền cứu độ khuất
đường vân yên
Bụi hồng tung gió đảo
điên
Vô tình mai nở diệu hiền
cành xuân.
Nam-mô Thánh Trí Hải Biến
Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.
HUỆ VIỄN ĐẠI SƯ
(Liên Tông Sơ Tổ)
Huệ Viễn đại sư họ Cổ,
nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch
Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Đế nhà Tấn. Cả song
thân đều khuyết danh.
Thuở ấy, còn gọi là thời
Ngũ Hồ, mặc dù có nhiễu nhương, nhưng các tư tưởng học thuyết Thánh Hiền lan
rộng đã lâu, nên từ bé ngài đã thấm nhuần nề nếp thuần phong đạo đức.
Niên hiệu Hàm Hoa thứ 9,
ngài lên mười ba tuổi, được song thân cho du học ở miền Hứa Lạc. Không bao lâu,
từ Nho giáo đến các học thuyết Lão, Trang cùng Bách gia chư tử, ngài đều đã
thông biện đến mức siêu quần.
Trong niên hiệu Cảnh
Bình, vừa 21 tuổi, cảm thấy các học thuyết sở đắc của mình không thể giải quyết
được vấn đề sống chết luân hồi, mà trong tâm hằng thao thức, ngài cùng ẩn sĩ
Phạm Tuyên Tử định du phương tìm đạo nhưng lúc ấy vì có loạn Thạnh Hồ đường
giao thông bị trở ngại nên ý nguyện không thành.
Thời gian sau, có Đạo An
pháp sư, trú tại chùa Nghiệp Trung ở núi Thái Hằng thuộc dãy Hằng Sơn, vân tập
tăng chúng giảng dạy kinh điển, các hàng đạo tục, vua quan, sĩ thứ đều cảm hoá
hướng về. Ngài nghe danh mến đức; tìm đến xin quy y, nương theo tu học.
Sau khi nghe Pháp sư
giảng xong Kinh Bát Nhã, ngài suốt thông tỏ ngộ than rằng: “Phật Pháp quả thật
cao diệu bao la, xét lại học thuyết của Khổng, Mạnh, Lão, Trang, khác nào như
tro tàn cặn bã!”. Từ đó, ngài chuyên tâm hôm sớm tụng đọc, suy nghĩ, tu tập.
Đạo An thấy biết khen ngợi: “Về sau Phật Pháp lưu thông ở Đông Độ, âu là do Huệ
Viễn này chăng? ”
Niên hiệu Thái Nguyên
thứ 6, Đại Sư du hóa đến Tầm Dương, thuộc Tỉnh Giang Tây, xa trông cảnh Lô Sơn
rộng rãi thanh tú, phải nơi hành đạo, mới đến lập tịnh xá nương ở, thấy chỗ đó
thiếu nước, vả lại bấy giờ, tại bản xứ gặp cơn nắng hạn, các dòng suối đều cạn
khô, Ngài phát tâm từ bi đến khe núi, tụng kinh Hải Long Vương: Cầm tích trượng
dộng xuống đất khấn nguyện, bỗng có con bạch long từ dưới đất bay vọt lên hư
không. Giây phút mưa to xối xả, mực nước các nơi đều trở lại bình thường, tại
đó xuất hiện dòng suối mát mẻ trong xanh, quanh co tuôn chảy.
Vì hiện tượng này, Ngài
lấy hiệu tịnh xá là Long Tuyền lúc ấy Pháp sư Huệ Vĩnh, một bạn đồng môn, trước
đã trụ chùa Tây Lâm bên phía tây Lô Sơn, muốn mời ngài cùng ở. Nhưng pháp duyên
của Huệ Viễn Đại Sư thạnh, học giả nương về ngài càng ngày càng đông, cảnh Tây
Lâm đất hẹp không thể lập đạo tràng dung chúng.
Quan Thái Sử Hoàn Y thấy
thế, phát tâm cất chùa cho ngài bên phía đông Lô Sơn. Do uy đức của Đại sư, khi
sắp khởi công kiến tạo, vào một đêm nọ bỗng có cơn mưa giông to lớn, sấm sét vang
trời. Sáng ra, đại chúng thấy vật liệu xây cất, như các thứ to quý và các đá
chất thành đống. Bởi nhờ sức thần linh vật chuyển giúp công như thế, nên ngôi
chùa ấy có tên Đông Lâm Thần Vận Tự.
Khi ngôi lan nhã hoàn
thành, đại sư đốc xuất chúng ngày đêm tinh tấn hành đạo. Trước thời gian ấy,
tại Quảng châu có các ngư dân vào buổi hoàng hôn, thấy ánh sáng xuất hiện trên
mặt biển, họ cùng đến tìm xem, và vớt được một tôn tượng Văn Thù Bồ Tát rất
đẹp, liền đem trình với quan thái thú sở tại là Đào Khản. Tượng này được tôn
trí tại chùa Hàn Khê. Sau đó, vị trụ trì nhân có việc đến Hạ Khẩu ban đêm mộng
thấy ngôi bản tự bị hỏa hoạn, chỗ thờ đức Văn Thù có nhiều lòng thần ủng hộ vây
quanh. Ông vội vã trở về, qủa thật ngôi chùa đã bị lửa thiêu tàn trụi, chỉ có pho
tượng là còn nguyên.
Về sau, Đào Công sắp đi
chấn nhậm nơi khác, nhân thấy tôn tượng rất linh thiêng muốn đem theo, nhưng
dùng đủ mọi cách mà vẫn không di chuyển được. Nghe danh đức của Ngài Huệ Viễn,
ông đến viếng thăm, nhân tiện thuật lại mọi việc, và nhờ đại sư chú nguyện để
cung thỉnh về thờ tại chùa Đông Lâm. Lần này, khác hơn trước, Long Thiên đều
ủng hộ, một cơn gió nhẹ thổi đến, làm cho tôn tượng bỗng dưng lay động, cuộc di
chuyển rất thuận tiện dễ dàng. Tượng được tôn chí một nơi trang nghiêm riêng
biệt tại Đông Lâm, gọi là Văn Thù Các.
Trước chùa, để cảnh trí
thêm phần trang nhã và muốn phân định thời khắc, đại sư cho đào ao trồng hoa
sen trắng, trên mặt nước thả mười hai cánh sen gỗ, dẫn nước suối ra vào. Cứ mỗi
giờ nước chảy đầy qua cách sen gỗ. Đại chúng y theo đó định thời khóa tu hành,
gọi là Liên Lậu.
Lần lượt các vị cao
tăng, những hàng danh sĩ, mến đạo phong của Huệ Viễn đại sư, đến xin dự chúng
tu tập, mỗi ngày thêm nhiều trong đây có những vị lỗi lạc tài hoa, như nhóm ông
Tạ Linh Vận, trước kia thường nhìn thiên hạ bằng đôi mắt trắng. Nhưng khi gặp
đại sư, bỗng liền đổi thành thái độ khiêm cung trước đạo phong an điềm giải
thoát, và lời luận biện cao nhã thông suốt của Ngài.
Khu vực Lô Sơn có rất
nhiều rắn độc, từ trước đã làm nguy hại đến tánh mạng dân cư ở vùng ấy. Nhưng
từ khi có chùa Đông Lâm, các loài rắn dữ đều trở nên hiền lành, ngày lẫn đêm
thường vây quanh Đại Sư để nghe giảng kinh. Bởi trường hợp này, Đại Sư được
người đương thời tôn hiệu là “Bích Xà Thánh Giả”.
Thỉnh thoảng lại có
những danh tài bá lâm, tìm đến vấn nạn ngài. Trong ấy đại để như pháp sư Huệ
Nghĩa, cho đến quan thái úy Hoàn Huyền. Nhưng khi tiếp kiến, gương mặt rộng rãi
uy nghiêm, phong thái trầm tĩnh tự tại của Đại Sư, các vị ấy bỗng nhiên mất tự
chủ xuất hạn đầm đìa, rồi rút lui không giám tranh biện. Ra ngoài họ đều kinh
ngạc than thở:
“Huệ Viễn Đại Sư có uy
lực, nhiếp chúng rất lạ lùng thật đáng nể phục!”.
Niên hiệu Long An thứ 3,
và đầu năm Nguyên Hưng đời Đông Tấn, quan phụ chính Hoàn Huyền lần lượt gởi cho
ngài hai văn kiện bãi đạo và thanh lọc hàng ngũ xuất gia. Nội dung của văn kiện
gồm nhiều lý lẽ đề cập đến việc không lợi ích cho quốc gia và sự hoang đường
thiếu thiết thật của Phật Giáo. Thời gian ấy, tăng chúng trong toàn quốc bị đạo
luật này chi phối, nhiều vị phải hoàn tục. Đại Sư đều tuần tự phúc đáp bằng lời
lẽ vững mạnh thích đáng, khiến cho đạo luật đó không được ứng dụng được tại
tỉnh Giang Tây.
Trong niên hiệu Nghĩa
Hy, An Đế từ Giang Lâm xa giá đến Giang Tây, chấn nam tướng quân Hà Vô Kỵ yêu
cầu ngài đích thân tiếp Vua. Đại sư lấy cớ đau yếu từ khước không bái kiến. Đến
năm Nguyên Hưng thứ hai, Hoàn Huyền lai gởi văn thơ cho ngài, với nhiều lý luận
bắt buộc hàng sa môn phải lễ bái quốc vương. Đại sư soạn văn thư phúc đáp, và
quyển Sa Môn Bất Kính Vương Giả Luận gồm năm thiên để hồi âm. Triều đình đều nể
trọng và phải chấp nhận quan điểm của ngài.
Đạo đức, sự linh cảm, và
công hộ trì Phật pháp của Đại sư còn rất nhiều, nơi đây chỉ thuật lại phần khái
quát. Những điểm này trong vô hình đã khiến cho tỉnh Giang Tây biến thành trung
tâm Phật hóa tại miền Nam.
Ở Đông Lâm nhân khi rỗi
rảnh; Đại sư họp chúng lại bảo: “Chư vị đến đây niệm Phật, phải chăng đều cùng
quyết chí gieo nhân lành cầu về Tịnh độ ư?”. Nhân cơ duyên đó, ngài cùng đại
chúng cho mời thợ khéo chiếu y theo kinh điển, tạo tượng Tây Phương Tam Thánh.
Ba tôn tượng A Di Đà, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí khi tạo thành rất cao lớn tươi
đẹp, có đủ nét tướng uy đức trang nghiêm. Tượng Tam Thánh ấy được phụng cúng ở
Bát Nhã Đài ở Đông Lâm.
Vào tiết Mạnh Thu năm
Mậu Thìn, nhằm ngày lạc thành tôn tượng, Đại sư cùng tất cả chúng kết lập Bạch
Liên Xã, nguyện đồng sanh về cõi Liên bang. Khi ấy, ông Lưu Di Dân làm bài văn
phát nguyện khắc vào bia đá. Các danh sĩ như nhóm ông Vương Kiều Chi lại viết
thành tập thơ, lấy tên Niệm Phật Tam Muội để tỏ bày ý chí. Đại sư vì làm lời
tựa như sau:
“Tam muội là thế
nào?” Chính là nhớ chuyên,
tưởng lặng vậy. Nhớ chuyên, thì chí một tâm đồng. Tưởng lặng, thì khí thanh
thần sáng. Khí thanh thì trí soi ngộ đến lý nhiệm mầu. Thần sáng thì không chỗ
u vi nào chẳng thấu. Hai điểm này tự nhiên thầm hợp nương về, mà phát sinh ra
diệu dụng.
Lại các môn Tam muội,
danh mục rất nhiều, công cao dễ tu, Niệm Phật là thắng. Tại sao thế? Vì cùng
nơi huyền tịch, mới hiệu Như Lai, thể hợp với thần, mười phương ứng hiện. Thế
nên, khi vào tam muội, lặng lẽ vong tri, trí sáng chiếu cảnh duyên, gương lòng
bày muôn tượng. Chỗ mắt tai không đến được, mà vẫn thấy vẫn nghe. Nơi linh trí
lặng sáng thanh, nên hằng thông hằng suốt. Nếu chẳng phải bậc căn cơ linh mẫn,
thì làm sao được cảnh điệu huyền ư?
Hôm nay, cùng chư hiền
tu tập, đồng nương kết pháp duyên. Rửa lòng cửa Phật, những e còn kém duyên
sen. Chuyên ý sớm hôm, cảm nỗi tháng ngày chẳng lại. Chí nguyện ba thừa thông
suốt, bước đạo tiến cao. Lòng mong dìu dắt người sau, lối tranh tẩy sạch. Xin
xem thiên bài mà thấu ý, đừng theo văn vịnh để vui tâm.
Đại sư vì thấy miền Đông
Nam kinh tạng còn thiếu nhiều, nên sai đệ tử là Pháp Tịnh, Pháp Lĩnh cùng nhiều
vị khác vượt ngọn Thông Lãnh sang Tây Thiên, tìm thỉnh các thứ kinh Phạn bản.
Trải nhiều năm vượt suối băng ngàn, dãi nắng dầm sương, chịu đủ mọi nỗi khó
khăn trở ngại, đoàn thỉnh kinh từ Tây Vức mới trở về, mang lại nhiều kết quả
mong muốn.
Tuy nhiên, nguyên bản
còn là chữ Phạn. Huệ Viễn đại sư phải cho người đến Trường An thỉnh Tôn Giả
Phật Đà Bạt Đà La, họp cùng những vị khác đến Lô Sơn phiên dịch các kinh điển
ấy. Đại sư lại viết thư thỉnh cầu tôn giả Đàm Ma Lưu Chi, người Tây Trúc dịch thành
bộ Thập Tụng Luật. Thời ấy, những kinh luật lưu hành từ Lô Sơn, có gần đến trăm
thứ.
Tuy xiển dương Tịnh Độ,
Đại sư vẫn lưu tâm đến các pháp môn khác, viết nhiều bài tựa về kinh luận, và
hoàn thành mấy tác phẩm như sau:
1. Đại Trí Luận Yếu Lược (20 quyển).
2. Pháp Tánh Luận.
3. Sa Môn Bất Kính Vương Giả
Luận.
4. Đại Thừa Nghĩa Chương (3
quyển).
