TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC
81.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TỤNG KINH VÔ LƯỢNG NGHĨA
Trích lục: Tế Ký.
Đời Tề, Tỷ-kheo Huệ Biểu ở núi Võ Đương hằng tụng kinh Vô Lượng Nghĩa. Sau, Sư đầu đội kinh này ra khỏi núi đem truyền bá lưu thông. Lúc ấy, có người không tin nói:
- Kinh này hà tất là phần tựa của kinh Pháp Hoa!
Đêm ấy, người nọ mộng thấy vị thần mặc giáp vàng, mình cao hơn một trượng, cầm gươm chỉ vào mặt bảo:
- Kinh Vô Lượng Nghĩa chính là phần tựa của kinh Pháp Hoa, ức kiếp mới được gặp. Nếu thọ trì kinh ấy sẽ không mất tâm Bồ-đề. Người còn phỉ báng đem lòng không tin, ta sẽ chém đầu ngươi trước!
Thức giấc, người nọ sợ hãi, chí thành sám hối.
Lại khi Huệ Biểu pháp sư ở núi Võ Đương tụng kinh này. Một bữa, vào đầu hôm, có trăm ngàn chư thiên xuống cúng dường kinh và pháp sư. Huệ Biểu hỏi nguyên do, chư thiên đáp:
- Chúng tôi trước là loài chim thanh tước, nhân nghe pháp sư tụng kinh Vô Lượng Nghĩa, nên mạng chung được sinh về cõi trời Đao-lợi. Nay xuống đây viếng thăm và cúng dường báo ân. Lúc trước chúng tôi đồng xả thân một chỗ gốc Tây Nam núi này.
Nói xong đều biến mất. Huệ Biểu bảo thị giả tìm đến chỗ ở chim thanh tước, thấy đúng như lời dã thuật lại.
Kinh Vô Lượng Nghĩa công đức dường ấy, thật nên truyền rộng nơi đời.
82.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA, MÔI VÀ LƯỠI KHÔNG HƯ RÃ
* Đời vua Võ Thành nhà Tề, tại Tinh Châu, có người ở bên núi Đông Khan thấy một nơi sắc đất trắng vàng, đào lên được một vật trạng như hai môi người, bên trong là cuống lưỡi tươi hồng. Vật ấy được lan truyền và đem dâng lên vua. Vua hỏi, bá quan không ai biết. Đại Thống pháp sư bước ra tâu rằng:
Đây là một phần quả báo sáu căn không hoại của người tụng kinh Pháp Hoa. Nếu người nào tụng đủ một ngàn bộ kinh này, tất có hiện tượng đó.
Vua liền triệu tập, những người trì Pháp Hoa lại vây quanh tụng kinh, thì đôi môi và cuống lưỡi ấy nhích động tụng theo. Mọi người trông thấy đều kinh sợ tin tường. Vật ấy sau được cất để trong hòm đá, tại thất Thiên Vu.
Trích lục: Pháp Hoa Trì Nghiệm.
* Tại Bản Đường, có một đồng từ theo thầy xuất gia, hằng ngày tụng kinh Pháp Hoa. Không bao lâu, đồng tử ấy chết, thầy chôn ở mé rùng. Mỗi đêm, người trong làng nghe tại mẻ rùng có tiếng tụng kinh, lấy làm lạ lại đó xem, thấy một hoa sen xanh mọc lên. Đào đất tìm thì cọng hoa mọc từ cuống lưỡi, sắc còn tươi đó. Nhân đó dân chúng tin tưởng đem lưỡi để trong hộp, xây tháp thờ sau chùa Tập Thành.
Ông Cao Khải nhân việc này, làm thi vịnh rằng:
Đất vàng chôn hài cốt
Đâu chôn được tánh linh?
Nghe xưa bên thảo lâm
Từng nhà hoa sen xanh
Thân về nơi tuyền đài
Miệng tụng Diệu Liên kinh
Dấu tìm sao vắng vắng
Tiếng tụng đâu thanh thanh?
Đèn khuya soi tháp quạnh
Sơn tăng nghe một mình
Các hồn mê quanh đấy
Nên tỉnh mộng vô minh.
Trích lục: Lương Cao Tăng Truyện.
83.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ
Trích lục: Pháp Hoa Truyện Kỳ.
Thiếu sinh Chí Thông, người quận Thiên Thủy, huyện Lũng Thành, tuổi còn trẻ đã giữ trai giới, sáu thời lễ sám, hằng tụng kinh Kim Cang Bát-nhã và Pháp Hoa. Năm hai mươi tuổi, Sinh bị tuyển làm vệ sĩ trong Đoàn Thọ quân ở phủ Thinh Đức. Kế đó, cả đoàn lại phụng sắc chỉ đi dẹp giặc phương Nam, đường từ nhà đến đỏ xa hơn muôn dặm. Giữa đường, Chỉ Thông vẫn cố gằng giữ sự lễ tụng không thiếu sót.
Đến Nam Phương, lâm trận bị thua, tưởng sĩ đều tan rã bỏ chạy. Đoàn Thọ quân hơn trăm người phần nhiều chết và bị thương. Chỉ Thông dang khi sợ hãi thất lạc, bỗng có năm người cỡi ngựa chạy theo sau kêu rằng:
- Chớ nên kinh hãi! Ngươi tu công đức, xung quanh hộ vệ không ai làm hại được!
Chỉ Thông chạy hơn bảy mươi dặm, đến một tòa tháp miều, liền vào đó ấn thân, giặc tim không thấy đều trở về. Đang khi ấy, bỗng có hai vị tăng bước vào miếu, bảo Chí Thông rằng:
- Đàn việt lễ niệm chư Phật, tụng kinh Pháp Hoa và Kim Cang, công đức không thể nghĩ bàn, nên chúng ta đến đây cứu trợ. Năm vị vừa rồi là chư thần theo hộ vệ không để cho dân việt bị thương. Từ dây, đàn việt hãy gắng tu phước nghiệp đừng bê trễ, mọi việc đều có thiện thần ủng hộ, chớ nên lo ngại.
Nói xong, đồng bay lên hư không.
