Ðại-Bi-Tâm Ðà-Ra-Ni



Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da.1

Nam-mô a rị da2, bà lô yết đế thước bác ra da3, Bồ-đề tát đỏa bà da4, ma ha tát đỏa bà da5, ma ha ca lô ni ca da6Án!7, tát bàn ra phạt duệ8, số đát na đát tỏa9.

Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da10, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà11.

Nam-mô na ra cẩn trì12, hê rị ma ha bàn đa sa mế13, tát bà a tha đậu thâu bằng14, a thệ dựng15, tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già16, ma phạt đạt đậu17đát điệt tha.18

Án, a bà lô hê19, lô ca đế20, ca ra đế21, di hê rị22, ma ha bồ-đề tát đỏa23, tát bà tát bà24ma ra ma ra25, ma hê ma hê, rị đà dựng26, cu lô cu lô kiết mông27, độ lô độ lô, phạt xà da đế28, ma ha phạt xà da đế29, đà ra đà ra30, địa rị ni31, thất Phật ra da32, dá ra dá ra33.

Mạ mạ phạt ma ra34, mục đế lệ35, y hê di hê36, thất na thất na37, a ra sâm Phật ra xá-lợi38, phạt sa phạt sâm39, Phật ra xá da40, hô lô hô lô ma ra41, hô lô hô lô hê lỵ42, ta ra ta ra43, tất rị tất rị44, tô rô tô rô45, bồ-đề dạ bồ-đề dạ46, bồ-đà dạ bồ-đà dạ47, di đế rị dạ48, na ra cẩn trì49, địa rị sắc ni na50, ba dạ ma na51, ta bà ha52.

Tất đà dạ53, ta bà ha54. Ma ha tất đà dạ55, ta bà ha56. Tất đà du nghệ57, thất bàn ra dạ58, ta bà ha59. Na ra cẩn trì60, ta bà ha61. Ma ra na ra62, ta bà ha63. Tất ra tăng a mục khê da64, ta bà ha65. Ta bà ma ha, a tất đà dạ66, ta bà ha67

Giả kiết ra a tất đà dạ68, ta bà ha69. Bà đà ma yết tất đà dạ70, ta bà ha71. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ72, ta bà ha73. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ74, ta bà ha75.

Nam-mô hắt ra đát na, đa ra dạ da76.

Nam-mô a rị da77, bà lô yết đế78, thước bàng ra dạ79, ta bà ha80.

Án! Tất điện đô81, mạng đa ra82, bạt đà dạ83, ta-bà ha84.



PHẬT-ĐẢNH TÔN-THẮNG ĐÀ-RA-NI

 

(Hai tay kết ấn Phật đảnh tôn thắng y như trong kinh dạy, trì thần chú Phật đảnh, tùy theo nguyện, hoặc ít, hoặc nhiều)

 

Nam-mô ba ga pha tê. Sạt hoa tát răn, lô ky da. Bơ ra di, vi ti sắc tra da. Bút đà da, ba ga pha tê. Tát đi da tha !

Um ! Bút rum, bút rum, bút rum. Suýt đà da, Suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Á sá ma, sá ma. Sa măn tá, phạ hoa sát. Sa phả ra na, ga ti, ga gạ na. Soa phạ hoa, vi suýt đi. Á vi chuân da, du măn. Sạt hoa tát thá ga đá. Sú ga da. Phạ ra, phạ ca nã. A mi rị tá, bi sá cu. Ma ha muýt đơ ra, măn đa ra, ba na.

Um ! Á hạ ra, á hạ ra. A du săn, đà ra ni. Suýt đà đa, suýt đà đa. Ga ga na, xoa phạ hoa, vi suýt đi. U sắc ni sá, vi ca da, vi suýt đi. Sá hạ sa ra, ra sa mi, săn tô ni tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa. A hoa lô ki ni. Sạt hoa tát thá ga đa, mát tê. Sá tra, bá ra mi tá. Ba rị, bủ ra ni. Na sá, bủ mi bơ ra, đi sắc si tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa, hất rị đà da. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê.

Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri. Hoa di ra, ca da. Săn hạ đa nã, vi suýt đi. Sá ra hoa, ca ma, phạ ra na, vi suýt đi. Ba ra, đu ri ca ti, bi ri, vi suýt đi. Bơ ra ti na, hoa ra đá da, a dục suýt đi. Sam ma dã, đi sắc sá na, đi sắc si tê.

Um ! Ma ni, ma ni, mạ hạ ma ni. Á ma ni, á ma ni. Vĩ ma ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni. Mát đi, mát đi, mạ hạ mát đi. Tát thá đá, bủ đa. Cu thi, vi ri suýt đi. Vĩ sa phổ ra, bút đi, vi suýt đi.

Um ! Hi hi. Dá ra, dá ra. Vĩ dá ra, vĩ dá ra. Sa ma ra, sa ma ra. Sa phạ ra, sa phạ ra. Sá ra phạ, bút đa. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê. Suýt đi, suýt đi. Họa di ri, họa di ri, mạ hạ họa di ri. Á họa di ri. Họa di ra, gạ bi. Dá ra, gạ bi. Vĩ da ra, gạ bi. Họa di ra, rít họa lã, gạ bi. Họa di rô, na ga tê. Họa di rô, na bà vê. Họa di ra, sam bà vê. Họa di rô, họa di rị na. Họa di rảm, hoa phạ, đô mạ mạ. Sá rị rảm, sá ra phạ, sát ta phạ năng. Tả ca da, bi ri, vi suýt đi. Sất da, hoa phạ, đô mi, sát na. Sá ra phạ, ga ti, bi rị suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đa, sất da mi. Sá ma, sa phạ, sát dăn tu. Sạt hoa, tát thá ga đa. Sá ma, sá phạ sa, đi sắc si tê.

Um ! Sất đi da, sất đi da. Bút đi da, bút đi da. Vi bút đi da, vi bút đi da. Bồ đà da, bồ đà da. Vi bồ đà da, vi bồ đà da. Mô ca da, mô ca da. Vi mô ca da, vi mô ca da. Suýt đà da, suýt đà đa. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Sa măn tá, tát bi ri, mô ca da. Sa măn đá đa, sa mi, bi ri suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà da. Đi sắc sá na, đi sắc si tê.

Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, mạ hạ muýt đơ ra. Mạn đà ra, bá na. Đi sắc si tê. Sóa ha.


KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN

VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ÐÀ RA NI


PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG

ĐÀ RA NI

NGHI   THỨC   HÀNH   TRÌ



Nam-Mô Hộ-Pháp Vi- Đà Tôn-Thiên  Bồ-Tát Ma-Ha-Tát 


HỘ PHÁP CHƠN NGÔN


NAMO SUSIDHI TARI TARI, 

MANDA MANDA,  SVAHA.

 

Nam-mô Su sít đi Ta ri Ta ri, 

Măng đa Măng đa, Xóa-ha.





MAHAKARUNA DHARANI


 

