THIÊN THỦ THIÊN NHÃN


ĐẠI BI SÁM PHÁP

 

(Hương đèn đốt xong, chủ lễ quỳ trước bàn Phật mật niệm).


 

PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN

 

UM!  SOA PHẠ VA SUÝT ĐA, SẠT VA ĐẠT MA,

SOA PHẠ VA SUÝT ĐA HÀM.

UM! LAM LAM LAM.

(7 lần)

 

(Tác bạch cúng hương)

 

Hương thơm giăng bủa,

Thánh đức tỏ tường,

Bồ đề tâm rộng chẳng suy lường,

Tùy chỗ phóng hào quang,

Lành tốt phi thường.

Dâng cúng pháp trung vương.

 

Nam mô Hương cúng dường Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)


(vẫn quỳ, tiếp bạch)

 

Kính lạy đời quá khứ

Chính Pháp Minh Như Lai

Chính là đời hiện nay

Quán Thế Âm Bồ Tát

Bậc thành công đức diệu

Đủ lòng đại từ bi

Nơi trong một thân tâm

Hiện ra ngàn tay mắt

Soi thấu khắp pháp giới

Hộ trì các chúng sanh

Khiến phát lòng đạo sâu

Dạy trì chú Viên Mãn

Cho xa lìa đường ác

Được sanh trước Như Lai

Những tội nặng vô gián

Cùng bịnh ác lâm thân,

Khó nỗi cứu vớt được

Cũng đều khiến tiêu trừ

Các tam muội, biện tài

Sự mong cầu hiện tại

Đều cho được thành tựu

Quyết định chẳng nghi sai

Khiến mau được ba thừa

Và sớm lên quả Phật

Sức oai thần công đức

Khen ngợi chẳng hay cùng!

Cho nên con một lòng

Quy mạng và đảnh lễ 

 

 

Nhứt tâm đảnh lễ :

 

(mỗi hiệu lạy một lạy)

 

1.- Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn

2.- Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Thế Tôn

3.- Quá khứ vô lượng ức kiếp Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Thế Tôn

4.- Quá khứ cửu thập cửu ức Căn Già Sa chư Phật Thế Tôn

5.- Quá khứ vô lượng kiếp Chánh Pháp Minh Thế Tôn

6.- Thập phương nhứt thiết chư Phật Thế Tôn

7.- Hiền kiếp thiên Phật, tam thế nhứt thiết chư Phật Thế Tôn

8.- Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà ra ni thần diệu         chương cú (3 lần xưng 3 lần lạy)

9.- Quán Âm sở thuyết chư đà ra ni cập thập phương tam thế nhứt thiết tôn Pháp

10.- Thiên thủ thiên nhãn, đại từ đại bi Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần xưng 3 lần lạy)

11.- Đại Thế Chí Bồ Tát Ma ha tát

12.- Tổng Trì Vương Bồ Tát Ma ha tát

13.- Nhựt Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát ma ha tát

14.- Bảo Vương Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát Ma ha tát

15.- Hoa Nghiêm Bồ Tát, Đại Trang Nghiêm Bồ Tát, Bảo Tạng Bồ Tát Ma ha Tát

16.- Đức Tạng Bồ Tát, Kim Cang Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát ma ha tát

17.- Di Lặc Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha tát

18.- Thập phương tam thế nhứt thiết Bồ tát ma ha tát

19.- Ma ha Ca Diếp tôn giả vô lượng vô số đại thanh văn tăng

20.- Xiển Thiên Thai giáo quán Tứ Minh Tôn Giả Pháp Trí Đại Sư

21.- Nhứt tâm đại vị :

Thiện Tra Phạm Ma, Cù Bà Già thiên tử, Hộ thế tứ vương, thiên long bát bộ, Đồng Mục thiên nữ, Hư không thần, giang hải thần, tuyền nguyên thần, hà chiểu thần, dược thảo thọ lâm thần, xá trạch thần, thủy thần, hỏa thần, phong thần, thổ thần, sơn thần, thạch thần, cung điện thần, tịnh thủ hộ trì chú nhứt thiết thiên, long, quỉ thần cập các quyến thuộc đảnh lễ Tam Bảo (3 lạy)

 

(Đảnh lễ xong trì tụng)

 

Kinh nói: Nếu có vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, hay đồng nam, đồng nữ nào, muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm đại từ đối với chúng sanh và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:


Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con mau biết tất cả pháp.

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con sớm được mắt trí huệ

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con mau độ các chúng sanh

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con sớm được phương tiện khéo

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con mau lên thuyền bát nhã

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm.

Nguyện con sớm được qua biển khổ

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con mau được đạo giới định.

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con sớm lên non Niết Bàn

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con mau về nhà vô vi,

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con sớm đồng tâm pháp tánh.

Nếu con hướng về nơi non đao,

Non đao tức thời liền sụp đổ,

Nếu con hướng về lửa nước sôi

Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.

Nếu con hướng về cõi Địa ngục

Địa ngục liền mau tự tiêu tan

Nếu con hướng về loài ngạ quỷ

Ngạ quỉ liền được tự no đủ

Nếu con hướng về chúng Tu La

Tu La tâm ác tự điều phục

Nếu con hướng về các súc sanh,

Súc sanh tự được trí huệ lớn.


(chí tâm niệm)

 

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm (10 câu)

Nam mô A Di Đà Phật (10 câu)

 

(Tụng tiếp)

 

Quán Thế Âm Bồ tát lại bạch Phật: - Bạch đức Thế Tôn, nếu chúng sanh nào tụng trì thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào 3 đường ác, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cõi Phật, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng tam muội biện tài, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi Tâm Đà Ra Ni…

Khi đức Quán Thế Âm Bồ Tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội, chắp tay đứng thẳng, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, nở mặt mỉm cười, nói chương cú mầu nhiệm Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni rằng:


 

 

ĐẠI BI TÂM ÐÀ RA NI



Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da.1

Nam-mô a rị da2, bà lô yết đế thước bác ra da3, Bồ-đề tát đỏa bà da4, ma ha tát đỏa bà da5, ma ha ca lô ni ca da6, án7, tát bàn ra phạt duệ8, số đát na đát tỏa9.

Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da10, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà11.

Nam-mô na ra cẩn trì12, hê rị ma ha bàn đa sa mế13, tát bà a tha đậu thâu bằng14, a thệ dựng15, tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già16, ma phạt đạt đậu17, đát điệt tha. 

Án18, a bà lô hê19, lô ca đế20, ca ra đế21, di hê rị22, ma ha bồ-đề tát đỏa23, tát bà tát bà24, ma ra ma ra25, ma hê ma hê, rị đà dựng26, cu-lô cu-lô kiết mông27, độ lô độ lô, phạt xà da đế28, ma ha phạt xà da đế29, đà ra đà ra30, địa rị ni31, thất Phật ra da32, dá ra dá ra33.

Mạ mạ phạt ma ra34, mục đế lệ35, y hê di hê36, thất na thất na37, a ra sâm Phật ra xá-lợi38, phạt sa phạt sâm39, Phật ra xá da40, hô lô hô lô ma ra41, hô lô hô lô hê lỵ42, ta ra ta ra43, tất rị tất rị44, tô rô tô rô45, bồ-đề dạ bồ-đề dạ46, bồ-đà dạ bồ-đà dạ47, di đế rị dạ48, na ra cẩn trì49, địa rị sắc ni na50, ba dạ ma na51, ta bà ha52.

Tất đà dạ53, ta bà ha54. Ma ha tất đà dạ55, ta bà ha56. Tất đà du nghệ57, thất bàn ra dạ58, ta bà ha59. Na ra cẩn trì60, ta bà ha61. Ma ra na ra62, ta bà ha63. Tất ra tăng a mục khê da64, ta bà ha65. Ta bà ma ha, a tất đà dạ66, ta bà ha67

Giả kiết ra a tất đà dạ68, ta bà ha69. Bà đà ma yết tất đà dạ70, ta bà ha71. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ72, ta bà ha73. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ74, ta bà ha75.

Nam-mô hắt ra đát na, đa ra dạ da76.

Nam-mô a rị da77, bà lô yết đế78, thước bàng ra dạ79, ta bà ha80.

Án tất điện đô81, mạng đa ra82, bạt đà dạ83, ta bà ha84.

 

  (Tụng chú Đại-Bi, tùy sức tụng 7 biến hoặc 21 biến và nhiều nữa càng tốt).



Đức Quán-thế-Âm Bồ-tát nói bài chú này xong, cõi đất sáu phen biến động, trên trời rải các hoa báu, tung bay rơi xuống, các đức Phật mười phương đều tỏ lòng hoan hỷ.

Thiên-ma, ngoại đạo sợ hãi rùng mình hết thảy chúng hội đều được chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, cũng có vị chứng lên nhất-địa, nhị-địa, tam-địa, tứ-địa, ngũ-địa cho đến thập-địa, không lường chúng sanh đều phát tâm Bồ-đề.


Chí tâm sám hối:

Đệ tử .... cùng pháp-giới chúng- sanh, hiện-tiền một tâm, vẫn đủ ngàn pháp, đều có sức thần, cùng với trí sáng, trên sánh chư Phật, dưới đồng muôn loài. Bởi niệm vô-minh, che ánh sáng kia, nên đối cảnh hôn mê, khởi lòng chấp nhiễm, trong pháp bình-đẳng, sanh tưởng ngã nhơn. Lại do ái-kiến làm gốc, thân miệng làm duyên, trong nẻo luân hồi, gây nên đủ tội: thập-ác ngũ nghịch, báng pháp báng người, phá giới phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng-kỳ, bức người tịnh-hạnh, xâm tổn thường-trụ, đồ vật thức ăn, dù ngàn Phật ra đời, khó bề sám hối. Những tội như thế, không lường không ngần, khi bỏ bảo thân, phải đọa tam-đồ, chịu vô-lượng khổ.


Lại trong đời này, do túc, hiện chướng, hoặc bị các nghiệp: lửa phiền thiêu đốt, tật bịnh vây quanh, duyên ngoài lôi cuốn, tà ma quấy nhiễu, làm ngăn đạo pháp, khó nổi tiến tu.

May gặp thần-chú, Viên-Mãn Đại-Bi 
(xá), có thể mau trử, những tội như thế, cho nên nay con, hết lòng tụng-trì, con nguyện nương về, Quán- Âm Bồ-tát, cùng Phật mười phương (xá), phát lòng bồ-đề, tu hạnh chân- ngôn, cùng với chúng-sanh, tỏ bày các tội, cầu xin sám hối, nguyện đều tiêu trừ.

Nguyện đấng Đại-bi, Quán-Âm Bồ-tát, ngàn tay nâng đỡ, ngàn mắt chiếu soi, khiến cho chúng con, duyên chướng trong ngoài, thảy đều dứt sạch, mình, người, hạnh nguyện, cùng được viên thành, mở tánh bản-tri, dẹp trừ ma-ngoại, ba nghiệp siêng cần, tu nhân tịnh-độ.

Nguyện cho chúng con, khi bỏ thân này, không vào đường khác, quyết được sanh về, thế giới Cực-Lạc của Phật Di Đà, rồi được thừa sự, Đại-Bi Quán Âm đủ các tổng-trì, rộng độ quần phẩm, đồng thoát khổ-luân, đều thành Phật-đạo.



Đệ tử ... sám hối, phát nguyện rồi xin qui mạng đảnh lễ Tam bảo:


Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Phật (lạy)

Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Pháp 
(lạy)

Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Tăng 
(lạy)

Nam mô Bồn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (lạy)

Nam-mô A Di Đà 
(lạy)

Nam mô Thiên-quang-vương Tịnh-trụ Phật 
(lạy)

Nam mô Quảng-đại Viên-mãn Vô-ngại Đại-bi-tâm Đại-đà-la-            ni (lạy)

Nam-mô Thiên thủ Thiên-nhân Quán thế âm Bồ-tát (lạy)

Nam-mô Đại-thế-chí Bồ-tát (lạy)

Nam-mô Tổng-trì-vương Bồ-tát (lạy)



Tự qui y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng 
(lạy)

Tự qui y Pháp, xin nguyện chúng sanh thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển 
(lạy)

Tự qui y Tăng, xin nguyện chúng sanh quảng lý đại chúng, hết thảy không ngại 
(lạy)

 

Nguyện đem công đức này,

Trang nghiêm cõi Phật tịnh,

Trên báo bốn trọng ân,

Dưới cứu ba đường khổ,

Nếu có ai thấy nghe,

Hướng về lòng Đại-bi,

Khi bỏ báo thân này,

Đều sanh nước cực lạc.

 

Nam-mô Đại-bi Quán-thế-âm Bồ-tát (3 lần xưng và nhập quán)  



CHUNG




KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN

VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ÐÀ RA NI

 

Đời Đường, Sa-môn Dà-Phạm Đạt-Mạ người xứ Tây-Thiên-Trúc dịch 

 

I

PHẦN THÔNG TỰ


 

Như thế tôi nghe, một thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngự nơi đạo tràng Bảo Trang Nghiêm, trong cung điện của Quán Thế Âm Bồ Tát ở tại non Bổ Đà Lạc Ca, đức Phật ngồi nơi tòa sư tử, tòa này trang nghiêm thuần bằng vô lượng ngọc báu tạp ma-ni, xung quan treo nhiều tràng phan bá bảo. 


Khi ấy, đức Như Lai ở trên pháp tòa, sắp muốn diễn nói môn tổng trì đà ra ni, có vô lượng số Bồ Tát ma ha tát câu hội, các vị ấy là: 

 

Tổng Trì Vương Bồ Tát, 

Bảo Vương Bồ Tát, 

Dược Vương Bồ Tát, 

Dược Thượng Bồ Tát, 

Quán Thế Âm Bồ Tát, 

Đại Thế Chí Bồ Tát, 

Hoa Nghiêm Bồ Tát, 

Đại Trang Nghiêm Bồ Tát, 

Bảo Tạng Bồ Tát,

Đức Tạng Bồ Tát, 

Kim Cang Tạng Bồ Tát, 

Hư Không Tạng Bồ Tát, 

Di Lặc Bồ Tát, 

Phổ Hiền Bồ Tát, 

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát... 



Những vị Bồ Tát như thế đều là bậc quán đảnh đại pháp vương tử.

