TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC
71.- SỰ CẢM ỨNG VỀ ĐEO MANG TÙY CẦU ĐÀ-RA-NI
Trích lục: Tùy Cầu Đà-la-ni Chú Giải.
Một vị Tỷ-kheo có nhiều đức tin, nhưng lại phạm giới lấy của chúng tăng. Sau sư bị đau nặng rất thống khô, ngày đêm rên la. Một Bà-la-môn ở gần bên nghe tiếng kêu khóc đến thăm viếng, thấy thế thương xót, nhân biên thần chú Tùy Câu Đại Minh Vương, rồi đeo nơi cổ vị Tỳ-kheo ấy. Nhà sư cảm thấy thân thể hết đau nhức, rồi mạng chung. Thi hài của sư được chôn nơi tháp.
Sau khi chết, thần thức của Tỷ-kheo vào ngục Vô gián. Nhưng vừa vào địa ngục thì tất cả kẻ thọ tội nơi đó đều được dứt khổ, lửa dữ ở địa ngục Vô gián thảy đều tắt mất.
72.- SỰ CẢM ỨNG VỀ OAI THẦN CỦA TÔN THẮNG ĐÀ-RA-NI
Trích lục: Cổ Thanh Lương Truyện.
Sa-môn Phật-đà-ba-lợi (Trung Hoa dịch là Giác Hộ) là người ở nước Kế-tân, thuộc miền Bắc Ân. Nhân nghe non Thanh Lương là nơi ứng tích của đức Văn-thù, Sư không nài xa xôi gian khổ, từ Ấn Độ đến Trung Hoa để tham bái. Khi đến núi Thanh Lương (tức Ngũ Đài Sơn), Phật- đà-ba-lợi thấy một lão ông từ trong đi ra hỏi:
- Sư ở xứ Phật dến, có đem theo quyền kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà-la-ni chăng?
Phật-đà-ba-lợi đáp:
- Vì chỉ dự định đến viếng Thánh tích, nên không đem theo.
Lão ông bảo:
- Chúng sinh ở cõi này tạo nhiều nghiệp ác, hàng xuất gia, tại gia phần đông cùng phạm giới. Thần chú Phật Đảnh Tôn Thăng là bí pháp để diệt trừ tất cả tội nặng. Nếu Sư không đem kinh ấy đến Trung Hoa, thì không hợp với lòng đại bị lợi sinh của Bồ-tát, dù gặp đức Văn-thù nào có ích chỉ? Sư nên trở về Tây Vức đem kinh ấy đến lưu truyền nơi miền Chấn Đán, ta sẽ bảo đảm cho gặp đức Văn-thù!
Nói xong, lão ông liền biến mất.
Phật-đà-ba-lợi kinh ngạc mừng rỡ, biết đó là Văn-thù Bồ-tát hóa thân chỉ dạy, liền vội trở về Bắc Ấn. Ba năm sau, Sư đem kinh đến Trường An, được nhà vua sắc chỉ bảo phiên dịch. Công việc hoàn tất, Sư lại đến non Thanh Lương, vào hang Kim Cương rồi ẩn luôn không thấy trở ra nữa. Chư tăng ở Ngũ Đài đều bảo Phật-đà-ba-lợi được Văn-thù tiếp độ, cho vào chúng hội của các hàng Bồ-tát.
73.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC NGHE KINH THỌ MẠNG
Trích lục: Lời tựa kinh Thọ Mạng.
Cuối niên hiệu Khai Ngươn đời Đường Huyền Tôn, có vị tướng sư rất giỏi, chỉ nghe tiếng nói liền biết được người sống lâu bao nhiêu.
Một hôm, tướng sư trọ ở chùa Tu Thánh, nghe ngoài cửa có tiếng người hỏi, biết kẻ ấy chỉ sống trọn ngày hôm nay mà thôi. Ông bước ra xem, thấy đó là một đồng tử tuổi mới mười ba, dung mạo đoan chính, liền động lòng thương xót, lặng lẽ trở vào. Hôm sau, lại nghe tiếng đồng từ ấy hỏi, nhưng âm thanh của nó rồng suốt, theo tướng số, có thể sống lâu hơn bày mươi tuổi. Tướng sư lấy làm lạ, vội ra ngoài tìm gặp nó, thuật lại chỗ mình biết và hỏi lý do Đồng tử bảo:
- Đêm rồi, tôi nghỉ nhờ ở tăng phòng, chỉ chăm chủ nghe tụng Thọ Mạng, ngoài ra không có chỉ khác!
Tướng sư nghe nói than:
- Phật pháp thật không thể nghĩ bàn! Dù dem hết trí lực và sở học của thuật tướng số, cũng không làm sao đoán định được!
74.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP TRÌ TỤNG BÁT-NHÃ TÂM KINH
Trích lục: kinh Minh Nghiệm Tân Ký.
* Một thời, nước Ô Kỳ bị dịch khi lưu hành, dân chúng chết hơn phân nửa. Con gái của quốc vương tên là Điển Vi, đang mang thai lại nhiễm bệnh dịch, thân thể héo gầy. Y sư đến xem bệnh, bảo đứa con trong bụng đã chết, nhưng vì công chúa quá suy nhược, nên không dám trục thai ra. Trong cơn đau nặng sắp măn phân, công chúa sợ hãi cùng cực, chỉ thành tụng Bát-nhã Tâm Kinh. Nhờ sức tụng kinh, thai nhi sống lại, công chúa hết bệnh và an ồn sinh ra một trai, tiếng kêu khóc rất khác lạ.
