VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm



Phật Giáo Việt Nam

PL. 2537 - 1993


ΚΙΝΗ

PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG 

ĐÀ RA NI



Hán dịch: Hậu Chu Trung Quốc

PHẬT ĐÀ BA LỴ Pháp sư.

THUẦN TRINH Pháp sư.



Việt dịch: Việt Nam Quốc

THÍCH THIỀN TÂM Pháp sư



PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG

ĐÀ RA NI

NGHI   THỨC   HÀNH   TRÌ



(Hành giả trường kỳ trai giới

Dùng thân tâm thanh tịnh để trang 

nghiêm trước khi vào khóa lễ)




1.- PHẦN LỄ SÁM



 

( Trước tiên rửa tay, rửa mặt, lễ phục nghiêm-chỉnh. Khi đến nơi lễ tụng, Hành-giả dùng ẤN KIẾT TƯỜNG, tay trái ngón cái  nắm co đầu ngón vô danh, vẽ và tưởng chữ LAM. 

 




sắc trắng trong lòng tay mặt 3 lần.  Rồi tay mặt cũng kiết ấn  vẽ  vào lòng tay trái y như vậy. ĐÁNH 3 TIẾNG CHUÔNG. Kế tiếp đốt hương rồi bước lui đứng chấp tay trước bàn Phật, đọc bài kệ nguyện hương)



Nguyện mây hương mầu nầy,

Hiện khắp mười phương cõi.

Vô số các Phật Độ,

Vô lượng hương trang   nghiêm.

Đầy đủ Bồ tát đạo,

Thành tựu Như Lai hương.

 

Nam mô Hương vân cái Bồ tát (3 lần 



(Đứng đọc tiếp bài kệ tán Tam bảo sau đây)



Đại từ cứu thế tôn,

Thiện đạo nhất thiết chủng.

Phước trí công đức hải,

Ngã kim quy mạng lễ. (1 lạy)


Chơn như xá ma pháp,

Năng diệt tham sân độc.

Thiện trừ chư ác thú,

Ngã kim quy mạng lễ. (1 lạy)


Đắc pháp giải thoát tăng,

Thiện trụ chư học địa.

Thắng thượng phước đức nhân,

Ngã kim quy mạng lễ. (1 lạy)


Tây phương Cực lạc giới,

Tiếp dẫn Tam thánh tôn.

Khải Tịnh độ quyền môn,

Ngã kim quy mạng lễ. (1 lạy)


Ta Bà Thế giới chủ,

Điều ngự Thích Ca văn.

Ai mẫn ư chúng sanh,

Thuyết đại pháp Phật Đảnh.

Tôn Thắng Đà Ra Ni,

Vi diệu đại pháp môn.

Thành tựu chư chúng sanh,

Ngã kim quy mạng lễ. (1 lạy)



PHỔ LỄ CHƠN NGÔN 


UM, VA J(RI) RA MẬT (7 lần)

(AUM, VAJRA MÙD)



            ( Trong khi tụng chú, kiết ẤN KIM CANG HIỆP CHƯỞNG để trên đầu, chấp hai tay lại  ngón so le, hữu áp tả. Theo Mật-giáo, nên tưởng mình hiện thân khắp pháp-hội 10 phương, lễ kính chư PHẬT. Xong xả ấn ngay nơi đảnh.)


(Quỳ lạy) 


1/ -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ

Trung phương thế giới Tỳ Lô Giá Na Mâu Ni Thế Tôn.   Đông phương thế giới A Súc Bệ Thế Tôn. Nam phương thế giới Bảo Sanh Thế Tôn. Tây phương thế giới A Di Đà Thế Tôn. Bắc phương thế giới Bất Không Thành Tựu Thế Tôn. Tận hư không, biến pháp giới. Thập phương Tam thế nhất thiết chư Phật.
(1 lạy) 



2/ -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ

Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh, Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh. Ma Ha Bát nhã Ba la mật đa kinh.   Tu đa la tạng nhất thiết Đà ra ni môn. Tỳ Lô Giá na thần biến gia trì kinh. Kim cang đảnh kinh. Tận hư không biến pháp giới, thập phương tam thế, nhất thiết tôn pháp.
(1 lạy) 



3/ -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ

Tổng Trì Vương Bồ tát, Đà ra ni Tự Tại Vương Bồ tát, Bí Mật Vương Bồ tát, Chư Kim Cang Tạng Vương Bồ tát, Tận hư không, biến pháp giới, Thập phương tam thế nhất thiết chư đại Bồ tát, chư hiền thánh tăng.
(1 lạy) 

 


4/ -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ

Ta Bà giáo chủ, Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn Hội thượng Phật Bồ tát.
(1 lạy)  


5/ -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ

Tây phương Cực lạc thế giới, đại từ, đại bi Tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, đại lực Đại Thế Chí bồ tát, đại nguyện Đại Tạng Vương bồ tát, Phước trí nhị nghiêm thân. Thanh Tịnh Đại Hải Chúng bồ tát.
(1 lạy) 


6/ -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ

Trúc lâm đạo tràng, Bổn sư Thích Ca Văn Như Lai, cập sở thuyết Phật Đảnh Tôn Thắng Đà ra ni kinh.
(1 lạy) 


7/ -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ

Bản môn bát đại bồ tát: Di Lặc bồ tát, Mạn Thù Thất Lỵ bồ tát, Phổ Hiền bồ tát, Quán Tự Tại bồ tát, Kim Cang Thủ bồ tát, Địa Tạng bồ tát, Hư Không Tạng bồ tát, Trừ Cái chướng bồ tát. 
(1 lạy)


8/ -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ

Bảo Tạng bồ tát, Đại Trang Nghiêm bồ tát, Đắc Đại Thế bồ tát, Thắng Liên Hoa Tạng bồ tát. 
(1 lạy)


9/ -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ

Chấp Kim Cang bồ tát, Trì Địa bồ tát, Tịnh Trừ Nhất thiết chướng bồ tát, Thường tinh tấn bồ tát. 
(1 lạy) 


10/ -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ

Ma ha Ca Diếp tôn giả, A Nan Đà tôn giả, Vô lượng vô số đại thanh văn tăng, cập sở thuyết ủng hộ hành giả, nhất thiết hộ pháp thiện thần vương. 
(1 lạy) 



THP NH DANH NHƯ LAI L SÁM DIT TI

 


Đi-t đi-bi mn chúng-sanh,

Đi-h đi-x tế hàm-thc,

Tướng ho quang-minh dĩ t-nghiêm,

Đ-t nht tâm quy-mng l(1 lạy)



1) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:

Đông ph
ương gii-thoát, ch thế gii hư không Công đc mc tnh vô cu vi trn, Đng đoan chánh công đc tướng, Quang minh hoa ba đu ma, dim lưu ly quang sc, Bo th hương, Ti thượng hương, Diu cúng dường, Chng chng diu thái trang nghiêm, Đnh kế diu tướng, Vô lượng vô biên, Nht Nguyt quang minh, Nguyt lc trang nghiêm, Biến hóa trang nghiêm, Qung đi trang nghiêm, Pháp gii cao thng, VÔ NHIM BO VƯƠNG NHƯ LAI. 
(1 lạy) 


2) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:


Hào t
ướng thù thng như nht nguyt quang minh dim, Bo liên hoa quang sc thân kiên như Kim cang, Tỳ lô giá na vô chướng ngi nhãn, Viên mãn thp phương, Phóng quang ph chiếu, Nht thiết Pht Sát TƯỚNG VƯƠNG NHƯ LAI. 
(1 lạy) 


3) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:


Nh
t thiết trang nghiêm VÔ CU QUANG NHƯ LAI. 
(1 lạy)  


4) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:


Nam
 phương thế gii BIN TÀI ANH LC TƯ NIM NHƯ LAI. 
(1 lạy) 



5) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:


Tây
 phương thế gii VÔ CU NGUYT TRÀNG TƯỚNG VƯƠNG DANH XƯNG NHƯ LAI. 
(1 lạy) 

 

6) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:


B
c phương thế gii HOA TRANG NGHIÊM TÁC QUANG MINH NHƯ LAI. 
(1 lạy) 

 

7) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:


Đông Nam
 phương thế gii TÁC ĐĂNG MINH NHƯ LAI. 
(1 lạy) 


8) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:


Tây Nam
 phương thế gii BO THƯỢNG TƯỚNG DANH XƯNG NHƯ LAI. 
(1 lạy) 


9) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:


Tây B
c phương thế gii VÔ ÚY QUÁN NHƯ LAI. 
(1 lạy) 

 

10) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:


Đông B
c phương thế gii VÔ ÚY VÔ KHIP MAO KHNG BT TH DANH XƯNG NHƯ LAI. 
(1 lạy) 


11) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:


H
 phương thế gii SƯ T PHN TN CĂN NHƯ LAI
(1 lạy) 


12) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:


Th
ượng phương thế gii KIM QUANG OAI ĐC TƯỚNG VƯƠNG NHƯ LAI. 
(1 lạy)



NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:

Tn hư-không, biến pháp-gii, quá, hin, vị-lai thp-phương chư Pht, Tôn-Pháp, Hin-Thánh Tăng, Thường-tr Tam-Bo. (1 lạy) 



(Quỳ Tng) – Đc Pht bo Di Lc B Tát:

 

Nếu có thin nam t, thin n nhơn nào phm các ti T trng ngũ nghch,  Thp ác ph báng Tam Bo , hàng tăng ni phm ti T khí, Bát khí, ngườy ti nng, gi s như đem cõi Diêm phù đ này, nghin nát thành bi nh, mi ht bi là mt kiếp ti, ch xưng l danh hiu mt v Pht đu tiên mt ly, thì bao nhiêu vi trn kiếp ty điu được tiêu tr . Hung chi ngày đêm đc tng, th trì, nh nim không quên, k đó s được công đc không th nghĩ bàn. 

 

Li nếu xưng l 12 ly Danh hiu ca chư Pht trên đây, trong vòng 10 ngày Sám hi tt c ti, khuyến thnh chư Pht tr thế, và chuyn pháp luân, tùy h tt c công đc ca tt c chúng sinh, đem các căn lành mình tu, hi hướng v gii thoát, hành trì như thế s dit được tt c ti, s tr được tt c nghip chướng, s được trang nghiêm đy đ Pht đ, s được đy đ đc vô úy, đy đ tướng ho, đy đ hnh B Tát, quyến thuc vây quanh, đy đ vô lượng tam mui, Đy đ cõi Pht trang nghiêm như ý, cho đến đy đ qu báo tt đp, đáng ưa thích ca qu Vô thượng b đ

  

By gi đc Thế Tôn lin nói k rng:

 

Nếu có thin nam t
Cùng v
i thin n nhơn,
X
ưng l hiu Pht trên. 
Trong đ
i đi kiếp kiếp.
S
 được người yêu kính,
Tùy ch
 sanh ngôi v,
Cao quý h
ơn tt c
Ánh sáng oai l
c ln, 
Thành t
u đo B Đ.


NAM MÔ THẬP PHƯƠNG THƯỜNG TRỤ TAM BẢO (3 lần)



THẬP NHỊ NHƯ LAI

DANH HIỆU ĐÀ RA NI

 

Um! Sạt-va Ban-ba-tá, Vis-phô-tá, Na-ha-na Va-ji(ri)-ra-da, Xóa-ha.

Um! A-rô-lít, Xóa-ha.

Um! Bơ-ra-ma-ni Đa-nin, Xóa-ha.

Um! Kít-ta-bà-va, Sát-tê-ri Đê-ri Hùm. Kít-ta-ri Kít, Xóa-ha.

Um! Sát-ri-dà-da, Á-ri-a-ra-dà, Ma-ha Và-ti Tra-da Xóa-ha.

UM! BÚT-RUM!  HÙM!

(7 LẦN)


NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:


Tây-phương Cc-lc thế-gii, Ði-t Ði-bi Tiếp-dÐo-sư, PHÁP GII TNG THÂN A-DI-ÐÀ NHƯ LAI. (3 lạy) 



2. -PHẦN TRÌ NIỆM



( Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật. Tịnh tâm trong giây phút, rồi Tưởng chữ  "LAM" sắc Trắng trên đầu, phóng ánh sáng Đỏ.) 





( Kế dùng ấn Kiết tường Viết và Tưởng chữ "LAM" cùng chữ "HÙM" cũng đều sắc Trắng, gia trì Hai lòng bàn tay và Chuỗi, mỗi nơi ba lần.

 

Lại tiếp dùng ấn Kiết tường, gia trì SỔ CHÂU chân ngôn sau đây nơi tràng Chuỗi, xong búng Ba cái, xả ấn trên Đảnh.)

                


GIA TRÌ SỔ CHÂU CHÂN NGÔN

 

UM! VAI RÔ CA NA MA RA XÓA HA  (7 lần)

(AUM !  VAIROCANA MARA SVĀHĀ)


( Xả ấn xong, vẫn Ngồi bán dà hoặc kiết dà)



PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN


UM!  SOA PHẠ VA SUÝT ĐA, ST VA ĐT MA,

SOA PHẠ VA SUÝT ĐA HÀM.

UM! LAM LAM LAM.

(7 lần)


( AUM!  SVABHÀVA SUDDHA, SARVA DHARMA, 

SVABHÀVA SUDDHA HAṂ

AUM !  RAM  RAM RAM )



LAM




(Khi tụng chú này, kiết Chuẩn Đề biệt ấn. Cả hai tay, ngón cái nắm co ba ngón: trỏ, vô danh và út. Kế hiệp hai lại, hai ngón giữa dụm đầu nhau dựng đứng. Tụng xong xả ấn nơi đảnh.

 

Đây là phối hợp chú Tịnh tam nghiệp và Tịnh pháp giới. Chân ngôn này có công năng khiến cho bên trong: thân, khẩu, ý, y phục, bên ngoài từ chỗ ở của mình đến hoàn cảnh rộng xa đều thanh tịnh. Do chú này, tội chướng đều được tiêu trừ, có thể thành tựu các việc thù thắng.)  



HỘ THÂN CHƠN NGÔN


       UM! PHẠ NHT RA, A NGHĨ NI, 

BÁ RA NĂM BÌ ĐÁ DA, XÓA HA.

UM!  XỈ-LÂM X-LÂM XỈ-LÂM.

(7 lần)


 ( AUM! VAJRA AGNI 

PRA NÀMBIDHÁYA SVAHA. 

AUM! SRAM SRAM SRAM)



XỈ-LÂM




(Khi tụng chú này, kiết ấn Bị giáp hộ thân, Hành giả xoa hai tay vào trong, hữu áp tả, hai ngón giữa dựng đầu dính vào nhau, hai ngón cái áp vào ngón vô danh. Hai ngón trỏ cong lại như lưỡi câu, những không đụng vào lưng hai ngón giữa.

Đây là phối hợp chú hộ thân trong nghi Thập bát đạo và Mạn Thù Nhất Tự chân ngôn "XỈ LÂM", khi kiết tụng ấn chú này, thân của đương nhơn liền được mặc giáp trụ. Tất cả loài ma làm chướng ngại, bỗng thấy hành giả oai đức tự tại, ánh sáng bao phủ chói ngời, liền tan rã bỏ chạy. Sức chân ngôn nầy có thể bảo về được bản thân và tất cả mọi người quanh. Các ách nạn như: nước, lửa, cọp, sói, sư tử, dao gậy, gông xiềng thảy điều tiêu diệt. Khi tụng chú này xong 7 biến liền xả ấn nơi đảnh.)




Kế hai tay đều kiết ấn Kim cang quyền, ngón cái bấm vào gốc ngón vô danh, nắm chặt lại. Rồi đem ấn in vào các nơi: 1. trán, 2. yết hầu, 3. hai vai, 4. ngực, 5. rún, 6. hai bắp đùi, 7. sau thận môn, 8. xương gu cổ và 9. đảnh rồi xả ấn. Trong khi ấy miệng tụng chữ Hùm 


 HÙM


liên tiếp, cho đến khi xả ấn rồi mới thôi. Đây là pháp thức trấn tà ma không cho xâm nhập vào thân.)



HỘ PHÁP CHƠN NGÔN


NAM-MÔ SU SÍT ĐI TA RI TA RI, 

MĂNG ĐA, MĂNG ĐA XÓA HA. (7 lần)


(NAMO SUSIDHI TARI TARI, 

MANDA MANDA SVAHA)



Phật-Đảnh Tôn-Thắng Đà-Ra-Ni

 

(Muốn kiết ấn Phật Đảnh Tôn Thắng nên chắp hai tay lại, hai ngón trỏ co vào lòng bàn tay, hai ngón cái áp vào lóng giữa ngón trỏ là ấn thànhtrì thần chú Phật đảnh, tùy theo nguyện, hoặc ít, hoặc nhiều)


  

Nam-mô ba ga pha tê. Sạt hoa tát răn, lô ky da. Bơ ra di, vi ti sắc tra da. Bút đà da, ba ga pha tê. Tát đi da tha !

 

Um ! Bút rum, bút rum, bút rum. Suýt đà da, Suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Á sá ma, sá ma. Sa măn tá, phạ hoa sát. Sa phả ra na, ga ti, ga gạ na. Soa phạ hoa, vi suýt đi. Á vi chuân da, du măn. Sạt hoa tát thá ga đá. Sú ga da. Phạ ra, phạ ca nã. A mi rị tá, bi sá cu. Ma ha muýt đơ ra, măn đa ra, ba na.

Um ! Á hạ ra, á hạ ra. A du săn, đà ra ni. Suýt đà da, suýt đà da. Ga ga na, xoa phạ hoa, vi suýt đi. U sắc ni sá, vi ca da, vi suýt đi. Sá hạ sa ra, ra sa mi, săn tô ni tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa. A hoa lô ki ni. Sạt hoa tát thá ga đa, mát tê. Sá tra, bá ra mi tá. Ba rị, bủ ra ni. Na sá, bủ mi bơ ra, đi sắc si tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa, hất rị đà da. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê.

Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri. Hoa di ra, ca da. Săn hạ đa nã, vi suýt đi. Sá ra hoa, ca ma, phạ ra na, vi suýt đi. Ba ra, đu ri ca ti, bi ri, vi suýt đi. Bơ ra ti na, hoa ra đá da, a dục suýt đi. Sa ma dã, đi sắc sá na, đi sắc si tê.

Um ! Ma ni, ma ni, mạ hạ ma ni. Á ma ni, á ma ni. Vĩ ma ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni. Mát đi, mát đi, mạ hạ mát đi. Tát thá đá, bủ đa. Cu thi, vi ri suýt đi. Vĩ sa phổ ra, bút đi, vi suýt đi.

Um ! Hi hi. Dá ra, dá ra. Vĩ dá ra, vĩ dá ra. Sa ma ra, sa ma ra. Sa phạ ra, sa phạ ra. Sá ra phạ, bút đa. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê. Suýt đi, suýt đi. Họa di ri, họa di ri, mạ hạ họa di ri. Á họa di ri. Họa di ra, gạ bi. Dá ra, gạ bi. Vĩ da ra, gạ bi. Họa di ra, rít họa lã, gạ bi. Họa di rô, na ga tê. Họa di rô, na bà vê. Họa di ra, sam bà vê. Họa di rô, họa di rị na. Họa di rảm, hoa phạ, đô mạ mạ. Sá rị rảm, sá ra phạ, sát ta phạ năng. Tả ca da, bi ri, vi suýt đi. Sất da, hoa phạ, đô mi, sát na. Sá ra phạ, ga ti, bi rị suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đa, sất da mi. Sá ma, sa phạ, sát dăn tu. Sạt hoa, tát thá ga đa. Sá ma, sá phạ sa, đi sắc si tê.

Um ! Sất đi da, sất đi da. Bút đi da, bút đi da. Vi bút đi da, vi bút đi da. Bồ đà da, bồ đà da. Vi bồ đà da, vi bồ đà da. Mô ca da, mô ca da. Vi mô ca da, vi mô ca da. Suýt đà da, suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Sa măn tá, tát bi ri, mô ca da. Sa măn đá da, sa mi, bi ri suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà da. Đi sắc sá na, đi sắc si tê.

 

Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, mạ hạ muýt đơ ra. Mạn đà ra, bá na. Đi sắc si tê. Sóa ha .


Vô-Lượng-Th Như-Lai chân ngôn:



NAM MÔ RÁT NA TRA D DA. 

NAM MÔ A R DA.  A MI TÁ BÀ DA.  TÁT THA GA TÁ DA.  A RA HA TI.  SAM DT SAM BUÝT ĐÀ DA.  TÁT DA THA. 

UM !  A MI R TI.  A MI R TÔ NA BÀ VÊ.  A MI R TÁ SAM BÀ VÊ.  A MI R TÁ GA BÊ.  A MI R TÁ SUÝT ĐÊ.  A MI R TÁ SI TÊ.  A MI R TÁ VI CA LĂN TÊ.

A MI R TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI N.  A MI R TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI.  A MI R TÁ LÔ ĐÔ VI SA PH LI.  ST VA R THÁ SA ĐÀ NI.  ST VA MA CA LI.  SA KHT SÁ DU CA LI.  SÓA HA. UM! BÚT RUM!  HÙM! (7 biến)


( NAMO RATNATRĀYAYA. 