 

Lại có vô lượng vô số đại thanh văn đều là bậc A La Hán, tu hạnh thập địa câu hội. Trong ấy, ngài Ma Ha Ca Diếp làm thượng thủ.

Lại có vô lượng Phạm Ma La Thiên câu hội. Trong ấy, ngài Thiện Tra Phạm Ma làm thượng thủ.

Lại có vô lượng chư thiên tử ở cõi trời Dục giới câu hội. Trong ấy, ngài Cù Bà Dà thiên tử làm thượng thủ. 

Lại có vô lượng hộ thế tứ thiên vương câu hội trong ấy, ngài Đề Đầu Lại Tra làm thượng thủ.

Lại có vô lượng Thiên, Long, Dạ xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, Nhơn, Phi nhơn câu hội. Trong ấy, ngài Thiên Đức đại long vương làm thượng thủ.

Lại có vô lượng chư thiên nữ ở cõi trời Dục giới câu hội, trong ấy, ngài Đồng Mục Thiên nữ làm thượng thủ. 

Lại có vô lượng Thần Hư không, Thần Giang hải, Thần Tuyền nguyên, Thần Hà chiểu, Thần dược thảo, Thần Thọ lâm, Thần xá trạch, Thần cung điện, cùng Thủy thần, Hỏa thần, Địa thần, Phong thần, Thổ thần, Sơn thần, Thạch thần... đều đến tập hội. 

 

 

PHẦN BIỆT TỰ

 

Bấy giờ, đức Quán Thế Âm Bồ Tát ở trong đại hội, mật phóng ánh thần thông quang minh, chiếu sáng 10 phương sát độ và cõi tam thiên đại thiên thế giới này đều thành sắc vàng. Từ thiên cung, long cung cho đến cung điện của các vị tôn thần thảy đều chấn động. Biển cả, sông nguồn, núi Thiết Vi, núi Tu Di, cùng thổ sơn, hắc sơn, cũng đều rung động dữ dội. Ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, và châu báu và lửa đều bị ánh kim quang rực rỡ kia lấn át làm cho ẩn mất không hiện. 

Lúc đó, ngài Tổng Trì Vương Bồ Tát thấy tướng trạng hy hữu ấy, lấy làm lạ cho là việc chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay, dùng lời kệ hỏi Phật, để biết tướng thần thông kia do ai làm ra.

 

 

Kệ rằng:

 

 

Ai thành chánh-giác trong ngày nay?

Khắp phóng ánh sáng như thế này.

Mười phương sát độ thành sắc vàng,

Cả cõi Đại-thiên cũng như vậy.

 

Ai được tự tại trong ngày nay?

Phổ diễn Thần-lực ít có nầy.

Không ngằn cõi Phật đều rung động,

Cung điện Long-thần cũng lung lay.

 

Sức Thần-thông này ai làm ra?

Là ánh quang minh đấng Phật-đà,

Là của Bồ-tát, đại Thanh-văn,

Hay trời Đế-thích cùng Phạm, Ma?

 

Nay trong chúng hội đều sanh nghi,

Chẳng biết đây là Nhân-duyên gì?

Muốn cầu hiểu rõ, tâm thành kính,

Hướng trông về ngôi Đại-từ-bi. 

      

 

II

 PHẦN CHÁNH TÔNG


 

Đức Phật bảo Tổng Trì Vương Bồ Tát: 

'Thiện nam tử! Các ông nên biết trong pháp hội này, có vị Bồ Tát Ma Ha Tát, tên là Quán Thế Âm Tự Tại, từ vô lượng kiếp đến nay đã thành tựu tâm đại từ bi, lại khéo tu tập vô lượng Đà la ni môn. Vị Bồ Tát ấy vì muốn làm cho chúng sanh được lợi ích an vui, nên mới mật phóng sức thần thông như thế'. 

Đức Như Lai vừa nói lời ấy xong, Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay hướng về Phật mà thưa rằng: ''Bạch đức Thế Tôn, tôi có chú Đại Bi tâm đà ra ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bịnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doãn hứa. 

Đức Phật bảo: Thiện nam tử! Ông có tâm đại từ bi, muốn nói thần chú để làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh. Hôm nay chính là lúc hợp thời, vậy ông nên mau nói ra, Như Lai tùy hỉ chư Phật cũng thế. 

Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: Bạch đức Thế tôn! Tôi nhớ vô lượng ức kiếp về trước, có Phật ra đời, hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, đức Phật ấy vì thương nghĩ đến tôi và tất cả chúng sanh nên nói ra môn Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, ngài lại dùng tay sắc vàng xoa nơi đầu tôi mà bảo: Thiện nam tử! Ông nên thọ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi nước ở đời vị lai mà làm cho họ được sự an vui lớn. 

Lúc đó tôi mới ở ngôi sơ địa, vừa nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Bấy giờ tôi rất vui mừng, liền phát thệ rằng: 

Nếu trong đời vị lai, tôi có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân tôi liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt. 

Khi tôi phát thệ rồi, thì ngàn tay ngàn mắt đều hiện đủ nơi thân, lúc ấy, cõi đất 10 phương rung động 6 cách, ngàn đức Phật trong 10 phương đều phóng ánh quang minh soi đến thân tôi, và chiếu sáng 10 phương vô biên thế giới. Từ đó về sau, tôi ở trong vô lượng pháp hội của vô lượng chư Phật, lại được nghe và thọ trì môn đà ra ni này. Mỗi lần nghe xong, tôi khôn xiết vui mừng, liền được vượt qua sự sanh tử vi tế trong vô số ức kiếp. Và từ ấy đến nay, tôi vẫn hằng trì tụng chú này, chưa từng quên bỏ. Do sức trì tụng ấy, tùy theo chỗ sanh, tôi không còn chịu thân bào thai, được hóa sanh nơi hoa sen, thường gặp Phật nghe pháp. Nếu có vị Tì khưu, Tỳ khưu ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hay đồng nam, đồng nữ nào muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh, và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:

 

Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con mau biết tất cả pháp. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con sớm được mắt trí huệ. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con mau độ các chúng sanh, 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con sớm được phương tiện khéo. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con mau lên thuyền bát nhã. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con sớm được qua biển khổ, 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con mau được đạo giới định. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con sớm lên non Niết Bàn. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con mau về nhà vô vi. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con sớm đồng thân pháp tánh. 
Nếu con hướng về nơi non đao, 
non đao tức thời liền sụp đổ. 
Nếu con hướng về lửa, nước sôi, 
nước sôi, lửa cháy tự khô tắt. 
Nếu con hướng về cõi địa ngục, 
địa ngục liền mau tự tiêu diệt, 
Nếu con hướng về loài ngạ quỷ. 
Ngạ quỷ liền được tự no đủ, 
Nếu con hướng về chúng Tu La, 
Tu la tâm ác tự điều phục, 
Nếu con hướng về các súc sanh, 
súc sanh tự được trí huệ lớn.

 

Khi phát lời nguyện ấy xong, chí tâm xưng danh hiệu của tôi, lại chuyên niệm danh hiệu bổn sư tôi là đức A Di Đà Như Lai, kế đó tiếp tụng đà ra ni thần chú này. Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử. 

Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào 3 đường ác, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cõi Phật, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng tam muội biện tài tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi tâm đà ra ni, duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành. Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, muốn được thân nam, tụng trì thần chú Đại Bi, như không chuyển nữ thành nam, tôi thề không thành chánh giác. Như kẻ nào tụng trì chú này, nếu còn sanh chút lòng nghi, tất không được toại nguyện. Nếu chúng sanh nào xâm tổn tài vật, thức ăn uống của thường trụ sẽ mang tội rất nặng, do nghiệp ác ngăn che, giả sử ngàn đức Phật ra đời cũng không được sám hối, dù có sám hối cũng không trừ diệt. Nếu đã phạm tội ấy, cần phải đối 10 phương đạo sư sám hối, mới có thể tiêu trừ. Nay do tụng trì chú Đại Bi liền được trừ diệt. Tại sao thế? Bởi khi tụng chú Đại Bi tâm đà ra ni, 10 phương đạo sư đều đến vì làm chứng minh, nên tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. Chúng sanh nào tụng chú này, tất cả tội thập ác ngũ nghịch, báng pháp, phá người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh, bao nhiêu tội ác nghiệp nặng như thế đều được tiêu hết, duy trừ một việc: kẻ tụng đối với chú còn sanh lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu, huống chi tội nặng? Nhưng tuy không liền diệt được tội nặng, cũng có thể làm nhân bồ đề về kiếp xa sau. 

Bạch đức Thế Tôn! Nếu các hàng trời, người tụng trì thần chú Đại Bi, thì không bị 15 việc chết xấu, sẽ được 15 chỗ sanh tốt. Thế nào là 15 việc chết xấu?

 

1. Không bị chết do đói khát khốn khổ. 
2. Không bị chết do gông tù đánh đập. 
3. Không bị chết vì oan gia thù địch. 
4. Không bị chết giữa quân trận chém giết nhau. 
5. Không bị chết do cọp sói cùng ác thú tàn hại. 
6. Không bị chết bởi rắn rít độc cắn. 
7. Không bị chết vì nước trôi lửa cháy. 
8. Không bị chết bởi phạm nhằm thuốc độc. 
9. Không bị chết do loài sâu trùng độc làm hại. 
10. Không bị chết vì điên cuồng mê loạn. 
11. Không bị chết do té cây, té xuống núi. 
12. Không bị chết bởi người ác trù ếm. 
13. Không bị chết bởi tà thần, ác quỷ làm hại. 
14. Không bị chết vì bịnh ác lâm thân. 
15. Không bị chết vì phi mạng tự hại.

 

Tụng trì thần chú Đại Bi, không bị 15 việc chết xấu như thế.

Sao gọi là 15 chỗ sanh tốt? 



1. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp đấng quốc vương hiền lành. 
2. Tùy theo chỗ sanh, thường ở cõi nước an lành. 
3. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp thời đại tốt, 
4. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp bạn lành. 
5. Tùy theo chỗ sanh, thân căn thường được đầy đủ. 
6. Tùy theo chỗ sanh, đạo tâm thuần thục. 
7. Tùy theo chỗ sanh, không phạm cấm giới. 
8. Tùy theo chỗ sanh, thường được quyến thuộc hòa thuận, có ân nghĩa. 
9. Tùy theo chỗ sanh, vật dụng, thức ăn uống thường được đầy đủ. 
10. Tùy theo chỗ sanh, thường được người cung kính giúp đỡ. 
11. Tùy theo chỗ sanh, tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt. 
12. Tùy theo chỗ sanh, những việc mong cầu đều được toại nguyện. 
13. Tùy theo chỗ sanh, long thiên, thiện thần thường theo ủng hộ. 
14. Tùy theo chỗ sanh, thường được thấy Phật nghe pháp. 
15. Tùy theo chỗ sanh, khi nghe chánh pháp ngộ giải nghĩa sâu.


Nếu kẻ nào trì tụng chú Đại Bi, sẽ được 15 chỗ sanh tốt như thế! Cho nên tất cả hàng trời, người, đều nên thường tụng trì, chớ sanh lòng biếng trễ. 

Khi đức Quán Thế Âm Bồ Tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội, chắp tay đứng thẳng, nở mặt mỉm cười, nói chương cú màu nhiệm Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni rằng: 

 

 

 THIÊN THỦ THIÊN NHÃN

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN

VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ÐÀ RA NI


 

Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da.1

Nam-mô a rị da2, bà lô yết đế thước bác ra da3, Bồ-đề tát đỏa bà da4, ma ha tát đỏa bà da5, ma ha ca lô ni ca da6, án7, tát bàn ra phạt duệ8, số đát na đát tỏa9.

Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da10, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà11.

Nam-mô na ra cẩn trì12, hê rị ma ha bàn đa sa mế13, tát bà a tha đậu thâu bằng14, a thệ dựng15, tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già16, ma phạt đạt đậu17, đát điệt tha. 

Án18, a bà lô hê19, lô ca đế20, ca ra đế21, di hê rị22, ma ha bồ-đề tát đỏa23, tát bà tát bà24, ma ra ma ra25, ma hê ma hê, rị đà dựng26, cu-lô cu-lô kiết mông27, độ lô độ lô, phạt xà da đế28, ma ha phạt xà da đế29, đà ra đà ra30, địa rị ni31, thất Phật ra da32, dá ra dá ra33.

Mạ mạ phạt ma ra34, mục đế lệ35, y hê di hê36, thất na thất na37, a ra sâm Phật ra xá-lợi38, phạt sa phạt sâm39, Phật ra xá da40, hô lô hô lô ma ra41, hô lô hô lô hê lỵ42, ta ra ta ra43, tất rị tất rị44, tô rô tô rô45, bồ-đề dạ bồ-đề dạ46, bồ-đà dạ bồ-đà dạ47, di đế rị dạ48, na ra cẩn trì49, địa rị sắc ni na50, ba dạ ma na51, ta bà ha52.

Tất đà dạ53, ta bà ha54. Ma ha tất đà dạ55, ta bà ha56. Tất đà du nghệ57, thất bàn ra dạ58, ta bà ha59. Na ra cẩn trì60, ta bà ha61. Ma ra na ra62, ta bà ha63. Tất ra tăng a mục khê da64, ta bà ha65. Ta bà ma ha, a tất đà dạ66, ta bà ha67

Giả kiết ra a tất đà dạ68, ta bà ha69. Bà đà ma yết tất đà dạ70, ta bà ha71. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ72, ta bà ha73. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ74, ta bà ha75.

Nam-mô hắt ra đát na, đa ra dạ da76.

Nam-mô a rị da77, bà lô yết đế78, thước bàng ra dạ79, ta bà ha80.

Án tất điện đô81, mạng đa ra82, bạt đà dạ83, ta bà ha84.

 

(Tụng mỗi ngày ít nhất là 5 Ðại-Bi-Tâm Ðà-Ra-Ni trở lên )




Đại Bi Tâm Đà Ra Ni 

Xuất-Tượng 



BỔN THÂN NGÀI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT



1. NAM MÔ HẮC RA ÐÁT NA ÐA RA DẠ DA


Từ quán Bi quán Hỷ Xả quán

Phổ độ chúng sanh hóa đại thiên

Hữu duyên Vô duyên đồng nhiếp thọ 

Ly khổ Đắc lạc phản bổn nguyên.