Chí Thông vì trọn ngày nhọc mệt, lại không ăn uống, nên cảm thấy đói khát rã rời. Giây lát bỗng có hai đồng tử đem cơm nước, thức ăn và bánh trái đến dâng mời. Đợi khi ăn xong, hai vị lại bảo:
- Hãy cố gắng trì kinh chớ để thiếu sót.
Nói xong, cùng đồng bay đi. Chỉ Thông thương khóc sám tạ. Sau đó, lại tìm được Đại quan tiếp viện, liền xin gia nhập, trải qua ba trận phá tan giặc mà không bị một vết thương. Biết là nhờ công đức Pháp Hoa và Kim Cang, lúc ban sư trở về, Chí Thông lại càng chuyên tâm trì tụng không dám biểng trể.
Ngày hai mươi tám tháng giêng năm Trinh Quán thứ tám, Chí Thông đau nặng, đến đêm mồng tám tháng hai thi từ trần. Sau khi tắt hơi, Thông bị dẫn đến một đại điện, đứng sau số người rất đông đảo. Trên điện, phản quan lần lượt xưởng danh, Diêm vương tùy theo nghiệp lành dữ mà thưởng phạt. Sau rốt nghe gọi đến tên mình, Chí Thông liền bước ra. Diêm vương hỏi sự tu phước lúc sinh thời, Chí Thông thưa:
- Tôi thường giữ trai giới, sáu thời lễ Phật, tụng kinh Pháp Hoa và Kim Cang Bát-nhã.
Diêm vương nghe nói, chắp tay cung kính khen rằng:
- Lành thay! Công đức không thể nghĩ bàn.
Liền sai quan Chủ Ty kiểm lại số bộ, thấy Chi Thông hãy còn sáu năm thọ số, tụng kinh Pháp Hoa được một ngàn bộ, kinh Kim Cang vạn bộ, ngoài ra, công đức lễ Phật trì giới cũng đều có ghi trong đó. Xem xét xong, vua cho mời Chi Thông sang điện phía Tây, sai đem giường vàng ghế ngọc, trải đệm ngồi và thỉnh tụng kinh. Kế đó, lại cho dẫn đi xem cảnh địa ngục để biết việc tội phước. Dạo qua các ngục xong, Chí Thông được đưa đến một tòa thành lớn phía Tây Bắc. Nơi đây, có lưới sắt bao trùm, bốn tên quỷ tốt giữ cửa, thân hình cao lớn, đầu như La-sát, tay cầm thiết xoa, miệng phun lửa dữ. Lại có hai con chó đồng thật to, miệng khạc nước đồng sôi chảy tràn vào trong ngục, tội nhân đau khổ đủ cách không thể kể xiết. Thấy cảnh tưởng ấy, Chí Thông kinh hãi, liền được sứ giả đưa trở về. Diêm vương bảo:
- Nay ông đã thấy việc tội phước báo ứng, lúc hoàn sinh, xin cố gắng siêng năng tu tập. Nếu biếng trễ, ngày kia sẽ sa vào ác đạo không ai cứu vớt. Như tỉnh cần, tất sẽ được sinh về cõi Phật!
Sau khi sống lại, Chí Thông thuật đủ mọi việc, từ đó hết sức tinh tấn. Qua sáu năm, ông biết trước ngày giờ, được sinh về Tịnh độ. Ngày văng sinh, nhạc trời dìu dắt, hương lạ đầy nhà.
84.- SỰ CẢM ỨNG VỀ CÚNG DƯỜNG KINH PHÁP HOA
* Mùa Đông năm Hoàng Thi thứ bảy, Cưu-ma-la-thập pháp sư dịch xong kinh Diệu Pháp Liên Hoa từ chữ Phạn ra Hán văn, thành một bộ bảy quyền hai mươi tám phẩm. Sang tháng Giêng năm sau, Ngài lại vâng sắc chỉ tạo kinh chữ vàng, dùng bảy báu trang nghiêm. Lúc ẩy, kinh phóng ánh sáng chiếu xung quanh, kẻ đạo người tục đến chiêm ngưỡng lễ bái đông như chợ. Đêm ấy, Pháp sư mộng thấy chư thần bảo:
- Trong kinh phiên dịch còn thiếu bốn chữ "nhất trần nhứt kiếp".
Tỉnh giấc, Pháp sư tìm duyệt các bản khác thấy quả đúng như lời, liền cho thêm vào. Vua Dao Tần vui mừng khen ngợi rằng:
- Pháp sư thật đã hiểu sâu ý kinh, nên cảm thông đến thần thánh.
Vua lại hỏi:
- Trẫm nên theo pháp thức nào đề củng dường kinh này?
Ngài La-thập đáp:
- Nếu muốn cúng dường phải y theo kinh dạy, lược có mười thứ là: Hoa, Hương (như các thử: hải ngạn, xạ hương, uất kim, tổ hợp v.v...), anh lạc, hương mạt, hương thoa, hương đốt, tràng phan bảo cái, y phục màn trướng như người ngoại quốc dùng tơ cọng sen dệt thành kiêu áo chư thiên, kỳ nhạc, chắp tay kính lạy.
Tần vương lại hỏi:
- Quả báo ấy như thế nào?
Đáp:
- Quả báo có gần xa. Gần thì hưởng phước nhân thiên, xa sẽ thành quả Phật thường trú.
Hỏi:
- Xin cho nghe vài điều cảm ứng.