NAMO ĀRYA. AMITABĀYA. TATTHĀGATAYA. ARAHATI. SAMYAKSAMBUDDHAYA. TADYATHĀ ! 

AUM ! AMIṚTI, AMIṚTA NABĀVE. AMIṚTA SAMBĀVE, AMIṚTA GABE, AMIṚTA ŚUDDHE, AMIṚTA SITE, AMIṚTÁ VICALANTE, 

AMIṚTA VICALANTA GĀMINI. AMIṚTA GAGANA KITICALI, AMIṚTA LODO VISABHATI. SARVARITHA SADHĀNI, SARVA MACALI. SAKSA YŪCALI. SVĀHĀ.

 AUM ! BHRUM, HŪM.)


UM! BÚT RUM!  HÙM!

(AUM ! BHRUM, HŪM.)


 



Khi tụng chân ngôn này, kiết ấn Vô Lượng liên hoa. Hai xoa bên ngoài hữu áp tả. Dựng hai ngón giữa đầu dụm cong lại như cánh sen. Có thể kiết ấn này tụng chân ngôn ba lần, xả ấn lên đảnh, rồi lần chuỗi ký số. Đà ra ni này, tụng một biến, diệt các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác trong tự thân, tất cả tội chướng đều tiêu diệt.

Nếu hàng xuất gia tăng ni, hoặc tại gia thiện tín, phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Khi kiết ấn tụng chơn ngôn nầy, liền cảnh giác đức Vô Lượng Thọ Như Lai phóng quang trụ nơi đảnh của hành-giả, và được sự nhiếp thọ. Tụng đến một vạn biến, Tâm bồ đề hiển hiện trong thân không quên mất.

Người trì niệm lần lần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng mát mẻ trong sạch như trăng thu, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành giả thấy Phật A Di Đà cùng với  vô lượng trăm ức chúng Bồ Tát vây quanh đến an ủi tiếp dẫn. Đương nhơn liền sanh về phẩm Thượng thượng ở Cực Lạc.

Câu: “UM! BÚT RUM!  HÙM!” là chân ngôn “Nhứt Tự chuyển luân”, như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. Trên đây là pháp thức Tịnh độ của Mật giáo. Các vị tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng chú nầy.

Bút-gi vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.

Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề.  Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.

Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.)



3. NIỆM PHẬT - PHÁT NGUYỆN

 

(Qùy, chấp tay, đọc bài phát nguyện và tán Phật sau đây)

 

Ngã kim phổ vị tứ ân, tam hữu, cập pháp giới chúng sanh, cầu ư chư Phật nhứt thừa vô thượng Bồ-đề đạo cố, chuyên tâm trì niệm A-Di-Đà Phật, vạn đức hồng danh, cầu sanh Cực-Lạc.


Duy nguyện từ phụ A-Di-Đà Phật, từ bi gia hộ ai lân nhiếp thọ. (1 lạy) 


A-Di-Đà Phật thân kim sắc,

Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân,

Hạch hào uyển-chuyển ngũ tu-di,

Hám mục trừng thanh tứ đại hải,

Quang trung hóa Phật vô số ức,

Hóa Bồ-tát chúng diệt vô-biên,

Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh,

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.  

 

Nam mô Tây phương Cực-lạc thế giới, đại-từ đại bị, Tiếp dẫn đạo sư, PHÁP GIỚI TẠNG THÂN A-Di-Đà Phật. (1 lạy) 

 

Nam-mô A-Di-Đà Phật. (1080 câu hoặc hơn)


Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ-Tát (3 câu)

Nam-môn Đại-lực Đại Thế Chí Bồ-Tát. (3 câu)

Nam-mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ-Tát. (3 câu)

Nam-mô Thanh Tịnh Đại-Hải Chúng Bồ-Tát. (3 câu)

Nam-mô Hộ-Pháp Chư-Tôn Bồ-Tát. (3 câu)

Nam-mô Đạo tràng Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3 câu)

 

Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:

 

1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.

 

2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.

 

3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt.  Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.

 

4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.


Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.


Ghi chú: Như niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật nhiều, từ vài ngàn câu trở lên, đến trăm ngàn câu, chỉ niệm 4 chữ A-Di-Đà Phật cho dễ nhiếp tâm và tỉnh giảm hơi sức.


(Qùy gối, chấp tay cung kính đọc bài Kỳ-nguyện và bài văn Ngũ-Sám sau đây)



KỲ - NGUYỆN

 

Ngã kim phổ vị từ ân, tam hữu, cập pháp giới chúng sanh, tất nguyện đoạn trừ tam chướng, chí tâm quy-mạng sám hối. (1 lạy) 

 

 

1/ - Đệ tử (pháp danh) chí tâm sám hối :

 

Cúi lạy mười phương Phật.

Tôn pháp hiền thánh tăng.

Tam thánh cõi Cực lạc.

Bát bộ chư hiền thánh,

Thảy đều thấy biết con.

Đời này và đời trước,

Con tạo các nghiệp ác.

Nay đem tâm chí thành,

Phát lồ cầu sám hối.

Nguyện nhờ sức gia trì,

Thân tâm đều thanh tịnh.

Do sám nguyện hôm nay,

Mình người được vô cấu. 

Nam-m ô cầu sám hối Bồ-tát. (3 lần - 1 lạy) 


2/ - Đệ tử (pháp danh) chí tâm khuyến thỉnh :

 

Mười phương tất cả Phật,

Hiện tại thành chánh giác.

Con thỉnh chuyển pháp luân,

An vui cho chúng sanh.

Mười phương tất cả Phật,

Sắp muốn nhập niết bàn.

Con cúi đầu khuến thỉnh,

Xin trụ lâu nơi đời. (1 lạy) 


3/ - Đệ tử (pháp danh) chí tâm tùy hỷ :

 

Chư Phật trong ba đời,

Các Bồ-tát, Thanh văn.

Bậc tu tập tam thừa,

Cho đến hàng phàm phu.

Có bao nhiêu phước lành,

Thí, giới, nhẫn, tinh tấn.

Thiền định tịnh trí huệ,

Con đều xin tùy hỷ. (1 lạy) 


4/ - Đệ tử (pháp danh) chí tâm phát nguyện :

 

Nguyện cho các chúng sanh,

Đều phát lòng bồ đề.

Xa lìa các phiền não,

Đặng thành nhất thiết trí.

Lại nguyện nay con tu,

Thập nhị danh lễ sám.

Tất cả các nghiệp chướng,

Thảy đều được tiêu trừ. (1 lạy) 

 

5/ - Đệ tử (pháp danh) chí tâm hồi-hướng :

 

Xin đem công đức tu,

Hạnh trì chú niệm Phật.

Sám hối cùng khuyến thỉnh.

Tùy hỷ cập phát nguyện.

Phổ thí khắp chúng sanh.

Cùng bốn ẩn, ba cõi,

Đều xa lìa các khổ.

Thân tâm hằng thanh tịnh,

Sanh về cõi Cực lạc.

Đồng tu Bồ tát hạnh,

Thành tựu đạo Bồ đề. (1 lạy) 

 

Nam-mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ-Tát, tác đại chứng minh. (3 lần - 1 lạy) 



MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH



TỰ PHẦN


Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.



CHÁNH TÔNG


Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.



LƯU THÔNG

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:


Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.


MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA (3 ln)


Bt Nht Thiết Nghip Chướng Căn Bn Đc Sanh Tnh Đ Đà-ra-ni :

 

NAM-MÔ A DI ĐA BÀ D, ĐA THA DÀ ĐA D, ĐA ĐIT D THA.

A DI R ĐÔ BÀ TỲ, A DI R ĐA TT ĐAM BÀ TỲ, A DI R ĐA TỲ CA LAN Đ, A DI R ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI N DÀ DÀ NA, CH ĐA CA L TA BÀ HA. 


Vô-Lượng-Th Như-Lai chân ngôn:

 

NAM MÔ RÁT NA TRA D DA. 

NAM MÔ A R DA.  A MI TÁ BÀ DA.  TÁT THA GA TÁ DA.  A RA HA TI.  SAM DT SAM BUÝT ĐÀ DA.  TÁT DA THA. 

UM !  A MI R TI.  A MI R TÔ NA BÀ VÊ.  A MI R TÁ SAM BÀ VÊ.  A MI R TÁ GA BÊ.  A MI R TÁ SUÝT ĐÊ.  A MI R TÁ SI TÊ.  A MI R TÁ VI CA LĂN TÊ.

A MI R TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI N.  A MI R TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI.  A MI R TÁ LÔ ĐÔ VI SA PH LI.  ST VA R THÁ SA ĐÀ NI.  ST VA MA CA LI.  SA KHT SÁ DU CA LI.  SÓA HA. UM! BÚT RUM!  HÙM!



HÙM!

 

 HỒI - HƯỚNG

(Qùy đọc)

 

Ngã kim trì chú, xưng niệm Phật,

Tức phát bồ-đề quảng đại-nguyện :

 

Nguyện ngã định huệ tốc viên minh,

Nguyện ngã công đức giai thành tựu.

Nguyện ngã thắng phước biến trang-nghiêm,

Nguyện cộng chúng sanh thành Phật đạo. (1 lạy) 


Qúa hiện sở tạo chư ác nghiệp,

Giai do vô thỉ tham, sân, si.

Tùng thân, khẩu, ý chi sở sanh,

Nhất thiết ngã kim glai sám hối. (1 lạy) 

 

Nguyện ngã lâm chung dự tri thời,

Tận trừ nhứt thiết chư chướng ngại.

Diện kiến Tây-phương Tam thánh tôn,

Tức đắc vãng-sanh Cực-lạc quốc. (1 lạy) 

 

Chúng sanh vô-biên thệ nguyện độ,

Phiền não vô-tận thệ nguyện đoạn.

Pháp môn vô-lượng thệ nguyện học,

Phật đạo vô-thượng thệ nguyện thành. (1 lạy) 

 

Nguyện sanh tây-phương tịnh độ trung,

Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu.

Hoa khai kiến Phật CHỨNG vô sanh,

Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ. (1 lạy) 

 

Nguyện tương dĩ thử thắng công-đức,

Hồi hướng tứ-ân, cập tam-hữu.

Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,

Đồng sanh Cực-lạc thành Phật đạo. 

 

Nam mô A Di Đà Phật (1 lạy)

 

 

TỰ TAM QUY

 

T quy-y Pht, đương nguyn chúng-sanh, th gii đi đo, phát vô-thượng tâm. (1 lạy) 

T quy-y Pháp, đương nguyn chúng-sanh, thâm nhp kinh-tng, trí hu như hi. (1 lạy) 

T quy-y Tăng, đương nguyn chúng-sanh, thng-lý đi-chúng, nht thiết vô ngi. (1 lạy) 



HÒA NAM THÁNH CHÚNG. 

(ĐÁNH 3 TIẾNG CHUÔNG. Lạy 3 lạy, xá 3 xá rồi lui ra )

 


Ghi-chú:

 

(1) Riêng phần đảnh lễ  Tây-phương Cực-lạc thế-giới, Ðại-từ Ðại-bi Tiếp-dẫn Ðạo-sư, PHÁP GIỚI TẠNG THÂN A-DI-ÐÀ NHƯ LAI này, tôi y theo phương pháp trong " Hồng danh bảo sám, kết hết tất cả công đức lễ bái 12 vị Phật trên vào đức A-Di-Đà thế tôn và Thế giới Cực-lạc của ngài trong ý niệm “Phát nguyện 1 đời vãng sanh, được bất thối chuyển".

 

(2) Vô-Lượng-Thọ Như-Lai chân ngôn:

 

NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA. 

NAM MÔ A RỊ DA.  A MI TÁ BÀ DA.  TÁT THA GA TÁ DA.  A RA HA TI.  SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA.  TÁT DA THA. 

UM !  A MI RỊ TI.  A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ GA BÊ.  A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ.  A MI RỊ TÁ SI TÊ.  A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.

A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ.  A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI.  A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI.  SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI.  SẠT VA MA CA LI.  SA KHẤT SÁ DU CA LI.  SÓA HA. UM! BÚT RUM!  HÙM! 

 

Thần chú nầy là Tâm-chú của đức Vô lượng Thọ Như-lai (Tức là A-Di-Đà Phật).

 

Đà-ra-ni nầy, tụng 1 biến thì tất cả các tội: Tứ trọng ngũ- nghịch, thập ác thảy đều tiêu diệt.

 

Tụng 3 biến, tất cả tội chướng đều được tiêu trừ.

 

Tụng 7 biến thì dù cho hàng thiện nam, tín nữ tại gia phạm giới căn bản, hàng tăng ni phạm tội tứ khí, bát khí và các trọng giới khác, đều trở lại được giới phẩm thanh tịnh.

 

Hành giả khi kết ấn (vô-lượng liên hoa ấn) tụng trì thần chú này liền được A-Di-Đà Như-lai phóng quang trụ nơi đỉnh đầu và được Ngài nhiếp thọ.

 

Tụng đến 1 vạn biến (10.000 biến), tâm Bồ-đề hiển hiện trong thân không quên mất.

 

Người trì niệm dần dần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng, trong sạch, mát mẻ như trăng thu, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm chung thấy đức A-Di-Dà Như-lai cùng vô-lượng trăm ngàn ức chúng Bồ-tát đến vây quanh, an-ủi và tiếp dẫn.

 

Đương nhơn liền sanh về phẩm Thượng-thượng ở cõi Cực-lạc.

 

Riêng câu UM! BÚT RUM!  HÙM! “Aum Bhrüm hùm” là Nhất tự chuyển luân vương thần chú được phối hợp vào chú vô-lượng thọ nầy có công năng làm cho chơn ngôn nầy (nói riêng) và các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và chóng thành tựu.

 

Sau đây là cách kết ấn “Vô-lượng liên hoa”

 

Hai tay chập lại, ngoại xoa, hữu áp tả. Hai ngón giữa cong lại dụm đầu vào nhau hình như cách hoa sen.

 

(3) Đệ tử (pháp danh) chí tâm sám hối : Đọc pháp danh vào đây. Ví dụ như pháp danh là Minh-Đạt thì đọc rằng :

 

Đệ tử Minh-Đạt chí tâm sám hối. Các phần dưới 2,3,4,5 cũng đọc pháp danh (vào chổ trống) như vậy.



MƯỜI CÔNG ĐỨC ẤN TỐNG KINH, TƯỢNG PHẬT

 

* Một là, những tội lỗi đã tạo từ trước, nhẹ thì được tiêu trừ, nặng thì chuyển thành nhẹ.

 

* Hai là, thường được các thiện thần ủng hộ, tránh được tất cả tai ương hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa, trộm cướp, đao binh, ngục tù.

 

* Ba là, vĩnh viễn tránh khỏi những quả bảo phiền khổ, oán cừu oan trái của đời trước cũng như đời này.

 

* Bốn là, các vị hộ pháp thiện thần thường gia hộ nên những loài dạ xoa ác quỷ, rắn độc hùm beo tránh xa không dám hãm hại.

 

* Năm là, tâm được an vui, ngày không gặp việc nguy khốn, đêm ngủ không thấy ác mộng. Diện mạo hiền sáng, mạnh khỏe an lành, việc làm thuận lợi, được kết qủa tốt.

 

* Sáu là, chí thành hộ pháp, tâm không cầu lợi, tự nhiên y thực đầy đủ, gia đình hòa thuận, phước lộc đời đời.

 

* Bảy là, lời nói việc làm trời người hoan hỷ, đến đâu cũng được mọi người kính mến ngợi khen.

 

* Tám là, ngu chuyển thành trí, bệnh lành mạnh khỏe, khốn nghèo chuyển thành thịnh đạt. Nhàm chán nữ thân, mệnh chung liền được nam thân.

 

* Chín là, vĩnh viễn xa lìa đường ác, sanh vào cõi thiện, tướng mạo đoan nghiêm, tâm trí siêu việt, phước lộc tròn đầy.

 

* Mười là, hay vì tất cả chúng sanh trồng các căn lành. Lấy tâm cầu của chúng sinh làm ruộng phước điền cho mình. Nhờ công đức ấy đạt được vô lượng phước quả thù thẳng. Sanh ra nơi nào cũng thường được thấy Phật, nghe Pháp, phước huệ rộng lớn, chứng đạt lục thông, sớm thành Phật quả.

 

ẤN QUANG TỔ SƯ DẠY :

 

Ấn tống Kinh, tượng Phật được công đức thù thắng như vậy, nên gặp khi chúc thọ, thành hôn, cầu phước, thoát nạn, sám hồi, cầu siêu trừ tật bịnh, cầu siêu độ hương linh, hay tinh tấn phát tâm Bồ Đề ấn tống, để trồng cội phước đức cho chính mình và thân bằng quyến thuộc.


 

KINH

PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG

ĐÀ RA NI


Hán dịch: Nước Kế Tân, sa môn Phật Đà Ba Lỵ
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Thiền Tâm

 

LỜI TỰA

 

Đức Như Lai ứng thế, vì muốn cứu vớt các hàm linh khỏi khổ luân hồi, chứng lên quả Phật, nên mở cửa phương tiện, nói ra muôn ngàn pháp môn. Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám. Các hàng tứ chúng nên phát tâm trì tụng, tất hiện đời tội chướng tiêu diệt, phước huệ phát sinh, tương lai sẽ gần gũi chư Phật ở 10 phương Tịnh Độ.

Trong niên hiệu Nghi Phụng thời Hậu Chu, có vị tăng là Phật Đà Ba Lỵ từ Tây Thiên Trúc đến Trung Hoa. Trong dịp chiêm lễ thánh tích ở non Ngũ Đài, ngài gặp một lão ông từ trong núi đi ra, dùng tiếng Phạn bảo rằng:

"Pháp sư chẳng nài mệt nhọc, từ muôn dặm đến đây thành tâm đảnh lễ, mong diện kiến đức Văn Thù, thật đã hết lòng mộ đạo. Nhưng chúng sanh ở Trung Hoa, đa số tạo nhiều tội nghiệp, hàng xuất gia phần đông phạm luật nghi, chỉ có kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni mới diệt được tất cả tội chướng ấy. Chẳng hay pháp sư có đem theo kinh đó đến miền này chăng?"

Ngài Phật Đà Ba Lỵ đáp:

"Bần đạo đến đây chỉ vì mục đích đảnh lễ đức Văn Thù, nên không đem kinh đó theo".

Lão ông nói:

"Đức Đại Thánh Văn Thù hằng có lòng từ bi muốn cứu độ chúng sanh. Pháp sư đã không đem kinh ấy theo, tức là không hợp với thánh tâm, dù có gặp đức Văn Thù, cũng không được phần lợi ích. Vậy ngài nên trở về Tây Vức mang kinh ấy đến lưu truyền nơi miền Hán độ, để cứu vớt sanh loại, siêu độ u linh, tức là báo ơn chư Phật, chừng đó quyết định sẽ gặp Bồ Tát Văn Thù".

Nói xong, bỗng biến mất.

Biết lão ông là đức Văn Thù hóa hiện dạy bảo, ngài Phật Đà Ba Lỵ mừng thương lẫn lộn, cúi đầu đảnh lễ, vội vã trở về Tây Trúc. Đến năm Vĩnh Thuận thứ hai, ngài mới đem kinh đến Trung Hoa, vào triều nội, tâu lên mọi việc. Vua nghe xong, vui đẹp, sắc cho ngài Nhật Chiếu Tam Tạng và quan tư tân điển lịnh là Đỗ Hành Khải phiên dịch. Dịch xong, vua đem kinh bản bảo tàng trong nội, cấm không cho lưu hành và thưởng tặng cao tăng Phật Đà Ba Lỵ 30 cuốn lụa.

Ngài thương khóc, tâu rằng:

"Bần đạo không kể nguy hiểm thân mạng, từ xa đem kinh đến đây, vì muốn lợi lạc quần sanh, không nghĩ đến danh lợi. Xin thánh thượng gia ân cho lại nguyên bản, để các loài hàm linh cùng được lợi ích!"

Vua dạy lưu kinh phiên dịch, và trả lại Phạn bản cho Tây Tăng. Ngài Phật Đà Ba Lỵ đem phạn bản đến chùa Tây Minh, tìm được vị tăng Trung Hoa giỏi phạn ngữ là Thuận Trinh, rồi dâng sớ tâu xin cho cùng phiên dịch, và cho biên ra nhiều bản để lưu hành. Xong, ngài Phật Đà Ba Lỵ đem phạn bản đến non Ngũ Đài, vào hang Kim Cang rồi không thấy trở ra, tương truyền ngài đã được đức Văn Thù thu nhận vào pháp hội của chư Bồ Tát.

Bởi sự tích trên, nên bút giả nghĩ kinh này có thể lợi ích cho hàng Phật tử Việt Nam. Theo trong đại tạng, kinh này có tất cả 9 bản dịch, bút giả lấy bản dịch của ngài Phật Đà Ba Lỵ làm bản chính, tham chiếu các bản khác của chư vị như: Kim Cang Trí, Thiện Vô Úy, Địa Bà Ha, Nghĩa Tịnh, Bất Không... bổ vào những chỗ khuyết. Lại theo Mật tạng, Tôn Thắng chân ngôn còn có tên là Nhứt Thiết Như Lai Ô-Sắc-Ni-Sá Tối Thắng Đà Ra Ni. Thần chú này do đức Thế Tôn ở Đại Thiện Pháp đường nơi cõi Cực Lạc, sau khi nhập Phổ Chiếu Cát Tường Tam Ma Địa nói ra. Thấy chú văn y như nhau, bút giả cũng lấy bản Nhứt Thiết Như Lai Ô Sắc Ni Sá Tổng Trì Kinh làm tài liệu tham chiếu. 

