TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC
76.- SỰ CẢM ỨNG KHI CÚNG DƯỜNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
Trích lục: Phiên Kinh Tạp Ký.
Sau khi kinh Đại Bát-nhã được dịch xong, vua Đường rất vui mừng, sắc chỉ cho trang nghiêm điện Gia Thọ, treo tràng phan bảo cái, thiết trai hội, dùng các thứ hương hoa, đồ cúng quý lạ để cúng dường kinh. Lúc ấy, nhằm ngày ba mươi tháng mười năm Long Sóc thứ ba.
Khi lễ thỉnh kinh từ điện Túc Thành sang điện Gia Thọ để giảng tụng trong trai hội, thì kinh Đại Bát-nhã phóng ánh sáng chiếu khắp gần xa, trời mưa hoa mầu đẹp, lại có mùi hương thơm khác thường. Huyền Trang pháp sư bảo môn nhân rằng:
- Trong kinh nói ở phương này có nhiều người ưa thích pháp Đại thừa. Nếu hàng vua quan và bốn bộ chúng biên chép, thọ trì, đọc qung, truyền bá kinh này, sẽ sinh lên cõi trời, kết cuộc đều được giải thoát. Vì có lời văn ấy, nên nay ta nói ra cho các ông biết!
Đêm đó, vị Duy-na ở chùa Ngọc Hoa là Sa. môn Tịnh Chiếu, mộng thấy giữa hư không ngàn đức Phật hiện thận, khác miệng đồng lời nói kệ rằng:
Bát-nhã sâu mầu mẹ chư Phật
Trọng Tu-đa-la vào bậc nhất
Nếu được kinh nào đồng với đây
Sẽ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.
Biên chép, thọ trì, đọc tụng, truyền
Một hương, một hoa đem cúng dâng
Người này ít có hơn Ưu Đàm
Người này quyết dứt đường sinh tử.
Lời kệ còn dài, đây chỉ ghi lại phần sơ khỏi. Tỉnh giấc, Sa-môn Tịnh Chiếu thuật điểm mộng với Huyền Trang pháp sư. Ngài bảo:
- Đó là điềm chứng minh đoạn “ngàn đức Phật hiện" trong kinh Đại Bát-nhã.
77.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẢ KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
* Trong năm đầu niên hiệu Cản Phong đùi vua Đường Cao Tôn, có một thư sinh mang bệnh rối chết. Trái một ngày hai đêm, ông bỗng sống lại, gọi thân quyển báo:
- Khi tối vừa tắt hơi, thấy có vị mình quan mặc sắc phục đó, cầm điệp văn đến triệu. Tôi lên theo vị sử giá đỡ đi đến một của thành lớn. Sơ giả bác. “Vị vua trao điệp văn triệu ông, hiệu là Tức Tránh Vương, hiện ở trong thành này. Chúng ta sắp sửa vào bệ kiến". Bấy giờ, tôi kinh sự bất giác từ tay mặt của mình phòng ánh sáng ôn tự rạng hơn quang minh của nhật nguyệt, chiều tháng đến trước chổ vua. Vương gia kinh lạ, rời khỏi tỏa đứng lên, chắp tay theo ánh sáng bước ra cửa hỏi tôi rằng: “Ông tu công đức gì mà tay mặt phóng ánh sáng?”. Tôi đáp: “Tệ dân chưa biết mình tu phước lành chi, cũng không rò nguyên do phóng ánh sáng”. Nhà vua liền vào thành giơ số bộ ra xem, rồi vui mừng bảo: “Ông dã từng vâng sắc chỉ vua Cao Tôn tả mười quyền kinh Đại Bát-nhã. Vì tay mặt cầm bút mà tả, nên từ tay đó phóng ra ánh sáng. Cảm mến công đức ấy, nay ta cho ông được hoàn sinh". Nghe nhắc lại, tôi liền nhớ ra việc cũ, chắp tay thưa: “Tệ dân đã quên mất dường về”. Vương gia bảo: “Cứ ánh sáng trở lại sẽ tìm thấy”. Tôi vâng lời theo ánh sáng về đến nhà, thì ánh quang minh liền tắt, bỗng chợt sống lại như vừa tỉnh giấc.
Thuật rõ nguyên do xong, thư sinh mừng thương rơi lệ. Mấy hôm sau, ông bán đồ vật trong nhà, mua giấy tả đủ bộ sáu trăm quyền Đại Bát-nhã.
Trích: Truyền Tân Lục.
* Thích Đạo Tuấn, một đời chuyên tu môn Niệm Phật Tam-muội, không ưa các hạnh khác. Bấy giờ, có vị tăng đồng quê quán là Thường Mẫn khuyên Đạo Tuấn tả kinh Đại Bát-nhã. Tuấn bảo:
- Tôi chuyên tu môn niệm Phật, đâu có thời giờ rảnh để biên chép.
Thường Mẫn nói:
- Bát-nhã là dường thẳng đến quả Bồ-đề, cũng là công đức cần thiết để vãng sinh, thầy nên sao tả.
Tuấn không chấp nhận bảo:
- Khi sinh về Tịnh độ, tự nhiên đầy đủ tất cả!
Đêm ấy, Dạo Tuấn nằm mộng, thấy mình di dến mé biển tìm thuyền muốn qua. Chợt thấy bên bờ phía Tây có tòa điện các trang nghiêm, năm sáu vị đồng tử đang cầm chèo đứng trên thuyền. Tuấn gọi to lên bảo:
- Tôi muốn nhờ thuyền sang bờ phía Tây!
Đồng tử nói:
- Ông không tin thuyền thì làm sao mà nhờ thuyền được!
Tuấn hỏi:
- Thế nào là tin thuyền?
