TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC
91.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHỔ HIỀN BỒ-TÁT
* Đời Tống, trong niên hiệu Đại Minh thứ tư, Lộ Chiếu thái hậu tạo tượng Phổ Hiền Bồ-tát ngự nơi kiệu báu trên lưng voi trắng sáu ngà. Pho tượng được thờ tại Trung Hưng Tự, thái hậu cũng thường đến chùa nghe giảng thuyết.
Mồng tám tháng mười năm ấy, tại chùa mớ trai hội và khai giảng. Trong hội, ngoài tín chúng, còn có thái hậu và chư tăng độ vài trăm vị. Vì đông người, vua rất lưu tâm, sắc lệnh cho quân cấm vệ kiểm soát trong ngoài nghiêm mật. Bỗng có một vị tăng phong mạo rất oai nghiêm thanh tú, ngồi bên tượng đức Phổ Hiền. Chúng đều kinh ngạc chăm chú nhìn. Vị tăng ấy cùng trai chủ hỏi đáp hơn trăm lời rồi biến mất.
Đại chúng bàn tán, cho đó là thần nhân hộ tượng.
Trích Lục: Minh Tường Ký.
* Khuy Xung pháp sư ở Giao Châu, hằng hoài bão dược một phen đến miền Tây Thiên Trúc. Nhân đó, Pháp sư tạo tượng đức Phổ Hiền và khẩn nguyện rằng:
- Bồ-tát tùy thuận chúng sinh. Nay đệ tử muốn đến Tây Vức tham bái Thánh tích, cúi xin lượng từ bi giúp cho sở nguyện được hoàn thành.
Đêm ấy, Khuy Xung mộng thấy đức Phổ Hiền cỡi voi trắng đến xoa đầu bảo:
- Ngươi đã chỉ tâm muốn viếng xứ Phật, vậy hãy khởi hành. Nếu có lưu nạn, ta sẽ giúp đỡ.
Tỉnh giấc, Pháp sư khôn xiết vui mừng. Kế tiếp, ông lo sắm sửa mọi thứ cần dùng rồi cùng đồng bạn là sư Minh Viễn đi thuyền theo biên Nam đến Ấn Độ.
Trong cuộc hành trình, gặp sóng gió dữ, quỷ La-sát đón đường, Khuy Xung niệm danh hiệu đức Phổ Hiền thì biển lặng sóng êm, quỷ mị biến mất.
Có một lần, gặp con cá Ma-kiệt rất to, há miệng muốn nuốt thuyền, Pháp sư chỉ thành niệm danh hiệu Bồ-tát, pho Thánh tượng liền hiện trên thuyền, cá vội ngậm miện bỏ đi. Khỏi nạn ấy, đoàn người đến nước Sư Tử, rồi sang Tây Ấn Độ. Nơi đây, gặp Huyền Chiếu pháp sự hợp đoàn cùng viếng miền Trung Ân. Sau khi lễ Bồ-đề Đạo Tràng, vườn Trúc Lâm, Khuy Xưng lâm bệnh nhẹ rồi viên tịch. Trong di thư, Pháp sư có ghi rằng: “Nhờ đức hộ trì của đức Phổ Hiền, nên bần đạo sáu căn được thanh tịnh, sở nguyện cũng hoàn thành. Vậy xin đồng bạn cùng hàng đệ tử đừng lo buồn thương cảm...".
Trích lục: Cầu Pháp Ký.
* Tần An Nghĩa, người đất Cao Bưu, từ trẻ tuổi đến khoảng trung niên, làm nghề thả chim ó săn bắn, giết hại loài cầm thú rất nhiều. Những người tà kiến thấy thế bảo:
- Đó, ông ấy giết biết bao nhiêu sinh mạng mà có sao đâu?
Đến lúc năm mươi tám tuổi, An Nghĩa bỗng phát bệnh ghẻ, cả mình máu mủ hôi hám. Thân thuộc và những người đến thăm đều lấy làm lạ, khi thấy các mụn ghẻ ấy như mỏ loài chim trĩ, khép mở lay động. Có kẻ bảo nên thỉnh Đạo Tuấn pháp sư để hỏi xem đó là trạng thái gì? Pháp sư đến thăm rồi nói:
- Người này do thả chim ó săn bắn, tội nghiệp chồng chất sâu dầy, nên hiện thân bị ác bảo vong linh loài cầm thú cắn nứt thân thể. Nếu chẳng nhờ sức sám hối, tất không làm sao cứu trị được!
Lại hỏi An Nghĩa rằng:
- Thân tâm hiện giờ thế nào?
Đáp:
- Thân tâm tôi đau đớn như dần, khi nhắm mắt thấy vô số loài cầm thú đến cắn mỗ xương thịt. Xin nhờ thầy xót thương cứu vớt!
Đạo Tuấn bảo:
- Sự khổ hiện tại còn như thế, huống chỉ về sau? Phải tạo tượng Phổ Hiền Bồ-tát và sám hối tội lỗi mới mong có phần an ổn!
Ông vừa nói xong, An Nghĩa bỗng la lên một tiếng rồi chết giấc. Thân thuộc vây quanh than khóc. Pháp sư can ngăn, khuyên mau nên xuất tiền thuê tạo tượng đức Phổ Hiền, và dạy trần thiết bản Phật để mình vì gia chủ lễ Phổ Hiền sám. Ba ngày sau, An Nghĩa lần lần tỉnh lại, gọi người nhà bảo:
- Ban sơ, tôi thấy quỷ ngưu đầu mã diện giận dữ lôi kéo trách mắng tôi giết loài trì, gà rừng, nên chúng hiện vào thân cần nứt da thịt. Còn loài hươu nai và thú rừng khác đều kéo đến minh phủ tố cáo sự oan ức bị uổng sát, nên Diêm vương sai đòi đến xử phân. Nói xong, quỷ trói tay chân tôi liệng vào xe lửa rồi đấy đi. Giữa đường bỗng có một vị Sa-môn đến dùng tay xoa thân thể tôi, sự nóng khổ liền tạm dứt. Khi tôi bị đưa đến Diêm vương, thấy ngàn muôn loài vật đều cầm thú thân người, lấy gông cùm xiềng trói tội nhân. Lúc đó, vị Sa-môn khi trước hiện ra, đi thẳng vào điện. Minh chúa vội đứng lên chắp tay thưa hỏi, thỉnh ngồi chánh giữa, mình ngồi một bên. Sa-môn chỉ tôi bảo:
- Người này là đàn việt của ta, thân thuộc nó vì ta sám hối cúng dường, nên tha tội cho nó.