5. Thích Tam Bảo Luận.
6. Minh Báo Ứng Luận.
7. Sa Môn Đản Phục Luận.
8. Biện Tâm Thức Luận.
9. Phật Ảnh Tán.
10. Du Lô Sơn Thi.
11. Lô Sơn Lược Ký.
12. Du Sơn Ký.
Ngoài ra còn nhiều văn
thư biện luận về Phật pháp giữa Đại sư với Ngài Cưu Ma La Thập, cùng các ông
Lưu Di Dân, Đới An và những hàng tấn thân, đều được người đương thời truyền
tụng. Trong bộ Pháp Tánh Luận, Đại sư phát minh lý Niết Bàn Thường Trú. Khi bộ
luận này truyền đến Quan Trung, Pháp Sư Cưu Ma La Thập xem được, khen rằng: ”
Lành thay! Huệ Viễn Đại Sư cư ngụ vùng biên phương, chưa đọc kinh Đại Niết Bàn, mà lời luận lại thầm hợp với chân lý. Ấy chẳng
phải là điều kỳ diệu hay sao?”
Bạch Liên Xã do Đại sư
thành lập, quy tụ hơn ba ngàn người, trong đây có 123 vị được tôn là HIỀN.
Trong 123 vị Hiền này, lại có 18 bậc thượng thủ gọi là Đông Lâm Thập Bát Đại
Hiền, gồm các ngài như sau:
1) Huệ Viễn Đại Sư.
2) Huệ Vĩnh Pháp Sư.
3) Huệ Trì Pháp Sư.
4) Đạo Sanh Pháp Sư.
5) Phật Đà Gia Xá Tôn
Giả.
6) Phật Đà Bạt Đà La Tôn
Giả.
7) Huệ Duệ Pháp Sư.
8) Đàm Thuận Pháp Sư.
9) Đạo Kính Pháp Sư.
10) Đàm Hằng Pháp Sư
11) Đạo Bính Pháp Sư.
12) Đàm Tiên Pháp Sư.
13) Danh sĩ Lưu Di Đân.
14) Danh sĩ Lôi Thứ Tôn.
15) Danh sĩ Tôn Bính.
16) Danh sĩ Vương Dã.
17) Danh sĩ Vương Thuyên.
18) Danh sĩ Châu Tục Chi.
Đại sư ở Lô Sơn hơn ba
mươi năm, chân không bước ra khỏi núi. Ngài khước từ mọi sự liên lạc không cần
thiết với đời, nguyện giải quyết vấn đề sanh tử ngay trong kiếp hiện tại. Khi
có khách đến viếng, lúc ra về Đại sư chỉ tiễn chân tới cầu suối Hổ Khê trước chùa rồi trở
vào.
Có một lần, hai danh
nhân là nho sĩ Đào Uyên Minh và đạo gia Lục Tu Tĩnh tìm đến yết kiến. Vì cơ
luận khế hợp, khi đưa khách ra về, bất giác Đại sư bước ra khỏi cầu suối hồi
nào không hay. Vừa lúc ấy, ánh tịch dương chợt rọi đến, in bóng người bên vách
núi. Cả ba như bừng tỉnh, đứng lại nhìn nhau cả cười, rồi chia tay tạm biệt.
Người sau dựng Tam Tiếu Đình tại nơi đây để lưu niệm. Trong Tây Phương bách
vịnh, Nhất Nguyên đại sư có biên ký điều trên như sau:
Tây Phương cổ giáo Thế
Tôn Tiên
Đông độ khai tông hiệu Bạch Liên
Thập bát đại hiền vi thượng thủ
Hổ Khê tam tiếu chí kim truyền.
Tạm dịch:
Tây phương Phật dạy
trước tiên
Truyền sang Đông độ Bạch Liên mở đàng
Mười Tám hiền, học hạnh toàn
Hổ Khê dường hãy còn vang tiếng cười.
Ở Đông Lâm,
hôm sớm Đại sư hằng lặng lòng quán tưởng, chuyên chí về Tịnh độ, đã ba phen
thấy thánh tướng mà trầm hậu không nói ra.
Năm Nghĩa Hy thứ mười
hai, đêm ba mươi tháng bảy, ngài ngồi tịnh nơi Bát Nhã đài. Lúc vừa mở mắt xuất
định, bỗng thấy Phật A Di Đà thân sắc vàng đầy khắp hư không. Trong ánh viên
quang hiện vô số hóa Phật, mỗi vị đều có Quán Âm, Thế Chí hầu hai bên tả hữu.
Lại thấy nước chảy chia thành mười bốn ngọn quanh lộn lên xuống, phóng ra những
tia sáng đẹp, diễn nói các pháp: Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã.
Đức Phật bảo ngài: Ta
dùng sức bản nguyện đến đây an ủi ngươi. Sau bảy ngày, ngươi sẽ được sanh về
Cực Lạc”. Đại sư lại thấy bạn đồng tu ở Liên Xã đã viên tịch trước, như các
ông: Phật Đà Da Xá, Huệ Trì, Huệ Vĩnh, Lưu Di Dân…đều đứng phía sau Phật. Các
vị ấy bước đến trước, chấp tay chào và nói: “Ngài phát tâm sớm hơn chúng tôi
nay sao lại về muộn như thế?“.
Hôm sau, Đại sư cảm bịnh
nhẹ, gọi đệ tử là Pháp Tịnh, Huệ Bảo đến thuật lại, và nói: “Ta ở Lô Sơn này,
trong mười một năm đầu, đã ba lần thấy thánh tướng cùng các kỳ tích. Nay lại có
điềm như thế, tất duyên sanh Tịnh Độ đã đến thời kỳ!”. Rồi dặn bảo các việc
sau, soạn quy chế để răn nhắc đại chúng cùng nhau sách tiến tu tập.
Trong thời gian Đại sư
lâm bịnh, chư Tăng khuyên ngài phương tiện dùng thuốc rượu để điều trị.
Đại sư khước từ bảo: Thân người như huyễn, nguyện giữ giới luật hoàn toàn thanh
tịnh. Các Đại đức lại thỉnh ngài dùng nước cơm, Đại sư bảo hãy dở luật tìm xem
có đề cập đến điều này hay không? Các luật sư tra cứu chưa xong, ngài đã viên
tịch. Lúc ấy nhằm ngày mùng 6 tháng 8 năm Bính Thìn, niên hiệu Nghĩa Hy thứ
mười hai. Đại Sư thọ 83 tuổi.
Quan Thái Thú Tầm Dương
là Nguyễn Bảo cùng đại chúng làm lễ an táng và xây tháp ngài tại phía Tây Lô
Sơn. Vua An Đế nhà tấn hay tin rất thương tiếc, sắc phong cho đại sư thụy
hiệu “Lô Sơn Tôn Giả, Hồng Lô
Đại Khanh, Bạch Liên Xã Chủ”. Các Vua đời sau đều có
phong tặng để cảm niệm công đức hộ pháp an dân của ngài.
BÀI SỐ 42
Ẩn tu riêng mến đạo Đông
Lâm
Biển Phật
thuyền Sen thật chẳng lầm
Liên lậu trước chùa ghi
nhựt khoá
Đến nay còn dậy khúc Thanh
âm.
NHƯ Ý : Đạo ĐÔNG LÂM tức là Đạo PHÁP TỊNH ĐỘ truyền từ
CHÙA ĐÔNG LÂM, quả thật là Chiếc Thuyền-Từ trong biển Phật
Pháp . Sở dĩ như thế vì chư Tổ đã Tóm-tắt công năng thiết yếu của môn này vào
hay Liên đối như sau:
( CHÙA ĐÔNG LÂM núi Lô
sơn là Tổ đình của Tịnh Độ Tông do ngài Huệ Viễn Tổ sư khai sơn.)
Độ khắp đủ căn, dùng sức
ít , thành công cao diệu, mau tiêu nghiệp hoặc chỉ một đời được giải thoát luân
hồi.
và
Bỏ đường tắt Tây phương,
chín giới chúng sanh khó mong được tròn nên quả giác, rời cửa mầu Tịnh độ
mười phương chư Phật không thể độ khắp quần mê.
Trong các KINH TỊNH ĐỘ,
đức thế TÔN đã khen môn này rất nhiều rất mầu, 6 Phương Chư Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài tán dương, nhưng cũng là Pháp khó nói, Khó tin, khó nhận.
Phật lại bảo Di Lặc Bồ
Tát: Giả sử Trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đầy lửa hừng cháy,
mà vì cầu pháp này phải trải qua vùng lửa đó cũng nên cầu, bởi có vô số
BỒ TÁT vì muốn NGHE pháp này mà không được nghe, lại có vô số Bồ-tát Tiếc rằng,
mình đã trải qua Vô Lượng Kiếp Tu Hành xong chưa thành VÔ THƯỢNG quả. Nếu được
biết pháp này sớm thì đã VIÊN MÃN Phước Huệ từ lâu rồi.
LIÊN LẬU là đồng hồ SEN,
tịnh chúng Bạch Liên dẫn nước từ HỔ KHÊ cho chảy vào AO SEN trước chùa, đồng
thời lại thêm một chỗ khác để tháo nước, nơi đó các Vị đặt một tấm gỗ
chặn, ghi ngược 12 thời từng
TÝ đến HỢI. Trước tiên nước dẫn
NGẬP mức nghi giờ TÝ, kế đến SỬU sau khi nước dâng lên đến giờ HỢI, rồi rút bật
lên cho Tháo nước hết, rồi đặt xuống chặn lại như cũ, đại chúng cứ theo thời
khắc đó mà NIỆM PHẬT TU HÀNH.
Trong Quán Kinh, chương
Hạ Phẩm Hạ Sanh có nói: “Hạng người phạm tội Ngũ nghịch, Thập ác, làm đủ
các việc không lành, khi sắp chết tướng Địa ngục hiện, được bậc Thiện tri
thức khuyên bảo niệm Phật, kẻ ấy vâng lời niệm chưa đầy mười câu, liền
thấy Hóa Phật đưa tay tiếp dẫn vãng sanh.”
Kinh Đại Tập
dạy: “Đời Mạt pháp ức ức người tu hành nhưng ít có kẻ ngộ đạo, chỉ
nương theo môn Niệm Phật mới được thoát luân hồi.” Thế thì biết pháp
niệm Phật là con đường đồng tu của thượng Thánh hạ phàm. Với pháp này, kẻ ngu người trí đều có thể làm theo, cách hành
trì dễ mà thành công cao, dùng sức ít song hiệu quả mau lẹ.
Bởi môn Tịnh độ chuyên
nhờ Phật lực nên sự lợi ích rất lớn, vượt hơn tất cả giáo pháp thông thường.
Người xưa nói: “Tu các môn khác như con kiến bò lên núi cao, niệm
Phật vãng sanh như thuyền buồm xuôi theo gió nước.” Lời này có thể gọi là
sự so sánh rất xác đáng, rõ ràng.
Thơ gởi Nữ sĩ Từ Phước Hiền
Đến như muốn không tham
luyến cảnh ngoài, chuyên niệm Phật, được nhất tâm, cũng chẳng có pháp chi kỳ
lạ, chỉ đem một chữ chết dán nơi đầu, treo nơi lông mày, thường nghĩ rằng:
“Ta từ vô thỉ đến nay, gây nghiệp ác không lường, không ngằn, giả sử nghiệp ấy có hình tướng, mười phương hư không, chẳng thể dung chứa. Duyên đâu may mắn, nay được thân người lại nghe Phật pháp, nếu không một lòng niệm Phật cầu sanh Tây phương, khi hơi thở dứt rồi, do nghiệp ác cũ chắc khó khỏi sa đọa vào Địa ngục. Chừng ấy phải chịu những sự khổ cùng cực, như vạc dầu lò lửa, rừng kiếm non đao, không biết trải bao nhiêu kiếp mới xong. Khi ra khỏi Địa ngục, bởi nghiệp chưa dứt, lại đọa vào loài Ngạ quỷ, bụng rất to lớn, cổ họng nhỏ như cây kim, trong miệng thường tuôn ra lửa, nhiều kiếp đói khát, không nghe được tên nước uống, cùng không có lúc tạm no lòng. Hết kiếp Ngạ quỷ, lại đọa vào nẻo Súc sanh, hoặc để cho người dùng cỡi chở, hoặc bị bán vào lò thịt. Khi được làm người thì ngu si không trí, dễ bề tạo nghiệp, khó nỗi làm lành, chẳng mấy lúc lại bị đọa nữa. Nghiệp cũ trả chưa xong đã tạo nghiệp mới, cứ mãi luân hồi trong sáu đường trải qua kiếp số nhiều như bụi nhỏ, mênh mang biển khổ không biết đâu là bến bờ”.
Nếu thường xét nghĩ như
thế, sự tu hành sẽ được chuyên nhất. Thuở xưa Trương Thiện Hòa, Trương Chung
Quì lúc sắp chết, tướng Địa ngục hiện, niệm Phật vài tiếng, liền thấy Phật đến
tiếp dẫn vãng sanh. Sự lợi ích như thế, trọn một đời giáo hóa của Phật, trong
trăm ngàn muôn ức pháp môn, chỉ thấy ở môn Niệm Phật.
Tôi thường cho
rằng: “Chín cõi chúng sanh rời
pháp này, trên khó nỗi viên thành quả giác. Mười phương chư Phật bỏ pháp
môn này, dưới không thể độ khắp quần mê”.
Nếu cư sĩ lòng tin
thấu đáo, tha thiết vì sự sanh tử không móng một niệm nghi hoặc, thì tuy chưa
ra khỏi đời ác trược, đã chẳng phải là người ở lâu trong cõi Ta bà, tuy chưa
đến Liên bang, nhưng sẽ là khách mới của miền Cực lạc. Từ đây, khi thấy người
hiền phải gắng làm cho bằng, gặp việc nhơn đừng nên thua nhượng, đâu nỡ dần dà
trễ nải để lầm một lúc, lỡ muôn đời hay sao?
Người có huyết tánh,
chắc không chịu sống làm thây đi thịt chạy, chết đồng mục nát với cỏ cây. Vậy
cư sĩ phải nên cố gắng. Lại, niệm Phật tuy quí ở chuyên nhất, nhưng cư sĩ trên
còn cha mẹ, dưới có vợ con, đành rằng không nên quá vọng cầu sự giàu sang, song
bổn phận trong gia đình cũng lo sao cho tròn, không phải tu hành là bỏ tất cả.