Đồng Tử bảo:
Bát-nhã là thuyền, nếu không thuyền Bát- nhã, tất không thể qua biến sinh tử, và không được lên ngôi Bất thối ở Cực Lạc. Dù ông có lên thuyền, thuyền cũng chìm mất.
Tỉnh giấc, Đạo Tuấn kinh sợ sám hối, xả y bát tả kinh Đại Bát-nhã. Ngài tả xong, thiết lễ cúng dường, bỗng nghe âm nhạc rền vang giữa hư không, mây tím từ phương Tây bay đến. Đây há chẳng phải là điềm sẽ được vãng sinh ư?
Trích lục: Tinh Châu Vãng Sinh Ký.
* Trương Chí Đạt, người quận Thiên Thủy, viết chữ rất khéo, nhưng thích đạo Lão, không tin Phật pháp.
Một hôm, ông đến chơi nhà bạn, thấy đang tả kinh Đại Bát-nhã, lại ngỡ là kinh đạo tiên, hỏi:
- Anh viết kinh Lão Tử đó phải không?
Người bạn đùa cợt đáp:
- Phải.
Chí Đạt mừng rỡ, lại giành bút tả vừa được ba hàng, biết chẳng phải kinh đạo tiên, giận dỗi đứng dậy bỏ ra về.
Qua ba năm, Chí Đạt bị bệnh rồi chết, trải qua một đêm bỗng sống lại rơi lệ thương khóc. Hôm sau, ông liên đến nhà bạn cũ, vừa mừng vừa cảm, sám hối tạ lỗi rằng:
- Anh thật là bậc đại thiện tri thức, khiến cho tôi được sống lâu, được phước cõi trời, mà tôi mê lầm không biết, trở lại buồn giận!
Người bạn kinh lạ hỏi:
- Tại sao lại có lời ấy?
Chí Đạt đáp:
- Tôi chết xuống âm ty, vua Diêm-la trông thấy quở rằng: “Ngươi là kẻ si, chỉ tin theo bảng môn, không biết Phật pháp!”. Nói xong, Diêm vương tra bộ sổ, đọc kể tội ác hơn hai mươi trang giấy. Chỉ còn nửa trang, Diêm vương bỗng chăm chú nhìn xem rồi mỉm cười bảo: “Ngươi có công đức lớn, là đã đến nhà bạn thân tả được ba hàng kinh Đại Bát-nhã, nay ta ân xá cho ngươi trở về nhân gian, hãy cố gắng thọ trì kinh ấy".
Thuật xong, ông nói tiếp:
- Nhờ anh mà tôi được hoàn sinh, biết đường lối tu tập chân chính, đó chẳng phải là ân lớn sao?
Hàn huyên giây lát, Chí Đạt liền trở về nhà, xuất tiền mua giấy bút, rồi từ đó ở yên nơi thư phòng, tả được tám bộ kinh Đại Bát-nhã. Tà xong, ông thiết lễ trang nghiêm để cúng dường.
Năm được tám mươi ba tuổi, Chí Đạt không bệnh mà mãn phần. Trước khi chết, ông bảo người nhà rằng:
- Ta thấy nơi thân mình hiện ra đôi cánh, toàn là văn kinh Đại Bát-nhã. Có một ngàn đức Phật dến rước ta vãng sinh về Tịnh độ.
Nói xong, ngồi chắp tay yên ổn qua đời.
Trích lục: Tân Lục.
78.- SỰ CẢM ỨNG VỀ NGHE VÀ TỤNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
* Thích Tăng Trí, người ở xứ Kinh Triệu. Bà mẹ nhân mộng thấy nuốt lư hương bằng đồng mà sinh ra Sư. Khi mới sinh, Sư liền xướng danh hiệu Đại Bát-nhã, khiến cho mọi người đều lấy làm lạ.
Lúc lên mười tuổi, tự nhiên Sư tụng thuộc làu hai trăm quyền Đại Bát-nhã. Từ đó, cứ mỗi ngày tụng một trăm quyền làm thời khóa. Tăng Trí lấy làm lạ, tự nghĩ: “Sao mình không học tập mà lại tụng được?”. Đêm ấy, Sư nằm mộng, thấy một vị Sa-môn đến bảo:
- Kiếp trước, ngươi là con trâu già yếu. Người chủ dùng ngươi chở hai trăm quyền kinh Đại Bát-nhã đến chùa. Chở xong sức mòn, ngươi sụp lỗ bùn sâu liền chết, được sinh làm người. Do chở có hai trăm quyên, nên đời này ngươi chỉ thuộc lòng hai trăm quyên, ngoài ra không ghi nhớ. Sau khi bỏ thân này, do công đức Đại Bát-nhã ngươi sẽ được sinh về cõi nước của Phật Lôi Âm!
Tỉnh giấc, Sư hối tạ, và từ đó chuyên thọ trì kinh Đại Bát-nhã.
Trích lục: Truyền Tân Lục.
* Đời Đường, ở Dự Châu, có bà lão chỉ thờ thần đạo, không tin Tam Bảo. Mọi người gặp bà đều gọi là thần mẫu. Bà không đến chùa am, giữa đường gặp chư tăng ni, liền che mắt lại.
Một hôm, có con trâu lông sắc vàng, đến trước cửa nhà bà đứng luôn ba ngày. Nghĩ là trâu vô chủ, do sức chư thần đưa đến cho, bà cởi đai áo ra xỏ mũi nó dắt vào nhà. Nhưng con trâu không theo ý lôi và hướng về chùa. Phần tiếc trâu, lại sợ mất đai, bà che mắt theo trâu đi vào chùa, nhưng đứng xoay lưng không nhìn Phật. Chư tăng kinh hãi đi ra, thấy thế động lòng thương xót, đồng chắp tay xưng niệm: “Nam mô Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh, vật bất tường ấy hãy rớt ngay xuống nước!”. Nói xong ba lần như thế, rồi trở về nhà. Con trâu cũng biển đâu mất.