Vừa biết nói, đứa bé hằng tụng câu: “Nam mô Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa”. Nhà vua vui mừng, đặt tên cho hoàng tôn là Ba-la.
Được ba tuổi, đứa bé nghe giảng kinh Bát nhã, liền có sự hiểu thông suột như đã tập học từ kiếp trước. Khi lên bảy tuổi, hoàng tôn dược phong làm Thái tử, tánh thông huệ, hiểu suốt tam tạng kinh điển. Việc kỳ lạ trên làm cho dân trong nước vui mừng tin tưởng, đều học tụng Bát-nhã Tâm Kinh. Từ đó, trong nước tật dịch tiêu trừ, dân chúng an vui no đủ.
Tất Thí là một nước nhở ở biên cảnh, lệ thuộc vào lân quốc. Sau khi nhà vua băng hà, vì không có con thừa kế, nên quần thần lựa một người trong hoàng tộc tên là Thính Hựu lên nổi ngôi. Lúc đó, trong nước ly loạn, những hàng quý tộc, người giàu có đều di cư sang nước khác.
* Thính Hữu là một vị vua có trí tuệ, tin Phật pháp, thấy thế, liền sắc chỉ cho nhân dân đều biên chép và trì tụng Bát-nhã Tâm Kinh. Mỗi buổi sáng mai, khi nghe hiệu lệnh, tất cả phải to tiếng đọc tụng; kẻ không tuân lời bị hình phạt, người siêng năng được ban thưởng. Như thế, trong ba năm, tiếng tụng vang rền khắp nước, khiến cho long thần đều sinh tâm hoan hỷ. Các xứ khác đem quân xâm phạm nước Tất Thí, qua một trận đều bị thối bại. Bọn giặc ngoài vào nước này cướp phá cùng những kẻ muốn làm phán nghịch, bỗng nhiên hôn loạn lạc lối, kết cuộc đều bị bắt. Trong vòng mười năm, nước Tất Thi lần lần được bình định sung túc, hàng quý tộc giàu có đều trở về. Vua Thính Hựu được tôn trọng như vị Thánh chúa, các lân bang đều thân phục. Oai lực của Bát-nhã thật không lường!
* Đời Đường, năm Trinh Quán thứ mười ba, Huyền Trang Pháp sư phát tích đi thỉnh kinh bên Tây Vức. Vì cuộc hành trình gặp nhiều hiểm nạn ma chướng, nên mỗi ngày Pháp sư đều tụng Bát-nhã Tâm Kinh hai mươi mốt lần.
Trong vòng mười bảy năm đi về, Pháp sư trải qua một trăm ba mươi tám nước, thấy nghe nhiều việc lạ. Khi gặp lưu nạn, Ngài trì tụng Bát-nhã Tâm Kinh và niệm danh hiệu Quán Thế Âm, thì mọi sự đều an ổn thông suốt. Đến năm Trinh Quán thứ mười chín, Pháp sư mới về tới Trường An, thỉnh được sáu trăm năm mươi bày bộ kinh luận. Ngài bảo:
- Sự thành công của tôi đều nhờ oai lực của đức Quán Thế Âm và Bát-nhã Tâm Kinh.
75.- SỰ CẢM ỨNG KHI DỊCH KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
Trích lục: Từ Ân Truyện.
Dời Đường, ngày mồng một tháng giêng niên hiệu Hiền Khánh thứ năm, Huyền Trang pháp sư khởi công phiên dịch kinh Đại Bát-nhã.
Kinh này theo bản chữ Phạn, có đến hai mươi muôn bài tụng, văn quá rộng nhiều, ý tứ nhiều đoạn trùng lập. Học đồ có nhiều vị khuyên nên rút gọn lại để dễ lãnh hội, khỏi phí công phu. Vì đông người khuyên giải, Pháp sư đã xiêu lòng, có tâm niệm thuận theo ý đại chúng. Đêm ây, Ngài nằm mộng thấy nhiều tưởng đáng kinh hài; hoặc di nơi chỗ nguy hiểm, hoặc bước lên gọc dá cheo leo, hoặc thấy thú dữ rượt đuổi, trải qua nhiều gian nan mới được thoát khỏi. Tinh dậy, Pháp sư biết đó là điểm răn cấm, thuật lại dậy đại chúng nghe, rồi dịch y theo văn rộng nhiều của kinh chữ Phạn. Tối đến, Ngài năn mộng thấy chư Phật, Bồ-tát phóng ánh sáng từ tướng bạch hào chiếu đến thân mình, khiến cho tâm ý hòa vui. Lại thấy tự tay cầm hoa, đèn cùng dường chư Phật; thấy mình lên tòa cao vì chúng nói pháp, đại hội vây quanh cung kính khen ngợi; thấy người đem hoa quả dâng cúng cho mình. Thức giấc, Pháp sư vui mừng, không dám bớt bỏ chút nào, hoàn toàn dịch đúng theo Phạn bản.
Đức Phật nói kinh Đại Bát-nhã, tất cả có bốn nơi: núi Linh Thứu, vườn Cấp Cô Độc, cung trời Tha Hóa Tự Tại, tinh xá Trúc Lâm; gồm mười sáu hội, nay gom lại thành một bộ. Ngài Huyền Trang ở Tây Vức thỉnh về được ba bản, khi phiên dịch, có điểm nào nghi nan, liền đem cả ba bản ra giải định lại. Tánh Pháp sư cần trọng, mỗi đoạn xem đi xét lại đôi ba lần mới hạ bút. Hoặc khi văn kinh có chỗ sâu mầu, ý chưa nhất quyết, liền cảm cảnh giới lạ hiện ra, dường như được sự âm thầm giúp cho tỏ ngộ.
