LAM
Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo (3 lần)
Tát Bà Tát Bà [24]
Án-- phạ-nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát-phạ hạ.
UM! BÚT RUM! HÙM!
( Tụng mỗi ngày ít nhất là 108 LẦN THỦ NHÃN trở lên
như trì “Bảo-Ấn Thủ Nhãn Ấn Pháp”chẳng hạn.)
THƯỢNG
PHƯƠNG NAM
THẬP NHỊ DANH NHƯ LAI LỄ SÁM DIỆT TỘI
Đại-từ đại-bi mẫn chúng-sanh,
Đại-hỷ đại-xả tế hàm-thức,
Tướng hảo quang-minh dĩ tự-nghiêm,
Đệ-tử nhứt tâm quy-mạng lễ.
1) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Đông phương giải-thoát, chủ thế giới hư không Công đức mục tịnh vô cấu vi trần, Đẳng đoan chánh công đức tướng, Quang minh hoa ba đầu ma, điểm lưu ly quang sắc, Bảo thể hương, Tối thượng hương, Diệu cúng dường, Chủng chủng diệu thái trang nghiêm, Đảnh kế diệu tướng, Vô lượng vô biên, Nhựt Nguyệt quang minh, Nguyệt lực trang nghiêm, Biến hóa trang nghiêm, Quảng đại trang nghiêm, Pháp giới cao thắng, VÔ NHIỄM BẢO VƯƠNG NHƯ LAI. (1 lạy)
2) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Hào tướng thù thắng như nhựt nguyệt quang minh diệm, Bảo liên hoa quang sắc thân kiện như Kim cang, Tỳ lô giá na vô chướng ngại nhãn, Viên mãn thập phương, Phóng quang phổ chiếu, Nhất thiết Phật Sát TƯỚNG VƯƠNG NHƯ LAI. (1 lạy)
3) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Nhất thiết trang nghiêm VÔ CẤU QUANG NHƯ LAI. (1 lạy)
4) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Nam phương thế giới BIỆN TÀI ANH LẠC TƯ NIỆM NHƯ LAI. (1 lạy)
5) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương thế giới VÔ CẤU NGUYỆT TRÀNG TƯỚNG VƯƠNG DANH XƯNG NHƯ LAI. (1 lạy)
6) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Bắc phương thế giới HOA TRANG NGHIÊM TÁC QUANG MINH NHƯ LAI. (1 lạy)
7) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Đông Nam phương thế giới TÁC ĐĂNG MINH NHƯ LAI. (1 lạy)
8) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây Nam phương thế giới BẢO THƯỢNG TƯỚNG DANH XƯNG NHƯ LAI. (1 lạy)
9) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây Bắc phương thế giới VÔ ÚY QUÁN NHƯ LAI. (1 lạy)
10) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Đông Bắc phương thế giới VÔ ÚY VÔ KHIẾP MAO KHỔNG BẤT THỤ DANH XƯNG NHƯ LAI. (1 lạy)
11) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Hạ phương thế giới SƯ TỬ PHẤN TẤN CĂN NHƯ LAI. (1 lạy)
12) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Thượng phương thế giới KIM QUANG OAI ĐỨC TƯỚNG VƯƠNG NHƯ LAI. (1 lạy)
(Quỳ Tụng) – Đức Phật bảo Di Lặc Bồ Tát:
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào phạm các tội Tứ trọng ngũ nghịch, Thập ác phỉ báng Tam Bảo , hàng tăng ni phạm tội Tứ khí, Bát khí, người ấy tội nặng, giả sử như đem cõi Diêm phù đề này, nghiền nát thành bụi nhỏ, mỗi hạt bụi là một kiếp tội, chỉ xưng lễ danh hiệu một vị Phật đầu tiên một lạy, thì bao nhiêu vi trần kiếp tội ấy điều được tiêu trừ . Huống chi ngày đêm đọc tụng, thọ trì, nhớ niệm không quên, kẻ đó sẽ được công đức không thể nghĩ bàn.