BỔN THÂN NGÀI NHƯ Ý LUÂN BỒ TÁT



2. NAM MÔ A RỊ DA


Thân Khẩu Ý luân đại tổng trì

Vạn đóa Liên hoa chánh khai thì

Bạch Thanh Hồng Tử quang biến chiếu

Hữu duyên Phật tử phó thánh tịch.




BỔN THÂN NGÀI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT TRÌ BÁT



3. BÀ LÔ YẾT ÐẾ THƯỚC BÁC RA DA


Trì bát quán âm cứu thế gian

Ứng bệnh dữ dược nhuận tam thiên

Bái lễ kiền thành hộ cảm triệu

Nhất thiết sở cầu mãn tâm nguyện.




NGÀI BẤT KHÔNG QUYẾN SÁCH BỒ TÁT



4. BỒ ÐỀ TÁT ÐỎA BÀ DA


Quyến sách diệu dụng bất tư nghị

Bồ tát trì thử độ quần mê

Tụng chú tác quán Tam Ma Địa

Tức thân thành Phật vị túc kỳ.




NGÀI CHỦNG TỬ BỒ TÁT TỰ TỤNG CHÚ



5. MA HA TÁT ÐỎA BÀ DA


Giác chư hữu tình chủng thánh nhân

Đạo chứng vô vi khế chơn tâm

Tự tha kiêm lợi công thành tựu

Đồng nhập Bát Nhã giải thoát môn.




BỔN THÂN NGÀI MÃ MINH BỒ TÁT



6. MA HA CA LÔ NI CA DA


Mã Minh Đại Sĩ hóa Ta bà

Bạt khổ dữ lạc dũ trầm kha

Khởi tử hồi sanh thi cam lộ

Bạt Chiết La thủ đãng yêu ma.



CÁC VỊ QỦY THẦN CHẮP TAY NGHE TỤNG CHÚ



7. ÁN


Vô thỉ vô chung vô cổ kim

Hư không pháp giới nhất khẩu thôn

Tự tánh tịch nhiên phi nội ngoại

Như thị Như thị Như thị nhân.




BỔN THÂN TỨ THIÊN VƯƠNG



8. TÁT BÀN RA PHẠT DUỆ


Hộ thế Tứ Vương nhật dạ mang

Thưởng thiện phạt ác chúng ma hàng

Bồ tát hóa hiện phục quần quái

Long bàn Hổ ngọa lễ Pháp hoàng.




QUỶ THẦN CỦA TỨ ĐẠI THIÊN VƯƠNG



9. SỐ ÐÁT NA ÐÁT TỎA


Thiên binh Thiên tướng mãnh vô địch

Thiên ma lạc đảm bất túc kỳ

Cải quá thiên thiện bần giả phú

Đắc sanh Cực lạc chúng khổ ly.



BỔN THÂN CỦA NGÀI LONG THỌ BỒ TÁT



10. NAM MÔ TẤT KIẾT LẬT ÐỎA Y MÔNG A RỊ DA


Hữu uy tư thông nan tư nghị

Vô cầu Bất ứng Tam muội lực

Long thọ Tôn giả phục ma oan

Hành nhân mạc hoạn đắc Bồ đề.



VIÊN MÃN BÁO THÂN LÔ XÁ NA PHẬT



11. BÀ LÔ KIẾT ÐẾ THẤT PHẬT RA LĂNG ÐÀ BÀ


Viên mãn báo thân Xá Na Phật

Hộ trì hành nhân tự tại đa

Thập phương thế giới văn thanh độ

Ly cấu xuất trần Pháp Ma Ha!



BỔN THÂN CỦA THANH TỊNH PHÁP THÂN TỲ LÔ GIÁ NA PHẬT



12. NAM MÔ NA RA CẨN TRÌ


Thanh tịnh Pháp thân Giá na Phật

Quảng độ chúng sanh hóa Ta bà

Thành tựu Kim cang kiên cố thể

Đồng đăng bỉ ngạn mật Ba la.


NGÀI DƯƠNG MINH ĐẦU THẦN DƯƠNG


13. HÊ RỊ MA HA BÀN ÐA SA MẾ


Từ năng dữ lạc Bi bạt khổ

Phổ hóa quần sanh thành Phật tổ

 Dương đầu Thần vương hộ hành nhân

Hổ lang ác thú giai vô trở.



NGÀI CAM LỘ BỒ TÁT




14. TÁT BÀ A THA ÐẬU THÂU BẰNG


Cam lộ quán đảnh hoạch thanh lương

Phổ cứu quần manh đắc an khang

Lục đạo tứ sanh thành lợi lạc

Từ bi Hỷ xả trợ Pháp vương.




NGÀI PHI ĐẰNG DẠ XOA THIÊN VƯƠNG



15. A THỆ DỰNG


Dạ xoa Thiên vương phi Hổ bì

Thưởng thiện Phạt ác chửng nguy cấp 

Tuần hành Tứ phương ký công quá

Chủ trì Công đạo Bình đẳng tề.


NGÀI BÀ GIÀ ĐẾ THẦN VƯƠNG



16. TÁT BÀ TÁT ÐA, NA MA BÀ TÁT ÐA, NA MA BÀ GIÀ


Quán Âm hóa hiện Thần vương thân

Thiên thủ Pháp bảo diệu nan cùng

Xà kế Hắc diện phục yêu quái

Chánh pháp cửu trụ nguyện hoằng thâm.



BỔN THÂN NGÀI QUÂN TRA LỢI BỒ TÁT



17. MA PHẠT ÐẠT ÐẬU


Thiện nhân hoan hỷ Ác nhân bố

Ưu khổ viễn ly vạn bệnh liêu

Phật nhãn quán sát biến Pháp giới

Kim luân thôi diệt nhất thiết ma.




BỔN THÂN CỦA NGÀI A RA



18. ÐÁT ÐIỆT THA


Xuất quảng Trường thiệt biến tam thiên

Quán âm Thị hiện hóa Nam nữ

Ứng cúng Sát tặc A-la-hán

Tự lợi Lợi tha giác hạnh viên.



BỔN THÂN CỦA NGÀI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT



19. ÁN! A BÀ LÔ HÊ


Quỷ thần cung kính thính Phạm âm

Tam mục động tất chúng sanh Tâm

Nhất thiết cầu nguyện giai thành tựu

Vạn hành đồng nhập Bát nhã môn.




BỔN THÂN CỦA NGÀI ĐẠI PHẠM THIÊN VƯƠNG



20. LÔ CA ÐẾ


Đại phạm Thiên vương suất Thần binh

Thập phương Bồ tát đồng hiện thân

Độ thoát Chúng sanh xuất khổ hải

Tốc đăng Bỉ ngạn tịch diệt thành.




BỔN THÂN CỦA NGÀI ĐẾ THẦN



21. CA RA ÐẾ


Hắc sắc Đế thần hiển uy phong

Đông tây Nam bắc nhậm tung hoành

Phát lung Chấn hội từ bi chủ

Nhật dạ Bất hưu cứu chúng sanh.



THIÊN THẦN MA HÊ THỦ LA



22. DI HÊ RỊ


Tam thập Tam thiên chúng thần binh

Linh văn Mật ngữ lệnh phụng hành

Thưởng thiện Phạt ác hộ chánh giáo

Thế giới Hàm an khánh thăng bình.



BỔN THÂN NGÀI ĐẠI BỒ TÁT



23. MA HA BỒ ÐỀ TÁT ÐỎA



Kiên thật Chơn tâm cầu giai ứng

Quảng đại Linh cảm vô bất thông

Từ bi Phổ độ Ba-la-mật

Hàng phục Chư ma chánh pháp hưng.


BỔN THÂN NGÀI HƯƠNG TÍCH BỒ TÁT



24. TÁT BÀ TÁT BÀ


Hương-tích Bồ-tát đại uy thần

Thanh hoàng Xích bạch hắc quỷ binh

Phục lao Chấp dịch thính giáo hóa

Cảm ứng Đạo giao cứu quần sanh.




NGÀI BẠCH Y BỒ TÁT



25. MA RA MA RA


Hỗ tương miễn lệ Hỗ tinh tấn

Đồng tu Thiện pháp tục tâm ấn

Tha nhật thành tựu Bồ-đề quả

Long hoa Hội thượng khánh hoan hân.



BỔN THÂN ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ



26. MA HÊ MA HÊ RỊ ÐÀ DỰNG


Ứng cơ Thị hiện vô-lượng thân

Đại tiểu Quyền thật hiển uy thần

Kim cang Bất hoại thường tự tại

Thiên nhãn Diêu quán thiên nhĩ văn.



BỔN THÂN NGÀI KHÔNG THÂN BỒ TÁT



27. CU LÔ CU LÔ KIẾT MÔNG


Không-thân Không-tâm không thế giới

Thiên đại Tướng quân lãnh thiên binh

Tuần du Chư phương sát thiện ác

Công thưởng Quá phạt vô thác phân.



BỔN THÂN NGÀI NGHIÊM TUẤN BỒ TÁT




28. ÐỘ LÔ ÐỘ LÔ PHẠT XÀ DA ÐẾ


Man binh Dũng mãnh chiến vô địch

Khổng-tước Hùng-uy trấn quần si

Bồ tát Hiệu lệnh tuần thiên hạ

Hộ thiện Trừ ác độ chúng mê.

 

NGÀI ĐẠI LỰC THIÊN TƯỚNG



29. MA HA PHẠT XÀ DA ÐẾ


Đại khổ Đại lạc đại từ bi

Tu chư Thiện pháp lực vô úy

Bảo xử Hàng ma hộ hành giả

Tam tai Bát nạn nhất thời thôi.


 


NGÀI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

HIỆN THÂN TƯỚNG TRƯỢNG PHU




30. ÐÀ RA ÐÀ RA


Hiện đại Trượng-phu thân kỳ đặc

Pháp tướng Trang nghiêm ly chư quá

Dĩ đức Cảm nhân tâm thành phục

Vọng chi Nghiễm nhiên tức ôn hòa.



NGÀI SƯ TỬ VƯƠNG BINH

NGÀI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT HIỆN THÂN



31. ÐỊA RỊ NI


Sư-tử Vương-binh nghiệm tụng độc

Thiên biến Vạn biến vô lượng số

Đa đa ích thiện Công viên mãn

Thành tựu Bồ tát thắng quả thù.



BỔN THÂN NGÀI TÍCH LỊCH BỒ TÁT



32. THẤT PHẬT RA DA


Hàng phục Chư ma chánh pháp hưng

Tích-lịch Thiểm điện quỷ thần kinh

Vũ trụ Trừng thanh yêu phân tức

Huệ nhật Cao chiếu khánh hòa bình.



BỔN THÂN NGÀI TỒI TOÁI BỒ TÁT



33. DÁ RA DÁ RA


Nộ mục Dương mi nhiếp tà ma

Uy đức Vô biên hộ chư Phật

Nhất thiết Chúng sanh đắc an lạc

Bồ-tát Sự tất tiếu ha ha.



BỔN THÂN NGÀI ĐẠI HÀNG MA KIM CANG



34. MẠ MẠ PHẠT MA RA


Chiết phục Ma ngoại hiện thần uy

Đại từ Cứu thế pháp vương khôi

Bình đẳng Phổ tế ba-la-mật

Hữu duyên Chúng sanh hoạch yết đế.



CÁC ĐỨC PHẬT CHẮP TAY NGHE TỤNG CHƠN NGÔN



35. MỤC ÐẾ LỆ


Bế mục Trừng tâm tụng chân-ngôn

Nhất niệm Bất sanh diệu thông huyền

Tam muội Gia trì trí quang hiện

Chư Phật xưng tán Thiện nữ nam.



NGÀI MA HÊ THỦ LA THIÊN VƯƠNG



36. Y HÊ DI HÊ


Ma-hê-Thủ-la mãnh hựu hung

Thưởng thiện Phạt ác kiến kỳ công

Phổ độ Quần mê đăng bỉ ngạn

Hóa lợi Hữu tình vô thủy chung.




NGÀI CA NA MA TƯỚNG THIÊN VƯƠNG



37. THẤT NA THẤT NA


Thị thiện Thị ác nhiếp chúng sanh

Hốt thuận Hốt nghịch chiết tánh linh

Phản bổn Hoàn nguyên tu chư kỷ

Ma-ha Bát-nhã nhật dạ minh.



NGÀI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT



38. A RA SÂM PHẬT RA XÁ LỢI


Tứ thập Nhị thủ diệu vô cùng

Thông thiên Đạt địa cảm mê mông

Bài-nỗ Cung-tiễn uy thần tốc

Cường giả Điều phục nhược giả hưng.




NGÀI KIM KHÔI ĐẠI TƯỚNG




39. PHẠT SA PHẠT SÂM


Uy-mãnh Từ-bi đại trượng phu

Điều phục Chúng sanh xuất mê đồ

Cải ác Tùng thiện tu chư độ

Bồi thực Phước huệ ngộ chơn như.




BỔN THÂN ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ



40. PHẬT RA XÁ DA


Quán-âm sư chủ A-di-đà

Tứ thập Bát nguyện hóa Ta-bà

Tam bối Cửu phẩm sanh Cực-lạc

Thủy lưu Phong động diễn Ma-ha.



BÁT BỘ QUỶ THẦN VƯƠNG



41. HÔ LÔ HÔ LÔ MA RA


Quán âm thị hiện Quỷ-thần-vương

Hàng phục Chư ma thủ quy chương

Nhất thiết Chúng sanh y giáo hối

Cường giả Điều nhu nhược giả xương.




BỔN THÂN NGÀI TỨ TÝ TÔN THIÊN



42. HÔ LÔ HÔ LÔ HÊ LỴ


Tứ-tý tôn-thiên Hiện thần uy

Nhất thiết Tà ma vọng phong hồi

Quy y tam bảo Quán-tự-tại

Tích công Lũy hạnh thiện đức bồi.




ĐỜI NGŨ TRƯỢC ÁC THẾ



43. TA RA TA RA


Thiện xảo phương tiện Độ ta bà

Thị hiện Ngũ-trược hóa quần ma

Thường hành Vô ngã ba la mật

Ly chư pháp chấp Diễn ma-ha.



