Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh
MẤY ĐIỆU SEN THANH
HT. Thích Thiền-Tâm
( Trước
kia, Thượng Tọa Vạn Đức (HT. Thích Trí Tịnh) có dịch được một phần ba, lấy tên là
ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC, được nhiều người ưa thích. Một vài liên hữu yêu cầu tôi xin
TIẾP TỤC công việc ấy, và dịch những chuyện vãng sanh của hàng căn cơ thời gần
đây, để người đời nay có thể theo dấu. Vì thế quyển sách này, bút giả lưu ý dịch
các truyện vào thời Dân Quốc cận đại nhiều hơn. Những lời và hạnh của thánh hiền
tu Tịnh độ khi xưa, là những điệu nhạc, những đài gương để khuyến khích, soi
sáng cho các hàng liên hữu. Cổ nhơn đã có vị viết sách Tịnh độ, nhan đề là LIÊN
HẬU THANH ÂM. Liên hậu là giờ khắc hoa sen, lấy sự tích đồng hồ sen nơi Bạch
Liên Xà của ngài Huệ Viễn. Thanh Âm là những âm điệu thanh tao để khuyến hóa mọi
người niệm Phật. Bút giả thể theo ý đó, đặt nhan đề quyển nầy là MẤY ĐIỆU SEN
THANH. )
MỤC LỤC
PHẦN NHẤT – THÁNH NHÂN KHUYẾNHÓA
I.
Mã Minh Đại Sĩ
II.
Long Thọ Đại Sĩ
III.
Thiên Thân Luận Sư
IV.
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát
PHẦN HAI – LIÊN TÔNG CHƯ TỔ
(Liên Tông Sơ
Tổ)
2. Thiện Đạo Đại sư
(Liên Tông Nhị
Tổ)
3. Thừa Viễn Đại Sư
(Liên Tông Tam
Tổ)
4. Pháp Chiếu Đại Sư
(Liên Tông Tứ
Tổ)
5. Thiếu Khang Đại Sư
(Liên Tông
Ngũ Tổ)
6. Diên Thọ Đại Sư
(Liên Tông Lục
Tổ)
7. Tỉnh Thường Đại Sư
(Liên Tông
Thất Tổ)
(Liên Tông Bát
Tổ)
9. Trí Húc Đại Sư
(Liên Tông Cửu
Tổ)
10. Hành Sách Đại Sư
(Liên Tông Thập Tổ)
11. Thật Hiền Đại Sư
(Liên Tông Thập Nhất Tổ)
Bài văn khuyên phát lòng Bồ đề,
Thật Hiền soạn
12. Tế Tỉnh Đại Sư
(Liên Tông Thập Nhị Tổ)
13. Ấn Quang Đại Sư
(Liên Tông Thập Tam Tổ)
CHƯ TỔ TỊNH ĐỘ
Tịnh độ không có sự TRUYỀN thừa như chư Tổ như bên Thiền tồng.
Sở dĩ có chư Tổ Tịnh độ, là do các vị tăng tục môn Niệm Phật đời sau họp lại chọn
những BẬC siêu xuất mà suy tôn. Sự
siêu xuất ấy biểu lộ trên ba quan điểm:
1. Về phần kiến thức,
phải là bậc hiểu sâu cả Tông lẫn Giáo, NGỘ
đến Thượng thừa.
2. Về phần đạo hạnh,
phải giới phẩm tinh nghiêm, tu hành tinh tấn. Khi lâm chung có TRIỆU chứng vãng sanh.
3. Về phần hoằng hóa,
phải có công tuyên dương Tịnh độ, hộ trì chánh pháp, khuyến đạo ngàn MUÔN người niệm Phật.
Trong Tịnh Độ Thánh Hiền
Lục chỉ ghi có 11 vị Tổ tông Tịnh độ. Về sau nơi đạo tràng Linh Nham, ngài Ấn
Quang họp các liên hữu tăng tục, suy tôn Hành Sách đại sư làm vị Tổ thứ 10, đưa
Thật Hiền đại sư lên hàng thứ 11, và Tế Tỉnh đại sư lên hàng thứ 12. Sau khi Ấn
Quang đại sư vãng sanh, chư liên hữu xét thấy ngài hạnh đức trang nghiêm có
công lớn với Tịnh độ, mới họp lại đồng suy tôn lên làm vị Tổ thứ 13.
Thiền tông tuy có y
bát truyền thừa, nhưng mục đích dùng để biểu TÍN với quần chúng. Sau đời Lục Tổ, chỉ truyền PHÁP không còn truyền y bát, vì lúc ấy thiền hóa đã thạnh hành.
Bên Tịnh độ, chư đại
sư cũng thuần vì bi trí lợi sanh, không tự GỌI
mình là Tổ. Chỉ sau khi các ngài viên tịch, người đời sau mới SUY tôn lên. Nhưng thật ra, xét kỹ qua
mọi phương diện, các vị đều là bậc THÁNH
nhơn ứng hóa, xứng đáng được tôn là Tổ. Những bậc cao tăng thông thường không
thể làm được như vậy.
Trong 13 vị Tổ của Tịnh
độ, đã có BẢY ngài nguyên là thiền sư được chánh truyền. Các vị ấy là: Thừa Viễn,
Vĩnh Minh, Liên Trì, Ngẫu ích, Hành Sách, Tỉnh Am và Triệt Ngộ. Tại sao các
ngài đã ngộ thiền mà không hoằng Thiền, trở lại hoằng Tịnh? Trong đây có
ba nguyên yếu:
1. VỀ PHÁP MÔN: -
Trực chỉ thiền, chỉ có
lợi cho bậc thượng thượng căn, hàng trung, hạ khó bề thể nhập (Phi thượng thượng căn. Thận vật khinh hứa Tổ ngữ). Còn
môn Tịnh độ, thì lợi khắp cả ba căn. Hàng thượng thượng căn tu Tịnh độ, có thể
hiện đời ngộ được bản tâm, chứng Niệm Phật tam muội, khi mạng chung sanh về Thượng
phẩm.
Dù kẻ tối hạ căn nếu
chuyên niệm Phật, cũng được đới nghiệp vãng sanh, lên ngôi Bất thối. Khi đã
vãng sanh, lễ cẩn Di Đà, gần gũi thánh chúng thọ mạng vô biên kiếp, lo gì không
ngộ chân tâm, chứng thánh quả! Vì sự lợi ích rộng rãi chắc chắn như thế, các
ngài mới khuyên tu Tịnh độ.
2.
VỀ THỜI TIẾT: -
Trong thời Chánh pháp,
có thật hành phần nhiều đều chứng quả, hoặc đi sâu vào thiền định, để làm cơ bản
cho những kiếp tu sau.
Qua thời Tượng pháp, sự
ngộ đạo còn có ít người huống chi là chứng!
Đến thời Mạt pháp, như
kinh Đại Tập nói: “ức ức người tu hành, song khó tìm một người ngộ đạo”.
Dù được ngộ đạo, nhưng
chưa phải chứng, phiền não nghiệp tập hãy còn, khi luân hồi bị phước báo làm
mê, mười người đã thổi chuyển hết chín. Do đó, từ cuối đời Tượng bước sang Mạt
pháp, chư đại thiện tri thức lần lần chuyển hướng dạy người tu Tịnh độ.
Vì bấy giờ thiền hóa
còn thạnh hành, các ngài phải thị hiện phương tiện, trước triệt ngộ thiền cơ,
sau hoằng dương Tịnh độ, mới được người đương thời tín nhiệm tuân hành.
3.
VỀ CƠ DUYÊN: –
Từ đầu Mạt pháp trở về
sau, căn cơ của quần chúng hầu hết là hạng trung hạ.
Muốn thật hiện mục
đích lợi sanh trong thời đại nầy, chư Bồ Tát phải tùy cơ duyên mà chủ trương Tịnh
độ. Các tông khác tuy cũng rất cần chấn hưng, nhưng chỉ thuộc phần thứ yếu, bởi
sự lợi ích không được phổ cập.
Từ trước chư tôn túc
trong các tông khác cũng xét biết điều nầy, nên tuy vẫn hoằng dương bổn môn, mà
phần nhiều đều quy hướng Tịnh độ. Như Chân Yết Liễu thiền sư nói:
“Những vị dưới tông
Tào Động đều MẬT tu Tịnh độ, bởi Tịnh độ thấy Phật còn dễ hơn Thiền tông” (Động hạ nhất tông giai cụ mật tu, dĩ Tịnh độ
kiến Phật vưu giản vị ư tông môn).
Về như thời cận đại, Đế
Nhàn Pháp sư tuy truyền bá tông Thiên Thai, song vẫn niệm Phật. Khi sắp viên tịch,
ngài đọc lời kệ khuyến tấn đại chúng:
Tôi nhờ niệm
Phật.
Thọ dụng chân thật.
Tịnh độ hiện tiền.
Chúng gắng tinh chuyên!
Ấn Quang Pháp sư trong
bức thư gởi cho Thể An Hòa thượng, có nói:
“Trong mấy mươi năm lịch
duyệt bắc nam, đi về hàng muôn dặm, tôi kinh nghiệm thấy những vị thông minh hiểu
suốt tông giáo, khinh thường Tịnh độ, khi lâm chung phần nhiều MÊ loạn, đôi khi
có trạng thái kêu la.