1. NAMO RATNATRAYÀYA

2. NAMO ARYA     

3. AVALOKITÉSHAVARAYA

4. BODHISATTVAYA

5. MAHASATTVAYA

6. MAHA KARUNIKAYA

7. AUM!

8. SAVALAVATI

9. SUDHANATASYA

10. NAMASKRITTVA NIMAN ARYA

11. AVALOKITÉSHAVARA LANTABHA

12. NAMO NILAKANTHA

13. SRI MAHAPATASHAMI

14. SARVAD VATASHUBHAM

15. ASHIYUM

16. SARVASATTVA NAMO PASATTVA NAMO BHAGA

17. MABHATETU

18. TADYATHA

19. AUM! AVALOKA

20. LOKATE

21. KALATI

22. ISHIRI

23. MAHABODHISATTVA

24. SABHO SABHO

25. MARA MARA

26. MASHI MASHI RIDHAYU

27. GURU GURU GHAMAIN

28. DHURU DHURU BHASHIYATI

29. MAHA BHASHIYATI

30. DHARA DHARA

31. DHIRINI

32. SHVARAYA

33. JÁLA JÁLA

34. MÀMÀ BHÀMARA

35. MUDHILI 

36. EHY EHY 

37. SHINA SHINA

38. ALASHINBALASHÁRI

39. BASHÁ BHASNIN

40. BHARASHÁYA

41. HULU HULU PRA

42. HULU HULU SHRI

43. SARA SARA

44. SIRI SIRI 

45. SURU SURU 

46. BUDDHÀYA BUDDHÀYA

47. BODHÀYA BODHÀYA

48. MAITRIYÉ 

49. NILAKANSTA

50. TRISA RANA

51. BHAYA MANE

52. SVAHA

53. SITAYA

54. SVAHA 

55. MAHA SITAYA 

56. SVAHA

57. SITAYAYE

58. SHVARAYA

59. SVAHA

60. NILAKANTHI

61. SVAHA 

62. PRANILA

63. SVAHA 

64. SHRISINHAMUKHAYA

65. SVAHA

66. SARVA MAHA ASTAYA

67. SVAHA 

68. CHAKRA ASTAYA

69. SVAHA 

70. PADMAKÉSHAYA

71. SVAHA

72. NILAKANTÉ PANTALAYA

73. SVAHA 

74. MOPHOLISHAN KARAYA

75. SVAHA

76. NAMO RATNATRAYAYA

77. NAMO ARYA

78. AVALOKITÉ

79. SHAVARAYA

80. SVAHA 

81. AUM! SIDDHYANTU

82. MANTRA

83. PATAYA

84. SVAHA 

 


MAHAKARUNA DHARANI

ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI


 

1. NAMO RATNATRAYÀYA

2. NAMO ARYA     

3. AVALOKITÉSHAVARAYA

4. BODHISATTVAYA

5. MAHASATTVAYA

6. MAHA KARUNIKAYA

7. AUM!

8. SAVALAVATI

9. SUDHANATASYA

10. NAMASKRITTVA

       NIMAN ARYA

11. AVALOKITÉSHAVARA

       LANTABHA

12. NAMO NILAKANTHA

 

13. SRI MAHAPATASHAMI

14. SARVAD VATASHUBHAM

15. ASHIYUM

16. SARVASATTVA NAMO

       PASATTVA NAMO BHAGA

17. MABHATETU

18. TADYATHA

19. AUM! AVALOKA

20. LOKATE

21. KALATI

22. ISHIRI

23. MAHABODHISATTVA

24. SABHO SABHO

25. MARA MARA

26. MASHI MASHI RIDHAYU

27. GURU GURU GHAMAIN

28. DHURU DHURU BHASHIYATI

29. MAHA BHASHIYATI

30. DHARA DHARA

31. DHIRINI

32. SHVARAYA

33. JÁLA JÁLA

34. MÀMÀ BHÀMARA

35. MUDHILI 

36. EHY EHY 

37. SHINA SHINA

38. ALASHINBALASHÁRI

39. BASHÁ BHASNIN

40. BHARASHÁYA

41. HULU HULU PRA

42. HULU HULU SHRI

43. SARA SARA

44. SIRI SIRI 

45. SURU SURU 

46. BUDDHÀYA BUDDHÀYA

47. BODHÀYA BODHÀYA

48. MAITRIYÉ 

49. NILAKANSTA

50. TRISA RANA

51. BHAYA MANE

52. SVAHA

53. SITAYA

54. SVAHA 

55. MAHA SITAYA 

56. SVAHA

57. SITAYAYE

58. SHVARAYA

59. SVAHA

60. NILAKANTHI

61. SVAHA 

62. PRANILA

63. SVAHA 

64. SHRISINHAMUKHAYA

65. SVAHA

66. SARVA MAHA ASTAYA

67. SVAHA 

68. CHAKRA ASTAYA

69. SVAHA 

70. PADMAKÉSHAYA

71. SVAHA

72. NILAKANTÉ PANTALAYA

73. SVAHA 

74. MOPHOLISHAN KARAYA

75. SVAHA

76. NAMO RATNATRAYAYA

77. NAMO ARYA

78. AVALOKITÉ

79. SHAVARAYA

80. SVAHA 

81. AUM! SIDDHYANTU

82. MANTRA

83. PATAYA

84. SVAHA 

 

1. Na mô rát na tra da da.

2. Na mô a rị da.

3. A va lô ki tê, sa va ra da.

4. Bô đi sát toa da.

5. Ma ha sát toa da.

6. Ma ha ka ru ni ka da.

7. Um!

8. Sa va la va ti.

9. Suýt đa na tát si a.

10. Na ma sít krít toa

       ni manh a rị da.

11. A va lô ki tê, sa va ra

       lanh ta pha.

12. Na mô ni la canh tha.

 

13. Sít ri ma ha ba tát sa mi.

14. Sạt vát va tát su băn.

15. Át si dum.

16. Sạt va sát toa, na mô

       ba sát toa, na mô phạ ga.

17. Ma phê tê tu.

18. Tát đi da tha.

19. Um! A va lô ka.

20. Lô ka tê.

21. Ka la ti.

22. Y si ri.

23. Ma ha bô đi sát toa.

24. Sa phô sa phô.

25. Ma ra ma ra.

26. Ma si ma si rít đà du.

27. Gu ru gu ru gà măn.

28. Đu ru đu ru pha si da ti.

29. Ma ha pha si da ti.

30. Đa ra đa ra.

31. Đi ri ni.

32. Soa va ra da.

33. Já la já la.

34. Mạ mạ … Phạ ma ra.

35. Muýt đi li.

36. Ê hy ê hy.

37. Si na si na.

38. A la sin ba la sá ri.

39. Ba sa pha sí nin.

40. Pha ra sá ra.

41. Hu lu hu lu bờ ra.

42. Hu lu hu lu sí ri.

43.Sa ra sa ra.

44. Si ri si ri.

45. Su ru su ru.

46. Buýt đà da buýt đà da.

47. Bồ đà da bồ đà da.

48. Mét trí dê.

49. Ni la kanh sí ta.

50. Tri sa ra na.

51. Pha da ma nê.

52. Sóa ha.

53. Si ta da.

54. Sóa ha.

55. Ma ha si ta da.

56. Sóa ha.

57. Si ta da dê.

58. Soa va ra da.

59. Sóa ha.

60. Ni la kanh thi.

61. Sóa ha.

62. Bờ ra ni la.

63. Sóa ha.

64. Sít ri sin ha muýt kha da.

65. Sóa ha.

66. Sạt va ma ha, a sít ta da.

67. Sóa ha.

68. Sắt kờ ra, a sít ta da.

69. Sóa ha.

70. Pát đơ mạ kê sít ta da.

71. Sóa ha.

72. Ni la kanh tê banh ta la da.

73. Sóa ha.

74. Mô phô li săn, ka ra da.

75. Sóa ha.

76. Na mô rát na tra dạ da.

77. Na mô a rị da.

78. A va lô ki tê.

79. Soa va ra da.

80. Sóa ha.

81. Um! Sít đi dăn tu.

82. Manh tra.

83. Pa ta da.

84. Sóa ha ./.

 

 

Tụng Đại-Bi 21 biến,

Niệm Di Đà 10 câu.

Niệm Quán-Thế-Âm 10 câu,

rồi quỳ xuống sám hối :

 










MAHAKARUNA DHARANI

 ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI


XUẤT TƯỢNG






















































MAHAKARUNA DHARANI

 ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI

 

THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN

PHÁP-BỬU CHƠN-NGÔN-ĐỒ


























- Này A Nan! Những việc có thể mong cầu như thế, kể có ngàn điều. Nay ta chỉ nói lược qua chút ít phần thôi. 

 


Khi ấy Nhựt Quang Bồ Tát vì người thọ trì Đại Bi Tâm đà ra ni nói đại thần chú để ủng hộ rằng: 



Nhựt-Quang Bồ-tát 

Đà-ra-ni



Nam mô Bột-đà cù na mê. 
Nam mô Đạt-mạ mạc ha đê. 
Nam mô Tăng-già đa dạ nê.

Để chỉ bộ tất tát đốt chiêm nạp mạ. 





Nhựt Quang Bồ Tát bạch Phật: 

- Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này diệt được tất cả tội, cũng đuổi được ma và trừ thiên tai. Nếu kẻ nào tụng chú này một biến, lễ Phật một lạy, mỗi ngày chia ra làm 3 thời tụng chú lễ Phật như thế, trong đời vị lai tùy theo chỗ thọ thân, thường được tướng mạo xinh đẹp, được quả báo đáng vui mừng. 