Thời gian sau, bà lão đau nặng rồi chết. Người con gái xót thương cầu nguyện, mộng thấy mẹ về bảo:
- Sau khi ta chết, Diêm Ma Pháp Vương xét số bộ thấy toàn là nghiệp ác, duy có chút căn lành là xưng ba lần danh hiệu Bát-nhã. Do đó, Ngài phán cho ta được chuyển sinh làm người để tụng kinh Đại Bát-nhã. Hết kiếp người ta sẽ sinh lên cõi trời Dao-lợi. Vậy con chở nên lo buồn!
Cô gái tỉnh mộng, liền phát tâm tả kinh Đại Bát-nhã.
Trích lục: Truyền Tân Lục.
* Một Sa-môn xứ Thiên Trúc thường đọc tụng kinh Đại Bát-nhã. Hằng đêm, chư thiên đều giáng xuống, dùng thức cam-lộ ở cõi trời để cúng dường. Sa-môn nhân đỏ hỏi rằng:
- Trên cõi trời có kinh Đại Bát-nhã chăng?
Đáp:
- Có, và còn nhiều loại kinh khác nữa.
Hỏi:
- Đã có kinh ấy, sao các vị còn xuống dây?
Đáp:
- Chúng tôi vì kính pháp nên mới xuống. Lại, kinh Bát-nhã nơi cõi trời do chư thiên truyền nói, kinh Bát-nhã ở nhân gian chính là ghi lời của Phật.
Sa-môn lại hỏi:
- Trên trời có ai thọ trì kinh pháp chăng?
Đáp:
- Chư thiên đắm say theo sự mầu nhiệm, khó nổi thọ trì. Ở ba châu kia cũng khó tu. Duy châu Nam Thiên Bộ này, căn cơ Đại thừa thành thục, nên có thể thực hành Bát-nhã, dứt nguồn gốc khổ.
Sa-môn lại hỏi:
- Hộ trì người tụng kinh Bát-nhã chỉ có các vị mà thôi ư?
Đáp:
- Có đến tám mươi ức chư thiên xuống nhân gian ủng hộ người trì kinh Bát-nhã. Bởi kinh này là mẹ xuất sinh các chư Phật, nên chư thiên dù nghe được một câu cũng kinh trọng người đọc tụng như đắng Thế Tôn, không dám lời là bỏ qua.
Trích lục: Tây Quốc Truyện.
79.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP, ĐỌC TỤNG KINH KIM CANG BÁT-NHÃ
Trích lục: Kim Cang Trì Nghiệm.
Đời Tùy, Sa-môn Pháp Tạng ở chùa Thiện Thất tại Lộc Châu, trong năm Võ Đức thứ hai, vào tháng ba nhuần, cảm bệnh rất nặng. Trải hơn hai tuần, trong cơn đau hôn mê, Sư thấy một vị áo xanh phục sức hoa lệ, tay cầm quyền kinh bảo rằng:
-Sư lạm dùng của Tam Bảo, mắc tội vô lượng! Ta hằng tụng kinh Kim Cang Bát-nhã, nếu sư tả một quyển kinh ấy và chí tâm tụng trì, thì tội lạm dụng của thường trụ trong một đời đều được tiêu diệt.
Pháp Tạng thưa:
- Nếu được lành bệnh và diệt tội, tôi xin tả một trăm quyển và trì tụng suốt đời.
Sau khi lành bệnh, Sư tả kinh Kim Cang Bát-nhã một trăm quyền, hằng trì tụng không biếng trễ. Ngoài ra, lại còn tạo tượng Phật và tả các kinh khác tám trăm quyển. Về sau, Pháp Tạng bị đòi xuống âm tỵ, Diêm vương hỏi han và tra số bộ công đức, thấy dúng như lời Sư nói, liền khen rằng:
- Công đức của Ngài không thể nghĩ bàn, các tội chướng đều tiêu diệt. Khi trở về nhân gian, xin Ngài cố gắng tiếp tục tu các công đức và khuyến hóa người. Ngài sẽ được sống lâu, không bệnh, an vui. Về sau, khi mạng chung, lại được sinh về Tịnh độ.
Khi hoàn sinh, Pháp Tạng đối với chư tăng thuật rõ việc ấy.
80.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC GIẢNG TỤNG KINH NHÂN VƯƠNG BÁT-NHÃ
Trích lục: Đường Ký.
Đời Đường, mùa thu niên hiệu Vĩnh Thái năm đầu, nhằm thời Đại Tôn Hoàng Đế, trời đã lâu không một giọt mưa, có cây khô cháy, đất dai nứt nẻ.
Vua Đại Tôn lo lắng, ngày hai mươi ba tháng tám chiếu thỉnh một trăm vị Pháp sư ở hai chùa Tư Thánh và Tây Minh lập dàn giảng tụng kinh Nhân Vương Bát-nhã để cầu mưa. Trong hội này, ngài Bất Không Tam Tạng làm chủ giảng. Diễn tụng đến ngày mồng một tháng chín, mây đen kéo giăng đầy trời, rồi nhiều cơn mưa liên tiếp đổ xuống, cây cối hoa màu đã khô, nứt mầm sống lại. Kinh Nhân Vương Bát-nhã thật có oai thần giúp nước cứu dân!
TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC
MỤC LỤC
LỜI TỰA
QUYỂN THƯỢNG
1.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỦA VUA ƯU ĐIỄN VÀ BA-TƯ-NẶC
2.- SỰ CẢM ỨNG HỌA TƯỢNG PHẬT CỦA VUA ẢNH THẮNG
3.- SỰ CẢM ỨNG MỘNG THẤY TƯỢNG PHẬT CỦA MINH ĐẾ NHÀ HÁN
4.- SỰ CẢM ỨNG THỈNH TƯỢNG PHẬT CỦA LƯƠNG VÕ ĐẾ
5.- SỰ CẢM ỨNG DI TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC TỪ CÙNG DIÊM-LA TRỞ VỀ
6.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC MẠNG CHỒNG
7.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THẤY CÕI CỰC LẠC
8.- SỰ CẢM ỨNG CỦA HAI NGƯỜI NGHÈO ĐEM TIỀN VÀNG THUÊ HỌA TƯỢNG PHẬT
9.- SỰ CẢM ỨNG GÓP TIỀN TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỔ
10.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT VÀ BỒ-TÁT ĐƯỢC SINH LÊN CUNG TRỜI ĐÂU-SUẤT
11.- SỰ CẢM ỨNG THỜ HỌA TƯỢNG PHẬT A-DI-ĐÀ ĐƯỢC VÃNG SINH
12.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG A-DI-ĐÀ CAO BA TẤC CỦA THÍCH ĐẠO DŨ
13.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC SONG THÂN
14.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU CHÚNG SINH Ở TAM ĐỒ
15.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỦA SA-MÔN TĂNG CAO
16.- SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA CHIM ANH VŨ DẪN NGƯỜI NIỆM PHẬT
17.- SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA LÀM THÂN CÁ DẪN ĐỘ NGƯỜI NIỆM PHẬT.
18.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỔ ĐỊA NGỤC
19.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT A-SÚC BỆ CỦA THÍCH SONG HUỆ
20.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CÒN ĐƯỢC SỐNG THÊM NĂM MƯƠI NĂM
21.- SỰ CẢM ỨNG CẦU NGUYỆN PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC GIÀU SANG
22.- SỰ CẢM ỨNG ĐEM MỘT ĐỒNG TIỀN CÚNG PHẬT ĐƯỢC GIÀU SANG
23.- SỰ CẢM ỨNG NGƯỜI PHÁ GIỚI XƯNG HIỆU PHẬT DƯỢC SƯ LẠI ĐẮC GIỚI
24.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC KHỎI TỘI
25.- SỰ CẢM ỨNG MỘT THAI PHỤ ĐƯỢC PHẬT DƯỢC SƯ CỨU KHỎI NẠN
26.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC HOÀN SINH
27.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT TỲ-LÔ-GIÁ-NA TRỪ ĐƯỢC CHƯỚNG NẠN
28.- SỰ CẢM ỨNG ĐỨC ĐỘNG HIỆP THÂN TỰ XƯNG VÔ GIÁ-ĐÀ-BÀ
29.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TƯỢNG NGẦM ĐỨC PHẬT CỦA NGÀI THÍCH HÀM CHIẾU
30.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC TRUYỀN THỪA CỦA HAI BỘ MẠN-ĐÀ-LA
31.- SỰ CẢM ỨNG LỄ BÁI KIM CANG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC ẢNH HƯỞNG GIẢI THOÁT
32.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM THÁNH CHÚNG THAI TẠNG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC THOÁT NẠN
33.- SỰ CẢM ỨNG XÁ-LỢI HIỆN ĐIỀM LÀNH
34.- SỰ CẢM ỨNG ÔNG A ĐẮC TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC HOÀN SINH
35.- SƯ CẢM ỨNG NHỜ BẠN CŨ TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC LÌA THÂN MÃNG XÀ
36.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM QUAN ÂM, PHÁT NGUYỆN LÀM THÁP PHẬT ĐƯỢC KHỎI TỘI CHẾT
37.- SỰ CẢM ỨNG ĐO NỀN TỊNH XÁ CỦA TRƯỞNG GIẢ TU ĐẠT
38.- SỰ CẢM ỨNG VỀ QUẢ LÀNH XÂY CẤT CHÙA SAU KHI PHẬT NHẬP DIỆT
39.- SỰ CẢM ỨNG DÙNG CHIẾC GẬY LÀM TRỤ VÁCH TINH XÁ ĐƯỢC KHỎI CHẾT YẾU
40.- SỰ CẢM ỨNG QUÉT SÂN TINH XÁ ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
41.- SỰ CẢM ỨNG DO TẠO TINH XÁ, CHA MẸ NHIỀU ĐỜI ĐƯỢC THÊM PHƯỚC
42.- SỰ CẢM ỨNG VỀ OAI ĐỨC CỦA TINH XÁ PHẬT TẠI NƯỚC THẤT-LA-PHIỆT-TẤT-ĐẾ
43.- SỰ CẢM ỨNG CỦA ĐỨA TRẺ CHƠI ĐÙA, DÙNG LÁ CÂY LÀM TINH XÁ ĐƯỢC SỐNG LÂU
44.- SỰ CẢM ỨNG THẦY TỶ-KHEO TÔ ĐẮP LỖ VÁCH ĐƯỢC TĂNG THỌ
45.- SỰ CẢM ỨNG VUA NƯỚC KIM ĐỊA SỬA CHÙA HƯ ĐƯỢC THÊM TUỔI
QUYỂN TRUNG
46.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM, TRÙNG KIẾN NHỜ NƯỚC RỬA TAY ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
47.- SỰ CẢM ỨNG KINH HOA NGHIÊM ĐỔI CHỖ NẰM TRÊN KINH A-HÀM
48.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM ĐƯỢC TẶNG THUỐC TIÊN
49.- SỰ CẢM ỨNG PHÁP LỰC KINH HOA NGHIÊM ĐÁNH LUI A-TU-LA
50.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG BÀI KỆ KINH HOA NGHIÊM PHÁ ĐƯỢC ĐỊA NGỤC
51.- SỰ CẢM ỨNG LONG TỬ THÀNH TÂM HỌC KINH A-HÀM
52.- SỰ CẢM ỨNG SỰ TĂNG DU TỤNG KINH A-HÀM ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ
53.- SỰ CẢM ỨNG TẢ KINH A-HÀM ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