Nếu bỏ tất cả mà cha mẹ vợ con không thiếu thốn thì được, bằng chẳng thế, đã
trái với đời lại trái với đạo, điều ấy cũng nên biết qua.
Phận làm con, phải đem
sự tu hành khuyên cha mẹ, nếu song thân biết niệm Phật, được sanh về Tây phương
thoát nẻo luân hồi, thì đạo hiếu ở đời không sao sánh kịp. Như có kẻ nào đem
pháp môn Tịnh độ khuyên nhiều người tu niệm thì công đức giáo hóa sẽ về phần
mình, sen vàng buổi tương lai chắc ở nơi Thượng phẩm.
Thơ Đáp Cho Cư Sĩ Đặng Bá Thành
Ấn Quang Pháp Sư
HT. Thiền-Tâm Dịch
Đức Phật thuyết kinh thì PHẢI có những người đương cơ, thay mặt cho
ĐẠI CHÚNG, hỏi PHẬT hoặc TRANH LUẬN VỚI PHẬT, như PHỔ QUẢNG BỒ-TÁT hỏi PHẬT
trong “Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát
Bổn Nguyện” chẳng hạn. Khi tất cả ĐẠI CHÚNG TIN CHỊU,
THÌ MỚI Y GIÁO PHỤNG HÀNH. TẤT CẢ KINH ĐỀU NHƯ VẬY CẢ.
Còn kinh “VÔ VẤN TỰ THUYẾT”, như KINH A DI ĐÀ thì sao? Ai là chúng ĐƯƠNG CƠ?
Chính là hằng hà sa số CHƯ PHẬT Ở SÁU PHƯƠNG LÀM CHÚNG ĐƯƠNG CƠ.
KINH VĂN:
Xá- Lợi- Phất! Như Ta
hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức
Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà
nói lời này:
“Đức Thích Ca Mâu Ni
Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm
món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền trược, não trược, chúng sanh trược,
mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này”.
Xá- Lợi- Phất! Phải biết
rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô
Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói
kinh pháp khó tin này, đó là rất khó!
(PHẬT THUYẾT KINH
A DI ĐÀ, CÒN KHÓ HƠN LÀ Ở CÕI TA BÀ NGŨ TRƯỢC TU CHỨNG VÔ
THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC).
Lại cũng trong Kinh Vô Lượng Thọ, để tỏ sự trân quý tuyệt vời của môn
Tịnh Độ, đức Thế Tôn đã
nói:
"Giả sử có cơn lửa
lớn cháy phừng đầy khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, vì cầu nghe kinh pháp
này phải vượt ngang qua nơi ấy, cũng nên vui vẻ tin ưa mà cầu, để được thọ trì đọc tụng, như lời dạy mà tu hành.
Tại sao thế?
Bởi vì có rất nhiều bậc
Bồ Tát muốn nghe kinh này mà không được nghe. Nếu có chúng sanh nào được nghe
và tín thọ kinh này, tất sẽ không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng."
Một câu A Di Ðà
Là một đóa bảo liên
Dù cho không tin tưởng
Cũng đã nhiễm thức điền.
Nhứt cú Di Ðà
Nhứt đóa bảo liên
Trực nhiêu bất tín
Dĩ nhiễm thức điền.
LƯỢC
GIẢI
Tiếp theo ý trên, dù cho những kẻ chưa hiểu biết, hoặc đã nghe giải thích và
chứng minh rõ ràng về công đức niệm Phật mà còn cố chấp không tin nhận thì câu
Phật hiệu cũng đã ghi vào ruộng Tàng thức của kẻ ấy rồi!
Khi hạt giống câu hồng danh đã nhiễm
vào Hàm Tàng thức, ngày kia trong một hoàn cảnh nào đó nó sẽ phát hiện. Và nhân
đó đương nhơn sẽ được độ thoát, bất quá phải chịu khổ luân chuyển trong thời
kiếp lâu xa mà thôi. Về điểm này, một bậc tôn đức đã bảo:
"Khen, chê cũng nhờ độ thoát.
Tin, nghi đều đến Liên bang"
(Tán, báng câu mông giải thoát.
Nghi, tín cộng nhập Liên bang).
Thuở Phật còn tại thế, có ông lão đúng trăm tuổi mới đến chư Tăng xin xuất gia.
Các hàng Trưởng Lão từ ngài Ca Diếp, Xá Lợi Phất, đến chư Ðại Ðức khác đều
không thâu nhận, vì các vị nhận định xét thấy ông không có căn lành. Khi đức
Thế Tôn đi khất thực trở về thấy ông lão khóc, Ngài quán biết liền chấp thuận
cho xuất gia.
Chư tỳ kheo hỏi duyên cớ, Phật
đáp: "Ðạo nhãn bậc A-la-hán của các
ông chỉ thấy biết sự việc trong vòng tám muôn bốn ngàn kiếp về trước và về sau
mà thôi. Nhưng trước khoảng thời gian đó
lâu xa, ông lão này là kẻ tiều phu đi đốn củi, bị cọp rượt, sợ hãi leo lên cây
phát thanh niệm một câu "Nam mô Phật". Do chủng tử nhân
lành đó, ngày nay ông mới gặp ta hóa độ và sẽ được giải thoát". Ông lão là
Phước Tăng tỳ kheo, Phật giao cho ngài Mục Kiền Liên thâu làm đệ tử, không
bao lâu chứng được quả A-la-hán.
Tóm lại, ảnh hưởng của câu Phật hiệu rất nhiệm mầu sâu rộng, chẳng những kẻ
nghe danh hiệu Phật sanh lòng vui mừng, tin nhận, khen ngợi và thật hành đều
được giải thoát, mà người nghi ngờ kinh báng nhái giọng niệm theo để chê bai,
khi thọ ác báo rồi cũng nhờ chủng tử công đức ấy gây nhân duyên đắc độ về sau.
Cho nên bài kệ:
"Thà ở cõi Ðịa Ngục.
Ðược nghe hồng danh Phật.
Không mong sanh Thiên giới.
Chẳng biết hiệu Như Lai"
như trong kinh nói rất là xác đáng.
PHẠM THỊ
Phạm thị, người Đài
Loan, con nhà nghèo, buôn nghề nầy bán nghề kia, làm ăn tuy giỏi giắn, song
cuộc sống vẫn rất vất vả, tánh bà ngang ngạnh nóng dữ, KHÔNG TIN ngôi Tam Bảo,
chẳng kể trời đất thánh thần cho đến bậc người tôn trưởng. Sau bà mang nghiệp báo,
bị chứng bướu nhọt lớn như cái chén, máu mủ rỉ chảy, ngày đêm đau nhức rên la.
Vào tháng giêng năm Dân
Quốc thứ mười sáu. Phạm thị được nghe một vị Tăng giảng Phật pháp, nói về việc
báo ứng nhân quả. Bà sanh lòng ăn năn sợ hãi. Đến ngày mùng tám tháng hai,
quyết ý vào chùa đảnh lễ Mậu Phong đại sư, xin quy y thọ giới, được pháp danh
là LIỄU HƯƠNG. Từ đó ngày đêm Phạm thị chí tâm niệm Phật không dứt, nên bịnh
khổ lần lần thuyên giảm, thân tâm được chút thơ thới an vui. Do đó bà phát lòng
tín nguyện sâu thiết, tu trì hết sức dõng mãnh. Chưa đầy hai tháng, bà đã có thể dự biết trước thời kỳ
lâm chung.
Trước khi mãn phần ba
ngày, Phạm thị tự nói mình thấy thần hồn dạo chơi cõi Tây phương Cực Lạc, mục
kích nhiều thắng cảnh kỳ diệu trang nghiêm. Vào nửa đêm ngày mùng sáu tháng tư,
bà thấy Phật phóng quang minh rực rỡ như ban ngày. Trong nhà không có đèn đuốc
mà tự sáng tỏ. Người nhà cùng dâu con đồng thời đều chứng kiến, Phạm thị tự
ngồi kiết già chắp tay nói: “Phật cùng Bồ Tát đã đến tiếp dẫn!
Tôi xin đi!” Nói xong
niệm Phật vài câu, rồi mỉm cười mà quá vãng. Lúc ấy người nhà đều nghe mùi
hương lạ, đến sáng cũng chưa tan. Bấy giờ bà đã sáu mươi tuổi.
LỜI BÌNH:
Chúng sanh mỗi người đều
có căn lành cùng nghiệp dữ. Nếu gặp thầy tà bạn xấu
thì nghiệp ác tăng trưởng, sẽ bị sa đọa tam đồ. Như duyên may gặp thiện tri thức, tất căn lành
phát triển, có thể tiến lên cảnh giới Thánh hiền. Phạm thị đã sẵn căn lành, lại
biết chuyển tánh ngang dữ thành sức tu hành mạnh mẽ quyết liệt, nên công đức
tăng trưởng gấp ngàn vạn bội, thông cảm đến Phật Bồ Tát, mau đạt kết quả vãng
sanh. Cho nên, nghiệp ác chẳng đáng sợ, chỉ lo kẻ không biết
sớm quay đầu.
BÀI
SỐ43
Ẩn tu trần niệm chẳng còn
dư
Kinh điển dường quên, tám
vạn tư
Chẳng biết Lư Sơn mày mặt
thật
Chỉ nhân mình ở tại non Lư.
NHƯ Ý : Cổ Đức nói: Vị tu chi tiền Kiên thành VIÊN
giải, ký tu chi hậu Hạnh Khởi giải TUYỆT. Lời này có nghĩa trước
khi tu phần giáo lý, phải hiểu một cách đầy đủ chắc
chắn, ĐẾN KHI THỰC HÀNH THÌ PHẢI
BỎ HẾT NHỮNG KIẾN GIẢI ĐÓ, đây cũng là ý nhờ ngón tay chỉ để thấy
mặt trăng, nhưng khi đã thấy phải rời NGÓN TAY, mới thể nhận
được toàn mặt NGUYỆT.
Thật ra, người tu
vẫn muốn quên hết muôn duyên để lòng được như NHÀN.
Hai câu sau của bài Vịnh
là dịch ra từ Cổ lục:
“Chẳng biết Lư Sơn mày mặt thật
Chỉ nhân mình ở tại non Lư.”
( Bất thức lương sơn
CHÂN diện mục,
Chỉ nhân thân TẠI thử
Trung Sơn.)
Đây là chỉ cho ý
khi TỊNH niệm được thuần, thì dung hòa cả THÂN TÂM và
CẢNH GIỚI không còn phân biệt.
Niệm Phật Phải Đoạn Tuyệt Phiền Não
Tiết 40 Nói Chung Về Nghiệp Si
Người tu khi với SỰ LÝ của
mọi vấn đề không thể hiểu minh bạch, rồi từ đó dẫn sanh tất cả điều mê hoặc,
khiến cho tâm niệm chẳng yên, đó là lúc nghiệp
SI nổi lên. Chẳng hạn như trong khi đang tu, thoạt nhớ có
kẻ nói phải niệm chừng nào nhứt tâm bất loạn mới được vãng sanh, nay xét mình
khó nỗi đến trình độ ấy, công hành đạo e luống uổng, rồi sanh ý phân vân, đó là
hiện tướng của nghiệp si.
Si mê là nguồn gốc của tất cả PHIỀN
NÃO. Tham, Sân do Si mà Mạn, Nghi, Ác Kiến cũng đều do Si.
Như khi khởi niệm: Sự hành đạo siêng
nhọc của ta, chưa chắc người xuất gia đã bằng; đó là Ngã Mạn phiền não. Lúc
niệm Phật, bỗng sanh ý nghĩ: Cõi Cực Lạc trang nghiêm dường ấy, mình nghiệp dày
phước mỏng, biết có được vãng sanh hay chăng? Đó là Nghi phiền não. Ác kiến là
sự thấy hiểu cố chấp xấu ác, gồm năm điều Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến
Thủ kiến, và Giới Thủ kiến.
Như đang tu hành, chợt nghĩ: thể chất
mình vẫn yếu, hôm nay lại nghe mỏi nhọc, nếu niệm Phật thêm lâu nữa sợ e phải
đau; đó là Thân kiến. Hoặc nghĩ: Chết rồi như đèn tắt, nếu có đời trước sao
mình không nhớ? Tốt hơn là nên tu tiên để được sống lâu không chết. Đây là Ðoạn
kiến và Thường kiến trong Biên kiến. Hoặc suy tưởng tại sao có người làm lành
lại mạng yểu, chết một cách dữ dằn; kẻ làm nhiều điều ác lại sống lâu, chết rất
tốt đẹp yên ổn?
Vậy thì tu hành đâu có ích lợi chi!
Đây là lối chấp Tà kiến, không thấu suốt lý nhân quả ba đời. Có kẻ lại nghĩ:
trước kia mình tu theo cách luyện điển của giáo phái khác, mới ít tháng liền có
sự biến đổi; nay sao niệm Phật đã lâu mà không thấy chuyển động gì? Đây là Kiến
Thủ kiến, tức là chấp lấy sự nhận thức sai lầm của mình.
Hoặc lại suy nghĩ: Bên đạo khác họ sát
sanh vẫn cầu được về Thiên Đường; mình cũng cầu sanh Cực Lạc, vậy cần chi phải
giữ giới sát? Đây là Giới Thủ kiến, tức sự chấp hiểu lầm lạc về giới pháp.
Hình thức của nghiệp si rất nhiều;
nhưng người tu Tịnh Độ cần nhứt là phải y theo kinh Phật, và đặt trọn vẹn đức
tin vào đó. Đối với đạo lý sâu xa, điều nào không biết thì nên tìm hỏi nơi bậc
thiện tri thức. Nghiệp si dễ khiến cho người lạc mất chủ hướng khi bị các
thuyết khác đả phá, mà môn Tịnh Độ lại là pháp thâm diệu khó tin hiểu. Theo
kinh luận, người niệm Phật nên y theo ba lượng để củng cố lòng tin.
1. Lý Trí Lượng: là sự suy lường tìm hiểu của lý trí. Chẳng hạn như suy
nghĩ: Các thế giới đều do tâm tạo, đã có cõi người thuộc phân nửa nghiệp thiện
ác, tất có tam đồ thuộc nhiều nghiệp dữ, và các cõi trời thuộc nhiều nghiệp
lành. Như thế tất cũng có cõi Cực Lạc do nguyện lực thuần thiện của Phật, và
công đức lành của chư Bồ Tát cùng những bậc thượng thiện nhơn.