Ngoài ra, lại còn có cuốn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni Niệm Tụng Nghi Quỹ Pháp của ngài Bất Không Tam Tạng dịch. Bút giả nghĩ pháp thức đó dành cho bực lợi căn chuyên tu về Mật Tông, không thích hợp với phần đông trình độ hiện nay, nên không dịch ra đây.

Việc làm này có phần nào công đức, xin hồi hướng vãng sanh Tịnh Độ, cho bốn ân, ba cõi, và pháp giới hữu tình.

 

 

USNISĀ (Ô-Sắc-Ni-Sá) dịch là Phật-đảnh, tướng Vô-kiến-đảnh nơi đầu của đức Phật.

 


 

KINH

PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG

ĐÀ RA NI

 

 

PHẦN THÔNG TỰ

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Bạc-Già-Phạm , ở tại đạo tràng Măng Tre, trong vườn Thệ Đa Lâm Cấp Cô Độc, thuộc thành Thất La Phiệt, cùng với 8 ngàn chúng Tì Kheo câu hội. Các vị ấy đều là bậc Đại A La Hán, hàng tri thức của quần chúng. Trong đây, những tôn giả như: Xá Lỵ Phất, Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, A Na Luật Đà... làm thượng thủ.

Lại có ba vạn hai ngàn Bồ Tát, đều là bậc trụ nơi hạnh Bất Thối Chuyển, chánh trí soi sáng tất cả các pháp, không còn ngăn ngại, vô lượng công đức trang nghiêm, cùng các đại chúng đồng thời câu hội. Trong ấy, các Bồ Tát như: Quán Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát, Mạn Thù Thất Lỵ Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Thắng Liên Hoa Tạng Bồ Tát, Chấp Kim Cang Bồ Tát, Trì Địa Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Tịnh Trừ Nhứt Thiết Chướng Bồ Tát... làm thượng thủ.

Lại có một vạn Phạm thiên vương, do Thiện Tra Phạm Ma thiên vương, Thiện Kiến thiên vương làm thượng thủ, từ các cõi khác đến dự hội.

Lại có một vạn hai ngàn vị Đế Thích Thiên vương, cùng với vô lượng Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hô Lặc Già, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Giá, Nhơn phi nhơn...  cũng tập hội.

 

Bạc-Già-Phạm  dịch Tự-tại, Oai-nghiêm, Kiết-tường, Tôn-quý, Hữu-đức, tức chỉ cho đức Phật.

Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hô Lặc Già, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Giá, Nhơn phi nhơn...Thiên: hàng trời, Long: rồng, Dạ xoa: dịch Thiệp tật quỉ loài quỷ bay mau lẹ; Càn thát bà: dịch Khứu hương nhạc, nhạc thần của Thiên Đế; A Tu La: dịch Phi Thiên, loài có phước như trời mà đức không bằng trời; Ca Lâu La: thần kim súy điểu; Khẩn Na La: dịch Nghi thần, thần ca múa của Thiên Đế, Ma Hô Lặc Già: thần rắn; Cưu Bàn Trà: Yểm mị quỷ; Tỳ Xá giá: Đạm tinh khí quỷ; Nhơn Phi Nhơn: loài như người nhưng có sừng hoặc có cánh khác với người.

 

 

PHẦN BIỆT TỰ

 

Bấy giờ đức Thế Tôn đang được bốn chúng vây quanh, cung kính cúng dường, một lòng chiêm ngưỡng, cầu nghe pháp yếu.

Khi ấy, tại cõi trời Đao Lợi, có một vị thiên tử tên là Thiện Trụ, ngự tại cung báu lớn, đang cùng với các thiên nữ dự cuộc âm nhạc ca múa vui đùa hưởng lạc. Lúc đó, ở thiên giới vào khoảng cuối đêm, bỗng nhiên giữa hư không có tiếng gọi bảo:

"Thiện Trụ thiên tử! Bảy hôm nữa, ông sẽ hết phước trời, xả báo thân, đọa xuống cõi Diêm Phù Đề, 7 lần làm cầm thú, thường ăn đồ nhơ uế. Kế đó lại đọa vào địa ngục, chịu đủ các sự khổ trải qua nhiều kiếp mới được làm người. Tuy được thân người, nhưng lại đen lùn, thô xấu, mù cả đôi mắt, các căn không đủ, hơi miệng thường hôi hám, nghèo khó hèn hạ, hằng thiếu ăn mặc, mọi người đều gớm ghét, lánh xa !”

Thiện Trụ thiên tử nghe lời ấy rồi, kinh hoàng tột độ, lông tóc đều dựng đứng, ôm lòng sầu muộn, ông vội đem hương, hoa cùng các thứ cúng dường, đến chỗ Thiên đế quì xuống, dâng lễ, than khóc thuật lại việc trên, và thưa:

"Nay tôi tâm tư bối rối, mê loạn. Không biết phải làm thế nào? Cúi xin Thiên Đế xót thương, cứu vớt tôi ra khỏi vòng khổ độc!" 

Thích Đề Hoàn Nhơn nghe xong, rất kinh ngạc, tự suy nghĩ:

"Thiện Trụ Thiên Tử đời trước tu phước gì, được sanh lên cõi trời hưởng sự vui thắng diệu nhiều năm? Lại kiếp xưa tạo nghiệp nhân chi mà sau khi hết thiên phước, phải chịu 7 lần làm cầm thú, rồi đọa vào địa ngục, khi được làm thân người, đôi mắt mù lòa, thọ đủ điều xấu ác?"

Nghĩ như thế rồi, liền nhiếp tâm vào định, dùng thiên nhãn xem:

Thấy Thiện Trụ thiên tử ở cõi trời mạng chung, liền đọa làm thân heo, hết thân heo thọ thân chó, hết thân chó thọ thân chồn, hết thân chồn thọ thân khỉ, hết thân khỉ thọ thân rắn độc, hết thân rắn thọ thân kên kên, hết thân kên kên thọ thân chim quạ. Trong 7 kiếp làm cầm thú ấy, thường ăn những đồ nhơ uế. Khi thấy biết như thế, ngài cũng lo lắng đau xót giùm cho Thiện Trụ thiên tử. Thiên đế lại suy nghĩ: 

“Thiên nhãn của ta chỉ thấy biết một ít phần, không thể hiểu được những nghiệp nhân sâu xa. Duy đức Như Lai là bậc Chánh Biến Tri, mới có thể thấu suốt tất cả nhân quả thiện, ác. Duy đức Thế Tôn là đấng Đại Từ, mới có thể cứu vớt Thiện Trụ thiên tử khỏi vòng khổ độc. Ta nên đến cầu thỉnh Như Lai về việc này!"

Nghĩ đoạn, ngài liền suất lãnh Thiện Trụ thiên tử cùng chư thiên, đem theo các thứ tràng hoa, huơng lạ, anh lạc, thiên y, bay xuống vườn Thệ Đa Lâm Cấp Cô Độc.

Bấy giờ ở cõi nhân gian, thời khắc vào khoảng đầu hôm, nhằm lúc chư Bồ Tát, thanh văn, thiên long bát bộ, tứ chúng như trên đang vân tập. Khi đến nơi, Thiên đế hướng dẫn Thiện Trụ và thiên chúng đảnh lễ Phật, đi nhiễu quanh 7 vòng, dâng hiến lễ cúng duờng. Pháp sự đã xong, Thích Đề Hoàn Nhơn quì trước Như Lai bạch lại việc trên, và thưa thỉnh rằng:

"Bạch đức Thế Tôn! Thiện Trụ thiên tử đời trước tu phước chi, mà hưởng sự vui nơi cõi trời trải nhiều thời gian? Lại kiếp xưa tạo nhân gì, sau khi hết phước phải đọa làm thân cầm thú 7 phen, ăn đồ bất tịnh, rồi thọ sự khổ nơi địa ngục, sự hèn xấu nơi cõi người? Và do phước nhân nào, cảm được giữa hư không có tiếng mách bảo? Xin đức Như Lai vì chúng con và đại hội mà nói rõ nhân duyên, lại cúi xin đấng Thiên Nhơn Sư mở lượng từ bi, cứu vớt cho Thiện Trụ thiên tử được thoát vòng khổ ách".


 

KINH

PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG

ĐÀ RA NI

 

PHẦN CHÁNH TÔNG

 

Khi ấy, đức Như Lai mỉm cười, từ nơi đảnh môn, phóng ánh sáng ngũ sắc rộng lớn, soi khắp 10 phương cõi Phật. Quang minh ấy ánh chiếu lẫn nhau, rồi uyển chuyển quay về nhiễu quanh bên hữu Phật ba vòng, lại trở vào miệng đấng Điều Ngự. Đức Thế Tôn thu nhiếp quang minh xong, bảo trời Đế Thích rằng:

"Lành thay, thiện nam tử! Ông khéo vì Thiện Trụ thiên tử và đại chúng, hỏi nhân duyên thiện ác tiền sanh. Lại hay vì chúng hữu tình hiện tại và đời sau, mà thưa thỉnh ta nói pháp môn cứu khổ. Lắng nghe! Ta sẽ vì các ông giải thuyết rành rẽ:

- Này thiện nam tử! Cách vô lượng kiếp về trước, có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật ấy sau khi hóa duyên đã mãn, vào Niết Bàn.

Trong thời tượng pháp của ngài, có một quốc gia tên Ba La Nại, trong nước đó có người Bà La Môn nghèo, chỉ sanh được một con trai rồi qua đời sớm. Cậu bé ở với mẹ đến khi khôn lớn, được giao cho việc nông tác ngoài đồng. Bà mẹ ở nhà, tảo tần lo thức ăn, mỗi ngày đem ra ruộng cho con. Một hôm, cơm nước đưa đến trễ, đứa con đói khát, sanh lòng hờn giận, dùng lời ác độc mắng rằng:

"Mẹ tôi còn thua loài súc sanh! Tôi thấy mấy con: heo, chó, chồn, khỉ, rắn, kên kên, quạ, còn biết thương lo cho con của nó. Tại sao bà để cho tôi đói khát mà không đem cơm nước đến?"

Do lòng đợi chờ hờn giận, đứa con nói như thế ba lần. Giây lát bà mẹ với dáng điệu vội vã đem cơm nước tới, và nói nhiều lời an ủi khiến cho con vui mừng hết cơn buồn giận. Đứa con vừa ngồi xuống sắp dùng cơm, bỗng thấy giữa hư không có vị Bích Chi Phật, hình tướng sa môn, bay từ phương Nam qua phương bắc. Người con thấy rồi, sanh lòng kính ngưỡng, đứng lên chắp tay cúi đầu đảnh lễ, thỉnh vị Bích Chi Phật giáng lâm. 

Vị Bích-Chi Phật nhận lời thỉnh, từ từ đáp xuống. Đứa con vui mừng, trải tranh trắng làm tòa ngồi, dâng hiến hoa sạch đẹp, giảm phần ăn của mình, đem cúng dường vị Sa môn. Sau khi thọ thực xong, Bích Chi Phật lại vì nói pháp yếu khiến cho được vui mừng.

Về sau người con xuất gia, chư tăng cử cho làm chức Tri Sự. Lúc ấy có người Bà La Môn xây cất tăng xá vừa xong, ngày khánh thành khách tăng hội đến, lại có thí chủ đem nhiều tô du và sữa đặc cúng dường. Ông Tri Sự hiềm khách tăng làm phiền rộn, nên không đem tô du và sữa ra thết đãi. Mấy vị khách tăng hỏi:

"Những thức ăn đó là của đàn việt cúng dường hiện tiền tăng, sao không thấy dọn ra?"

Ông Tri Sự tánh nóng vội, liền cả tiếng mắng rằng:

 "Bộ mấy ông đui mù hết sao? Có tô du và sữa đâu mà bảo tôi cất giấu? Nếu muốn đòi thêm, chỉ có phẩn và nước tiểu cho các ông ăn mà thôi!"

Đức Phật bảo Đế Thích:

“-Đứa con của người Bà La môn nghèo đó là Thiện Trụ thiên tử hiện nay. Do kiếp trước hờn giận, dùng lời ác gọi 7 tên loài cầm thú mắng mẹ, nên phải chịu 7 phen làm cầm thú. Bởi khi làm Tri Sự thốt ra những lời nhơ uế mắng chư tăng, nên nghiệp cảm thường ăn đồ bất tịnh. Do bỏn xẻn giữ riêng thức ăn của hiện tiền tăng nên bị quả báo địa ngục và chịu nghèo hèn thô xấu trong kiếp người. Bởi mắng chư tăng là đui mù nên bảy trăm đời phải bị mù đôi mắt, sống trong cảnh tối tăm chịu nhiều khổ não. Nên biết những tội nghiệp như thế, đã có nhân, tất phải trả quả, ảnh hưởng không tiêu mất.

-Lại nữa Thiên Đế! Thiện Trụ thiên tử được hưởng sự vui thắng diệu ở cõi trời, là do kiếp trước trải tòa, dâng hoa, cúng dường thức ăn cho vị Bích Chi Phật, và nhờ sức ảnh hưởng của sự nghe chánh pháp. Lại do đời trước chắp tay ngửa lên hư không, hết lòng kính thỉnh, cúi đầu đảnh lễ vị Bích Chi Phật, bởi công đức ấy nên được nghe giữa hư không có tiếng mách bảo cho biết trước. Đó là tiếng vị thần giữ cung điện của Thiện Trụ thiên tử vậy!

Khi ấy, Thiện Trụ thiên tử nghe lời Phật dạy, biết nghiệp mình đều có túc nhân, hết sức ăn năn tự trách. Ông gieo mình đảnh lễ trước Phật, tỏ bày tội lỗi, cầu xin sám hối, thương khóc, sa nước mắt như mưa, huyết lệ rơi ứ đọng nơi chiếc khăn trong giỏ đựng hoa, chết ngất hồi lâu mới tỉnh lại.

Đức Phật bảo Đế Thích và Thiện Trụ thiên tử:

- Trong 10 nghiệp ác, khẩu nghiệp rất mãnh liệt, phải biết lời ác còn quá hơn lửa dữ. Lửa dữ chỉ đốt tiêu tài sản của báu ở thế gian. Lửa giận ác khẩu chẳng những đốt hết Thất thánh tài  và tất cả công đức xuất thế mà còn chiêu cảm ác báo về sau. Như Thiện Trụ chỉ vì nóng giận mắng mẹ và chư tăng, mà tổn bớt phước trời, phải chịu thân cầm thú và địa ngục.

Cho nên, đối với cha mẹ và chư tăng, lẽ ưng tôn trọng cung kính cúng dường, dùng lời dịu dàng khen ngợi, thường nghĩ đến ân đức, chớ không nên khinh hủy. Lòng từ ái giữa trần gian chỉ có cha mẹ, ruộng phước trong ba đời không chi hơn chúng tăng. Các bậc chân tăng hiền thánh, nếu cúng dường thì công đức không mất. Như tiến thêm, muốn cầu pháp xuất thế, lại có thể thành đạo. Đâu nên đối với chúng tăng vội thốt lời khinh hủy!

Còn cha mẹ công sanh dưỡng rất khó nhọc, 10 tháng cưu mang khổ nặng, 3 năm bú sữa, mớm cơm. Trải đủ sự lo lắng gian lao, nuôi con khôn lớn, dạy dỗ, cho học hành, mong con được thành lập, tài đức hơn người. Nếu con xuất gia, lại mong cho con đắc đạo, thoát vòng sanh tử. Ân niệm ấy cao rộng như biển trời, khó đền trả. Vì thế, ta đã bảo A Nan:

-Nếu có người vai bên trái cõng cha, vai bên mặt cõng mẹ, đi quanh núi Tu Di trăm ngàn vòng, huyết chảy ngập 2 bàn chân, còn chưa thể báo công ơn sanh dưỡng, huống chi lại khởi niệm hờn giận, buông lời khinh mắng ư!

- Này Thiên Đế! Thiện Trụ thiên tử nay do thấy ta, chí tâm sám hối, nên đạo nhãn trong sáng, tội cũng trừ diệt.”

Đức Thế Tôn lại nhìn Thiện Trụ Thiên Tử an ủi bảo rằng:

"-Ông nên chớ quá lo buồn thương khóc. Ta có pháp môn tên là Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni, ông trì chú này tất sẽ thoát khỏi vòng khổ ách. Môn đà ra ni đây, vô lượng hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói, ta nay cũng sẽ diễn nói. Trong các thần chú về Phật Đảnh, môn đà ra ni này rất tối tôn tối thắng, hay trừ tất cả sự khổ não trong nẻo luân hồi của tất cả chúng sanh!"

Thích Đề Hoàn Nhơn nghe Phật nói rất vui mừng, một lòng khát ngưỡng, thưa rằng:

"-Bạch đức Thế Tôn! Cúi xin Như Lai thương nghĩ đến Thiện Trụ và bọn chúng con, cũng vì chúng sanh đời mạt pháp về sau, tuyên thuyết môn Phật Đảnh Đà Ra Ni. Chúng con sẽ tuân hành và nguyện cho tất cả các loài hữu tình đều thoát khỏi sự khổ tam đồ Bát nạn !"


Bấy giờ đức Như Lai vì Thiên Đế, Thiện Trụ thiên tử, và 4 bộ chúng, và nghĩ thương chúng sanh đời mạt pháp về sau, dùng giọng phạm âm trong sáng, thanh diệu hòa nhã như tiếng chim Ca Lăng Tần Già, thuyết chú rằng:


 

Phật-Đảnh Tôn-Thắng Đà-Ra-Ni

 

Nam-mô ba ga pha tê. Sạt hoa tát răn, lô ky da. Bơ ra di, vi ti sắc tra da. Bút đà da, ba ga pha tê. Tát đi da tha !

 

Um ! Bút rum, bút rum, bút rum. Suýt đà da, Suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Á sá ma, sá ma. Sa măn tá, phạ hoa sát. Sa phả ra na, ga ti, ga gạ na. Soa phạ hoa, vi suýt đi. Á vi chuân da, du măn. Sạt hoa tát thá ga đá. Sú ga da. Phạ ra, phạ ca nã. A mi rị tá, bi sá cu. Ma ha muýt đơ ra, măn đa ra, ba na.

Um ! Á hạ ra, á hạ ra. A du săn, đà ra ni. Suýt đà da, suýt đà da. Ga ga na, xoa phạ hoa, vi suýt đi. U sắc ni sá, vi ca da, vi suýt đi. Sá hạ sa ra, ra sa mi, săn tô ni tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa. A hoa lô ki ni. Sạt hoa tát thá ga đa, mát tê. Sá tra, bá ra mi tá. Ba rị, bủ ra ni. Na sá, bủ mi bơ ra, đi sắc si tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa, hất rị đà da. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê.

Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri. Hoa di ra, ca da. Săn hạ đa nã, vi suýt đi. Sá ra hoa, ca ma, phạ ra na, vi suýt đi. Ba ra, đu ri ca ti, bi ri, vi suýt đi. Bơ ra ti na, hoa ra đá da, a dục suýt đi. Sa ma dã, đi sắc sá na, đi sắc si tê.

Um ! Ma ni, ma ni, mạ hạ ma ni. Á ma ni, á ma ni. Vĩ ma ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni. Mát đi, mát đi, mạ hạ mát đi. Tát thá đá, bủ đa. Cu thi, vi ri suýt đi. Vĩ sa phổ ra, bút đi, vi suýt đi.

Um ! Hi hi. Dá ra, dá ra. Vĩ dá ra, vĩ dá ra. Sa ma ra, sa ma ra. Sa phạ ra, sa phạ ra. Sá ra phạ, bút đa. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê. Suýt đi, suýt đi. Họa di ri, họa di ri, mạ hạ họa di ri. Á họa di ri. Họa di ra, gạ bi. Dá ra, gạ bi. Vĩ da ra, gạ bi. Họa di ra, rít họa lã, gạ bi. Họa di rô, na ga tê. Họa di rô, na bà vê. Họa di ra, sam bà vê. Họa di rô, họa di rị na. Họa di rảm, hoa phạ, đô mạ mạ. Sá rị rảm, sá ra phạ, sát ta phạ năng. Tả ca da, bi ri, vi suýt đi. Sất da, hoa phạ, đô mi, sát na. Sá ra phạ, ga ti, bi rị suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đa, sất da mi. Sá ma, sa phạ, sát dăn tu. Sạt hoa, tát thá ga đa. Sá ma, sá phạ sa, đi sắc si tê.