 


NGÀI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT



44. TẤT RỊ TẤT RỊ


Năng quán chi trí Sở quán cảnh

Viên dung Tự tại chơn như tánh

Vô biên Thệ nguyện lợi chúng sanh

Bất khả tư nghị Thường tại định.



 

TIẾNG LÁ CÂY RỤNG



45. TÔ RÔ TÔ RÔ


Vạn-vật-thuyết-pháp Hữu thùy thính

Thế giới Chúng sanh vọng tưởng ngưng

Chư Phật bổn nguyên Ly văn tự

Như thị Ngã văn đại bi công.


 

NGÀI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT



46. BỒ ÐỀ DẠ BỒ ÐỀ DẠ


Từ Bi Hỷ Xả tứ vô lượng

Thị hiện  Thiện  tướng hóa quần manh

Nhiếp Thọ chúng sanh Đăng bỉ ngạn

Hồi quang phản chiếu Quy Cố Hương.


 

BỔN THÂN NGÀI A NAN



47. BỒ ÐÀ DẠ BỒ ÐÀ DẠ


Quán Âm thị hiện Xú ác hình

Chiết phục Cường Bạo cải tâm linh

Đồng chứng vô sanh Bát Nhã Trí

Hoàn nhập Ta Bà độ hữu tình.



BỔN THÂN NGÀI ĐẠI XA BỒ TÁT



48. DI ÐẾ RỊ DẠ


Từ bi thị hiện Hóa ác nhân

Đắc đại An ổn mộng thần thanh

Cánh hoạch Phước báo vô hữu tận

Bồ-đề Bát-nhã tự hành thâm.


NGÀI LONG THỌ BỒ TÁT



49. NA RA CẨN TRÌ


Quán Âm thị hiện Long Thọ tôn

Phổ nhiếp Quần cơ ly hỏa khanh

Phản bổn hoàn nguyên Thành chánh giác

Vi-trần-phẫu-xuất Pháp giới kinh.




BỔN THÂN NGÀI BẢO TRÀNG BỒ TÁT



50. ÐỊA RỊ SẮC NI NA


Hạng quải nhân đầu Niệm linh văn

Thủ chấp thiết mâu Nhật dạ tuần

Hoán tỉnh Chúng sanh hành chư thiện

Khổ hải Vô biên mạc trầm luân.




BỔN THÂN NGÀI BẢO KIM QUANG TRÀNG BỒ TÁT




51. BA DẠ MA NA


Bạt-chiết-la-xử Trấn quần ma

Liên hoa sổ châu niệm Phật đà

Lôi thanh Kinh tỉnh si mê giả

Mộng giác Nguyên lai nhất tự đa.



BỔN THÂN NGÀI TAM ĐẦU THIỆN THÁNH



52. TA BÀ HA


Tức tai Tăng phước diệu cát tường

Phật Pháp Tăng Bảo phóng hào quang

Quán hạnh nhất tâm Vô-tướng-lễ

Thị đại Bồ đề hóa vạn phương.



BỔN THÂN NGÀI XÁ LỢI PHẤT BỒ TÁT



53. TẤT ÐÀ DẠ


Mỹ-diệu-tướng-hảo Trang nghiêm thân

Thông đạt nhất thiết Chư pháp môn

Phổ độ hữu duyên Sanh Cực Lạc

Thường Tịch Quang độ chơn hựu chơn.


 

BỔN THÂN NGÀI HẰNG HÀ SA BỒ TÁT

 

54. TA BÀ HA


Hằng-hà-sa số chư Bồ-tát

Tng lập Ngao đầu tiếu ha ha

Pháp hải uông dương Vô bất độ

Chúng sanh dữ ngã Ly tự tha.


 

BỔN THÂN NGÀI PHÓNG QUANG BỒ TÁT



55. MA HA TẤT ÐÀ DẠ


Phóng  đại Quang minh chiếu thế gian

Thai noãn thấp hóa Ly đảo huyền

Cửu giới Chúng sanh thành chánh giác

Thường lạc ngã tịnh Phẩm tự cao.


 

BỔN THÂN NGÀI MỤC KIỀN LIÊN BỒ TÁT


56. TA BÀ HA


Thần-thông-biến-hóa Thuộc đệ nhất

Kim tích trượng Cứu thế gian hy

Địa ngục Chúng sanh mông ân thọ

Ly chư chướng nạn Phát bồ đề.



CHƯ THIÊN BỒ TÁT



57. TẤT ÐÀ DU NGHỆ


Tùy loại hóa hiện Độ chư-thiên

Đồng Sự Lợi Hành tiếp hữu duyên

Xả kỷ vị nhơn Chơn vô ngã

Thệ nguyện Chúng sanh thành thánh hiền.



NGÀI QUÁN THẾ ÂM 

TU PHÁP AN TỨC HƯƠNG


 

58. THẤT BÀN RA DẠ


Bồ tát thị hiện Thiên nữ-thân

Nhân cơ Đậu giáo chỉ mê tân

Tuần tuần thiện dụ Hối bất quyện

Từ bi Bình đẳng nhiếp quần sanh.



BỔN THÂN NGÀI A XÀ NA BỒ TÁT


59. TA BÀ HA


Tiêu tai miễn nạn Trừ bệnh ma

Bảo-bát Diệu dụng bất khả thuyết

Toại tâm mãn nguyện Thí vô úy

Yết đế Yết đế ta-bà-ha.


NGÀI HẢI HUỆ BỒ TÁT


60. NA RA CẨN TRÌ


Vi trần tướng hải Vô lượng thân

Lục độ Vạn hạnh cần canh vân

Hồi tiểu hướng đại Bồ-đề quả

Tự độ Hóa tha bát-nhã-tâm.



NGÀI CHIÊN ĐÀ LA BỒ TÁT


61. TA BÀ HA


Chủng nhân kết quả Thực thiện căn

Liễu sanh Thoát tử yếu tự cần

Dũng mãnh tinh tấn Ba-la-mật

Ma ha Giác đạo diệu hành thâm.



BỔN THÂN NGÀI BẢO ẤN VƯƠNG BỒ TÁT 



62. MA RA NA RA


Bảo-ấn-thủ-nhãn Đại bồ tát

Kim phủ Phách phá vô minh gia

Nhất thiết hữu tình Phiền não đoạn

Tùng địa Dũng xuất bảo-liên-hoa.



NGÀI CÂU HY LA BỒ TÁT



63. TA BÀ HA


Du hý thần thông Hóa tam thiên

Mang-hài Đạp-lãng pháp vô biên

Phát hải triều âm Kinh mê mộng

Nhu phu Lập chí tham giả liêm.


BỔN THÂN NGÀI DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT



64. TẤT RA TĂNG A MỤC KHÊ DA


Hóa hiện Dược-vương đại Bồ-tát

Trừ Ôn diệt Dịch cứu-hằng-sa

Phổ lịnh hữu tình Ly tật khổ

Cam lộ Biến sái hàm thức nha.



BỔN THÂN NGÀI VIÊN MÃN BỒ TÁT



65. TA BA HA


Quán hạnh khởi tu Lễ Pháp Vương

Phước huệ Trang nghiêm diệu đạo tràng

Nhược năng chứng đắc Thâm Bát-nhã

Độ chư Khổ ách ngộ chơn thường.



BỔN THÂN NGÀI DƯỢC THƯỢNG BỒ TÁT



66. TA BÀ MA HA A TẤT ÐÀ DẠ


Hằng thuận chúng sanh Giáo Ta Bà

Ngũ Trược Ác Thế hóa quần ma

Sa lý đào kim Cầu Hiền Khát

Thủy trung Lao nguyệt bất-bì-chuyết.


BỔN THÂN NGÀI ĐẠI TRÍ XÁ LỢI PHẤT BỒ TÁT


67. TA BÀ HA


Vô-tự-chân-kinh Quải thân biên

Trí như Đại hải định như sơn

Giới đức viên minh Quang-biến-chiếu

Phổ nhiếp Quần cơ độ hữu duyên.



 

BỔN THÂN NGÀI KIẾU HÁM THẦN TƯỚNG



68. GIẢ KIẾT RA A TẤT ÐÀ DẠ


Sắc-thân-tam-muội Hiện tam thiên

Kiến tướng Văn danh thoát-vô-gián

Liễu sanh đại pháp Đăng bỉ ngạn

Hàm mông Nhiếp thọ giác vương tiền.



CHƯ THIÊN MA VƯƠNG


69. TA BÀ HA


Tu đạo hành giả Mạc tự khi

Yểm nhĩ Đạo linh thậm bất nghi

Khai hoa nan kết Chơn thật quả

Quang âm Không quá thái-khả-tích.



NGÀI LINH HƯƠNG THIÊN BỒ TÁT



70. BÀ ÐÀ MA YẾT TẤT ÐÀ DẠ


Bồ-tát-vô-sự Qua công tác

Tọa bảo Liên hoa phóng quang minh

Thọ chư chúng sanh Đại giác ký

Viên mãn Niết bàn chứng-vô-dư.




BỔN THÂN NGÀI TÁN HOA THIÊN BỒ TÁT


71. TA BÀ HA


Thiên-nữ-tán-hoa Cúng hành nhân

Nghiêm trì Giới luật diệu thông thần

Cánh năng hồi quang Quán tự tại

Bất cửu Đương khế đại-giác-tôn.



BỔN THÂN NGÀI PHÚ LÂU NA BỒ TÁT

 


72. NA RA CẨN TRÌ BÀN ÐÀ RA DẠ


Tiểu trung hiện đại Vô-ngại-thân

Đông tây Nam bắc nhậm tung hoành

Tam thiên thế giới Duy nhất niệm

Nhĩ ngã Tha tâm bất-khả-phân.




BỔN THÂN NGÀI ĐÀ LA NI TỬ BỒ TÁT



73. TA BÀ HA


Lễ bái cúng dường Yếu kiền thành

Hương-hoa Đăng-quả nhật nhật tân

Chơn tâm tu hạnh Ly chư tướng

Tam-luân Thể -không xuất mê tân.



 

NGÀI TAM MA THIỀN NA BỒ TÁT



74. MA BÀ LỴ THẮNG YẾT RA DẠ


Thiên-thủ-thiên-nhãn Đại từ bi

Phổ hóa Tam giới độ chúng hồi

Chư thiên ma vương Giai thọ thủ

Cải ác Hướng thiện Tốc Lai Quy.



BỔN THÂN NGÀI ĐẠI CA DIẾP BỒ TÁT



75. TA BÀ HA


Lễ nhi vị lễ Tu vô tu

Không mẫn Sở không hữu hà cầu ?

Khán phá Phóng hạ Chơn-tự-tại

Tiêu diêu Pháp giới nhậm du du.



BỔN THÂN NGÀI HƯ KHÔNG BỒ TÁT



76. NAM MÔ HẮT RA ÐÁT NA ÐA RA DẠ DA


Chơn-không-vi-thể Huyễn Sắc Dụng

Quán sát Thế gian cứu chư bệnh

Tùy cơ cảm ứng Nan Tư Nghị

Ngã đẳng Manh si đương quy mạng.




BỔN THÂN NGÀI PHỔ HIỀN BỒ TÁT



77. NAM MÔ A RỊ DA


Hóa thân Phổ-hiền Biến tam thiên

Già phu Tọa thượng Pháp vô biên

Bách bảo Luân chưởng Phá địa ngục

A-Di-Đà Phật trụ tây thiên.



BỔN THÂN NGÀI VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT



78. BÀ LÔ YẾT ÐẾ


Pháp vương trưởng tử Văn-thù tôn

Từ tâm Giáo hóa ta bà dân

Đồng nguyện chứng đắc Vô-lượng trí

Thường tịch Quang độ Vạn Phật Thôn.



NGÀI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

CẦM ĐÓA KIM LIÊN NGÀN CÁNH


HIỂU LÝ “NHÃN CĂN THỌ SẮC”.


79. THƯỚC BÀNG RA DẠ


Lão viết ngũ sắc Sử mục manh

Quán âm Giải-nhãn ngộ chơn thường

Kim diệp bảo liên Hào quang chiếu

Bổn lai Diện khổng phi da nương.



NGÀI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

DUỖI CÁNH TAY VÀNG


HIỂU LÝ “TAI PHÂN BIỆT TIẾNG”.


80. TA BÀ HA


Ty trúc độ cách Mộc thạch kim

Bát âm Tề tấu nhật nhật tân

Giải-liễu-nhĩ-căn Văn tự tánh

Thiên nhạc Minh không bất-động-tâm.



NGÀI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

MỞ TAY NGŨ LUÂN

 

HIỂU LÝ “MŨI NGỬI CÁC MÙI”.


81. ÁN! TẤT ÐIỆN ÐÔ


Thọ trì độc tụng Diệu-linh-văn

Gia bị Hộ niệm các hành nhân

Tam thiên thế giới Giai thị hiện

Quán âm Tỵ-căn Giải-vị-trần.



NGÀI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

SÈ BÀN TAY ĐÂU LA MIÊN

 

HIỂU LÝ “LƯỠI NẾM VỊ”.


82. MẠNG ÐA RA


Trì chú tụng kinh Chuyên nhất tâm

Cảm ứng Đạo giao độ biến kim

Bồ tát từ bi Thủy hiện nguyệt

Chúng sanh Giác ngộ Ly-vị-căn.

                 


NGÀI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

TAY BƯNG BÁT HƯƠNG

 

HIỂU LÝ “THÂN CĂN THỌ XÚC”.


83. BẠT ÐÀ DẠ


Pháp giới hư không Thiên ngoại thiên

Vi trần Sát hải tận bao hàm

Hữu duyên vô duyên Đồng hóa độ

Tín-thọ Phụng-hành tức Thánh-hiền.  



NGÀI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

TAY CẦM TRÀNG PHAN

 

HIỂU LÝ “Ý CẦN BIẾT CÁC PHÁP”.


84. TA BÀ HA


Danh viết Đại bi Đà-ra-ni

Tứ Thập NhịThủ thế gian hy

Thiện căn quảng tích Phương-năng-ngộ

Bất tu Thử pháp thái khả tích.



Bồ tát thuyết chú xong, cõi đất 6 phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, 10 phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng. Hoặc có vị chứng quả Tu đà hoàn, có vị chứng quả Tư đà hoàn, hoặc có vị chứng quả A na hàm (30), có vị chứng quả A la hán, hoặc có vị chứng được sơ địa, nhị địa, tam địa, tứ địa, ngũ địa cho đến thập địa, vô lượng chúng sanh phát lòng bồ đề.