Kinh Đại Bát-nhã hội đầu tiên, có phẩm Nghiêm Tịnh Phật Độ. Trong phẩm đó nói:
“Chư Bồ-tát Ma-ha-tát vì Bát-nhã Ba-la-mật- đa, dùng sức nguyện thần thông đem các mặt châu báu lạ, hương hoa mầu, cùng trăm thức trận vị, y phục, âm nhạc ở cõi đại thiên thế giới, đến trang nghiêm cúng dường chỗ thuyết pháp".
Lúc dịch đến phẩm này thì Ngài chủ trì chùa Ngọc Hoa là Hòa thượng Huệ Đức cùng vị tăng trong ban phiên dịch là Hỷ Thượng, đồng nằm mộng thấy chùa Ngọc Hoa hiện ra rộng lớn đẹp sạch, trần thiết trang nghiêm, tràng phan, hoa trướng, kỹ nhạc, xe báu đầy khắp tự viện; lại thấy vô lượng tăng chúng tay cầm lọng đẹp cúng dường kinh Đại Bát-nhã. Từ cửa ngõ đến đường sá, tường vách trong chùa đều trang sức lộng lầy, đất trải hoa thơm, chúng đạp lên mà đi. Chỗ viện phiên dịch lại càng đẹp mầu như cánh bảo trang nghiêm ở Tịnh độ. Lại nghe tiếng Pháp sư ở trong điện đang nói kinh, ba tòa điện đường đều có tiếng diễn giảng.
Khi thấy điềm này, cả hai đều vui mừng thức giấc, cùng đi đến chỗ Pháp sư trần thuật lại và thưa hỏi về việc mộng. Ngài Huyền Trang bảo:
- Nay chính là lúc đang phiên dịch phẩm ấy, nên cảm chư Bồ-tát hiện sự cúng dường, các vị có tin như thế hay chăng?
Bấy giờ, ở bên đại điện có hai cây lý, tuy vào lúc trái mùa mà đều trổ bông sáu cánh trắng hồng tươi đẹp. Đại chúng bình luận rằng:
- Đây là điềm Bát-nhã nở hoa, sáu cánh là tiêu biểu cho sáu pháp Ba-la-mật.
Đến ngày hai mươi ba tháng mười năm Long Sóc thứ ba, kinh mới được dịch xong thành sáu trăm quyền, gọi là Đại Bát-nhã. Pháp sư chắp tay vui mừng bảo học đồ rằng:
- Chúng sinh ở Chẩn Đán thật có duyên với Đại Bát-nhã! Huyền Trang ta đến chùa Ngọc Hoa đây, cũng do sức của kinh này vậy!
TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC
MỤC LỤC
LỜI TỰA
QUYỂN THƯỢNG
1.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỦA VUA ƯU ĐIỄN VÀ BA-TƯ-NẶC
2.- SỰ CẢM ỨNG HỌA TƯỢNG PHẬT CỦA VUA ẢNH THẮNG
3.- SỰ CẢM ỨNG MỘNG THẤY TƯỢNG PHẬT CỦA MINH ĐẾ NHÀ HÁN
4.- SỰ CẢM ỨNG THỈNH TƯỢNG PHẬT CỦA LƯƠNG VÕ ĐẾ
5.- SỰ CẢM ỨNG DI TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC TỪ CÙNG DIÊM-LA TRỞ VỀ
6.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC MẠNG CHỒNG
7.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THẤY CÕI CỰC LẠC
8.- SỰ CẢM ỨNG CỦA HAI NGƯỜI NGHÈO ĐEM TIỀN VÀNG THUÊ HỌA TƯỢNG PHẬT
9.- SỰ CẢM ỨNG GÓP TIỀN TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỔ
10.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT VÀ BỒ-TÁT ĐƯỢC SINH LÊN CUNG TRỜI ĐÂU-SUẤT
11.- SỰ CẢM ỨNG THỜ HỌA TƯỢNG PHẬT A-DI-ĐÀ ĐƯỢC VÃNG SINH
12.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG A-DI-ĐÀ CAO BA TẤC CỦA THÍCH ĐẠO DŨ
13.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC SONG THÂN
14.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU CHÚNG SINH Ở TAM ĐỒ
15.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỦA SA-MÔN TĂNG CAO
16.- SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA CHIM ANH VŨ DẪN NGƯỜI NIỆM PHẬT
17.- SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA LÀM THÂN CÁ DẪN ĐỘ NGƯỜI NIỆM PHẬT.