Um ! Sất đi da, sất đi da. Bút đi da, bút đi da. Vi bút đi da, vi bút đi da. Bồ đà da, bồ đà da. Vi bồ đà da, vi bồ đà da. Mô ca da, mô ca da. Vi mô ca da, vi mô ca da. Suýt đà da, suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Sa măn tá, tát bi ri, mô ca da. Sa măn đá da, sa mi, bi ri suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà da. Đi sắc sá na, đi sắc si tê.

 

Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, mạ hạ muýt đơ ra. Mạn đà ra, bá na. Đi sắc si tê. Sóa ha .

 

Thuyết chú xong, đức Phật bảo:

“- Này Thiên đế! Môn Như Lai Quán Đảnh Thanh Tịnh Chư Thú Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni này tám mươi tám câu chi trăm ngàn hằng sa chư Phật đã tuyên thuyết, và nghiêm mật thủ hộ, tùy hỉ ngợi khen. Tất cả Như Lai đều đồng ấn khả.

Nếu có Tì kheo, tì kheo ni, thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào thọ trì hoặc đọc tụng, do công đức ấy, những tội ngũ nghịch, thập ác trong trăm ngàn muôn kiếp đều được tiêu diệt, sẽ chứng quả A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Kẻ ấy trong hiện tại sẽ được túc mạng trí, rồi sanh từ cõi trời này đến cõi trời khác, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác.

Kẻ ấy sẽ được chư Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí xoa đầu thọ ký, thường ở nơi đạo tràng, nghe hiểu và thọ trì chánh pháp. Kẻ ấy 3 nghiệp thân, ngữ, ý hằng thanh tịnh, tâm an vui, thân khổ dứt trừ, được những xúc giác nhẹ lành, thọ mạng tăng thêm, không bị hoạnh tử.

Kẻ ấy sẽ được chư thiên thần hộ vệ, chư Bồ Tát từ ái, chư Phật hệ niệm. Người thọ trì chú này sẽ đến cõi Địa ngục, ngạ quỷ, Diêm Ma vương đọc tụng, các tội phạm nơi đó đều được giải thoát, cảnh giới trống rỗng, các cung trời, cung điện BồTát, cung điện cõi Phật đều mở cửa rước người thọ trì vào.

- Tại sao thế? Bởi môn đà ra ni này hay trừ sạch tội ngũ nghịch, thập ác của chúng sanh.

-Hay cứu tất cả sự khổ nạn trong cảnh Diêm Ma, bàng sanh, ngạ quỷ, địa ngục, hay độ thoát tất cả chúng sanh nghiệp dày phước mỏng, nghèo nàn, hèn hạ, đau bịnh, tàn tật, yểu thọ, xấu xa, câm ngọng, đui điếc.

-Hay cứu vớt các loại A Tu La, Dạ Xoa, La Sát, Phú Đơn NaCa Tra Phú Đơn Na , các thân quỷ thần…

-Cho đến hay độ thoát các loài thủy tộc, phi cầm, tẩu thú, rắn rết, ruồi muỗi, côn trùng. Các chúng sanh ấy tùy phận sẽ được sanh lên các cảnh giới an lành, và lần lượt đều được chứng quả giải thoát.

-Này Thiên Đế! Nếu có người thọ trì chú này, từ kiếp hiện tại trở về sau, vĩnh viễn lìa khỏi ác đạo, thường sanh trong dòng quý tộc ở cõi người, hoặc sanh lên cõi trời, cho đến được cùng 10 phương chư Phật ở một chỗ, cùng chư Bồ Tát làm bạn lành, và kết cuộc sẽ chứng quả Vô Thượng Đẳng Giác.

-Này Thiên Đế! Môn Phật Đảnh Tôn Thắng đà ra ni của ta đây có đủ thần lực uy thế, công đức rộng lớn như mặt trời kiết tường, như châu ma ni trong sạch sáng suốt, không bợn nhơ, tùy ở chỗ nào phóng ánh quang minh làm sáng sạch nơi đó. Lại nữa, như 7 báu thù thắng ở thế gian, tất cả hàng vua quan dân chúng đều quý trọng ưa thích, nhìn không chán. Môn đà ra ni này cũng thế, nếu thọ trì đọc tụng, biên chép, hoặc cúng dường, kẻ ấy sẽ được vô lượng công đức, tất cả thiên, long bát bộ đều kính ưa, quý trọng.

-Này Thiên Đế! Hàng vua quan tứ chúng nếu biên chép đà ra ni này để trong tháp 7 báu, nơi bảo tòa sư tử, nơi tháp ngã tư đường, hoặc nơi đầu phướn cao, lại dùng các thứ hoa, hương, anh lạc, y phục, thức ăn uống, thuốc men cúng dường, kẻ ấy công đức vô lượng vô biên, phước trí không thể tính kể.

Kẻ ấy là đích tử của Phật, là Bồ Tát Ma Ha Tát, vì cứu vớt được vô lượng chúng sanh đi qua đi lại nơi đó. Nếu có chúng sanh nào phạm tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, các trọng giới và tất cả tội nặng, ưng đọa tam đồ thọ khổ mà đi ngang qua tháp hoặc phướn có để đà ra ni này, được một điểm bụi hay một chút gió từ tháp phướn ấy dính nhiễm đến thân mình, hoặc được bóng tháp phướn che thì tất cả tội nặng đều tiêu trừ, sanh về cõi trời hưởng sự vui thắng diệu, hoặc tùy duyên sanh về Tịnh Độ.

Kẻ nào thường thọ trì đà ra ni này khi sắp tụng niệm dùng nước rửa tay, nước đó rơi xuống đất rưới nhằm các loài trùng kiến, các vật loại ấy đều được nhờ ảnh hưởng công đức sanh lên cõi trời. Cho nên các hàng Tì Kheo, Tì Kheo Ni, thiện nam, tín nữ nếu trai giới thanh tịnh, sáu thời thọ trì đà ra ni này, thì các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác cùng tất cả các tội nặng trong ba đời thảy đều được tiêu diệt, được chư Phật Bồ Tát xoa đầu thọ ký.

Bấy giờ đã quá nửa đêm, Diêm Ma La Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên Vương, Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Suất Đà Thiên Vương, Hóa Lạc thiên vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên vương, Phạm Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương... suất lãnh quyến thuộc trăm ngàn muôn ức, đem theo hương, hoa và các thứ trang nghiêm, đến nhiễu quanh bên hữu Phật 7 vòng, đảnh lễ nơi chân, rồi hiến dâng thức cúng dường. Lễ kính đã xong, lại thưa thỉnh rằng:

“- Bạch đức Thế Tôn! Chúng con nghe Như Lai diễn thuyết môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni nên đến đây xin thỉnh thọ và tùy thuận lời dạy mà thủ hộ. Cúi xin đấng Thiên Nhơn Sư vì chúng con mà nói các pháp yếu về thần chú này, để cho sự thọ trì của chúng con được thông suốt và thành tựu.”

Đức Phật bảo vua Diêm Ma La và các vị thiên vương:

“- Lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà giải thuyết:

* Nếu có chúng sanh nào bị khổ nạn, tội chướng cực nặng, không ai cứu hộ, nên chọn ngày trăng sáng, tắm gội, mặc y phục sạch sẽ, thọ bát quan trai giới, quỳ trước tượng Phật tụng đà ra ni này 1.080 biến thì tất cả tội nghiệp, chướng nạn đều tiêu diệt. Kẻ ấy sẽ được thanh tịnh giải thoát, được môn Tổng Trì Đà Ra Ni, biện tài vô ngại.

* Nếu kẻ nào tuy chưa trì tụng, mà chỉ nghe âm thanh của đà ra ni này lọt vào tai, tức liền thành hạt giống Phật. Ví như một chút kim cang rớt xuống đất, tất lần lượt xuyên lọt đến nơi bản tế mới dừng, đất tuy dày không thể làm trở ngại. Thần chú này cũng thế, khi đã lọt vào tai, liền huân tập khiến cho lần lần thành quả chánh giác, phiền não tuy nặng cũng không thể ngăn che. Dù kẻ ấy bị đọa vào cõi Địa Ngục, Ngạ quỉ, bàng sanh cũng không bị nghiệp báo làm cho hạt giống đó tiêu mất, mà còn nương sức thần chú lần lượt tiến tu cho đến khi thành Phật.

* Nếu chúng sanh nào một phen nghe được Đà Ra Ni này, qua kiếp hiện tại sẽ không còn bị các tật bịnh và các sự khổ não, cũng không còn thọ thân bào thai, tùy theo chỗ hóa sanh hiện nơi hoa sen. Từ đó về sau, ngũ nhãn lần lần thanh tịnh, được túc mạng trí, kiết sử tiêu trừ, sẽ chứng quả vô thượng đẳng giác.

* Nếu có kẻ nào mới chết, hoặc chết đã lâu, có người tụng 21 biến đà ra ni này vào một nắm đất hoặc cát, rải lên thi hài, kẻ ấy sẽ được sanh về 10 phương Tịnh Độ. Như người chết thần thức đã bị đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, bàng sanh, khi đất cát ấy dính vào hài cốt, cũng được thoát khỏi ác thú, sanh lên cõi trời.

* Nếu chúng sanh nào mỗi ngày tụng chú này 21 biến, ưng tiêu được sự cúng dường rộng lớn của tất cả thế gian, khi xả báo thân sẽ sanh về thế giới Cực Lạc, kẻ nào thường niệm tụng sẽ được tăng thọ mạng, hưởng sự vui thù thắng, tương lai sanh về 10 phương Tịnh Độ, nghe pháp mầu, được thọ ký, ánh sáng nơi thân chiếu tất cả cõi Phật, và chứng Đại Niết Bàn.

* Nếu muốn được oai lực tự tại, hành giả dùng các thứ bột như bột nếp, bột gạo v.v.. nắn thành hình người để 8 phương hướng nơi đàn tràng, ngày đêm đối tám phương mà tụng chú, tất cả sẽ được như ý.

* Nếu nước lụt dâng, hướng về phương đó tụng chân ngôn này 108 biến cầu nguyện, thì nước sẽ rút lui.

* Nếu bị nạn vua, nạn quan, nạn binh, nạn giặc cướp, nạn khẩu thiệt, tụng chú này 21 biến vào năm thứ nước thơm, đem rưới trên đảnh Phật, các nạn sẽ tiêu diệt.

* Nếu chúng sanh nào tướng mạng yểu, muốn cầu sống lâu, nên chọn ngày trăng sáng, trai giới, tắm gội, mặc y phục sạch, tụng chú này đủ 1.080 biến, sẽ được trường thọ, tất cả tội chướng đều trừ diệt.

* Nếu có người tụng chú này một biến vào lỗ tai của bất kỳ loài cầm thú nào, thì sanh loại ấy kiếp đó không còn thọ thân cầm thú, dù nó có nghiệp nặng sẽ bị đọa vào địa ngục, cũng được thoát ly.

* Nếu kẻ nào bị bịnh trầm trọng, chịu nhiều đau khổ, được nghe đà ra ni này, sẽ lìa bịnh khổ, tội chướng tiêu diệt. Cho đến các chúng sanh trong bốn loài nghe được chú này đều xả bịnh khổ, lìa thân bào thai, hóa sanh nơi hoa sen, tùy theo chỗ sanh, nhớ biết đời trước không quên mất.


* Nếu có chúng sanh nào vừa mới khôn lớn, đã tạo các thứ tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, cho đến lúc tuổi già, tự suy nghĩ biết mình do nghiệp ác này sau khi mãn phần sẽ đọa vào địa ngục A Tỳ, chịu sự khổ lớn trải qua nhiều kiếp, rồi xoay vần luân hồi trong 3 đường ác không ai cứu vớt. Người ấy nên chọn ngày rằm, tắm gội mặc y phục tinh khiết, dùng cái bát bằng vàng, bạc hoặc đồng, lượng chứa ước một thăng, đựng nước trong sạch để trước tượng Phật, thọ giới Bồ Tát, trì trai thanh tịnh. Nơi đàn tràng, mình đứng ở phương Đông hướng về tượng Phật ở phương Tây, đảnh lễ chí thành sám hối. Rồi tụng đà ra ni này 1.080 biến giữa chừng không gián đoạn, kế đó dùng nước ấy rưới bốn phương và trên dưới, nguyện cho tất cả đồng được thanh tịnh. Làm phép này xong, tất cả tội chướng đều được tiêu diệt, thoát khỏi nghiệp báo địa ngục tam đồ, vua Diêm Ma La buông tha, thần Tư Mạng vui đẹp, không sanh giận trách, trở lại chắp tay cung kính, tùy hỉ ngợi khen công đức.

* Nếu muốn cứu độ người tội nặng, nên chọn ngày rằm, tụng chú này vào mật hoặc sữa 1.080 biến, rồi cho người đó ăn. Làm như thế, đương nhơn sẽ tiêu trừ tội chướng sanh về cõi lành, lần lượt tiến tu, chứng quả vô thượng đẳng giác.

* Nếu tụng 21 biến chân ngôn này gia trì vào tăm xỉa răng, rồi đem dùng có thể trừ bịnh đau răng, được mạnh khỏe, thông minh, trường thọ.

* Nếu muốn cứu độ tội khổ của loài súc sanh, nên gia trì chú này vào cát hoặc đất vàng 21 biến, rồi rải trên mình chúng và bốn phương, tội chướng của chúng nó sẽ tiêu diệt.

* Nếu có chúng sanh nào muốn được phước đức đầy đủ, muốn cầu tài bảo xứng ý, muốn cứu hộ mình và người nên khởi lòng lành, mỗi ngày phát nguyện sám hối, đối trước tượng Phật, kiết ấn tụng chú này bảy biến, tâm không tán loạn, mắt nhìn tượng Phật không di động, rồi đem công đức ấy hồi thí cho tất cả chúng sanh. Tác pháp và có tâm lành như thế, quyết định sẽ được như nguyện, tăng phước lộc trong hiện tại, cho đến cả những đời sau.

* Nếu hành giả ở nơi đàn tràng mỗi ngày ba thời, mỗi thời tụng chú này 21 biến gia trì vào chén nước sạch, rồi dùng tâm trân trọng bưng chén nước uống. Làm như thế sẽ tiêu trừ các bệnh, sống lâu trăm tuổi, giải mọi oán kết, tiếng nói thanh diệu, biện tài thông suốt, mỗi đời thường được Túc Mạng Thông, nhớ biết tiền kiếp. Nếu đem chén nước ấy rưới trong phòng nhà, cho đến chỗ chuồng trâu, ngựa, thì nơi đó sẽ được oai lực của chân ngôn giữ gìn an ổn, trừ các nạn: la sát, rắn, rồng. Như đem chén nước ấy, miệng tụng chú rưới trên đảnh người bịnh và cho bịnh nhơn uống, các thứ bịnh nặng sẽ tiêu trừ.

* Nếu muốn tiêu trừ các tai chướng, nên dùng vải lụa vụn năm sắc, kết làm cây phất trần. Kế đó tụng chú nơi cây phất, quét bụi nơi tượng Phật và kinh. Thường làm như thế, chướng nạn của mình sẽ tiêu, mà tội nghiệp của chúng sanh cũng được trừ diệt.

* Nếu bị nhiều khẩu thiệt, tai tiếng phát khởi, nên dùng châu sa hòa với bạch mật, hoặc đường cát trắng, tụng chú vào đó 21 biến, rồi đem thoa vào môi 100 tượng Phật. Làm như thế khẩu thiệt, tai tiếng sẽ tiêu trừ.

* Nếu vợ chồng chán ghét nhau, muốn được hòa thuận, tụng chú vào vải hay lụa 21 biến, đem may áo cho chồng hoặc vợ mặc, làm như thế, vợ chồng sẽ hòa thuận.

* Nếu người nam hay nữ bị ma quỉ khuấy rối, hoặc phần âm yêu đắm, quyến luyến không tha, nên giữ chánh niệm vừa tụng chú vừa xoa khắp mình nạn nhân, kế đó lấy tay vỗ vào thân, ma quỉ liền bỏ chạy.

* Nếu người nữ không có ai đến cưới hỏi, nên dùng muối tốt sạch, tụng chú vào đó 108 biến, rồi đem cúng dường hiện tiền tăng, tất sẽ được như ý.

* Nếu chỗ ở có quỷ thần dữ khuấy rối, nên tụng chú vào thức ăn 21 biến rồi đem cúng thí cho ăn. Trong khi ấy lại nói: "Nay tôi cúng thí cho các vị, như không làm tổn hại chúng sanh thì tùy ý ở lại, nếu làm tổn hại thì phải mau đi nơi khác". Nếu quỷ thần hung hãn không nghe lời, nên dùng nọc sắt dài 12 ngón tay, tụng chú vào đó 21 biến rồi đem đóng xuống đất. Làm như thế, các quỷ thần dữ phải chạy ra khỏi địa giới.

* Nếu có bệnh nhân bị tinh mị dựa vào, kẻ cứu hộ nên nhìn chăm chú vào mặt người bịnh mà tụng đà ra ni này, tinh mị sẽ xuất ra.

* Nếu có quỷ La Sát hoặc các loài quỷ dữ vào quốc giới gây đau bịnh, làm khủng bố và não loạn dân chúng, nên xưng niệm Tam Bảo, ngày đêm tụng trì chú này, kiết ấn Phật Đảnh Tôn Thắng rải khắp bốn phương, thì các tai nạn đều tiêu diệt, làm như thế, cũng cứu được chúng sanh thọ khổ ở tam đồ.

* Nếu muốn thí nước cho loài ngạ quỷ, tụng chú này vào nước sạch 7 biến, rồi rải khắp 4 phương, tâm tưởng miệng nói, cầu cho chúng được thọ dụng, thì các ngạ quỷ sẽ được uống nước cam lộ.

* Nếu người nào buôn bán ế ẩm, muốn được khách hàng chiếu cố, thường kiết ấn tụng chú này 21 biến, an trí tượng Phật nơi chỗ tinh sạch kín đáo mà cúng dường, tất sẽ được như ý.

* Nếu người nào mỗi ngày 3 thời, mỗi thời tụng chú này 21 biến, cung kính cúng dường, chí tâm thọ trì, vì người khác giải nói, người ấy sẽ được an vui, sống lâu, không bịnh, phát sanh trí huệ được túc mạng thông, khi lâm chung như ve thoát xác, liền được sanh về thế giới Cực Lạc, tai không còn nghe tiếng địa ngục, huống chi bị sa đọa. Kẻ ấy sẽ tuần tự tiến trên đường đạo quả cho đến khi thành Phật.

Đức Phật bảo vua Diễm La và các vị thiên vương:

- Nếu chúng sanh nào muốn lập đàn trì đà ra ni này, nên dùng đất vàng trộn với nước thơm mà bôi trên mặt đàn, đàn tràng vuông vức mỗi bề rộng 4 cánh tay, dùng dây lụa năm sắc bao quanh 3 lớp, tụng chú vào hạt cải trắng, hoặc nước thơm rải bốn bên. Bốn góc đàn để bốn bình nước tinh sạch, các bình nước lượng lớn nhỏ đều phải đồng nhau. Giữa đàn rải các thứ hoa, đốt các thứ hương, thắp các đèn dầu có chất thơm. Trước tượng Phật, dùng những đồ đựng đẹp sạch, đựng các thức ăn như cơm trắng, nếp, sữa, đường, hoặc các thứ hoa quả cúng dường. Hành giả nên mặc y phục sạch, giữ giới bồ tát, không nên ăn các thứ ăn có sắc đen. Mỗi thời kiết ấn trì chú này 108 biến, nếu có thể 1.080 biến. Trì tụng như thế sẽ được tiêu các tội chướng, tăng trưởng phước đức căn lành, sanh về các cõi Tịnh Độ, và được thọ ký thành Phật.

Muốn kiết ấn Phật Đảnh Tôn Thắng nên chắp hai tay lại, hai ngón trỏ co vào lòng bàn tay, hai ngón cái áp vào lóng giữa ngón trỏ là ấn thành.

Khi kiết ấn này tụng chú 108 biến, tức là đã cúng dường thừa sự 88 cu chi hằng hà sa na do tha trăm ngàn chư Phật, được chư Phật khen ngợi, xưng là Phật tử.

Nếu người nào mỗi ngày kiết ấn, tụng chú này 108 biến sẽ được 10 phương chư Phật thọ ký, quyết định không còn nghi. Như mỗi ngày kiết ấn tụng được 1080 biến, kẻ ấy sẽ được thân kim cang bất hoại, mau thành đạo quả.

Hành giả nào mỗi ngày thường trì chú này, rồi kiết ấn đối 4 phương, mỗi phương tụng chú một biến, rải một lượt sẽ được tất cả thiên, long, quỷ thần cung kính ủng hộ, nhan sắc tươi đẹp, sự cần dùng tùy niệm sẽ được chư thần xui cho đem đến, phước đức vô lượng, công đức vô biên, chư Phật ngợi khen, tùy ý sanh về 10 phương Tịnh Độ.

Tóm lại, công lực của Tôn Thắng Đà Ra Ni vô cùng, có thể tùy nguyện ứng dụng, không thể tả xiết!