Khi ấy Đại Phạm thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay cung kính bạch vớI đức Quán Thế Âm bồ tát rằng: Lành thay đại sĩ! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô lượng phật hội, nghe nhiều pháp yếu, nhiều môn đà ra ni, song chưa từng nghe nói chương cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni này. Cúi xin đại sĩ vì tôi, nói hình trạng tướng mạo của đà ra ni ấy. Tôi và đại chúng đều ưa thích muốn nghe. 

Quán Thế Âm Bồ tát bảo Phạm vương: 

Ông vì phương tiện lợI ích cho tất cả chúng sanh, nên hỏi như thế, nay ông khéo nghe, tôi sẽ vì ông mà nói lược qua. 

Này Phạm vương! Những tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm vô vi, tâm chẳng nhiễm trước, tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm nhường, tâm không tạp loạn, tâm không chấp giữ, tâm vô thượng Bồ Đề, nên biết các thứ tâm này đều là tướng mạo của môn đà ra ni này. Vậy, ông nên y theo đó mà tu hành. 

Phạm vương thưa: Tôi và đại chúng hôm nay mới hân hạnh được biết tướng mạo của môn đà ra ni này, từ đây chúng tôi xin thọ trì chẳng dám lãng quên. 

Bồ tát lại nói tiếp: Nếu kẻ thiện nam, thiện nữ nào tụng trì thần chú này, phải phát tâm Bồ Đề rộng lớn, thề độ tất cả muôn loài, giữ gìn trai giới, đối vớI chúng sanh khởi lòng bình đẳng, và thường nên trì tụng chớ cho gián đoạn. Lại nên ở nơi tịnh thất, tắm gội sạch sẽ, mặc y phục sạch, treo phan, đốt đèn, dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống để cúng dường, buộc tâm một chỗ, chớ nghĩ chi khác, y như pháp mà tụng trì. Lúc ấy, sẽ có Nhựt Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát cùng vô lượng thần tiên đến chứng minh, giúp thêm sự hiệu nghiệm. Bấy giờ ta cũng dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay nâng đỡ, khiến cho kẻ ấy từ đó về sau có thể hiểu suốt tất cả sách vở thế gian, thông đạt các điển tịch Vi Đà (31) và tất cả pháp thuật ngoại đạo. Chúng sanh nào tụng trì thần chú này, có thể trị lành tám muôn bốn ngàn thứ bịnh ở thế gian, hàng phục các thiên ma, ngoại đạo, sai khiến được tất cả quỷ thần. Những kẻ tụng kinh tọa thiền ở nơi non sâu, đồng vắng, bị sơn tinh, tạp mị, các quỉ vọng lượng làm não loạn phá hoại, khiến cho tâm không an định, chỉ cần tụng chú này một biến, các quỉ thần ấy thảy đều bị trói. Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả thiện thần, long vương, kim cang mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hoặc thân mạng của chính họ. 

Tiếp đó, Bồ Tát liền đọc lời kệ sắc lệnh rằng:

Ta sai Mật Tích, Kim Cang Sĩ (32) 
Ô sô quân đồ ương câu thi (33), 
Bát bộ lực sĩ, Thưởng ca la (34), 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Ma Hê Na La Diên (35), 
Kim Tỳ La Đà Ca Tỳ La (36) 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Bà Cấp Ta Lâu La (37), 
Mãn Thiện Xa Bát Chân Đà La (38), 
thường theo ủng hộ bên hành giả 
Ta sai Tát Giá Ma Hòa La (39), 
Cưu La Đơn Tra Bán Chỉ La (40), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Tất Bà Dà La Vương (41), 
Ưng Đức Tỳ La Tát Hòa La (42), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Phạm Ma Tam Bát La (43), 
Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La (44), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam (45), 
Đại Biện Công Đức Bà Đát Na (46), 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương, 
Các thần Mẫu nữ, chúng Đại Lực (47), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương (48), 
Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Sa Môn (49), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương (50), 
28 bộ đại tiên chúng, 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Ma Ni Bạt Đà La (51), 
Táng Chi đại tướng, Phất La Bà (52), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà (53), 
Bà Dà La Long, Y Bát La (54), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Tu La, Càn Thát Bà, 
Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La, 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai thủy, hỏa, lôi, điển thần 
Cưu Bàn Trà vương, Tỳ Xá Xà (55), 
thường theo ủng hộ bên hành giả.

Các vị thiện thần này cùng thần long vương, thần Mẫu Nữ đều có 500 đại lực dạ xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ ngườI thọ trì thần chú Đại Bi. Nếu ngườI đó ở nơi núi hoang, đồng vắng, ngủ nghỉ một mình, các vị thiện thần ấy thay phiên nhau canh giữ không cho tai ương, chướng nạn phạm đến thân. Nếu hành giả đi trong núi sâu, lạc mất đường về, tụng trì chú này, thiện thần, long vương hóa làm người lành chỉ dẫn lối. Như hành giả trụ nơi núi rừng, đồng vắng, thiếu thốn nước lửa, long thần vì ủng hộ, hóa ra nước, lửa. 

Đức Quán Thế Âm Bồ Tát lại vì ngườI tụng chú, nói bài kệ thanh lương tiêu trừ tai họa rằng:

Hành giả đi trong núi đồng vắng, 
gặp những cọp sói, các thú dữ, 
rắn, rít, tinh mị, quỉ vọng lượng. 
Tụng tâm chú này khỏi bị hại. 
Nếu đi biển cả hoặc sông, hồ, 
những rồng rắn độc, loài Ma Kiệt (56), 
Dạ Xoa, La Sát, cá, rùa lớn 
nghe tụng chú này tự lánh xa. 
Nếu bị quân trận giặc bao vây, 
hoặc gặp người ác đoạt tiền của, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
giặc cướp khởi lòng tự thương xót. 
Nếu bị vua quan, quân sĩ bắt, 
gông, cùm trói buộc, giam ngục tù, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
vua, quan tự mở lòng ân xá. 
Nếu đi vào nhà nuôi sâu độc, 
uống ăn để thuốc muốn hại nhau, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
thuốc độc biến thành nước cam lộ, 
Nữ nhơn bị nạn khi sanh sản, 
khổ vì ma quái làm ngăn cản, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
quỷ tà sợ trốn sanh an ổn, 
Gặp rồng, dịch quỷ gieo hơi độc, 
nóng bức, khổ đau sắp mạng chung, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
bịnh dịch tiêu trừ, mạng trường cữu, 
Rồng, quỉ lưu hành bịnh thũng độc, 
ung sang lở lói nhiều khổ đau, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
khạc ra ba lần hơi độc mất, 
chúng sanh đời trược khởi lòng ác, 
trù ếm hại cho thỏa oán thù, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
liền phản trở lại người trù ếm, 
Chúng sanh cõi trược đời mạt pháp, 
lửa dâm dục thạnh, tâm điên đảo, 
ngoại tình, xa vợ, bỏ chồng con, 
ngày đêm mãi tưởng điều sai quấy, 
nếu hay xưng tụng chú Đại Bi, 
lửa dục tiêu trừ, tâm tà dứt, 
công lực Đại Bi chỉ lược qua, 
nếu ta nói hết không cùng kiếp!

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát lại bảo Phạm vương rằng: 

Này Phạm vương! Nếu chúng sanh nào muốn tiêu trừ tai nạn ma chướng nên lấy chỉ ngũ sắc xe làm một sợi niệt, trước tiên tụng chú này 5 biến, kế tụng 21 biến, cứ tụng xong mỗI một biến lại thắt một gút, rồi đeo nơi cổ hoặc bỏ nơi đãy. Tâm chú Đại Bi đây do 99 ức hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra. Các đức Phật ấy vì thương xót muốn cho người tu hành: công đức lục độ chưa đầy đủ, mau được đầy đủ; mầm bồ đề chưa phát, mau được phát sanh; hàng thanh văn chưa chứng may được chứng quả; các vị thần tiên trong cõi đại thiên chưa phát lòng bồ đề, mau được phát tâm Bồ Đề, nếu chúng sanh nào chưa được tín căn đại thừa, do sức oai thần của đà ra ni này, hột giống đại thừa tự sanh mầm và tăng trưởng, lại do sức từ bi phương tiện của ta, khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu. 

Lại nữa, trong tam thiên đại thiên thế giới, những chúng sanh ở nơi ba đường ác, ở chỗ sâu kín tối tăm, nghe thần chú của ta đây, đều được lìa khổ. Các vị Bồ Tát chưa lên bậc sơ trụ, mau được siêu lên, cho đến mau chứng ngôi thập trụ. Mau đến quả vị Phật, thành tựu 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp tùy hình. Nếu hàng Thanh văn một phen được nghe qua chú này, hoặc biên chép, tu hành môn đà ra ni này, dùng tâm chất trực như pháp mà trụ, thì 4 quả sa môn không cầu tự được. Công lực của thần chú này có thể khiến cho nước sông, hồ, biển cả trong cõi đại thiên dâng trào, vách đá, núi nhỏ, núi thiết vi và núi Tu Di thảy đều rung động, lại có thể làm cho tan nát như bụi nhỏ, những chúng sanh ở trong ấy đều phát tâm Bồ Đề. 

Nếu chúng sanh nào trong đời hiện tại muốn mong cầu việc chi,nên giữ trai giới nghiêm sạch trong 21 ngày và tụng trì chú Đại Bi, tất đều được toại nguyện. Nếu thường chí tâm trì tụng, thì từ kiếp sống chết này đến kiếp sống chết khác, tất cả các nghiệp ác đều mau tiêu diệt. Tất cả chư Phật, Bồ Tát, Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ thiên vương, thần, tiên, long vương, thảy đều chứng biết cho. Hàng trời, người nào thường thọ trì tâm chú này như tắm gội trong sông, hồ, biển cả, nếu những chúng sanh ở trong đó được nước tắm gội của người này dính vào thân thì bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều tiêu diệt, liền được siêu sinh về tha phương Tịnh Độ, hóa sanh nơi hoa sen, không còn thọ thân thai, noãn, thấp nữa. Các chúng sanh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng mà còn được như thế, huống chi là chính người trì tụng? Và, như người tụng chú đi nơi đường, có ngọn gió thổi qua mình, nếu những chúng sanh ở sau được ngọn gió của kẻ ấy lướt qua y phục thì tất cả nghiệp ác, chướng nặng thảy đều tiêu diệt, không còn đọa vào tam đồ, thường sanh ở trước chư Phật, cho nên, phải biết quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn! 

Lại nữa, người trì tụng đà ra ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma ngoại đạo, thiên, long, quỷ thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đối với người ấy khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật. 

Người nào trì tụng đà ra ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì 99 ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết người ấy chính là tạng quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình. Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng đà ra ni cứu độ chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả các môn các môn đà ra ni. Nên biết người ấy chính là tạng thiền địnhvì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền. Nên biết người ấy chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì. Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ vì tiếng đà ra ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt. Nên biết người ấy chính là tạng thường trụ vì tam tai, ác kiếp (57) không thể làm hại. Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát vì thiên ma ngoại đạo không thể bức hại. Nên biết người ấy chính là tạng dược vương vì thường dùng đà ra ni trị bịnh chúng sanh.Nên biết người ấy chính là tạng thần thông vì được tự tại dạo chơi nơi 10 phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng! 

Đức Phật bảo Phạm vương: 

- Này thiện nam tử! Nếu kẻ nào chán sự khổ ở thế gian muốn cầu thuốc trường sanh, thì nên an trụ nơi chỗ vắng lặng sạch sẽ, kiết giới thanh tịnh và thật hành một trong các phương pháp như sau: Hoặc tụng chú vào trong áo mà mặc, hoặc tụng chú vào nước uống, thức ăn, chất thơm, dược phẩm mà dùng. Nên nhớ mỗi thứ đều tụng 108 biến, tất sẽ được sống lâu. Nếu có thể kiết giới đúng pháp, và y n

hư pháp mà thọ trì, thì mọi việc đều thành tựu. 

Phép kiết giới như thế nào? Hoặc tụng chú vào lưỡi dao sạch, rạch đất xung quanh làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào nước sạch, rảy 4 phương làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào hột cải trắng, liệng ra bốn phía làm giới hạn. Hay dùng tâm tưởng đến chỗ nào thì chỗ đó là giới hạn. Hoặc tụng chú vào tro sạch, rải xung quanh làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào chỉ ngũ sắc, treo vây bốn bên làm giới hạn. Mấy phương pháp trên đây, dùng cách nào cũng được. Nên nhớ mỗi thứ đều phải tụng cho đủ 21 biến. Nếu tụng trì đúng pháp, tự nhiên sẽ được hiệu quả. 

Này thiện nam tử! Chúng sanh nào nghe danh tự của môn đà ra ni này còn được tiêu diệt tội nặng sanh tử trong vô lượng kiếp, huống chi là tụng trì? Nếu người nào được thần chú này mà tụng trì, phải biết kẻ ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, gieo nhiều căn lành. Nếu kẻ nào tụng trì đúng pháp nên biết người ấy là bậc có đủ tâm đại bi, không bao lâu nữa sẽ thành Phật. Cho nên, hành giả khi thấy mọi loài, đều nên vì chúng tụng trì chú này, khiến cho chúng được nghe để cùng gây nhân Bồ Đề, thì sẽ được vô lượng, vô biên công đức. 

Nếu kẻ hành trì khéo giữ gìn trai giới, dụng tâm tinh thành, vì tất cả chúng sanh sám hối nghiệp ác đời trước tự mình cũng sám hối những ác nghiệp đã gây ra từ vô lượng kiếp đến nay, nơi miệng rành rẽ tụng đà ra ni này tiếng tăm liên tiếp không dứt, thì trong đời hiện tại liền chứng được bốn đạo quả của bậc Sa Môn. Nếu là hạng lợi căn, có phương tiện huệ quán thì quả vị thập địa còn chứng được không lấy gì làm khó, huống gì là những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian. Những việc như thế, nếu có mong cầu, đều được toại nguyện. 