2. Thánh Ngôn Lượng: là giá trị lời nói của Phật, Bồ Tát trong các kinh luận.
Đức Thế Tôn đã dùng tịnh nhãn thấy rõ y báo, chánh báo cõi Cực Lạc, và diễn tả
cảnh giới ấy trong các kinh Tịnh Độ. Các bậc đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền
đều ngợi khen cõi Cực Lạc và khuyên nên cầu vãng sanh. Người Phật tử nếu không
lấy lời của Phật, Bồ Tát làm mực thước, thử hỏi còn phải tin ai hơn?
3. Hiện Chứng Lượng: là lối tìm hiểu do sự thấy biết hoặc chứng nghiệm hiện
thật, để khởi lòng tin. Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục đã chứng minh rất nhiều vị
niệm Phật được vãng sanh, và ở Việt-Nam ta cũng có nhiều Phật tử tu Tịnh Độ
được về Cực Lạc. Chẳng những thế, mà hiện tiền khi tịnh niệm các vị ấy cũng
thấy cảnh Tịnh Độ hiện bày. Nếu không có cõi Cực Lạc, và không có Phật A Di Đà
tiếp dẫn, thì làm sao những vị ấy thấy rõ và được kết quả vãng sanh?
Trên đây là ba lượng mà hành giả Tịnh
Độ phải y cứ để giữ vững lòng tin.
Lại theo Ấn Quang pháp sư, người niệm
Phật KHÔNG NÊN đem sự tu Tịnh Độ thỉnh giáo các vị thiện tri
thức bên Thiền Tông. Bởi lối đáp của những vị ấy đều đi về bổn phận, tức là nói
về lý tánh, mà Tịnh Độ thì thuộc về tướng tông. Vì chỗ chủ trương khác nhau như
thế, nếu kẻ sơ học chưa DUNG THÔNG tánh tướng, e không được
lợi ích chi, mà còn tăng thêm lòng nghi ngại phân vân bất nhứt.
Một câu A Di Ðà
Dụng thông tròn pháp giới
Soi lặng thể toàn chân
Xen giăng khắp vô ngại.
Nhứt cú Di Ðà
Viên dung pháp giới
Thục thể toàn chân
Giao la vô ngại.
LƯỢC
GIẢI
Như trên đã nói, khi hành giả chứng
Niệm Phật tam muội, căn trần dứt bặt tự tánh Di Ðà dung thông tròn sáng khắp
pháp giới. Cảnh tượng ấy lặng lẽ mà chiếu soi, chiếu soi mà lặng lẽ, toàn thể đâu đâu cũng là chân thật.
Trong chân thể ấy, hằng sa vô biên thế
giới xen giăng nhau, như vô số hạt châu nơi các mắt lưới của trời Ðế Thích.
Chân cảnh này rất đỗi sâu mầu, trong tứ pháp giới, thuộc về Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới, trong Thập huyền môn, thuộc về Nhân Ðà La Võng Cảnh Giới Môn.
LAN ĐÀI
Lan Đài là biệt hiệu của
cư sĩ Bành Hy Tốc, tự Lạc Viên. Ông ở huyện Nguyên Hòa tại Tô Châu, vốn là cháu
họ của Bành Nhị Lâm cư sĩ. Năm hai mươi sáu tuổi, ông đỗ Hương thí. Từ bé Lan
Đài đã thích ăn chay, đến tuổi thành đồng liền trường trai được năm năm. Kế đó
bị bịnh lạc huyết, mới trở lại dùng mặn. Nhưng do nhân duyên đau bịnh, Lan Đài
phát tâm tín hướng Phật thừa, giữ lục trai, hằng tụng Kinh Hoa Nghiêm. Mỗi ngày ông đều Niệm Phật cầu vãng sanh, dù
trong cảnh xe thuyền đi xa cũng chưa từng quên bỏ. Cư sĩ từng làm mười bài thi
Hồi hướng như sau:
1.- Lên xuống luân hồi mãi
khổ đau
Kiếp trần giải thoát biết chừng nào?
Ân cần sám lễ đài sen ngọc
Bất giác thương tâm lệ rạt rào!
2.- Gió nghiệp đưa người khó
tự do
Huyễn duyên vẫn khởi mối buồn lo!
Nạn tai ma bịnh thay đòi lớp
Gần chót hương mình chẳng sớm tu!
3.- Đã hay sắc tưởng vẫn hư
không
Muôn kiếp tham si chửa dễ trừ
Xét kỹ chi bằng chuyên niệm Phật
Sáu căn thâu nhập chẳng cò dư.
4.- Ruổi dong khéo tính vẫn
thua nhàn
Hơi thở mạng người sớm liệu toàn!
Còn ngại tu hành sai đạo chánh
Đường mê vạn nẻo tối mênh mang.
5.- Tịnh quán ngồi lâu bóng
nhật tà
Cảm thông Cực Lạc lộ không xa
Mười năm lãng tử lìa quê cũ
Một niệm hồi quang thấy cảnh nhà.
( Chẳng biết Lư Sơn mày mặt thật
Chỉ nhân mình ở tại non Lư.)
6.- Rừng thưa gió lọt nỗi
tiêu cầm
Chim hót đầu cành điệu nhã âm.
Trăm tám Bồ đề ngày tháng niệm
Giống sen mười trượng chẳng căn thâm.
7.- Tâm niệm nối tiếp niệm
Di Đà
Muôn việc phù vân mặc chảy qua.
Đâu đợi mãn phần về tịnh cảnh
Hiện tiền thân đã thoát
Ta Bà.
8.- Trần chướng khi tan hiện
pháp thân
Hồ thu nguyệt lặng sáng trong ngần!
Bể âm thanh rộn ba ngàn cõi
Một niệm nghe vào dứt biệt phân.
9.- Sáu chữ trừ mê, giác
cũng không
Niệm tâm niệm Phật, Phật tâm đồng.
Ngàn đời phiền não tiêu tan sạch
Tô Lạc, dương chi thắm mát lòng!
10.- Trời người phước tạm sẽ
không còn
Xin phát Bồ đề thệ sắt son.
Nguyện lớn Phổ Hiền đầy pháp giới
Chưa sanh Cực Lạc dễ chi
tròn!
Nhị Lâm cư sĩ thấy quyển
Vãng Sanh Tập của ngài Vân Thê, sự và lời đều quá giản lược, muốn gom tìm lại
những di tích vãng sanh xưa nay viết đầy đủ hơn để in ra. Lan Đài vui vẻ lãnh
trách nhiệm phụ giúp, cùng vợ là Cố thị ra công sưu tầm, biên thành chín quyển
lấy tên là Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, cho khắc bản để lưu hành. Cư sĩ lại tự tay tả một bộ
kinh Pháp Hoa gần trọn NĂM mới xong.
Ngày mùng ba tháng mười
niên hiệu Càn Long thứ 58, ông bị bịnh rét thêm kiết lỵ rất trầm trọng. Biết
mình khó thoát qua, cư sĩ từ trong phòng lần đi đến giường nằm của thân mẫu,
không đề cập đến việc nhà, chỉ khuyên mẹ niệm Phật và nói:
“Xin cố gắng tinh tấn,
ngày kia sẽ gặp nhau ở Tây phương!”
Ba hôm sau, trước khi
mãn phần, ông cho mời Trừng Cốc hòa thượng đến nhà, cầu thọ tam quy ngũ giới và
khẩn thiết phát nguyện sám hối. Cư sĩ tự nói: “Trong vài bữa trở lại đây, tôi
được TỊNH NIỆM hiện tiền, cành sen nơi bảo trì đã chắc có phần vin nắm!” Sáng
sớm ngày mười ba, Lan Đài bảo người nhà dời giường nằm hướng về phương Tây,
trước mặt thiết tượng Phật tiếp dẫn.
Cư sĩ lại cho thỉnh
Trừng Cốc hòa thượng đến và thưa:
“Xin nhờ thầy xưng Hồng
danh và trợ niệm cho con!”
Rồi nằm nghiêng bên hữu
niệm lâm râm niệm Phật theo, đến chiều tối mới qua đời. Lúc ấy mùi hương lạ bay
đầy nhà, ông mới vừa ba mươi ba tuổi. Nhị Lâm cư sĩ đến phúng điếu, đề tặng bài
thi rằng:
Bát ngát sen thơm khắp
một phương
Buông tay phút chốc lại hoàn hương
Xương Lê chẳng biết đường tây độ
Luống phụ năm xưa THẬP NHỊ LANG!
( Hàn Tương Tử khi xưa, nguyên là cháu
của vua Hàn Xương Lề tức là Hàn Dũ, tu tiên đắc đạo. Tương Tử thứ mười hai, nên
cũng gọi là Hàn THẬP NHỊ LANG. Biết chú mình sẽ mắc nạn, muốn cảnh
giác trước để khuyên Hàn Dũ tu hành. Tương Tử đến nhà chơi, múc một chậu nước
và làm phép. Giây phút nơi chậu mọc lên mười bốn cánh hoa, mỗi đóa đều có chữ,
góp lợi thành hai câu thi:
“Văn hoanh Tần lánh gia hà tại? Tuyết
úng lam quan mã bất tiền”
Sau Hàn Dũ bị đày xa đến vùng đất
Thục, ngoảnh lại thấy mây giăng ngang đỉnh núi Tần, không nhìn biết quê nhà ở
đâu. Trông tới trước thì tuyết phủ mờ biên ải, ngựa bị lạnh cóng chân không
tiến bước được.
Nhớ lợi hai câu thi trước, nghiễm
nhiên đúng với hoàn cảnh hiện thời, ông bỗng bàng hoàng hối hận! )
Cố thị tên Uẩn Ngọc,
cũng sớm thông tuệ, giỏi về thi văn. Năm hai mươi chín tuổi cô mang bịnh. Ngồi
kiết già niệm Phật mà vãng sanh.
BÀI SỐ 44
Ẩn tu nghĩ chuộng sắc
thanh-duyên
Thanh sắc đâu bằng cõi
Bảo Liên
Sắc rực ánh vàng thanh
suối ngọc
Tô Đà hương phạn lại
tham thiền.
Ẩn tu nghĩ kẻ sắc thanh
tranh
Thanh sắc đâu bằng cõi
Thái Thành
Sắc đẹp ba hai thanh
phạm tám
Ăn xong thiền duyệt lại
kinh hành.
NHƯ Ý: Xưa có một Ca-sĩ Thanh sắc vẹn toàn, khi thốt lời
nơi miệng bay ra mùi thơm HOA SEN, có vị thượng QUAN đem việc đó đến
thỉnh một bậc cao tăng Đắc đạo. Cao tăng đáp: Ca-kỷ đó tiền thân là một NI CÔ
đã tụng KINH PHÁP HOA hơn 30 năm, vì cô còn thích Sắc đẹp Tiếng thanh nên mới
cảm Thọ quả báo ấy.
TÂM ưa chuộng sự hay đẹp
của NGŨ TRẦN là ý niệm chung của chúng sanh, nhất là với phái nữ, nhưng
Thanh sắc trong Tam Giới làm sao sánh được với cõi Hoa sen, người sanh
về cõi CỰC LẠC (Bảo Liên, Thái Thành...) sẽ được 32 Tướng hảo
trong đó có tướng Phạm âm đủ 8 vọng.
Cho nên, nếu chuộng Sắc
thanh, nên tụng KINH niệm PHẬT hồi hướng công đức Cầu-sanh Cực-lạc, đừng để
Tiếc uổn như vị Ni-cô kia.
Biết Khổ Phải Ý Thức
Đến
Sự Giải Thoát
Ba cõi đều vô thường,
các pháp hữu vi không có chi là vui
(Tam giới giai vô thường. Chư hữu vô hữu lạc - Kinh Pháp Hoa).
Người niệm Phật phải
cầu sanh về Tây Phương để thoát vòng sống chết luân hồi; lần lần tu chứng đến
cảnh THƯỜNG, LẠC, NGÃ, TỊNH của Niết Bàn, chớ không nên cầu sự phước lạc hư giả
ở thế gian. Niệm Phật như thế mới hợp với mục đích giải thoát, với tâm từ bi
cứu khổ ban vui của đức Thế Tôn.
Và muốn được như vậy
hành giả phải thường quán sát suy tư về Bát-Khổ của kiếp người cho đến nỗi khổ
vô tận vô biên trong SÁU cõi. Nếu chẳng quán như thế, thì tâm cầu giải thoát
khó sanh, ý nguyện về Tây Phương không thiết, làm sao ngày kia bước lên bờ
Giác, dùng con thuyền Bát Nhã độ khắp bến mê?
Khi xưa đức Phật đã
than: “Trong đời mạt pháp, các đệ tử ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít ai quan
niệm đến vấn đề sanh tử!” Không tha thiết đến sự liễu thoát sanh tử là vì thiếu
tri giác, do bởi không thiết thật quán xét nỗi khổ trong kiếp luân hồi.
Những người này chẳng
những phụ ơn Phật, mà cũng phụ cả chính mình, thật đáng tiếc thương đau xót!
( Niệm Phật Phải Vì
Thoát Sanh Tử)
Thanh
sắc tài danh thế lợi trêu
Bể trần chìm nổi kiếp vô liêu!
Giai nhân kiệt sĩ chừ đâu vắng?
Dấu sử nghìn thu để hận nhiều!
Hươu Tần tranh đuổi khắp giang san
Cỏ xót, mây thương, cuộc thảm tàn!
Lầu Hán vui trăng ai đó mấy?
Hơn thua thù hận thuở nào tan?
May gặp Như Lai ánh huệ không
Nước dương quyết rửa sạch mê lòng!
Đã lên
non pháp quên tìm báu
Lần lựa đi về tiếc uổng công!
Vượt
hết non cao vực thẳm rồi
Bên đường bỗng thấy sắc hoa tươi
Mới hay siêu đọa do mình cả
Mà cõi mười phương cũng huyễn thôi.
(Niệm Phật Phải Đoạn Tuyệt Phiền Não)
Một câu A Di Ðà
Mầu tròn Tam Ðế lý.