Đức Phật bảo thiên đế và đại chúng:

- Môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni đây trong thời mạt pháp nếu có hàng vua quan tứ chúng, y đúng pháp thức lập đàn thọ trì và cúng dường, đó gọi là tu Bố Thí độ. Khi lập đàn tu hành, giữ ba nghiệp thanh tịnh, không phiền não giận hờn, là trì giới độ và nhẫn nhục độ, mỗi ngày trì niệm không gián đoạn biếng trễ là tinh tấn độ. Chuyên y theo pháp tắc, một lòng không loạn là thiền định độ. Bố thí đàn tràng đúng pháp, thông hiểu phép thọ trì, khéo lượng chừng độ, biết việc nên làm hoặc không nên làm là Bát Nhã độ.

- Này Thiên Đế và đại chúng! Nếu y theo lời dạy mà kiến lập pháp sự, tức sẽ đầy đủ 6 pháp ba la mật. Các ông nên xoay vần khai thị, khiến cho chúng sanh được nhiều lợi ích, chứng quả bồ đề!

Khi đức Phật nói pháp môn này xong, thiên đế, Thiện Trụ và chư thiên lãnh giáo trở về thiên cung. Thiện Trụ thiên tử y theo lời dạy mà thọ trì mãn 7 ngày, dùng thiên nhãn quán sát, tự thấy tội báo của mình đều tiêu trừ, phuớc thọ ở cõi trời càng tăng thêm vô lượng. Ông vui mừng khấp khởi, cả tiếng khen ngợi rằng: "Kỳ diệu thay Phật Đà! Kỳ diệu thay Đạt Mạ! Kỳ diệu thay Tăng Già! Kỳ diệu thay sức chú ấn Phật Đảnh Tôn Thắng đà ra ni, hay trừ diệt tất cả khổ ách, khiến cho tôi thoát khỏi các ác báo như thế!"

Liền đó ông đến trình bạch lại việc ấy với Thiên Đế, thỉnh ngài cùng thiên chúng xuống cõi Diêm Phù tạ ơn Phật. Thiên Đế suất lãnh Thiện Trụ và hàng tùy thuộc, đem các thứ hương, hoa, phướn, lọng, y phục, và anh lạc quý đẹp, ngồi xe báu bay xuống vườn Thệ Đa Lâm, đảnh lễ cúng dường Phật. Hành lễ xong lại chắp tay, đi nhiễu quanh Như Lai trăm ngàn vòng, rồi đứng qua một bên, dùng các lời kệ ca ngợi công đức của đức Thế Tôn.

Bấy giờ đức Như Lai đưa cánh tay sắc vàng, xoa đầu Thiện Trụ thiên tử, dùng tiếng hòa nhã nói những lời pháp yếu và thọ cho bồ đề ký.

Thất thánh tài: lòng tin, giới hạnh, sự nghe pháp, hổ với bên ngoài, tự thẹn bên trong, xả bỏ, trí huệ.

 

Bát nạn:

 

1.     Địa ngục

2.     Ngạ quỷ

3.     Bàng sanh

4.     Câm ngọng, đui điếc

5.     Sanh trước Phật hay sau Phật (vào thời không có Phật pháp)

6.     Sanh Bắc Cu Lư Châu

7.     Sanh Vô Tưởng thiên

8.     Thế Trí Biện Thông.

 

PŪTANA (Phú Đơn Nadịch xú ngạ quỷ, thường làm bịnh nóng.

 

KATAPŪTANA (Ca Tra Phú Đơn Na) dịch là Kỳ xú quỉ, thường làm bịnh kêu khóc và   gây tai nạn.

 

Hai loài quỉ này thân hình rất xấu xa, hôi hám.

 


 

KINH

PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG

ĐÀ RA NI

 

PHẦN LƯU THÔNG

 

Đức Phật dạy rằng:

"-KINH NÀY TÊN LÀ:  TỊNH NHỨT THIẾT ÁC ĐẠO,  PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI. CÁC ÔNG NÊN THỌ TRÌ.” 

Thiên Đế và đại chúng vui mừng đảnh lễ, tín thọ phụng hành.

 

 

CHUNG

 

 

Phật-Đảnh Tôn-Thắng Đà-Ra-Ni

 

Nam-mô ba ga pha tê. Sạt hoa tát răn, lô ky da. Bơ ra di, vi ti sắc tra da. Bút đà da, ba ga pha tê. Tát đi da tha !

 

Um ! Bút rum, bút rum, bút rum. Suýt đà da, Suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Á sá ma, sá ma. Sa măn tá, phạ hoa sát. Sa phả ra na, ga ti, ga gạ na. Soa phạ hoa, vi suýt đi. Á vi chuân da, du măn. Sạt hoa tát thá ga đá. Sú ga da. Phạ ra, phạ ca nã. A mi rị tá, bi sá cu. Ma ha muýt đơ ra, măn đa ra, ba na.

Um ! Á hạ ra, á hạ ra. A du săn, đà ra ni. Suýt đà da, suýt đà da. Ga ga na, xoa phạ hoa, vi suýt đi. U sắc ni sá, vi ca da, vi suýt đi. Sá hạ sa ra, ra sa mi, săn tô ni tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa. A hoa lô ki ni. Sạt hoa tát thá ga đa, mát tê. Sá tra, bá ra mi tá. Ba rị, bủ ra ni. Na sá, bủ mi bơ ra, đi sắc si tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa, hất rị đà da. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê.

Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri. Hoa di ra, ca da. Săn hạ đa nã, vi suýt đi. Sá ra hoa, ca ma, phạ ra na, vi suýt đi. Ba ra, đu ri ca ti, bi ri, vi suýt đi. Bơ ra ti na, hoa ra đá da, a dục suýt đi. Sa ma dã, đi sắc sá na, đi sắc si tê.

Um ! Ma ni, ma ni, mạ hạ ma ni. Á ma ni, á ma ni. Vĩ ma ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni. Mát đi, mát đi, mạ hạ mát đi. Tát thá đá, bủ đa. Cu thi, vi ri suýt đi. Vĩ sa phổ ra, bút đi, vi suýt đi.

Um ! Hi hi. Dá ra, dá ra. Vĩ dá ra, vĩ dá ra. Sa ma ra, sa ma ra. Sa phạ ra, sa phạ ra. Sá ra phạ, bút đa. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê. Suýt đi, suýt đi. Họa di ri, họa di ri, mạ hạ họa di ri. Á họa di ri. Họa di ra, gạ bi. Dá ra, gạ bi. Vĩ da ra, gạ bi. Họa di ra, rít họa lã, gạ bi. Họa di rô, na ga tê. Họa di rô, na bà vê. Họa di ra, sam bà vê. Họa di rô, họa di rị na. Họa di rảm, hoa phạ, đô mạ mạ. Sá rị rảm, sá ra phạ, sát ta phạ năng. Tả ca da, bi ri, vi suýt đi. Sất da, hoa phạ, đô mi, sát na. Sá ra phạ, ga ti, bi rị suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đa, sất da mi. Sá ma, sa phạ, sát dăn tu. Sạt hoa, tát thá ga đa. Sá ma, sá phạ sa, đi sắc si tê.

Um ! Sất đi da, sất đi da. Bút đi da, bút đi da. Vi bút đi da, vi bút đi da. Bồ đà da, bồ đà da. Vi bồ đà da, vi bồ đà da. Mô ca da, mô ca da. Vi mô ca da, vi mô ca da. Suýt đà da, suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Sa măn tá, tát bi ri, mô ca da. Sa măn đá da, sa mi, bi ri suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà da. Đi sắc sá na, đi sắc si tê.

 

Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, mạ hạ muýt đơ ra. Mạn đà ra, bá na. Đi sắc si tê. Sóa ha .

 

LIÊN TỤC TRONG VÒNG 7 NGÀY , ĐỂ  TRỪ TẤT CẢ "KHẨU NGHIỆP" ĐỐI VỚI "CHA MẸ", CHƯ TĂNG...LẠI CŨNG ĐỐNG CỬA  TẤT CẢ "ÁC ĐẠO", MỞ ĐƯỜNG NHƠN, THIÊN, NIẾT BÀN CHO NHỨT THIẾT CHÚNG SANH. 

LÀM ĐƯỢC NHƯ VẬY, THÌ  CÓ THỂ  "TRUYỀN BÁ LƯU THÔNG" BỘ KINH NẦY KHẮP PHÁP GIỚI CHÚNG SANH.

 

 

 

LI SAU CÙNG


Môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni, đời Đường có quan thị ngự sử Võ Triệt thường trì tụng, sau nghe bạn đồng liêu là Tưởng Hình cũng thọ trì, nhưng văn cú và ngôn âm phần lớn đều sai khác; hỏi ra quan Thị Ngự Sử Tưởng Hình thọ học với ông Vương Khai Sĩ, và Vương Khai Sĩ lại được ngài Kim Cang Trí Tam Tạng truyền pháp. Trong khi truyền thọ ngài bảo:

"- Ở Tây Vức cũng ít có bản này. Ta đem theo Phạn bản đến đây, nên mật truyền lại cho ông".

Trong niên hiệu Khai Nguyên, có vị cư sĩ tinh tu ở non Ngũ Đài, người thường gọi là Vương Sơn Nhơn, cũng trì tụng chú này. Sau vì cầu siêu cho cha, ông tụng chú đến vài mươi muôn biến, cầu xin được biết nghiệp báo lành dữ và chỗ sanh của phụ thân. Nhưng kết cuộc không thấy chi, ông thối tâm muốn ra khỏi núi. Bỗng gặp một lão nhơn đón lại, bảo:

"Hiền giả tụng trì thật là cần mẫn, nhưng vì cách Phật lâu xa, văn cú thất lạc, thiếu sót nhiều. Nên không mau được ứng nghiệm. Nay gặp nhau đây, tôi xin truyền lại toàn bản của thần chú".

Vương Sơn Nhơn mời về đảnh lễ và thọ pháp. Lão nhơn dạy:

"Hiền giả tụng chú bản này độ một ngàn biến sẽ thấy hiệu lực!". 

Cư sĩ trì niệm y theo lời. Vài hôm sau lúc ban đêm, bỗng nghe tiếng ngọc hoàn bội khua thanh thao, giọng tiêu cầm dìu dặt, lần lần giáng xuống trước sân nhà, cư sĩ kinh lạ bước ra xem, thấy mấy mươi thiên nhơn vây quanh ủng hộ một vị thiên tiên tướng mạo siêu phàm đi đến. Vị thiên tiên hỏi:

"-Người biết ta chăng?" 

Cư sĩ thưa:

"-Kẻ dung phàm này mới được hân hạnh diện kiến!". 

Thiên tiên nói:

"-Ta là phụ thân của người, năm rồi người trì tụng Tôn Thắng đà ra ni, ta được nhờ phước lực sanh lên cõi trời. Mấy hôm nay, y phước lại tăng gấp bội hơn trước, ta được làm vua trong hàng thiên tiên. Bản chú ngươi vừa trì tụng công hiệu thật không thể nghĩ bàn!"

Nói xong, tất cả đồng bay về thượng giới, cư sĩ vui mừng, cúi lạy tiễn đưa. Từ đó về sau càng thêm tinh tấn.

Cũng vào thời đó, tại Đông Đô có ông Vương Thiếu Phủ tụng chú Tôn Thắng theo bản của ngài Phật Đà Ba Lỵ đã vài muôn biến, một đêm, ông mộng thấy vị Phạn tăng đi đến bảo: "Nhơn giả tụng niệm rất tinh thành, nhưng tiếc vì chú văn còn thiếu, nên công hiệu kém!"

Thiếu Phủ đảnh lễ cầu thỉnh bản chú văn đầy đủ. Phạm tăng từ bi chấp thuận, khẩu truyền từng câu chân ngôn. Sau khi đã thông thuộc tất cả, ông bái tạ đưa vị Phạm tăng ra khỏi cửa, nhìn qua trời sáng như ban ngày. Thiếu Phủ trở vào nhà thấy tôi tớ còn đang nằm ngủ. 

Vừa lúc ông chợt tỉnh giấc, vội gọi kẻ đồng bộc trách bảo trời đã sáng sao chưa thức dậy?

Chúng đáp rằng mới vừa nửa đêm. Lúc ấy ánh sáng bỗng tắt, trở lại đêm tối như cũ. Thiếu Phủ nhớ cơn thần mộng, lấy làm lạ, nhắm mắt tụng thần chú mấy biến thấy vẫn thông suốt. Từ đó, ông y theo khẩu truyền của vị Phạm tăng mà thọ trì.

Trong niên hiệu Thiên Bảo năm đầu, Thiếu Phủ đang nằm nơi tư thất, chợt tắt hơi. Vì nơi ngực còn ấm, người nhà không dám tẫn liệm. Đến 7 hôm sau, ông bỗng sống lại. Lúc ấy, kẻ háo sự trong thành bảo nhau đến hỏi về duyên cớ tái sanh. Tiếng đồn lan ra, Vưong Khai Sĩ và Vương Sơn Nhơn lúc ấy ở Đông Đô không quen biết nhau, cũng đồng đến thăm viếng. Trước mặt các quan khách, Vương Thiếu Phủ trần thuật như sau:

“- Tôi vừa nằm nghỉ, chợt hôn mê, thấy có 2 sứ giả đến dẫn đem đi. Được vài mươi dặm, đến một gốc đại thọ, 2 sứ giả dùng lại tạm nghỉ, tôi cũng ngồi xuống theo. Bỗng nhớ tới chú Tôn Thắng, tôi liền nhắm mắt tụng luôn 21 biến. Lúc mở mắt nhìn quanh, không thấy 2 sứ giả đâu cả.

Giây lát, có 4 vị khác đi đến quỳ thưa rằng: "Không biết ngài tu theo diệu pháp nào, khiến cho 2 sứ giả dẫn độ đều được sanh lên cõi trời?" Tôi đáp: "Tệ nhơn chỉ tụng Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni".

Bốn vị ấy cầu thỉnh:

"Xin ngài vì chúng đệ tử tụng trì, cứu vớt cho khỏi vòng khổ nạn!" Tôi cũng nhắm mắt tụng 21 biến, lúc mở mắt ra, lại không thấy bốn vị đó.

Khoảnh khắc giữa hư không, có tiếng binh đao, một vị thần mặc tử bào, mang giáp trụ, quân thị vệ đông đảo, đến trước quỳ thưa rằng: "Tôi là thần Ngũ Đạo Minh Ty, địa vị tuy tôn quý, nhưng vẫn còn nhiếp về thần đạo. Sáu vị kia nhờ pháp lực của ngài, đều được sanh lên cõi trời.

Xin mời ngài hạ cố đến tệ cư trì tụng, khiến cho đệ tử và chúng sanh nơi đó được nhờ phước ấm, đồng sanh lên thiên giới".

Theo vị thần, tôi đi đến một khu thành quách to rộng, chu vi ước độ vài mươi dặm. Trong thành có rất đông tội nhơn, mang gông xiềng họp lại nơi sân rộng trước cung điện, có lẽ đang chờ khảo tra xử phạt. Vị thần dạy quân bày tòa cao đẹp, làm lễ thỉnh tôi lên ngồi, còn chính mình quỳ nơi trước, phía dưới, chắp tay lắng nghe.

Tôi liền định tâm chí thành tụng đủ 49 biến, khi mở mắt ra nhìn bốn bề không thấy một ai cả, chỉ có gông xiềng đứt nát nằm ngổn ngang chung quanh. Còn đang kinh ngạc, bỗng có 4 sứ giả đến bảo tôi rằng:

"Đức vua dạy mời ông đi nơi khác, vì ông đã làm rối loạn, phá hư trật tự chốn minh ty của chúng tôi". Kế đó họ đưa tôi vào một hang núi, và tôi được hoàn hồn sống lại.

Sự tái sanh này chắc cũng nhờ oai lực không thể nghĩ bàn của Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni.”

Vương khai Sĩ và Vương Sơn Nhơn nghe nói, mỗi người đều đọc bản chú của mình để so sánh với bản chú của Vương Thiếu Phủ thì thấy đồng nhau như một bản. Cả ba đều vui mừng, cùng nhau khánh hạ. Vương sơn Nhơn nói:

"Bản của tôi thọ giáo nơi vị thánh công nơi non Ngũ Đài".

Vương Thiếu Phủ bảo:

"Tôi thọ học bản chú này với vị thần tăng".

Vương Khai Sĩ nói:

"Còn bản của tôi được thọ truyền bởi ngài Kim Cang Trí Tam Tạng, hiện Phạm văn bối diệp hiện còn lưu trữ". 

Ai nấy nghe nói đều kinh ngạc, khen là chuyện hy hữu.

Ngoài ra lại còn chuyện ông Trương Diệc trì chú Tôn Thắng cứu được cha mẹ khỏi khổ địa ngục, sanh lên cõi trời. Chuyện ông Trương Thừa Phước trì chú này khi bị minh ty đến bắt, đã không thọ khổ mà còn cứu vớt được tội nhơn ở cõi âm được siêu thoát. Truyện vài vị tăng trì chú Tôn Thắng cảm được xá lợi hiện và rất nhiều cảnh giới lành.

Những chuyện trên đây có ghi chép trong tập Gia Cú Linh Nghiệm Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni Ký. Sau tập này có chép bản văn đầy đủ của chú ấy, gọi là Cụ Túc Bản. Bút giả y theo Cụ Túc Bản so sánh với phiên âm của các bản khác, và tra cứu từ điển để dịch ra Việt ngữ cho đúng với Phạm âm.

Riêng bản dịch của Pháp-Thiên Tam-Tạng nhan đề: Tối-Thắng

Phật-Đảnh Đà-Ra-Ni so với Cụ túc Bản văn cú đã đồng lại có phần rộng hơn. Sau khi hiệu kiểm, bút giả lại ghi thêm vào những văn cú mà Cụ-túc-bản không có để được càng đầy đủ.

Mong rằng việc làm này, đem nhiều lợi ích cho người trì tụng.



MƯỜI CÔNG ĐỨC ẤN TỐNG KINH, TƯỢNG PHẬT

 

* Một là, những tội lỗi đã tạo từ trước, nhẹ thì được tiêu trừ, nặng thì chuyển thành nhẹ.

 

* Hai là, thường được các thiện thần ủng hộ, tránh được tất cả tai ương hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa, trộm cướp, đao binh, ngục tù.

 

* Ba là, vĩnh viễn tránh khỏi những quả bảo phiền khổ, oán cừu oan trái của đời trước cũng như đời này.

 

* Bốn là, các vị hộ pháp thiện thần thường gia hộ nên những loài dạ xoa ác quỷ, rắn độc hùm beo tránh xa không dám hãm hại.

 

* Năm là, tâm được an vui, ngày không gặp việc nguy khốn, đêm ngủ không thấy ác mộng. Diện mạo hiền sáng, mạnh khỏe an lành, việc làm thuận lợi, được kết qủa tốt.

 

* Sáu là, chí thành hộ pháp, tâm không cầu lợi, tự nhiên y thực đầy đủ, gia đình hòa thuận, phước lộc đời đời.

 

* Bảy là, lời nói việc làm trời người hoan hỷ, đến đâu cũng được mọi người kính mến ngợi khen.

 

* Tám là, ngu chuyển thành trí, bệnh lành mạnh khỏe, khốn nghèo chuyển thành thịnh đạt. Nhàm chán nữ thân, mệnh chung liền được nam thân.

 

* Chín là, vĩnh viễn xa lìa đường ác, sanh vào cõi thiện, tướng mạo đoan nghiêm, tâm trí siêu việt, phước lộc tròn đầy.

 

* Mười là, hay vì tất cả chúng sanh trồng các căn lành. Lấy tâm cầu của chúng sinh làm ruộng phước điền cho mình. Nhờ công đức ấy đạt được vô lượng phước quả thù thẳng. Sanh ra nơi nào cũng thường được thấy Phật, nghe Pháp, phước huệ rộng lớn, chứng đạt lục thông, sớm thành Phật quả.

 

ẤN QUANG TỔ SƯ DẠY :

 

Ấn tống Kinh, tượng Phật được công đức thù thắng như vậy, nên gặp khi chúc thọ, thành hôn, cầu phước, thoát nạn, sám hồi, cầu siêu trừ tật bịnh, cầu siêu độ hương linh, hay tinh tấn phát tâm Bồ Đề ấn tống, để trồng cội phước đức cho chính mình và thân bằng quyến thuộc.












































ẨN TU NGẪU VỊNH

 

HÒA THƯỢNG TÔN SƯ

Ngài Tam-Tng Pháp-Sư Thích Thin-Tâm, hiVô-Nht.

 

TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,

GIÓ LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.


Vào  đêm RM, ngày 15/5/1989 Âm lch (nhm ngày K DU, tháng CANH  NG, năm K T), sau thi khóa, HÒA THƯỢNG THÍCH THIN TÂM bng ngu cm viết luôn mt mch 108 BÀI VNH, mi bài 4 câu, trong y nói lược qua thi gian NHP THT tri qua, ly đ mc là  N TU NGU VNH. 



NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHT

 

 

        Kính thưa Quý-v !


Cách đây ít lâu, mt hôm tôi sang vn an sc khe thy tôi bo, đêm RM va ri sau thi khóa, THY bng ngu cm viết luôn mt mch 108 BÀI VNH, mi bài 4 câu, trong y nói lược qua thi gian NHP THT tri qua, ly đ mc là  N TU.