18.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỔ ĐỊA NGỤC
19.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT A-SÚC BỆ CỦA THÍCH SONG HUỆ
20.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CÒN ĐƯỢC SỐNG THÊM NĂM MƯƠI NĂM
21.- SỰ CẢM ỨNG CẦU NGUYỆN PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC GIÀU SANG
22.- SỰ CẢM ỨNG ĐEM MỘT ĐỒNG TIỀN CÚNG PHẬT ĐƯỢC GIÀU SANG
23.- SỰ CẢM ỨNG NGƯỜI PHÁ GIỚI XƯNG HIỆU PHẬT DƯỢC SƯ LẠI ĐẮC GIỚI
24.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC KHỎI TỘI
25.- SỰ CẢM ỨNG MỘT THAI PHỤ ĐƯỢC PHẬT DƯỢC SƯ CỨU KHỎI NẠN
26.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC HOÀN SINH
27.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT TỲ-LÔ-GIÁ-NA TRỪ ĐƯỢC CHƯỚNG NẠN
28.- SỰ CẢM ỨNG ĐỨC ĐỘNG HIỆP THÂN TỰ XƯNG VÔ GIÁ-ĐÀ-BÀ
29.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TƯỢNG NGẦM ĐỨC PHẬT CỦA NGÀI THÍCH HÀM CHIẾU
30.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC TRUYỀN THỪA CỦA HAI BỘ MẠN-ĐÀ-LA
31.- SỰ CẢM ỨNG LỄ BÁI KIM CANG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC ẢNH HƯỞNG GIẢI THOÁT
32.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM THÁNH CHÚNG THAI TẠNG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC THOÁT NẠN
33.- SỰ CẢM ỨNG XÁ-LỢI HIỆN ĐIỀM LÀNH
34.- SỰ CẢM ỨNG ÔNG A ĐẮC TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC HOÀN SINH
35.- SƯ CẢM ỨNG NHỜ BẠN CŨ TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC LÌA THÂN MÃNG XÀ
36.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM QUAN ÂM, PHÁT NGUYỆN LÀM THÁP PHẬT ĐƯỢC KHỎI TỘI CHẾT
37.- SỰ CẢM ỨNG ĐO NỀN TỊNH XÁ CỦA TRƯỞNG GIẢ TU ĐẠT
38.- SỰ CẢM ỨNG VỀ QUẢ LÀNH XÂY CẤT CHÙA SAU KHI PHẬT NHẬP DIỆT
39.- SỰ CẢM ỨNG DÙNG CHIẾC GẬY LÀM TRỤ VÁCH TINH XÁ ĐƯỢC KHỎI CHẾT YẾU
40.- SỰ CẢM ỨNG QUÉT SÂN TINH XÁ ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
41.- SỰ CẢM ỨNG DO TẠO TINH XÁ, CHA MẸ NHIỀU ĐỜI ĐƯỢC THÊM PHƯỚC
42.- SỰ CẢM ỨNG VỀ OAI ĐỨC CỦA TINH XÁ PHẬT TẠI NƯỚC THẤT-LA-PHIỆT-TẤT-ĐẾ
43.- SỰ CẢM ỨNG CỦA ĐỨA TRẺ CHƠI ĐÙA, DÙNG LÁ CÂY LÀM TINH XÁ ĐƯỢC SỐNG LÂU
44.- SỰ CẢM ỨNG THẦY TỶ-KHEO TÔ ĐẮP LỖ VÁCH ĐƯỢC TĂNG THỌ
45.- SỰ CẢM ỨNG VUA NƯỚC KIM ĐỊA SỬA CHÙA HƯ ĐƯỢC THÊM TUỔI
QUYỂN TRUNG
46.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM, TRÙNG KIẾN NHỜ NƯỚC RỬA TAY ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
47.- SỰ CẢM ỨNG KINH HOA NGHIÊM ĐỔI CHỖ NẰM TRÊN KINH A-HÀM
48.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM ĐƯỢC TẶNG THUỐC TIÊN
49.- SỰ CẢM ỨNG PHÁP LỰC KINH HOA NGHIÊM ĐÁNH LUI A-TU-LA
50.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG BÀI KỆ KINH HOA NGHIÊM PHÁ ĐƯỢC ĐỊA NGỤC
51.- SỰ CẢM ỨNG LONG TỬ THÀNH TÂM HỌC KINH A-HÀM
52.- SỰ CẢM ỨNG SỰ TĂNG DU TỤNG KINH A-HÀM ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ
53.- SỰ CẢM ỨNG TẢ KINH A-HÀM ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
54.- SỰ CẢM ỨNG CON CHÓ NGHE KINH A-HÀM, SAU ĐƯỢC CHỨNG QUẢ
55.- SỰ CẢM ỨNG BẦY DƠI NGHE TẢNG A-TỲ-ĐẠT MA ĐƯỢC GIẢI THOÁT
56.- SỰ CẢM ỨNG CON CHUỘT NGHE TANG LUẬT ĐƯỢC ĐẠO QUẢ
57.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TỶ-KHEO THỌ TRÌ TẠNG LUẬT
58.- SỰ CẢM ỨNG THỌ TRÌ KINH ĐẠI TẬP DIỆT TỘI NGŨ NGHỊCH
59.- SỰ CẢM ỨNG NGHE TÊN KINH PHƯƠNG ĐẲNG ĐƯỢC SINH TỊNH ĐỘ
60.- SỰ CẢM ỨNG TU PHƯƠNG ĐẲNG SÁM PHÁP ĐƯỢC THỌ KÝ
61.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG TỤNG KINH DUY-MA CẬT
62.- SỰ CẢM ỨNG TẢ KINH DUY-MA CỨU MÌNH VÀ SONG THÂN
63.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG KINH LĂNG-NGHIÊM
64.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG TỤNG THẮNG MAN
65.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TU TẬP KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ
66.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TỶ-KHEO THÍCH TĂNG CẢM
67.- SỰ CẢM ỨNG VỀ DIỄN GIẢNG KINH KIM QUANG MINH
68.- SỰ CẢM ỨNG TẠO KINH KIM QUANG MINH SIÊU ĐỘ OAN GIA