Còn những người chân thật niệm Phật, dù tín nguyện
chưa chí thiết, không có thoại tướng lúc lâm chung, nhưng họ chết đều an ổn cả”.
Cho
nên, từ lúc sanh tiền cho đến khi quá vãng, môn Niệm Phật đích thật là con thuyền
cứu khổ nhơn sanh trong thời buổi nầy vậy !
VÔ NHẤT ĐẠI SƯ THÍCH THIỀN TÂM
Như-Ý Giảng giải
TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,
GÍO LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.
HT Thích Thiền-Tâm
LỜI PHỤ DỊCH GIẢ
PHẦN BA – TỨ CHÚNG VÃNG SANH
2)
Huệ Kiền pháp sư
3)
Tăng Tế pháp sư
4)
Huệ Cung
5)
Lưu Trình Chi
6)
Trương Kháng
7)
Khuyết Công Tắc
8)
Tăng Duệ pháp sư
9)
Huệ Sùng đại sư
10) Đàm Giám
pháp sư
11)
Đạo Trân pháp sư
12) Đàm
Loan pháp sư
13) Đạo
Dũ
14) Trí
Khải đại sư
15) Trí
Thông pháp sư
16) Pháp
Trí
17) Pháp
Hỷ và Thọ Hồng
18) Hai
sa di
19) Đạo
Kiệt pháp sư
20)
Quán Đảnh đại sư
21) Đạo
Ngang pháp sư
22)
Đạo Xước thiền sư
23)
Tăng Huyền pháp sư
24)
Duy Ngạn pháp sư
25)
Hoài Ngọc pháp sư
26)
Huệ Nhựt đại sư
27)
Tề Hàng pháp sư
28)
Tự Giác
29)
Tri Tuyền pháp sư
30)
Hùng Tuấn
31) Duy
Cung
32)
Chí Thông
33) Ngộ Ân
34)
Tri Lễ đại sư
35)
Huệ Tài pháp sư
36)
Tông Trách thiền sư
37)
Khả Cửu
38)
Tông Bản đại sư
40)
Tông Đản pháp sư
41) Nguyên
Chiếu luật sư
42)
Nhược Ngu pháp sư
43)
Tề Ngọc pháp sư
44)
Uẩn Tề
45)
Tư Tề đại sư
46)
Tử Ngươn đại sư
47)
Đạo Nhân pháp sư
48)
Hữu Bằng đại sư
49)
Pháp nhân thiền sư
50)
Ưu Đàm đại sư
51) Hoằng
Tế đại sư
52)
Thiên Như thiền sư
53)
Huệ Mộc
54)
Chân Tịnh
55)
Châu Cẩm
56)
Quảng Giác
57)
Thành Tịnh
58)
Triều Âm
59)
Dương Kiệt
60)
Chung Ly Cẩn
61) Mã Vu
62)
Vương Cổ
63)
Hồ Yến
64)
Ngô Bình Tín
65)
Lục Ngoạn
66)
Tiếng gọi vô thường
67)
Trần Toản
68)
Ngu Thuần Hy
69)
Thái Thừa Trực
70)
Viên Hoằng Đạo
71) Kim
Quang Tiền
72)
Tỉnh giấc mộng đời
73)
Tôn Trung
74)
Vương Điền
75)
Vương Nhựt Hưu
76)
Diêm Ban Vinh
77)
Dương Gia Vỹ
78)
Cố Nguyên
79)
Trương Thủ Ước
80)
Hoàng Thừa Huệ
81) Văn
Khải Sơ
82)
Châu Lộ
83)
Ngô Minh Hồng
84)
Hoàng Phủ Sĩ Phương
85)
Trầm Bính
86)
Viên Liệt Tinh
87)
Vương Cung
88)
Trương Chung Quỳ
89)
Trương Thiện Hòa
90)
Kim Thích
91) Phùng
Mân
92)
Ngô Quỳnh
93)
Hoàng Sanh
94)
Ngô Mao
95)
Vương Ngưỡng Tuyền
96)
Lương Duy Châu
97)
Xóa sạch duyên trần
98)
Việt Quốc phu nhơn
99)
Trần Thị
100)
Phùng Thị
101)
Ngô Thị
102)
Diêu Bà
103)
Vương Thị
104)
Vợ Tưởng Thập Bát
105)
chúc Thị
106)
Lư Thị
107)
Phí Thị
108)
Tử Thái nghi nhơn
109)
Tôn Thị
110)
Dương Thị
111)
Dư Thị
112)
Chim Anh Võ
113)
Chim Cù Cáp
114)
Gà biết niệm Phật
115) Một trăm bài kệ Phật
116)
Diệu Hiệp
117)
Minh Chứng
118)
Không Cốc
119)
Đức Thanh
120)
Vô Danh Tăng
121)
Đại Kình
122)
Kiến Nguyệt
123)
Minh Hoằng
124)
Văn Ngôn
125)
Đạo Triệt
126)
Thành Chú
127)
Pháp Chân
128)
Hằng Nhứt
129)
Phật An
130)
Tánh tu
131)
Hành Tu
132)
Thật Vịnh
133)
Thường Trí
134)
Bản Ấn
135)
Toại kham
136)
Phật Kỳ
137)
Lãng Nhiên
138)
Diệu Thành
139)
Đạo Càn
140)
Ni cô Am Lan Nhã
141)
Đạo Ngộ
142)
Trương Sư Thành
143)
Ngô Như Am
144)
Du Hữu Quang
145)
Tô Khởi Phụng
146)
Vương Trinh Sanh
147)
Thái Bằng Cửu
148)
Lục Sĩ Thuyên
149)
Mã Vinh Tổ
150)
Lan Đài
151)
Bành Thiệu Thăng
152)
Lữ Huất Nhược
153)
Tào Thánh Hữu
154)
Trịnh Thiệu Vinh
155)
Ngô Liêm
156)
Trần Đình Du
157)
trương Hiếu Lâm
158)
Phan Vạn Tôn
159)
Trầm Thơ Hoa
160)
Hứa Nhân Thục
161)
Châu Quang
162)
Lộ Khôn
163)
Ngô Doãn Thăng
164)
Từ Thị
165)
Tào Thị
166)
Đào Quỳnh Lâu
167)
Bá Bất Quản
168)
Uông Thị
169)
Vương, Trương, Trần
170)
Châu Thị
171)
Thiệu Thị
172)
Du Thị
173)
Tiền Nhụ Nhơn
174)
Lục An Nhơn
175)
Một trăm bài thơ kệ niệm Phật
176)
Luật Tịnh
177)
Huệ Minh
178)
Khởi Tín
179)
Đông Qua Hòa thượng
180)
Ngộ Linh
181)
Viên Dung
182)
Diệu Trạm
183)
Thọ Tâm
184)
Tư Ngạn
185)
Ngọc Phong
186)
Chí Thiện
187)
Khắc Cần
188)
Tịnh Hải
189)
Mặc Am
190)
Lương Tu
191)
Tịnh Thiền
192)
Khuyên Tu
193)
Như Trí
194)
Như Giác
195)
Liên Trinh
196)
Quả Nhơn
197)
Thánh Đạo
198)
Đại Ngộ
199)
Hoằng Nguyên
200)
Khuyên Tu
201)
Phạm Ngươn Lễ
202)
Tôn Phục Nguyên
203)
Lý Cần
204)
Tào Hài Hòa
205)
Tống Lai
206)
Trần Cư Sĩ
207)
Ngô Tôn Ngụy
208)
Trương Xỉ Diên
209)
Từ Hy
210)
Tiền Vạn Dật
211)
Châu Lân Thơ
212)
Cù Tấn Hòe
213)
Tôn Tùng Đình
214)
Đinh đồng tử
215)
Khuyên Tu
216)
Dương thị
217)
Nhan thị
218)
Tiền Lan Trinh
219)
Trầm trinh nữ
220)
Bạch thị
221)
Một trinh nữ
222)
Châu phu nhơn
223)
Khuyên Tu
224)
Một trăm bài kệ niệm Phật
225)
Minh Quả
226)
Bản Tuyền
227)
Kim Thể
228)
Giới Nhiên
229)
Chánh Thành
230)
Truyền Tánh
231)
Giới Tâm
232)
Đức Trí
233)
Không Tam
234)
Kim Trược
235)
Đế Nhàn
236)
Tịnh Độ Thi
237)
Tạ Xuân Hoa
238)
Diệp Trúc Am
239)
Hồ Diệc Tiết
240)
Hạ Quốc Xương
241)
Phương Hải Sanh
242)
Từ Lôi
243)
Châu Nải Luân
244)
Trương Văn Phủ
245)
Đinh Lục Hinh
246)
Liểu Bộ Dinh
247)
Dương Đức Tôn
248)
Dương Liên Hàng
249)
Vương Cảnh Đan
250)
Lưu Xuân Tài
251)
Vương Yến Tế
252)
Lưu Khai Nan
253)
Trầm Đồng Văn
254)
Tịnh Độ Thi
255)
Lý Thị
256)
Trần Thị
257)
Cát Phu Nhơn
258)
Âu Dương An Nhơn
259)
Bần Phụ
260)
Tiểu Hiên Ức Phật
261)
Một trâm bài kệ niệm Phật
262)
Tăng Cảm
263)
Đạo Thuyên
264)
Giác chiếu
265)
Trường Linh
266)
Thích nữ Năng Khai
267)
Thích nữ Đức Thành
268)
Nhớ về Tịnh Độ
269)
Trương Ngươn Thọ
270)
Tiểu Vương
271)
Viên Bảo Trị
272)
Vương Di Thiện
273)
Lại Tường Lân
274)
Tào Vân Tôn
275)
Trần Sầm Hiên
276)
Vườn thơ Tịnh Độ
277)
Diệp Cữu Thành
278)
Phan Trinh Quế
279)
Âu Dương Trụ
280)
Trần Tánh Lương
281)
Giang am Nam
282)
Lý Quốc Tuyền
283)
Châu Triệu Pháp
284)
Kim Vinh Hiên
285)
Khuyên Tu Tịnh Độ
286)
Du Thị
287)
Phùng Nghi Nhơn
288)
Châu phu nhơn
289)
Phan Thái phu nhơn
290)
Tào Nghi Nhơn
291)
Hà Thái phu nhơn
292)
Trầm Nương
293)
Một kỷ nữ
294)
Nhâm Cung nhơn
295)
Tịnh Độ thi
296)
Châu Thị
297)
Đặng nữ sĩ
298)
Trầm Thị
299)
Lâm Thị
300)
Phạm Thị
301)
Lưu Nhị Cô
302)
Lý Trinh nữ
303)
Dư phu nhơn
304)
Khuyên tu
305)
Một trăm bài kệ niệm Phật
306)
Lời sau cùng
307)
Nghi lạy Thù Ân về Tịnh độ
***
"ĐÃ TỪNG trôi nổi riêng thương khách
Muốn nhủ đồng nhơn lại CỐ HƯƠNG!"