Pháp sư đáp:
Như thuở Phật còn ở đời, có Tỳ-kheo Chiên Dân Hương, trong chín mươi mốt kiếp, khi ở cõi người hoặc lúc ở cõi trời, nơi các lỗ chân lông thường tỏa mùi hương Chiên đàn, trong miệng bay ra mùi hương hoa Ưu-bát-la. Sau rốt, gặp đức Thế Tôn, tu chứng quả A-la- hán, được tam minh, lục thông, bát giải thoát. Đó là quả báo đem hương hoa cúng dường tháp của Phật Tỳ-bà-thi. Lại, một trăm đồng từ tại thành Ca-tỳ-la, kiếp trước đồng ở một ấp, dem kỳ nhạc hương hoa cúng dường tháp Phật, trong chín mươi mốt kiếp không đọa ác đạo, hưởng phước nhân thiên, sau gặp Phật tu chứng đạo quả. Ngài Hoa Thiên đem hoa cỏ nơi đầm ruộng, rái cùng chư tăng, mỗi đời tùy chỗ sinh, hoa trời thường mưa xuống. Tỷ-kheo Oai Đức dùng hoa héo rải trên tháp, cũng được phước như vậy. Một Bà-la-môn tạo ba tội nghịch: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, sau hối hận dùng hương hoa cúng dường kinh, nên tội tiêu giảm. Do nghiệp dư, lúc chết đọa địa ngục, tự cảm thấy lửa dữ như suối ẩm, thân an vui bay ra mùi hương lạ, các tội nhân khác ngửi mùi hương ấy đều được sinh lên cõi trời. Vua Thiện Hóa dùng tràng phang bảo cái che chùa Phật, được phước báo làm Chuyển luân vương. Tỷ-kheo Hoa Cải dùng lọng rơm che tháp, trong chín mươi mốt kiếp đị đâu cũng có lọng hoa che trên đầu. Diệu Âm Bồ tát dùng kỹ nhạc cùng Phật, được sinh Tịnh độ, gặp vô số chư Phật. Ngoài ra, các sự cúng dường khác, được phước lành và kết cuộc thành Phật, không thể kể xiết!
Tần vương nghe nói hoan hỷ, cho sửa dọn dường sá sạch sẽ, trên mặt đường rải hoa và rưới nước thơm. Vua dùng hộp vàng dựng kinh Pháp Hoa tự đội lên đầu, đi sau ba ngàn vị Tỳ-kheo đến chùa, đem kinh dâng lễ trước hương án. Kể đó, vua lại dùng mười thứ cúng dường kinh. Lúc ấy, mây năm sắc vần vũ che mát vườn Tiêu Dao, nhiều người thấy chư thiên cưỡi đài mây ngự giữa hư không. Chúng đều khen ngợi là việc chưa từng có. Đêm ấy, vua cùng thái mẫu, hậu phi và thê nữ đều ở trong tỉnh thất tại Phiên kinh quán. Tần vương mộng thấy vườn Tiêu Dao hiện ra rộng lớn trang nghiêm như cõi Tịnh độ; đức Văn-thủ ngồi trên dải cao khai giảng đề mục kinh, chư Bồ-tát ở chín phương đem đồ cúng dường bay đến đông như mây. Sáng ra, vua thuật lại điêm mộng với ngài La-thập. Pháp sư bảo:
- Đó là điểm cơ cảm do lòng thành tin của bộ hạ. Dây cũng là thoại ứng kinh Diệu Pháp Liên Hoa hợp duyên với chúng sinh cõi này.
Trích lục: Tiêu Dao Viên Kỳ.
* Đời Lương Võ Đế tạo năm trăm bộ ca- sa, nhờ vị tăng đắc đạo là ngài Bảo Chí đem lên đỉnh núi Tu-di cúng dường cho năm trăm vị A- la-hán. Chỉ Công vâng sắc chi, dùng thần thông đến cõi trời Dao-lợi đem y cúng dường, vừa gặp một vị thiên tử tên là Bảo Anh. Vị thiên tử này mặc áo và đeo chuỗi anh lạc đẹp như trời Để Thích gấp trăm ngàn lần, ánh sáng che chư thiên khác. Chí Công hỏi:
- Do nhân duyên nào mà y phục và chuỗi ngọc của Ngài được mầu nhiệm như thế?
Thiên tử đáp:
- Kiếp trước tôi là một trưởng giả từ ở nước Hoa Thị, đem y phục và chuỗi ngọc cúng dường Diệu Pháp, nên khi sinh lên đây mới được quả bảo thủ thẳng này.
Lại có một thiên tử tên Diệu Vân, dung sắc cực đẹp, trăm ngàn thiên từ vây quanh. Chi Công hỏi nguyên nhân, vị ấy đáp:
- Kiếp trước tôi ở ấp Tất-ba-la nước Ma- kiệt-đà, do dùng hoa cúng dường Diệu Pháp, nên được phước báo thân sắc xinh đẹp.
Ngoài ra, còn có trăm ngàn chư thiên oai đức, từ tay hoặc miệng phóng ra ánh sáng, hỏi nguyên nhân thì đều do thư tà hoặc đọc tụng kinh Pháp Hoa, hoặc các kinh Đại thira khác. Khi trở về nhân gian, Chí Công đều đem việc này thuật lại cho Võ Đế và các quan nghe.
Trích lục: Pháp Hoa Truyện Ký.
85.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TRUYỀN BÁ KINH ĐẠI NIẾT-BÀN
Trích lục: Niết-bàn Truyện Ký.
* Đời Tấn An Đế, Tam Tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm đem mười quyền thuộc phần trước kinh Đại Niết-bàn và tập Bồ-tát Giới đến Trung Hoa. Tới xử Cô Tang, lúc nghỉ trọ nơi lữ quán, Ngài sợ mất bản kinh, mới đem gối đầu để ngủ. Giữa đêm, bỗng có người kéo Ngài té xuống đất. Ngài kinh sợ, cho là bọn trộm. Luôn ba đêm như thế, Đàm Vô Sấm chợt nghe trên hư không có tiếng bảo:
Dây là pháp giải thoát của Như Lai, đâu dược gối đầu nằm!
Ngài nghe nói tỉnh ngộ, sám hối rồi đem kinh đề nơi chỗ cao. Đêm sau, thật có bọn trộm đến lấy kinh, nhưng chúng không giờ lên nối. Rạng ngày, thấy Đàm Vô Sắm ôm kinh nhẹ nhàng như thường, chúng cho là bậc Thánh nhân, đến thú tội và sám hối. Từ đó, Đàm Vô Sẩm đem kinh Đại Niết-bàn truyền bá rộng ra.
* Đời Tống, vị tăng ở chùa Đông An tại kinh sư là Thích Huệ Nghiêm, thường hiểm kinh Đại Niết-bàn văn tự rộng nhiều, nên rút khải yếu lại còn vài quyền, rồi Sư sao tà ra đôi ba bồn, đem giới thiệu với các đồng bạn.