Như ao rất thanh lương
Tợ lửa to thiêu hủy.
Nhứt cú Di Ðà
Diệu viên Tam Ðế.
Tối thanh lương trì
Ðại mãnh hỏa tụ.
LƯỢC
GIẢI
Tam Ðế là ba lý chắc thật: Không, Giả, Trung.
KHÔNG Ðế hiển công dụng phá tình chấp.
GIẢ Ðế hiển công dụng lập các pháp.
TRUNG Ðế hiển công năng dứt đối đãi.
Trung Quán Luận có bài kệ:
Các pháp nhân duyên sanh
Ta nói tức là Không.
Cũng gọi là Giả Danh.
Cũng là nghĩa Trung Ðạo.
Các pháp vì hư huyễn chẳng có thật thể, nên gọi là Không. Vì sanh diệt vô
thường nên gọi là Giả. Vì tự tướng lồ lộ hiện bày, chẳng thể nói riêng là
Không, là Giả, dứt ngôn thuyết tâm tư, nên gọi là Trung. Kinh Pháp Hoa nói:
"Các pháp từ xưa nay. Tự tướng
hằng tịch diệt" chính là nghĩa này.
Trong ba đế, Không bao hàm cả Giả, Trung. Giả và Trung cũng đều lại như thế,
nên gọi là “MẦU TRÒN”, cũng gọi là Tam Ðế Tương Tức.
Dùng trí tuệ quán chiếu, các pháp đã như thế, thì CÂU HỒNG DANH cũng đủ lý Tam
Ðế nhiệm mầu tròn thông như vậy. Hiểu được lý này, tất có thể ứng dụng hạnh
Niệm Phật siêu vào cảnh giới đại tịch diệt, như đống lửa lớn cháy hừng đốt tiêu
tất cả rác rến, TRẦN CẤU, như ao to mát mẻ dứt trừ tất cả hơi nóng của não
phiền.
Hành giả sẽ lần lần chứng vào chân
cảnh Tịnh Bảo Nguyệt Quang Minh tam
muội vậy.
TRÍ KHẢI
Trí Khải đại sư, họ
Trần, tự Đức An, quê ở Vĩnh Xuyên thuộc Kinh Châu, tinh Hồ Bắc. Đại sư ứng thế
vào khoảng các đời Lương, Trần, Tùy. Bà mẹ mộng thấy mây thơm năm sắc hiện ra
đoanh vây nơi thân rồi vào bụng, mà cảm mang thai ngài. Đêm đại sư đản sanh,
trong nhà hương thơm bát ngát, thần quang chiếu sáng rực rỡ:
Ngài sanh ra đã bẩm
tướng lạ: mày thanh tú, mắt dài sáng, mỗi tròng mắt có hai con ngươi nằm ngang.
Nơi hai tay, mọi cùi chỏ đều có bốn cục xương gu. Khi nằm tất nghiêng bên
hữu, chắp hai tay. Lúc ngồi thì thường kiết già dây mặt về Tây. Vừa hơi lớn,
thấy tượng Phật liền lạy; gặp người xuất gia, tỏ dáng cung kính.
Năm lên bảy ngài theo mẹ
vào chùa Quả Nguyện. Nghe một vị tăng tụng phẩm Phổ Môn, liền đọc lại thuộc lòng, như đã có học tập từ trước. Lúc mười bảy tuổi, đang
khi lễ Phật rồi quì xuống thệ nguyện xuất gia, ngài bỗng như vào mộng, thấy
cảnh giới biển rộng mênh mông, nước ngâm trong vắt. Gần mé biện có một tòa non
cao chớn chở, mây phủ lưng chừng, mặt trời chiếu sáng. Khi ấy ngài thấy mình
đứng dưới núi, trên đảnh có vị tăng cúi xuống đưa cánh tay dài kéo lên, dẫn vào
một ngôi già lam, bảo: “ Về sau, ông sẽ trụ nơi
đây để hoằng hóa”.
Năm mười tám tuổi, ngài
nương theo Pháp Chữ thượng nhơn ở Quả Nguyên Tự tại Sương Châu xuất gia. Kế đó,
lại đến chùa núi Đại Hiền học tập Luật tạng, tụng kinh Vô Lượng Nghĩa, kinh
Pháp Hoa, và tu Phổ Hiền Quán. Vào đầu niên hiệu Thiên Gia, nghe danh đức của
Huệ Tư thiền sư ở núi Đại Tô tại Quảng Châu, đến tham bái. Huệ Tư vừa nhìn thấy
ngài liền bảo:
“Ta với ông xưa kia đồng
nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở Linh Sơn đại hội, túc duyên theo đuổi, nay lại
gặp nhau!”
Nhân đó thiền sư khai
thị về Tứ an lạc hạnh, và dạy cách kiến nhập Phổ Hiền đạo tràng. Đại sư lãnh
giáo, nương tại đây nhập quán tu Pháp Hoa tam muội. Vừa được hai thất, khi tụng
kinh Pháp Hoa đến phẩm Dược Vương câu: “Thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp
cúng dường Như Lai …”, thân tâm chợt rỗng không, lặng lẽ vào định. Trong định, ngài thấy hội Linh Sơn vẫn còn hiển hiện
đông đảo chưa tan, liền thấu suốt ý chỉ Pháp Hoa và các pháp tướng, túc thông
thầm phát.
Đại sư đem sở chứng bạch
với ngài Huệ Tư. Thiền sư than thở ngợi khen bảo: “Chỉ riêng ông mới chứng, duy
có ta mới biết! Định cảnh ấy thuộc về tiền phương tiện và Pháp Hoa tam
muội. Chỗ phát túc thông thuộc
Sơ Triền Đà Ra Ni môn. Từ đây về sau, dù cho
ngàn muôn văn tự pháp sự, cũng không thể làm cạn nguồn biện luận của ông được!”
Niên hiệu Đại Kiến năm
đầu đời Trần, ngài đến chùa Ngỏa Quan ờ Kim Lăng khai giảng Pháp Hoa. Vua sắc
chỉ đình triều một ngày, bảo quần thần tề tựu lại chùa nghe giảng đề kinh. Năm
Đại Kiên thứ bảy, đại sư đến núi Thiên Thai ở miền duyên hải để tránh duyên an
dưỡng. Đi tới ngọn núi phía nam, ngài trông thấy cảnh bỗng bồi hồi xúc động.
Nơi đây có vị thần tăng hiệu là Định Quang đã cư ngụ từ ba mươi năm trước. Khi
gặp nhau, thần tăng bảo: “Ông còn nhớ điềm ta đưa lên núi chăng? Ở sơn lãnh
phía bắc có một nơi ngân địa, hãy lên đó kiến lập già lam độ chúng”.
Đại sư y lời đến xem
thấy cảnh đúng như điềm ứng trước, liền xây dựng chùa, trồng cây thông, dẫn
nước suối, khiến cho ngôi tự viện càng thêm u nhã. Từ đó ngài giảng diễn các
kinh giáo đại thừa, như Pháp Hoa, Kim Quang Minh, luận Ma Ha Chỉ Quán, rộng mở
về thiền pháp, hàng tăng tục nương về ngày càng thêm đông, về phần chư thần quy
hướng, như cha con Quan thánh và Võ An Vương đêu hiển linh cầu thọ giới, xin
làm đệ tử hộ pháp.
Không bao lâu, đại sư
lại nhận lời thỉnh của vua nhà Trần, trở về Kim Lăng giảng kinh Pháp Hoa Văn Cú
tại chùa Quang Trạch. Nhà Trần mất, ngài vào Lô Sơn, kế lại châu du cac miền
Kinh, Dương hoằng pháp. Năm Khai Hoàng thứ mười bốn đời Tùy, lại trở về núi
Thiên Thai.
CÔNG NGHIỆP lợi sanh của
đại sư rất nhiều, nơi đây chỉ thuật phần đại khái. Trước sau, ngài tạo 36 ngôi
chùa lớn, tổ chức cho biên chép 15 pho đại tạng kinh, độ hơn 14.000 vị xuất
gia, trong đó có 32 bậc cao đồ đắc pháp, tạo 800.000 tượng Phật, Bồ Tát bằng
vàng, đồng, cây chiên đàn, hoặc những thứ gỗ khác, khai 63 ao phóng sanh ở các
vùng Hộ, Khê, Lương dài khoảng ba trăm dặm, soạn thuật các tập như Pháp Hoa
Huyền Nghĩa, Tịnh Độ Thập Nghi Luận, Ma Ha Chỉ Quán, Kim Quang Minh Văn Cú,
Quán Kinh Sớ cùng nhiều kinh luận khác, mở những đàn truyền giới và các khóa
diễn giảng khuyến hóa ngư dân miền duyên hải bỏ nghề chài lưới, cùng viết biểu
tấu với vua nhà Trần xin xuống chỉ cấm việc sát sanh quanh vùng bờ biển núi
Thiên Thai.
Tóm lại, trong hai đời
Trần và Tùy, ngài là bậc đại pháp vương hội trì chánh giáo. Thái tử Tấn Vương
Quảng (Dạng để), từng thỉnh ngài đến hoàng cung cầu xin thọ giới Bồ
Tát và tôn hiệu là Trí Giả đại sư. Sau ngài lại về quê cũ ở Kinh Châu, kiến
thiết chùa Ngọc Tuyền, giảng dạy kinh pháp để báo ân người hương lữ.
Về ý nghĩa pháp môn Tịnh
độ, trong Thập Nghi Luận, đại sư đã khai thị yếu lược như sau:
“Muốn quyết định được
sanh về Cực Lạc, phải có đủ hai hạnh: Yếm ly, Hân nguyện, nghĩa là CHÁN bỏ và VUI cầu.
– Yếm ly là thế nào?
Nên xét nghĩ: hàng phàm
phu chúng ta từ kiếp vô thỉ đến nay, vì đắm say tự ràng buộc theo năm điều dục
lạc là: sắc đẹp, tiền của, danh vị, ăn uống và ngủ nghỉ, mà bị luân hồi trong
sáu đường, chịu đủ không ngằn sự khổ não.
Nếu chẳng khởi TÂM chán
bỏ, thì biết chừng nào mới được thoát ly? Phải quán xét tâm giả tạm nầy, bề
ngoài chỉ một lớp da mỏng manh che phủ, bên trong chứa đầy các thứ tanh hôi
như: ruột, gan, óc, phổi, xương, thịt, máu, mủ, đàm, dãi, nước tiểu, phẩn uế.
Cửu khiếu lại thường tiết ra các thứ không sạch, các lỗ chân lông hằng ra mồ
hôi bợn nhơ.
Kinh Niết Bàn nói: “Thân nầy như vòng thành nhơ uế, loài quỉ La Sát ngu si
hằng tham trước nương ở trong đó. Người có trí ai lại đắm luyến huyễn thân?”
Lại trong kinh bảo: Thân
nầy không bền lâu, là chỗ nhóm họp của các thứ khổ, các thứ nhơ nhớp; là nơi
sanh khởi các thứ ung nhọt ghẻ lác, các bịnh trong và ngoài. Thân nầy do phiền
não dâm dục gây ra, là nghiệp chủng không sạch: Do tinh cha huyết mẹ hòa hợp,
là mầm giống không sạch.
Ở trong thai mẹ chật hẹp
tối tăm nhơ nhớp, là chỗ trụ không sạch. Khi còn trong thai dùng chất máu huyết
để sống, là sự ăn uống không sạch. Do sản môn sanh ra, là chỗ sanh không sạch.
Từ bé đến già bề ngoài bao lớp da mỏng, bên trong đầy thứ tanh nhơ, lại đủ các
sự suy yếu bịnh khổ, là cả thân không sạch.
Lúc chết rồi lại sình
thối nát rã, vòi tửa lúc nhúc, là kết cuộc không sạch. Thường quán sát bảy điều
không sạch như thế, tất sẽ sanh niệm chán lìa. Dù chưa thể liền dứt được nghiệp
vợ chồng, thì phiền não ái dục cũng lần lần nhẹ bớt.
Lại phát nguyện mong sớm
bỏ thân nhơ nhớp khổ não, cầu sanh Cực Lạc, được thân bằng chất báu ngọc kim
cương đủ 32 tướng tốt, lần lần tiến chứng vào thân pháp tánh sáng suốt lặng
trong.
– Còn Hân nguyện là thế
nào?
Nên nghĩ, nay ta cầu
sanh Tịnh độ, trước là để được sống trong cảnh lầu các, cây hoa, ao hồ, âm
nhạc, chim lạ, đủ vô lượng thứ báu, vô lượng sự trang nghiêm vui đẹp ở Liên
bang.
Sau đó, tiến tu để độ
mình, thân bằng quyến thuộc, cùng tất cả chúng sanh trong vòng mê khổ. Nay ta
nghiệp chướng nặng đầy, đạo lực yếu kém, nếu không biết tự lượng, mê ở cõi đời
nhơ ác, cảnh duyên phiền não mạnh, tất sẽ bị sóng nghiệp cuốn lôi chìm đắm, sự
độ mình không rồi, nói chi độ chúng? Như thế biết chừng nào mới thoát ly khỏi kiếp
sa đọa luân hồi?
Nếu được về Cực Lạc, tất
ở cõi nghiêm sạch trang nghiêm, sống lâu vô lượng kiếp, gần gũi chư Phật, Bồ
Tát, đủ các thuận duyên tiến tu, không còn lo thối chuyển. Khi đã chứng quả vô
sanh, phân vô lượng thân vào các cõi trược, độ vô biên loài hàm thức, nào có
muộn gì?
Cho nên phát nguyện cầu
sanh Tịnh độ, tức là phát tâm bồ đề, tức là phát tâm cầu Phật qụả, tức là phát
tâm độ chúng sanh, tức là phát tâm nhiếp hóa chúng sanh về cõi Phật vậy”.
Năm Khai Hoàng thứ bảy
đời Tùy, khi hóa duyên đã mãn, sắp nhập diệt, đại sư tập họp chúng bảo tụng các
kinh Pháp Hoa, Vô Lượng Thọ, rồi khen ngợi rằng: “Lành thay Diệu Pháp Liên Hoa
kinh, cha mẹ của pháp môn, bản tích rộng lớn, nhiệm mầu khó lường!