Xin mượn hai câu thơ trên để bày tỏ tâm sự tôi vậỵ
Mùa an cư năm Canh Tý (1960)
Dịch giả: Liên-Du
kính ghi
VƯỜN
THƠ TỊNH ĐỘ
Chẳng luận sang, hèn,
ngu trí,
Không phân già, trẻ,
gái, trai.
Có tâm, làm được Đấng
Như Lai,
Lời thật lưu truyền vẫn
tại.
Sáu chữ Di Đà rất dễ,
Một lòng tưởng niệm đừng
sai.
Thân này thề chiếm tử
kim đài,
Gắng giữ niệm tâm chớ
trái.
(Linh
thoại Thiền sư)
Lúc đi dễ thuận niệm Di
Đà
Một Phật tùy theo một bước
qua
Dưới gót hằng thời chơi
Tịnh độ,
Trong tâm mỗi niệm cách
Ta Bà
Dạo quanh hoa liểu nhưng
thường nhớ
Lên xuống non sông vẫn
chẳng xa
Đợi lúc vãng sanh về Cực
lạc,
Mười phương du ngoạn tự
như mà
Đời người trăm tuổi, ai
trăm tuổi?
Chuyện cũ quay nhìn:
chuyện huyển mê!
Nghĩ khóc đồng lưu đi lạc
mất,
Lãng quên cõi Tịnh chẳng
lo về.
(Phạm
kỳ Liên hữu)
Canh khuya tựa cửa nhìn
trăng lặn,
Chiều tối đẩy song ngắm
bóng tà,
Đất khách từ lâu trôi nổi
mãi,
Khẩn cầu Phật rước lại
hương gia,
(Thổn
hương trai chủ)
Đường Tịnh khuyên mau cất
bước ngay
Mạng người hô hấp bảo
cho hay!
Nghìn vàng tất bóng nên
yêu tiếc,
Siêu, đọa trông mong một
kiếp này!
(Nhứt Nguyên Thiền
sư)
Thuyền
chạy về Tây, nhớ cố hương,
Ao sen
giờ hẳn gió thanh lương?
Phiêu lưu khó nại, lòng
về thiết,
Lá phướng Chùa ai dưới tịch
dương?
(Minh Bản Thiền sư)
Đường tu mười van, một đầu
lông,
Ai gọi trời Tây lộ viễn
vông?
Cảnh Phật chẳng ngoài
tâm thấy được,
Chơn dung nơi định vẫn
thường trông.
(Cổ Khê Thiền sư)
Rất sợ lâm chung nghiệp
thức mê,
Khôn thành chánh niệm,
lưỡi hầu tê.
Nếu như bình nhựt không
chuyên thiết,
Đâu sẵn tư lương lúc trở
về?
(Tây Nhứt cư sĩ)
Luân hồi nẻo ấy hiểm phi
thường!
Cầu đấng từ bi dắt dẫn
đường.
Chẳng đợi ao vàng sen chớm
nở,
Trước đem hồn mộng đến
Tây phương.
(Dục Sơn Pháp Sư)
Đống xương sanh tử dường
non cả,
Giọt lệ chia ly nước biển
đầy!
Thế giới ngày kia rồi
cũng hoại,
Đời người khoảnh khắc chớ
mê say,
Cái thân nam nữ ngàn
phen đổi,
Mà kiếp sừng lông vạn
lúc thay.
Muốn khỏi luân hồi nhiều
khổ hận,
Phải tu Tịnh độ gấp khi
này.
(Ưu Đàm đại sư)
Sớm về an dưỡng mà nghỉ
ngơi,
Đừng đối Ta Bà luận có
không.
Lửa nghiệp khi lừng,
dùng nước định,
Niệm trần lúc khởi, gắng
ra công.
Nén hương siêng lễ ba ngàn Phật,
Xâu chuỗi cần chuyên một
tấc lòng.
Xót cảnh mẹ già trông tựa
cửa,
Hẫng hờ du tử chạy Tây
Đông.
(Tây Trai cư sĩ)
Tịnh độ sao riêng chỉ
cõi Tây?
Muốn cho tâm niệm có nơi
về.
Môn đầu được nhập, môn
môn nhập,
Bước trước lầm mê, bước
bước mê,
Chỉ thẳng hạ phàm đồng
thượng Thánh.
Không rời phiền não chứng
Bồ đề,
Sen vàng bạn tốt chừng
nào gặp?
Sánh bước nhàn du lối cảnh
quê.
(Thốn Hương trai chủ
)
Thân tàn quang cảnh có
bao mà,
Bọt nước làn sương một
sát na
Gió lạnh riêng thương
thu quạnh quẽ.
Lá vàng những xót tuổi
suy già
Tấm lòng để sạch hư danh
mất,
Ta chuỗi lần theo tiếng
Phật qua
Trân trọng khuyên ai nên
gắng sức,
Chớ cho muôn kiếp lụy Ta
bà.
(Thật Hiền đại sư)
Bước đến Tây Phương thấy
suốt thông,
Mây lòng tan sạch lộ trời
trong.
Không ngằn sát độ linh
lung khắp,
Đầy cõi chơn thân rực rỡ
cùng.
Các ngọc đài hoa chen ẩn
ẩn,
Cây vàng điện bích chiếu
trùng trùng!
Làu làu một khối quên
tung tích,
Muôn tượng sanh bày cảnh
sắc dung.
(Niết bàn sám chủ)
LỜI BẠT
Trong thời gian trước,
tôi có hứa với một nhóm Phật tử tại gia, viết những bài giảng về pháp môn Tịnh độ.
Sau khi ấy, tôi lại nghĩ mình nghiệp chướng nhiều, tài đức kém, bước tu hành
còn hãy đơn sơ, tốt hơn là rút lấy những kinh nghiệm của người xưa để cống hiến
cho hàng liên hữu. Nhân đó mới có sự phiên dịch ra quyển này.
Tuy nói là phiên dịch,
nhưng trong bản chánh, đoạn này quá cao thâm không hợp với trình độ học Phật phổ
thông của hàng cư sĩ hiện nay, tôi bớt bỏ; những chỗ thiết yếu trong các sách Tịnh
độ khác mà có nơi nguyên bản thiếu, tôi lại thêm vào. Hoặc giả có điểm nào khó
hiểu, tôi lại phụ thích thêm. Vì thế quyển này cũng có xen phần trứ tác và so với
bản chánh, có những chỗ sai khác.
Khi bản thảo vừa viết
xong, gặp nhằm lúc thời cuộc biến chuyển, nhiều người chật vật lo ngại về sinh
kế, tôi có ngỏ ý với một nhóm Phật tử rằng: “Vì đã hứa lời yêu thỉnh của các vị
tôi mới phiên dịch ra quyển này, nhưng không có phương tiện ấn hành, thì trao
luân phiên nhau mà xem để rút lấy những lời kinh nghiệm của người xưa. Riêng về
tôi, ngoài ý nguyện giúp cho các vị những phương tiện tu tập, tuyệt không có
tâm niệm cầu mong chi khác”.
Có một vài cư sĩ nhận lấy
bản thảo xem, thấy văn pháp tuy thô sơ, nhưng lời lẽ của cổ nhân có phần lợi
ích cho ngươi tu Tịnh độ, nên cổ động nhau để in ra và xin tôi hoàn thành các
chi tiết. Trong quyển này, sau lời dạy của các bậc tri thức, còn có phần “Dư
ngôn” gồm vài mươi bài, nội dung và những sưu tầm, học hỏi, kinh nghiệm, nhận
thức riêng của tôi về môn Tịnh độ, nhưng vì thấy sự sinh hoạt của quần chúng có
phần khó khăn, sợ e tiêu hao của đàn tín, nên tôi truất bớt ra.