Đêm ấy, trong lúc mơ màng, Huệ Nghiêm bỗng thấy một vị thần tướng mạo khôi vĩ, cao hơn hai trượng, quát bảo:
- Trong các tạng, kinh Đại Niết-bàn rất tôn quý, sao được tùy ý châm chước?
Thức dậy, Sư buồn bã không vui, nghĩ đến sự dụng công nhiều, ý chí đã lập, nên không muốn thay đổi. Đến đêm, lại mộng thấy vị thần hôm trước lộ sắc diện nói:
Lỗi mà biết cải mới gọi không lỗi. Ta đã bào thế, nếu Sư còn cố chấp, tất tai họa sẽ đến!
Huệ Nghiêm kêu la thất thanh tỉnh giấc, chưa kịp sáng, vội viết thư sai người đi đòi mấy bổn mình đã sao ra, đem đốt hết.
Có bậc tôn túc nghe chuyện ấy, khuyên can Sư rằng:
Đây là điềm Thánh thần răn nhắc ông và người sau, đối với các kinh của Phật, không nên sửa đổi.
Huệ Nghiêm công nhận là đúng, nhưng nhớ lại việc trước, vẫn còn run sợ.
TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC
MỤC LỤC
LỜI TỰA
QUYỂN THƯỢNG
1.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỦA VUA ƯU ĐIỄN VÀ BA-TƯ-NẶC
2.- SỰ CẢM ỨNG HỌA TƯỢNG PHẬT CỦA VUA ẢNH THẮNG
3.- SỰ CẢM ỨNG MỘNG THẤY TƯỢNG PHẬT CỦA MINH ĐẾ NHÀ HÁN
4.- SỰ CẢM ỨNG THỈNH TƯỢNG PHẬT CỦA LƯƠNG VÕ ĐẾ
5.- SỰ CẢM ỨNG DI TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC TỪ CÙNG DIÊM-LA TRỞ VỀ
6.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC MẠNG CHỒNG
7.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THẤY CÕI CỰC LẠC
8.- SỰ CẢM ỨNG CỦA HAI NGƯỜI NGHÈO ĐEM TIỀN VÀNG THUÊ HỌA TƯỢNG PHẬT
9.- SỰ CẢM ỨNG GÓP TIỀN TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỔ
10.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT VÀ BỒ-TÁT ĐƯỢC SINH LÊN CUNG TRỜI ĐÂU-SUẤT
11.- SỰ CẢM ỨNG THỜ HỌA TƯỢNG PHẬT A-DI-ĐÀ ĐƯỢC VÃNG SINH
12.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG A-DI-ĐÀ CAO BA TẤC CỦA THÍCH ĐẠO DŨ
13.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC SONG THÂN
14.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU CHÚNG SINH Ở TAM ĐỒ
15.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỦA SA-MÔN TĂNG CAO
16.- SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA CHIM ANH VŨ DẪN NGƯỜI NIỆM PHẬT
17.- SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA LÀM THÂN CÁ DẪN ĐỘ NGƯỜI NIỆM PHẬT.
18.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỔ ĐỊA NGỤC
19.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT A-SÚC BỆ CỦA THÍCH SONG HUỆ
20.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CÒN ĐƯỢC SỐNG THÊM NĂM MƯƠI NĂM
21.- SỰ CẢM ỨNG CẦU NGUYỆN PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC GIÀU SANG
22.- SỰ CẢM ỨNG ĐEM MỘT ĐỒNG TIỀN CÚNG PHẬT ĐƯỢC GIÀU SANG
23.- SỰ CẢM ỨNG NGƯỜI PHÁ GIỚI XƯNG HIỆU PHẬT DƯỢC SƯ LẠI ĐẮC GIỚI
24.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC KHỎI TỘI
25.- SỰ CẢM ỨNG MỘT THAI PHỤ ĐƯỢC PHẬT DƯỢC SƯ CỨU KHỎI NẠN
26.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC HOÀN SINH
27.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT TỲ-LÔ-GIÁ-NA TRỪ ĐƯỢC CHƯỚNG NẠN
28.- SỰ CẢM ỨNG ĐỨC ĐỘNG HIỆP THÂN TỰ XƯNG VÔ GIÁ-ĐÀ-BÀ
29.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TƯỢNG NGẦM ĐỨC PHẬT CỦA NGÀI THÍCH HÀM CHIẾU
30.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC TRUYỀN THỪA CỦA HAI BỘ MẠN-ĐÀ-LA
31.- SỰ CẢM ỨNG LỄ BÁI KIM CANG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC ẢNH HƯỞNG GIẢI THOÁT
32.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM THÁNH CHÚNG THAI TẠNG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC THOÁT NẠN
33.- SỰ CẢM ỨNG XÁ-LỢI HIỆN ĐIỀM LÀNH
34.- SỰ CẢM ỨNG ÔNG A ĐẮC TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC HOÀN SINH
35.- SƯ CẢM ỨNG NHỜ BẠN CŨ TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC LÌA THÂN MÃNG XÀ
36.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM QUAN ÂM, PHÁT NGUYỆN LÀM THÁP PHẬT ĐƯỢC KHỎI TỘI CHẾT
37.- SỰ CẢM ỨNG ĐO NỀN TỊNH XÁ CỦA TRƯỞNG GIẢ TU ĐẠT
38.- SỰ CẢM ỨNG VỀ QUẢ LÀNH XÂY CẤT CHÙA SAU KHI PHẬT NHẬP DIỆT
39.- SỰ CẢM ỨNG DÙNG CHIẾC GẬY LÀM TRỤ VÁCH TINH XÁ ĐƯỢC KHỎI CHẾT YẾU
40.- SỰ CẢM ỨNG QUÉT SÂN TINH XÁ ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
41.- SỰ CẢM ỨNG DO TẠO TINH XÁ, CHA MẸ NHIỀU ĐỜI ĐƯỢC THÊM PHƯỚC
42.- SỰ CẢM ỨNG VỀ OAI ĐỨC CỦA TINH XÁ PHẬT TẠI NƯỚC THẤT-LA-PHIỆT-TẤT-ĐẾ
43.- SỰ CẢM ỨNG CỦA ĐỨA TRẺ CHƠI ĐÙA, DÙNG LÁ CÂY LÀM TINH XÁ ĐƯỢC SỐNG LÂU
44.- SỰ CẢM ỨNG THẦY TỶ-KHEO TÔ ĐẮP LỖ VÁCH ĐƯỢC TĂNG THỌ
45.- SỰ CẢM ỨNG VUA NƯỚC KIM ĐỊA SỬA CHÙA HƯ ĐƯỢC THÊM TUỔI
QUYỂN TRUNG
46.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM, TRÙNG KIẾN NHỜ NƯỚC RỬA TAY ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
47.- SỰ CẢM ỨNG KINH HOA NGHIÊM ĐỔI CHỖ NẰM TRÊN KINH A-HÀM
48.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM ĐƯỢC TẶNG THUỐC TIÊN