Diêm vương thưa:
- Lời Tôn đức tôi không dám trái, nhưng các oan hồn cầm thú bị tội nhân này sát hại, sẽ phân xử như thế nào?
Sa-môn đáp:
- Hiện thời, thân thuộc nó tu phước sám hối cầu nguyện cho các loài cầm thú bị giết, nên chúng đều sẽ được giải thoát khổ!
Diêm vương vui mừng nhìn tôi bảo:
- Tôn đức đã dạy như thế, vậy ngươi hãy theo Ngài ra về!
Kế đó, vị Sa-môn đưa tôi về đến nhà, dùng tích trượng khai khẩu tôi, rồi biến mất.
Thân thuộc và người láng giềng nghe xong. đều bảo:
- Trong nhà vì ông tạo tượng đức Phổ Hiền và tu phước sám hối. Vị Sa-môn đó chắc chắn là Bồ-tát hóa thân đến cứu hộ.
An Nghĩa nghe lời ấy, mừng thương lần lộn, bệnh ghẻ cũng từ từ lành. Sau khi bình phục, ông sắm hương đèn hoa quả, bảo cài tràng phan cúng dường tượng để lễ tạ ân cứu độ của Bồ-tát, rồi gọi thân thuộc con cháu đến bảo:
- Thân người mong manh mau chóng như móc sương điện chớp. Đem mạng sống ngắn ngủi mà tạo sự nghiệp vô cùng, đó là điều lầm lẫn rất lớn! Giết một mạng sinh vật sẽ bị tội trong nhiều kiếp, việc ghi chép xử phạt nơi minh phủ là điều có thật, không phải hư dối đâu!
Nói xong, An Nghĩa từ tạ thân quyền, vào chùa cạo tóc xuất gia, rồi ẩn tích tu hành nơi nào không ai được biết.
Trích lục: Cảm Ứng Truyện.
92.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG ĐỨC DI-LẶC Ở NƯỚC Ô TRÀNH
Trích lục: Ngoại Quốc Ký.
Bên dòng sông Đạt-ly-la ở nước Ô-trành- na tại xứ Bắc Thiên Trúc, có ngôi tỉnh xá thờ cốt tượng Di-lặc Bồ-tát. Tượng ấy thếp vàng, cao hơn mười trượng, tướng tốt trang nghiêm, mọi người đến cầu nguyện đều được sự cảm ứng linh dị.
Tương truyền, tượng này do A-la-hán Mạt Điền Địa tạo nên. Khi còn ở đời giáo hóa, một hôm, tôn giả Mạt Điền Địa nghĩ rằng: “Những người đắc độ trong ba hội Long Hoa, đều là các đệ tử thuộc di pháp của Phật Thích-ca Mâu-ni. Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, hàng đệ tử xuất gia, tại gia của Ngài cho đến kẻ niệm một câu “Nam mô”, cúng dường chư tăng ni một bữa ngọ, dều lần lượt tiến lên đường giải thoát trong thời kỳ Phật Di-lặc giáng thế. Nay, Di-lặc Bồ-tát đã sinh lên Nội viện cung Đâu-suât, chúng sinh làm sao thấy chân dung của Ngài để tạo hình tượng?".
Nghĩ xong, tôn giả cho gọi các thợ giỏi đến, rồi dùng thần thông đem họ lên cung trời Đâu- suất để chiêm ngưỡng đức tướng của Bồ-tát. Trải qua ba lần lên xuống như thế, thợ mới hoàn tất Thánh tượng. Lúc lên cung Đâu-suất, đức Di- lặc bảo tôn giả Mạt Điền Địa rằng:
- Ta dùng đạo nhân quan sát khắp cõi dại thiên, nơi nào có chúng sinh tạo hình tượng ta, ta đều sai thanh y đồng từ ngầm theo ủng hộ. Những kẻ đó quyết định không bị đọa vào ác đạo. Khi ta thành Phật, các tôn tượng ấy đều hiện lên hướng dẫn những người đó đến trước chỗ ta. Ta liền khen ngợi rằng: “Lành thay! Tôn tượng ta trong thời chánh, tượng, mạt pháp của Phật Thích-ca đã hướng dẫn ngươi đến đây!". Lúc đó, tượng liền bay lên hư không, phóng ánh sáng nói kệ, người ấy nghe rồi mừng cảm rơi lệ, chứng được đạo quả tam thừa.
Tôn giả Mạt Điền Địa cung kính vâng lãnh Thánh huân, đem truyền lại trong nhân gian.
93.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẠO TƯỢNG BỒ-TÁT DI-LẶC
* Thích Duyên Vu, xuất gia hồi còn bé, được tiếng khen là học hạnh song toàn. Sư thường tu phép quán Đâu-suất thiên cung, nguyện sinh về Đâu-suất nội viện. Đêm nọ, Duyên Vu mộng thấy thanh y đồng tử bảo:
- Nếu muốn sinh lên cung trời Đâu-suất phụng kiến đức Từ Thị, phải tạo hình tượng của Đại sĩ, rồi hằng ngày quán chân dung.
Tỉnh giấc, sáng ra, Sư thuê thợ khắc gỗ thơm tạo tượng Di-lặc Bồ-tát tướng tốt trang nghiêm, rồi y theo đó mà quán tưởng.
Đến hơn bảy mươi tuổi, Duyên Vu không bệnh mà viên tịch. Lúc lâm chung, Sư gọi đồ chúng bảo rằng:
Tượng đức Di-lặc hiện giữa hư không tiếp dẫn, ta sẽ theo tôn tượng sinh về Đâu-suất thiên cung!
Trích lục: Tân Lục.
* Thuyền Minh pháp sư nguyện sinh về cõi trời Đâu-suất, khắc tượng Di-lặc Bồ-tát cao ba tấc bằng gỗ chiên đàn. Sự viết bốn quyền Thượng Sinh Kinh Sao để thuyết minh về lý sâu mầu của kinh ấy. Một đêm, Sư nằm mơ thấy pho tượng lần lần cao lớn, tướng tốt trang nghiêm, thân ánh sắc vàng rực rỡ, đổi mình mỉm cười. Thuyên Minh quỳ xuống bạch rằng:
- Con có được thành mãn bản nguyện sinh về cung trời Đâu-suất chăng?
Tượng đức Di-lặc đáp:
- Ta đã được đức Thế Tôn phú chúc, kẻ không niệm còn chẳng bỏ, huống chi người đã có niệm nguyện!