Nguyệt Quang Bồ Tát cũng vì hành nhơn mà nói đà ra ni để ủng hộ rằng: 

 



Nguyệt-Quang Bồ-tát 

Đà-ra-ni

 

Thâm đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế ô đô tra. Thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhã tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sá-phạ hạ.

 



Nguyệt Quang Bồ Tát lại bạch Phật: 

- Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này 5 biến, rồi lấy chỉ ngũ sắc xe thành sợi niệt, gia trì chú vào, buộc tréo nơi tay, chú này do 40 hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra, nay tôi cũng nói để vì các hành nhơn mà làm duyên ủng hộ. Chú này có công năng trừ tất cả chướng nạn, tất cả bịnh ác, xa lìa tất cả sự sợ hãi. 

Đức Phật bảo ngài A Nan: 

- Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại Bi tâm đà ra ni này và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà ra ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong 3 cõi. Tất cả bịnh khổ ràng buộc nơi thân, nếu dùng đà ra ni này mà trị thì không bịnh nào chẳng lành, dùng đại thần chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sanh cành lá, trổ bông, trái, huống chi là chúng sanh có tình thức ư? Nếu thân bị đại bịnh, dùng chú này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có. 

Này thiện nam tử! Sức oai thần của Đại Bi tâm đà ra ni không thể nghĩ bàn! Không thể nghĩ bàn! Khen ngợi không bao giờ hết được, nếu chẳng phải là kẻ từ thời quá khứ lâu xa đến nay đã gieo nhiều căn lành, thì dù cho cái tên gọi còn không được nghe, huống chi là được thấy! Nay đại chúng các ông, cả hàng trời, người longthần, nghe ta khen ngợi phải nên tùy hỉ. Nếu kẻ nào hủy báng thần chú này tức là hủy báng 99 ức hằng hà sa chư Phật kia. Nếu người nào đối với đà ra ni này sanh nghi không tin, nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn, trăm ngàn muôn kiếp không bao giờ nghe thấy Phật, Pháp, Tăng, thường chìm trong tam đồ không biết bao giờ mới được ra khỏi. 

Khi ấy, tất cả chúng hội, Bồ Tát Ma ha tát, Kim Cang mật tích, Phạm vương, Đế Thích, tứ đại thiên vương, thiên, long, quỷ thần, nghe đức Như Lai khen ngợi môn đà ra ni này xong, thảy đều vui mừng, y lời dạy mà tu hành.

 

 

KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN

VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ÐÀ RA NI

 

 CHUNG



TƯỞNG NIỆM

CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN-TÂM

(21-11-92 ÂL)


 

Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,

Trần thế vinh-hư sá kể gì.

Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,

Mừng nay được thấy đức A-DI.



NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT


Kính thưa đại chúng,


Tôi bẩm chất gầy yếu, trong vài năm trở lại đây, tinh thần cùng sức khỏe thật ra đều suy kém. Vì ngại cơn vô thường chợt đến, nên nguyện an thất tịnh dưỡng, trì niệm cho mãn kiếp gởi tạm sống thừa! Trước kỳ tự tứ vừa qua, vào ngày 12 tháng 7 Âl năm Nhâm Thân 1992, Tôi có viết thư cho thầy Minh Tánh và Toại Châu nhờ thầy thay lời, xin đại chúng gồm chư Đại Đức Tăng ni và Phật tử, vui lòng thứ miễn cho việc tiếp xúc cùng làm lễ khánh tuế sau khi mãn hạ. Nhưng khi hỏi lại, thì thầy Toại Châu nói đã đánh mất bức thư ấy, nên chẳng tuyên bố. Do đó mà nhiều người đến thăm không được gặp, nên sanh lòng phiền muộn.


Kỳ Bồ Tát vừa rồi Sư Cô Phương Liên (Thích nữ Thanh Nguyệt) có nhắc qua việc ấy (2-8-1992) nhờ thầy Toại Châu trùng tuyên lại những lời của tôi, mà thầy cũng quên luôn. Trong ngày giỗ Tổ này e đại chúng trách rằng: Tôi bỏ quên, không để tâm nhắc nhở, nên xin có ít lời khuyên tấn, tạm gọi là giữ cho xong phần nào vai trò của người lớn trong đạo. Nhưng vì còn lo thầy Toại Châu đau yếu, rồi quên trước quên sau, nên nhân tiện nhờ Sư Cô Phương Liên (Thích nữ THANH NGUYỆT) là người thân cận (Trưởng tử tôi) thay nhọc chư tăng ni, đọc qua mấy lời phụng khuyến cho đại chúng được rõ:


Thưa chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni :


Trước tiên, tôi kính thăm tất cả đều được an lành và siêng năng tiến đạo. Thứ đến, xin có đôi lời phụng khuyến.


Từ xưa đến nay, trong nhà chùa vào trong những ngày vía Tổ chư Tăng Ni thường có lời phục nguyện:


“Tông phong vĩnh chấn,
Tổ ấn trùng quang”.


Nói riêng theo pháp môn “NIỆM PHẬT” tức là nguyện cho tông “TỊNH ĐỘ” do chư Tổ tuyên dương, được chấn chỉnh và hưng thạnh phải như thế nào? Tôi xin nêu ra mấy chi tiết. Như trong “Bồ Tát Giới Kinh” đã dạy: Già chết gần kề. Phật, pháp sắp diệt. Các Phật tử vì muốn đắc đạo phải nên nhứt tâm cần cầu tinh tiến”. Câu kinh này đưa ra ba điều kiện:


1.- Phải nghĩ đến sự già chết gần kề.

2.- Phải thương lo cho Phật pháp suy vong sắp diệt.

3.- Phải siêng năng tinh tiến tu hành.


Giữ được ba điều kiện ấy, tức có thể làm cho: “Tông phong vĩnh chấn – Tổ ấn trùng quang”.


Về điều thứ nhất: Phải nghĩ đến sự già chết gần kề.


– Kiếp người giả tạm, nào có bao lâu? Trong ấy biết bao nhiêu sự vui buồn, nhục, vinh, lo phiền, nhọc nhằn, già yếu, đau bịnh! Nếu ta không nghĩ đến thân người mong manh nhiều khổ lụy, mà cố gắng tu thiện, cứ mãi tạo nghiệp, để rồi bị chìm đắm, có phải là hờ hững mê lầm chăng?


Về điều thứ hai: Phải thương lo cho Phật pháp suy vong sắp diệt.


– Đức Phật ra đời và chánh Pháp của ngài rất khó gặp, như hoa “Ưu Đàm Bát La” trong thời kiếp lâu xa, mới nở một lần. Nay đã đi sâu vào buổi mạt pháp, đạo Phật sắp suy tàn rồi ẩn một. Chúng ta là hàng con Phật, phải kính mến thương lo, hộ trì mối đạo và muốn cho đạo pháp trường tồn, phải thương xót nâng đỡ nhau, đừng vì lợi quyền danh vọng, hoặc tài, sắc, mà bôi nhơ, tàn hại lẫn nhau.


Kinh Phạm Võng nói:


“Phật pháp không phải thiên ma, ngoại đạo có thể hủy phá, chỉ có người con Phật, mới phá hoại được mà thôi!”


Đau buồn thay!!


Điều này hiện nay, khắp nơi đã nhan nhãn thấy xuất hiện. Các bậc hữu tâm trong đạo thấy thế chỉ còn biết yên lặng ngậm ngùi!


Nhớ lại thời cận đại ở nước Việt Nam ta, có hai bậc túc nho vừa có tài danh, lẫn đức hạnh. Vì thấy luân thường đảo lộn, nho giáo suy đồi, hai vị ấy, đành cam bề ẩn dật. Nhưng đã có danh đức, tất có nhiều người tìm đến, nên cũng vì thế mà bị người ganh ghét bôi nhơ! Những kẻ làm việc đó, là người trong đạo KHỔNG mà mỉa mai thay! phần đông lại là hàng mô đệ của hai bậc tôn túc nho kia! Sau khi được người thuật lại đầy đủ về việc hủy báng ấy, trong hai bậc lão nho, một vị mĩm cười khẳng khái nói:


“Rắn rết gớm ai lòng độc kia!
Rồng mây phó mặc chuyện huyên thiên”


Còn một vị kia chỉ rơi lệ bảo:


“Việc đời thà khuất đôi con mắt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”.