- Này thiện nam tử! Nếu người nào muốn sai khiến quỷ, thì tìm một chiếc xương sọ của kẻ qua đời, đem về rửa sạch. Kế đó lập đàn tràng để chiếc xương ấy trước tượng Thiên Nhãn, chí tâm tụng chú, mỗi ngày đều dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống cúng tế vong linh, đúng 7 ngày như thế, quỷ sẽ hiện thân, tùy theo mạng lịnh của người ấy sai bảo. 

Như hành nhơn muốn sai khiến Tứ Thiên Vương, thì tụng chú này vào gỗ đàn hương rồi đốt lên, sẽ thấy hiệu quả. Sở dĩ được như thế cũng là do nguyện lực đại từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát sâu nặng, lại cũng do oai thần rộng lớn của đà ra ni này. 

Đức Phật lại gọi ngài A Nan mà bảo: 

- Này A Nan! Khi trong một nước có tai nạn nổi lên nếu muốn được an ổn, vị quốc vương ở xứ ấy phải biết dùng chánh pháp trị dân, có độ lượng khoan hồng, không làm oan uổng trăm họ, tha kẻ tù phạm, và giữ thân tâm tinh tấn đọc tụng chú này. Hành trì như thế luôn 7 ngày đêm thì trong cõi nước ấy tất cả tai nạn thảy đều tiêu tan, ngũ cốc phong thạnh, dân chúng được an vui. 

Lại trong một xứ, nếu gặp những tai ương dồn dập như: bị nước nghịch đem binh xâm lấn, dân tình rối loạn không yên, quan đại thần mưu phản, bịnh dịch lưu hành, mưa nắng trái thời hoặc nhựt, nguyệt sai độ v.v... Muốn diệt các thứ tai nạn như thế ấy, vị quốc vương phải lập đàn tràng, tạo tượng Thiên Nhãn Đại Bi để day mặt về phương Tây, sắm các thứ hương, hoa, tràng phan, bảo cái, hoặc trăm thức ăn uống mà cúng dường, rồi dùng thân tâm tinh tấn, đọc tụng chương cú thần diệu. Hành trì như thế đúng 7 ngày thì nước giặc quy hàng, chánh tình yên ổn, lân bang hòa hảo, thương mến lẫn nhau, trong triều từ vương tử cho đến trăm quan đều hết dạ trung thành, nơi cung vi, phi tần, thể nữ khởi lòng hiếu kính đối với vua, các thiên, long, quỷ thần đều ủng hộ trong nước khiến cho mưa gió thuận hòa, hoa quả tốt, nhân dân vui đẹp. 

Lại nếu trong nhà có những tai nạn như ma quái nổi dậy, quyến thuộc đau nặng, tiền của hao mòn, gia đình rối loạn, người ác gieo tiếng thị phi hoặc vu khống để hãm hại, cho đến trong ngoài lớn nhỏ chẳng hòa thuận nhau. Muốn diệt những tai nạn ấy, gia chủ phải lập đàn tràng, hướng về tượng Thiên Nhãn, chí tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và tụng đà ra ni này đủ ngàn biến, thì tất cả việc xấu như trên thảy đều tiêu diệt, gia đình được vĩnh viễn an vui. 

Ngài A Nan lại bạch Phật rằng: 

- Bạch đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là chi? Con nên thọ trì như thế nào? 

Đức Phật bảo: - Thần chú này có những tên như sau: 

1. Quảng đại viên mãn đà ra ni. 
2. Vô ngại đại bi đà ra ni. 
3. Cứu khổ đà ra ni. 
4. Diên thọ đà rani. 
5. Diệt ác thú đà ra ni. 
6. Phá ác nghiệp chướng đà rani. 
7. Mãn nguyện đà ra ni. 
8.Tùy tâm tự tại đà ra ni. 
9. Tốc siêu thánh địa đà ra ni. 

Ông nên y như thế mà thọ trì. 




III

PHẦN LƯU-THÔNG



Ngài A Nan lại bạch Phật: - Bạch đức Thế Tôn! Vị Bồ Tát Ma Ha Tát, bộ chủ của thần chú này, tôn hiệu là chi, mà khéo nói môn đà ra ni như thế? 

Đức Phật bảo: - Vị Bồ Tát ấy hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng tên là Nhiên Sách, cũng gọi là Thiên Quang Nhãn. 

Này thiện nam tử! Quán Thế Âm Bồ Tát thần thông oai lực không thể nghĩ bàn, trong vô lượng kiếp về trước từng thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì nguyện lực đại bi, vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các hàng Bồ Tát, vì muốn an vui thành thục cho chúng sanh, ngài mới giáng tích hiện làm Bồ Tát. Vậy ông và đại chúng, các hàng Bồ Tát, Ma Ha Tát, Phạm vương, Đế Thích, Long thần đều nên cung kính, chớ sanh lòng khinh mạn, xem thường. Nếu tất cả hàng trời, người thường xưng niệm, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ được vô lượng phước diệt vô lượng tội , mạng chung sanh về cõi nước của Phật A Di Đà. 

Đức Phật bảo ngài A Nan: - Thần chú của Quan Thế Âm Bồ Tát nói ra đây, chân thật không dối. Nếu muốn thỉnh Bồ Tát đến, nên tụng chú vào hương chuyết cụ la 21 lần rồi đốt lên (chuyết cụ la chính là an tức hương). 

Nếu kẻ nào bị loài ma mèo dựa vào phá khuấy, người thân thuộc nên tìm một bộ xương của con mèo đã chết, đốt tan ra tro, rồi hòa với đất bùn sạch, nắn thành hình mèo. Khi hoàn thành để hình ấy trước tượng Thiên Nhãn, tụng 108 biến chú Đại Bi vào lưỡi dao rồi chặt hình mèo thành 108 đoạn. Nên nhớ cứ mỗi lần tụng xong một biến thì chém xuống một đao, kêu tên loài ma mèo một lần. Làm như thế bịnh nhơn sẽ an lành, ma mèo vĩnh viễn không dám phá hoại. 

Nếu người nào bị chất độc của loài sâu cổ làm hại, thì thân nhơn mau dùng hương dược kiếp bố la hòa đồng phân với chuyết cụ la hương vào nước trong, sắc còn một chén. Xong, lại để chén thuốc ấy trước tượng Thiên Nhãn tụng chú 108 biến rồi cho bịnh nhơn uống, liền thấy an lành (dược kiếp bố la hương tức Long não hương). 

Nếu bị rắn rít cắn, dùng vị Càn cương tán thành mạt, tụng chú vào đấy 21 biến, rồi dấp lên vết thương, liền hết. 

Nếu bị kẻ thù mưu hại, nên dùng đất sạch, hoặc bột, hoặc sáp, nắn thành hình kẻ ấy. Xong, lại để hình nhơn trước tượng Thiên Nhãn, tụng vào lưỡi dao 108 biến Đại Bi, cứ tụng xong mỗi biến lại chém xuống một dao, kêu tên người kia một lần, rồi đem 108 đoạn hình đã chặt đốt tan. Y theo pháp thức như thế, kẻ oan gia thù nghịch sẽ đổi ra trạng thái vui vẻ, thân hậu đối với ta, trọn đời đôi bên quý mến lẫn nhau. 

Nếu bị bịnh đau mắt, hoặc mắt kéo màng đỏ, mắt trắng đục, hoặc quáng manh, hoặc hư tròng, không thấy được ánh sáng, nên dùng trái ha lê lặc, trái am ma lặc, trái bệ hê lặc, mỗi thứ một quả, đem nghiền, vắt lấy nước. Khi vắt nước nên ở chỗ vắng lặng, giữ cho sạch sẽ, miệng luôn niệm Phật, chớ để cho mèo, chó, gà, lợn cùng đàn bà mới sanh thấy. Vắt nước xong đem hòa với bạch mật, hoặc sữa người. Sữa này phải là của phụ nhơn sanh con trai, chứ không được dùng sữa của người sanh con gái. Khi hòa thành xong, đem chén thuốc để trước tượng Thiên Nhãn tụng chú 108 biến. Trì chú vào thuốc rồi, bịnh nhơn phải ở nơi nhà kín, tránh gió trong thời gian 7 ngày và dùng thuốc ấy nhỏ vào mắt. Làm như thế, tròng con mắt hư lại sanh, các chứng kia đều lành. Mắt thấy được tỏ rõ (P.C: Ba thứ trái này xứ ta không có, bịnh nhơn nên phương tiện thay 3 thứ trái khác hoặc 3 thứ thuốc khác có tánh cách trị bịnh đau mắt, nếu như chí thành, cũng được linh nghiệm). 

Nếu bị bịnh rét hoặc bị loài ma rét dựa, nên dùng da cọp hoặc da beo tụng vào đấy 21 biến chú, rồi phủ lên mình thì bịnh sẽ lành, ma cũng xa lánh. Như được da sư tử thì càng quý. 

Nếu bị rắn độc cắn, dùng chất ráy đóng trong lỗ tai của người bị cắn, tụng chú 21 biến, thoa vào vết thương, nọc rắn liền tiêu. 

Nếu bị bịnh rét dữ nhập tâm, hôn muội sắp chết, dùng một khối mủ cây đào, lớn ước lượng bằng trái đào, đem hòa với một chén nước trong, sắc còn nửa chén, tụng chú vào đấy bảy biến rồi uống, bịnh sẽ lành. Thuốc này chớ cho phụ nữ sắc. 

Nếu bị loài quỷ truyền thi, phục thi làm bịnh, dùng hương chuyết cụ la tụng chú 21 biến, đốt xông vào lỗ mũi. Lại lấy 7 khối hương lớn ước lượng bằng lóng tay cái, cũng gia trì chú 21 biến mà uống, bịnh sẽ lành. Nên nhớ: Bịnh nhơn phải kiêng rượu, thịt, ngũ vị tân (58) và mắng chửi. Một phương pháp nữa là dùng vị Ma Na Thi La hòa với Bạch giới tử và muối hột, gia trì chú 21 biến, rồi đem xông đốt dưới giường người bịnh, quỷ liền vội vã trốn chạy, không dám ở (Ma Na Thi La là vị thuốc Hùng Hoàng). 

Nếu bị tai điếc lùng bùng, tụng chú vào dầu mè, rồi nhỏ trong tai, bịnh sẽ lành. 

Nếu bị chứng thiên phong, xụi nửa thân mình, tai điếc, mũi không biết mùi, dùmg dầu mè sắc với vị Thanh Mộc Hương, gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi mình. Bịnh sẽ vĩnh viễn tiêu trừ. Lại một phương pháp nữa: dùng sữa ngưu tô thuần chất, tụng vào 21 biến chú mà thoa, bịnh cũng sẽ lành. 

Nếu phụ nhơn sanh sản khó, mau dùng dầu mà gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi rún và ngọc môn, liền được dễ sanh. 

Nếu phụ nhơn có nghén, thai nhi chết trong bụng, dùng một lượng thuốc A Ba Mộc Lợi Đà, đổ hai chén sắc còn một chén, gia trì chú 21 biến mà uống, thì cái thai liền ra, phụ nhơn không một chút đau đớn. Như thai y (nhau) không ra, cũng uống thuốc này (A ba mộc lợi đà là vị Ngưu Tất) 

Nếu bỗng nhiên đau nhói nơi tim chịu không kham, đây gọi là chứng độn thi chú, nên dùng hương Quân Trụ Lỗ, tụng chú vào 21 biến, rồi để trong miệng nhai nuốt không hạn nhiều ít, chừng nào mửa được mới thôi, y như thế bịnh sẽ lành, song nên nhớ phải cữ ngũ tân và rượu thịt (quân trụ lỗ là vị thuốc Huân Lục Hương). 

Nếu bị phỏng lửa thành ghẻ, dùng phân trâu đen tụng chú 21 biến mà thoa, bịnh sẽ lành. 

Nếu bị sên lải cắn, dùng nửa chén nước tiểu con ngựa kim, như bịnh nặng thì một chén, gia trì chú 21 biến, uống vào loài trùng sẽ quyện ra như sợi dây. 

Nếu bị bịnh ghẻ đinh dùng lá Lăng Tiêu đâm lấy nước, gia trì chú 21 biến mà thoa, thì ghẻ liền ra cồi mà lành. 

Nếu rủi bị con lằn cắn vào mắt, dùng phẩn mới của con lừa, vắt lấy nuớc, gia trì 21 biến chú, đợi ban đêm trước khi ngủ, nhỏ thuốc ấy vào, bịnh sẽ lành. 

Nếu bị đau bụng, dùng nước giếng trong nấu với 21 hột muốn lớn, còn nửa chén gia trì chú 21 biến uống vào, liền hết đau. 

Nếu bị bịnh đau mắt đỏ, mắt lồi thịt, mờ mịt không thấy, dùng lá xa xa di đâm lược lấy nước, gia trì chú 21 biến, rồi bỏ đồng tiền có meo xanh vào ngâm một đêm. Xong lại lấy ra, tụng thêm vào đấy 7 biến chú nữa. Dùng thuốc này nhỏ vào mắt, bịnh sẽ lành (Xa xa di là lá câu kỷ). 

Nếu người có tật ban đêm sợ hãi ra vào không yên, lấy chỉ trắng xe thành niệt, gia trì chú 21 biến, kết thành 21 gút buộc nơi cổ, thì tật ấy sẽ dứt. Chẳng những trừ được sự khủng bố mà cũng diệt được tội. 

Nếu trong nhà sanh nhiều tai nạn, dùng nhánh cây thạch lựu chặt thành 1.080 đoạn ước độ một tấc, mỗi đoạn 2 đầu đều thoa mật tô lạc. Kế đó, đem lò nhỏ để trước bàn Phật, cứ tụng xong một biến chú, liền đốt một đoạn. Khi thiêu hết 1.080 đoạn, tất cả tai nạn thảy đều tiêu trừ. 

Nếu ở các nơi đấu tranh, luận nghị, muốn được hơn người dùng cành bạch xương bồ gia trì chú 21 biến, đeo nơi cánh tay mặt, tất sẽ được toại nguyện. 