Sau đó, thy có chnh đn li đôi chút, nay nhân tin đc cho con nghe. Sau khi nghe xong, tôi xin phép ghi li và mun chuyn đc cho các pht t đến thăm nghe biết.

 

Thy dy: “ Điy không nên vì người tu trong mt lúc nào đó Tâm Thanh tnh, bng ny ra nhiu ý kiến cao siêu mi l nhưng phi lin gt b qua, nếu c ghi nh ý kiến hay y, tt Thành ra S TRI CHƯỚNG, bi Chân-Tâm là th VÔ TRI LINH TRI, tuy không biết mà biết tt c hoc ngay khi trong lúc tâm thanh tnh đó, hành gi có th viết ra c ngàn bài tng mt cách d dàng, song nếu chp ly danh t c ưa viết mãi trong TÔNG MÔN gi là thin bnh, gi li cnh gii người tu ch có người tu mi thu đáo.”

 

 Nên Thin Quyn có câu:

 

“Gp hàng kiếm khách nên trình kiếm,

chng phi thi nhân ch nói thi.”

 

Nếu con đc ra, s e k nói mt đng người nghĩ mt no, ri thành ra vic th phi mà thôi. Tôi thưa, con thy trong QUY NGUYÊN TRC CH ngài TÔNG BN khi n trong núi có vnh 100 bài thi gi là “SƠN CƯ BÁCH VNH” viy như thế nào?”

Thy tôi đáp:  So sánh sao được vi TÔNG BN ĐI SƯ, ngài là mt bc đi ng đã vượt con đường muôn dm v đến quê nhà, còn thy thì ch mi tp tnh đi mt vài bước. Ngài ví như người sáng mt thy toàn th con HƯƠNG TƯỢNG, còn thy ví như người mù r VOI, nói ra d lc lm.

 

Câu chuyn đến đó ri cũng tm trôi qua, tuy nhiên có 5 , 3 PHT T đến viếng thăm Than Th Đã lâu lm ri không gp mt HÒA THƯỢNG, li không nghe được li nhc nh,  trong tình thế đáng thương y, tôi có lén thy trích đc ra mt vài đon, đ an i h.

Nay gn ti ngày CHUNG THT ca THÂN MU bn sư, tôi li c gng mt ln th ba xin thưa thêm. Bch thy: Thy nói cuc đi ca thy là N TU, ít hôm na là đến ngày chung tht cũng là ngày cui cùng làm L TRUY TIN bà v cõi Pht, con xin phép đc my bài hôm trước cũng như thay li tâm s đ GIÁC LINH bà thông cm cnh đN TU ca thy.

 

Thy im lng ý không mun chp nhn, nhưng cũng không n Ph Nhn li xin ca hàng đ t đã vì thân mu mình.

 

Tôi nghĩ thy im lng tc là tùy ý tùy duyên, nên hôm nay là cơ cm đ thy có dp tâm s vi Mu-Thân mt ln sau rt. Và đây xin đc bài th nht.

 

Tỳ-kheo-ni thích n PHƯƠNG LIÊN

 

 

 

1.- n tu nào phi c xa đi !

Mượn cnh u-nhàn hc đo thôi !

Nhng thn riêng mình nhiu nghip chướng

Bn ân còn nng nghĩa đn bi.

 

NHƯ Ý : THT HIN đi-sư than, “ÁO NÃO T THÂN ĐA NGHIP CHƯỚNG.” Bun thương thân mình nhiu nghip chướng, đi-sư còn t trách thế, hàng hu hc cũng nên t kim li.


 

4  TRNG  ÂN 

 

1) Ân Pht t

2) Ân Thy bn, Thin tri thc

3) Ơn Cha m dưỡng dc Sanh Thành

4) Ân đàn-vit và Chúng sanh h tr



100. -n tu Tng-yếu Tnh môn mu

Bí quyết đng xa nghĩ ngi cu

Thanh tnh chí thành trong my đim

LC, HÀNH, NGUYN THIT vi TIN sâu.

 

NHƯ Ý : 3 Đim TÍN NGUYN HNH vi s CHÍ THÀNH tu trì là yếước ca môn Tnh-đ, Tuy nói ít song nếu dn ra, thì Rng-rãi Mu-nhim Vô-cùng.

 

Đo NHO bo:

 

“Phóng Chi Tc Di  Ư Lc Hip,

Quyn Chi Tc Thoái Tàng Ư Mt.”

(Buông ra thì Đy-c Đt-tri,

Thâu li mt Không-còn Hình-tướng.)

 

 

Ý ny đâu khác chi vi Đo-Pht.

 

Thưa các V,

 

Tám bài cui xin min ging gii, càng nói li càng Sai lm, SAI VI ĐO, bi vì đây cũng là Ý sau rt ca người TU, Bút-gi  hin chưa đi đến Đa-v ny như Chư Tăng Ni khác, vn mong s đc Ý trước khi VIÊN TCH. 

 

 101. -n tu nim nim bút sanh hoa

Thi-t ngun tâm mt mch ra

Danh-t v nguyên là Pht-nhãn

Non Tây rc r dt hng hà.

  

102. -n tu trc trc, li bình bình

Nim đt vô-tình ln hu tình

Lu tuyết rã tan ngàn thế gii

Chân tri pháp nhãn l bình-minh.

  

103. -n tu nim v chp pha-lê

Muôn n ngàn yên lng khp b !

Riêng mt bóng Tăng ngi tĩnh-ta

Lâm-viên va bt tiếng sơn khê.

 

104. -n tu sng-sng ci cây khô

Mt ngón Thiên Long, dt ý-đ

Pht t đến thăm như hi đo

A Di Đà Pht li NAM MÔ. 

 

105. -n tu nhơn cnh cht đu quên

Sáng-r vng-nga ri trước thm

Mùi đo Lan-thanh riêng t biết

Kêu mưa đã vng ging cưu đêm.

  

106. -n tu sui lng bóng chim qua

Chim nước đu như t ti hoà

Di Lc trao cho xem túi vi

Dưới trên đu rng, ging kha kha !!!

 

107. -n tu bên vin tiếng chuông dn!

Sm n Oai âm tnh mng hn

Chn nhy vào hang Sư t chúa

Sư-Vương li do dã h thôn.

 

108. -n tu trì nim tháng năm qua

Đp li Sen thanh tr li NHÀ

Tin-tc ngày nay va thy được

Tiếng chuông Sơn t bóng trăng tà !

 



Hòa Thượng THÍCH THIỀN TÂM

(1925-1992)


T CM

 


Sáu tám nh
c-nhn k xiết chi,
Thăng tr
m nhiu ni chí không di.
Mài giũa cho thành ra ng
c quý,
M
i hay châu n thit “Ma-ni”.
Mt nim công-thun hai bn chn,
Cõi tm kh-hi my k tri!
Kh
 đến, mèo kêu, ba chut chy,
Tr
n-duyên vĩnh dt, đon su bi.



Sáu tám năm qua vic đáng kinh,
Thăng-tr
m vùi-dp, lm tai-tinh.
Ch
ng qua mt gic mơ dài y,
Mà ki
ếp phù-sinh tm múa hình.
Hai bn năm ròng chuyên Nht-nim,
Di-Đà sáu ch phóng quang-minh.
Hôm qua tin-t
c tri TÂY báo,
GI
 MO MAI ĐÂY T TH TÌNH.



Đời ta chỉ gởi chốn Liên trì,
Trần thế vinh hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A Di.


TA ĐI ĐÂY – ĐẠI CHÚNG NÊN BẢO TRỌNG




Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng

TRÚC LIÊN BỔN THẤT

CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ

Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng






 TÂY PHƯƠNG NHỰT KHÓA


 

Chớ quản gió-sương sông-núi cách,

Hoa sen Bảo-Tích sắc hương-mầu.

 

 

 CHƯƠNG 1. LỜI PHI LỘ VÀ PHỤNG KHUYẾN

 

1. Thích ứng cả ba căn

2. Gồm tự-lực, tha lực

3. Giải thoát ngay trong hiện-kiếp

4. Hợp với thời-tiết, cơ-duyên

5. Luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay

6. Vài điều kết yếu

 

 

 CHƯƠNG 2NGHI THỨC MẬT TÔNG

 

1. Lễ bái sám hối

2. Trì chú niệm Phật

3. Phát nguyện hồi hướng

 

 

 

CHƯƠNG 1


LỜI PHI LỘ VÀ PHỤNG KHUYẾN


 

Hiện nay, Người tu Tịnh-độ càng ngày càng đông. Sở-dĩ như thế, bởi vì môn Niệm-Phật có những yếu-tố :

 

1) Thích ứng cả ba căn

2) Gồm tự-lực, tha lực

3) Giải thoát ngay trong hiện-kiếp

4) Hợp với thời-tiết, cơ-duyên

5) Luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay

6) Vài điều kết yếu

 

 

1.- NIỆM PHẬT THÍCH ỨNG CẢ BA CĂN

 

           Các pháp-môn khác, nếu như thấp thì bậc THƯỢNG CĂN chẳng thích tu, và nếu như cao tất các bậc TRUNG, HẠ CĂN không kham tu.

 

           Chẳng hạn như về THIỀN TÔNG, thì đạo-lý thật mầu-nhiệm cao-siêu, một niệm đi thẳng vào chân-tâm sáng-suốt, ứng-dụng tự-tại, vượt khỏi đầu sào trăm trượng, như Nhạn bay giữa thái-hư dấu-vết chẳng còn lưu.


(Nhạn quá trường không

Ảnh trầm hàn thủy

Nhạn vô di tích chi ý

Thủy vô lưu ảnh chi tâm.)

 

           Nhưng khúc điệu càng cao, người họa lại càng thêm thưa ít. Nếu chẳng phải bậc Huệ-căn gieo sẵn, chỉ e cho vẽ cọp không thành.  

 

Nên cổ-đức đã bảo:

 

Chẳng phải căn thượng-thượng,

Dè-dặt chớ khinh-truyền.”

 

(Phi thượng-thượng căn,

Thận vật kinh hứa ).

 

           Bởi nếu không phải là bậc THƯỢNG CĂN triệt-ngộ thiền-cơ thì chẳng thể nhập được ngay vào chân-không, mà phần nhiều lại lạc vào lối chấp thiên-không.  Rồi từ đó bác phá nhân-quả, sự tướng, tăng lòng ngã-mạn, cống-cao.

 

           Về điều nầy trong bài Chng Đo Ca, VĨNH GIA HUYỀN GIÁC thiền sư có nói:

 

"Nếu chấp cái không trống-rỗng,

rồi bác phá nhân-quả thì ương-họa lan-tràn !".

 

 (Hoát-đạt không, Bác nhân-quả,

 Mãng-mãng, đảng-đảng chiêu ương-họa !).

 

           Thật ra THIỀN TÔNG cần phải duy-trì và phục-hưng, cho chúng-sanh được độ-thoát an-vui, vườn hoa Phật-giáo thêm thắm-tươi đầy đủ màu-sắc hơn. Nếu có bậc tu THIỀN chân chánh làm lợi-ích cho mình và người, cũng đáng nên cúi đầu đảnh-lễ. Rất tiếc nhiều kẻ mới vào cửa mầu THIỀN học, liền chuộng những huyền-lý cao siêu, vội xem thường sự: Thờ cúng, Tu phước, Giữ giới, Sám hối, Tụng kinh, cho là hành-môn thấp nhỏ, chấp-trước sự-tướng.

 

Cảnh-trạng một kẻ mê đường dẫn nhiều người lạc lối, khiến cho ngay những bậc tôn-đức bên THIỀN trông thấy cũng thê-lương cho Phật-pháp, xót-dạ, đau lòng !

 

           Nếu huyễn-sắc tức là chân-không thì dù tham THIỀN, niệm PHẬT, tụng KINH, hay hành-trì tất-cả sự-tướng trong đạo-pháp, cũng đều là chân không.  Bậc liễu-đạt tùy-niệm ứng-dụng tự-tại không dính-mắc, như trái hồ-lô lăn tròn trên mặt nước, can chi mà phòng-ngại!

 

           Cho nên chư Cổ-đức bên THIỀN đã cảnh-giác: " THIỀN TÔNG nếu đi đúng tất mau chứng-quả BỒ ÐỀ, còn lạc lầm thì đọa vào địa-ngục như tên bắn !". Các Pháp-môn cao, với bậc THƯỢNG CĂN mới được sự lợi-ích thiết-thật LÀ NHƯ THẾ ẤY.

 

          Còn môn TỊNH ÐỘ thì thích ứng tất cả  ba căn-cơ: THƯỢNG, TRUNG, HẠ. Bậc THƯỢNG THƯỢNG căn như các ngài:  VĂN THÙ, PHỔ HIỀN, LONG THỌ, TRÍ GIẢ và các bậc cao-đức khác nữa xưa nay, phần nhiều đều tu về môn nầy.

 

           Như trong kinh HOA NGHIÊM, THIỆN TÀI đồng-tử khi đi tham-phỏng bậc tri-thức đầu tiên là ÐỨC VÂN BỒ TÁT, ngài ÐỨC VÂN đã đem môn NIỆM PHẬT TAM MUỘI mà truyền dạy. Ðến lúc cuối cùng, PHỔ HIỀN đại sĩ cũng nói MƯỜI ÐẠI NGUYỆN vương, khuyên THIỆN TÀI và chư-vị Bồ-tát trong Hoa-tạng Hải-hội niệm Phật hồi-hướng về CỰC LẠC. Do đấy, nên bảo niệm PHẬT là pháp-môn thấp kém, chỉ để cho hạng tầm-thường, ngu-dốt tu, là quan-niệm rất sai lầm!

 

           Ðến như bậc hạ-căn, thì trong TỊNH ÐỘ THÁNH HIỀN LỤC đã ghi chép các sự-tích. Kẻ ngu-muội dốt-nát, phá-giới phạm-trai, nghèo khổ tật-nguyền, cho đến loài chim theo lời người dạy xưng danh-hiệu Phật, biết hồi-tâm sám-hối, trì-niệm chuyên-thành, đều được nguyện lực của PHẬT nhiếp-thọ, tiếp-dẫn sanh về Cực-lạc. Cho nên một bậc danh-đức xưa đã khen  môn Tịnh-độ là:

 

“Bảo-phiệt ra khỏi Ta-bà,

Huyền-môn để thành Phật-đạo”.

 

(Xuất Ta-bà chi bảo-phiệt,

Thành Phật-đạo chi huyền-môn).

 

Cũng  trong ý đó, Ấn-Quang Ðại-sư có câu đối :

 

“Bỏ đường tắt Tây-phương, chín giới chúng-sanh,

trên khó thể viên-thành quả-giác.

Lìa cửa mầu Tịnh-độ, mười phương chư PHẬT,

dưới không toàn độ thoát loài-mê”.

 

Nói theo kinh:

 

“Pháp-môn  niệm-Phật,

Quả thật như chiếc lưới báu cực to,

Có thể vớt tất-cả các loài cá lớn nhỏ trong tam-giới,

Đưa lên bờ Niết-bàn vậy”.

 

 

2. - NIỆM PHẬT GỒM TỰ LỰC VÀ THA LỰC

 

           Trừ hai pháp-môn TỊNH ÐỘ và MẬT TÔNG, các pháp-môn khác đều nương vào nơi TỰ LỰC, tức là sức tu của chính mình, để cầu giải-thoát. Luận riêng về TỊNH ÐỘ, thì môn nầy gồm cả "Tự-lực" và "Tha-lực". Tự-lực là sức trì-niệm của riêng mình; Tha-lực là sức nhiếp-thọ hộ-niệm trong hiện-tại và sự tiếp-dẫn vãng-sanh của PHẬT khi lâm-chung.

           Có người bảo người Tu môn niệm PHẬT là hèn-yếu, chỉ ỷ-lại vào tha-lực, cũng  là quan-niệm cạn-cợt, sai-lầm.

           Hành-giả Tịnh-độ Thân lễ-kính PHẬT, Miệng xưng danh PHẬT, Ý chuyên tưởng PHẬT,  nhiếp-tâm từ LOẠN vào ÐỊNH, cho đến cả khi ÐI, ÐỨNG, NẰM, NGỒI. Vận-dụng cả ba nghiệp để hành-trì, cố-gắng hết sức mình, đó là chứng-minh thực-tế và hiển-nhiên về Tự-lực.

           Như thế, tại sao lại bảo rằng niệm PHẬT là hèn-yếu, chỉ ỷ lại vào tha-lực ?

           Cho nên, niệm PHẬT chính là đem hết tự-lực của mình để cảm thông với tha-lực của PHẬT, cứu-cánh là dung-hòa TỰ với THA, TÂM và PHẬT, đi sâu vào CHÁNH ức NIỆM Tam-muội.  Bước đầu tiên khi đã có sự cảm thông, thì hành-giả sẽ được Phật phóng quang-minh thường-trụ nơi đảnh nhiếp-thọ, hiện-tiền tiêu-trừ tội-chướng tai bịnh, phước-huệ lần-lần tăng, khi mãn-phần lại được tiếp-dẫn sanh về Cực-lạc.

           Sỡ-dĩ người xưa nay khi đề-cập đến môn Tịnh-độ, phần nhiều nhấn-mạnh về Tha-lực, đó là hàm-ý chú-trọng sự tiếp-độ đến chỗ giải thoát. Vì nếu không được sức Phật nhiếp-thọ tiếp-dẫn, thì đạo lực tầm-thường của hành-giả không thể sanh về cõi Cực-lạc cách đây mười muôn ức Phật độ.

Bởi dù cho đạo lực của lục-thông La-Hán, cũng chỉ ở phạm-vi thấy biết, dạo đi trong cõi Tam-thiên đại-thiên, thuộc thế giới Ta-bà nầy mà thôi.  Và khi còn hoặc-nghiệp mà không được tiếp-dẫn vãng-sanh Cực-lạc, bước lên cảnh-giới Bất thối-chuyển, nương nơi thắng-duyên của cõi ấy mà tiến-tu, tất phải tùy nghiệp chịu cảnh luân-hồi, không biết chừng nào mới được giải-thoát !

           Vì sự vãng-sanh có điểm rất quan-hệ như vậy, nên Tha-lực của Tịnh-độ được chú-trọng nhiều, khiến cho kẻ nông-cạn vội nhận lầm là môn nầy chỉ ỷ-lại vào nơi Tha-lực, không cần tự lực.

 

           Ðến đây, thấy nên giải-thích thêm vài ba nghi-vấn. Có kẻ nói:

 

“Bậc Bồ-tát chứng vô-sanh nhẫn đã dứt hoặc-nghiệp, thoát khỏi luân-hồi, cần chi phải cầu về Cực-lạc ? Và  các vị ấy có thần thông đi đến vô-lượng thế-giới, lại cần chi niệm Phật để cầu sự tiếp-dẫn ?”

          

Xin đáp, theo kinh nói:

 

"Sự cất chân lên để bước xuống của PHẬT, bậc Ðẳng-Giác Bồ-tát còn không hiểu-thấu, huống chi hàng Thập-địa Bồ-Tát ! Các vị ấy tuy dứt kiến tư và trần-sa hoặc, song Vô-minh hoặc hãy còn, nên cần phải gần-gũi PHẬT để học đạo-pháp thành PHẬT. Thật ra, chư đại Bồ-tát có hai việc: Trên cầu về mười phương Tịnh-độ để học vô-lượng pháp-môn của Như-Lai, Dưới hiện thân khắp mười phương uế độ để giáo-hóa các loài hàm-thức.

           Pháp-thân của chư vị thường-trú, tuy ở cõi Tịnh mà không lìa cõi uế, và dù ở uế-độ vẫn không rời khỏi Tịnh-độ. Còn việc Bồ-tát niệm Phật để cầu tiếp-dẫn, ví như một học-giả đến viếng bậc Thầy của mình, tuy có thể tự-tại đi vào nhà, nhưng theo lễ phải xin phép.  Và vị Thầy đúng theo tâm-niệm dìu-dắt hàng hậu-lai, cũng vui vẻ tiếp đón. Việc như Bồ-tát muốn về Cực-lạc, niệm hồng-danh Phật để cần-cầu, và Đức Phật tùy bản-nguyện, đến tiếp dẫn cũng lại như thế.

           Nhưng Sự tiếp-dẫn của Phật tùy-niệm ứng-hiện, trong một sát na có thể đồng-thời đến vô-biên thế-giới ở mười phương, tiếp-dẫn số chúng-sanh như vi-trần, như gương trăng sáng hiện bóng khắp các điểm nước, sông, hồ, đâu có tướng đến đi và đâu có chi nhọc-mệt mà phòng-ngại!”.   

 

  

3.- NIỆM PHẬT GIẢI THOÁT NGAY TRONG HIỆN KIẾP

 

           Với các pháp-môn khác, hành-giả phải dứt trừ hết hoặc-nghiệp mới vượt sự sống-chết, luân-hồi. Riêng môn Tịnh-độ, dù cho hoặc-chướng hãy còn, vẫn có thể hiện-đời nương nơi nguyện-lực của PHẬT, đới-nghiệp vãng-sanh, tiến thẳng lên bờ giải-thoát. Về điểm nầy, trong bức thư phúc-đáp cho TỊNH TU pháp sư, ngài ẤN QUANG đã nói như sau:

 

"Có hai đường tiến đến chổ giải-thoát là: THÁNH ÐẠO và VÃNG SANH.