54.- SỰ CẢM ỨNG CON CHÓ NGHE KINH A-HÀM, SAU ĐƯỢC CHỨNG QUẢ
55.- SỰ CẢM ỨNG BẦY DƠI NGHE TẢNG A-TỲ-ĐẠT MA ĐƯỢC GIẢI THOÁT
56.- SỰ CẢM ỨNG CON CHUỘT NGHE TANG LUẬT ĐƯỢC ĐẠO QUẢ
57.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TỶ-KHEO THỌ TRÌ TẠNG LUẬT
58.- SỰ CẢM ỨNG THỌ TRÌ KINH ĐẠI TẬP DIỆT TỘI NGŨ NGHỊCH
59.- SỰ CẢM ỨNG NGHE TÊN KINH PHƯƠNG ĐẲNG ĐƯỢC SINH TỊNH ĐỘ
60.- SỰ CẢM ỨNG TU PHƯƠNG ĐẲNG SÁM PHÁP ĐƯỢC THỌ KÝ
61.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG TỤNG KINH DUY-MA CẬT
62.- SỰ CẢM ỨNG TẢ KINH DUY-MA CỨU MÌNH VÀ SONG THÂN
63.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG KINH LĂNG-NGHIÊM
64.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG TỤNG THẮNG MAN
65.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TU TẬP KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ
66.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TỶ-KHEO THÍCH TĂNG CẢM
67.- SỰ CẢM ỨNG VỀ DIỄN GIẢNG KINH KIM QUANG MINH
68.- SỰ CẢM ỨNG TẠO KINH KIM QUANG MINH SIÊU ĐỘ OAN GIA
69.- SỰ CẢM ỨNG VỀ ĐỌC TỤNG THƯ TẢ KINH DƯỢC SỰ
70.- SỰ CẢM ỨNG VỀ THƯ TẢ KINH TỲ-LÔ-GIÁ-NA
71.- SỰ CẢM ỨNG VỀ ĐEO MANG TÙY CẦU ĐÀ-RA-NI
72.- SỰ CẢM ỨNG VỀ OAI THẦN CỦA TÔN THẮNG ĐÀ-RA-NI
73.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC NGHE KINH THỌ MẠNG
74.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP TRÌ TỤNG BÁT-NHÃ TÂM KINH
75.- SỰ CẢM ỨNG KHI DỊCH KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
76.- SỰ CẢM ỨNG KHI CÚNG DƯỜNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
77.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẢ KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
78.- SỰ CẢM ỨNG VỀ NGHE VÀ TỤNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
79.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP, ĐỌC TỤNG KINH KIM CANG BÁT-NHÃ
80.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC GIẢNG TỤNG KINH NHÂN VƯƠNG BÁT-NHÃ
81.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TỤNG KINH VÔ LƯỢNG NGHĨA
82.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA, MÔI VÀ LƯỠI KHÔNG HƯ RÃ
83.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ
84.- SỰ CẢM ỨNG VỀ CÚNG DƯỜNG KINH PHÁP HOA
85.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TRUYỀN BÁ KINH ĐẠI NIẾT-BÀN
86.- SỰ CẢM ỨNG TẢ TỤNG KINH NIẾT-BÀN ĐƯỢC SINH VỀ CÕI PHẬT VÔ ĐỘNG
QUYỂN HẠ
87.- SỰ CẢM ỨNG KHI ĐỨC VĂN-THÙ HẠ SINH
88.- SỰ CẢM ỨNG ĐỨC VĂN-THÙ HÓA LÀM BẦN NỮ
89.- SƯ CẢM ỨNG CẦU VĂN-THÙ BỒ-TÁT
90.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG ĐỨC VĂN-THÙ
91.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHỔ HIỀN BỒ-TÁT
92.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG ĐỨC DI-LẶC Ở NƯỚC Ô TRÀNH
93.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẠO TƯỢNG BỒ-TÁT DI-LẶC
94.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM
95.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM QUÁN ÂM ĐƯỢC SỐNG LÂU
96.- SỰ CẢM ỨNG CÚNG DƯỜNG TƯỢNG QUÁN ÂM HƯ MỤC
97.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG THẬP NHẤT ĐIỆN ÂM
98.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
99.- SỰ CẢM ỨNG HỌA TƯỢNG THIÊN THỦ NHÃN
100.- SỰ CẢM ỨNG CỦA SÁU BỨC TƯỢNG QUÁN ÂM
101.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TƯỢNG QUÁN ÂM, ĐỊA TẠNG
102.- SỰ CẢM ỨNG KHI TẠO TƯỢNG ĐẠI THẾ CHÍ BỒ-TÁT
103.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG ĐỊA TẠNG BỒ-TÁT
104.- SỰ CẢM ỨNG CỦA PHÁP TƯỢNG NĂM VỊ BỒ-TÁT
105.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG DIỆT ÁC THÚ BỒ-TÁT
106.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG DƯỢC VƯƠNG DƯỢC THƯỢNG BỒ-TÁT
107.- SỰ CẢM ỨNG CỦA ĐÀ-RA-NI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ-TÁT
108.- SƯ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG LONG THỌ BỒ-TÁT
LỜI KỆ SAU CÙNG CỦA DỊCH GIẢ
Đã y truyện sách biên soạn thành
Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược Lục
Các việc như thế hãy còn nhiều
Chỉ ghi một ít làm tín chứng
Nguyện người nghe thấy đều phát tâm
Tạo kết duyên lành ngôi Tam Bảo
Dù rằng tin ngợi hoặc nghi chê
Đều mong lợi ích thoát sinh tử
Phật từng thọ ký đời mạt pháp
Nghe danh Tam Bảo khởi lòng tin
Tội chướng ba đời đều tiêu trừ
Kiếp sau được gần các Hiền Thánh.