49.- SỰ CẢM ỨNG PHÁP LỰC KINH HOA NGHIÊM ĐÁNH LUI A-TU-LA
50.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG BÀI KỆ KINH HOA NGHIÊM PHÁ ĐƯỢC ĐỊA NGỤC
51.- SỰ CẢM ỨNG LONG TỬ THÀNH TÂM HỌC KINH A-HÀM
52.- SỰ CẢM ỨNG SỰ TĂNG DU TỤNG KINH A-HÀM ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ
53.- SỰ CẢM ỨNG TẢ KINH A-HÀM ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
54.- SỰ CẢM ỨNG CON CHÓ NGHE KINH A-HÀM, SAU ĐƯỢC CHỨNG QUẢ
55.- SỰ CẢM ỨNG BẦY DƠI NGHE TẢNG A-TỲ-ĐẠT MA ĐƯỢC GIẢI THOÁT
56.- SỰ CẢM ỨNG CON CHUỘT NGHE TANG LUẬT ĐƯỢC ĐẠO QUẢ
57.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TỶ-KHEO THỌ TRÌ TẠNG LUẬT
58.- SỰ CẢM ỨNG THỌ TRÌ KINH ĐẠI TẬP DIỆT TỘI NGŨ NGHỊCH
59.- SỰ CẢM ỨNG NGHE TÊN KINH PHƯƠNG ĐẲNG ĐƯỢC SINH TỊNH ĐỘ
60.- SỰ CẢM ỨNG TU PHƯƠNG ĐẲNG SÁM PHÁP ĐƯỢC THỌ KÝ
61.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG TỤNG KINH DUY-MA CẬT
62.- SỰ CẢM ỨNG TẢ KINH DUY-MA CỨU MÌNH VÀ SONG THÂN
63.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG KINH LĂNG-NGHIÊM
64.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG TỤNG THẮNG MAN
65.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TU TẬP KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ
66.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TỶ-KHEO THÍCH TĂNG CẢM
67.- SỰ CẢM ỨNG VỀ DIỄN GIẢNG KINH KIM QUANG MINH
68.- SỰ CẢM ỨNG TẠO KINH KIM QUANG MINH SIÊU ĐỘ OAN GIA
69.- SỰ CẢM ỨNG VỀ ĐỌC TỤNG THƯ TẢ KINH DƯỢC SỰ
70.- SỰ CẢM ỨNG VỀ THƯ TẢ KINH TỲ-LÔ-GIÁ-NA
71.- SỰ CẢM ỨNG VỀ ĐEO MANG TÙY CẦU ĐÀ-RA-NI
72.- SỰ CẢM ỨNG VỀ OAI THẦN CỦA TÔN THẮNG ĐÀ-RA-NI
73.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC NGHE KINH THỌ MẠNG
74.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP TRÌ TỤNG BÁT-NHÃ TÂM KINH
75.- SỰ CẢM ỨNG KHI DỊCH KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
76.- SỰ CẢM ỨNG KHI CÚNG DƯỜNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
77.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẢ KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
78.- SỰ CẢM ỨNG VỀ NGHE VÀ TỤNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
79.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP, ĐỌC TỤNG KINH KIM CANG BÁT-NHÃ
80.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC GIẢNG TỤNG KINH NHÂN VƯƠNG BÁT-NHÃ
81.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TỤNG KINH VÔ LƯỢNG NGHĨA
82.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA, MÔI VÀ LƯỠI KHÔNG HƯ RÃ
83.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ
84.- SỰ CẢM ỨNG VỀ CÚNG DƯỜNG KINH PHÁP HOA
85.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TRUYỀN BÁ KINH ĐẠI NIẾT-BÀN
86.- SỰ CẢM ỨNG TẢ TỤNG KINH NIẾT-BÀN ĐƯỢC SINH VỀ CÕI PHẬT VÔ ĐỘNG
QUYỂN HẠ
87.- SỰ CẢM ỨNG KHI ĐỨC VĂN-THÙ HẠ SINH
88.- SỰ CẢM ỨNG ĐỨC VĂN-THÙ HÓA LÀM BẦN NỮ
89.- SƯ CẢM ỨNG CẦU VĂN-THÙ BỒ-TÁT
90.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG ĐỨC VĂN-THÙ
91.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHỔ HIỀN BỒ-TÁT
92.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG ĐỨC DI-LẶC Ở NƯỚC Ô TRÀNH
93.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẠO TƯỢNG BỒ-TÁT DI-LẶC
94.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM
95.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM QUÁN ÂM ĐƯỢC SỐNG LÂU
96.- SỰ CẢM ỨNG CÚNG DƯỜNG TƯỢNG QUÁN ÂM HƯ MỤC
97.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG THẬP NHẤT ĐIỆN ÂM
98.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
99.- SỰ CẢM ỨNG HỌA TƯỢNG THIÊN THỦ NHÃN
100.- SỰ CẢM ỨNG CỦA SÁU BỨC TƯỢNG QUÁN ÂM
101.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TƯỢNG QUÁN ÂM, ĐỊA TẠNG
102.- SỰ CẢM ỨNG KHI TẠO TƯỢNG ĐẠI THẾ CHÍ BỒ-TÁT
103.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG ĐỊA TẠNG BỒ-TÁT
104.- SỰ CẢM ỨNG CỦA PHÁP TƯỢNG NĂM VỊ BỒ-TÁT
105.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG DIỆT ÁC THÚ BỒ-TÁT
106.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG DƯỢC VƯƠNG DƯỢC THƯỢNG BỒ-TÁT
107.- SỰ CẢM ỨNG CỦA ĐÀ-RA-NI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ-TÁT
108.- SƯ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG LONG THỌ BỒ-TÁT
LỜI KỆ SAU CÙNG CỦA DỊCH GIẢ
Đã y truyện sách biên soạn thành
Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược Lục
Các việc như thế hãy còn nhiều
Chỉ ghi một ít làm tín chứng
Nguyện người nghe thấy đều phát tâm
Tạo kết duyên lành ngôi Tam Bảo
Dù rằng tin ngợi hoặc nghi chê
Đều mong lợi ích thoát sinh tử
Phật từng thọ ký đời mạt pháp
Nghe danh Tam Bảo khởi lòng tin
Tội chướng ba đời đều tiêu trừ
Kiếp sau được gần các Hiền Thánh.