Nơi đây, ta nhìn xét thấy hai trạng thái:


“Một nụ cười can đảm, an nhẫn, bất chấp, gác qua mọi chuyện thị phi …


“Và một nét khóc, thương xót ai mê lầm gây tội lỗi mà mình bất lực không thể can ngăn, khuyên bảo, cứu vãn được, chỉ còn biết tự tỉnh, bền giữ đạo tâm, như gương tròn sáng.


Nụ cười cùng tiếng khóc, của hai bậc lão nho xưa, đã hàm ẩn đầy đủ tinh thần BI – TRÍ – DŨNG của đạo Phật, thật đáng cho hàng Phật tử, chúng ta phải suy gẫm.


Còn về điều thứ ba: Phải siêng năng tinh tiến tu hành.


Thì ý kinh, khuyên ta phải siêng tu. Siêng tu đây, không phải chỉ tụng kinh, niệm Phật, để khoe số nhiều, mà tụng niệm với tâm thanh tịnh, an lành, với lòng chí thành trong sáng, mới được diệt tội sanh phước.


Lại chẳng phải chỉ có tụng niệm suông, mà phải giữ tâm niệm, lời nói và hành động, theo điều giới thiện Như thế, mới xứng hợp là người tu Phật. Và tu như thế mới mong có ngày được lên bờ giải thoát.


Trước khi dứt lời, để tóm lược, tôi xin trân trọng nhắc lại cùng đại chúng ba điều trên là:


1.- Phải nghĩ đến sự già, chết, vô thường.

2.- Phải thương mến đạo, biết nâng đỡ nhau.

3.- Và phải biết siêng năng tu tập.


Nếu trái với lời kinh dạy, thì ngôi nhà Phật, Pháp sẽ bị sụp đổ, bởi sự hủy phá của những người mang danh nghĩa là hàng “CON PHẬT”. Những vị chân tu, tự nhiên phải thật hành theo ba điều kiện trên.


Còn trái lại, những kẻ giả tu, muốn nhận diện cũng không khó, quý vị chớ vội nghe lời trau chuốc bên ngoài, hãy xét kỹ, nơi ngôn ngữ… cùng hành động của họ, tự khắc sẽ biết.


Xin Kính chúc chư Thượng Tọa, Đại đức Tăng Ni, chư quý Phật tử, một mùa kỷ niệm Tổ, đầy tình thương và đạo hạnh.


THÍCH THIỀN TÂM



TB: Bức thư này nên tùy phương tiện đọc cho những vị hữu duyên nghe mà thôi!


Những kẻ vô duyên, chắc họ không tỉnh ngộ, trước lời thiết tha khuyên nhắc!!!


Các vị Lão thành xưa thức lượng sâu xa, cũng đều phải cam bề ẩn mình giữ đạo, trước tình thế không thể khuyên ngăn được.


Thầy cũng không hơn nổi những bậc tiền bối ấy đâu.

 










“Bất huệ nạp tăng, Thích Thiền Tâm hiệu Vô Nhất mai cốt xứ”.




LỜI DI CHÚC TẠM

 

Đề bút:

 

Tuyền nhiễu sơn hoa thào mộ nhàn,
Huyễn thân hà sự hựu đa đoan?
Ưng tri vô tận trầm luân hải,
Vị xuất luân hồi khổ diệu mang!

 

Tạm dịch:

Suối quanh núi bọc cỏ hoa-nhàn!
Thân giả mọn này, lắm việc toan?
Vì biển trầm-luân vô-lượng khổ!
Nên đành nhẫn-nhục xuất nê-hoàn!
Luân-hồi ra khỏi không vương nạn.
Bi-nguyện triển-khai nhập Niết-bàn.
Thị tịch Ta-bà về Phật quốc.
Độ toàn sanh-chúng ngự sen vàng.


 

Tôi tăng sĩ Thích Thiền Tâm, pháp hiệu Vô Nhất, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, hiện cư ngụ tại tịnh thất Phương Liên I, thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

 

Nay tuy tôi thường đau yếu, nhưng tâm não còn minh mẫn sáng suốt, xin viết di chúc tạm gồm mấy điểm để phú chúc lại cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia.



Nói di chúc tạm, vì thấy một số tăng ni cho đến cư sĩ: Kẻ đã có chùa, thất vì uy tín không bằng, nên ganh tỵ cố ý phá hoại dìm xuống cho bản thân được nổi lên, dù đối tượng là bậc Thầy Tổ đã từng dạy dỗ mình. Hoặc người chưa đủ tư cách để làm đệ tử cầu pháp hay xuất gia, vì bị phủ nhận nên cũng sanh tật đố ganh đua. Họ liên kết nhau, tìm đủ cách tố cáo hủy phá, tung ra nhiều tin thất thiệt như: Phá trai, phạm giới, liên hệ với các hàng ngũ chánh trị khác, tuyên truyền mê tín dị đoan, trị bịnh, soi căn, đoán kiếp, nói quá khứ vị lai, thốt ra những lời phá chánh quyền, xúi giục làm loạn.

 

Tóm lại họ kết họp nhau, tìm đủ cách gài bẩy dìm che sự thật. Nếu không bắt làm bình phong được để thủ lợi họ sẽ liên tục tố cáo nhờ chánh quyền bắt, hoặc có thể ám sát. Vì thế nên mới có mấy lời di chúc bất thường nầy.

 

Nay tôi xin tỏ bày tâm nguyện, gồm mấy điều đại khái như sau:

 

I. Trọn đời tu, nguyện không dính dáng đến chánh trị, không để ai lôi cuốn vào chánh trị, bởi sức khỏe suy kém, và đó không phải là khả năng của mình.

 

II.  Chỉ mong được yên ổn tu hành để cầu giải thoát, ai gọi là Hòa thượng cũng được, ai kêu ông đạo cũng xong.

 

III. Không mượn danh Tam Bảo để tổ chức làm tiền, hoặc quyên tỏi đóng góp, mỗi ngày được ăn rau luộc cơm thì là đủ.

 

IV. Dứt cả sắc, tài, danh, lợi, thị phi, mặc ai dèm siễm, đàm tiếu, chê bai, vì những điều đó không liên hệ gì đến sự giải thoát.

 

V. Không ra làm Phật sự với giáo hội nào nữa, vì mình bẩm sinh gầy yếu, nay đau mai bịnh, không còn đủ sức hoạt động. Vả lại trước kia đã có thời gian dạy dỗ chư tăng, ni diễn dịch kinh sách, khuyên tu để đền đáp sự cúng dường của hàng tín chúng tự nghĩ đã làm Phận sự báo ân tam Bảo rồi.

 

VI. Sau khi tôi mãn phần, mọi việc hậu sự đều do trưởng tử của tôi là Ni sư Thanh Nguyệt sắp đặt. Chư tăng ni khác hoặc thuộc tịnh viện Hương Nghiêm không được quyền can dự vào lấy cớ đem về tịnh viện xây thất thờ cúng để làm bình phong cầu danh lợi. Bởi họ chỉ: học chúng tạm nương nhờ, không phải là đệ tử thế tôn xuất gia, cũng không phải là đệ tử cầu pháp, vì nếu đệ tử cầu pháp, phải có pháp phái do tôi ký tên chứng nhận. Tôi cất chùa cho họ ở, họ lại nhờ uy tín của tôi mới được sự cúng dường để tu học nên không có quyền mượn danh nghĩa của tôi để bành trướng rồi lần lần chiếm luôn Tịnh viện. Việc xây cất tu viện cả Hòa thượng Bửu Huệ và Bửu Lai chỉ là người hỗ trợ trên danh nghĩa, bởi mỗi vị đã có chùa chiền đệ tử riêng, sau đều xin rút lui giao lại cho tôi, vả lại hai ngài cũng đã viên tịch rồi.