Nguyện đem công đức biên soạn này
Hồi hướng chúng sinh trong pháp giới
Được nhiều thắng duyên thêm phước huệ
Đều chứng Vô Thượng đại Bồ-đề.
76.-Ẩn tu đã có luỹ non mây
Cao thấp đồi xa ủng hộ bày
Trước mắt rõ ràng chân cảnh lộ
Màu thu lai láng nét thu gầy.
77.-Ẩn tu mưa phới khắp ngàn tiêu
Bát ngát lâm tuyền cảnh tịch liêu !
Tiếng gió canh thâu hoà tiếng Phật
Bên thềm hoa rụng ít hay nhiều.
78.-Ẩn tu ca nhạc có chim rừng !
Bay hót vần quanh tợ đón mừng
Đủ sắc phi-cầm, tranh vẽ đẹp
Điểm-tô cảnh Phật, một màu Xuân.
79.-Ẩn tu hoa cỏ dáng thờ ơ
Thời mạt nhơn tâm đã khác xưa
Lòng thú hình người, đầy lớp lớp
Cảnh đời gió gió, lại mưa mưa !
80.-Ẩn tu kham nhẫn cõi Ta Bà
Nỗi khổ muôn ngàn, khó kể ra
Cực Lạc niềm vui vui bất diệt
Khổ vui đều bởi tự nhân mà !
PHÁP YẾU TU HÀNH
Hòa-Thượng Thích-Thiền-Tâm
Yếu điểm của đường tu
Gồm hai phần Sự, Lý.
LÝ tu là sửa tâm
Cho hợp với chân lý
Sự tu chỉnh ba nghiệp
Giúp chứng cảnh chân như
Sửa tâm là dứt trừ
Nghiệp tham, ái, nóng, giận
Si mê cùng tật đố
Ngã mạn với kiêu căng
Chớ chạy theo hình thức
Say đắm nẻo lợi danh
Chuộng địa vị, quyền hành
Khoe thông minh, tài giỏi
Phải sanh lòng giác ngộ
Niệm thanh tịnh từ bi
Dõng tiến mà kiên trì
Sáng suốt mà khiêm hạ
Tự nghĩ mình xưa nay
Ðã tạo nhiều tội chướng
Chịu nhẫn nhục, sám hối
Biết an phận, tùy duyên
Duyên tốt chẳng kiêu khoe
Duyên xấu không thối não
Bình tỉnh mãi tiến tu
Như bơi thuyền ngược nước
Về biển Tát Bà Nhã
Ðến Bảo Sở an vui
Ðó là phần tu tâm
Hợp với lý giải thoát.
SỰ tu là thân nghiệp
Lễ kính Phật sám hối
Khẩu nghiệp trì chú kinh
Hoặc niệm Phật khen ngợi
Ý nghiệp giữ thanh tịnh
Mật tu môn Lục Niệm
Nguyện đền đáp bốn ân
Nguyện mình cùng chúng sanh
Sanh cõi vui thành Phật
Ðời đời gặp chánh Pháp
Tu sáu độ muôn hạnh
Tâm Bồ Ðề độ sanh
Trần kiếp không thối chuyển
Tu Sự mà bỏ Lý
Làm sao mở chân tâm?
Tu Lý mà phế Sự
Cũng không thể thành Phật !
Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG
Thì tức SẮC là KHÔNG
Tu Lý không bỏ Sự
Ðó tức KHÔNG là SẮC
Lý chính thật Chân-Không
Sự là phần Diệu-Hữu
Chân-Không tức Diệu-Hữu
Diệu-Hữu tức Chân-Không
Nếu chưa đạt lẽ nầy
Thà tu hành chấp CÓ
Ðừng cầu cao bác tướng
Mà lạc vào Ngoan-Không
Ðây chính hầm khổ đọa
Kẻ thông minh đời nay
Ða số mắc lỗi nầy.
Xưa có sư TÔNG THẮNG
Tài huệ biện cao siêu
Vì ỷ giỏi kiêu căng
Nên bị nhục chiết phục
Hỗ thẹn muốn tự tận
Thọ thần hiện thân khuyên
“ Sư nay đã trăm tuổi
Tám mươi năm lầm lạc
May nhờ gặp Thánh nhân
Huân tu mà học đạo
Tuy có chút công đức
Mà lòng hay bỉ ngã
Ỷ thông minh biện bác
Lấn người không khiêm hạ
Lời cao hạnh chưa cao
Nên phải bị quả báo
Từ đây nên tự kiểm
Ít lâu thành trí lạ.
Các THÁNH đều tồn tâm
NHƯ LAI cũng như vậy ”
Lại có kẻ đua tướng
Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư
Mượn thuyết pháp, tụng kinh
Ðể mưu cầu lợi dưỡng
Dành đệ tử, chùa chiền
Lập bè đảng, quyến thuộc
Thấy có ai hơn mình
Liền thị phi tật đố
Hại Thầy Bạn, phản Ðạo
Lừa dối hàng tín tâm
Lời nói thật rất cao
Việc làm thật rất thấp
Lý Sự đều sai trái
Hạng ấy hiện rất nhiều
Tạo biển khổ thêm sâu
Khiến đau lòng tri-thức
Lý, Sự đại lược thế.
CÔNG ĐỨC làm sao được?
Phật là ÐẠI Y VƯƠNG
Pháp là DIỆU TIÊN DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma , quỷ mị
Nạn động đất, xe, thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải thoát.
CHUYÊN TỤNG một phẩm Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các nguyện
Thỏa mãn các mong cầu
Chỉ sợ người không tin
Hoặc tin mà không sâu
Lại ngại không thực hành
Hoặc hành không bền lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu
Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người, cảnh
Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
Không hành như trên đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là PHÀM TĂNG
Giúp ích được gì đâu
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng THÀNH KÍNH
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
LẮNG LÒNG suy gẫm sâu.