Nguyện đem công đức biên soạn này
Hồi hướng chúng sinh trong pháp giới
Được nhiều thắng duyên thêm phước huệ
Đều chứng Vô Thượng đại Bồ-đề.
81.-Ẩn tu đàn suối cạnh triền non
Tươi tỉnh hoa ngàn tợ phấn son
Sáng lạ vừa tan vầng ráng đỏ.
Đẹp xinh lại hiện bóng trăng tròn !
82.-Ẩn tu ai bảo chẳng Di Đà
Thiện Đạo quang-minh niệm niệm ra
Khang Tổ mỗi câu sanh hoá PHẬT
Cười hàng ngu chấp cố dèm pha.
83.-Ẩn tu ai bảo niệm hồng danh
Không có Tây-phương chẳng vãng sanh
Liên hữu xưa nay nhiều hiện ứng
Thánh-Hiền-Lục đã chép ghi rành.
84.-Ẩn tu chân thật chớ bề ngoài
Tu dáng tu hình lạc-lối sai
Tu tánh tu tâm lên giải thoát
Khuyên làng tu Phật chớ khoe tài.
85.-Ẩn tu hiếu thuận niệm Di Đà
Siêu độ cửu huyền đến mẹ cha
Hiếu đây mới là chăn thật hiếu
Đời tươi như gấm, đạo như hoa.
PHÁP YẾU TU HÀNH
Hòa-Thượng Thích-Thiền-Tâm
Yếu điểm của đường tu
Gồm hai phần Sự, Lý.
LÝ tu là sửa tâm
Cho hợp với chân lý
Sự tu chỉnh ba nghiệp
Giúp chứng cảnh chân như
Sửa tâm là dứt trừ
Nghiệp tham, ái, nóng, giận
Si mê cùng tật đố
Ngã mạn với kiêu căng
Chớ chạy theo hình thức
Say đắm nẻo lợi danh
Chuộng địa vị, quyền hành
Khoe thông minh, tài giỏi
Phải sanh lòng giác ngộ
Niệm thanh tịnh từ bi
Dõng tiến mà kiên trì
Sáng suốt mà khiêm hạ
Tự nghĩ mình xưa nay
Ðã tạo nhiều tội chướng
Chịu nhẫn nhục, sám hối
Biết an phận, tùy duyên
Duyên tốt chẳng kiêu khoe
Duyên xấu không thối não
Bình tỉnh mãi tiến tu
Như bơi thuyền ngược nước
Về biển Tát Bà Nhã
Ðến Bảo Sở an vui
Ðó là phần tu tâm
Hợp với lý giải thoát.
SỰ tu là thân nghiệp
Lễ kính Phật sám hối
Khẩu nghiệp trì chú kinh
Hoặc niệm Phật khen ngợi
Ý nghiệp giữ thanh tịnh
Mật tu môn Lục Niệm
Nguyện đền đáp bốn ân
Nguyện mình cùng chúng sanh
Sanh cõi vui thành Phật
Ðời đời gặp chánh Pháp
Tu sáu độ muôn hạnh
Tâm Bồ Ðề độ sanh
Trần kiếp không thối chuyển
Tu Sự mà bỏ Lý
Làm sao mở chân tâm?
Tu Lý mà phế Sự
Cũng không thể thành Phật !
Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG
Thì tức SẮC là KHÔNG
Tu Lý không bỏ Sự
Ðó tức KHÔNG là SẮC
Lý chính thật Chân-Không
Sự là phần Diệu-Hữu
Chân-Không tức Diệu-Hữu
Diệu-Hữu tức Chân-Không
Nếu chưa đạt lẽ nầy
Thà tu hành chấp CÓ
Ðừng cầu cao bác tướng
Mà lạc vào Ngoan-Không
Ðây chính hầm khổ đọa
Kẻ thông minh đời nay
Ða số mắc lỗi nầy.
Xưa có sư TÔNG THẮNG
Tài huệ biện cao siêu
Vì ỷ giỏi kiêu căng
Nên bị nhục chiết phục
Hỗ thẹn muốn tự tận
Thọ thần hiện thân khuyên
“ Sư nay đã trăm tuổi
Tám mươi năm lầm lạc
May nhờ gặp Thánh nhân
Huân tu mà học đạo
Tuy có chút công đức
Mà lòng hay bỉ ngã
Ỷ thông minh biện bác
Lấn người không khiêm hạ
Lời cao hạnh chưa cao
Nên phải bị quả báo
Từ đây nên tự kiểm
Ít lâu thành trí lạ.
Các THÁNH đều tồn tâm
NHƯ LAI cũng như vậy ”
Lại có kẻ đua tướng
Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư
Mượn thuyết pháp, tụng kinh
Ðể mưu cầu lợi dưỡng
Dành đệ tử, chùa chiền
Lập bè đảng, quyến thuộc
Thấy có ai hơn mình
Liền thị phi tật đố
Hại Thầy Bạn, phản Ðạo
Lừa dối hàng tín tâm
Lời nói thật rất cao
Việc làm thật rất thấp
Lý Sự đều sai trái
Hạng ấy hiện rất nhiều
Tạo biển khổ thêm sâu
Khiến đau lòng tri-thức
Lý, Sự đại lược thế.