69.- SỰ CẢM ỨNG VỀ ĐỌC TỤNG THƯ TẢ KINH DƯỢC SỰ
70.- SỰ CẢM ỨNG VỀ THƯ TẢ KINH TỲ-LÔ-GIÁ-NA
71.- SỰ CẢM ỨNG VỀ ĐEO MANG TÙY CẦU ĐÀ-RA-NI
72.- SỰ CẢM ỨNG VỀ OAI THẦN CỦA TÔN THẮNG ĐÀ-RA-NI
73.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC NGHE KINH THỌ MẠNG
74.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP TRÌ TỤNG BÁT-NHÃ TÂM KINH
75.- SỰ CẢM ỨNG KHI DỊCH KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
76.- SỰ CẢM ỨNG KHI CÚNG DƯỜNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
77.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẢ KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
78.- SỰ CẢM ỨNG VỀ NGHE VÀ TỤNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
79.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP, ĐỌC TỤNG KINH KIM CANG BÁT-NHÃ
80.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC GIẢNG TỤNG KINH NHÂN VƯƠNG BÁT-NHÃ
81.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TỤNG KINH VÔ LƯỢNG NGHĨA
82.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA, MÔI VÀ LƯỠI KHÔNG HƯ RÃ
83.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ
84.- SỰ CẢM ỨNG VỀ CÚNG DƯỜNG KINH PHÁP HOA
85.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TRUYỀN BÁ KINH ĐẠI NIẾT-BÀN
86.- SỰ CẢM ỨNG TẢ TỤNG KINH NIẾT-BÀN ĐƯỢC SINH VỀ CÕI PHẬT VÔ ĐỘNG
QUYỂN HẠ
87.- SỰ CẢM ỨNG KHI ĐỨC VĂN-THÙ HẠ SINH
88.- SỰ CẢM ỨNG ĐỨC VĂN-THÙ HÓA LÀM BẦN NỮ
89.- SƯ CẢM ỨNG CẦU VĂN-THÙ BỒ-TÁT
90.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG ĐỨC VĂN-THÙ
91.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHỔ HIỀN BỒ-TÁT
92.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG ĐỨC DI-LẶC Ở NƯỚC Ô TRÀNH
93.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẠO TƯỢNG BỒ-TÁT DI-LẶC
94.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM
95.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM QUÁN ÂM ĐƯỢC SỐNG LÂU
96.- SỰ CẢM ỨNG CÚNG DƯỜNG TƯỢNG QUÁN ÂM HƯ MỤC
97.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG THẬP NHẤT ĐIỆN ÂM
98.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
99.- SỰ CẢM ỨNG HỌA TƯỢNG THIÊN THỦ NHÃN
100.- SỰ CẢM ỨNG CỦA SÁU BỨC TƯỢNG QUÁN ÂM
101.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TƯỢNG QUÁN ÂM, ĐỊA TẠNG
102.- SỰ CẢM ỨNG KHI TẠO TƯỢNG ĐẠI THẾ CHÍ BỒ-TÁT
103.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG ĐỊA TẠNG BỒ-TÁT
104.- SỰ CẢM ỨNG CỦA PHÁP TƯỢNG NĂM VỊ BỒ-TÁT
105.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG DIỆT ÁC THÚ BỒ-TÁT
106.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG DƯỢC VƯƠNG DƯỢC THƯỢNG BỒ-TÁT
107.- SỰ CẢM ỨNG CỦA ĐÀ-RA-NI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ-TÁT
108.- SƯ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG LONG THỌ BỒ-TÁT
LỜI KỆ SAU CÙNG CỦA DỊCH GIẢ
Đã y truyện sách biên soạn thành
Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược Lục
Các việc như thế hãy còn nhiều
Chỉ ghi một ít làm tín chứng
Nguyện người nghe thấy đều phát tâm
Tạo kết duyên lành ngôi Tam Bảo
Dù rằng tin ngợi hoặc nghi chê
Đều mong lợi ích thoát sinh tử
Phật từng thọ ký đời mạt pháp
Nghe danh Tam Bảo khởi lòng tin
Tội chướng ba đời đều tiêu trừ
Kiếp sau được gần các Hiền Thánh.
Nguyện đem công đức biên soạn này
Hồi hướng chúng sinh trong pháp giới
Được nhiều thắng duyên thêm phước huệ
Đều chứng Vô Thượng đại Bồ-đề.
71.-Ẩn tu tìm hỏi truyện Tây-Thi
Dư lại hồn mai ánh nguyệt trì !
Hận nỗi Phượng-Loan đâu vắng tá?
Thương tình Cầm-Sắc có ra chi?
72.-Ẩn tu tích cổ duyệt xa gần
Tan hợp bên trời áng bạch-vân !
Biển nổi dâu chìm duyên cảnh thế,
Bao giờ cõi Phật tựa lầu ngân.
73.-Ẩn tu bốn mặt khói sương đầy
Hỏi gạn ai người niệm Phật đây?
Cười mỉm Duy-Ma không phúc đáp
Song hồ nửa khép cánh am mây !
74.-Ẩn tu trì niệm cảnh hồn nhiên
Trong lặng Âm-thanh vẫn Hiện-tiền
Đoan-đích tìm chi tin-tức thật?
Tiếng chuông đêm vắng đến ngư thuyền.
75.-Ẩn tu niệm Phật nhẹ lâng không
Hồn bướm Trang Chu tỉnh giấc nồng !