Lại nếu xưng lễ 12 lạy Danh hiệu của chư Phật trên đây, trong vòng 10 ngày Sám hối tất cả tội, khuyến thỉnh chư Phật trụ thế, và chuyển pháp luân, tùy hỉ tất cả công đức của tất cả chúng sinh, đem các căn lành mình tu, hồi hướng về giải thoát, hành trì như thế sẽ diệt được tất cả tội, sẽ trừ được tất cả nghiệp chướng, sẽ được trang nghiêm đầy đủ Phật độ, sẽ được đầy đủ đức vô úy, đầy đủ tướng hảo, đầy đủ hạnh Bồ Tát, quyến thuộc vây quanh, đầy đủ vô lượng tam muội, Đầy đủ cõi Phật trang nghiêm như ý, cho đến đầy đủ quả báo tốt đẹp, đáng ưa thích của quả Vô thượng bồ đề.
Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Nếu có thiện nam tử,
Cùng với thiện nữ nhơn,
Xưng lễ hiệu Phật trên.
Trong đời đời kiếp kiếp.
Sẽ được người yêu kính,
Tùy chỗ sanh ngôi vị,
Cao quý hơn tất cả.
Ánh sáng oai lực lớn,
Thành tựu đạo Bồ Đề.
NAM MÔ THẬP PHƯƠNG THƯỜNG TRỤ TAM BẢO (3 lần)
Cúi lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Con nay phát nguyện rộng
LỄ THẬP NHỊ DANH NHƯ LAI
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát Bồ-Đề TÂM
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ĐẠI TỪ ĐẠI BI TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
(niệm mau 10 hơi)
KINH: Lúc xướng chữ A, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là Bồ Tát oai lực nhập vô sai biệt cảnh giới.
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, PHÁP GIỚI TẠNG THÂN A DI ĐÀ NHƯ LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
(Hồng-Danh Bửu-Sám)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật Biến Pháp-giới Tam-Bảo (1 lạy)
Thiên Thủ Thiên Nhãn
Ðại Từ Ðại Bi Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát Ma ha tát (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng THIỀN hạ TÂM thùy từ minh chứng (1 lạy)
CHUNG
( Này thiện nam tử ! Nếu muốn thành tựu Nhứt thiết chủng trí thời phải quyết định cầu chân thiện tri thức.
PHƯƠNG NAM này có 53 THIỆN TRI THỨC :
1.- TỲ KHEO ÐỨC VÂN
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được pháp môn
"ỨC NIỆM NHỨT THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH GIỚI TRÍ HUỆ QUANG MINH PHỔ KIẾN" này thôi.
53.- PHỔ HIỀN ĐẠI BỒ TÁT
dạy THIỆN TÀI về “ 10 HẠNH NGUYỆN”
để thành tựu PHỔ HIỀN HẠNH và NHẬP PHÁP GIỚI được viên mãn.)
25.-Ẩn tu lại thấy ở am mây
Lâu trượng Tay cầm kiếm qủy thần
Mật phái Lạt-ma y mão lạ
Quê xưa trúc tạng tợ xa gần.
24. TÁT BÀ TÁT BÀ
SABHO SABHO
Đấng hiện Bảo-ấn-thủ-nhãn cho tất cả sự lợi vui.
TÁT BÀ TÁT BÀ. Hán dịch là “nhất thiết lợi lạc”. Câu chú này bao hàm cả Bảo ấn thủ nhãn ấn pháp, nghĩa là mang đến mọi thứ lợi lạc cho mọi người.
Bằng cách hành trì ấn pháp này, Quý vị có khả năng đem sự an vui lợi lạc đến cho hết thảy mọi loài chúng sinh. Thiên vương, Diêm vương, Quỷ vương đều chấp hành theo người trì tụng ấn chú này. Quý vị bảo họ: “Hãy thả tội nhân này ra” thì Diêm vương liền tức khắc thả ra liền. Vì sao vậy? Vì Quý vị đã có được Bảo ấn này.