CÔNG ĐỨC làm sao được?
Phật là ÐẠI Y VƯƠNG
Pháp là DIỆU TIÊN DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma , quỷ mị
Nạn động đất, xe, thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải thoát.
CHUYÊN TỤNG một phẩm Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các nguyện
Thỏa mãn các mong cầu
Chỉ sợ người không tin
Hoặc tin mà không sâu
Lại ngại không thực hành
Hoặc hành không bền lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu
Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người, cảnh
Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
Không hành như trên đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là PHÀM TĂNG
Giúp ích được gì đâu
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng THÀNH KÍNH
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
LẮNG LÒNG suy gẫm sâu.
Trời xanh tươi biếc một mầu
Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay
Mà sao đời đạo đổi thay
Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ
“THUYẾT PHÁP bất đậu cơ
Chúng sanh một khổ hải ”
Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương
Sóng dồn bọt biển tà dương
Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên
Bụi hồng tung gió đảo điên
Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.
Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.
BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI
NAM MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA. A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(21 lần)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHƠN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA. UM! BÚT RUM! HÙM!
(21 lần)
Nam mô Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, PHÁP GIỚI TẠNG THÂN A DI ĐÀ NHƯ LAI biến pháp giới Tam bảo.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
(niệm mau 10 hơi)
(KINH: Lúc xướng chữ A, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là Bồ Tát oai lực nhập vô sai biệt cảnh giới.)
Đức Phật Thế-Tôn, Chánh Biến Tri
Tướng hảo đoan nghiêm đều viên mãn,
Rủ lòng đại từ bi vô hạn,
Mở bày đại pháp cứu quần mê.
Niệm Phật hiện tiền đắc Phật tướng,
Thâm nhập cảnh giới bất tư nghị.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Quyết định một lòng xưng niệm Phật,
Hồng danh chứa nhóm vô lượng nghĩa,
Lợi lạc muôn ức chúng hữu tình.
Đức Phật Thế-Tôn, đấng Vô-thượng
Tri kiến, giác ngộ đều quang minh,
Rắc rải tuệ nhật khắp mười phương,
Rưới trận mưa pháp như Cam lộ.
Niệm Phật vãng sanh cõi Cực-Lạc,
An nhiên chứng đắc Vô-Sanh-Nhẫn.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Gìn giữ thân tâm bằng Phật hiệu,
Hồng danh tỏ ngộ Chân Như Tánh,
Dẫn dắt chúng sanh vào Tam-muội.
Đức Phật Như-Lai đấng Bất-động
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng đoạn thường,
Xa lìa chấp hữu hoặc chấp vô,
Tự tại chỉ bày phương tiện lực.
Niệm Phật an trụ nơi bản giác,
Tùy nghi hòa hợp với tánh Không.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Trang nghiêm tự thân bằng niệm Phật,
Hồng danh hiển phát Hư-Không-Tạng,
Tức thời thẳng vào Viên-giác-tánh.
Con nay xưng tán Đại Đạo-Sư,
Khen ngợi hồng danh vô lượng lực.
Nguyện đem hồi hướng khắp chúng sanh,
Mong cầu hết thảy cùng niệm Phật.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Từ Tán Tâm Sẽ Đi Đến Định Tâm
Miệng niệm Phật, tâm tưởng Phật, hoặc trụ nơi câu niệm Phật, gọi là Định Tâm Niệm Phật. Miệng niệm Phật, tâm không nhớ Phật mà suy nghĩ mông lung việc khác, đó là Tán Tâm Niệm Phật. Tán tâm mà niệm, hiệu lực so với định tâm yếu kém rất nhiều. Vì lẽ ấy, từ xưa đến nay các bậc thiện tri thức đều khuyên người cố gắng định tâm trì niệm, đừng để tán tâm.
Cho nên tán tâm niệm Phật không đủ làm gương mẫu.
Tuy nhiên, mỗi tác động bên ngoài đều liên quan đến tiềm thức, tức là thức thứ tám ở bên trong. Nếu tán tâm niệm Phật hoàn toàn không công hiệu, thì sáu chữ hồng danh kia từ đâu phát hiện? Đã có sáu chữ hiện thành, tất phải có hai chuyển lực: một là do chủng tử, từ tiềm thức phát hiện ra ngoài. Hai là sức tác động từ ngoài lại huân tập trở vào bên trong. Cho nên chẳng thể nói tán tâm niệm Phật hoàn toàn không công hiệu, bất quá so với định tâm nó yếu kém hơn nhiều mà thôi. Lối niệm tán tâm từ xưa đến nay không được đề xướng, nhưng hàm ý và công dụng của nó cũng không thể phủ nhận. Vì thế cổ nhơn có lưu một bài kệ rằng:
Di Đà sáu chữ pháp trung vương,
Tạo niệm phân vân chớ ngại màng!
Muôn dặm phù vân che ánh nhật.
Nhơn hoàn khắp xứ ửng dương quang.
Bài kệ này suy ra có điều xác đáng. Bởi hạt giống niệm Phật nơi thức thứ tám khi thành thục, tất dẫn phát thức thứ sáu khiến cho sanh khởi tịnh niệm. Rồi từ thức thứ sáu lại cổ động ra năm thức trước để thành hiện hành. Nhưng vì lúc chủng tử niệm Phật trải qua thức thứ sáu, bởi trần nhiễm của chúng sanh sâu dày, nên bị các niệm khác lấn cướp, tuy có lọt khỏi vòng vây song ảnh hưởng còn lại chẳng bao nhiêu. Ví như ánh mặt trời tuy rực rỡ, nhưng vì bị nhiều lớp mây che, nên khi lọt xuống nhân gian, chỉ còn vẻ ửng sáng. Nhưng ánh sáng thừa ấy sở dĩ có, cũng do công năng ảnh hưởng của mặt trời. Biết được lẽ này, người tu Tịnh Độ đừng quá ngại màng đến tạp tưởng phân vân, chỉ liên tiếp niệm hết câu này sang đến câu khác, chánh niệm còn được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Niệm như thế một lúc lâu, tự nhiên ngựa ý sẽ quay về tàu, vượn lòng lần lần vào động. Niệm một lúc lâu nữa, thì chánh niệm hiển lộ rõ ràng, không cần gạn bỏ điều nhiếp, mà tự nhiên thành tựu. Hiểu được lẽ này thì chỉ quý niệm nhiều, đừng ngại tán tâm. Như nước tuy bợn đục, lóng mãi tất sẽ thành trong. Người tuy tạp niệm nhiều, niệm Phật lâu tất sẽ thành chánh niệm. Nên biết cổ đức khi đi đứng nằm ngồi và tất cả hành động đều niệm Phật. Nếu các vị ấy hoàn toàn dùng định tâm mà niệm, thì lúc đi đường tất phải vấp chạm, hoặc khi tả kinh hay làm việc cũng không thể thành công.