Trời xanh tươi biếc một mầu
Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay
Mà sao đời đạo đổi thay
Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ
“THUYẾT PHÁP bất đậu cơ
Chúng sanh một khổ hải ”
Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương
Sóng dồn bọt biển tà dương
Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên
Bụi hồng tung gió đảo điên
Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.
Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.
BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI
NAM MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA. A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(21 lần)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHƠN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA. UM! BÚT RUM! HÙM!
(21 lần)
Nam mô Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, PHÁP GIỚI TẠNG THÂN A DI ĐÀ NHƯ LAI biến pháp giới Tam bảo.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
(niệm mau 10 hơi)
(KINH: Lúc xướng chữ A, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là Bồ Tát oai lực nhập vô sai biệt cảnh giới.)
Đức Phật Thế-Tôn, Chánh Biến Tri
Tướng hảo đoan nghiêm đều viên mãn,
Rủ lòng đại từ bi vô hạn,
Mở bày đại pháp cứu quần mê.
Niệm Phật hiện tiền đắc Phật tướng,
Thâm nhập cảnh giới bất tư nghị.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Quyết định một lòng xưng niệm Phật,
Hồng danh chứa nhóm vô lượng nghĩa,
Lợi lạc muôn ức chúng hữu tình.
Đức Phật Thế-Tôn, đấng Vô-thượng
Tri kiến, giác ngộ đều quang minh,
Rắc rải tuệ nhật khắp mười phương,
Rưới trận mưa pháp như Cam lộ.
Niệm Phật vãng sanh cõi Cực-Lạc,
An nhiên chứng đắc Vô-Sanh-Nhẫn.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Gìn giữ thân tâm bằng Phật hiệu,
Hồng danh tỏ ngộ Chân Như Tánh,
Dẫn dắt chúng sanh vào Tam-muội.
Đức Phật Như-Lai đấng Bất-động
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng đoạn thường,
Xa lìa chấp hữu hoặc chấp vô,
Tự tại chỉ bày phương tiện lực.
Niệm Phật an trụ nơi bản giác,
Tùy nghi hòa hợp với tánh Không.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Trang nghiêm tự thân bằng niệm Phật,
Hồng danh hiển phát Hư-Không-Tạng,
Tức thời thẳng vào Viên-giác-tánh.
Con nay xưng tán Đại Đạo-Sư,
Khen ngợi hồng danh vô lượng lực.
Nguyện đem hồi hướng khắp chúng sanh,
Mong cầu hết thảy cùng niệm Phật.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Từ Tán Tâm Sẽ Đi Đến Định Tâm
Miệng niệm Phật, tâm tưởng Phật, hoặc trụ nơi câu niệm Phật, gọi là Định Tâm Niệm Phật. Miệng niệm Phật, tâm không nhớ Phật mà suy nghĩ mông lung việc khác, đó là Tán Tâm Niệm Phật. Tán tâm mà niệm, hiệu lực so với định tâm yếu kém rất nhiều. Vì lẽ ấy, từ xưa đến nay các bậc thiện tri thức đều khuyên người cố gắng định tâm trì niệm, đừng để tán tâm.
Cho nên tán tâm niệm Phật không đủ làm gương mẫu.
Tuy nhiên, mỗi tác động bên ngoài đều liên quan đến tiềm thức, tức là thức thứ tám ở bên trong. Nếu tán tâm niệm Phật hoàn toàn không công hiệu, thì sáu chữ hồng danh kia từ đâu phát hiện? Đã có sáu chữ hiện thành, tất phải có hai chuyển lực: một là do chủng tử, từ tiềm thức phát hiện ra ngoài. Hai là sức tác động từ ngoài lại huân tập trở vào bên trong. Cho nên chẳng thể nói tán tâm niệm Phật hoàn toàn không công hiệu, bất quá so với định tâm nó yếu kém hơn nhiều mà thôi. Lối niệm tán tâm từ xưa đến nay không được đề xướng, nhưng hàm ý và công dụng của nó cũng không thể phủ nhận. Vì thế cổ nhơn có lưu một bài kệ rằng:
Di Đà sáu chữ pháp trung vương,
Tạo niệm phân vân chớ ngại màng!
Muôn dặm phù vân che ánh nhật.
Nhơn hoàn khắp xứ ửng dương quang.
Bài kệ này suy ra có điều xác đáng. Bởi hạt giống niệm Phật nơi thức thứ tám khi thành thục, tất dẫn phát thức thứ sáu khiến cho sanh khởi tịnh niệm. Rồi từ thức thứ sáu lại cổ động ra năm thức trước để thành hiện hành. Nhưng vì lúc chủng tử niệm Phật trải qua thức thứ sáu, bởi trần nhiễm của chúng sanh sâu dày, nên bị các niệm khác lấn cướp, tuy có lọt khỏi vòng vây song ảnh hưởng còn lại chẳng bao nhiêu. Ví như ánh mặt trời tuy rực rỡ, nhưng vì bị nhiều lớp mây che, nên khi lọt xuống nhân gian, chỉ còn vẻ ửng sáng. Nhưng ánh sáng thừa ấy sở dĩ có, cũng do công năng ảnh hưởng của mặt trời. Biết được lẽ này, người tu Tịnh Độ đừng quá ngại màng đến tạp tưởng phân vân, chỉ liên tiếp niệm hết câu này sang đến câu khác, chánh niệm còn được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Niệm như thế một lúc lâu, tự nhiên ngựa ý sẽ quay về tàu, vượn lòng lần lần vào động. Niệm một lúc lâu nữa, thì chánh niệm hiển lộ rõ ràng, không cần gạn bỏ điều nhiếp, mà tự nhiên thành tựu. Hiểu được lẽ này thì chỉ quý niệm nhiều, đừng ngại tán tâm. Như nước tuy bợn đục, lóng mãi tất sẽ thành trong. Người tuy tạp niệm nhiều, niệm Phật lâu tất sẽ thành chánh niệm. Nên biết cổ đức khi đi đứng nằm ngồi và tất cả hành động đều niệm Phật. Nếu các vị ấy hoàn toàn dùng định tâm mà niệm, thì lúc đi đường tất phải vấp chạm, hoặc khi tả kinh hay làm việc cũng không thể thành công.