Lành thay Vô Lượng Thọ kinh, bốn mươi tám nguyện trang nghiêm Tịnh độ, ao sen cây báu, dễ
vãng sanh mà ít kẻ nguyện cầu! Người tạo ngũ nghịch thập ác tướng địa ngục
hiện, một niệm cải hối còn được sanh về, huống là bậc giữ giới chuyên tu, tất
công phu không luống uổng vậy!”
Hàng đệ tử là Trí Lặng
Pháp sư thưa thỉnh rằng: “Xin mở lượng từ bi, giải tỏ niềm nghi hoặc. Chưa rõ
tôn đức chứng đến ngôi vị nào và khi mạng chung sẽ sanh về đâu?” Đại sư
đáp: “Nếu ta không lãnh
chúng, tất chứng vị Thanh tịnh lục căn. Vì tổn mình lợi người, nên chỉ đến ngôi
Ngũ phẩm. Hiện thời các hàng
thầy bạn theo hầu Phật và đức Quán Âm, Thế Chí đến rước ta vãng sanh!” Nói
xong, hướng về Tây chắp tay xưng niệm A Di Đà Phật, Bát Nhã, Quán Âm rồi lặng
lẽ như vào tam muội mà tịch.
Lúc ấy, nhằm ngày 24
tháng 11, đại sư thọ đựợc 67 tuổi. Khi sắp đưa linh quan về ngọn Phật Lũng để
nhập tháp, mưa to xối xả không dứt. Các đệ tử cầu nguyện, mưa liền tạnh ráo,
bầu trời trở nên trong sáng, gió thông vi vút tợ kêu thương, nước suối tràn reo
như bi cảm.
Lúc đưa linh quan đến
tháp, trời mưa hương hoa lạ rơi lác đác, mọi người cầu nguyện đều được cảm ứng.
Đại khái như Thích Huệ Diên ở chùa Thiên Hương, tả kinh Pháp Hoa cầu đại sư xác
nhận đã sanh về cõi nào? Đêm lại, năm mộng thấy ngài theo đức Quán Âm từ phương
Tây đi đến bảo: “Ta về cõi Cực Lạc ở Hoa Tạng thể giới, ông đã dứt hết lòng
nghi chưa?”
Đại sư là Sơ tổ tông
Thiên Thai, lịch đại truyền thừa, đến nay môn phong hãy còn thạnh.
BÀI SỐ 45
Ẩn tu khuyên khách mến
giang hồ !
Nên học Liên phương niệm
Phật đồ
Về cõi Bảo Hoa đi dạo
khắp
Muôn trời tịnh diệu nét
Xuân tô !
NHƯ Ý : PHƯƠNG LIÊN là PHƯƠNG XỨ HOA SEN tức chỉ cho cõi
CỰC LẠC. Niệm Phật đồ là Bức đồ Niệm Phật Công cứ có in hình Hoa sen, để khi
Niệm Phật đủ 1 NGÀN hay 1 MUÔN câu lại ghi vào Mỗi Cánh SEN hoặc Hạt Sen một
điểm. Đây là cách Sách tấn hàng Liên Hữu Cầu sanh Tây Phương.
Thuở xưa bậc
Thanh-cao hay hạng TAO NHÂN MẶC KHÁCH thường đề huề Túi thơ
Bầu rượu đi du Lãm nơi danh lam thắng cảnh, thời nay các nước có phong trào Tổ
chức đi du ngoạn các Cảnh đẹp ở Bản xứ hay khắp Thế giới.
Nhưng nếu có AI mến
thích du ngoạn, thì tốt nhất là nên tu NIỆM PHẬT CÔNG CỨ cầu sanh Tây Phương,
về được cõi BẢO HOA đó rồi, mỗi bữa Mai thường cùng chư THƯỢNG THIỆN, mang
HOA bay khắp Mười phương Thế giới để cúng dường Chư Phật, mà cảnh
Đẹp tươi Trong sạch Mầu lạ ở các Tịnh Độ, thì miền Bồng Tiên cũng không thể
sánh kịp trong Muôn Một .
( TAO NHÂN là Người phong nhã
MẶC KHÁCH là Người ưa thích làm Thơ phú
Văn chương)
XÓA TÁNH ƯA THÍCH DU
NGOẠN
Dạo chơi thắng cảnh
Thu đẹp xuân kiều!
Túi thi đàn rượu khắp ngao du!
Non nước vài thân hữu
Mưa khói mờ hoa liễu!
Ôi chà chà!
Ráng hồng suối bạc sánh phong lưu
Đâu nghĩ ngày mai hậu?
Sáng tối thoáng qua mau
Thảng thốt quay đầu suy, bịnh, lão!
Bởi thế nên đem
Phong nguyệt tình vui xóa sạch làu!
XÓA SẠCH DUYÊN TRẦN
(Phỏng dịch “Thất Bút Câu” của ngài Liên Trì)
Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi nước của
Đức Phật đó, thường trỗi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời
rưới hoa trời MẠN ĐÀ LA.
Chúng-sanh trong cõi đó thường vào lúc
SÁNG sớm, đều lấy đãy hoa đựng những HOA tốt đem cúng-dường mười muôn ức Đức
Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn-quốc ăn cơm xong ĐI KINH HÀNH.
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành
tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ
( Hán dịch, nhà Dao Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
dịch )
( Người nước Cực Lạc đều
có THẦN TÚC THÔNG, trong nháy mắt có thể đi trải qua VÔ LƯỢNG THẾ
GIỚI.
ĐI KINH HÀNH là đi vòng quanh chậm rãi,vừa đi vừa suy gẫm tưởng
niệm những pháp lành. Phật, Pháp, và Tăng. Đi kinh hành có hai điều lợi ích:
1.-Thâu nhiếp tâm tưởng
vào CHÁNH NIỆM, phục trừ tà niệm LOẠN TƯỞNG cùng biến lười ngủ nghỉ.
2.- Điều hòa thân thể,
HUYẾT KHÍ lưu thông, TIÊU HÓA dễ dàng.)
Tiết 7 - Muốn Sớm Thoát
Khổ, Nên Tu Tịnh Độ
Nhiều vị học Phật, vì ưa
chuộng huyền lý cao siêu, cho môn Niệm Phật là của ông già bà cả, hạng căn cơ
thấp kém. Nhưng họ đâu biết Tịnh Độ là cửa mầu thâm diệu đi sâu vào Phật tánh,
là con thuyền chí bảo để mau thoát khỏi luân hồi.
Cho nên có những bậc thượng
căn vì chưa nhận thức Tịnh Độ, mà mãi bị trầm trệ trong nẻo mê tân. Và có kẻ
căn tánh chỉ tầm thường, nhưng do tu Tịnh Độ mà sớm bước lên đường giải thoát.
Xin thuật ra đây đôi chuyện để chư học giả so sánh.
Đời Đường bên Trung Hoa,
nơi chùa Hương Sơn đất Lạc Dương có sư Thích Giám Không. Sư nguyên tục tánh thọ
Tề, người ở Ngô Quận.
Thuở còn nhỏ ông nghèo
khổ, tuy học hành siêng năng nhưng ít ghi nhớ. Lớn lên, ưa làm thi văn song chỉ
tầm thường. Ông hay đi lại vùng Ngô, Sở yết kiến hàng hầu bá, nhưng không được
sự giúp đỡ bao nhiêu. Khi có tiền đầy xâu thì sanh đau yếu, tiền hết bịnh mới
lành.
Đầu niên hiệu Nguyên
Hòa, ông dạo chơi xứ Tiền Đường, gặp năm mất mùa, nghĩ đến chùa Thiên Trúc để
cầu thực. Nhưng vừa đi tới phía tây Cô Sơn Tự, ông đói quá không thể tiến bước
nổi, liền lại ngồi bên bờ suối tuyết, rơi lệ ngâm vài câu bi phẫn.
Thoạt có vị Phạn tăng
theo dòng suối đến ngồi nhìn ông mĩm cười hỏi: "Pháp sư đã nếm đủ hương vị
lữ du chưa?" Ông đáp: "Hương vị lữ du có thể gọi đã nếm đủ, nhưng bỉ
nhơn tục danh là Quân Phòng, đã từng làm pháp sư đâu?" Phạn tăng nói:
"Ông không nhớ lúc giảng kinh Pháp Hoa ở chùa Đông Đức hay sao?" -
Đáp: "Tôi từ khi sanh thân đến nay đã bốn mươi lăm tuổi, hằng bàng hoàng
nơi vùng Ngô, Sở, chưa từng để bước đến kinh đô, đâu lại có chuyện giảng kinh ở
miền Lạc Trung như thế?"
Phạn tăng bảo: "Chắc ông bị lửa đói thiêu đốt, nên quên cả việc
xưa rồi!" Nói xong, liền lần
trong đãy lấy ra một quả táo lớn ướt bằng nắm tay, trao cho và bảo: "Quả
táo này sản xuất ở nước của ta, bậc thượng trí ăn vào biết rõ việc quá khứ vị
lai; người hạ căn cũng có thể nhớ được chuyện kiếp trước." Ông tiếp lấy
quả táo ăn xong, vóc nước suối uống, thoạt mờ mệt muốn ngủ, liền tựa đầu, gối
vào đá mà nằm. Giây phút tỉnh dậy, nhớ tiền thân làm pháp sư giảng kinh, cùng
những bạn đồng tu, rõ rệt như việc ngày hôm qua, nhân rơi lệ hỏi rằng: "Chấn
Hòa Thượng bây giờ ở đâu?"
Phạn tăng đáp:
"Công chuyên tinh chưa tới mức, nên chuyển sanh làm vị tăng ở đất Tây
Thục, nay cũng đã dứt được vọng duyên." Lại hỏi: "Thần thượng nhơn và
Ngộ pháp sư hiện thời ra sao?" - Đáp: "Thần thượng nhơn túc duyên trả
chưa xong. Còn Ngộ pháp sư bởi đứng trước tượng đá chùa Hương Sơn phát nguyện
giỡn: “Nếu kiếp này tu không
chứng đạo, thân sau nguyện là bậc quý thần”, nên hiện đã sanh làm đại tướng.
Trong năm người bạn vân
thủy khi xưa, duy ta được giải thoát, ba vị kia thì như thế, riêng ngươi còn
đói khổ nơi đây!" Ông thương khóc nói: "Tôi kiếp trước hơn bốn mươi
năm, ngày chỉ ăn một bữa, thân duy đắp một y, việc phù tục quyết dứt căn
nguyên, cớ sao còn kém phước để đến nỗi hôm nay phải ra người đói khổ?"
Phạn tăng đáp: "Khi
xưa ông ngồi trên pháp tòa hay nói nhiều việc dị đoan, khiến cho thính chúng
sanh lòng nghi hoặc, lại giới hạnh còn có chỗ kém khuyết, nên phải bị báo ứng
như hôm nay." Nói đoạn, lấy trong bát ra một chiếc gương hai bề đều trong
suốt, bảo rằng: "Việc đã qua ta không làm sao hơn được, nhưng ông muốn
biết số phận sang hèn thọ yểu về tương lai, cho đến việc đạo pháp hưng suy, nên
nhìn vào sẽ rõ."
Ông tiếp lấy gương xem
hồi lâu rồi giao lại tạ rằng: "Sự báo ứng, lẽ vinh khô, nhờ ơn đức của
Ngài, nay đã biết được." Phạn tăng cầm gương cất vào bát, nắm tay ông cùng
đi, độ mười bước liền biến mất.
Đêm ấy ông vào chùa Linh
Ẩn xin xuất gia, hiệu là Giám Không, sau khi thọ giới Cụ Túc liền đi du phương
tu hành, sự khổ tiết, cao hạnh ai cũng khen ngợi. Về sau Giám Không thiền sư
gặp ông Liễu Sính ở chùa Thiên Trúc, tự trần thuật tiền nhân và bảo: "Tôi sống được bảy
mươi bảy, tăng lạp ba mươi hai, nay chỉ còn chín năm nữa là thọ số mãn. Sau khi
tôi tịch, Phật pháp còn được như ngày hôm nay chăng?"
Sính nghe nói lạ, gạn hỏi.
Sư không đáp, chỉ đòi bút viết mấy hàng nơi vách bắc lầu Tàng Kinh như
sau: "Hưng hạt cát, suy
cát sông Hằng. Thỏ đã bị lưới, chó vồ săn. Trâu cọp giao tranh sừng với răng.
Ánh hoa đàm vẫn sáng nghìn năm." Đây là lời tiên tri của sư.
Câu trước nói về đạo
pháp sẽ suy. Câu thứ hai chỉ cho sự phá đạo rất tàn khốc. Câu thứ ba ghi rõ
thời gian hủy pháp ở vào năm Ất Sửu tiếp qua Bính Dần. Câu sau cùng nói: Tuy
nhiên Phật pháp vẫn còn, ánh đạo không bị hủy diệt.
Lời sấm trên ứng vào
việc phá Phật pháp của Đường Võ Tôn. Ông vua này đã ra lịnh hủy hoại bốn mươi
bảy ngàn ngôi chùa, ép buộc hơn hai mươi vạn bảy ngàn tăng ni hoàn tục.
(Trích Cao Tăng truyện, thiên Cãm
Thông, tập 3)
Đời Nguyên bên Trung
Hoa, vào năm Canh Ngọ niên hiệu Chí Thuận ở vùng Triết Tây bị thất mùa liên
tiếp. Trong thành Hàng Châu, dân chúng đói chết nằm ngổn ngang đầy đường. Mỗi
buổi sáng, quan phòng chánh mướn người khiên tử thi chở đem bỏ xuống hang núi,
sau tháp Thái Hòa. Trong số tử thi có thây một bà lão hơn mười hôm không hôi
thúi, ngày nào cũng tự trồi lên nằm trên các thây chết khác.
Chúng lấy làm lạ, vòng
giây kéo đem lên, soát trong người thấy có túi vải đựng ba bức đồ niệm công cứ A Di Đà Phật. Việc này truyền đến quan Hữu Tư, Ngài cho mua quan
quách tẩn liệm và đem ra thiêu hóa. Khi củi đốt lên, trong khói lửa hiện ra
tượng Phật, Bồ Tát, ánh sáng rực rỡ. Do nhân duyên đó, rất nhiều người phát tâm
niệm Phật.