Nếu muốn được trí huệ nên dùng nhánh xa xa di, chặt thành 1080 đoạn, mỗi đoạn 2 đầu thoa sữa ngưu tô thuần chất và sữa ngưu tô hòa với bạch mật, cứ mỗi lần tụng chú lại đốt một đoạn. Nên nhớ trong một ngày đêm chia ra ba thời, mỗi thời tụng chú và đốt 1080 đoạn. Thật hành đúng 7 ngày, chú sư sẽ được trí huệ thông ngộ. (PC: Mỗi thời tụng 1080 biến tất là người tụng quá nhuần, và có định tâm nhiều). 

Nếu muốn hàng phục đại lực quỷ thần, dùng củi cây A rị sắc ca, thoa sữa tô lạc và mật vào, đem trước tượng Đại Bi gia trì, chú 49 biến, rồi đốt trong lửa (A rị sắc ca dịch là Mộc hoạn tử, cũng gọi là vô hoạn tử, một thứ cây có năng lực trừ tà, hạt của trái cây này có thể xỏ làm hạt chuỗi). 

Nếu lấy một lượng Hồ Lô giá na, đem đựng trong bình lưu ly, để trước tượng Đại Bi tụng chú 108 biến, rồi dùng thuốc ấy thoa trên trán và nơi thân, thì tất cả Thiên, Long, Quỷ Thần, người cùng loài phi nhơn trông thấy đều hoan hỉ (hồ lô giá na là vị Ngưu Hoàng). 

Nếu thân bị xiềng xích, dùng phẩn của con bồ câu trắng, gia trì chú 108 biến, tụng xong đem thoa vào tay chà lên gông xiềng, gông xiềng sẽ tự sút. 

Nếu vợ chồng bất hòa, trạng như nước lửa, dùng lông đuôi chim oan ương, đem trước tượng Đại Bi tụng chú 1.080 biến rồi đeo trong mình, tất vợ chồng trọn đời vui hòa, thương yêu nhau. 

Nếu lúa mạ hoặc các thứ cây trái bị sâu bọ cắn, dùng tro và cát sạch hòa với nước trong, gia trì 21 biến chú, rảy trên cây, trên mạ cùng bốn bên bờ ruộng, thì sâu bọ không dám phá hại. 

Đức Phật lại bảo ngài A Nan: - Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát có ngàn mắt ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Đó cũng là do tâm Đại Bi của vị Đại Sĩ ấy hóa hiện. 



Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì

Chấn động tam thiên thế giới thì

Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa

Từ bi phổ độ Diêm phù đề.



Phụ-chú:


Nhng Thn-chú và Chân-ngôn  sau đây, ch có 2 vch ngang (--) là ch đc kéo hơi dài ra, ch có 1 vch ngang (-) là hai ch đc hip li làm mt, mun cu điu gì, đc chân ngôn theo điy.





Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn 

Ấn-Pháp





Nếu Chúng-sanh nào mun đưc giàu ln, có nhiu th châu báu đ dùng, nên cu nơi Tay cChâu-Như.





Thanh hương bảo đnh Hóa tam thiên 

Như ý Kim ngao du cửu uyên 

Thiện-tài Long-nữ Tiếu huyên huyên 

Phật giáo Diệu pháp nhữ yếu tham.

 

Ma Ra Ma Ra [25]

Án-- phạ nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.







Nếu b các vic khuy ri, mun đưc an n, nên cu nơi Tay cm dây Quyến-Sách.


2. Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp


Quyến-sách thủ thị Khổn ma thằng

Bàng môn Quỷ quái nan độn hình

Câu lưu pháp bảo Đa biến hóa

Trừ tà Phù chánh bí-văn-linh.

 

Ma Ra Na Ra [62] 

Ta-bà ha [63]

Án-- chỉ rị lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.







Nếu mun tr các th bnh trong bng, nên cu nơi Tay cBát-Báu.


3. Bảo-Bát Thủ Nhãn Ấn Pháp


Bát vạn tứ thiên Bệnh ma triền

Bảo-bát Cam lộ khả ly thuyên

Bồ đề tát đỏa Tự tại quán

Từ bi Phổ độ hóa-hữu-duyên.

 

Hô Lô Hô Lô Hê Lỵ [42] 

Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra.

 






Nếu mun hàng phc tt c qu, thn, vng, lưng, nên cu nơi Tay cKiếm-Báu.


4. Bảo-Kiếm Thủ Nhãn Ấn Pháp


Bảo-kiếm phi quang thấu tam tam

Ly Mỵ Vọng Lượng các tuân tuyên

Pháp giới yêu khí tòng tư tức

Hoằng dương chánh giáo độ càn khôn.

 

Địa Rị Sắt Ni Na [50] 

Án-- đế thế đế nhá, đổ vỉ nảnh,

                 đổ đề bà đà dã, hồng phấn tra.

 








Nếu mun hàng phc tt c thiên-ma và thn, nên cu nơi Tay cm cây Bt-Chiết-La.


5. Bạt-Chiết-La Thủ Nhãn Ấn Pháp


Pháp lôi cao kình cảnh ngoan minh

Pháp cổ phủ xao chấn quý lung

Pháp vân phổ âm lợi vạn vật

Pháp vũ biến sái nhuận quần sinh.

 

Giả Kiết Ra A Tất Đà Dạ [68]

Ta-bà ha [69]

Án-- nể bệ nể bệ, nể bà dã, ma ha thất rị duệ, tát-phạ hạ.


 








Nếu mun hàng phc tt c oán tc, nên cu nơi Tay cm Chày- Kim-Cang.


6. Kim-Cang-Xử Thủ Nhãn Ấn Pháp


Hàng phục oán ma Kinh quỷ thần

Vũ trụ Cát tường chánh khí tồn

Hộ pháp vệ giáo Công huân phổ

Tăng già Hợp hòa đạo dịch hưng.


Ta Ra Ta Ra [43]

Án-- phạ nhựt-ra chỉ-nảnh, bát-ra nể bát đa dã, tát-phạ hạ.

 






Nếu mun tr TÁNH  tt c ch s hãi không yên, nên cu nơi Tay Thí-Vô-Úy.


7. Thí-Vô-Úy Thủ Nhãn Ấn Pháp


Thu tận thiên ma Pháp bảo kỳ

Nghiệp chướng Tiêu trừ thú bồ-đề

Vạn bệnh Hồi xuân tăng phước  thọ

Thí-vô-úy-thủ Độ quần mê.


Na Ra Cẩn Trì Bàn Đà Ra Dạ [72]

Ta-bà ha [73]

Án-- phạ nhựt-ra nẳng dã, hồng phấn tra.








Nếu mun tr bnh mt m không thy ánh sáng, nên cu nơi Tay cm châu Nht-Tinh-Ma-Ni.


8. Nhật-Tinh-Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp


Tâm địa quang minh Chiếu thế gian

Lục căn Thanh tịnh hỗ dụng huyền

Ngu si chuyển thành Chân trí huệ

Hắc ám Biến tác cự hỏa diệm.


Thất Phật Ra Da [32]

Án-- độ tỉ, ca giả độ tỉ, bát ra phạ rị nảnh, tát-phạ hạ.

 








Nếu b bnh nhit đc, mun đưc mát m hết bnh, nên cu nơi Tay cm châu Nguyt-Tinh Ma-Ni.


9. Nguyệt-Tinh Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp


Nhiệt độc vi hoạn Nhật tương tiễn

Triền miên Sàng đệ bội thương thảm

Nguyệt-tinh-ma-ni Thanh lương tán

Tiêu tai Diên thọ lợi kiền khôn.


Độ Lô Độ Lô [28]

Án-- tô tất địa yết-rị, tát-phạ hạ.

 








Nếu mun đưc làm quan, lên chc, nên cu nơi Tay cCung-Báu.


10. Bảo-Cung Thủ Nhãn Ấn Pháp


Tướng quân Anh dũng mạnh vô địch

Bảo-cung-tại-thủ Xạ gian di

Khải toàn Cao xướng vinh quan bổng

Ích chức gia thăng Lạc hữu dư.


Phạt Sa Phạt Sâm [39]

Án-- a tả vĩ, lệ, tát-phạ hạ.

 






Nếu mun đưc mau gp các bn lành, nên cu nơi Tay cTên-Báu.


11. Bảo-Tiễn Thủ Nhãn Ấn Pháp


Tiễn-xạ-cường-địch Đảm lạc hàn

Khắc thù Chí thắng thao tả khoán

Nhân quý tướng quân Bình liễu loạn

Khải ca Cao xướng lạc quần thiên.


Ba Dạ Ma Na [51]

Ta-bà ha [52]

Án-- ca mạ lã, tát-phạ hạ.


 







Nếu mun tr các th bnh trên thân, nên cu nơi Tay cm cành  Dương-Liu.


12. Dương-Chi Thủ Nhãn Ấn Pháp


Dương-chi-thủ-nhãn Độ quần manh

Phiền nhiệt Bệnh khổ đắc thanh lương

Khô mộc phùng xuân Trọng mậu thịnh

Tử nhi Bất vong thọ vĩnh xương.


Mục Ðế Lệ [35]

Án-- Tô tất địa, ca rị phạ rị, đa nẩm đa,

                             mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra bạn đà,

        hạ nẳng hạ nẳng, hồng phấn tra.

 






Nếu mun tr nhng chưng nn ác bên thân, nên cu nơi Tay cm cây Pht-Trng.


13. Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp


Túc thế sát nghiệp Trọng như sơn

Dục tu Thánh đạo chướng vô biên

Hạnh hữu đại bi Bạch-phất-thủ

Khinh tảo Số số chúng nan quyên.


Mạ Mạ [34]

Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế,

                              mô hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.

 

 






Nếu mun tt c ngưi trong quyến-thuc đưc hòa thun nhau, nên cu  nơi Tay cm cái H-Bình.


14. Hồ-Bình Thủ Nhãn Ấn Pháp


Hồ-bình-cam-lộ Nhuận quần manh

Cô mộc Phùng xuân mậu hựu xương

Vạn bệnh kham trừ Hiển đại dụng

Sinh sinh Hóa hóa diệu vô phương.


Na Ra Cẩn Trì [49]

Án-- yết lệ, thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.

 








Nếu mun xua đui loài h báo, sài lang và tt c ác  thú, nên cu nơi Tay cm cái Bàng-Bài.


15. Bàng-Bài Thủ Nhãn Ấn Pháp


Sài lang hổ báo Mạnh hựu hung

Sư tử Hùng bi cánh tranh nanh

Bàng-bài-cao-cử Giai hồi tỵ

Tuy phùng Hiểm lộ diệc khang bình.


Phạt Xà Da Ðế [28] 

Án-- dược các sam nẳng, na dã chiến nại-ra,

                đạt nậu bá rị-dã, bạt xá bạt xá, tát-phạ hạ.

 







Nếu mun trong tt c thi, tt c ch, lìa nn quan quân vi bt, nên cu nơi Tay cm cây Ph-Vit.


16. Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp


Nghiêm hình bức cung Khấp quỷ thần

Hàm oan Linh ngữ lý nan thân

Nhược dục thoát ly Luy tiết khổ

Thả tu Phủ-việt thủ an thân.

 

Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]

Ta-bà ha [65]

Án-- vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.







Nếu mun có tôi trai t gái đ sai khiến, nên cu nơi Tay cm chiếVòng-Ngc.


17. Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp


Kinh-thiên-động-địa Dịch quỷ thần

Hô phong Hoán vũ đàm tiếu trung

Nam cung nữ kính Đồng lễ bái

Tân chủ Hòa hợp đạo đại hưng.


Hô Lô Hô Lô Ma Ra [41]

Án-- bát na hàm vị ra dã, tát-phạ hạ.






Nếu mun đưc các th công đc,  nên cu nơi Tay cHoa-Sen-Trng.


18. Bạch-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp


Bạch sắc bạch quang Bạch-liên-hoa

Thiện công Mỹ đức đại vô nhai

Ư thử thủ nhãn Cần tu tập

Hà sầu bất chí Pháp vương gia.


Kiết Mông [27]

Án-- phạ nhựt-ra, vị ra dã, tát-phạ hạ.

 




Nếu mun đưc sanh v mưi phương tnh-đ, nên cu nơi Tay cHoa-Sen-Xanh.


19. Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp 


Niệm Phật niệm Pháp niệm Thánh Tăng

Thập phương tịnh độ Bảo liên đăng

Hoa khai Phật hiện viên giác quả

Nhậm vận lai vãng Sát-na trung.


Rị Ðà Dựng [26]

Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra,

                 bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.

 









Nếu mun đưc trí hu ln, nên cu nơi Tay cm cái Kính-Báu.


20. Bảo-Cảnh Thủ Nhãn Ấn Pháp


Đại-viên-cảnh-trí Cùng pháp nguyên

Chiếu yêu Kính lý tróc quái tiên

Diêm vương kính trung Ác nghiệp hiện

Pháp Bảo Cảnh Thủ chủng trí viên.


Thất Na Thất Na [37] 

Án-- vỉ tát phổ ra, na ra các xoa,

                               phạ nhựt-ra, mạn trà lả, hồng phấn tra.

 








Nếu mun đưc din kiến 10 phương tt c chư Pht, nên cu nơi Tay cHoa-Sen-Tím.


21. Tử-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp


Vi diệu nan tư Tử-liên-hoa

Bồ đề Tốc chứng giải thoát pháp

Diện kiến thập phương Phật-đà-da

Tùng kim Bất lạc lục đạo gia.


Phật Ra Xá Da [40]

Án-- tát ra tát ra, phạ nhựt-ra ca ra, hồng phấn tra.

 








Nếu mun ly đưc kho báu n trong lòng đt, nên cu nơi Tay cm cái Bo-Kiếp.


22. Bảo-Kiếp Thủ Nhãn Ấn Pháp


Thiên thượng chúng bảo Diệu nghiêm trang

Địa trung Phục tạng hóa ngu manh

Hải lý long cung Kỳ trân hiện

Bảo-khiếp-thủ-nhãn Phóng hào quang.


Tất Đà Du Nghệ [57]

Thất Bàn Ra Dạ [58]

Ta-bà ha [59]

Án-- phạ nhựt-ra, bá thiết ca rị,

  yết nẳng hàm, ra hồng.









Nếu mun đưc đo tiên, nên cu nơi Tay cm hóa hiMây-Ngũ-Sc.


23. Ngũ-Sắc-Vân Thủ Nhãn Ấn Pháp


Vị-đạo-cầu-tiên Nguyện trường sinh

Thọ dữ Thiên tề bất giảm tăng

Toại tâm như ý Thông biến hóa

Ngũ sắc Tường vân túc hạ đăng.