 

VII. Khi tôi viên tịch, bởi nghĩ mình kiếp trước đã tạo lắm nghiệp duyên, nên nay mới bẩm sanh suy yếu, ý chí muốn theo gương điểu táng ở Tây Tạng.

 

Tôi xin chia làm tam sách như sau:

 

1. Thượng sách là đem xác thân để tựa cách rừng hoang bố thí cho loài chim, thú, hoặc treo đá dìm xuống vực sâu bố thí cho loài thủy tộc, để đền trả nghiệp đời trước.

2. Trung sách là bó chiếu chôn sâu, khỏa bằng để chỗ trồng thơm, chuối cũng có lợi cho người.

3. Hạ sách, nếu hàng đệ tử không nỡ làm như vậy, nên đóng sơ mấy tấm gỗ thông, bên trong độn lá chuối, trên để tấm pháp y, xây ngôi mồ cỏ đơn sơ. Trước mộ dựng tấm bia ghi câu lưu niệm:

 

“Bất huệ nạp tăng, Thích Thiền Tâm hiệu Vô Nhất mai cốt xứ”.

 

Lời di chúc này phó cho trưởng tử THANH NGUYỆT

Ngày 12-10-1992

Người di chúc: Thích Thiền-Tâm



PHÁP-YẾU-TU-HÀNH

 

HÒA THƯỢNG TÔN SƯ

Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư  Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.

 

 

Yếu điểm của đường tu

Gồm hai phần Sự, Lý

Lý tu là sửa tâm

Cho hợp với chân lý

Sự tu chỉnh ba nghiệp

Giúp chứng cảnh chân như


Sửa tâm là dứt trừ

Nghiệp tham, ái, nóng, giận

Si mê cùng tật đố

Ngã mạn với kiêu căng

Chớ chạy theo hình thức

Say đắm nẻo lợi danh

Chuộng địa vị, quyền hành

Khoe thông minh, tài giỏi

Phải sanh lòng giác ngộ

Niệm thanh tịnh từ bi

Dõng tiến mà kiên trì

Sáng suốt mà khiêm hạ

Tự nghĩ mình xưa nay

Ðã tạo nhiều tội chướng

Chịu nhẫn nhục, sám hối

Biết an phận, tùy duyên

Duyên tốt chẳng kiêu khoe

Duyên xấu không thối não

Bình tỉnh mãi tiến tu

Như bơi thuyền ngược nước

Về biển Tát Bà Nhã

Ðến Bảo Sở an vui

Ðó là phần tu tâm

Hợp với lý giải thoát

 

Sự tu là thân nghiệp

Lễ kính Phật sám hối

Khẩu nghiệp trì chú kinh

Hoặc niệm Phật khen ngợi

Ý  nghiệp giữ thanh tịnh

Mật tu môn Lục Niệm

Nguyện đền đáp bốn ân

Nguyện mình cùng chúng sanh

Sanh cõi vui thành Phật

Ðời đời gặp chánh Pháp

 Tu sáu độ muôn hạnh

Tâm Bồ Ðề độ sanh

Trần kiếp không thối chuyển

Tu Sự mà bỏ Lý

Làm sao mở chân tâm?

Tu Lý mà phế Sự

Cũng không thể thành Phật !

Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG

Thì tức SẮC là KHÔNG

Tu Lý không bỏ Sự

Ðó tức KHÔNG là SẮC

Lý chính thật Chân-Không

Sự là phần Diệu-Hữu

Chân-Không tức Diệu-Hữu

Diệu-Hữu tức Chân-Không

Nếu chưa đạt lẽ nầy

Thà tu hành chấp CÓ

Ðừng cầu cao bác tướng

Mà lạc vào Ngoan-Không

Ðây chính hầm khổ đọa

Kẻ thông minh đời nay

Ða số mắc lỗi nầy

 

 

Xưa có sư Tông-Thắng

Tài huệ biện cao siêu

Vì ỷ giỏi kiêu căng

Nên bị nhục chiết phục

Hỗ thẹn muốn tự tận

Thọ thần hiện thân khuyên

“ Sư nay đã trăm tuổi 

Tám mươi năm lầm lạc

May nhờ gặp Thánh nhân

Huân tu mà học đạo

Tuy có chút công đức

Mà lòng hay bỉ ngã

Ỷ thông minh biện bác

Lấn người không khiêm hạ

Lời cao hạnh chưa cao

Nên phải bị quả báo

 Từ đây nên tự kiểm

Ít lâu thành trí lạ

 

 

Các THÁNH đều tồn tâm

NHƯ LAI cũng như vậy ”

Lại có kẻ đua tướng

Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư

Mượn thuyết pháp, tụng kinh

Ðể mưu cầu lợi dưỡng

Dành đệ tử, chùa chiền

Lập bè đảng, quyến thuộc

Thấy có ai hơn mình

Liền thị phi tật đố

Hại Thầy Bạn, phản Ðạo

Lừa dối hàng tín tâm

Lời nói thật rất cao

Việc làm thật rất thấp

Lý Sự đều sai trái

Hạng ấy hiện rất nhiều

Tạo biển khổ thêm sâu

Khiến đau lòng tri-thức

Lý, Sự đại lược thế

 

Công đức làm sao được?

Phật là ÐẠI-Y-VƯƠNG

Pháp là DIỆU-TIÊN-DƯỢC

Là phương-thuật rất mầu

Là như-ý bảo châu

Hay trừ nạn nghèo khổ

Khiến cho được giàu vui

Hay trừ tất cả bệnh

Khiến mau được bình phục

Hay trừ nạn yểu số

Khiến thọ-mạng dài lâu

Hay khỏi các tai ách

Như bão lụt, binh lửa

Giặc cướp cùng tà ngoại

Ác thú với độc xà

Các yêu ma , quỷ mị

Nạn động đất, xe, thuyền

Những phù-chú ếm-đối

Ðều phá tiêu tan hết

Cho đến trừ tội chướng

Sanh trưởng phước huệ to

Cứu chúng đọa Tam Ðồ

Siêu lên bờ giải thoát

 

Chuyên tụng một phẩm Kinh

Một Chân-Ngôn, hiệu Phật

Thì thành tựu các nguyện

Thỏa mãn các mong cầu

Chỉ sợ người không tin

 Hoặc tin mà không sâu

Lại ngại không thực hành

Hoặc hành không bền lâu

Hoặc tuy hành bền lâu

Không chí tâm khẩn cầu

 

Chí tâm là không vọng

Trì niệm quên thân tâm

Lặng lẽ dứt phân biệt

Không trong, ngoài, người, cảnh

Khi đi, đứng, thức, ngủ

Chẳng bỏ câu trì niệm

Lúc hưỡn, gấp, an, nguy

Cũng vững vàng trì niệm

Cho đến khi sắp chết

Vẫn như thế trì niệm

Ðắc, thất đều do đây

Cần chi hỏi tri thức

 

Không hành như trên đây

Phật cũng khó cứu vớt

Huống nữa là phàm Tăng

Giúp ích được gì đâu

 

Nhớ lời Cổ Ðức dạy:

 

“Ta có một bí quyết

Khẩn thiết khuyên bảo nhau

Là hết lòng thành kính

Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”

Hãy ghi nhớ lời nầy

Lắng lòng suy gẫm sâu

 

Trời xanh tươi biếc một mầu

Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay

Mà sao đời đạo đổi thay

Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ

“Thuyết pháp bất đậu cơ

Chúng sanh một khổ hải ”

Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương

Sóng dồn bọt biển tà dương

Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên

Bụi hồng tung gió đảo điên

Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.

 

Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.








MỤC LỤC

42 THỦ NHÃN ẤN PHÁP


Tuần Thứ 1. Như-Ý-Châu Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 2. Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 3. Bảo-Bát Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 4. Bảo-Kiếm Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 5. Bạt-Chiết-La Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 6. Kim-Cang-Xử Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 7. Thí-Vô-Úy Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 8. Nhật-Tinh-Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 9. Nguyệt-Tinh Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 10. Bảo-Cung Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 11. Bảo-Tiễn Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 12. Dương-Chi Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 13. Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 14. Hồ-Bình Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 15. Bàng-Bài Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 16. Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 17. Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 18. Bạch-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 19. Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 20. Bảo-Cảnh Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 21. Tử-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 22. Bảo-Kiếp Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 23. Ngũ-Sắc-Vân Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 24. Quân-Trì Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 25. Hồng-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 26. Bảo-Kích Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 27. Bảo-Loa Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 28. Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 29. Sổ-Châu Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 30. Bảo-Đạc Thủ Nhãn Ấn Pháp

Tuần Thứ 31. Bảo-Ấn Thủ Nhãn Ấn Pháp




PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ CỨU CÁNH KIÊN CỐ 

ĐẠI BẠCH TÁN CÁI THẦN CHÚ








MỤC LỤC

 

1.- Ẩn tu nào phải cố xa đời !