Nói xong, tượng lần trở lại nguyên trạng. Sư trầm mặc không đem việc này nói với người ngoài. Sau khi Sư viên tịch, đồ chúng tìm trong di thư, mới biết rõ sự cảm ứng. Lúc Thuyên Minh lâm chung, người xung quanh mộng thấy trăm ngàn thanh y đồng tử đón tiếp Sư sinh lên cõi trời.
Trích lục: Tân Lục.
94.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM
* Sau khi đức Thế Tôn Niết-bàn, các quốc vương từng nghe Phật nói phạm vi tòa Kim Cang nơi Bồ-đề Đạo Tràng, liền đem hai pho tượng Quán Tự Tại Bồ-tát để hai phương Nam và Bắc để ghi giới hạn. Các vị kỳ túc ở Tây Vực bảo rằng:
- Khi hai pho tượng này ẩn mất xuống lòng đất, Phật pháp chân chánh sẽ không còn ở đời.
Lúc Huyền Trang pháp sư sang Ấn Độ, tượng ấy đã ngập sâu đến ngực. Pháp sư sang Tây Vức khởi đầu từ niên hiệu Trinh Quán thứ ba đời Đường, nhằm Phật lịch 1578.
Trích Lục: Từ Ân Truyện.
* Nơi ngôi tịnh xá trung ương ở Côn Sơn tại nước Ma-kiệt-đà, có Thánh tượng Bồ-tát Quán Thế Âm. Thân tượng tuy nhỏ, nhưng oai thần rất linh hiển. Tượng ấy tay cầm hoa sen, đỉnh đầu có hóa Phật. Những người đến cầu đạo, thường tuyệt thực niệm Thánh hiệu từ bảy ngày đến hăm mốt ngày, để mong cho sở nguyện được thành tựu. Nhiều kẻ thấy tượng hiện ra tướng tốt rực rỡ, đến an ủi dạy bảo.
Thuở trước, quốc vương nước Tăng-già-la ở Nam Hải, một buổi sáng câm gương soi, bỗng không thấy mặt mình mà chỉ thấy tượng Bồ-tát hiện ra. Vua rất cảm mộ, tả hình dáng và cho người đi tìm. Khi đến Cô Sơn thì đều nhận rõ chính là pho tượng ấy. Nhân đó, vua liền xuất tiền lập tịnh xá và sắm các thứ thờ phụng cúng dường. Về sau, các quốc vương khác đều kế tiếp nhau đến cầu nguyện cúng dường không dứt. Vì sợ nhiều kẻ đến gần làm nhơ tôn nghi, các tín chúng tạo lan can gỗ bao quanh, cách tượng độ bảy bước. Từ đó, những kẻ đến cầu nguyện đều lễ bái bên ngoài lan can, đem hương hoa cúng dường từ xa rài vào. Nếu hoa vướng nhằm bàn tay, cánh tay của Bồ-tát thì cho là điềm lành, sở nguyện được thành tựu. Huyền Trang pháp sư khi sang Tây Vực, có đến đây cầu nguyện. Trước khi đi, Pháp sư mua các thứ hoa đẹp kết thành nhiều tràng. Khi đến nơi, Ngài chỉ thành lễ bái, đọc bài kệ tán, rồi quỳ xuống phát ba điều nguyện:
- Nếu ở Ấn Độ học Phật pháp rồi trở về nước được bình yên không tai nạn, xin tràng hoa máng vào bàn tay.
- Phước huệ tu một đời, nguyện hồi hướng sang lên cung trời Đâu-suất để gần gũi phụng sự đức Từ Thị, nếu được như ý, xin hoa máng vào cánh tay.
- Trong Thánh giáo nói: "Có một phần chúng sinh không Phật tánh", Huyền Trang này vẫn còn nghi. Nếu chúng sinh đều có Phật tánh và tu hành đều có thể thành Phật, xin tràng hoa máng vào cổ.
Phát nguyện xong, đứng lên cầm hoa ném vào, thì đều được như ý. Người xung quanh trông thấy khen rằng:
- Lành thay! Điều chưa từng có, ngày sau Pháp sư thành Phật, xin nhớ nhân duyên này mà độ chúng tôi trước.
Trích lục: Từ Ân Truyện.
* Đời Dao Tần, Sa-môn Thích Trí Mãnh ở Kinh Triệu, phát nguyện sang Tây Vức tham bái Thánh tích. Khi đến Nam Thiên Trúc, Sư thấy gần tòa tháp của Bồ-tát Thi-lợi-mật-đa-la có ngôi tinh xá hư nát đã lâu. Trong ấy có pho tượng đức Quán Thế Âm sắc vàng, mưa nắng vẫn không hư ướt. Trí Mãnh thành tâm lễ bái, bỗng thấy giữa hư không có lọng che tôn tượng, Sư hỏi thăm sự tích, nghe các vị kỳ túc bảo:
- Thuở trước, có vị Bồ-tát tên Thi-lợi-mật- đa-la, tâm hoài bão lợi sinh, thương xót chúng hữu tình thọ khổ tam đồ, phát nguyện tạo tượng Quán Thế Âm đại sĩ. Trải ba năm tượng thành, hiển điềm linh dị, nếu có ai cầu nguyện, Đại sĩ đều hiện thân mầu chỉ điểm dạy bảo. Thi-lợi- mật-đa-la đối trước Thánh tượng nguyện rằng: “Đại sĩ đức từ bi rộng lớn, có thể diệt sự khô trọng hai mươi lăm cõi. Nay chúng sinh ở tam đồ chịu khổ rất nặng, cúi xin Đại sĩ hiển linh xót thương cứu vớt!".
Canh hai đêm ấy, Thánh tượng phóng quang minh chiếu sáng đất trời. Trong quang minh hiện ra sự khổ ở mười tám cảnh địa ngục, sự khô nơi ba mươi sáu thành ngạ quỷ, sự khô bốn mươi ức thân to lớn, đem trăm ngàn quân mang kim giáp, cầm dao thương gậy chùy đến đập phá vạc dầu cột lửa và các khổ cụ nơi mười tám cảnh địa ngục. Các khô cụ bồng biến thành hoa sen, cảnh địa ngục hiện ra ao nước mát. Ngưu đầu quỳ tốt kinh sợ, dem việc ấy bạch với Diêm vương, Diêm chúa bảo:
- Đó là thần lực cứu khổ của Quán Thế Âm Bồ-tát, ta không làm sao được!
Liền chắp tay hướng về nơi ấy mà nói kệ răng:
Quy mạng Quán Thế Âm
Sức oai thần tự tại
Thị hiện trăm ngàn quân
Phá khổ ba đường ác!