Khách lộ hành, khi đi
trên con đường gập gềnh, dưới ánh nắng thiêu đốt, tất muốn tìm chỗ bằng phẳng
có bóng cây mát mẻ để nghỉ ngơi. Con người cũng thê, nếu nhận thấy đời sống có
nhiều nỗi mê muội khổ đau, đều muốn quay về đạo đức, tìm pháp mầu giải thoát.
Thuở xưa Trương Tư Phòng
thổi tiêu, bảo Tùng nhơn hát khúc Sở ca mà binh sở đều động lòng nhớ quê hương,
tan rã bỏ về nhà. Xem quyển này, nếu ai nhận thấy nơi cõi Ta bà, chúng sanh sống
trong vòng khổ não nhơ ác của thân tâm và ngoại cảnh, tin biết có cõi Cực Lạc
là một trời xuân nơi miền kiếp ngoại, một thế giới sáng đẹp trang nghiêm trong
bản thể diệu minh, tất đều nao nức muốn sanh về!
Pháp môn Tịnh độ là con
thuyền giải thoát nhiệm mầu quí báu nhất của chúng sanh thời mạt pháp. Thuở xưa
trong khi nói kinh Vô Lượng Thọ, đức Bổn sư đã bảo: “Có vô lượng Bồ tát ở mười
phương thế giới muốn nghe kinh này mà không được nghe. Giả sử khắp cả cõi đại
thiên lửa cháy đỏ, hừng, vì cầu pháp môn Tịnh độ này phải vượt qua nơi ấy, cũng
nên mong cầu”.
Xem lời Phật nói, ta có
thể hiểu giá trị của môn niệm Phật là thế nào? Nay chúng ta ở trong vòng mê khổ
mà được nghe pháp môn Tịnh độ, là một hân hạnh rất lớn phải tinh tấn tu tập, chớ
nên xao lãng thờ ơ. Xin vì những người đã được duyên phước này mà chúc mừng rằng:
“Chìm
trong Biển-nghiệp Gặp chiếc Từ-hàng.
Giữ
lòng thành kính.
Qui
mạng Giác-hoàng.
Tín, Nguyện, Hành
chuyên.
Lễ
Vô Lượng Quang”.
Liên-Du
Đài Gương Tịnh Hạnh
(Lược thuật về hạnh nghiệp của Vô Sanh nữ sĩ)
Nữ sĩ họ Hồ, tên Học Kiên, pháp danh Hiển Nhẫn, tự Vô Sanh, người ở tỉnh Hồ Nam, huyện Ích Dương. Cha cô tên Diệu Hoàng, tự Thôi Sơn, mẹ họ Điền, đều là những họ có tiếng ở đất Tương cả. Nữ sĩ sanh bình có đặc tính cứng cỏi mà hay thương người, thông minh mà mộ đạo, hoạt bát mà không lưu chuyển theo thế tục.
Thấy người bị khổ nạn, cô liền tận tâm cứu giúp, chẳng kể cừu oán, công ơn, lại hằng tôn trọng bậc có đức, nghe lời lành như được của báu. Lúc còn thơ ấu, nữ sĩ ưa cung kính thần linh, thích cảnh chùa miếu u nhàn, thấy thánh tượng liền cúi lạy, đặc biệt tôn trọng ngôi Tam Bảo.
Huỳnh thị, chị dâu họ, tánh từ ái ôn hòa, đối đãi với cô rất có thâm tình, một hôm bỗng vương bịnh rồi mất. Lúc ấy mọi người trong quyến thuộc đều khóc than kể lể, riêng nữ sĩ chỉ yên lặng xót đau, hằng suy nghĩ:
“Nhơn sanh hà tất có chết?
Tình trạng sau khi chết như thế nào?
Làm sao cho khỏi các điều khổ trong vòng sanh tử?”
Suy tưởng đến đó, lòng lo buồn, tâm nghi mãi không thôi. Người ngoài thấy cô hình dung gầy kém, cử chỉ thất thường, cho là do sự xót thương thái quá, mà không rõ được bề trong. Dù trong lúc tuổi thơ, nữ sĩ đã biết nghĩ xa đến sự sống chết, một vấn đề rất lớn lao, trọng yếu của đời người.
Năm mười ba tuổi, cô học tại nhà, vừa được tám tháng, đã có thể lưu lãm các văn tự gần xa. Xem bộ Hương Sơn Ký thấy sự tích ứng hóa của đức Quán Thế Âm Bồ tát, cô liền có ý nghĩ muốn bắt trước theo. Một hôm, vào tiết đầu xuân, nhân có cuộc vui họp bạn, nữ sĩ sắp sửa đi dự, vừa bước ra khỏi cửa, bỗng chợt nghĩ:
“Có vui tất có buồn, có hợp tất có ly, có đi tất có về, thôi thà chẳng đi là hơn!
Lúc ông Thôi Sơn làm hiệu trưởng trường Dương Trung, nữ sĩ theo cha lên lầu Nhạc Dương, thấy tượng Lữ Thuần Dương, lại nghe sự tích thành đạo của Ngài, liền sanh tư tưởng xuất thế. Nhưng bị duyên này sự kia, dây dưa mãi mà chưa thật hành được ý nguyện.
Năm mười bảy tuổi, cô về làm dâu nhà họ Đàm, vừa thành hôn, liền bảo Đàm Quân rằng:
“Đến ba mươi tuổi, chắc tôi phải xa nhà, lìa bỏ tất cả, sống một cuộc đời tịnh hạnh. Lúc ấy chàng nên cố gắng tự nhiếp”.
Nghe nói Đàm Quân cho là lời vẩn vơ, bất tường, cười mà bỏ qua. Chàng lại khuyên nữ sĩ nên tùng học để trao dồi thêm kiến thức tại trường Dân Lập ở Thượng Hải. Trong trường ngoài giờ học, các bạn ưa vận động chơi đùa, riêng cô lại nhàn tịnh, ít nói, thích ngồi một mình nơi chỗ vắng với trạng thái trầm tư. Nữ sĩ học hành ngày càng tiến bộ, xuất sắc, thầy bạn đều mến trọng, nhưng vừa được một học kỳ, lại phải thôi học theo Đàm Quân, lúc lên Bắc Quản, rồi đến Yên Kinh.
Mặc dù trên đường hoạn quan, cô phải theo chồng, luôn luôn dời chỗ không nhứt định, song tấm lòng mộ đạo vẫn tùy duyên không biến đổi. Thường thường, trong các cuộc vui, tuy phải gắng gượng theo người, song nghĩ đến sự vui chẳng bền lâu, phút chốc rồi tan rã, nơi lòng vẫn hằng xem quan niệm buồn lo. Trong các bạn đồng niên, cô đã từng nghe họ kể cho biết nỗi niềm riêng: Kẻ thì âu sầu về gia tự, người thất vọng về danh lợi, tình duyên, kẻ khác lại đau về cảnh sanh ly tử biệt. Thấy cuộc đời vui ít khổ nhiều, mà các bạn còn mải mê hi cầu, đeo đuổi, như con nai khát nước chạy theo ánh nắng chập chờn, nữ sĩ bỗng xót thương suy ngẫm:
“Đức Thế Tôn đã nói: “ba cõi đều vô thường, các pháp hữu vi không có chi là vui”, quả là lời chắc chắn không lầm. Thật khó hái được cành hoa hạnh phúc trong vườn đời huyễn mộng!” Lúc ấy trong thâm tâm cô đã có ý nghĩ muốn thoát ly hai họ Hồ, Đàm.
Thường thường trong lúc tiếp chuyện cùng người, nữ sĩ ưa đàm luận lý diệu huyền, quyết tìm đến chỗ cội nguồn, cầu sự giải quyết cao siêu, cứu cánh. Cô lập thệ làm sao đến ba mươi tuổi cũng phải lìa môn duyên, tìm một chỗ an thân tu hành để cho trọn đời sống. Lúc ấy, Đàm Quân có quen thân với ông Lý Ẩn Trần. Lý là một vị quan cựu trào nhà Thanh, từ khi Dân quốc thành lập đến nay, từ chức về quê ở ẩn.
Ông này rất mến đạo Phật, nhận sự hoằng pháp lợi sanh làm bổn phận. Một hôm, nhân có việc đến kinh, Lý tiên sanh ngụ nơi nhà Đàm Quân, nữ sĩ có dịp được tương kiến. Tiên sanh giảng luận về đạo Phật, nói rộng sự thù thắng ở Cực Lạc cho nghe, và khuyên cô nên lưu ý tìm sự giải thoát nơi pháp môn Tịnh độ. Nhân tiện, cô nhờ ông tìm giùm cho mình một cảnh chùa am để tịnh tu phạm hạnh. Lý tiên sanh nhận lời.