Ý vị âm thầm trăng tỏa sáng
Hình dung lóng lánh tuyết ngần trong.
PHÁP YẾU TU HÀNH
Hòa-Thượng Thích-Thiền-Tâm
Yếu điểm của đường tu
Gồm hai phần Sự, Lý.
LÝ tu là sửa tâm
Cho hợp với chân lý
Sự tu chỉnh ba nghiệp
Giúp chứng cảnh chân như
Sửa tâm là dứt trừ
Nghiệp tham, ái, nóng, giận
Si mê cùng tật đố
Ngã mạn với kiêu căng
Chớ chạy theo hình thức
Say đắm nẻo lợi danh
Chuộng địa vị, quyền hành
Khoe thông minh, tài giỏi
Phải sanh lòng giác ngộ
Niệm thanh tịnh từ bi
Dõng tiến mà kiên trì
Sáng suốt mà khiêm hạ
Tự nghĩ mình xưa nay
Ðã tạo nhiều tội chướng
Chịu nhẫn nhục, sám hối
Biết an phận, tùy duyên
Duyên tốt chẳng kiêu khoe
Duyên xấu không thối não
Bình tỉnh mãi tiến tu
Như bơi thuyền ngược nước
Về biển Tát Bà Nhã
Ðến Bảo Sở an vui
Ðó là phần tu tâm
Hợp với lý giải thoát.
SỰ tu là thân nghiệp
Lễ kính Phật sám hối
Khẩu nghiệp trì chú kinh
Hoặc niệm Phật khen ngợi
Ý nghiệp giữ thanh tịnh
Mật tu môn Lục Niệm
Nguyện đền đáp bốn ân
Nguyện mình cùng chúng sanh
Sanh cõi vui thành Phật
Ðời đời gặp chánh Pháp
Tu sáu độ muôn hạnh
Tâm Bồ Ðề độ sanh
Trần kiếp không thối chuyển
Tu Sự mà bỏ Lý
Làm sao mở chân tâm?
Tu Lý mà phế Sự
Cũng không thể thành Phật !
Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG
Thì tức SẮC là KHÔNG
Tu Lý không bỏ Sự
Ðó tức KHÔNG là SẮC
Lý chính thật Chân-Không
Sự là phần Diệu-Hữu
Chân-Không tức Diệu-Hữu
Diệu-Hữu tức Chân-Không
Nếu chưa đạt lẽ nầy
Thà tu hành chấp CÓ
Ðừng cầu cao bác tướng
Mà lạc vào Ngoan-Không
Ðây chính hầm khổ đọa
Kẻ thông minh đời nay
Ða số mắc lỗi nầy.
Xưa có sư TÔNG THẮNG
Tài huệ biện cao siêu
Vì ỷ giỏi kiêu căng
Nên bị nhục chiết phục
Hỗ thẹn muốn tự tận
Thọ thần hiện thân khuyên
“ Sư nay đã trăm tuổi
Tám mươi năm lầm lạc
May nhờ gặp Thánh nhân
Huân tu mà học đạo
Tuy có chút công đức
Mà lòng hay bỉ ngã
Ỷ thông minh biện bác
Lấn người không khiêm hạ
Lời cao hạnh chưa cao
Nên phải bị quả báo
Từ đây nên tự kiểm
Ít lâu thành trí lạ.
Các THÁNH đều tồn tâm
NHƯ LAI cũng như vậy ”
Lại có kẻ đua tướng
Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư
Mượn thuyết pháp, tụng kinh
Ðể mưu cầu lợi dưỡng
Dành đệ tử, chùa chiền
Lập bè đảng, quyến thuộc
Thấy có ai hơn mình
Liền thị phi tật đố
Hại Thầy Bạn, phản Ðạo
Lừa dối hàng tín tâm
Lời nói thật rất cao
Việc làm thật rất thấp
Lý Sự đều sai trái
Hạng ấy hiện rất nhiều
Tạo biển khổ thêm sâu
Khiến đau lòng tri-thức
Lý, Sự đại lược thế.
CÔNG ĐỨC làm sao được?
Phật là ÐẠI Y VƯƠNG
Pháp là DIỆU TIÊN DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma , quỷ mị
Nạn động đất, xe, thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải thoát.
CHUYÊN TỤNG một phẩm Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các nguyện
Thỏa mãn các mong cầu
Chỉ sợ người không tin
Hoặc tin mà không sâu
Lại ngại không thực hành
Hoặc hành không bền lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu
Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người, cảnh
Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
Không hành như trên đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là PHÀM TĂNG
Giúp ích được gì đâu
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng THÀNH KÍNH
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
LẮNG LÒNG suy gẫm sâu.
Trời xanh tươi biếc một mầu
Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay
Mà sao đời đạo đổi thay
Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ
“THUYẾT PHÁP bất đậu cơ
Chúng sanh một khổ hải ”
Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương
Sóng dồn bọt biển tà dương
Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên
Bụi hồng tung gió đảo điên
Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.
Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.
BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI
NAM MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA. A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(21 lần)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHƠN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA. UM! BÚT RUM! HÙM!
(21 lần)
Nam mô Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, PHÁP GIỚI TẠNG THÂN A DI ĐÀ NHƯ LAI biến pháp giới Tam bảo.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
(niệm mau 10 hơi)
(KINH: Lúc xướng chữ A, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là Bồ Tát oai lực nhập vô sai biệt cảnh giới.)