Bảo ấn này cũng như ấn của vua vậy. Trên chiếu thư có ngọc ấn của vua thì khắp thiên hạ, ai có trách nhiệm gì cũng phải tuân theo chiếu thư mà thi hành, không ai dám chống lại. Với Bảo ấn, Quý vị có thể làm lợi lạc, an vui cho mọi loài chúng sinh. Quý vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự lợi lạc để phát nguyện hành trì. Và sẽ đạt được sự an lành. Vì vậy nên gọi là “Nhất thiết lợi lạc”.
Người Trung Hoa đều biết có một vị Tiên, biết sử dụng một ấn chú gọi là “Phiên thiên ấn”. Người con của Quảng Thành vương cũng có một phiên thiên ấn. Chính là ấn này vậy. Đạo Lão gọi là “Phiên thiên ấn”. Bồ-tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn”.
Nếu Quý vị dụng công hành trì thì nhất định sẽ thành tựu Bảo ấn này. Khi thành tựu rồi, nếu có người vừa mới chết hoặc sắp chết, Quý vị chỉ cần trì ấn này vào một tờ giấy, và viết vài dòng cho Diêm vương: “Hãy tha cho người này sống lại ngay. Hãy tha cho anh ta trở về dương gian”. Diêm vương không dám từ chối. Diệu dụng của Bảo ấn có thể giúp cho người chết sống lại. Nhưng để sử dụng được Bảo ấn này, trước hết Quý vị phải thành tựu công phu tu tập đã. Nếu công phu chưa thành tựu thì chẳng có kết quả gì.
Thế nào nghĩa là thành tựu công phu tu hành? Cũng giống như đi học. Trước hết, Quý vị phải vào tiểu học, rồi lên trung học, rồi thi vào đại học. Rồi cuối cùng có thể được học vị Tiến sĩ.
Tu tập để thành tựu Bảo ấn này cũng như đạt được học vị Tiến sĩ vậy. Nhưng tạm ví dụ vậy thôi, chứ Bảo ấn này không có gì so sánh được.
Tát bà tát bà nghĩa là “lợi lạc cho tất cả mọi loài chúng sinh”. Quý vị thấy sự diệu dụng vô biên đến như thế. Nên gọi ấn này là Bảo ấn. Nếu Quý vị muốn sử dụng được Bảo ấn này thì phải công phu tu trì qua cả bốn mươi hai thủ nhãn. Tát bà tát bà chỉ là một trong bốn mươi hai ấn pháp ấy mà thôi.
Có người nghe tôi giảng như vậy sẽ khỏi nghĩ rằng: “Ta sẽ tu tập Bảo ấn này ngay để bất kỳ lúc nào có người sắp chết, ta sẽ sử dụng ấn này, ra lệnh cho Diêm vương không được bắt người ấy chết”. Quý vị cứ thực hành, Quý vị có thể giúp người kia khỏi chết, nhưng đến khi Quý vị phải chết, thì chẳng có người nào giúp Quý vị thoát khỏi chết bằng Bảo ấn này cả.
Tôi đã có dịp sử dụng ấn này hai lần. Một lần ở Mãn Châu và một lần ở Hương Cảng. Lần ở Mãn Châu là trường hợp cứu một người sắp chết. Người này chắc chắn sẽ chết nếu tôi không sử dụng Bảo ấn này. Vào một chiều trời mưa ngày 18 tháng 4 âm lịch. Một người tên là Cao Đức Phúc đến chùa Tam Duyên, nơi tôi đang ngụ. Anh ta quỳ trước tượng Phật, cầm một cây dao bọc trong giấy báo, chuẩn bị sẵn sàng chặt tay để cúng dường chư Phật. Quý vị nghĩ sao? Anh ta khôn ngoan hay không? Dĩ nhiên là quá ngu dại. Tuy nhiên sự ngu dại của anh ta lại xuất phát từ lòng hiếu đạo. Quý vị biết không. Mẹ anh ta bị bệnh trầm trọng gần chết. Do vì thường ngày mẹ anh ta nghiện thuốc phiện nặng. Nhưng bệnh bà quá nặng đến mức hút thuốc phiện cũng không được nữa. Bà ta nằm co quắp, chẳng ăn uống gì. Đầu lưỡi đã trở sang màu đen, môi miệng nứt nẻ. Bác sĩ Đông, Tây y đều bó tay, không hy vọng gì còn chữa trị được. Nhưng người con trai của bà nguyện: “Lạy Bồ-tát rất linh cảm, con nguyện đến chùa Tam Duyên chặt tay cúng dường chư Phật. Với lòng chí thành, con nguyện cho mẹ con được lành bệnh”.