Cho nên người xưa cũng có lúc phải phân tâm mà niệm, nhưng vẫn không rời câu niệm Phật, bởi dù có tán tâm vẫn không mất phần ảnh hưởng.
Đến đây, xin thuật một câu chuyện. Lúc nọ, có người đến hỏi một thượng tọa: "Thưa thật với thầy, tôi niệm Phật đã hơn mười năm nay mà vọng niệm vẫn còn nhiều, không biết cách chi trừ diệt. Tôi có đi nhiều nơi cầu hỏi phương pháp với những bậc đã tu trước mình. Vị này đưa kinh nghiệm này, vị kia dạy cách khác, có một đại đức lại khuyên tôi nên nín hơi niệm luôn hai mươi mốt câu rồi nuốt một cái. Tôi đã áp dụng qua đủ mọi phương thức, nhưng chỉ định tâm được lúc đầu, rồi sau có lẽ vì lờn quen nên vọng niệm trở lại như cũ. Không biết thầy có phương pháp nào hữu hiệu để dạy tôi chăng?"
Vị thượng tọa đáp: "Điểm thất bại đó do ông không bền lòng, mà cứ thay đổi đường lối. Nên biết phàm phu chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay gây tạo nghiệp nhiễm vọng quá nhiều đâu thể nhứt thời mà thanh tịnh được! Chỗ cốt yếu là phải dụng tâm cho bền lâu. Tôi xin đưa ra đây hai thí dụ: Ví như một bình nước hôi nhơ dẫy đầy, ông đem nước thơm sạch đổ vào. Vì nước dơ đã đầy, nước sạch tất phải dội ra ngoài, song ít nhứt nó cũng lưu lại trong bình một vài giọt. Nếu ông cứ bền tâm đổ vào mãi, ngày kia bình nước hôi sẽ hóa ra nước sạch thơm. Lại ví như ông đau bịnh dạ dày, uống thuốc chi cũng đều ói mửa ra. Ông cứ bền lòng dùng ngay thuốc trị bịnh dạ dày mà uống, đừng thay đổi thuốc chi khác. Mỗi phen uống tuy có bị ói mửa, nhưng chất thuốc cũng lưu lại ít nhiều, lần lần bệnh của ông sẽ dứt. Bệnh phiền não vọng tưởng của chúng sanh cũng thế, dùng thuốc niệm Phật điều trị tự nhiên là thích đáng, nếu thay đổi mãi làm sao thành công? Như có người dùng phèn lóng nước, nó chưa kịp trong, lại nóng nảy vội quậy lên đổ muối vào, đổ muối chưa kịp trong, lại quậy lên đổ vôi bột vào. Cứ thay đổi mãi như thế, làm sao nước trong cho được? Thế nên vấn đề dứt vọng niệm, không phải do nơi thay đổi nhiều phương pháp, mà ở nơi lựa một phương pháp thích hợp rồi thật hành cho bền lâu là thành tựu." Vị ấy nghe xong gật đầu cho là hữu lý.
Như đã nói, muốn được định tâm, điểm căn bản là phải dụng công cho bền lâu. Tuy nhiên nếu sợ niệm lực tán loạn, cần có phương tiện để tâm dễ yên tịnh, thì nên áp dụng pháp Thập Niệm Ký Số đã trình bày ở trước. Phép này do dùng hết tâm lực ghi nhớ từ một đến mười câu, nên dễ vào tịnh định. Nếu tâm còn rối loạn và không thể dùng phép Thập Niệm Ký Số, thì trong mỗi câu niệm chỉ cần chú tâm ghi giữ cho chắc một chữ "A". Khi chữ A còn thì mấy chữ khác đều còn, nếu mê mờ để cho nó mất, tất năm chữ kia cũng mất. Lại chữ A cũng chính là chữ căn bản, và là mẹ của tất cả chữ. Chú tâm vừa niệm vừa ghi chắc chữ A, lâu lâu tự nhiên tâm và cảnh đều tiêu tan dung hợp thành một khối, lượng rộng lớn dường hư không, Phật và mình cũng đều mất.
Lúc bấy giờ đương nhiên chữ A cũng không còn. Nhưng lúc trước nó mất là do bởi tâm xao động rối loạn, lúc này nó không còn chính thuộc về trạng thái dung hóa của thường định. Đây là hiện tượng tâm cảnh đều không, điểm sơ khởi để đi vào Niệm Phật Tam Muội.
Niệm Phật Thập Yếu
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
Một câu A Di Ðà
Như ngọc lắng trong nước
Ngàn muôn tạp niệm rối
Chẳng dứt tự thành không.
Nhứt cú Di Ðà
Như thủy thanh châu
Phân vân tạp niệm
Bất đoạn tự vô.
Hạt châu Thủy Thanh có công năng lóng nước đục thành trong. Câu niệm Phật cũng thế, không luận vọng niệm nhiều ít, hành giả cứ chuyên chú giữ chắc sáu chữ hồng danh lâu ngày, tạp niệm tự nhiên tan mất. Ðiểm đáng lưu ý trong đây là không nên khởi tâm dứt trừ vọng niệm. Vì vọng niệm vốn như huyễn, cố tình muốn dẹp, nó lại càng tăng. Một nhà hiền triết đã nói kinh nghiệm này qua câu: "Càng muốn đè nén, chính là cố tâm làm cho nó thêm phát khởi." (Tương dục án chi, tất cố hưng chi).
Comments
Post a Comment