Đức Phật Thế-Tôn, Chánh Biến Tri
Tướng hảo đoan nghiêm đều viên mãn,
Rủ lòng đại từ bi vô hạn,
Mở bày đại pháp cứu quần mê.
Niệm Phật hiện tiền đắc Phật tướng,
Thâm nhập cảnh giới bất tư nghị.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Quyết định một lòng xưng niệm Phật,
Hồng danh chứa nhóm vô lượng nghĩa,
Lợi lạc muôn ức chúng hữu tình.
Đức Phật Thế-Tôn, đấng Vô-thượng
Tri kiến, giác ngộ đều quang minh,
Rắc rải tuệ nhật khắp mười phương,
Rưới trận mưa pháp như Cam lộ.
Niệm Phật vãng sanh cõi Cực-Lạc,
An nhiên chứng đắc Vô-Sanh-Nhẫn.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Gìn giữ thân tâm bằng Phật hiệu,
Hồng danh tỏ ngộ Chân Như Tánh,
Dẫn dắt chúng sanh vào Tam-muội.
Đức Phật Như-Lai đấng Bất-động
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng đoạn thường,
Xa lìa chấp hữu hoặc chấp vô,
Tự tại chỉ bày phương tiện lực.
Niệm Phật an trụ nơi bản giác,
Tùy nghi hòa hợp với tánh Không.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Trang nghiêm tự thân bằng niệm Phật,
Hồng danh hiển phát Hư-Không-Tạng,
Tức thời thẳng vào Viên-giác-tánh.
Con nay xưng tán Đại Đạo-Sư,
Khen ngợi hồng danh vô lượng lực.
Nguyện đem hồi hướng khắp chúng sanh,
Mong cầu hết thảy cùng niệm Phật.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Từ Tán Tâm Sẽ Đi Đến Định Tâm
Miệng niệm Phật, tâm tưởng Phật, hoặc trụ nơi câu niệm Phật, gọi là Định Tâm Niệm Phật. Miệng niệm Phật, tâm không nhớ Phật mà suy nghĩ mông lung việc khác, đó là Tán Tâm Niệm Phật. Tán tâm mà niệm, hiệu lực so với định tâm yếu kém rất nhiều. Vì lẽ ấy, từ xưa đến nay các bậc thiện tri thức đều khuyên người cố gắng định tâm trì niệm, đừng để tán tâm.
Cho nên tán tâm niệm Phật không đủ làm gương mẫu.
Tuy nhiên, mỗi tác động bên ngoài đều liên quan đến tiềm thức, tức là thức thứ tám ở bên trong. Nếu tán tâm niệm Phật hoàn toàn không công hiệu, thì sáu chữ hồng danh kia từ đâu phát hiện? Đã có sáu chữ hiện thành, tất phải có hai chuyển lực: một là do chủng tử, từ tiềm thức phát hiện ra ngoài. Hai là sức tác động từ ngoài lại huân tập trở vào bên trong. Cho nên chẳng thể nói tán tâm niệm Phật hoàn toàn không công hiệu, bất quá so với định tâm nó yếu kém hơn nhiều mà thôi. Lối niệm tán tâm từ xưa đến nay không được đề xướng, nhưng hàm ý và công dụng của nó cũng không thể phủ nhận. Vì thế cổ nhơn có lưu một bài kệ rằng:
Di Đà sáu chữ pháp trung vương,
Tạo niệm phân vân chớ ngại màng!
Muôn dặm phù vân che ánh nhật.
Nhơn hoàn khắp xứ ửng dương quang.
Bài kệ này suy ra có điều xác đáng. Bởi hạt giống niệm Phật nơi thức thứ tám khi thành thục, tất dẫn phát thức thứ sáu khiến cho sanh khởi tịnh niệm. Rồi từ thức thứ sáu lại cổ động ra năm thức trước để thành hiện hành. Nhưng vì lúc chủng tử niệm Phật trải qua thức thứ sáu, bởi trần nhiễm của chúng sanh sâu dày, nên bị các niệm khác lấn cướp, tuy có lọt khỏi vòng vây song ảnh hưởng còn lại chẳng bao nhiêu. Ví như ánh mặt trời tuy rực rỡ, nhưng vì bị nhiều lớp mây che, nên khi lọt xuống nhân gian, chỉ còn vẻ ửng sáng. Nhưng ánh sáng thừa ấy sở dĩ có, cũng do công năng ảnh hưởng của mặt trời. Biết được lẽ này, người tu Tịnh Độ đừng quá ngại màng đến tạp tưởng phân vân, chỉ liên tiếp niệm hết câu này sang đến câu khác, chánh niệm còn được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Niệm như thế một lúc lâu, tự nhiên ngựa ý sẽ quay về tàu, vượn lòng lần lần vào động. Niệm một lúc lâu nữa, thì chánh niệm hiển lộ rõ ràng, không cần gạn bỏ điều nhiếp, mà tự nhiên thành tựu. Hiểu được lẽ này thì chỉ quý niệm nhiều, đừng ngại tán tâm. Như nước tuy bợn đục, lóng mãi tất sẽ thành trong. Người tuy tạp niệm nhiều, niệm Phật lâu tất sẽ thành chánh niệm. Nên biết cổ đức khi đi đứng nằm ngồi và tất cả hành động đều niệm Phật. Nếu các vị ấy hoàn toàn dùng định tâm mà niệm, thì lúc đi đường tất phải vấp chạm, hoặc khi tả kinh hay làm việc cũng không thể thành công.