Cho nên người xưa cũng có lúc phải phân tâm mà niệm, nhưng vẫn không rời câu niệm Phật, bởi dù có tán tâm vẫn không mất phần ảnh hưởng.
Đến đây, xin thuật một câu chuyện. Lúc nọ, có người đến hỏi một thượng tọa: "Thưa thật với thầy, tôi niệm Phật đã hơn mười năm nay mà vọng niệm vẫn còn nhiều, không biết cách chi trừ diệt. Tôi có đi nhiều nơi cầu hỏi phương pháp với những bậc đã tu trước mình. Vị này đưa kinh nghiệm này, vị kia dạy cách khác, có một đại đức lại khuyên tôi nên nín hơi niệm luôn hai mươi mốt câu rồi nuốt một cái. Tôi đã áp dụng qua đủ mọi phương thức, nhưng chỉ định tâm được lúc đầu, rồi sau có lẽ vì lờn quen nên vọng niệm trở lại như cũ. Không biết thầy có phương pháp nào hữu hiệu để dạy tôi chăng?"
Vị thượng tọa đáp: "Điểm thất bại đó do ông không bền lòng, mà cứ thay đổi đường lối. Nên biết phàm phu chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay gây tạo nghiệp nhiễm vọng quá nhiều đâu thể nhứt thời mà thanh tịnh được! Chỗ cốt yếu là phải dụng tâm cho bền lâu. Tôi xin đưa ra đây hai thí dụ: Ví như một bình nước hôi nhơ dẫy đầy, ông đem nước thơm sạch đổ vào. Vì nước dơ đã đầy, nước sạch tất phải dội ra ngoài, song ít nhứt nó cũng lưu lại trong bình một vài giọt. Nếu ông cứ bền tâm đổ vào mãi, ngày kia bình nước hôi sẽ hóa ra nước sạch thơm. Lại ví như ông đau bịnh dạ dày, uống thuốc chi cũng đều ói mửa ra. Ông cứ bền lòng dùng ngay thuốc trị bịnh dạ dày mà uống, đừng thay đổi thuốc chi khác. Mỗi phen uống tuy có bị ói mửa, nhưng chất thuốc cũng lưu lại ít nhiều, lần lần bệnh của ông sẽ dứt. Bệnh phiền não vọng tưởng của chúng sanh cũng thế, dùng thuốc niệm Phật điều trị tự nhiên là thích đáng, nếu thay đổi mãi làm sao thành công? Như có người dùng phèn lóng nước, nó chưa kịp trong, lại nóng nảy vội quậy lên đổ muối vào, đổ muối chưa kịp trong, lại quậy lên đổ vôi bột vào. Cứ thay đổi mãi như thế, làm sao nước trong cho được? Thế nên vấn đề dứt vọng niệm, không phải do nơi thay đổi nhiều phương pháp, mà ở nơi lựa một phương pháp thích hợp rồi thật hành cho bền lâu là thành tựu." Vị ấy nghe xong gật đầu cho là hữu lý.
Như đã nói, muốn được định tâm, điểm căn bản là phải dụng công cho bền lâu. Tuy nhiên nếu sợ niệm lực tán loạn, cần có phương tiện để tâm dễ yên tịnh, thì nên áp dụng pháp Thập Niệm Ký Số đã trình bày ở trước. Phép này do dùng hết tâm lực ghi nhớ từ một đến mười câu, nên dễ vào tịnh định. Nếu tâm còn rối loạn và không thể dùng phép Thập Niệm Ký Số, thì trong mỗi câu niệm chỉ cần chú tâm ghi giữ cho chắc một chữ "A". Khi chữ A còn thì mấy chữ khác đều còn, nếu mê mờ để cho nó mất, tất năm chữ kia cũng mất. Lại chữ A cũng chính là chữ căn bản, và là mẹ của tất cả chữ. Chú tâm vừa niệm vừa ghi chắc chữ A, lâu lâu tự nhiên tâm và cảnh đều tiêu tan dung hợp thành một khối, lượng rộng lớn dường hư không, Phật và mình cũng đều mất.
Lúc bấy giờ đương nhiên chữ A cũng không còn. Nhưng lúc trước nó mất là do bởi tâm xao động rối loạn, lúc này nó không còn chính thuộc về trạng thái dung hóa của thường định. Đây là hiện tượng tâm cảnh đều không, điểm sơ khởi để đi vào Niệm Phật Tam Muội.
Niệm Phật Thập Yếu
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
Một câu A Di Ðà
Như ngọc lắng trong nước
Ngàn muôn tạp niệm rối
Chẳng dứt tự thành không.
Nhứt cú Di Ðà
Như thủy thanh châu
Phân vân tạp niệm
Bất đoạn tự vô.
Hạt châu Thủy Thanh có công năng lóng nước đục thành trong. Câu niệm Phật cũng thế, không luận vọng niệm nhiều ít, hành giả cứ chuyên chú giữ chắc sáu chữ hồng danh lâu ngày, tạp niệm tự nhiên tan mất. Ðiểm đáng lưu ý trong đây là không nên khởi tâm dứt trừ vọng niệm. Vì vọng niệm vốn như huyễn, cố tình muốn dẹp, nó lại càng tăng. Một nhà hiền triết đã nói kinh nghiệm này qua câu: "Càng muốn đè nén, chính là cố tâm làm cho nó thêm phát khởi." (Tương dục án chi, tất cố hưng chi).
Comments
Post a Comment