(Trích Sơn Am Tạp Lục)
Xem sự tích trên, ta
thấy như ngài Giám Không kiếp trước từng làm giảng chủ; phù tục đã dứt căn
nguyên, tu trì cũng nhiều tinh khổ, nhưng vì chưa chứng quả lại còn chút tì
vết, nên phải chuyển thân làm kẻ sĩ đói khát khốn cùng. Kiếp xưa năm bạn đồng
tu, chỉ một mình Phạn tăng được giải thoát.
Ngoài ngài Giám Không
lại còn sự tích cao tăng Viên Quán, do chưa sạch nghiệp, nên không thoát khỏi
bào thai của nàng Vương Thị.
Truyện Tỳ Khưu Pháp Vân
từng làm đại pháp sư, nhân vì tham lợi dưỡng, sẻn Phật pháp, nên bị đọa làm
thân trâu.
Truyện ngài Hải-Ấn cũng
thuộc hàng danh tăng, vì thọ người cúng dường, phải chuyển sanh làm con gái cho
nhà thí chủ.
Truyện ngài Mạt Sơn lai
lịch phi phàm, nhưng bởi túc nghiệp từ vô lượng kiếp phát hiện, nên luân hồi
làm kẻ ngu khờ, ghét người tu niệm.
Truyện ngài Đoạn Nghĩa
Nhai tham thiền đã được khai ngộ, kiếp sau chuyển sanh làm tăng, được người lễ
bái cúng dường, tham hưởng phước mà quên đường giải thoát.
Truyện đệ tử của ngài
Tuyệt Học Thành Công, thiền định đã tỏ suốt nguồn tâm, bởi chưa đắc đạo nên
thân sau làm ông sư thông minh, động tâm xa hoa kiêu mạn, rồi từ đó không nghiệp
ác gì chẳng làm.
Truyện một Ni Cô tụng Kinh Pháp Hoa ba mươi năm, vì tâm còn chưa dứt niệm sắc thinh, nên kiếp sau đọa
làm thân ca kỹ, tiếng thanh sắc đẹp nơi miệng thường bay ra mùi thơm hoa sen.
Truyện vị cao tăng non
Nhạn Đăng, bởi chưa chứng đạo, kiếp sau là Tần Cối, do tiền căn đã có công tu
niệm nên thông minh đỗ cao làm quan đến ngôi cực phẩm, song vì mê quyền quí,
tạo điều gian ác để nhiều kiếp đọa tam đồ.
Xem truyện tích xưa, còn
biết bao trường hợp như thế nữa! Qua các gương trên, ta thấy nếu tự lực tu
hành, khi chưa được nghiệp sạch tình không, lúc tái sanh tất phải mê muội, mười
người đã rớt hết tám chín. Còn như bà lão niệm Phật, tuy dốt đạo lý, chẳng hiểu chút chi về tông về giáo, nhưng nhờ thành tâm niệm Di Đà mà sau khi chết diễn ra
nhiều điều kỳ lạ, đã chứng minh bà lão vãng sanh về Cực Lạc không còn nghi ngờ.
Cho nên tham thiền, tụng
kinh cùng tu các môn khác là những điều quí báu nên làm, và đáng khuyến khích.
Nhưng giữa thời mạt pháp này, cần phải tu thêm môn Niệm Phật, rồi đem tất cả
công đức ấy hồi hướng về Tây Phương, mới bảo đảm khỏi luân hồi mê đọa. Nếu không lấy Tịnh Độ làm nơi quy hướng, thì công đức tu
các môn khác chỉ gây căn lành phước báo, và nhân duyên đắc độ về sau mà thôi.
Như thế, e cho khi
chuyển sanh hôn mê tạo nghiệp phải bị trầm trệ lâu trong cảnh khổ luân hồi. Mấy
ai thông minh như Ngộ Đạt quốc sư, mười kiếp làm cao tăng tu thiền định, kiếp
sau rốt mới mười bốn tuổi đã giảng suốt Kinh Niết Bàn. Nhưng vì một niệm đam mê
trước tòa trầm hương nên bị túc báo ghẻ mặt người, sau trở lại niệm Phật mới
được vãng sanh giải thoát.
Những vị ỷ mình cao
minh, ngoài miệng nói suốt lý huyền, chỉ trọng tự lực khinh thường niệm Phật,
cũng nên xem gương trên mà để tâm suy nghĩ.
Một câu A Di Ðà
Sạch trần duyên phiền não
Như sư tử dạo chơi
Kinh rã bầy chồn cáo!
Nhứt cú Di Ðà
Trần duyên tự đoạn
Sư tử du hành
Dã can kinh tán!
LƯỢC GIẢI
Chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay, vì mê Chân Tánh khởi tham sân si, đắm sâu
trong vũng bùn lầy duyên phiền não, kết thành sức nghiệp tự ràng buộc lấy mình.
Một hiền giả đã than: "Tâm đắm nhiễm của con người như vực sâu không đáy,
như biển rộng mênh mông. Ðem dâng hết sắc đẹp trong thiên hạ cũng không vừa đủ
lòng DỤC. Hiến khắp hết tiền của trong thiên hạ cũng không vừa đủ lòng
THAM!".
Bởi thế, tuy gặp thắng duyên bước lên
đường tu, nhưng nghiệp tham sân si trong muôn kiếp không dễ gì trừ dứt. Nhưng
nếu hành giả chí tâm giữ một câu Phật hiệu, dù chẳng khởi niệm dứt trừ nghiệp hoặc, trần duyên phiền não
cũng sẽ tự tiêu trừ.
Tại sao thế? Bởi phiền não là vọng niệm hư huyễn, Phật hiệu là chánh niệm chân
thật. Vọng niệm như chồn cáo, chánh niệm như sư tử. Chánh niệm khởi lên, vọng
niệm tự diệt, như sư tử ra khỏi hang, các loài chồn
cáo đều kinh hãi tan rã bỏ chạy. Vọng niệm như nhà tối muôn năm,
chánh niệm như ngọn đèn to sáng, diệt ngay tất cả sự tăm tối. Cho nên nếu nhiếp
tâm nơi chánh niệm, tất vọng niệm tự trừ. Ngoài điều ấy ra, sáu chữ hồng danh
là kết tinh công đức phước huệ của Phật A Di Ðà đã tu từ vô lượng a tăng kỳ
kiếp. Cho nên, Phật hiệu có công năng diệt nghiệp rất mau chóng.
Trong Trí Ðộ Luận, Long Thọ Bồ Tát đã khai thị: "Môn Niệm Phật tam muội
hay dứt trừ tất cả phiền não nghiệp chướng đời này cùng đời trước. Các tam muội
khác, có môn trừ được nghiệp dâm mà không thể trừ nghiệp sân. Có môn trừ được
nghiệp sân, si mà không thể trừ nghiệp tham, dâm. Có môn trừ được tham, sân,
si, nhưng chẳng thể trừ những tội nghiệp đời trước.
Niệm Phật tam muội có thể trừ sạch
nghiệp tham, sân, si, cùng tất cả trần duyên phiền não và tội chướng đời trước.
Lại nữa, Niệm Phật tam muội hay sanh trí huệ phước đức rộng lớn, có thể độ
chúng sanh. Chư Bồ Tát nếu muốn độ sanh mà tu các môn tam muội khác, tất kết
quả rất chậm kém. Bởi các môn tam muội khác phước đức không bằng Niệm Phật tam
muội. Tại sao thế? Vì Phật là đấng Pháp Vương, phước huệ đều viên mãn, nên vô
lượng phước đức trí huệ của hành giả, tất phải từ nơi Phật mà tăng trưởng và
thành tựu mau chóng.
Lại nữa, do vì niệm Phật luôn, tâm
không rời Phật, nên hành giả thường được gặp chư Phật...".
Những lời khuyên dạy trên, chứng tỏ niệm Phật hay trừ sạch trần duyên phiền
não.
KIM VINH HIÊN
Kim Vinh Hiên người Lô
Giang, tinh An Huy, nhân buôn bán thua lỗ ôm lòng uất ức, lần đến phát cuồng.
Nhưng, tuy thần kinh thác loạn, ông rất thích vào chùa đốt hương, kính thành lễ
Phật.
Về sau có một vị thông
hiểu nội điển là nữ sĩ Vương Kim Phạm, biết hiện tượng đó do túc nghiệp chiêu
cảm, nên dạy cho biết pháp môn Tịnh độ, và bảo phải niệm Phật sám hối cầu sanh
về Tây phương. Kim Hiên nghe nói vui mừng, liền trường trai niệm Phật.
Mỗi buổi sáng sớm sau
khi súc miệng rửa mặt xong, ông đều ngồi chắp tay hướng về Tây, cao tiếng xưng
hồng danh A Di Đà. Ngoài ra, các thời khác cũng thường trì niệm. Có nhiều người
hỏi: “Niệm Phật mãi như thế để làm chi? Có lợi ích gì?” Kim Hiên gạn lại: “Cứ niệm như tôi đi rồi sẽ biết. Tại sao không chịu
niệm, lại cứ hỏi tôi?”
Khi đi ngoài đường thấy
trẻ con chơi đùa, ông liền to tiếng xưng hồng danh, rồi khuyên chúng niệm Phật.
Lũ trẻ cũng đùa lại, niệm theo. Người nơi chợ phố thấy Kim Hiên vừa đi vừa
nghêu ngao niệm Phật, đều chỉ chỏ cười ngạo bảo: “Xem kìa, cái ông điên khùng!”
Kim Hiên cũng quay lại cười ngạo nói: “Chính mấy người mới thật là điên khùng!”
Mùa thu năm Nhâm Thân
thời Dân Quốc, Kim Hiên nằm liệt giường bịnh, không ăn được chỉ uống nước
trong, song vẫn niệm Phật không dứt. Vừa sang đông, ông bỗng nói: “Gấp gấp quy
căn, tôi đi đây!” Người nhà đều cho là bịnh cuồng tái phát. Cư sĩ Từ Tử Diêu nhân
đến thăm, nghe biết bảo: “Quy căn là trở lại nguồn gốc, ý nói lá rụng về cội.
Hay là ông ta muốn quy y Tam Bảo, để sanh về Tây phương chăng?”
Kim Hiên nghe qua lộ sắc
vui mừng nói: “Tốt lắm! Rất đúng!” Từ cư sĩ liền đi thỉnh Tế Lâm pháp sư đến
truyền thọ Tam quy, đặt cho pháp danh là Kim Khiết. Trước đó Kim Hiên nằm nhằm
mắt, chỉ còn hơi thở mong manh thoi thóp, nhưng đến lúc làm lễ quy y, tinh thần
chợt tỉnh táo phấn chấn. Người nhà thử hỏi pháp danh, đều đáp rành rẽ.
Ba ngày sau, vào giờ
Dậu, ông bỗng gọi vợ bảo: “Tôi sắp vãng sanh, cô nên phát tâm gắng chí niệm!”
Người nhà nghe nói, đều vây quanh đồng thanh trợ niệm. Kim Hiên gượng ngồi dậy,
chắp tay hướng về Tây, an lành mà thoát hóa, hưởng dươmg được bốn mươi mốt
tuổi.
Ngày kế nhập liệm, sắc
diện ông tươi tỉnh như sống. Cô vợ nhân đó, sanh lòng tin ăn chay niệm Phật,
mỗi buổi sáng đều hướng dẫn con cái trì tụng để truy tiến cho chồng. Hàng nhơn
sĩ địa phương nghe thấy việc nầy, một số đông người phát lòng tín hướng.
KHUYÊN TU TỊNH ĐỘ
của Tỉnh Am đại sư
1.- Di Đà thệ lớn há nguyên
không?
Mười niệm xưng danh chẳng uổng công
Chớ ngại cõi trần rồi vắng khách
Chỉ e lưới nghiệp vấn trăm vòng
Muôn sông về biển bờ đâu ngập?
Trăm nước chầu vua điện vẫn không
Dễ đến không người, thôi đáng tiếc!
Việc chi còn mến cảnh lao lung?
Giải Thích:
Liên tiếp tám bài thi
trong đoạn nầy, đều là của Tỉnh Am đại sư. Để được dễ trực nhận, bút giả xin
giải thích ngay từng bài:
Có kẻ hỏi: “Nếu khuyên
mọi người vãng sanh hết, thì cõi nầy còn ai ở? Và nếu tất cả người đều về Cực Lạc,
nơi đó đất đâu mà dung chứa?” Đại sư đáp: “Chớ vội lo cõi nầy không có người ở,
chỉ e cho ngay trước mắt lưới nghiệp vây quấn khiến liền bị sa đọa! Lại như
muôn sông đổ dồn về biển, biển đâu bị tràn ngập? Sứ giả trăm nước đến chầu vua,
điện Hàm Dương vẫn rộng thông. Cảnh Tịnh độ tùy nguyện lực của Phật biến hiện
cũng như thế. Chỉ tiếc cõi Cực Lạc dễ về mà người đời còn mến cảnh lao tù tam
giới, không chịu cầu vãng sanh đó thôi!”
2.- Người đồn Thiên Trúc
chính Tây phương
Thiên Trúc, Chi Na (Trung Quốc) chỉ cách tường
Nghiệp ở cõi nhơ bàn tịnh uế
Thân nơi nhà lửa luận viêm lương
Ba ngàn thế giới trong luân chuyển
Muôn ức càn khôn thật cố hương!
Đến đến chớ sầu đường cách trở
Niệm tâm vừa tịnh thấy Không Vương.
Giải Thích:
Đương thời có nhiều kẻ
lầm nhận cõi Tây phương tức Tây Thiên Trúc, cách xứ Chi Na là nước Trung Hoa
mười muôn tám ngàn dặm. Lại có người luận mười muôn tám ngàn tức chỉ cho Thập
bát giới gồm sáu căn sáu trần sáu thức, diệt mười tám giới sẽ thấy cảnh Tây
phương của tự tâm. Đại sư đáp: “Thiên Trúc với Chi Na chỉ cách tường vách nghĩa
là rất gần nhau, cũng đồng ở nơi nhà lửa ngũ trược của Ta Bà, đâu phải là Cực
Lạc? Còn luận về Cực Lạc tự tâm tức Duy tâm tịnh độ, thì chỉ nên để cho bậc đã
đắc vô sanh nhẫn. Đối với phàm phu đầy nghiệp chướng, thân còn ở trong nhà lửa
mà vội không hóa sự nhơ sạch, nóng mát theo luận thuyết duy tâm, không chịu
niệm Phật, tất sẽ bị xe luân hồi quay, lửa tam giới đốt mà thôi. Chúng sanh nơi
tam thiên đại thiên thế giới còn ở trong vòng luân hồi. Chỉ cõi Cực Lạc ngoài
mười muôn ức Phật độ kia mới thật là quê hương, vì khi được về
đó tất không còn bị nổi trôi luân lạc nữa”.