Ngay khi chàng trai sắp chặt tay, có người nắm tay anh ta lôi lại đằng sau rồi nói: “Anh làm gì thế, anh không được vào đây mà tự sát”.
Anh ta trả lời:
- “Tôi chỉ chặt tay cúng dường chư Phật, cầu nguyện cho mẹ tôi được lành bệnh. Ông đừng cản tôi”.
Chàng trai chống lại, nhưng người kia không để cho anh ta chặt tay nên liền cho người báo cho Hoà thượng trụ trì biết. Hoà thượng cũng không biết phải làm sao, Ngài liền phái cư sĩ Lý Cảnh Hoa, người hộ pháp đắc lực của chùa đi tìm tôi.
Dù lúc ấy, tôi vẫn còn là chú Sa-di. Tôi được giao nhiệm vụ như là tri sự ở chùa Tam Duyên, chỉ dưới Hoà thượng trụ trì. Tôi chỉ là một chú tiểu, nhưng không giống như những chú tiểu cùng ăn chung nồi, cùng ngủ chung chiếu. Tôi thức dậy trước mọi người và ngủ sau tất cả mọi người. Tôi làm những việc mà không ai muốn làm và chỉ ăn một ngày một bữa trưa, không ăn phi thời. Tu tập chính là sửa đổi những sai lầm vi tế. Nếu khi chưa chuyển hoá được những lỗi lầm nhỏ nhặt ấy, có nghĩa là mình còn thiếu năng lực trong công phu.
Hoà thượng trụ trì giao việc đó cho tôi. Tôi liền đến bạch Hoà thượng:
- “Phật tử đến cầu Hoà thượng cứu giúp. Nay Hoà thượng lại giao cho con. Hoà thượng làm cho con thật khó xử”.
Hoà thượng trụ trì bảo:
- “Con hãy đem lòng từ bi mà cứu giúp họ”.
Hoà thượng dạy những lời rất chí lý. Tôi vốn chẳng ngại khó nhọc, nên khi nghe những lời đó, tôi rất phấn khích, tôi thưa:
- Bạch Hoà thượng, con sẽ đi.
Tôi bảo chàng trai:
- Anh hãy về nhà trước, tôi sẽ theo sau.
Anh ta nói:
- Nhưng thầy chưa biết nhà con?
Tôi đáp:
- Đừng bận tâm về tôi. Hãy cứ về nhà trước.
Lúc ấy là vào khoảng năm giờ chiều, mặt trời vừa xế bóng. Anh ta đi theo đường lộ chính, còn tôi đi theo đường mòn. Nhà anh ta cách chùa chừng sáu dặm. Anh ta quá đỗi sửng sốt khi về đến nơi, anh ta đã thấy tôi ngồi đợi anh trong nhà.
- Bạch thầy, sao mà thầy biết nhà con mà đến sớm thế?
Tôi nói:
- Có lẽ anh vừa đi vừa chơi, hoặc anh ham xem bóng đá hay truyền hình gì đó.
Cậu ta đáp:
- Thưa không, con cố hết sức đi thật nhanh để về nhà.
Tôi nói:
- Có lẽ xe đạp của anh đi không được nhanh như xe tôi, nên tôi đến trước.