Vì chí xuất trần quá tha thiết, cách vài hôm sau, nữ sĩ sốt lòng đi thẳng đến am Mã cách Ly thăm Lý tiên sanh, tỏ bày chủ ý của mình. Tiên sanh vui vẻ tán thành tặng cho một xâu chuỗi, và các sách Phật như: Thiện nữ nhơn truyện, Tịnh nghiệp soát yếu v.v... rồi giới thiệu đến Hạ Trạch để nghe Trần nguyên Bạch lão cư sĩ diễn giảng Trần lão là một vị uyên thâm Phật lý, phát nguyện muốn cho Phật pháp phổ cập toàn cầu, dùng nữ giới đi tiên phong như cách tông đồ Thiên Chúa bố giáo ở Âu Châu thuở xưa. Bấy giờ bên nữ giới người học Phật lần đông, mà khổ vì không có chỗ chuyên tu. Lão cư sĩ là người đầu tiên đứng lên đề xướng về việc ấy.
Khi thăm Lý tiên sanh, được nghe lời khuyến khích, nữ sĩ từ giã ra về, quyết lòng nhập đạo, đi ngang qua Thơ Trạch nhờ bạn thân là Mã nữ sĩ đưa qua Hạ Trạch nghe giảng một phen. Khóa giảng xong, cô liền quy tâm Phật pháp, tôn Trần lão làm bậc thầy. Bạn đồng đạo bảy người đều mặc áo vải, ăn chay trường bỏ cả sự trang sức xa hoa, sớm tối tụng kinh niệm Phật không biết mỏi. Nữ sĩ dù dõng mãnh tinh tấn, song tu hành ở nhà nhiều nỗi trở ngại, đôi ba phen nhờ Trần lão tìm giùm chỗ nơi thuận tiện cho sự thanh tu, nhưng mãi mà chưa được.
Một thời gian lâu sau, có tin ở Đông Trực Môn, am Cực Lạc. Bảo Nhất pháp sư sửa sang chùa hư, mở Đạo tràng làm chỗ cho cả tứ chúng tu tập. Về phía Tây am có vài nóc dân phòng, pháp sư sửa lại làm quan phòng, ngăn ra từng gian, vừa vặn trang nghiêm, mỗi gian đều có cửa nẻo riêng biệt, như cách chế thôn lạc, rất tiện cho nữ chúng ở tu. Nữ sĩ nghe được rất mừng, nhờ Trần lão đưa đến quy y với Bảo Nhất pháp sư. Sau đôi ba phen bày tỏ lạy cầu. Pháp sư xót thương hứa nhận và chỉ định gian nhà phía Tây ở Tây viện làm chỗ tịnh tu cho cô. Được lời nữ sĩ bồi hồi cảm động, tủi tủi mừng mừng, bể trần lao chìm nổi nửa đời, đến đây mới được chỗ an thân học đạo.
Từ khi ở Đạo tràng quy y lễ tạ Bảo Nhất pháp sư rồi trở về nhà, nữ sĩ ngày ngày đem việc ly gia khẩn khoản bàn với Đàm Quân. Chàng buồn bã không quyết định được, mời hàng thân quyến và bạn hữu đến cùng nhau thương nghị việc ấy. Mọi người không hiểu chí nguyện của cô, đồng ngăn cản. Nữ sĩ bèn cắt một miếng thịt nơi cánh tay để tỏ bày chí kiên quyết của mình. Đàm Quân khóc lóc cầm lại không được, xin mãn ba năm rồi trở về nhà cũng không được. Ngày 23 tháng 8 năm Tân Dậu, nữ sĩ đến am Cực Lạc.
Qua ngày 26 thọ giới Bồ tát, phát nguyện ba năm không ra khỏi ngõ am, chuyên tu tịnh nghiệp, an lòng với đạo cho mãn kiếp sanh. Cô dù xa nhà ở ẩn, nhưng hàng thân hữu đến thăm càng đông, lòng không kham nổi sự phiền phức, liền đóng cửa phòng bảo người rằng: “Tôi lìa nhà thế như đưa đi chôn, vào tịnh thất như để xuống huyệt, đóng cửa phòng như lấp đất, việc ân nghĩa đối xử với bên ngoài từ nay kể như đã đoạn tuyệt!” Xem đây có thể thấy tâm chí của cô kiên quyết như thế nào! Lúc bấy giờ nữ sĩ tuổi vừa ba mươi, đúng với ý nguyện, hạn kỳ ngày trước.
Đức Phật nói: “Phàm việc chi đều có nhân duyên, có nguyện tất có ngày đền đáp”, Như Vô Sanh nữ sĩ: nửa đời chìm nổi, vườn trần mưa gió cánh xuân; nhân tốt sớm gieo, duyên tịnh đưa về cõi Phật. Ấy đâu phải là sự ngẫu nhiên ư?
Trích dịch: “Vô Sanh nghiệp ký”
Tỳ kheo: Thiền Tâm, hiệu Liên Du
Tự Tri Lục
(Lời tự thuật của Vô Sanh nữ sĩ)
Mấy Lời Phi Lộ
Hoa xuân, cành liễu oanh kêu hót,
Mình biết mình hơn kẻ biết mình!
Mùa thu tháng chín năm Tân Dậu, tôi đóng cửa thất nơi Tây viện am Cực Lạc, ở kinh sư, vâng lời Thầy dạy, cấm ngữ, tuyệt sự đời, chẳng chơi thi từ văn mặc.
Khi mới dụng công, nhiều cảnh giới bỗng nhiên phát hiện. Tôi thưa hỏi Thầy, người liền nói là ma, là huyễn vọng, dặn đừng tham chấp, chớ sợ hãi. Trải qua năm tháng sau, các cảnh tướng bất tịnh lại phát hiện. Đem trình hỏi Thầy, người bảo: “Đó là do đời trước con đã tu pháp bất tịnh quán, túc căn phát hiện, không có chi lạ”!
Từ đó về sau, cảnh tướng mỗi ngày mỗi khác. Thưa thuật lại, thầy bình luận cho chỗ thấy của tôi phần nhiều hợp với kinh Phật, song vẫn dặn kĩ chớ nên chấp trước, chớ cho là thắng giải. Vì thế, tôi không ghi chép, cảnh tướng trải qua liền quên.
Gần đây, sau khi ra thất, các bạn hữu ưa gạn hỏi mãi tình huống trong khi yểm quan. Chuyện vẫn nhiều, cảnh giới lại phức tạp khó nắm cương lãnh, bất đắc dĩ tôi phải gắng nhớ lại việc còn ghi nhớ, chép ước lược ra để nhờ thầy bạn chỉ bảo. Tôi cho rằng: nếu chuyên dụng công, tự có cảnh giới, không cần hỏi gặt hái, chỉ chăm lo cày bừa. Nếu chẳng cày bừa mà muốn gặt hái, tất không có lẽ đó. Trong vài tháng trở lại đây, chỗ dụng công của tôi càng thêm đắc lực. Xin chân thành ghi lại trong tập này, phần đại khái cùng một vài chi tiết nhỏ có lợi cho bạn đồng tu, để cùng nhau tham khảo.
Sau khi viết xong, tôi đặt nhan đề là “Tự Tri Lục”. Đây chính là lấy ý nghĩa: sự ấm lạnh tự mình riêng biết vậy.
Tháng quý đông, năm Giáp Tý
Ngày Phật thành đạo
Ưu bà di: Hiển Nhẫn
Pháp Thức Tu Tập
Khi mới yểm quan, tôi đã chủ định điều cốt yếu thứ nhất là phải buông cả muôn duyên, xem thân này như đã chết, quan phòng như nấm mồ của mình. Ngày đêm sáu thời, tôi không để tâm đến việc chi khác, chỉ một mặt tưởng nhớ Phật A Di Đà cùng thế giới Cực Lạc là chỗ nương về duy nhứt, nhận chắc cõi này đầy dẫy nỗi khổ, miền kia thuần sự an vui.
Vì thế, khi đi đứng nằm ngồi, tôi giữ câu niệm Phật khăng khăng không rời. Niệm mãi tới lúc hình nhọc sức mỏi, thần khí hôn trầm, không còn có thể chi trì, lại đứng dậy lễ Phật để duy trì chánh niệm. Khi lễ Phật, ít thì 21 hoặc 48 lạy, nhiều hoặc hai ba trăm lạy không nhứt định, lấy sự hôn trầm tan mất, tâm được thanh tịnh làm chừng. Có khi lễ đến đầu xay xẩm, mắt lờ mờ, thân hình ngả sụm, vẫn còn lạy mãi không thôi.
Đây là phương châm tối thượng để đối trị bệnh hôn trầm, tôi thường thể dùng và thường được hiệu nghiệm. Nếu khi tạp niệm sôi nổi, tinh thần tán loạn, không pháp chi dứt được, tôi liền tụng danh hiệu Di Đà, Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh hải chúng xoay vần nối nhau không ngớt để ngăn trừ. Hoặc có khi lại tả vài trăm câu Phật hiệu vào sổ tay, rồi cứ xem kĩ theo mặt chữ niệm từ trên xuống dưới, cách này cũng rất là đắc lực. Hai phương pháp trên có thể đối trị bịnh tán loạn, xin đưa ra đây để cho bạn đồng tịnh thử dùng.
Phương pháp niệm Phật rất nhiều, tôi chọn lấy hai cách: 1. Niệm to tiếng, khi niệm quán mỗi tiếng mỗi câu đi vào trong tâm. Bởi, niệm to tiếng có thể rửa sạch trần cấu của năm ấm, quán tiếng vào tâm thì lòng dễ chuyên mà tạp tưởng ít. 2. Ngồi im niệm thầm, khi niệm miệng dù không ra tiếng, nhưng trong tâm mỗi chữ mỗi câu vẫn rành rẽ rõ ràng.