3.- Ai rằng: mọi chỗ
tức Tây trì
Cao, thấp, sạch, nhơ cổ ngại gì!
Nhà xí khi vào sao bịt mũi?
Vũng tầy quá bước vén xiêm y?
Ốm đau lắm, lại thương thân khổ
Nắng gió chiều, than trái tiết thì!
Chớ nói lời suông sai thật hạnh
Hồi tâm mau sớm niệm A Di.
Giải Thích:
Có kẻ vịn câu nói của cổ
đức: “Cao sơn bình địa tổng Tây phương”, rồi bảo: “Chỉ cần tâm ta thanh tịnh,
thì mọi nơi như núi cao đất bằng, các chỗ nhơ sạch đều là Tây phương Tịnh độ,
là ao báu hoa sen cả, không có chi chướng ngại, cần gì phài cầu vãng sanh?”
Phải biết câu nói trên là cảnh giới của bậc đã chứng ngộ, phàm phu bắt trước
theo chỉ thành ra lời suông vô ích. Chính những kẻ nói như thế, khi vào nhà xí
còn bịt mũi, bước qua chỗ lầy lội phải vén áo xiêm, ốm đau vẫn thấy khổ, nắng
gió mưa nhiều cũng than trách, có điều chi là vô ngại đâu?
4.- Thường chê niệm Phật
việc người ngu
Công việc người ngu, Phật cũng tu!
Long Thọ biện tài đâu ngốc Hán?
Văn Thù trí huệ há phàm phu?
Từ chương nhã luận còn Cư Dị?
Công cứ theo mình hỏi Đại Tô?
Nhắn kẻ thông minh nên nghĩ lại
Diêm La xét tội chẳng hồ đồ.
Giải Thích:
Những vị thông minh có
học thức thấy kẻ quê mùa cũng niệm Phật được, thường chê rẽ cho đó là lối tu
của hạng ngu dốt. Nên xét nghĩ, như Thiên Thai Trí Giả tương truyền là hóa thân
của đức Thích Ca, Vĩnh Minh đại sư là hóa thân của đức Di Đà, hai vị đó đều là
Cổ Phật, mà còn tu Tịnh độ để làm mô phạm hướng dẫn chúng sanh. Và các ngài như
Văn Thù, Long Thọ, hai vị Bồ Tát ấy đâu phải là phàm phu, kẻ ngốc, mà vẫn khen
ngợi cùng hành trì theo môn nầy. Lại còn như Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha, hai bậc
văn hào từ chương tao nhã, kẻ chuyên niệm Phật, người thì đem Tây phương công
cứ luôn theo bên mình, là hạng người gì, ngu dốt hay trí thức? Vậy nên suy
nghĩ, đừng vội phỉ báng mà mang tội.
5.- Nếu nói sanh Tây còn
thuộc vọng
Trụ nơi cõi trược há thành chân?
Đông Tây chẳng chấp càng phi lý
Tịnh uế đều quên cũng pháp trần
Sanh vốn không sanh, sanh bốn cõi
Thấy như lìa thấy, thấy ba thân
Biết chăng chân vọng nguyên đồng thể?
Mê ngộ đểu do tại bản nhơn.
Giải Thích:
Có kẻ lại bảo: “Bản tính
vốn vô sanh, cầu sanh Tây phương là còn thuộc vọng!” Đáp: “Nói thế thì trụ mãi
ở cõi nầy, lại thành ra chân thật hay sao? Nếu nói: tôi không cầu sanh về Tây,
không chấp trụ ở Đông, tùy ý thọ sanh, lại càng phi lý. Vì chỉ có bậc Pháp thân
đại sĩ mới tùy ý thọ sanh được. Còn hàng phàm phu, nếu không cầu sanh Tây
phương để mau tiến tu giải thoát, tất phải theo nghiệp chịu luân hồi ở cõi nầy,
rồi từ đó dễ tạo nghiệp bị sa đọa. Nếu lại bảo: tôi không chấp tịnh uế, nên
không cầu cõi sạch chán cõi nhơ! Khởi một niệm như thế cũng thuộc về pháp chấp
rồi, làm sao nói là không chấp được? Cho đến bậc thức đạt, dù sanh về Tây
phương, từ cõi Đồng cư tiến lên Thường tịch, mà vẫn thấy không sanh. Dù chứng
ngộ ba thân, vẫn lìa sự thấy biết về chứng ngộ. Thế thì có gì trái với lý vô
sanh vô chứng đâu?”
6.- Chớ chấp Đàn Kinh bài
bác Tịnh
Tổ cơ, lời Phật thảy viên dung
Mượn lời chỉ lý tuyên thiền đạo
Được ý quên lời hiểu diệu tông
Thập thiện đều tu đâu phải tội?
Chư hiền đồng niệm há thành không?
Đông tây một thể vô lai khứ
Pháp giới linh minh cõi đại đồng!
Giải Thích:
Trong kinh Pháp Bảo Đàn,
đức Lục Tổ có nói: “Người ở Đông phương tạo tội cầu sanh Tây phương, người Tây
phương tạo tội cầu sanh về cõi nào?” Lời nầy chỉ là cơ phong của Tổ, mượn đó để
đưa hành nhơn ngộ thẳng vào chân tánh, chớ chẳng phải bác rằng không có Tịnh
độ, cùng bảo đừng nên cầu sanh. Kẻ thức đại học đạo cần phải được ý quên lời,
chớ nệ chấp lời mà hại ý. Đối với Phật, chư Tổ là hàng hậu lai. Phật còn khuyên
niệm Di Đà cầu sanh, lẽ đâu Tổ lại bác? Lại nên biết, hành giả sanh về Tây
phương đều tu thượng phẩm Thập thiện, thì người Tây phương đâu có tạo tội? Và
chư hiền thánh xưa nay rất nhiều vị niệm Phật, hành động đó đâu phải nông nổi
lầm lạc, hay luống uổng không hư?
7.- Niệm Phật quả như nên
súc miệng?
Tụng kinh môi ngậm cũng ưng cần!
Thuốc dùng trị bịnh, sao gây bịnh?
Lửa để điều thân, lửa đốt thân!
Phàm niệm vẫn đầy, chê thánh niệm
Phật tình chưa khỏi nói trừ nhân!
Lời xa hiện thật, khuyên ngưng lại
Lo gấp đời nầy thoát khổ luân!
Giải Thích:
Khi xưa, ngài Triệu Châu
có nói: “Một chữ Phật ta chẳng thích nghe. Nếu niệm Phật một câu, phải súc
miệng ba ngày!” Nhiều kẻ vịn vào hai lời trên đây bảo: “Thiền sư Triệu Châu vốn
bậc danh đức, Ngài đã nói như thế, tất niệm Phật là điều thấp kém lỗi lầm,
không cần thiết!”
Tỉnh Am đại sư gạn hỏi
lại: “Nếu niệm Phật là lỗi lầm cần nên súc miệng, thì xưa nay các bậc cao đức
cho đến Tăng Ni ở khắp tòng lâm, lúc tụng kinh trong những thời khóa tụng, tất
cũng ưng cần ngậm miệng đừng hé môi mới phải! Và như thế, lý ấy có đúng không?
Phải biết Triệu Châu đại sư là bậc chứng ngộ, muốn hướng dẫn hạng thượng thượng
căn phá mối chấp kiến về Phật, nên mới nói những lời ấy, chớ đâu phải ý ngài
cốt bác phá sự niệm Phật! Đại khái, tất cả những cơ ngữ bên thiền, lời ở nơi
nầy mà ý điểm khác. Cẳng hạn như Tổ Quy Sơn nói: “Sau khi lão tăng viên tịch,
sẽ chuyển kiếp làm con trâu ở dưới chân núi!” Lời nầy đâu phải ý chỉ định
chuyển kiếp làm trâu? Nếu nhận là thật, rồi cứ theo lời nói mà giải thích, thì
đã sai lầm còn gây thêm tội lỗi. Ví như lửa có công dụng sưởi ấm điều hòa thân
thể trong tiết lạnh, cho đến nấu chín thức ăn, nếu biết dùng thì rất lợi ích.
Bằng trái lại, tất sẽ bị thiêu thân cháy nhà. Lửa trí huệ Bát Nhã cũng thế, hay
trị bịnh kiến chấp. Nhưng nếu chẳng biết dùng, lại trở nên gây bịnh, lạc vào
lối chấp thiên không bác phá nhân quả, rồi sẽ bị sa đọa. Phần đông người học
Phật thời mạt pháp đều là hạng trung, hạ căn, phàm tình phiền não đầy dẫy. Nếu
khinh chê phá không dùng đến thánh niệm xưng Phật danh để tiêu trừ nghiệp
chướng, thì làm sao giải thoát? Trong tâm phiền loạn ấy, chính ngay Phật tình
như câu hồng danh, mà còn chưa khởi sanh niệm lên được, nói chi đến việc cao
siêu, dứt trừ Phật kiến? Luận cho cùng, với bậc thượng căn, khi niệm Phật không
thấy mình là người hay niệm, Phật là vị được niệm, chúng sanh kiến cùng Phật
kiến đều rỗng không. Niệm Phật như thế cũng đâu có chi trái với ý ngài Triệu
Châu, mà bảo không cần niệm? Nhược bằng căn hạnh chưa được như vậy, tốt hơn là
mặc dù còn chấp thấy Phật, cũng nên mau niệm Phật để thoát khỏi luân hồi, đừng
nói những lời xa vời vô ích trái với hiện thật.
8.- Niệm Phật viên thông
nhiếp sáu căn
Nhĩ căn ai bảo chiếm ưu phần?
Âm văn nếu chính viên thường thể
Danh tự đâu là khởi diệt nhân!
Dùng niệm niệm danh, danh vẫn thiết
Đem nghe nghe Phật, Phật càng gần!
Xét ra hai thánh đều huynh đệ
Đồng giúp Di Đà tiếp vãng sanh.
Giải Thích:
Trong kinh Lăng Nghiêm,
về phần Tuyển trạch viên thông, đức Văn Thù có bình luận môn tu Niệm Phật của
ngài Đại Thế Chí bằng mấy câu:
“Các hành là vô thường.
Niệm tánh vốn sanh diệt. Nhân quả nay sai khác. Làm sao được viên thông?”
Và kết cuộc Văn Thù Bồ
Tát đã chọn lấy lối tu phản văn thuộc về Nhĩ căn của đức Quán Thế Âm với hai
câu:
“Phương nầy chân giáo
thể, Thanh tịnh bởi âm văn”.
Có kẻ khi đọc tới đoạn
trên đây, chấp rằng: “Đức Văn Thù đã bình luận lựa chọn như thế, thì ngồi tịnh
lắng nghe vào trong là môn tu cao siêu hơn cả, chẳng nên niệm Phật làm chi cả!”
Đại sư giải thích: “Thật
ra chân không vẫn ở trong huyễn hữu. Luận về phần tương đối phiến diện, thì các
hành đều vô thường sanh diệt. Nhưng bàn sâu đến chỗ viên dung toàn diện, chính
các hành là thể chân thường tịch diệt. Cho nên tất cả môn tu của hai mươi lăm
vị thánh trong kinh Lăng Nghiêm, đều đủ ba nghĩa: viên, thông, thường. Để chứng
minh, như đức Văn Thù đã nói phần âm văn tức nghe tiếng, là để viên thường. Thế
thì âm thanh danh hiệu A Di Đà, đâu phải là nhân sanh diệt? Và chính ngài cũng
lại nói: “Thánh tánh vô bất thông. Thuận nghịch gia phương tiện”. Thánh tánh
thảy đều thông, tất biết pháp nào cũng là viên thường. Như vậy đủ rõ tánh cách
niệm danh hiệu đâu phải sanh diệt, chẳng qua tùy cơ nghi thuận nghịch mà nói
thế thôi. Cho nên phải nhận thức chỗ bình luận của đức Văn Thù, thuận hay
nghịch, hơn hoặc kém, cũng đều là phương tiện tùy cơ mà quyền nói. Bởi duyên
kinh Lăng Nghiêm phần lớn khai thị về lối tu thiền theo không môn, đức Văn Thù
phải tùy ứng theo đường cơ mà lựa chọn như thế, chớ chẳng phải tu pháp Nhĩ căn
của đức Quán Thế Âm là cao siêu hơn hết đâu!
Lại còn nhiều bằng chứng
như trong nhều kinh đại thừa khác, Văn Thù Bồ Tát đã rất khen ngợi môn Niệm
Phật, cho Niệm Phật tam muội là pháp công đức cao dễ tu dễ tiến nhứt. Môn Niệm
Phật nhiếp cả sáu căn, ý căn là chủ, năm căn kia thuộc phần phụ. Lối tu Nhĩ căn
chỉ từ một cửa mà vào, niệm Phật thì cả sáu căn đều thâu nhập. Cho nên Nhĩ căn
không nhiếp niệm Phật. Niệm Phật gồm nhiếp Nhĩ căn và thích hợp với cả ba cơ
thượng, trung, hạ. Tóm lại, hai lối tu của đức Quán Thế Âm cùng Đại Thế Chí
thật ra đều đồng đẳng, không phân cao thấp. Và hai ngài cùng là pháp hữu, cùng
phụ đức A Di Đà tiếp dẫn loài hữu tình mười phương sanh về Cực Lạc, cùng thân
thiết chẳng cách xa nhau vậy”.
Như trên, vì lòng từ bi Tỉnh Am đại sư đã dùng thi văn phá lối nhận thức sai lầm của một số đông người học Phật, để đưa họ vào con đường thẳng ích. Chủ tâm của Ngài chẳng phải có ý muốn đề cao Tịnh độ hơn các môn khác, bởi lẽ Ngài cũng là một đại thiền sư. Tập thi văn còn nhiều, bút giả chỉ chọn dịch và giải thích mấy bài trọng yếu.
Comments
Post a Comment