6.- Ẩn tu bền chí giữ công phu

11.- Ẩn tu cửa đạo trải bao năm

16.- Ẩn tu nghĩ muốn thoát dòng mê !

21.-Ẩn tu Không có, Có mà Không !

26.-Ẩn tu được biết kiếp lâu xa

31.-Ẩn tu niệm dứt tướng vào ra

36.-Ẩn tu thôi mặc dở hay đời

41.-Ẩn tu chợt nhớ Hổ Khê xưa !

46.-Ẩn tu lòng đạo sáng gương rằm

51.-Ẩn tu ngẫm diệu đạo Liên trì

56.- Ẩn tu xót kẻ học Như Lai

61.-Ẩn tu tục lụy thấy muôn mầu

66.-Ẩn tu quyết chí gạt trần tình

71.-Ẩn tu tìm hỏi truyện Tây Thi

76.-Ẩn tu đã có luỹ non mây

81.-Ẩn tu đàn suối cạnh triền non

86.-Ẩn tu xót cảnh đạo đời suy

91.-Ẩn tu khuyên khắp sớm hồi đầu

96.-Ẩn tu tâm PHẬT hội Tào Khê




TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,

GIÓ LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.

 

Nương mình tựa án xem NGƯỜI CỔ,

ẨN BÓNG trong gương ngẫm chuyện đời.

 

 


ẨN TU NGẪU VỊNH



Vào  đêm RẰM, ngày 15/5/1989 Âm lịch (nhằm ngày KỶ DẬU, tháng CANH  NGỌ, năm KỶ TỴ), sau thời khóa, HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM bỗng ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là  ẨN TU NGẪU VỊNH. 

 

 

HÒA THƯỢNG TÔN SƯ

Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư  Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.

 

 

 

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

 

 

Kính thưa Quý-vị !

 

Cách đây ít lâu, một hôm tôi sang vấn an sức khỏe thầy tôi bảo, đêm RẰM vừa rồi sau thời khóa, THẦY bỗng ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là  ẨN TU.

Sau đó, thầy có chỉnh đốn lại đôi chút, nay nhân tiện đọc cho con nghe. Sau khi nghe xong, tôi xin phép ghi lại và muốn chuyển đọc cho các phật tử đến thăm nghe biết.

 

Thầy dạy: “ Điều ấy không nên vì người tu trong một lúc nào đó Tâm Thanh tịnh, bỗng nảy ra nhiều ý kiến cao siêu mới lạ nhưng phải liền gạt bỏ qua, nếu cứ ghi nhớ ý kiến hay ấy, tất Thành ra SỞ TRI CHƯỚNG, bởi Chân-Tâm là thể VÔ TRI LINH TRI, tuy không biết mà biết tất cả hoặc ngay khi trong lúc tâm thanh tịnh đó, hành giả có thể viết ra cả ngàn bài tụng một cách dễ dàng, song nếu chấp lấy danh từ cứ ưa viết mãi trong TÔNG MÔN gọi là thiền bịnh, giả lại cảnh giới người tu chỉ có người tu mới thấu đáo.”

 

 Nên Thiền Quyển có câu:

 

“Gặp hàng kiếm khách nên trình kiếm,

chẳng phải thi nhân chứ nói thi.”

 

 Nếu con đọc ra, sợ e kẻ nói một đằng người nghĩ một nẻo, rồi thành ra việc thị phi mà thôi. Tôi thưa, con thấy trong QUY NGUYÊN TRỰC CHỈ ngài TÔNG BẢN khi ẩn trong núi có vịnh 100 bài thi gọi là “SƠN CƯ BÁCH VỊNH” việc ấy như thế nào?”

 Thầy tôi đáp:  So sánh sao được với TÔNG BẢN ĐẠI SƯ, ngài là một bậc đại ngộ đã vượt con đường muôn dặm về đến quê nhà, còn thầy thì chỉ mới tập tễnh đi một vài bước. Ngài ví như người sáng mắt thấy toàn thể con HƯƠNG TƯỢNG, còn thầy ví như người mù rờ VOI, nói ra dẽ lạc lầm.

 

 Câu chuyện đến đó rồi cũng tạm trôi qua, tuy nhiên có 5 , 3 PHẬT TỬ đến viếng thăm Than Thở Đã lâu lắm rồi không gặp mặt HÒA THƯỢNG, lại không nghe được lời nhắc nhở,  trong tình thế đáng thương ấy, tôi có lén thầy trích đọc ra một vài đoạn, để an ủi họ.

 Nay gần tới ngày CHUNG THẤT của THÂN MẪU bổn sư, tôi lại cố gắng một lần thứ ba xin thưa thêm. Bạch thầy: Thầy nói cuộc đời của thầy là ẨN TU, ít hôm nữa là đến ngày chung thất cũng là ngày cuối cùng làm LỄ TRUY TIẾN bà về cõi Phật, con xin phép đọc mấy bài hôm trước cũng như thay lời tâm sự để GIÁC LINH bà thông cảm cảnh đời ẨN TU của thầy.

 

Thầy im lặng ý không muốn chấp nhận, nhưng cũng không nỡ Phủ Nhận lời xin của hàng đệ tử đã vì thân mẫu mình.

 

Tôi nghĩ thầy im lặng tức là tùy ý tùy duyên, nên hôm nay là cơ cảm để thầy có dịp tâm sự với Mẫu-Thân một lần sau rốt. Và đây xin đọc bài thứ nhất.

 

Tỳ-kheo-ni thích nữ PHƯƠNG LIÊN











THE UNISHA VIJAJA DHARANI

 