 

            Về THÁNH ÐẠO, tức đường tu chứng lên quả THÁNH không chi thẳng tắt mau lẹ hơn môn "Trực-chỉ thiền".  Nhưng tu Thiền giữa thời buổi nầy, trong hiện đời chưa dễ gì ngộ-đạo, huống chi là chứng-đạo ư?

           Nếu như không chứng quả, trong mười người tu đã lạc-lối hết tám chin, bởi khi luân hồi sẽ bị nhiều chướng-duyên làm cho thối-chuyển, dễ mê-muội túc-căn. Tu Thiền, nếu chứng được sơ-quả Tu đà-hoàn, tuy còn 7 lần sanh lên cõi Trời, 7 phen trở lại nhơn-gian, nhưng sẽ không lo thối-chuyển.  Khi chứng đến quả A LA HÁN, mới dứt hẳn luân-hồi.

           Ngoài ra, thì không nhứt-định, có kẻ đời hiện-tại tu-hành rất tốt, kiếp sau được hưởng phước, say đắm theo dục-lạc, tạo nghiệp ác rồi bị đọa vào địa-ngục. Dù cho năm ba đời giữ được thiện-căn, không tạo nghiệp ác, song ai có thể bảo-đảm những kiếp về sau lại chẳng gây nghiệp rồi bị đọa tam-đồ!

           Chẳng nói đâu xa, ngay trong đời hiện-tại, rất nhiều hành-giả trước siêng-năng, sau biếng-trễ, đạo-tâm dần-dà thối-chuyển, đến nỗi có kẻ phải hoàn tục. Những đời về sau, theo đà mạt-kiếp, Phật-pháp lần suy kém, bậc thiện tri-thức rất khó tìm, sự giải-thoát lại còn xa hơn nữa!

          

            Riêng có đường lối VÃNG SANH, là niệm PHẬT cầu về Tịnh-độ, thì dù cho hoặc-chướng hãy còn, vẫn có thể nương theo nguyện-lực tiếp-dẫn của đức A DI ÐÀ, vượt ngang ba cõi, đới-nghiệp thẳng sang Cực-lạc. Thật ra, cũng như bên Thiền, giữa thời Mạt-pháp nầy, người tu Tịnh-độ đến cảnh-giới "SỰ nhứt-tâm bất-loạn" rất là ít có, huống chi là cảnh "LÝ nhứt tâm", và đi sâu vào " Niệm-Phật Tam-muội"!

           Nhưng nếu thuở bình-nhựt chuyên trì-niệm, khi lâm-chung, chủng-tử của câu hồng-danh đã huân-tập từ lâu phát-hiện, liền khiến cho tạm-thời được nhứt-tâm. Lúc ấy chỉ cần gia thêm ý-niệm tha-thiết, rủ sạch trần-duyên  hướng về Liên-Quốc, quyết-định sẽ được sự cảm-thông tiếp-dẫn.

Khi đã về đến cõi ấy rồi, trên có PHẬT, Bồ-tát, dưới là các hàng Thượng thiện-nhơn, nước chảy, chim kêu, nói ra pháp-diệu, không còn bị các duyên ăn, mặc, ở và sanh-kế  (y, thực, trụ, hành) làm vướng-bận, sống lâu vô-lượng kiếp, lo chi đạo-quả không thành!  Pháp-sư đã hỏi, tôi chỉ y theo chỗ thấy hiểu của cổ-đức và căn-cứ nơi Phật-lý mà giải-đáp, "XIN SUY GẨM KỸ RỒI TÙY TÂM LỰA CHỌN ..."

           Lời trên đây của Ðại-sư, đã vạch rõ chỗ ổn-đáng và khó bảo đảm trên đường giải-thoát của thời nay, giữa TỊNH cùng THIỀN.

 

 

4.- NIỆM PHẬT HỢP THỜI TIẾT, CƠ DUYÊN

 

           Trong thời Chánh-pháp và Tượng-pháp, con người phần nhiều nghiệp nhẹ, tâm thuần, hoàn-cảnh sinh-hoạt giữa xã-hội lại đơn-giản, có thể tu các pháp-môn về Thánh-đạo. Thời ấy, Thiền-tông đặc-biệt hưng-thạnh, hành-giả căn-cơ sáng lẹ, thấy non xanh hoa-nở, nghe gió thổi suối reo đều có thể ngộ-đạo. 

Nhưng từ thời mạt-pháp về sau, nhơn tâm khác xưa, sự sinh-hoạt, tổ-chức giữa xã-hội lần-lần phức-tạp, căn-cơ người tu phần nhiều  là bậc Trung, Hạ.  Cho nên muốn bảo-đảm sự giải-thoát, cần phải hướng về pháp hợp với thời-tiết, cơ duyên là MÔN NIỆM PHẬT. Về điều nầy, xin dẫn những chứng-liệu như sau:

 

Trong kinh "ÐẠI TẬP NGUYỆT TẠNG", đức Thích Tôn đã lời huyền-ký: "THỜI MẠT PHÁP, ỨC ỨC KẺ TU HÀNH, SONG ÍT CÓ NGƯỜI ÐẮC ÐẠO, CHỈ NƯƠNG THEO PHÁP MÔN NIỆM PHẬT MÀ THOÁT KHỎI LUÂN HỒI." (Mạt-pháp, ức-ức nhơn tu-hành, hản nhứt đắc-đạo.  Duy y niệm-Phật, đắc độ sanh-tử).

 

Nơi kinh "VÔ LƯỢNG THỌ", Phật cũng bảo: "TRONG ÐỜI TƯƠNG LAI, KHI KINH ÐẠO DIỆT HẾT, TA DÙNG SỨC TỪ BI, THƯƠNG XÓT, RIÊNG LƯU TRỤ KINH NẦY MỘT TRĂM NĂM.  CHÚNG SANH NÀO GẶP KINH NẦY, TÙY THEO SỞ NGUYỆN, ĐỀU CÓ THỂ ÐẮC ÐỘ."(Ðương-lai chi thế, kinh đạo diệt-tận, ngã dĩ từ-bi ai-mẫn, đặc lưu trữ kinh, chỉ trụ bá tuế.  Kỳ hữu chúng-sanh, trị tư kinh giã, tùy-ý sở-nguyện, giai-khả đắc-độ)

 Ðức Như-lai là bậc trí-huệ rộng sâu, vì sao chẳng lưu lại các pháp kia, mà chỉ lưu môn Tịnh-độ ? Ðó là thâm-ý PHẬT đã chỉ rõ : "THỜI MẠT PHÁP VỀ SAU, ÐƯỜNG TU HỢP VỚI CƠ DUYÊN CHÚNG SANH, CHỈ LÀ MÔN TỊNH ÐỘ”.

 

Nơi đoạn Minh-Giáo của AN LẠC TẬP, Ðạo-Xước Thiền-sư có lời bình-luận : NẾU GIÁO PHÁP HỢP VỚI THỜI CƠ, THÌ DỄ TU, DỄ NGỘ. NHƯ GIÁO PHÁP TRÁI THỜI CƠ, TẤT KHÓ TU, KHÓ NHẬP. Nên Kinh Chánh-Pháp Niệm nói: " HÀNH GIẢ KHI NHỨT TÂM CẦU ÐẠO, PHẢI QUAN SÁT VỀ PHƯƠNG TIỆN THỜI CƠ, NẾU TRÁI VỚI PHƯƠNG TIỆN ÐÓ, TẤT BỊ THẤT LỢI”. Tại sao thế ?

Như cọ gỗ ướt để tìm lửa thì không thể được, vì trái thời. Và như bẻ cây khô để tìm nước, cũng chẳng thể có, vì không trí-huệ. Ðức Như-lai đã phân-định năm thời kiên-cố sau khi Ngài nhập-diệt, mỗi thời là năm trăm năm.  Trong các thời Chánh-pháp và Thiền-định Kiên-cố, hành-giả nên chọn Thánh-đạo, tu Ðịnh-huệ làm phần chánh, cầu Tịnh-độ làm phụ”.

Từ cuối thời Ða-văn kiên-cố bước sang thời Tháp-tự và Ðấu-tranh kiên-cố về sau, nên lấy Tịnh-độ làm phần chánh, tu Thánh-đạo làm phụ".

 

           Ngoài những chứng-liệu trên, còn lời huyền-ký của bậc chơn-tu đắc đạo là Thiên-Như Thiền-sư, cùng những điểm nhận-định và biện-chứng của các bậc danh-đức xưa nay. Trong phạm-vi khái-ước nầy không thể nêu ra hết được. Bên Trung-Hoa từ cuối đời nhà Tống về sau, các bậc Tôn-đức quan-sát rõ thời-cơ, đều chuyển lần từ Thiền trở sang xiển-dương Tịnh-độ.  Tuy nhiên vì Thiền tông lưu-hành hưng-thịnh từ lâu thành phong-thái, nên thường có sự tranh-đua giữa TỊNH VÀ THIỀN.

Song, đó chỉ là Kiến-chấp của một số người chưa Quán-triệt Phật-lý cùng Thời-cơ, còn các bậc cao Tăng đã Liễu-đạt, thì chỉ tùy-duyên mà duy hộ chánh-pháp, tuyệt không có tâm-niệm phân-biệt đây kia. Cứ trung-thật mà luận, chúng hữu-tình có nhiều tâm-bệnh cùng sở-nguyện, riêng một môn Tịnh-độ vẫn không thể phổ-cập và thích-ứng để hoằng dương chánh-pháp, lợi-ích quần-sanh,  nên rất cần sự có mặt của các pháp-môn.

Theo thiển-ý, trong thời Mạt-pháp, hành-giả các tông-khác, tuy hoằng-truyền bản-môn, nhưng cũng nên nghiên-cứu Tịnh tông và quy-hướng về lối vãng-sanh để bảo-đảm cho sự giải-thoát, như chư Tôn-đức bên Tông Tào-động, ngoài hoằng Thiền trong kiêm tu Tịnh khi xưa. Và người tu Tịnh-độ cũng cần học-hỏi các TÔNG khác, để thêm tiến-ích cho đường hành-đạo của mình, bởi mỗi TÔNG như những đóa-hoa, đều sáng tươi riêng phần đặc-sắc. Lời dẫn-luận trên, chỉ y theo quan điểm từ-mẫn lợi sanh của PHẬT và chư Cổ-đức, nêu ra một đường lối tu-tập thích-ứng với thời-tiết và cơ duyên mà thôi.

 

           Ở Trung-Hoa vào thời cận đại, có phong-trào chấn-hưng Phật-giáo do một số danh-tăng và Phật-tử trung-kiên cổ-xúy. Quán-sát hành-vi lúc sanh-thời và khi lâm-chung của ít người trong nhóm đó, những biểu-tượng mà thường nhơn không thể có được, nhiều nhà học Phật quả-quyết đó là các bậc Bồ-tát tái-lai để duy hộ  chánh-pháp. Trong hạng các người phi-thường ấy :

 

Đế-Nhàn pháp-sư  giảng-kinh khắp nơi, chấn-hưng về Thiên-Thai tông

 

Hư-Vân Thượng-nhơn tu chỉnh các danh-lam, thánh-tích của Phật-giáo, chấn-hưng về Thiền tông.

 

Ấn-Quang đại-sư  dùng thơ-tín, kinh, tượng độ vô-số người, chấn-hưng về Tịnh-độ tông.

 

Hoằng-Nhứt đại-sư  nghiêm giữ giới-hạnh, soạn thành bộ "Nam-Sơn Luật Uyển Tông-thư, chấn-hưng về luật tông.

 

Thái-Hư đại-sư  vận-động cuộc canh-tân Phật-giáo, chấn-hưng về Duy-thức tông.

 

Kim-Cang Thượng-sư  Hô-Ðồ Khắc-Ðồ Tây-Khang đến truyền-dương về Mật-tông.

 

Đến như cư sĩ  Dương-Nhân-Sơn trọn đời thành-lập Bang, Hội sưu-tầm và ảnh ấn các tượng Phật, Bồ-Tát và "Tam-tạng kinh-điển", để cho chánh-pháp khỏi bị sớm hủy-diệt  về sau.

          

Riêng ngài ẤN QUANG đã đem sự vãng-sanh lúc lâm-chung, chứng-minh cho lời nói và hành-động buổi bình-thời, thì không cần bàn luận.

Còn Đế-Nhàn pháp-sư  tuy hoằng dương kinh Pháp-Hoa, truyền dạy môn Tam-Quán, nhưng lúc lâm-chung vẫn theo gót đấng khai-tổ bản-tông là Thiên-Thai Trí-Giả, niệm Phật sanh về Cực-lạc.

Hư-Vân Thượng-nhơn tuy thị-hiện ngộ-đạo, làm mô-phạm hướng-dẫn hành-giả  tu Thiền, song khi gặp hoàn-cảnh, cơ-duyên cũng khuyên người niệm-Phật.

Hoằng-Nhất đại-sư  lưu lại bút-tích "Bi-Hân Giao-Tập", lúc lâm-chung  khi thấy Tây-phương Tam-Thánh đến rước.

Thái-Hư đại-sư  hoằng dương Duy-Thức, song hằng khen-ngợi mười phương Tịnh-độ, nhưng vì không muốn trái với ứng-tích của đấng khai-tổ là Di-lặc Bồ-tát, nên hồi-hướng cầu sanh Ðâu-Suất Tịnh-Độ.

Thượng-sư Hô-Ðồ Khắc-Ðồ tuy-truyền pháp "Thánh cứu-độ Phật mẫu", gồm 21 Độ Mẫu, hóa-thân của đức Quán-Âm để cứu nạn tai thời mạt-kiếp, song cũng khuyên hàng đệ-tử đem công-đức trì-niệm hồi-hướng về Cực-lạc.

Dương-Nhân Sơn cư-sĩ lúc mãn phần, ngồi chắp tay nói với các hàng đạo-hữu:  "Bản-nguyện của tôi cùng bản nguyện đức A-Di-Ðà dung-hợp nhau" , rồi niệm Phật mà hóa.

 

Có phải chăng các bậc danh-đức trên đây, tuy mỗi người làm một Phật-sự, song đã dùng bản thân, hoặc lời nói mà ngầm khuyên các hành giả chú trọng về sự giải-thoát, vãng sanh.

 

 

5.- LUẬN VỀ NGƯỜI VÀ CẢNH THỜI NAY

 

Nói-chung trên phương-diện hoằng-dương đạo-pháp, mỗi Tông đều phát-huy  những đặc-điểm của mình, để người học Phật tùy sở-thích mà thu-nhập. Nhưng bình-tâm thử-nghiệm xét, lúc nầy là thời buổi nào ?

 

           Thời nầy LUẬN VỀ NGƯỜI, thì chúng sanh phần nhiều đều nặng nghiệp. Bên Trung-Hoa, khoảng cuối đời nhà Thanh bước sang thời Dân-quốc, Cư-sĩ Cao-Hạt-Niên khi hỏi đạo nơi các danh-lam, gặp một vị cao-tăng ẩn-tu bảo:  

“Thời nay, trong 100 kẻ ác, mới có một người thiện. Trong 100 kẻ thiện, mới có một người hướng về đạo. Trong 100 kẻ hướng về đạo, mới có một người giữ vững tâm-nguyện, không thối-chuyển trên bước đường tu-hành.”

 

Thuở-xưa , trong lúc phú-pháp cho Huệ-Khả Ðại-sư, Tổ Ðạt-Ma có dạy:

“Khoảng 200 năm về sau, người học LÝ thì nhiều, song ngộ LÝ rất ít. Người nói Lý thì nhiều, song hành LÝ rất ít. Người hành LÝ hoặc nhiều, song chứng LÝ rất ít. Nên ý-thức, chỉ riêng bước đầu là phần học Phật-lý, nhiều kẻ nếu chẳng vướng về chấp CÓ, giữ chặt lấy SỰ TƯỚNG, thì cũng lạc vào chấp KHÔNG, bài-bác nhân-quả! Mấy ai là bậc hiểu sâu Phật thừa, liễu ngộ DIỆU HỮU TỨC CHƠN KHÔNG, CHƠN KHÔNG TỨC DIỆU HỮU ? Cư-sĩ tuy mộ-đạo, song dè-dặt đừng sa vào kiến-chấp đó”. 

 

Cao Hạt-Niên cư-sĩ có hỏi đến chỗ tiến chứng của nhiều bậc Trưởng-lão. Tất-cả đều khiêm-nhường Svà thành-thật trình-bày, đại-khái như: Nghiệp-chướng nặng, Còn nhiều tán-loạn, hôn-trầm, Giới-hạnh và oai-nghi kém-khuyết, Bước tu chưa đạt đến thật-địa…Khi cư-sĩ đề-cập đến những kẻ xưng mình đã chứng-ngộ, thì các vị ấy đều cảnh-giác:

“Theo kinh Lăng-Nghiêm, đức PHẬT có huyền-ký : Gần thì thập-thế 1000 năm (mỗi thế có 100 năm), xa thì bách-sanh 3000 năm  (mỗi sanh có 30 năm), có rất nhiều ma ngoại ám-nhập người tu, hoặc ẩn-bóng trong chánh-pháp. Thời buổi nầy, nếu có ai tự-xưng đã chứng-ngộ, hoặc bảo rằng mình là PHẬT, TỔ hiện-thân, đó đích-thị là hàng ma ngoại”. 

 

Những điều trình-thuật trên đây, cho chúng ta thấy CON NGƯỜI THỜI NAY HOẶC NGHIỆP và MA CHƯỚNG QUÁ NHIỀU !

 

LUẬN VỀ CẢNH, thì những tai-nạn : Ðộng đất, núi lở, bảo-lụt, trộm-cướp, chiến-tranh, lửa cháy, hạn-hán, mưa nắng trái thời, sâu trùng phá-hoại,  dịch-chướng lan-tràn, đã diễn ra ở nhiều nơi. Nhìn đến tương-lai, trận thế-chiến thứ ba chắc đâu tránh khỏi ! Các phái Tiên đều bảo buổi nầy là thời mạt-kiếp, có sự thanh-lọc rộng-lớn. Ðạo Chúa nói sẽ có tận-thế trước năm hai ngàn.

Còn riêng bên đạo Phật, khi HƯ VÂN thiền-sư xuất-thần lên cung trời Ðâu-xuất, được nghe DI LẶC Bồ-tát nói pháp-môn Duy-Tâm thức định. Nơi đoạn kết-thúc, Bồ-tát đọc bài kệ dài, trong ấy có mấy câu:


“Kiếp-nghiệp đương đầu.

Cảnh-tích phổ-giác.

Khổ-hải từ-hàng.

Vô-linh thối-khước”.

 

Ðại-ý của đức DI LẶC bảo, ở trần-giới tam tai tiểu-kiếp đã bắt đầu, gồm các nạn:  Ðói-khát, tật-dịch và chiến-tranh.  Bồ-tát khuyên thiền-sư và những hành-giả đạo Phật, nên làm chiếc thuyền từ trong biển khổ, nhắc-nhở chúng-sanh thức-tỉnh trước các tai-nạn ấy, mà gắng lo tu-hành, đừng để thối-chuyển ... Nói khái-quát, đi sâu vào thời mạt-pháp, chúng-sanh nghiệp nặng, thế-giới nạn-tai, cảnh nước lửa lầm-than đã hiện ra trước mắt. Thời buổi nầy, thật ra còn không nên có sự phân-biệt giữa các tôn-giáo, huống chi trong các môn phái đạo Phật! Hiện nay các đạo đều thi nhau đóng con thuyền tế-độ giữa cảnh sóng-gió, trầm-luân. Thần-đạo thì độ thuộc-phái trở về cảnh-giới Thần. Tiên-đạo thì độ các người có căn Tiên.

 

Còn Phật-đạo, tất phải khuyên kẻ hữu-duyên về nơi Phật-cảnh.

 

 

6.- VÀI ĐIỀU KẾT YẾU

          

Qua trên, Bút-giả đã trình-bày môn Tịnh-độ qua bốn yếu-điểm, rồi luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay, khái-lược các điều quan-yếu, để phụng-khuyến đồng  bạn trong biển mê tối trầm-luân, cùng hướng bước về nẻo sáng-suốt an-lành của pháp-môn Tịnh-độ. Đó là phần lý-thuyết,  còn phần thực-hành sẽ có NGHI THỨC ở chương sau.

 

Trong khi trình-luận, có mấy điểm đề-cập đến giới-hạn giữa TỊNH và THIỀN, cũng bởi-vì lý-do bất đắc-dĩ và cần-thiết:

 

“Vì một ít vị học Thiền, bài-bác việc tụng-kinh, niệm Phật qua nhiều điểm, khiến đa-số Phật-tử bối-rối  hoang-mang hỏi đến, nên bất đắc-dĩ phải biện-minh.