Sau khi phá mười tám cảnh địa ngục xong, Thánh tượng liền thuyết pháp nhiếp hóa chúng sinh ở đó. Kế tiếp, tượng lại vào các thành ngạ quý, tay mặt phóng ánh sáng hiện năm trăm con sông, tay trái cũng thế. Giữa hư không mưa xuống nước cam-lộ, làm cho tất cả ngạ quỷ thảy đều no đủ, rồi thuyết pháp giáo hóa. Tượng lại vào cảnh súc sinh, dùng ánh sáng trí huệ phá tâm si mê của loài này, và nói pháp giải thoát.
Thi-lợi-mật-đa-la trông thấy cảnh đó, liền tự vẽ hình tượng và cho khắc vào đá để ghi lại việc ấy. Đây là nhân duyên của Linh tượng này!
Việc trên đây rất ly kỳ, cho biết oai thần của Quán Thế Âm đại sĩ khó nghĩ bàn! Trong kinh Đại Thừa Bảo Vương cũng có nói tướng lợi sinh của Bồ-tát giống y như thế.
Trích lục: Thích Trí Mãnh Truyện.
95.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM QUÁN ÂM ĐƯỢC SỐNG LÂU
Trích lục: Đường Tăng Truyện.
Đời Ngụy, Thích Đạo Tân ở tỉnh xá Hoàng Đường tại Thường Sơn, mộng thấy một vị bảo:
- Số ông đến năm bốn mươi hai tuổi sẽ thọ chung.
Lúc tỉnh giấc, Đạo Tân bâng khuâng không vui.
Đến năm ấy, nhân khi đau nặng, Sư nhớ lại điểm trước, sinh lòng lo sợ, liền xả đồ vật riêng bố thí tu phước. Có người bạn đạo đến thăm hỏi:
- Tôi nghe nói cúng dường sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ-tát cùng xưng niệm Quán Thế Âm phước đức đồng nhau. Sao Đại đức không chí tâm quy y Ngài để được tăng thọ?
Đạo Tân nghe nói cảm ngộ, liền chuyên tỉnh niệm danh hiệu Quán Thế Âm luôn bốn ngày đêm. Tối lại, Sư đang ngồi tựa gối trì niệm, bỗng thấy một đạo quang minh từ cửa song bay vào. Ngoài màn phảng phất hiện thân tướng đức Quán Thế Âm ngồi kiết già, từ mắt cá nơi chân phóng ánh sáng rực rỡ. Đạo Tân nghe tiếng Bồ- tát thuyết kệ:
Nếu có cảm sâu dầy
Có thể chuyển định nghiệp
Như duyên quả, hiện kém
Khổ nhẹ cũng khó dứt
Đem hết lòng quy y
Nên biết cơ cảm sâu
Nghe danh không xưng niệm
Tất là túc duyên cạn
Người chỉ thành niệm ư?
Sẽ tùy duyên chiêu cảm!
Đạo Tân vội vén màn nhìn ra, thì không còn thấy nữa. Sự vui mừng cảm động, bỗng tự biết thân thể nhẹ nhàng, sức khỏe tăng gia. Kế tiếp, bệnh lần lần dứt, kết cuộc được sống lâu.
TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC
MỤC LỤC
LỜI TỰA
QUYỂN THƯỢNG
1.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỦA VUA ƯU ĐIỄN VÀ BA-TƯ-NẶC
2.- SỰ CẢM ỨNG HỌA TƯỢNG PHẬT CỦA VUA ẢNH THẮNG
3.- SỰ CẢM ỨNG MỘNG THẤY TƯỢNG PHẬT CỦA MINH ĐẾ NHÀ HÁN
4.- SỰ CẢM ỨNG THỈNH TƯỢNG PHẬT CỦA LƯƠNG VÕ ĐẾ
5.- SỰ CẢM ỨNG DI TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC TỪ CÙNG DIÊM-LA TRỞ VỀ
6.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC MẠNG CHỒNG
7.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THẤY CÕI CỰC LẠC
8.- SỰ CẢM ỨNG CỦA HAI NGƯỜI NGHÈO ĐEM TIỀN VÀNG THUÊ HỌA TƯỢNG PHẬT
9.- SỰ CẢM ỨNG GÓP TIỀN TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỔ
10.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT VÀ BỒ-TÁT ĐƯỢC SINH LÊN CUNG TRỜI ĐÂU-SUẤT
11.- SỰ CẢM ỨNG THỜ HỌA TƯỢNG PHẬT A-DI-ĐÀ ĐƯỢC VÃNG SINH
12.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG A-DI-ĐÀ CAO BA TẤC CỦA THÍCH ĐẠO DŨ
13.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC SONG THÂN
14.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU CHÚNG SINH Ở TAM ĐỒ
15.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỦA SA-MÔN TĂNG CAO
16.- SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA CHIM ANH VŨ DẪN NGƯỜI NIỆM PHẬT
17.- SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA LÀM THÂN CÁ DẪN ĐỘ NGƯỜI NIỆM PHẬT.