Cho nên người xưa cũng có lúc phải phân tâm mà niệm, nhưng vẫn không rời câu niệm Phật, bởi dù có tán tâm vẫn không mất phần ảnh hưởng.
Đến đây, xin thuật một câu chuyện. Lúc nọ, có người đến hỏi một thượng tọa: "Thưa thật với thầy, tôi niệm Phật đã hơn mười năm nay mà vọng niệm vẫn còn nhiều, không biết cách chi trừ diệt. Tôi có đi nhiều nơi cầu hỏi phương pháp với những bậc đã tu trước mình. Vị này đưa kinh nghiệm này, vị kia dạy cách khác, có một đại đức lại khuyên tôi nên nín hơi niệm luôn hai mươi mốt câu rồi nuốt một cái. Tôi đã áp dụng qua đủ mọi phương thức, nhưng chỉ định tâm được lúc đầu, rồi sau có lẽ vì lờn quen nên vọng niệm trở lại như cũ. Không biết thầy có phương pháp nào hữu hiệu để dạy tôi chăng?"
Vị thượng tọa đáp: "Điểm thất bại đó do ông không bền lòng, mà cứ thay đổi đường lối. Nên biết phàm phu chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay gây tạo nghiệp nhiễm vọng quá nhiều đâu thể nhứt thời mà thanh tịnh được! Chỗ cốt yếu là phải dụng tâm cho bền lâu. Tôi xin đưa ra đây hai thí dụ: Ví như một bình nước hôi nhơ dẫy đầy, ông đem nước thơm sạch đổ vào. Vì nước dơ đã đầy, nước sạch tất phải dội ra ngoài, song ít nhứt nó cũng lưu lại trong bình một vài giọt. Nếu ông cứ bền tâm đổ vào mãi, ngày kia bình nước hôi sẽ hóa ra nước sạch thơm. Lại ví như ông đau bịnh dạ dày, uống thuốc chi cũng đều ói mửa ra. Ông cứ bền lòng dùng ngay thuốc trị bịnh dạ dày mà uống, đừng thay đổi thuốc chi khác. Mỗi phen uống tuy có bị ói mửa, nhưng chất thuốc cũng lưu lại ít nhiều, lần lần bệnh của ông sẽ dứt. Bệnh phiền não vọng tưởng của chúng sanh cũng thế, dùng thuốc niệm Phật điều trị tự nhiên là thích đáng, nếu thay đổi mãi làm sao thành công? Như có người dùng phèn lóng nước, nó chưa kịp trong, lại nóng nảy vội quậy lên đổ muối vào, đổ muối chưa kịp trong, lại quậy lên đổ vôi bột vào. Cứ thay đổi mãi như thế, làm sao nước trong cho được? Thế nên vấn đề dứt vọng niệm, không phải do nơi thay đổi nhiều phương pháp, mà ở nơi lựa một phương pháp thích hợp rồi thật hành cho bền lâu là thành tựu." Vị ấy nghe xong gật đầu cho là hữu lý.
Như đã nói, muốn được định tâm, điểm căn bản là phải dụng công cho bền lâu. Tuy nhiên nếu sợ niệm lực tán loạn, cần có phương tiện để tâm dễ yên tịnh, thì nên áp dụng pháp Thập Niệm Ký Số đã trình bày ở trước. Phép này do dùng hết tâm lực ghi nhớ từ một đến mười câu, nên dễ vào tịnh định. Nếu tâm còn rối loạn và không thể dùng phép Thập Niệm Ký Số, thì trong mỗi câu niệm chỉ cần chú tâm ghi giữ cho chắc một chữ "A". Khi chữ A còn thì mấy chữ khác đều còn, nếu mê mờ để cho nó mất, tất năm chữ kia cũng mất. Lại chữ A cũng chính là chữ căn bản, và là mẹ của tất cả chữ. Chú tâm vừa niệm vừa ghi chắc chữ A, lâu lâu tự nhiên tâm và cảnh đều tiêu tan dung hợp thành một khối, lượng rộng lớn dường hư không, Phật và mình cũng đều mất.
Lúc bấy giờ đương nhiên chữ A cũng không còn. Nhưng lúc trước nó mất là do bởi tâm xao động rối loạn, lúc này nó không còn chính thuộc về trạng thái dung hóa của thường định. Đây là hiện tượng tâm cảnh đều không, điểm sơ khởi để đi vào Niệm Phật Tam Muội.
Niệm Phật Thập Yếu
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
Một câu A Di Ðà
Như ngọc lắng trong nước
Ngàn muôn tạp niệm rối
Chẳng dứt tự thành không.
Nhứt cú Di Ðà
Như thủy thanh châu
Phân vân tạp niệm
Bất đoạn tự vô.
Hạt châu Thủy Thanh có công năng lóng nước đục thành trong. Câu niệm Phật cũng thế, không luận vọng niệm nhiều ít, hành giả cứ chuyên chú giữ chắc sáu chữ hồng danh lâu ngày, tạp niệm tự nhiên tan mất. Ðiểm đáng lưu ý trong đây là không nên khởi tâm dứt trừ vọng niệm. Vì vọng niệm vốn như huyễn, cố tình muốn dẹp, nó lại càng tăng. Một nhà hiền triết đã nói kinh nghiệm này qua câu: "Càng muốn đè nén, chính là cố tâm làm cho nó thêm phát khởi." (Tương dục án chi, tất cố hưng chi).
Comments
Post a Comment