1. NAMO BAGABHÀTÉ

2. SARVATADRAN LOKIYA

3. PRADI VITISTRAYA

4. BUDDHÀYA BAGABHÀTÉ

5. TADYATHA!

6. AUM! BHRUM BHRUM, BHRUM

7. SUDDHÀYA SUDDHÀYA

8. VISUDDHÀYA, VISUDDHÀYA 

9. A’ SÀMA SÀMA

10. SAMÀNTA BHÀVASAD

11. SABHÀRANA GATI GAGÀNA

12. SABHÀVA VISUDDHI

13. A’ VICANYA DUMAM

14. SURVÀTATTHÀ GADÀ

15. SÙGADA

16. BHÀRA BHÀCANÀ

17. AMIRTÁ PISÀKU

18. MAHA MÙDRA MANDARA PANA

19. AUM ! A’ HÀRA ÁHARA

20. AYUSÀN DHÀRANI

21. SUDDHÀYA SUDDHÀYA

22. GAGANA SVABHÀVA VISUDDHI

23. USNISÀ VICAYA VISUDDHI

24. SÁHÀSARA RASAMI SANTONITÉ

25. SÀRAVA TATTHÀGADA

26. AVALOKINI

27. SARVATATTHÀGADA MATTÉ

28. SÀTRA PÀRAMITÀ

29. BARI PÙRANI

30. NASÀ BÙMIPRA DISSITÉ

31. SÀRAVA TATTHAGADA H'RIDHÀYA

32. DISSÀNA

33. DISSITÉ

34. AUM! MÙDRI MÙDRI MAHA MÙDRI

35. VAJRA CAYA

36. SAMHÀDHÀNÀ VISUDDHI

37. SÀRAVA KAMA, BHÀRANA BISUDDHI

38. PARA DURIKATI BIRI VISUDDHI

39. PRATINA VARADHÀYA AYÙSUDDHI

40. SAMAYÀ DISSÀNA DISSITÉ 

41. AUM! MANI MANI MÀHÀMANI

42. Á MANI, ÁMANI

43. VIMANI VIMANI MÀHÀ VIMANI

44. MATDI MATDI MÀHÀ MATDI

45. TATTHÀDÀ BÙDHA

46. KUTHI VIRISUDDHI

47. VISAPHORA BUDDHI VISUDDHI

48. AUM! HYHY

49. JÀYA JÀYA

50. VIJÀYA VIJÀYA

51. SAMARA SAMARA

52. SABHÀRA SABHÀRA

53. SÀRABHÀ BUDDHA

54. DISSÀNA

55. DISSITÉ

56. SUDDHI SUDDHI

57. VÀJRI VÀJRI MÀHÀVÀJRI

58. Á VÀJRI

59. VÀJRA GÀBI

60. JÀYA GÀBI

61. VIJÀYA GÀBI

62. VÀJRA JVÀLÀ GÀBI

63. VÀJRO NAGATÉ

64. VÀJRO NABÀVÉ

65. VÀJRA SAMBÀVÉ

66. VÀJRO VÀJRINA

67. VÀJRAM VABHÀ DUMÀMÀ

68. SÀRIRAM SÀRABHÀ SATTABHÀNAIM

69. TÀCAYA BIRI VISUDDHI

70. S' YA VABHÀ DUMI SATNA

71. SÀRABHÀ GATI BIRISUDDHI

72. SÀRABHÀ TATTHAGADA S' YAMI

73. SÀMA SABHÀ SADYANTU

74. SARVA TATTHAGADA

75. SÀMA SÀBHÀSA DISSITÉ

76. AUM! S' DIYA S' DIYA

77. BUDDHIYA BUDDHIYA

78. VIBUDDHIYA VIBUDDHIYA

79. BODDHÀYA BODDHÀYA

80. VIBODDHÀYA VIBODDHÀYA

81. MOCAYA MOCAYA

82. VIMOCAYA VIMOCAYA

83. SUDDHÀYA SUDDHÀYA

84. VISUDDHÀYA VISUDDÀYA

85. SAMÀNTA TATBIRI MOCAYA

86. SAMANDHÀYA SAMI BIRISUDDHI

87. SÀRABHÀ TATTHÀGADÀ SAMAYA H'RIDHÀYA

88. DISSÀNA DISSITÉ

89. AUM! MÙDRI MÙDRI MÀHÀ MÙDRA

90. MANDÀRA PANA

91. DISSITÉ

92. SVÀHA. 



THE UNISHA VIJAJA DHARANI

PHẬT-ĐẢNH TÔN-THẮNG ĐÀ-RA-NI

 

 

1. NAMO BAGABHÀTÉ

2. SARVATADRAN LOKIYA

3. PRADI VITISTRAYA

4. BUDDHÀYA BAGABHÀTÉ

5. TADYATHA!

6. AUM! BHRUM BHRUM, BHRUM

7. SUDDHÀYA SUDDHÀYA

8. VISUDDHÀYA, VISUDDHÀYA 

9. A’ SÀMA SÀMA

10. SAMÀNTA BHÀVASAD

11. SABHÀRANA GATI GAGÀNA

12. SABHÀVA VISUDDHI

13. A’ VICANYA DUMAM

14. SURVÀTATTHÀ GADÀ

15. SÙGADA

16. BHÀRA BHÀCANÀ

17. AMIRTÁ PISÀKU

18. MAHA MÙDRA MANDARA PANA

19. AUM ! A’ HÀRA ÁHARA

20. AYUSÀN DHÀRANI

21. SUDDHÀYA SUDDHÀYA

22. GAGANA SVABHÀVA VISUDDHI

23. USNISÀ VICAYA VISUDDHI

24. SÁHÀSARA RASAMI SANTONITÉ

25. SÀRAVA TATTHÀGADA

26. AVALOKINI

27. SARVATATTHÀGADA MATTÉ

28. SÀTRA PÀRAMITÀ

29. BARI PÙRANI

30. NASÀ BÙMIPRA DISSITÉ

31. SÀRAVA TATTHAGADA H'RIDHÀYA

32. DISSÀNA

33. DISSITÉ

34. AUM! MÙDRI MÙDRI MAHA MÙDRI

35. VAJRA CAYA

36. SAMHÀDHÀNÀ VISUDDHI

37. SÀRAVA KAMA, BHÀRANA BISUDDHI

38. PARA DURIKATI BIRI VISUDDHI

39. PRATINA VARADHÀYA AYÙSUDDHI

40. SAMAYÀ DISSÀNA DISSITÉ 

41. AUM! MANI MANI MÀHÀMANI

42. Á MANI, ÁMANI

43. VIMANI VIMANI MÀHÀ VIMANI

44. MATDI MATDI MÀHÀ MATDI

45. TATTHÀDÀ BÙDHA

46. KUTHI VIRISUDDHI

47. VISAPHORA BUDDHI VISUDDHI

48. AUM! HYHY

49. JÀYA JÀYA

50. VIJÀYA VIJÀYA

51. SAMARA SAMARA

52. SABHÀRA SABHÀRA

53. SÀRABHÀ BUDDHA

54. DISSÀNA

55. DISSITÉ

56. SUDDHI SUDDHI

57. VÀJRI VÀJRI MÀHÀVÀJRI

58. Á VÀJRI

59. VÀJRA GÀBI

60. JÀYA GÀBI

61. VIJÀYA GÀBI

62. VÀJRA JVÀLÀ GÀBI

63. VÀJRO NAGATÉ

64. VÀJRO NABÀVÉ

65. VÀJRA SAMBÀVÉ

66. VÀJRO VÀJRINA

67. VÀJRAM VABHÀ DUMÀMÀ

68. SÀRIRAM SÀRABHÀ SATTABHÀNAIM

69. TÀCAYA BIRI VISUDDHI

70. S' YA VABHÀ DUMI SATNA

71. SÀRABHÀ GATI BIRISUDDHI

72. SÀRABHÀ TATTHAGADA S' YAMI

73. SÀMA SABHÀ SADYANTU

74. SARVA TATTHAGADA

75. SÀMA SÀBHÀSA DISSITÉ

76. AUM! S' DIYA S' DIYA

77. BUDDHIYA BUDDHIYA

78. VIBUDDHIYA VIBUDDHIYA

79. BODDHÀYA BODDHÀYA

80. VIBODDHÀYA VIBODDHÀYA

81. MOCAYA MOCAYA

82. VIMOCAYA VIMOCAYA

83. SUDDHÀYA SUDDHÀYA

84. VISUDDHÀYA VISUDDÀYA

85. SAMÀNTA TATBIRI MOCAYA

86. SAMANDHÀYA SAMI BIRISUDDHI

87. SÀRABHÀ TATTHÀGADÀ SAMAYA H'RIDHÀYA

88. DISSÀNA DISSITÉ

89. AUM! MÙDRI MÙDRI MÀHÀ MÙDRA

90. MANDÀRA PANA

91. DISSITÉ

92. SVÀHA. 

 

1. Nam-mô ba ga pha tê.

2. Sạt hoa tát răn, lô ky da.

3. Bơ ra di, vi ti sắc tra da.

4. Bút đà da, ba ga pha tê.

5. Tát đi da tha !

6. Um ! Bút rum, bút rum, bút rum.

7. Suýt đà da, Suýt đà da.

8. Vi suýt đà da, vi suýt đà da.

9. Á sá ma, sá ma.

10. Sa măn tá, phạ hoa sát.

11. Sa phả ra na, ga ti, ga gạ na.

12. Soa phạ hoa, vi suýt đi.

13. Á vi chuân da, du măn.

14. Sạt hoa tát thá ga đá.

15. Sú ga da.

16. Phạ ra, phạ ca nã.

17. A mi rị tá, bi sá cu.

18. Ma ha muýt đơ ra, măn đa ra, ba na.

19. Um ! Á hạ ra, á hạ ra.

20. A du săn, đà ra ni.

21. Suýt đà đa, suýt đà đa.

22. Ga ga na, xoa phạ hoa, vi suýt đi.

23. U sắc ni sá, vi ca da, vi suýt đi.

24. Sá hạ sa ra, ra sa mi, săn tô ni tê.

25. Sá ra hoa, tát thá ga đa.

26. A hoa lô ki ni.

27. Sạt hoa tát thá ga đa, mát tê.

28. Sá tra, bá ra mi tá.

29. Ba rị, bủ ra ni.

30. Na sá, bủ mi bơ ra, đi sắc si tê.

31. Sá ra hoa, tát thá ga đa, hất rị đà da.

32. Đi sắc sá na.