18.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỔ ĐỊA NGỤC
19.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT A-SÚC BỆ CỦA THÍCH SONG HUỆ
20.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CÒN ĐƯỢC SỐNG THÊM NĂM MƯƠI NĂM
21.- SỰ CẢM ỨNG CẦU NGUYỆN PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC GIÀU SANG
22.- SỰ CẢM ỨNG ĐEM MỘT ĐỒNG TIỀN CÚNG PHẬT ĐƯỢC GIÀU SANG
23.- SỰ CẢM ỨNG NGƯỜI PHÁ GIỚI XƯNG HIỆU PHẬT DƯỢC SƯ LẠI ĐẮC GIỚI
24.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC KHỎI TỘI
25.- SỰ CẢM ỨNG MỘT THAI PHỤ ĐƯỢC PHẬT DƯỢC SƯ CỨU KHỎI NẠN
26.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC HOÀN SINH
27.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT TỲ-LÔ-GIÁ-NA TRỪ ĐƯỢC CHƯỚNG NẠN
28.- SỰ CẢM ỨNG ĐỨC ĐỘNG HIỆP THÂN TỰ XƯNG VÔ GIÁ-ĐÀ-BÀ
29.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TƯỢNG NGẦM ĐỨC PHẬT CỦA NGÀI THÍCH HÀM CHIẾU
30.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC TRUYỀN THỪA CỦA HAI BỘ MẠN-ĐÀ-LA
31.- SỰ CẢM ỨNG LỄ BÁI KIM CANG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC ẢNH HƯỞNG GIẢI THOÁT
32.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM THÁNH CHÚNG THAI TẠNG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC THOÁT NẠN
33.- SỰ CẢM ỨNG XÁ-LỢI HIỆN ĐIỀM LÀNH
34.- SỰ CẢM ỨNG ÔNG A ĐẮC TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC HOÀN SINH
35.- SƯ CẢM ỨNG NHỜ BẠN CŨ TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC LÌA THÂN MÃNG XÀ
36.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM QUAN ÂM, PHÁT NGUYỆN LÀM THÁP PHẬT ĐƯỢC KHỎI TỘI CHẾT
37.- SỰ CẢM ỨNG ĐO NỀN TỊNH XÁ CỦA TRƯỞNG GIẢ TU ĐẠT
38.- SỰ CẢM ỨNG VỀ QUẢ LÀNH XÂY CẤT CHÙA SAU KHI PHẬT NHẬP DIỆT
39.- SỰ CẢM ỨNG DÙNG CHIẾC GẬY LÀM TRỤ VÁCH TINH XÁ ĐƯỢC KHỎI CHẾT YẾU
40.- SỰ CẢM ỨNG QUÉT SÂN TINH XÁ ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
41.- SỰ CẢM ỨNG DO TẠO TINH XÁ, CHA MẸ NHIỀU ĐỜI ĐƯỢC THÊM PHƯỚC
42.- SỰ CẢM ỨNG VỀ OAI ĐỨC CỦA TINH XÁ PHẬT TẠI NƯỚC THẤT-LA-PHIỆT-TẤT-ĐẾ
43.- SỰ CẢM ỨNG CỦA ĐỨA TRẺ CHƠI ĐÙA, DÙNG LÁ CÂY LÀM TINH XÁ ĐƯỢC SỐNG LÂU
44.- SỰ CẢM ỨNG THẦY TỶ-KHEO TÔ ĐẮP LỖ VÁCH ĐƯỢC TĂNG THỌ
45.- SỰ CẢM ỨNG VUA NƯỚC KIM ĐỊA SỬA CHÙA HƯ ĐƯỢC THÊM TUỔI
QUYỂN TRUNG
46.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM, TRÙNG KIẾN NHỜ NƯỚC RỬA TAY ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
47.- SỰ CẢM ỨNG KINH HOA NGHIÊM ĐỔI CHỖ NẰM TRÊN KINH A-HÀM
48.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM ĐƯỢC TẶNG THUỐC TIÊN
49.- SỰ CẢM ỨNG PHÁP LỰC KINH HOA NGHIÊM ĐÁNH LUI A-TU-LA
50.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG BÀI KỆ KINH HOA NGHIÊM PHÁ ĐƯỢC ĐỊA NGỤC
51.- SỰ CẢM ỨNG LONG TỬ THÀNH TÂM HỌC KINH A-HÀM
52.- SỰ CẢM ỨNG SỰ TĂNG DU TỤNG KINH A-HÀM ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ
53.- SỰ CẢM ỨNG TẢ KINH A-HÀM ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
54.- SỰ CẢM ỨNG CON CHÓ NGHE KINH A-HÀM, SAU ĐƯỢC CHỨNG QUẢ
55.- SỰ CẢM ỨNG BẦY DƠI NGHE TẢNG A-TỲ-ĐẠT MA ĐƯỢC GIẢI THOÁT
56.- SỰ CẢM ỨNG CON CHUỘT NGHE TANG LUẬT ĐƯỢC ĐẠO QUẢ
57.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TỶ-KHEO THỌ TRÌ TẠNG LUẬT
58.- SỰ CẢM ỨNG THỌ TRÌ KINH ĐẠI TẬP DIỆT TỘI NGŨ NGHỊCH
59.- SỰ CẢM ỨNG NGHE TÊN KINH PHƯƠNG ĐẲNG ĐƯỢC SINH TỊNH ĐỘ
60.- SỰ CẢM ỨNG TU PHƯƠNG ĐẲNG SÁM PHÁP ĐƯỢC THỌ KÝ
61.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG TỤNG KINH DUY-MA CẬT
62.- SỰ CẢM ỨNG TẢ KINH DUY-MA CỨU MÌNH VÀ SONG THÂN
63.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG KINH LĂNG-NGHIÊM
64.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG TỤNG THẮNG MAN
65.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TU TẬP KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ
66.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TỶ-KHEO THÍCH TĂNG CẢM
67.- SỰ CẢM ỨNG VỀ DIỄN GIẢNG KINH KIM QUANG MINH
68.- SỰ CẢM ỨNG TẠO KINH KIM QUANG MINH SIÊU ĐỘ OAN GIA
69.- SỰ CẢM ỨNG VỀ ĐỌC TỤNG THƯ TẢ KINH DƯỢC SỰ
70.- SỰ CẢM ỨNG VỀ THƯ TẢ KINH TỲ-LÔ-GIÁ-NA
71.- SỰ CẢM ỨNG VỀ ĐEO MANG TÙY CẦU ĐÀ-RA-NI
72.- SỰ CẢM ỨNG VỀ OAI THẦN CỦA TÔN THẮNG ĐÀ-RA-NI
73.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC NGHE KINH THỌ MẠNG
74.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP TRÌ TỤNG BÁT-NHÃ TÂM KINH
75.- SỰ CẢM ỨNG KHI DỊCH KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
76.- SỰ CẢM ỨNG KHI CÚNG DƯỜNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
77.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẢ KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
78.- SỰ CẢM ỨNG VỀ NGHE VÀ TỤNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
79.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP, ĐỌC TỤNG KINH KIM CANG BÁT-NHÃ
80.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC GIẢNG TỤNG KINH NHÂN VƯƠNG BÁT-NHÃ
81.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TỤNG KINH VÔ LƯỢNG NGHĨA