Ma Hê Ma Hê [26]

Án-- phạ nhựt-ra, ca rị ra tra hàm tra.

 






Nếu mun sanh lên cõi Phm-Thiên, nên cu nơi Tay cm bình Quân-Trì.


24. Quân-Trì Thủ Nhãn Ấn Pháp


Thanh tịnh vô nhiễm Đại Phạm Thiên

Thọ thắng Diệu lạc phúc báo toàn

Đản năng trì thử Quân Trì Thủ

Thân thân Sinh bỉ thọ như sơn.


Đà Ra Đà Ra [30]

  Án-- phạ nhựt-ra, thế khê ra, rô tra hàm tra.

 








Nếu mun đưc sanh lên các cung tri, nên cu nơi Tay cHoa-Sen-Hng.


25. Hồng-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp


Chư thiên khoái lạc Thắng nhơn gian

Phát nguyện Vãng sanh đa trở nan

Đản tự thủ trì Hồng-liên-hoa

Đàn chỉ Vãng sanh phi đẳng gián.


Bà Đà Ma Yết Tất Đà Dạ [70]

Ta-bà ha [71]

Án-- thương yết lệ, tát-phạ hạ.

 








Nếu mun xua đui gic nghch  phương khác đến, nên cu nơi Tay cm cây Bo-Kích.


26. Bảo-Kích Thủ Nhãn Ấn Pháp


Nhân Quý chinh liêu Dũng vô địch

Nê hà Cứu giá lập công kỳ

Cao ly đầu hàng Triều thánh đế

Tha phương Nghịch tặc tuyệt tông tích.


Ma Ha Phạt Xà Da Đế [29] 

Án-- thẳm muội dã, chỉ nảnh hạ rị,

 hồng phấn tra.

 








Nếu mun triu tt c chư thiên, thin-thn nên cu nơi Tay cng Loa-Báu.


27. Bảo-Loa Thủ Nhãn Ấn Pháp

 

Pháp-âm-hưởng-triệt Chấn chư thiên

Nhất thiết Thiện thần y triệu lệnh

Tứ phương kết giới Thiên biến hóa

Long vương Hộ vệ tại hậu tiền.


Cu-Lô Cu-Lô [27]

Án-- thương yết-lệ,

                                            mạ hạ thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.

 







Nếu mun sai khiến tt c qu-thn, nên cu nơi Tay cm cây Gy- Đu-Lâu.


28. Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp


Bạch cốt hoàn giao Thổ vị mai

Hành nhân Tu pháp thiết cung đài

Luyện thành Quỷ thần tuân hiệu lệnh

Độc-lâu-trượng-thủ Bi nguyện hoài.

 

Y Hê Di Hê [36]

Án-- độ nẳng, phạ nhựt-ra xá.









Nếu mun 10 phương chư Pht sm đến đưa tay tiếp dn, nên cu nơi Tay cm xâu Chui-Ngc.


29. Sổ-Châu Thủ Nhãn Ấn Pháp


Niệm tư tại tư Vọng quy chơn

Thập Phương Chư Phật thọ thủ thân

Tốc chứng tam bối Phẩm tư địa

Ma Ha Diệu Pháp thắng linh văn.


Phật Ra Xá-Lợi [38] 

Nẳng mồ-- ra đát-nẳng,

                   đát ra dạ dã. 

                                       Án-- a na bà đế vĩ nhá duệ,

                                                 tất địa tất đà lật thế,

                                                                                      tát-phạ hạ.







Nếu mun có đưc tt c Phm-âm-thanh tt nhim mu, nên cu nơi Tay cm chiếLinh-Báu.


30. Bảo-Đạc Thủ Nhãn Ấn Pháp

 

Phạm âm liệu lượng Biến thái không

Khải lung Chấn quý cảnh ngu mông

Huyền diệu biến hóa Bảo-đạc-thủ

Văn thanh Ly khổ giác hoa tông.


Dá Ra Dá Ra [33]

Nẳng mồ-- bát na hàm bá noa duệ.

Án-- a mật lật đảm, nghiểm bệ thất rị duệ,

         thất rị chiếm rị nảnh, tát-phạ hạ.

 








Nếu mun đưc ming nói bin lun hay khéo, nên cu nơi Tay cm chiến-Báu.


31. Bảo-Ấn Thủ Nhãn Ấn Pháp


Khẩu nhược huyền hà Biện tài hùng

Ngôn từ Khảo diệu âm lượng hồng

Lý sự viên dung Pháp tánh áo

Truyền Phật-tâm-ấn vạn thiện đồng.


Tát Bà Tát Bà [24]

Án-- phạ-nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát-phạ hạ.

 

 






Nếu mun đưc Thiên-thn, Long-vương thưng đếng h, nên cu nơi Tay cCu-Thi-Thiết-Câu.


32. Cu-Thi-Thiết-Câu Thủ Nhãn Ấn Pháp


Cấp tu, khoái độ Chư-long-vương

Quả vãng, Pháp đại các thiện tường

Quy y tam bảoHộ đạo trường

Hành trụ tọa ngọa Vĩnh an khang.


Địa Rị Ni [31]

Án-- a rô rô, đa ra ca ra, vỉ sa duệ.

                                          Nẳng mồ-- tát-phạ hạ.

 








Nếu vì lòng T-bi mun cho tt c Chúng-sanh đưc nh s che ch giúp đ, nên cu nơi Tay cm cây Tích-Trưng.


33. Tích-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp


Đại từ đại bi Cứu quần sinh

Đại hỷ đại xả Ích hàm manh

Đại nguyện Đại nhân bồ tát đạo

Đại hùng Đại lực Phật-quả-thành.


Di Đế Rị Dạ [48]

Án-- na lật thế, na lật thế,

 na lật tra bát để, na lật đế  na dạ bát nảnh,

 hồng phấn tra.


 







Nếu mun cho tt c chúng sanh thưng cung kính yêu mến nhau, nên cu nơi Tay Hip-Chưng.


34. Hiệp-Chưởng Thủ Nhãn Ấn Pháp


Nhất tâm cung kính Thiên-trung-thiên

Chúng sinh Ái niệm các chân hư

Chủng nhân kết quả Cầu chư kỷ

Lễ thượng Vãng lai đạo bất thiên.

 

Tất Rị Tất Rị [44]

Án --bát nạp mạng, nhá lăng hất rị.

 

 







Nếu mun tùy theo ch sanh, thưng  bên Pht, nên cu nơi Tay hiHóa-Pht.


35. Chưởng-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn Ấn Pháp


Túc thực đức bản Chủng-thắng-nhân

Chư Phật Bồ Tát quyến thuộc thân

Giác hải trừng thanh Tâm nguyệt hiện

Đại viên Kính trí cổ kim minh.


A Ra Sâm [38]

Án-- chiến na ra, ba hàm tra rị,

ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.


 







Nếu mun đi đi kiếp kiếp thưng  trong cung đin Pht, không th sanh  bào thai, nên cu nơi Tay hiHóa-Cung-Đin.


36. Hóa-Cung-Điện Thủ Nhãn Ấn Pháp


Thế thế sinh sinh Pháp-vương-gia

Cung điện Lâu các diệu liên hoa

Bất thọ thai tạng Thân thanh tịnh

Tín giải Hành chứng ma ha tát.


Phạt Ma Ra [34]

Án-- vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.


 







Nếu mun đưc hc rng nghe nhiu, nên cu nơi Tay cm quyKinh-báu.


37. Bảo-Kinh Thủ Nhãn Ấn Pháp


Đa văn đệ nhất Thuộc A-nan

Quảng học thiện ký Khổng Nhan-uyên

Độc tụng Đại thừa thâm bát nhã

Trí huệ Thao thao như dũng tuyền.


Tất Đà Dạ. [53] Ta-Bà Ha.[54]

Ma Ha Tất Đà Dạ. [55] Ta-Bà Ha. [56]

Án-- a hạ ra, tát ra phạ ni,

                              nể dã đà ra, bố nể đế, tát-phạ hạ.

 

 







Nếu mun t thân này cho đến thân thành Pht, Tâm-b thưng không lui st, nên cu nơi Tay cBt-Thi-Kim-Luân.


38. Bất-Thối-Kim-Luân Thủ Nhãn Ấn Pháp


Thô tà hộ chánh Kim cang luân

Ly mỵ Vọng lượng câu độn hình

Bồ đề đạo tâm Thường-bất-thoái

Kim thân Nãi chí thành Phật thân.


Bồ-Đề Dạ Bồ-Đề Dạ [46]

Án-- thiết na di tả, tát-phạ hạ.

 








Nếu mun 10 phương chư Pht mau đến xoa đu Th-ký, nên cu nơi Tay Đnh-Thưng-Hóa-Pht.


39. Đảnh-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn ấn pháp


Hóa Phật Đảnh Thượng pháp tối kỳ

Phổ cứu Quần sinh xuất hãm ni

Công viên quả mãn Siêu tam giới

Tức hoạch giác giả Thọ Thánh Ký.


Bồ-Ðà Dạ Bồ-Ðà Dạ [47]

Án-- phạ nhựt-rị ni,

phạ nhựt-lảm nghệ, tát-phạ hạ.

 








Nếu mun có đưc cây trái ngũ cc, nên cu nơi Tay cm chùm B-Đào.


40. Bồ-Đào Thủ Nhãn Ấn Pháp


Viên phố quả qua Đào lý tân

Hướng vinh Chi diệp thậm tiên minh

Ngũ-cốc-phong-thu Thương doanh túc

Bách ban Như ý khánh thăng bình.


A Tất Đà Dạ [66]

Ta-bà ha [67]

Án-- A-ma lã kiếm đế nể nảnh, tát-phạ hạ.

 

 







Nếu mun cho tt c loài hu tình đói khát đưc no đ mát m, nên cu nơi Tay hóa nưCam-L.


41. Cam-Lộ Thủ Nhãn Ấn Pháp


Cơ khát Hữu tình vọng thanh lương

Khô mộc trùng sinh Phóng dị quang

Phổ khánh Từ bi sâm tạo hóa

Cam-lộ-thiên-lệ Tế thập phương.


Tô Rô Tô Rô [45]

Án-- Tố rô tố rô, Bác-ra tố rô, Bác-ra tố rô,

tố rô tố rô dã, Tát-phạ hạ.

 








Nếu mun hàng phc ma oán trong cõi Đi-thiên, nên cu nơi Tay Tng-Nhiếp-Thiên-Tý-Th.


42. Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp


Thủ-nhãn-biến-thân Diệu vô biên

Hàng phục Chúng ma trấn tam thiên

Khảo tà quy chánh Tu thiện pháp

Ma ha Bát nhã nan ngôn tuyên.


Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74]

Ta-bà ha [75]

Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,

tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.


 


- Này A Nan! Những việc có thể mong cầu như thế, kể có ngàn điều. Nay ta chỉ nói lược qua chút ít phần thôi. 

 


Khi ấy Nhựt Quang Bồ Tát vì người thọ trì Đại Bi Tâm đà ra ni nói đại thần chú để ủng hộ rằng: 


 

Nhựt-Quang Bồ-tát 

Đà-ra-ni




Nam mô Bột-đà cù na mê. Nam mô Đạt-mạ mạc ha đê. Nam mô Tăng-già đa dạ nê.

Để chỉ bộ tất tát đốt chiêm nạp mạ. 




Nhựt Quang Bồ Tát bạch Phật: 

- Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này diệt được tất cả tội, cũng đuổi được ma và trừ thiên tai. Nếu kẻ nào tụng chú này một biến, lễ Phật một lạy, mỗi ngày chia ra làm 3 thời tụng chú lễ Phật như thế, trong đời vị lai tùy theo chỗ thọ thân, thường được tướng mạo xinh đẹp, được quả báo đáng vui mừng. 

Nguyệt Quang Bồ Tát cũng vì hành nhơn mà nói đà ra ni để ủng hộ rằng: 

 


Nguyệt-Quang Bồ-tát 

Đà-ra-ni


 

Thâm đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế ô đô tra. Thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhã tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sá-phạ hạ. 



Nguyệt Quang Bồ Tát lại bạch Phật: 

- Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này 5 biến, rồi lấy chỉ ngũ sắc xe thành sợi niệt, gia trì chú vào, buộc tréo nơi tay, chú này do 40 hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra, nay tôi cũng nói để vì các hành nhơn mà làm duyên ủng hộ. Chú này có công năng trừ tất cả chướng nạn, tất cả bịnh ác, xa lìa tất cả sự sợ hãi. 

Đức Phật bảo ngài A Nan: 

- Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại Bi tâm đà ra ni này và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà ra ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong 3 cõi. Tất cả bịnh khổ ràng buộc nơi thân, nếu dùng đà ra ni này mà trị thì không bịnh nào chẳng lành, dùng đại thần chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sanh cành lá, trổ bông, trái, huống chi là chúng sanh có tình thức ư? Nếu thân bị đại bịnh, dùng chú này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có. 

Này thiện nam tử! Sức oai thần của Đại Bi tâm đà ra ni không thể nghĩ bàn! Không thể nghĩ bàn! Khen ngợi không bao giờ hết được, nếu chẳng phải là kẻ từ thời quá khứ lâu xa đến nay đã gieo nhiều căn lành, thì dù cho cái tên gọi còn không được nghe, huống chi là được thấy! Nay đại chúng các ông, cả hàng trời, người longthần, nghe ta khen ngợi phải nên tùy hỉ. Nếu kẻ nào hủy báng thần chú này tức là hủy báng 99 ức hằng hà sa chư Phật kia. Nếu người nào đối với đà ra ni này sanh nghi không tin, nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn, trăm ngàn muôn kiếp không bao giờ nghe thấy Phật, Pháp, Tăng, thường chìm trong tam đồ không biết bao giờ mới được ra khỏi. 

Khi ấy, tất cả chúng hội, Bồ Tát Ma ha tát, Kim Cang mật tích, Phạm vương, Đế Thích, tứ đại thiên vương, thiên, long, quỷ thần, nghe đức Như Lai khen ngợi môn đà ra ni này xong, thảy đều vui mừng, y lời dạy mà tu hành.

 

 

KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN

VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ÐÀ RA NI

 

 CHUNG








Comments

Popular posts from this blog