Hai phương pháp nầy tôi thay đổi nhau mà dùng, tùy theo trong người khi khỏe lúc nhọc. Niệm mãi như thế, lâu ngày sức huân tập thuần thục, không niệm mà tự niệm. Lần lần đến khi cùng người chuyện vãn mà trong tâm câu niệm Phật vẫn nối tiếp nhau không hở dứt. Khi ấy động cùng tịnh đã hiệp một. Đây gọi là cảnh giới tương ưng.
Thời gian niệm Phật của tôi dài ngắn không định, có khi một giờ, hai giờ, có khi năm, sáu giờ. Trước tiên là niệm to tiếng, niệm mãi đến khi mệt thì ngồi yên nhiếp tâm mà niệm thầm để khôi phục sức khỏe; ngồi lâu đã mỏi lại đứng lên đi kinh hành hoặc lễ Phật cho thân thể được hoạt động. Ba điều trên đây, tôi cứ tùy thời xoay vần thay đổi, nên có thể duy trì sức niệm được lâu. Muốn cho vọng niệm bớt ít, tôi tự khắc lệ, dùng chuỗi ký số lấy một ngàn câu làm đơn vị.
Trong khoảng ngàn câu đó, nếu có một câu thất niệm, không chắc chắn, rõ ràng, thì bỏ cả, trở lại từ một. Lại khi niệm Phật, tôi thường nhắm mắt, nếu nửa chừng ngẫu nhiên mở mắt ra, cũng bỏ cả, đếm trở lại từ một. Lúc lễ bái, phát nguyện, tôi đem hết lòng thành kính khẩn đảo, như tự thân ở trước Phật, sớm tối đều lấy 108 lạy định làm thường khóa.
Mỗi khi rời phòng thờ Phật, tôi lễ Phật xin phép, tự hẹn thời gian bao lâu sẽ trở vào, khi vào cũng lễ Phật thưa trình, như thờ đức Thầy nghiêm, không dám sai trễ. Đèn hương trên bàn Phật, tôi giữ nối luôn không cho tắt dứt, nếu không thể được vẹn toàn thì phải có một trong hai món. Vài điều trên đây là những phương pháp dùng hình thức để duy trì chánh niệm.
Trước kia tôi vẫn hay buông trôi theo thói quen, nhưng sau khi nhập thất lại lấy sự sửa đổi tập quán làm chủ yếu. Lúc gặp những cảnh vật đáng ưa, sự tình đáng mến, liền dứt bỏ; với những cảnh vật đáng ghét, sự tình khó chịu, thì gắng ẩn nhẫn cho qua. Khi đau ốm, tôi nghĩ rằng: đây là lúc sắp vãng sanh, là điểm quan yếu của một đời tu, ta nên tinh tấn, nhẫn các sự khổ, chớ để khi lâm chung mất chánh niệm. Tôi lại tự lập chí kiên quyết: dù chi bịnh khổ suy mòn, mạng sống đến giờ hấp hối, nếu còn một chút hơi thở, chút tri giác, thì lấy đó mà tưởng niệm Phật. Như thế báo thân đã mãn, tất được vãng sanh, chẳng là đều vui ư? Nghĩ đến đó, lòng tự an nhiên, không kinh sợ.
Tôi vẫn ít ngủ, phen nhập quan này, sự ngủ nghỉ lại càng ít hơn. Dù có ngủ tâm cũng không hôn mê, thường tợ như chiêm bao, mà chẳng phải chiêm bao, vẫn thấy mình có thể lễ Phật niệm Phật như lúc bình thường không khác. Nhân đó tôi lại càng cố gắng lặng lòng quán sát, quét trừ ma ngủ để nối luôn niệm thanh tịnh, mong làm sao cho niệm lực ngày đêm như một. Điều này rất là khẩn yếu...
Trải Qua Cảnh Giới
Thời gian yểm quan tu tập chưa bao lâu, tôi cảm biết tứ thể nhẹ nhàng, đầu não mát mẻ, trong miệng nước tân dịch tuông tuông như suối trào, vị ngọt ngon.
Vào khoảng hai mươi mốt ngày sau, một đêm, trong thất khói đàn hương quá ngạt, tôi đứng lên đi lại mở cửa sổ để thay đổi không khí. Cửa vừa mở, mắt nhìn về phương Tây, thoạt thấy một đạo hào quang hình như cái móng theo chiều gãy chiếu sang phương Đông, ánh sắc vàng hồng, làm cho cả am sáng rỡ như ban ngày.
Tôi nhắm mắt chắp tay niệm Phật vài câu, mở mắt ra xem vẫn còn thấy hòa quang vàng nháng lên mấy lần mới tắt mất. Trong lòng tự biết đó là điềm tốt, càng thêm tinh tấn tu hành. Nhiều lần đang khi gõ mõ niệm Phật, mỗi dùi mõ đánh xuống phát ra một làn ánh sáng. Tôi lại thấy trong ngực có bình lưu ly, khi niệm Phật, mỗi chữ mỗi câu đều chun vào chứa đựng cả trong bình. Trên đây là những cảnh giới trước sau trong khoảng tháng mười một tháng chạp.
Đêm hai mươi bảy tháng chạp, lúc trời gần sáng, tôi bỗng cảm thấy mình đang đi trên tuyết, mỏi mệt muốn trở lại, thoạt nghe tiếng người bảo: “Đã đến Tây phương, phía trước có người đón tiếp con”. Tiếng nói vừa dứt, trước mắt bỗng mở ra một vùng ánh sáng mênh mang, các tướng tốt rực rỡ của cõi Cực Lạc hiện bày trong ấy, tràng phan bảo cái rất mực trang nghiêm, có vị Bồ tát an tọa trên tòa sen báu.
Tôi tự biết đó là đức Quán Thế Âm, song miệng vẫn niệm Nam mô A Di Đà Phật, rồi cúi xuống lạy. Bồ tát bước đến đỡ dậy, khen ngợi: “Công hạnh của con cũng khá tốt, chỉ hiềm còn thiếu chữ Bi”! Tôi liền gieo mình đảnh lễ: Nam mô đại từ đại bi A Di Đà Phật. Vừa ngước đầu dạy, thoáng thấy Bồ tát bay lên có dạng như hơi khói nước sôi trào. Trong tâm thầm nghĩ “Đó chắc là Ngài làm phép”. Lúc ấy liền thức tỉnh.
Bấy giờ, tôi cảm thấy có vô số hạt châu sáng lăn vòng khắp trong thân, các hạt châu đều kêu thành tiếng niệm Phật, mà lạ thay, tiếng đó lại lanh lót ở giữa chừng không. Khi ấy nơi tâm càng mát mẻ, nhẹ nhàng, cảnh hiện được ba giờ mới dứt. Từ đây cho đến hơn mười ngày sau, mỗi khi lễ phật, niệm phật, lúc vừa mới chắp tay, trong thân các hạt châu lại bắt đầu hành động không ngớt, kế lại hiệp thành một hạt châu lớn phía sau có ánh sáng vàng. Lăn vòng khắp châu thân.
Trong một ngày có đến đôi ba phen như vậy. Lại có khi tôi vừa niêm Phật một tiếng, bỗng thấy châu sáng lên một hạt, niệm đến số 108 câu, các hạt châu liên kết nhau hòa thành xâu chuỗi, tự máng vào cổ mình. Cảnh trạng này mấy ngày mới hết.
Ngày Nguyên Đán năm nhâm Tuất, sau giờ ngọ tôi bỗng thấy vô số nam nữ qua lại, cười nói ồn ào quấy rầy mãi chẳng thôi. Bọn ấy dạy bảo tôi niệm chú mới, tôi vừa đọc qua một biến, liền giác ngộ biết là ma, vội bước xuống tòa đến trước bàn gõ mõ niệm Phật lớn tiếng.
Tiếng niệm phật nếu dừng, tiếng kia lại nổi lên, hoặc kêu chị chị em em, hoặc khua như tiếng đồ đạc bễ vỡ hoặc có nhiều người đem đồ ăn ngon ngoài đời lại nài nỉ ép bảo ăn. Khuyên chớ tu hành đã luống công mà nhọc nhằn khổ não, tôi lại thấy trẻ nhỏ hai bên nói : “Ta là Phật Di Đà đây” kế lại tự cam lấy bốc cháy nóng từ trên đầu, rồi lần lần bay dang ra xa. Đôi khi lửa từ trong miệng phựt ra có ngọn.
Bây giờ trong thân như có vật chi muốn vọt ra ngoài mà không được. Cảnh trạng như thế biến hiện rất nhiều, đáng kinh, đáng sợ ! Lúc ấy tâm tôi dù hơi khiếp hãi, song thần trí vẫn sáng suốt không bị động , quyết liều chết giữ chắc một câu niệm phật để chống trả lại. Như thế luôn cả sáu ngày đêm, mắt không nhắm, không nằm, không ăn, không một khắc nào rời lễ niệm khẩn cầu, như con thơ kêu cứu cùng cha mẹ.