82.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA, MÔI VÀ LƯỠI KHÔNG HƯ RÃ
83.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ
84.- SỰ CẢM ỨNG VỀ CÚNG DƯỜNG KINH PHÁP HOA
85.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TRUYỀN BÁ KINH ĐẠI NIẾT-BÀN
86.- SỰ CẢM ỨNG TẢ TỤNG KINH NIẾT-BÀN ĐƯỢC SINH VỀ CÕI PHẬT VÔ ĐỘNG
QUYỂN HẠ
87.- SỰ CẢM ỨNG KHI ĐỨC VĂN-THÙ HẠ SINH
88.- SỰ CẢM ỨNG ĐỨC VĂN-THÙ HÓA LÀM BẦN NỮ
89.- SƯ CẢM ỨNG CẦU VĂN-THÙ BỒ-TÁT
90.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG ĐỨC VĂN-THÙ
91.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHỔ HIỀN BỒ-TÁT
92.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG ĐỨC DI-LẶC Ở NƯỚC Ô TRÀNH
93.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẠO TƯỢNG BỒ-TÁT DI-LẶC
94.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM
95.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM QUÁN ÂM ĐƯỢC SỐNG LÂU
96.- SỰ CẢM ỨNG CÚNG DƯỜNG TƯỢNG QUÁN ÂM HƯ MỤC
97.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG THẬP NHẤT ĐIỆN ÂM
98.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
99.- SỰ CẢM ỨNG HỌA TƯỢNG THIÊN THỦ NHÃN
100.- SỰ CẢM ỨNG CỦA SÁU BỨC TƯỢNG QUÁN ÂM
101.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TƯỢNG QUÁN ÂM, ĐỊA TẠNG
102.- SỰ CẢM ỨNG KHI TẠO TƯỢNG ĐẠI THẾ CHÍ BỒ-TÁT
103.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG ĐỊA TẠNG BỒ-TÁT
104.- SỰ CẢM ỨNG CỦA PHÁP TƯỢNG NĂM VỊ BỒ-TÁT
105.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG DIỆT ÁC THÚ BỒ-TÁT
106.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG DƯỢC VƯƠNG DƯỢC THƯỢNG BỒ-TÁT
107.- SỰ CẢM ỨNG CỦA ĐÀ-RA-NI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ-TÁT
108.- SƯ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG LONG THỌ BỒ-TÁT
LỜI KỆ SAU CÙNG CỦA DỊCH GIẢ
Đã y truyện sách biên soạn thành
Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược Lục
Các việc như thế hãy còn nhiều
Chỉ ghi một ít làm tín chứng
Nguyện người nghe thấy đều phát tâm
Tạo kết duyên lành ngôi Tam Bảo
Dù rằng tin ngợi hoặc nghi chê
Đều mong lợi ích thoát sinh tử
Phật từng thọ ký đời mạt pháp
Nghe danh Tam Bảo khởi lòng tin
Tội chướng ba đời đều tiêu trừ
Kiếp sau được gần các Hiền Thánh.
Nguyện đem công đức biên soạn này
Hồi hướng chúng sinh trong pháp giới
Được nhiều thắng duyên thêm phước huệ
Đều chứng Vô Thượng đại Bồ-đề.
91.-Ẩn tu khuyên khắp sớm hồi đầu
Lìa khỏi dòng mê, sóng nước sâu
Phước huệ đủ trong câu niệm PHẬT
Tám muôn tư pháp cũng gồm thâu.
92.-Ẩn tu chầm chậm bóng dương đi
Ngoài cửa hoa nhàn liễu rũ mi
Đại-mộng hỏi ai người sớm tỉnh?
Ngày xuân chưa dễ hẹn tiên-tri !
93.-Ẩn tu khẩn nguyện khắp nơi-nơi
Niệm PHẬT xứng cơ lại hợp thời
Biển mộng hỏi ai, thuyền lạc bến
Sông mê này chút ánh sen rơi !
94.-Ẩn tu nghĩ tiếc bậc tài cao !
Biển luỵ trần ai đắm kiệt hào !
Giọt lệ Tần-Đình thương đất nước
Bên song kiếm ẩn thán công hầu !
95.-Ẩn tu nhìn lắm kẻ chơi vơi
Gào khóc quên tu cũng huyễn thôi !
Niệm PHẬT để cho tròn tánh PHẬT
Kiếp người chẳng uổng được thân người.
PHÁP YẾU TU HÀNH
Hòa-Thượng Thích-Thiền-Tâm
Yếu điểm của đường tu
Gồm hai phần Sự, Lý.
LÝ tu là sửa tâm
Cho hợp với chân lý
Sự tu chỉnh ba nghiệp
Giúp chứng cảnh chân như
Sửa tâm là dứt trừ
Nghiệp tham, ái, nóng, giận
Si mê cùng tật đố
Ngã mạn với kiêu căng
Chớ chạy theo hình thức
Say đắm nẻo lợi danh
Chuộng địa vị, quyền hành
Khoe thông minh, tài giỏi
Phải sanh lòng giác ngộ
Niệm thanh tịnh từ bi
Dõng tiến mà kiên trì
Sáng suốt mà khiêm hạ
Tự nghĩ mình xưa nay
Ðã tạo nhiều tội chướng
Chịu nhẫn nhục, sám hối
Biết an phận, tùy duyên
Duyên tốt chẳng kiêu khoe
Duyên xấu không thối não
Bình tỉnh mãi tiến tu
Như bơi thuyền ngược nước
Về biển Tát Bà Nhã
Ðến Bảo Sở an vui
Ðó là phần tu tâm
Hợp với lý giải thoát.
SỰ tu là thân nghiệp
Lễ kính Phật sám hối
Khẩu nghiệp trì chú kinh
Hoặc niệm Phật khen ngợi
Ý nghiệp giữ thanh tịnh
Mật tu môn Lục Niệm
Nguyện đền đáp bốn ân
Nguyện mình cùng chúng sanh
Sanh cõi vui thành Phật
Ðời đời gặp chánh Pháp
Tu sáu độ muôn hạnh
Tâm Bồ Ðề độ sanh
Trần kiếp không thối chuyển
Tu Sự mà bỏ Lý
Làm sao mở chân tâm?
Tu Lý mà phế Sự
Cũng không thể thành Phật !
Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG
Thì tức SẮC là KHÔNG
Tu Lý không bỏ Sự
Ðó tức KHÔNG là SẮC
Lý chính thật Chân-Không
Sự là phần Diệu-Hữu
Chân-Không tức Diệu-Hữu
Diệu-Hữu tức Chân-Không
Nếu chưa đạt lẽ nầy
Thà tu hành chấp CÓ
Ðừng cầu cao bác tướng
Mà lạc vào Ngoan-Không
Ðây chính hầm khổ đọa
Kẻ thông minh đời nay
Ða số mắc lỗi nầy.
Xưa có sư TÔNG THẮNG
Tài huệ biện cao siêu
Vì ỷ giỏi kiêu căng
Nên bị nhục chiết phục
Hỗ thẹn muốn tự tận
Thọ thần hiện thân khuyên
“ Sư nay đã trăm tuổi
Tám mươi năm lầm lạc
May nhờ gặp Thánh nhân
Huân tu mà học đạo
Tuy có chút công đức
Mà lòng hay bỉ ngã
Ỷ thông minh biện bác
Lấn người không khiêm hạ
Lời cao hạnh chưa cao
Nên phải bị quả báo
Từ đây nên tự kiểm
Ít lâu thành trí lạ.