Ngay khi vào thăm bà mẹ, tôi thấy không thể nào cứu sống bà ta được. Nhưng tôi vẫn quyết định cố gắng hết sức để cứu bà. Tôi dùng Bảo ấn viết mấy dòng:
“Chàng trai này có tâm nguyện rất trí thành, nguyện chặt tay cúng dường chư Phật để cứu mẹ sống. Tôi đã ngăn cản anh ta chặt tay. Bằng mọi cách, xin cho mẹ anh ta được sống”.
Tôi gửi Bảo ấn đi, sáng hôm sau bà ta vốn đã nằm bất động suốt bảy, tám ngày nay, chợt ngồi dậy gọi con trai bằng tên tục.
- Phúc ơi... Phúc ờ... mẹ đói quá, cho mẹ tí cháo...
Chàng trai suốt bảy, tám ngày nay không nghe mẹ gọi. Nay cực kỳ vui sướng. Anh ta chạy đến bên giường nói với mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ đã nằm liệt giường suốt tám ngày nay. Nay mẹ khoẻ rồi chứ?
Bà ta trả lời:
- Chẳng biết bao lâu nữa. Mẹ bị rượt chạy trong một cái hang tối đen thăm thẳm không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng ánh sao hay đèn đuốc gì cả. Mẹ chạy và cứ chạy hết ngày này qua ngày khác để tìm đường về nhà mình. Mẹ có kêu, nhưng chẳng ai nghe. Cho đến đêm hôm qua, mẹ mới gặp một vị sư khổ hạnh mang y cà sa đã mòn cũ, vị này đã dẫn mẹ về nhà... Con cho mẹ ăn tí cháo loãng để cho đỡ đói.
Người con nghe mẹ nói đến vị sư, liền hỏi:
- Nhà sư mẹ gặp dung mạo như thế nào?
Bà đáp:
- Ngài rất cao. Nếu mẹ được gặp lại, mẹ sẽ nhận ra ngay.
Lúc đó tôi đang nghỉ trên giường. Anh ta liền đến bên tôi, chỉ cho mẹ và hỏi:
- Có phải vị sư này không?
Bà nhìn tôi chăm chú rồi kêu lên:
- Đúng rồi, chính thầy là người đã đưa mẹ về nhà.
Lúc đó, toàn gia quyến chừng mười người, gồm cả già trẻ, đều quỳ xuống trước mặt tôi thưa:
- Bạch Thầy, Thầy đã cứu mẹ con sống lại. Nay toàn gia đình chúng con cầu xin được quy y thọ giới với Thầy. Bất luận nhà chùa có việc gì, con nguyện đem hết sức mình xin làm công quả, và tuân theo lời chỉ dạy của Thầy để tu hành.
Về sau, dân cả làng này đều đến chùa xin quy y và cầu xin tôi chữa bệnh cho họ. Tôi bảo:
- Tôi chỉ có phép chữa bệnh bằng cách đánh đòn. Quý vị có chịu thì tôi chữa.
Họ đồng ý và tôi phải chữa. Có nghĩa là bắt người bệnh nằm xuống, đánh một người ba hèo bằng cái chổi tre. Đánh xong, tôi hỏi:
- Đã hết bệnh chưa?
Thật là ngạc nhiên. Họ lành bệnh thật!
Đó là một chuyện phiền phức xảy ra ở Mãn Châu. Lần thứ 2 tôi dùng Bảo ấn này là ở Hương Cảng. Khi bố của cô Madalena Lew 79 tuổi bị bệnh. Các vị bói toán đều bảo rằng ông ta chắc chắn sẽ qua đời trong năm nay. Ông ta đến gặp tôi xin quy y Tam Bảo để cầu nguyện gia hộ cho ông được sống thêm ít năm nữa.
Ông thưa:
- Bạch Thầy. Xin Thầy giúp cho con được sống thêm một thời gian nữa.
Tôi bảo:
- Thế là ông chưa muốn chết. Tôi sẽ giúp cho ông sống thêm 12 năm nữa? Được chưa?
Ông rất mừng vội đáp:
- Thưa vâng, được như thế thật là đại phúc.