Đến cuối ngày thứ sáu, khí lực suy kém, trong người quá mỏi mệt, mà vẫn còn gắng sức chỉ trì lễ Phật vài trăm lạy để cầu xin gia hộ. Trong lúc thân càng khốn như thế, cảnh ma lần lần tiêu dứt. Sau khi ấy, tôi lên giường nằm thử, may mắn sức khỏe lại khôi phục như thường. Qua ngày kế, đang lúc tịnh tọa, tôi cảm thấy từ nơi ngực hơi nước tuông tuông phun ra như sóng cuộn, mãi mãi chẳng thôi, khí lực kém lần, không thể tự chi trì được. Tôi liền phát tâm chí thành khẩn cầu, niệm phật, thầm nghĩ: “giờ phút vãng sanh, âu là hôm nay.
Thôi, không còn nên đoái tưởng một mảy may gì nữa cả” ! Như giây phút, trước cảnh trạng suy kiệt như săp chết đến nơi ấy, hơi nước bổng nhiên xoay lại, hòa thành cái chụp lưu ly trong suốt sáng rỡ, che trùm cả thân mình. Tôi liền khen ngợi Phật Pháp không thể nghĩ bàn! Tiếc thay! Người đời không chịu tu hành, hoặc tu mà đạo không hơn ma, không thể duy trì chánh niệm, để tinh thần hỗn loạn, nến đỗi giữa đường phải bỏ dở. Thật đáng thương! Đáng xót !
Vào hạ tuần tháng giêng, một hôm dường như chiêm bao mà không phải chiêm bao, mắt còn chưa nhắm, tôi cảm thấy như mình sắp chết, trên đầu có ít người kêu réo. Lúc ấy, thần trí tôi không hề lay động, vẫn chuyên tâm niêm Phật, cho rằng: đây chính là giờ vãng sanh. Lại tự nghĩ: “Sao phương Tây còn chưa có nười đến tiếp dẫn” ?
Vừa nghĩ như thế, bỗng cảm thấy mình từ trong đường tối đi ra, vụt bay thẳng lên hư không, khắp châu thân toàn là cánh sen vàng, tùy tâm chớp động, vui thích vô ngần! Lại tưởng: “ sao không thấy Phật”? Liền khi ấy trước mắt hiện ra đức Phật lưu ly ngòi trên tòa sen lớn, có bồ tát hầu hai bên, Phật bảo: “ta cho con một hoa sen”. Tôi liền thức dậy.
Cách vài hôm sau, trong lúc tĩnh tọa, tôi thấy mình bay lên hư không hóa thành hào quang vàng, chính hào quang là thân mà không có thân tướng, nhẹ tang sáng suốt, vui thích vô cùng! Có một ngày, bỗng nhiên thân mình như kết lưới, kết rồi lại dứt, cảnh tượng ấy kéo dài hơn tháng mới thôi. Không bao lâu, tôi cảm thấy khắp mình sáng suốt, soi thấy ngũ tạng, cả thân tái sanh như thịt thúi, mắt thành lổ to như hai ngọn đèn.
Khi niệm một tiếng Phật, liền thấy thịt thúi lột ra một lớp như sóng vỗ trôi cát. Lần lần lột sạch hết cả. lại thấy thân như chụp lưu ly, trong ấy trùng bu đầy, đầu trùng đều ngước cả lên rất đáng sợ, vài ngày mới hết. Kế lại thấy khắp thân từ da thứa đến thịt xương lột ra từng lớp như lột bỏ tơ mục, đến khi hết, lòi cả tạng phủ ra bừa bãi trên giường.
Các tướng như thế biến hiện không thể nghĩ bàn! Trải qua mấy cảnh giới trước, tôi tự thấy khắp mình ánh sáng chói suốt, phát hiện nhiều thứ châu báu trang nghiêm. Các tướng ấy một ngày biến đổi vài lần, hoặc hóa làm lộng phướn, hoặc hóa thành đền đài, hoặc từ các lổ chân lông đồng thời chiếu ra hào quang vàng như sợi chỉ.
Có hôm, những sợi ấy hợp thành một bó chỉ vàng phân nửa hướng lên trên , phân nửa rũ xuống dưới, đều hóa thành lưới báu, mỗi mắt lưới một hạt châu, chân lưới bao chụp cả thân mình, các hạt châu va chạm nhau thành tiếng thanh thao êm dịu! Có lúc từ ba mặt lưới mưa nhỏ tuôn phơi phới, mỗi giọt nước hóa thành hình tròn liên tiếp như thế vài ngày đêm không dứt, rốt sau lại biếng thành ao vàng. Trong ao ấy có các thứ báu hoạt động sanh vật, trên có chữ Vạn màu vàng che phủ.
Một hôm, tôi bổng thấy đỉnh đầu bễ vỡ tuôn ra nhiềuhoa báu phun vọt lên trên, ánh sáng chiếu xuốt, soi thấy chư phật bồ tát đầy khắp hư không. Bấy giờ sáu căn lẫn lộn, không còn phân biệt được, không trong không ngoài. Mặc dù cảnh giới có biến đổi lạ lùng, song tôi vẫn an nhiên, không vui mừng, kinh sợ.
Vài hôm sau, tôi lại thấy từ trong ngực có hoa sen báu vọt ra, cánh sen sắc vàng hồng, khép nở liền liền. Trong hoa hiện ra đức Phật A Di Đà sắc vàng, Phật bay lên hư không, mình cúi lạy theo. Lúc ấy lại tự hiểu đức Phật mà mình đang lễ bái, chính là mình, không hai không khác. Một ngày, tôi chợt cảm thấy tâm khai, phóng hào quang sáng trắng như điện chớp, hiện ra cõi lưu ly báu. Trong đó có rất đông bồ tát và la hán an tọa, mình cũng đồng ngồi, quang cảnh như nhi đồng theo phụ huynh dạo chơi.
Vào hạ tuần tháng ba, một hôm tôi thấy chụp lưu ly phủ mình tự nhiên vỡ nát, miểng vụng văng ngang thì hóa thành cát sắc bạc, miểng văng lên biếng làm lồng vàng từ sau lưng văng ra phía trước rồi xoay lại. lúc ấy trong thân khốn khổ lạ thường, như rắng bò ra, như tằm nằm ngủ, đang khi khó chịu, tôi chợt cảm biết thân tâm khoan khoái, muôn niệm đều tiêu, nghe rõ các tiếng buồn khổ từ dưới đưa lên rất là thảm thiết! Kế lại nghe tiếng niệm Phật du dương trong trẻo từ xa lại gần, thanh tịnh an vui không thể nói dụ được! Nhìn xuống tôi thấy đất biến thành lưu ly sáng suốt mà chính đó là thân mình, bên tả hóa hiện cây Bồ đề to lớn, tàng rộng che trùm rất xa.
Từ trên đảnh đầu mình lại phóng ra ánh sáng sắc vàng, giữa ánh sáng hóa hiện cây cột thủy ngân, đầu cột có tiếng niệm Phật như máy phun nước nối liền không dứt. Ngày ấy tôi tịnh tọa ước chừng sáu giờ, sau khi xuất định, còn nghe tiếng người niệm Phật như kêu mình cứu vớt, hơn mười ngày mới thôi.
Từ đó về sau, trên đầu tôi đều cùng cánh sen bao vây, toàn thân cũng là cánh sen kết thành, mình đi dưới ánh sáng nắng màu sáng chói, tốt đẹp vô cùng.
Lại mỗi khi tôi tịnh tọa, bỗng thấy hào quang phóng ra, tường vách cõi đất đều chấn động, vật chi chạm đến hào quang đều liền vỡ nát hóa thành hoa vàng xoay lộn không ngớt. Trên hư không hoa báu bay liệng lên xuống đều đều chậm chậm như những cánh chim trời.
Trên đây là những cảnh giới trải qua từ rằm tháng chín yểm quan đến rằm tháng tư xuất quan. Từ đây đến rằm tháng mười là ngày nhập quan, trong vòng sáu tháng, cảnh giới không đổi mấy mà cũng không mất. Hoặc thấy toàn thân hiện thành ánh quang minh, dường như tơ phơi phới xoay vần không ngừng. Hoặc có lúc tự mình ngồi trên hoa sen bay lên hư không đi đồng hàng với các bậc Bồ tát, thường được nghe lời khen ngợi.
Đêm mười tám, sau mấy ngày nhập quan, tôi hay tin tiên phụ mất, liền bày linh vị trên bàn Phật, quì tụng kinh A Di Đà. Trong lòng xúc cảm, vừa niệm bài hương tán, nước mắt bỗng rơi nhỏ giọt như chất dầu. Sau thời kinh tôi đang tịnh tọa, chợt thấy bóng đen bay đến trước linh vị, lại nghe trên hư không có tiếng bảo: “Công đức đã viên mãn, cha của con được vãng sanh về biên cảnh Tây phương. Chờ khi nào đạo nghiệp con thành tựu, sẽ đồng được thấy Phật”. Liền khi ấy, bóng đen tan đi như mây khói. Tôi lại tịnh tọa nhập thâm định, thấy thân phụ đang ngồi trong vườn hoa rộng lớn, tốt đẹp rực rỡ, không phải cảnh nhơn gian. Đây phải chăng là miền biên địa ở Tây phương?