33. Đi sắc si tê.

34. Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri.

35. Hoa di ra, ca da.

36. Săn hạ đa nã, vi suýt đi.

37. Sá ra hoa, ca ma, phạ ra na, vi suýt đi.

38. Ba ra, đu ri ca ti, bi ri, vi suýt đi.

39. Bơ ra ti na, hoa ra đá da, a dục suýt đi.

40. Sam ma dã, đi sắc sá na, đi sắc si tê.

41. Um ! Ma ni, ma ni, mạ hạ ma ni.

42. Á ma ni, á ma ni.

43. Vĩ ma ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni.

 44. Mát đi, mát đi, mạ hạ mát đi.

45. Tát thá đá, bủ đa.

46. Cu thi, vi ri suýt đi.

47. Vĩ sa phổ ra, bút đi, 

vi suýt đi.

48. Um ! Hi hi.

49. Dá ra, dá ra.

50. Vĩ dá ra, vĩ dá ra.

51. Sa ma ra, sa ma ra.

52. Sa phạ ra, sa phạ ra.

53. Sá ra phạ, bút đa.

54. Đi sắc sá na.

55. Đi sắc si tê.

56. Suýt đi, suýt đi.

57. Họa di ri, họa di ri, mạ hạ họa di ri.

58. Á họa di ri.

59. Họa di ra, gạ bi.

60. Dá ra, gạ bi.

61. Vĩ da ra, gạ bi.

62. Họa di ra, rít họa lã, gạ bi.

63. Họa di rô, na ga tê.

64. Họa di rô, na bà vê.

65. Họa di ra, sam bà vê.

66. Họa di rô, họa di rị na.

67. Họa di rảm, hoa phạ, đô mạ mạ.

68. Sá rị rảm, sá ra phạ, sát ta phạ năng.

69. Tả ca da, bi ri, vi suýt đi.

70. Sất da, hoa phạ, đô mi, sát na.

71. Sá ra phạ, ga ti, bi rị suýt đi.

72. Sá ra phạ, tát thá ga đa, sất da mi.

73. Sá ma, sa phạ, sát dăn tu.

74. Sạt hoa, tát thá ga đa.

75. Sá ma, sá phạ sa, đi sắc si tê.

76. Um ! Sất đi da, sất đi da.

77. Bút đi da, bút đi da.

78. Vi bút đi da, vi bút đi da.

79. Bồ đà da, bồ đà da.

80. Vi bồ đà da, vi bồ đà da.

81. Mô ca da, mô ca da.

82. Vi mô ca da, vi mô ca da.

83. Suýt đà da, suýt đà đa.

84. Vi suýt đà da, vi suýt đà da.

85. Sa măn tá, tát bi ri, mô ca da.

86. Sa măn đá đa, sa mi, bi ri suýt đi.

87. Sá ra phạ, tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà da.

88. Đi sắc sá na, đi sắc si tê.

89. Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri,

 mạ hạ muýt đơ ra.

90. Mạn đà ra, bá na.

91. Đi sắc si tê.

92. Sóa ha.

 



PHẬT-ĐẢNH TÔN-THẮNG ĐÀ-RA-NI

 

(Hai tay kết ấn Phật đảnh tôn thắng y như trong kinh dạy, trì thần chú Phật đảnh, tùy theo nguyện, hoặc ít, hoặc nhiều)

 

1. Nam-mô ba ga pha tê.

2. Sạt hoa tát răn, lô ky da.

3. Bơ ra di, vi ti sắc tra da.

4. Bút đà da, ba ga pha tê.

5. Tát đi da tha !

6. Um ! Bút rum, bút rum, bút rum.

7. Suýt đà da, Suýt đà da.

8. Vi suýt đà da, vi suýt đà da.

9. Á sá ma, sá ma.

10. Sa măn tá, phạ hoa sát.

11. Sa phả ra na, ga ti, ga gạ na.

12. Soa phạ hoa, vi suýt đi.

13. Á vi chuân da, du măn.

14. Sạt hoa tát thá ga đá.

15. Sú ga da.

16. Phạ ra, phạ ca nã.

17. A mi rị tá, bi sá cu.

18. Ma ha muýt đơ ra, măn đa ra, ba na.

19. Um ! Á hạ ra, á hạ ra.

20. A du săn, đà ra ni.

21. Suýt đà đa, suýt đà đa.

22. Ga ga na, xoa phạ hoa, vi suýt đi.

23. U sắc ni sá, vi ca da, vi suýt đi.

24. Sá hạ sa ra, ra sa mi, săn tô ni tê.

25. Sá ra hoa, tát thá ga đa.

26. A hoa lô ki ni.

27. Sạt hoa tát thá ga đa, mát tê.

28. Sá tra, bá ra mi tá.

29. Ba rị, bủ ra ni.

30. Na sá, bủ mi bơ ra, đi sắc si tê.

31. Sá ra hoa, tát thá ga đa, hất rị đà da.

32. Đi sắc sá na.

33. Đi sắc si tê.

34. Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri.

35. Hoa di ra, ca da.

36. Săn hạ đa nã, vi suýt đi.

37. Sá ra hoa, ca ma, phạ ra na, vi suýt đi.

38. Ba ra, đu ri ca ti, bi ri, vi suýt đi.

39. Bơ ra ti na, hoa ra đá da, a dục suýt đi.

40. Sam ma dã, đi sắc sá na, đi sắc si tê.

41. Um ! Ma ni, ma ni, mạ hạ ma ni.

42. Á ma ni, á ma ni.

43. Vĩ ma ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni.

44. Mát đi, mát đi, mạ hạ mát đi.

45. Tát thá đá, bủ đa.

46. Cu thi, vi ri suýt đi.

47. Vĩ sa phổ ra, bút đi, vi suýt đi.

48. Um ! Hi hi.

49. Dá ra, dá ra.

50. Vĩ dá ra, vĩ dá ra.

51. Sa ma ra, sa ma ra.

52. Sa phạ ra, sa phạ ra.

53. Sá ra phạ, bút đa.

54. Đi sắc sá na.

55. Đi sắc si tê.

56. Suýt đi, suýt đi.

57. Họa di ri, họa di ri, mạ hạ họa di ri.

58. Á họa di ri.

59. Họa di ra, gạ bi.

60. Dá ra, gạ bi.

61. Vĩ da ra, gạ bi.

62. Họa di ra, rít họa lã, gạ bi.

63. Họa di rô, na ga tê.

64. Họa di rô, na bà vê.

65. Họa di ra, sam bà vê.

66. Họa di rô, họa di rị na.

67. Họa di rảm, hoa phạ, đô mạ mạ.

68. Sá rị rảm, sá ra phạ, sát ta phạ năng.

69. Tả ca da, bi ri, vi suýt đi.

70. Sất da, hoa phạ, đô mi, sát na.

71. Sá ra phạ, ga ti, bi rị suýt đi.

72. Sá ra phạ, tát thá ga đa, sất da mi.

73. Sá ma, sa phạ, sát dăn tu.

74. Sạt hoa, tát thá ga đa.

75. Sá ma, sá phạ sa, đi sắc si tê.

76. Um ! Sất đi da, sất đi da.

77. Bút đi da, bút đi da.

78. Vi bút đi da, vi bút đi da.

79. Bồ đà da, bồ đà da.

80. Vi bồ đà da, vi bồ đà da.

81. Mô ca da, mô ca da.

82. Vi mô ca da, vi mô ca da.

83. Suýt đà da, suýt đà đa.

84. Vi suýt đà da, vi suýt đà da.

85. Sa măn tá, tát bi ri, mô ca da.

86. Sa măn đá đa, sa mi, bi ri suýt đi.

87. Sá ra phạ, tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà da.

88. Đi sắc sá na, đi sắc si tê.

89. Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, mạ hạ muýt đơ ra.

90. Mạn đà ra, bá na.

91. Đi sắc si tê.

92. Sóa ha.

 

 

Comments

Popular posts from this blog