Các THÁNH đều tồn tâm
NHƯ LAI cũng như vậy ”
Lại có kẻ đua tướng
Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư
Mượn thuyết pháp, tụng kinh
Ðể mưu cầu lợi dưỡng
Dành đệ tử, chùa chiền
Lập bè đảng, quyến thuộc
Thấy có ai hơn mình
Liền thị phi tật đố
Hại Thầy Bạn, phản Ðạo
Lừa dối hàng tín tâm
Lời nói thật rất cao
Việc làm thật rất thấp
Lý Sự đều sai trái
Hạng ấy hiện rất nhiều
Tạo biển khổ thêm sâu
Khiến đau lòng tri-thức
Lý, Sự đại lược thế.
CÔNG ĐỨC làm sao được?
Phật là ÐẠI Y VƯƠNG
Pháp là DIỆU TIÊN DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma , quỷ mị
Nạn động đất, xe, thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải thoát.
CHUYÊN TỤNG một phẩm Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các nguyện
Thỏa mãn các mong cầu
Chỉ sợ người không tin
Hoặc tin mà không sâu
Lại ngại không thực hành
Hoặc hành không bền lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu
Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người, cảnh
Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
Không hành như trên đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là PHÀM TĂNG
Giúp ích được gì đâu
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng THÀNH KÍNH
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
LẮNG LÒNG suy gẫm sâu.
Trời xanh tươi biếc một mầu
Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay
Mà sao đời đạo đổi thay
Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ
“THUYẾT PHÁP bất đậu cơ
Chúng sanh một khổ hải ”
Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương
Sóng dồn bọt biển tà dương
Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên
Bụi hồng tung gió đảo điên
Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.
Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.
BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI
NAM MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA. A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(21 lần)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHƠN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA. UM! BÚT RUM! HÙM!
(21 lần)
Nam mô Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, PHÁP GIỚI TẠNG THÂN A DI ĐÀ NHƯ LAI biến pháp giới Tam bảo.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
(niệm mau 10 hơi)
(KINH: Lúc xướng chữ A, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là Bồ Tát oai lực nhập vô sai biệt cảnh giới.)
Đức Phật Thế-Tôn, Chánh Biến Tri
Tướng hảo đoan nghiêm đều viên mãn,
Rủ lòng đại từ bi vô hạn,
Mở bày đại pháp cứu quần mê.
Niệm Phật hiện tiền đắc Phật tướng,
Thâm nhập cảnh giới bất tư nghị.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Quyết định một lòng xưng niệm Phật,
Hồng danh chứa nhóm vô lượng nghĩa,
Lợi lạc muôn ức chúng hữu tình.
Đức Phật Thế-Tôn, đấng Vô-thượng
Tri kiến, giác ngộ đều quang minh,
Rắc rải tuệ nhật khắp mười phương,
Rưới trận mưa pháp như Cam lộ.
Niệm Phật vãng sanh cõi Cực-Lạc,
An nhiên chứng đắc Vô-Sanh-Nhẫn.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Gìn giữ thân tâm bằng Phật hiệu,
Hồng danh tỏ ngộ Chân Như Tánh,
Dẫn dắt chúng sanh vào Tam-muội.
Đức Phật Như-Lai đấng Bất-động
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng đoạn thường,
Xa lìa chấp hữu hoặc chấp vô,
Tự tại chỉ bày phương tiện lực.
Niệm Phật an trụ nơi bản giác,
Tùy nghi hòa hợp với tánh Không.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Trang nghiêm tự thân bằng niệm Phật,
Hồng danh hiển phát Hư-Không-Tạng,
Tức thời thẳng vào Viên-giác-tánh.
Con nay xưng tán Đại Đạo-Sư,
Khen ngợi hồng danh vô lượng lực.
Nguyện đem hồi hướng khắp chúng sanh,
Mong cầu hết thảy cùng niệm Phật.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Từ Tán Tâm Sẽ Đi Đến Định Tâm
Miệng niệm Phật, tâm tưởng Phật, hoặc trụ nơi câu niệm Phật, gọi là Định Tâm Niệm Phật. Miệng niệm Phật, tâm không nhớ Phật mà suy nghĩ mông lung việc khác, đó là Tán Tâm Niệm Phật. Tán tâm mà niệm, hiệu lực so với định tâm yếu kém rất nhiều. Vì lẽ ấy, từ xưa đến nay các bậc thiện tri thức đều khuyên người cố gắng định tâm trì niệm, đừng để tán tâm.
Cho nên tán tâm niệm Phật không đủ làm gương mẫu.
Tuy nhiên, mỗi tác động bên ngoài đều liên quan đến tiềm thức, tức là thức thứ tám ở bên trong. Nếu tán tâm niệm Phật hoàn toàn không công hiệu, thì sáu chữ hồng danh kia từ đâu phát hiện? Đã có sáu chữ hiện thành, tất phải có hai chuyển lực: một là do chủng tử, từ tiềm thức phát hiện ra ngoài. Hai là sức tác động từ ngoài lại huân tập trở vào bên trong. Cho nên chẳng thể nói tán tâm niệm Phật hoàn toàn không công hiệu, bất quá so với định tâm nó yếu kém hơn nhiều mà thôi. Lối niệm tán tâm từ xưa đến nay không được đề xướng, nhưng hàm ý và công dụng của nó cũng không thể phủ nhận. Vì thế cổ nhơn có lưu một bài kệ rằng:
Di Đà sáu chữ pháp trung vương,
Tạo niệm phân vân chớ ngại màng!
Muôn dặm phù vân che ánh nhật.
Nhơn hoàn khắp xứ ửng dương quang.