Đêm mười chín, trong lúc thầy cùng các bạn lập đàn niệm Phật để siêu độ cho tiên phụ, tôi thấy tiếng niệm Phật trong đàn kết thành một phiến, trong rõ chỉnh tề, du hành trong hào quang của tôi đến sáng mới thôi. Ngày ấy cảnh giới của tôi cũng đặc biệt thù thắng. Trên hiện hào quang vàng, dưới thành ao sen rộng lớn có vô số hóa Phật, tâm tôi khoan khoái cũng niệm Phật không ngớt. Thảng như thường có cảnh giới này lo gì tịnh nghiệp của mọi người không thành?
Vào buổi chiều tối ngày mùng 8 của một tháng mùa đông, lúc tôi niệm Phật, hào quang hóa thành lông cứng thẳng, sức rất mạnh khó điêu huấn. Nhưng khi niệm đến sau một ngàn câu, bỗng có tiếng nổ như mở nút miệng bình, hào quang mới lần lần dịu mềm xoay vào trong miệng. Bấy giờ thân thể tôi đồng như hơi bọt, mát mẻ vô cùng bên tai vang ra tiếng êm dịu.
Mấy ngày trở lại đây, cảnh giới phát động khốn khổ khác thường, bây giờ mới được yên lặng. Đây chính là vì tôi không quản chi cả, chỉ dùng một chữ Nhẫn để chống lại. “Nhẫn” này không phải nhẫn chịu sự thống khổ, mà chính thật pháp không nhẫn, là quên cả thân tâm ngoại cảnh, xem tất cả đều không. Tôi dùng cách này để hàng phục tâm mình, cảm thấy rất được tương ưng.
Ngày mùng mười, trước giờ ngọ, tôi niệm Phật đến lúc khẩn cấp, bỗng nhiên tâm khai hiện ra một vị Phật, sánh với đức Phật hồi tháng tư thì vàng sáng và rõ hơn, Phật hiện đối trước tôi, như đứng ánh sáng trăng bàng bạc phía trên lại hiện ra các thứ châu ngọc rực rỡ chớp nháng lấp lánh. Lúc ấy trong tâm tôi có trạng thái vừa đau, vừa sáng vừa yên tịnh, hơn một giờ mới hết. Liền đó, tôi lại thấy các hình tướng trang nghiêm ở cõi Cực Lạc xoay dạo không ngừng. Ấy cũng là công đức sẵn có trong tâm, chẳng phải cảnh ngoài.
Chiều rằm, đang lúc tĩnh tọa, tôi thấy trong hào quang sắc chàm hiện ra một chữ “Hồng” màu đỏ, hai bên nổi lặn như đèn điện tắt cháy, tự biết đó là bốn chữ A Di Đà Phật hiệp thành, tôi quán soi hồi lâu bỗng hiểu: bổn lai của ta chính là cái này. Nhân tưởng: “Bình nhựt vọng niệm từ đâu phát ra?” Lúc đó liền thấy một niệm nghĩ ấy dờn dợt từ dưới chữ mà ra, đó là chỗ vọng niệm phát xuất. Châu vi của chữ Phạn ấy lại vang ra tiếng trong rõ dị thường!
Đêm mười bảy, thân mình hốt nhiên hóa thành sợi chỉ trắng rất sáng suốt, xoay vần như gò núi. Nhân đó tự biết: Lông trắng giữa chân mày chia ra thì thành 32 tướng cho đến tất cả cảnh giới đều do nơi lông trắng này mà thành. Lúc tôi dụng công được tương ưng thì tâm cùng tiếng hiệp thành một khối lảnh lót như tiếng đồng tử hoặc có lúc ứng tiếng hòa với tiếng tôi mà niệm.
Đêm hai mươi, sau khi tôi tụng xong kinh Địa Tạng, tiếp tục qua kinh Di Đà, đến quyển thứ tư, câu A Dật Đa Bồ tát, bỗng nhiên thân thể rổng rang, tất cả đều không. Tôi lần ngồi xuống đất cũng không thấy hay động, da mặt đầu mình không biết đau ngứa, xúc giác tiêu tan, cảnh giới trang nghiêm lúc bình thường đều mất cả. Như thế giây lâu mới trả lại nguyên trạng. Khi ấy, tâm càng mát mẻ, hào quang càng rộng rãi dịu dàng vô cùng!
Ngày hai mươi tám, tôi tự cảm thấy thân thể hóa thành vầng mây, mây là thân không tướng. Áng mây thân đó họp lại thành gò núi, tan ra thành bạch quang, sự trong ngần của băng tuyết không thể sánh kịp. Khi ấy bốn phía, hai bên cùng sau trước, đều không còn phân biệt. Tôi chỉ tự cảm biết trạng thái lúc bấy giờ là một thể hồn nhiên sáng suốt mà thôi...
Lời Bình Luận
Trong kinh sách Phật, có nhiều chỗ khuyên răn người tu, lúc được cảnh giới tốt hay có sở đắc chi, chớ nên phô bày. Nếu phô bày thì dễ sanh ma chướng, tà niệm, hoặc có khi được rồi lại mất. Trừ ra hai phương diện:
1) Bậc Phật, Bồ tát hiện thân, vọng tâm đã dứt, vì muốn thủ tín cùng đời, hay vì dắt dìu chỉ dẫn người sau, nên mới nói ra.
2) Lòng mình có chỗ nghi, muốn thuật riêng lại với bậc thiện tri thức để nhờ quyết đoán sự chánh tà, tránh các điều hại, không phải có ý khoe khoang tự đắc.
Vô Sanh nữ sĩ là người thế nào, tôi không thể lường được, nên không giám phẩm bình về sự phô bày của tôi. Nhưng xin khuyên các hành giả phải cẩn thận, đừng có được ít mà đòi nhiều, và nếu không phải vì một trong hai trường hợp trên, xin chớ phô ra. Như thế mới khỏi mang tội đại vọng ngữ, và tránh được các điều hại.
Tập này, có một vị cư sĩ muốn in để truyền bá rộng ra, viết thơ hỏi ý kiến Ngài Ấn Quang. Đại sư không cho và bảo: “Nếu tu hành đắc lực, tự nhiên có cảnh giới. Song cảnh giới ấy cũng tùy công đức nơi tâm mà hiện, chớ không có chi lạ! Người tu, nếu đúng theo pháp mà niệm Phật, thì thấy tướng hảo càng tốt, không thấy cũng vô hại, bởi nhân chắc thật tất quả không hư dối.
Như tu niệm không đúng pháp, hoặc dụng công chẳng chí cực, thì có sở đắc là ma, không sở đắc là ngu si. Dù khi các cảnh tướng tốt hoặc xấu phát hiện, cũng nên giữ vững chánh niệm, đừng quá vui mừng, kinh sợ, vì đó là những chỗ hở để ma dễ nhập vào tâm. Người đời nay, khi tu hành, phần nhiều có tánh hiếu kỳ, không chú trọng nơi chỗ dụng công, chỉ mong cầu được thấy hảo tướng. Đã như thế, chẳng những không được cảnh tốt, mà do bởi vọng tưởng phân vân, ma nhân đó giả hiện Phật, Bồ tát để gạt gẫm, khiến cho điên cuồng.
Ấn Quang sợ e tập này in ra, không khéo lại thành mối duyên thúc đẩy kẻ vô tri sa vào nơi hố sâu ấy. Theo ngu ý, chẳng bằng nên thôi đi là hơn...”
Lời Ấn Quang đại sư dạy bảo trên đây thật là xác đáng. Nhưng, hàng cư sĩ bên Trung Hoa phần nhiều trình độ học Phật khá cao, đối với tập này, có thể không là điều cần thiết. Riêng Phật tử Việt Nam ta, sự hiểu đạo đa số còn mông lung, tâm tu hành không thiết tha tinh tấn nên tôi muốn mượn tập này để làm duyên tăng trưởng lòng tin cùng khuyến khích bạn đồng tu trên con đường tịnh nghiệp.
Với tập này, nếu người biết phân minh điều hay dở, thiết tưởng cũng không đến đỗi có hại. Điều hay là xem gương người để sửa đổi, sách tấn; rút lấy kinh nghiệm của người để làm lợi ích cho mình. Điều dở là như lời Ngài Ấn Quang đã chỉ trích ở đoạn trên.
Xem “Tự tri lục” xong, các hàng liên hữu suy nghĩ thế nào? Có lẽ chúng tôi nên hổ thẹn nhiều với bổn phận mình, với Hồ nữ sĩ! Vậy ta nên rảo bước cố theo kịp người trên đường về Cực Lạc. Ta phải thiết thực sửa đổi tăng tiến, chớ đừng nhìn nơi chỗ sở đắc của người mà khen ngợi mong tưởng suông. Như thế là vô ích, khác nào như kẻ nghèo ngồi nhà tính đếm gia tài của bậc phú ông? Và, nếu kẻ có đôi chút công hạnh mà tham chấp cảnh giới, hoặc vọng cầu các hảo tướng quá phần lượng, lại là một điều hại cần nên để tâm.
Trên đây là tất cả bao nhiêu điều thiết yếu.
Người bạn sen
Liên Du
Chuyện Vãng Sanh Ở Việt Nam (Tập I - Phần 1 & 2)
Chuyện Vãng Sanh Ở Việt Nam (Tập II Phần 3 & 4)
Comments
Post a Comment