Vì nương theo gót từ-bi của Phật và chư Tôn-đức, đã nói về pháp hợp thời-cơ để làm lợi-ích cho người học-đạo, nên cần-thiết phải giải-thích. Bởi nếu nói pháp chẳng hợp cơ, tất chúng-sanh chìm trong bể-khổ.”

 

“Thuyết pháp bất đậu cơ,

Chúng sanh một khổ hải. ”

 

Thật ra, Bút-giả rất thích Thiền-tông và có-thể bảo là có căn-cơ về môn ấy. Nói mến-thích, vì Thiền-tông có những đặc-điểm của nó. Chẳng-hạn như, khi học-giả đến hỏi một Thiền-sư: Thế nào là đạo ?

 

Sư đáp:

 

“Một áng khói mây phong cửa động,

Muôn chim về tổ chợt mê đường!”

 

Chỉ dùng hai câu vừa văn-nhã, vừa giản-dị bao-quát để phá những khái-niệm phân biệt về đạo, đưa vào chân-tâm, Thiền-tông đã tỏa ra một hương vị thanh-thoát. Lại như câu chuyện, khi ngài Pháp-Nhãn hỏi Như-Tắc Thiền-sư: Sao chưa từng thấy giám-viện phỏng-đạo ?

 

Như-Tắc đáp, Tôi đã có chỗ sở-nhập do sư Thanh-Lâm khai-thị, vì khi tôi hỏi: Thế nào là Phật ?

 

Thanh-Lâm đáp: “Bính-Ðinh đồng-tử đi tìm lửa”. Ngài Pháp-Nhãn bảo: “Khá hay! Nhưng e ông chưa hiểu, vậy thử  tỏ bày chỗ kiến-giải xem sao ?

 

Như-Tắc thưa: “Bính, Ðinh (là hai can trong thập can) thuộc hành HỎA, tức là lửa, đem lửa tìm lửa, cũng như chính mình là PHẬT mà lại đi tìm PHẬT”. Pháp-Nhãn nói:  “Quả-nhiên Giám-viện hiểu sai rồi !” Như-Tắc không tỏ ra sắc giận, quay mình bỏ đi. Ngài Pháp-Nhãn bảo thị-giả: “Người nầy nếu trở lại thì cứu được, bằng không chắc chẳng thể cứu-độ”. Như TẮC Thiền-sư đi nửa đường, bỗng suy nghĩ: “ Ông ta là bậc Thiện tri-thức của đại chúng gồm 500 vị, chẳng lẽ lại trêu mình ?”. Liền trở lại, sám-hối cầu khai-thị.

 

PHÁP NHÃN bảo đề khởi lại câu hỏi trước. Sư liền đảnh-lễ thưa : “Bạch Tôn-đức, thế nào là PHẬT ?” PHÁP NHÃN đáp: “BÍNH ÐINH đồng-tử đi tìm lửa!”. Nghe xong NHƯ TẮC chợt tỏ ngộ.

 

Lối giải đáp của ngài PHÁP NHÃN là đúng ngay ý-thức tìm cầu về Phật đã có sẵn của NHƯ TẮC thiền-sư, hốt-nhiên đưa sư  đi thẳng vào cảnh-giới siêu-thức. Cảnh-giới tỏ-ngộ ấy sâu hay cạn và như thế nào, đều không phải lời nói, tâm-tư mà có thể đến được, chỉ do đương-nhơn tự biết lấy, như chính mình thể-nhận khi uống nước hoặc nóng hoặc lạnh mà thôi. Và đây cũng lại là một hương-sắc thơm đẹp của bên Thiền.

 

           Còn nói có căn về Thiền, vì Bút-giả lúc trẻ tuổi đang trên đường học đạo, một hôm đứng tựa gốc cây, bỗng-nhiên muôn niệm đều tiêu-tan, tâm cảnh thoạt vào cõi rất mực an-tĩnh, nhẹ-nhành, sáng-suốt. Cảnh thoát trần không thể diễn-tả ấy, chỉ kéo dài không đầy năm phút. Khi hoàn lại trạng thái cũ, Bút-giả suy-nghĩ  biết đó là túc-tập về tu Thiền trong một tiền-kiếp của mình. Từ ấy hằng ưa-thích thiền tĩnh-tọa. Trên bước tu, tuổi càng lớn, sự lịch-duyệt càng sâu, tự xét mình thiện căn tuy có song hoặc-nghiệp còn nhiều, lối luận-thuyết cao-siêu, sự hiểu biết chút ít về đạo, không thể đưa đến chỗ giải-thoát được. Do đó lần-lần hướng về Tịnh-độ, sám-hối, niệm Phật, cầu nguyện lực của Như-Lai hộ trì, tiếp dẫn.

 

Ðến nay, Thành-thật mà nói: “Gương tánh hãy mờ, gót tu chưa ổn, căn-thân chẳng tịnh, hạnh-kiểm còn sơ”. Soi gương Bá-Ngọc, hơn 50 vẫn còn thấy lỗi-lầm. Hướng gót Triệu-Châu, tuổi 80 còn mong học hỏi. Với danh-phận xuất-gia, tự thấy còn chưa xứng-đáng, chẳng qua trên cương-trường hoằng-hóa, phải cố-gắng đóng cho trọn vai-tuồng của mình đó thôi. Nhìn về tương-lai, Xét về bổn-phận, Xin mượn hai câu sau đây để tự diễn-tả:

 

Quý Tử áo thô nhiều vẻ thẹn,

Lưu-lang suối cũ luống bàng-hoàng!

 

 

CHƯƠNG 2 


NGHI THỨC MẬT TÔNG


 

          Từ đây trở về sau, những đoạn nào có khép vòng đơn ( ), là các điều căn-dặn hoặc dẫn-giải, in bằng chữ nghiêng.  Chữ lớn thẳng là phần xướng-tụng hành-trì. Trải nhiều năm kinh-nghiệm, bút-giả xét thấy các hành-giả thời nay có những ma-chướng, mà đạo-lực kém-yếu của phần đông người thời mạt-pháp khó nổi vượt qua.  Ðó là những ma-chướng nội-tâm,  ma-chướng ngoại-cảnh và ma-chướng thuộc giới vô-hình. Vì thế, sau khi nghiên-cứu trong Ðại-tạng, tệ-nhơn đã dựa vào kinh-nghiệm của chính mình và nhiều hành giả khác thuật lại, dung-hợp môn tu Tịnh-độ thuộc Mật-giáo cùng Hiển-giáo soạn ra nghi-thức nầy.

           Trong đây chú-trọng về sự khái-quát đơn-giản, lời gọn mà ý-tứ đầy-đủ.  Pháp-nghi nói sau chia ra làm ba phần:

     

1. Lễ bái sám hối

2. Trì chú niệm Phật

3. Phát nguyện hồi hướng

 

Xin lưu-ý, Pháp-nghi chỉ là hình-thức, là khuôn-mẫu, để cho “hành-giả” nương vào nơi sự-tướng mà tiến-tu, mà hướng về chơn-cảnh. Còn tiến-trình sâu hay cạn, thấp hay cao, công-đức ít hoặc  nhiều , còn tùy tâm chí-thành,  sức trì-niệm của các hành-giả.     

 


 

1. - PHẦN LỄ BÁI SÁM HỐI




 

( Trước tiên rửa tay, rửa mặt, lễ phục nghiêm-chỉnh. Khi đến nơi lễ tụng, Hành-giả dùng ẤN KIẾT TƯỜNG, tay trái ngón cái  nắm co đầu ngón vô danh, vẽ và tưởng chữ LAM. 

 




sắc trắng trong lòng tay mặt 3 lần.  Rồi tay mặt cũng kiết ấn  vẽ  vào lòng tay trái y như vậy. Kế tiếp đốt hương rồi bước lui đứng chấp tay trước bàn Phật, đọc bài kệ tán)

 

  

Pháp vương vô-thượng tôn

Tam-giới vô luân thất

Thiên nhơn chi Ðạo-sư

Tứ-sanh chi từ-phụ

Ư nhứt niệm quy-y

Năng diệt tam-kỳ nghiệp

Xưng dương nhược tán-thán

Ức kiếp mạc năng tận.

Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,

Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,

Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,

Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,

Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,

Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.


 

(Hành giả có thể đọc bài kệ tán khác mà mình thích)

 


PHỔ LỄ CHƠN NGÔN 


UM, VA J(RI) RA MẬT (7 lần)

(AUM, VAJRA MÙD)

 


            ( Trong khi tụng chú, kiết ẤN KIM CANG HIỆP CHƯỞNG để trên đầu, chấp hai tay lại  ngón so le, hữu áp tả. Theo Mật-giáo, nên tưởng mình hiện thân khắp pháp-hội 10 phương, lễ kính chư PHẬT. Xong xả ấn ngay nơi đảnh.)



CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trụ Tam-Bảo. (1 lạy)

 

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ: Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)

 

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)

 


(Kế tiếp, quỳ trước bàn Phật, chấp tay, chí-thành, đọc bài kệ Sám-hối)

 


 

SÁM THẬP PHƯƠNG 


 

Thập phương Tam-thế Phật

A-Di-Đà đệ nhứt,

Cửu phẩm độ chúng-sanh

Oai-đức vô cùng cực,

Ngã kim đại quy-y.

Sám-hối tam nghiệp tội,

Phàm hữu chư phước thiện,

Chí tâm dụng hồi-hướng.

Nguyện đồng niệm Phật nhơn,

Cảm ứng tùy thời hiện,

Lâm chung Tây-phương cảnh,

Phân-minh tại mục tiền,

Kiến văn giai tinh tấn,

Đồng sanh Cực-lạc quốc,

Kiến Phật liễu sanh-tử,

Như Phật-độ nhứt-thiết,

Vô-biên phiền-não đoạn,

Vô-lượng pháp môn tu;

Thệ nguyện độ chúng-sanh,

Tổng giai thành Phật đạo;

Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,

Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,

Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.

 

Nhứt giả lễ kính chư Phật,

Nhị giả xưng tán Như-Lai,

Tam giả quảng tu cúng-dường,

Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,

Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,

Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,

Thất giả thỉnh Phật trụ thế,

Bát giả thường tùy Phật học,

Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,

Thập giả phổ giai hồi-hướng.

 

Nguyện tương dĩ thử thắng công-đức,

Hồi-hướng vô-thượng chơn pháp-giới,

Tánh tướng Phật, Pháp cập Tăng-già,

Nhị đế dung thông tam-muội ấn,

Như thị vô-lượng công-đức hải,

Ngã kim giai tất tận hồi-hướng,

Sở hữu chúng-sanh thân, khẩu, ý,

Kiến hoặc đàn báng ngã pháp đẳng,

Như thị nhứt thiết chư nghiệp-chướng

Tất giai tiêu-diệt tận vô dư,

Niệm niệm trí châu ư pháp-giới,

Quảng độ chúng-sanh giai bất thối,

Nãi chí hư-không thế-giới tận,

Chúng-sanh cập nghiệp phiền-não tận,

Như thị tứ pháp quảng vô-biên,

Nguyện kim hồi-hướng diệc như-thị.

 

NAM MÔ ÐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT. (3 lần)

 

 

(Đứng lên chấp tay xướng)

 

Ðệ-tử Sám-hối, phát-nguyện rồi, chí-tâm đảnh-lễ Tam-bảo. (1 lạy)    

 

 

2.- PHẦN TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT


 


( Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật. Tịnh tâm trong giây phút, rồi Tưởng chữ  "LAM" sắc Trắng trên đầu, phóng ánh sáng Đỏ.) 





( Kế dùng ấn Kiết tường Viết và Tưởng chữ "LAM" cùng chữ "HÙM" cũng đều sắc Trắng, gia trì Hai lòng bàn tay và Chuỗi, mỗi nơi ba lần.

 

Lại tiếp dùng ấn Kiết tường, gia trì SỔ CHÂU chân ngôn sau đây nơi tràng Chuỗi, xong búng Ba cái, xả ấn trên Đảnh.)

                


GIA TRÌ SỔ CHÂU CHÂN NGÔN

 

UM! VAI RÔ CA NA MA RA XÓA HA  (7 lần)

(AUM !  VAIROCANA MARA SVĀHĀ)



( Xả ấn xong, vẫn ngồi chắp tay tụng bài Hương tán)

 

Nguyện thử diệu hương vân,

Biến mãn thập phương giới,

Cúng dường nhứt-thế Phật,

Tôn pháp chư Bồ tát,

Vô-biên Thanh văn chúng,

Cập nhứt thế Thánh-Hiền,

Duyên khởi quang minh đài,

Xứng tánh tác Phật-sự,

Phổ huân chư chúng-sanh,

Giai phát Bồ-Ðề tâm,

Viễn-ly chư vọng-nghiệp,

Viên-thành vô-thượng đạo.

 

NAM MÔ HƯƠNG VÂN CÁI B TÁT MA HA TÁT (3 ln)


 

(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)

         

Quang, thọ khó suy lường,

Sáng lặng khắp mười phương.

Thế Tôn Vô Lượng Quang,

Cha lành cõi Liên ban.

Thần lực chẳng tư nghì,

Sống lâu A tăng kỳ.

A-Di-Đà Như Lai,

Tiếp dẫn lên liên đài.

Cực Lạc cõi thuần tịnh,

Công đức lạ trang nghiêm.

Nơi tất cả quần sanh,

Vượt lên ngôi Bất thối.

Mười phương hằng sa Phật.

Đều ngợi khen Vô Lượng.

Cho nên hôm nay con,

Nguyện sanh về An Dưỡng.


NAM MÔ LIÊN TRÌ HI HI PHT B TÁT (3 ln)

 

(Tiếp tụng)


 


PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN


UM!  SOA PHẠ VA SUÝT ĐA, ST VA ĐT MA,

SOA PHẠ VA SUÝT ĐA HÀM.

UM! LAM LAM LAM.

(7 lần)


( AUM!  SVABHÀVA SUDDHA, SARVA DHARMA, 

SVABHÀVA SUDDHA HAṂ

AUM !  RAM  RAM RAM )



HÀM



LAM


 



Khi tụng chú này, kiết Chuẩn Đề biệt ấn. Cả hai tay, ngón cái nắm co ba ngón: trỏ, vô danh và út. Kế hiệp hai lại, hai ngón giữa dụm đầu nhau dựng đứng. Tụng xong xả ấn nơi đảnh.

 

Đây là phối hợp chú Tịnh tam nghiệp và Tịnh pháp giới. Chân ngôn này có công năng khiến cho bên trong: thân, khẩu, ý, y phục, bên ngoài từ chỗ ở của mình đến hoàn cảnh rộng xa đều thanh tịnh. Do chú này, tội chướng đều được tiêu trừ, có thể thành tựu các việc thù thắng.) 


 

HỘ THÂN CHƠN NGÔN


       UM! PHẠ NHT RA, A NGHĨ NI, 

BÁ RA NĂM BÌ ĐÁ DA, XÓA HA.

UM!  XỈ-LÂM X-LÂM XỈ-LÂM.

(7 lần)


 ( AUM! VAJRA AGNI 

PRA NÀMBIDHÁYA SVAHA. 

AUM! SRAM SRAM SRAM)



XỈ-LÂM






Khi tụng chú này, kiết ấn Bị giáp hộ thân, Hành giả xoa hai tay vào trong, hữu áp tả, hai ngón giữa dựng đầu dính vào nhau, hai ngón cái áp vào ngón vô danh. Hai ngón trỏ cong lại như lưỡi câu, những không đụng vào lưng hai ngón giữa.

Đây là phối hợp chú hộ thân trong nghi Thập bát đạo và Mạn Thù Nhất Tự chân ngôn "XỈ LÂM", khi kiết tụng ấn chú này, thân của đương nhơn liền được mặc giáp trụ. Tất cả loài ma làm chướng ngại, bỗng thấy hành giả oai đức tự tại, ánh sáng bao phủ chói ngời, liền tan rã bỏ chạy. Sức chân ngôn nầy có thể bảo về được bản thân và tất cả mọi người quanh. Các ách nạn như: nước, lửa, cọp, sói, sư tử, dao gậy, gông xiềng thảy điều tiêu diệt. Khi tụng chú này xong 7 biến liền xả ấn nơi đảnh.




Kế hai tay đều kiết ấn Kim cang quyền, ngón cái bấm vào gốc ngón vô danh, nắm chặt lại. Rồi đem ấn in vào các nơi: trán, yết hầu, hai vai, ngực, rún, hai bắp đùi, sau thận môn, xương gu cổ và đảnh rồi xả ấn. Trong khi ấy miệng tụng chữ Hùm 


 HÙM


liên tiếp, cho đến khi xả ấn rồi mới thôi. Đây là pháp thức trấn tà ma không cho xâm nhập vào thân.)


 

VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN

 

NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA. 

NAM MÔ A RỊ DA.  A MI TÁ BÀ DA.  TÁT THA GA TÁ DA.  A RA HA TI.  SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA.  TÁT DA THA. 

UM !  A MI RỊ TI.  A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ GA BÊ.  A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ.  A MI RỊ TÁ SI TÊ.  A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.

A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ.  A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI.  A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI.  SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI.  SẠT VA MA CA LI.  SA KHẤT SÁ DU CA LI.  SÓA HA.

 

UM! BÚT RUM!  HÙM!

 

(54 hoặc 108 lần)


( NAMO RATNATRĀYAYA. 

NAMO ĀRYA. AMITABĀYA. TATTHĀGATAYA. ARAHATI. SAMYAKSAMBUDDHAYA. TADYATHĀ ! 

AUM ! AMIṚTI, AMIṚTA NABĀVE. AMIṚTA SAMBĀVE, AMIṚTA GABE, AMIṚTA ŚUDDHE, AMIṚTA SITE, AMIṚTÁ VICALANTE, 

AMIṚTA VICALANTA GĀMINI. AMIṚTA GAGANA KITICALI, AMIṚTA LODO VISABHATI. SARVARITHA SADHĀNI, SARVA MACALI. SAKSA YŪCALI. SVĀHĀ.

 AUM ! BHRUM, HŪM.)


 

BÚT-RUM !

( Bộ-lâm ! )



 HÙM




Khi tụng chân ngôn này, kiết ấn Vô Lượng liên hoaHai xoa bên ngoài hữu áp tả. Dựng hai ngón giữa đầu dụm cong lại như cánh sen. Có thể kiết ấn này tụng chân ngôn ba lần, xả ấn lên đảnh, rồi lần chuỗi ký số. Đà ra ni này, tụng một biến, diệt các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác trong tự thân, tất cả tội chướng đều tiêu diệt.

Nếu hàng xuất gia tăng ni, hoặc tại gia thiện tín, phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Khi kiết ấn tụng chơn ngôn nầy, liền cảnh giác đức Vô Lượng Thọ Như Lai phóng quang trụ nơi đảnh của hành-giả, và được sự nhiếp thọ. Tụng đến một vạn biến, Tâm bồ đề hiển hiện trong thân không quên mất.

Người trì niệm lần lần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng mát mẻ trong sạch như trăng thu, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành giả thấy Phật A Di Đà cùng với  vô lượng trăm ức chúng Bồ Tát vây quanh đến an ủi tiếp dẫn. Đương nhơn liền sanh về phẩm Thượng thượng ở Cực Lạc.

Câu: “UM! BÚT RUM!  HÙM!” là chân ngôn “Nhứt Tự chuyển luân”, như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. Trên đây là pháp thức Tịnh độ của Mật giáo. Các vị tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng chú nầy.

Bút-gi vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.

Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề.  Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.

Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.)



 MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

 

Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:

 

Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.

 

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA. (3 lần)



BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN

ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI

 

NAM-MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA.

A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA. (3 lần)

 


(Tụng ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI xong, tiếp chắp tay đọc bài kệ khen tướng hảo đức A Di Đà và tiếp qua niệm Phật.)



Khể thủ tây phương An-Lạc quốc

Tiếp dẫn chúng-sanh đại đạo sư

Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh

Duy nguyện từ-bi ai nhiếp thọ

 

Ngã kim phổ vị tứ ân tam hữu, cập pháp-giới chúng-sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô-thượng bồ-đề đạo-cố, chuyên tâm trì niệm A-Di-Ðà-Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh tịnh-độ. Duy nguyện Từ-Phụ A-Di-Ðà Phật ai lân nhiếp thọ từ-bi gia hộ.

 

A-Di-Ðà Phật thân kim sắc

Tướng hảo quang-minh vô đẳng luân,

Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di.

Hám mục trừng thanh tứ đại hải,

Quang trung hóa Phật vô số ức,

Hóa bồ-tát chúng diệc vô-biên,

Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

 

 

NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI

ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT

        

  (Kế tiếp niệm)

 

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

 

( Chuyên tụng Vô Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.

          Về cách trì niệm, tệ nhơn lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:

 

1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.

 

2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.

 

3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt.  Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.

 

4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.

 

          Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)

 

 

3.- PHẦN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG

 

(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)

 

Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)

Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)

Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)

Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)

Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)

 

(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)

 

Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.

 

Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.

         

          ( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)

 

NHỨT TÂM QUY MẠNG  ÐẢNH LỄ: Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A-Di-Ðà Như-Lai biến pháp giới Tam bảo (1 lạy)

 

Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)

Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)

Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)


NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ: Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)


 

CHUNG



UM! BÚT RUM!  HÙM!

(AUM ! BHRUM, HŪM.)


Comments

Popular posts from this blog