Bài kệ này suy ra có điều xác đáng. Bởi hạt giống niệm Phật nơi thức thứ tám khi thành thục, tất dẫn phát thức thứ sáu khiến cho sanh khởi tịnh niệm. Rồi từ thức thứ sáu lại cổ động ra năm thức trước để thành hiện hành. Nhưng vì lúc chủng tử niệm Phật trải qua thức thứ sáu, bởi trần nhiễm của chúng sanh sâu dày, nên bị các niệm khác lấn cướp, tuy có lọt khỏi vòng vây song ảnh hưởng còn lại chẳng bao nhiêu. Ví như ánh mặt trời tuy rực rỡ, nhưng vì bị nhiều lớp mây che, nên khi lọt xuống nhân gian, chỉ còn vẻ ửng sáng. Nhưng ánh sáng thừa ấy sở dĩ có, cũng do công năng ảnh hưởng của mặt trời. Biết được lẽ này, người tu Tịnh Độ đừng quá ngại màng đến tạp tưởng phân vân, chỉ liên tiếp niệm hết câu này sang đến câu khác, chánh niệm còn được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Niệm như thế một lúc lâu, tự nhiên ngựa ý sẽ quay về tàu, vượn lòng lần lần vào động. Niệm một lúc lâu nữa, thì chánh niệm hiển lộ rõ ràng, không cần gạn bỏ điều nhiếp, mà tự nhiên thành tựu. Hiểu được lẽ này thì chỉ quý niệm nhiều, đừng ngại tán tâm. Như nước tuy bợn đục, lóng mãi tất sẽ thành trong. Người tuy tạp niệm nhiều, niệm Phật lâu tất sẽ thành chánh niệm. Nên biết cổ đức khi đi đứng nằm ngồi và tất cả hành động đều niệm Phật. Nếu các vị ấy hoàn toàn dùng định tâm mà niệm, thì lúc đi đường tất phải vấp chạm, hoặc khi tả kinh hay làm việc cũng không thể thành công.
Cho nên người xưa cũng có lúc phải phân tâm mà niệm, nhưng vẫn không rời câu niệm Phật, bởi dù có tán tâm vẫn không mất phần ảnh hưởng.
Đến đây, xin thuật một câu chuyện. Lúc nọ, có người đến hỏi một thượng tọa: "Thưa thật với thầy, tôi niệm Phật đã hơn mười năm nay mà vọng niệm vẫn còn nhiều, không biết cách chi trừ diệt. Tôi có đi nhiều nơi cầu hỏi phương pháp với những bậc đã tu trước mình. Vị này đưa kinh nghiệm này, vị kia dạy cách khác, có một đại đức lại khuyên tôi nên nín hơi niệm luôn hai mươi mốt câu rồi nuốt một cái. Tôi đã áp dụng qua đủ mọi phương thức, nhưng chỉ định tâm được lúc đầu, rồi sau có lẽ vì lờn quen nên vọng niệm trở lại như cũ. Không biết thầy có phương pháp nào hữu hiệu để dạy tôi chăng?"
Vị thượng tọa đáp: "Điểm thất bại đó do ông không bền lòng, mà cứ thay đổi đường lối. Nên biết phàm phu chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay gây tạo nghiệp nhiễm vọng quá nhiều đâu thể nhứt thời mà thanh tịnh được! Chỗ cốt yếu là phải dụng tâm cho bền lâu. Tôi xin đưa ra đây hai thí dụ: Ví như một bình nước hôi nhơ dẫy đầy, ông đem nước thơm sạch đổ vào. Vì nước dơ đã đầy, nước sạch tất phải dội ra ngoài, song ít nhứt nó cũng lưu lại trong bình một vài giọt. Nếu ông cứ bền tâm đổ vào mãi, ngày kia bình nước hôi sẽ hóa ra nước sạch thơm. Lại ví như ông đau bịnh dạ dày, uống thuốc chi cũng đều ói mửa ra. Ông cứ bền lòng dùng ngay thuốc trị bịnh dạ dày mà uống, đừng thay đổi thuốc chi khác. Mỗi phen uống tuy có bị ói mửa, nhưng chất thuốc cũng lưu lại ít nhiều, lần lần bệnh của ông sẽ dứt. Bệnh phiền não vọng tưởng của chúng sanh cũng thế, dùng thuốc niệm Phật điều trị tự nhiên là thích đáng, nếu thay đổi mãi làm sao thành công? Như có người dùng phèn lóng nước, nó chưa kịp trong, lại nóng nảy vội quậy lên đổ muối vào, đổ muối chưa kịp trong, lại quậy lên đổ vôi bột vào. Cứ thay đổi mãi như thế, làm sao nước trong cho được? Thế nên vấn đề dứt vọng niệm, không phải do nơi thay đổi nhiều phương pháp, mà ở nơi lựa một phương pháp thích hợp rồi thật hành cho bền lâu là thành tựu." Vị ấy nghe xong gật đầu cho là hữu lý.
Như đã nói, muốn được định tâm, điểm căn bản là phải dụng công cho bền lâu. Tuy nhiên nếu sợ niệm lực tán loạn, cần có phương tiện để tâm dễ yên tịnh, thì nên áp dụng pháp Thập Niệm Ký Số đã trình bày ở trước. Phép này do dùng hết tâm lực ghi nhớ từ một đến mười câu, nên dễ vào tịnh định. Nếu tâm còn rối loạn và không thể dùng phép Thập Niệm Ký Số, thì trong mỗi câu niệm chỉ cần chú tâm ghi giữ cho chắc một chữ "A". Khi chữ A còn thì mấy chữ khác đều còn, nếu mê mờ để cho nó mất, tất năm chữ kia cũng mất. Lại chữ A cũng chính là chữ căn bản, và là mẹ của tất cả chữ. Chú tâm vừa niệm vừa ghi chắc chữ A, lâu lâu tự nhiên tâm và cảnh đều tiêu tan dung hợp thành một khối, lượng rộng lớn dường hư không, Phật và mình cũng đều mất.
Lúc bấy giờ đương nhiên chữ A cũng không còn. Nhưng lúc trước nó mất là do bởi tâm xao động rối loạn, lúc này nó không còn chính thuộc về trạng thái dung hóa của thường định. Đây là hiện tượng tâm cảnh đều không, điểm sơ khởi để đi vào Niệm Phật Tam Muội.
Niệm Phật Thập Yếu
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
Một câu A Di Ðà
Như ngọc lắng trong nước
Ngàn muôn tạp niệm rối
Chẳng dứt tự thành không.
Nhứt cú Di Ðà
Như thủy thanh châu
Phân vân tạp niệm
Bất đoạn tự vô.
Hạt châu Thủy Thanh có công năng lóng nước đục thành trong. Câu niệm Phật cũng thế, không luận vọng niệm nhiều ít, hành giả cứ chuyên chú giữ chắc sáu chữ hồng danh lâu ngày, tạp niệm tự nhiên tan mất. Ðiểm đáng lưu ý trong đây là không nên khởi tâm dứt trừ vọng niệm. Vì vọng niệm vốn như huyễn, cố tình muốn dẹp, nó lại càng tăng. Một nhà hiền triết đã nói kinh nghiệm này qua câu: "Càng muốn đè nén, chính là cố tâm làm cho nó thêm phát khởi." (Tương dục án chi, tất cố hưng chi).
Comments
Post a Comment