Rồi tôi chú nguyện cho ông ta và ông ta được sống thêm 12 năm nữa.
Tuy nhiên, Quý vị không nên dùng ấn pháp này để giúp cho người ta khỏi chết hoặc là cứu họ sống lại khi họ đã chết rồi. Nếu Quý vị làm như vậy, Quý vị trở nên đối đầu với Diêm vương. Lúc ấy Diêm vương sẽ nói:
- Được rồi. Thầy đã giúp cho người ta khỏi chết, nay Thầy phải thế mạng.
Đến khi Quý vị gặp cơn vô thường; chẳng có ai dùng Bảo ấn này để giúp được cả. Nếu Quý vị nghĩ rằng mình có thể sử dụng Bảo ấn để cứu mình khỏi chết là Quý vị lầm. Diệu dụng của ấn pháp cũng giống như lưỡi dao, tự nó không thể cắt đứt được chuôi dao của chính nó. Nên khi Quý vị gặp bước đường cùng, thì cũng giống như chuyện vị Bồ-tát bằng đất nung:
Bồ Tát bằng đất nung đi qua biển.
Khó lòng giữ thân được vẹn toàn.
Vậy nên nếu Quý vị dù đã thông thạo trong khi sử dụng ấn pháp này, cũng phải công phu hành trì thêm. Vì lý do này mà tôi ít để ý đến việc riêng của người khác nữa.
Nếu muốn được miệng nói biện luận hay khéo, nên cầu nơi Tay cầm chiếc Ấn-Báu.
Khẩu nhược huyền hà Biện tài hùng
Ngôn từ Khảo diệu âm lượng hồng
Lý sự viên dung Pháp tánh áo
Truyền Phật-tâm-ấn vạn thiện đồng.
Tát Bà Tát Bà [24]
Án-- phạ-nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát-phạ hạ.
UM! BÚT RUM! HÙM!
UM! BÚT RUM! HÙM!
(AUM ! BHRUM, HŪM.)
( Chữ HÙM! “Hồng” có nghĩa là “xuất sanh” —tất cả mọi thứ đều có thể được sanh ra từ chữ HÙM! “Hồng” nầy. Lại có nghĩa là “ủng hộ” —niệm chữ nầy thì liền cảm ứng chư hộ pháp thiện thần đến trợ giúp, che chở cho quý vị. Lại còn có nghĩa là “tiêu tai” —quý vị có tai nạn gì, tụng chữ nầy liền được tai qua nạn khỏi. Lại cũng có nghĩa là “thành tựu” —bất luận quý vị cầu nguyện điều gì, đều có thể được thành tựu như ý.
Án Ma Ni Bát Di Hồng
( OM MANI PADME HUM)
Tam Tạng Pháp Sư Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng vào năm 1971)
MỤC LỤC
1.- Ẩn tu nào phải cố xa đời !
6.- Ẩn tu bền chí giữ công phu
11.- Ẩn tu cửa đạo trải bao năm
16.- Ẩn tu nghĩ muốn thoát dòng mê !
21.-Ẩn tu Không có, Có mà Không !
26.-Ẩn tu được biết kiếp lâu xa
31.-Ẩn tu niệm dứt tướng vào ra
41.-Ẩn tu chợt nhớ Hổ Khê xưa !
46.-Ẩn tu lòng đạo sáng gương rằm
51.-Ẩn tu ngẫm diệu đạo Liên trì
61.-Ẩn tu tục lụy thấy muôn mầu
66.-Ẩn tu quyết chí gạt trần tình
71.-Ẩn tu tìm hỏi truyện Tây Thi
81.-Ẩn tu đàn suối cạnh triền non
86.-Ẩn tu xót cảnh đạo đời suy
91.-Ẩn tu khuyên khắp sớm hồi đầu
96.-Ẩn tu tâm PHẬT hội Tào Khê
TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,
GIÓ LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.
Nương mình tựa án xem NGƯỜI CỔ,
ẨN BÓNG trong gương ngẫm chuyện đời.
ẨN TU NGẪU VỊNH
Vào đêm RẰM, ngày 15/5/1989 Âm lịch (nhằm ngày KỶ DẬU, tháng CANH NGỌ, năm KỶ TỴ), sau thời khóa, HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM bỗng ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là ẨN TU NGẪU VỊNH.
HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Kính thưa Quý-vị !
Cách đây ít lâu, một hôm tôi sang vấn an sức khỏe thầy tôi bảo, đêm RẰM vừa rồi sau thời khóa, THẦY bỗng ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là ẨN TU.
Sau đó, thầy có chỉnh đốn lại đôi chút, nay nhân tiện đọc cho con nghe. Sau khi nghe xong, tôi xin phép ghi lại và muốn chuyển đọc cho các phật tử đến thăm nghe biết.
Thầy dạy: “ Điều ấy không nên vì người tu trong một lúc nào đó Tâm Thanh tịnh, bỗng nảy ra nhiều ý kiến cao siêu mới lạ nhưng phải liền gạt bỏ qua, nếu cứ ghi nhớ ý kiến hay ấy, tất Thành ra SỞ TRI CHƯỚNG, bởi Chân-Tâm là thể VÔ TRI LINH TRI, tuy không biết mà biết tất cả hoặc ngay khi trong lúc tâm thanh tịnh đó, hành giả có thể viết ra cả ngàn bài tụng một cách dễ dàng, song nếu chấp lấy danh từ cứ ưa viết mãi trong TÔNG MÔN gọi là thiền bịnh, giả lại cảnh giới người tu chỉ có người tu mới thấu đáo.”
Nên Thiền Quyển có câu:
“Gặp hàng kiếm khách nên trình kiếm,
chẳng phải thi nhân chứ nói thi.”
Nếu con đọc ra, sợ e kẻ nói một đằng người nghĩ một nẻo, rồi thành ra việc thị phi mà thôi. Tôi thưa, con thấy trong QUY NGUYÊN TRỰC CHỈ ngài TÔNG BẢN khi ẩn trong núi có vịnh 100 bài thi gọi là “SƠN CƯ BÁCH VỊNH” việc ấy như thế nào?”
Thầy tôi đáp: So sánh sao được với TÔNG BẢN ĐẠI SƯ, ngài là một bậc đại ngộ đã vượt con đường muôn dặm về đến quê nhà, còn thầy thì chỉ mới tập tễnh đi một vài bước. Ngài ví như người sáng mắt thấy toàn thể con HƯƠNG TƯỢNG, còn thầy ví như người mù rờ VOI, nói ra dẽ lạc lầm.
Câu chuyện đến đó rồi cũng tạm trôi qua, tuy nhiên có 5 , 3 PHẬT TỬ đến viếng thăm Than Thở Đã lâu lắm rồi không gặp mặt HÒA THƯỢNG, lại không nghe được lời nhắc nhở, trong tình thế đáng thương ấy, tôi có lén thầy trích đọc ra một vài đoạn, để an ủi họ.
Nay gần tới ngày CHUNG THẤT của THÂN MẪU bổn sư, tôi lại cố gắng một lần thứ ba xin thưa thêm. Bạch thầy: Thầy nói cuộc đời của thầy là ẨN TU, ít hôm nữa là đến ngày chung thất cũng là ngày cuối cùng làm LỄ TRUY TIẾN bà về cõi Phật, con xin phép đọc mấy bài hôm trước cũng như thay lời tâm sự để GIÁC LINH bà thông cảm cảnh đời ẨN TU của thầy.
Thầy im lặng ý không muốn chấp nhận, nhưng cũng không nỡ Phủ Nhận lời xin của hàng đệ tử đã vì thân mẫu mình.
Tôi nghĩ thầy im lặng tức là tùy ý tùy duyên, nên hôm nay là cơ cảm để thầy có dịp tâm sự với Mẫu-Thân một lần sau rốt. Và đây xin đọc bài thứ nhất.
Tỳ-kheo-ni thích nữ PHƯƠNG LIÊN
Comments
Post a Comment