LI TA



B
 Tam Bo Cng Yếu Lược Lc này do ngài Thích Phi Trượ Trung Hoa tp thành. Đây là mt ni dung ghi chép khái yếu các s cng hoc lành tt, hoc ly kỳ ca nhng công đc đi vi ba ngôi báu Pht, Pháp, Tăng; nên gi là Tam Bo Cng Yếu Lược Lc.


Mc đích ca ngài Phi Trược khi viết ra tp này là mun cho đng nhân  cõi khổ trm luân, nht là người thi mt pháp, đi vi Tam Bo sinh lòng tin hướng. Khi ngun tin đã được khơi đng, hnh lành s ni tiếp theo sau. Và, vic làm lành đi vi ngôi Tam Bo là cơ bn để bước lên đường gii thoát, cho đến khi thành Pht. Do thy s li ích trên, chư Đi dc bên Trung Hoa mi tuyn tp này đem vào Sử Truyn B trong Đi Tng Kinh đ lưu truyn.

 

Trong rng hoa báu tam tng kinh điển, mi đóa hoa đu có mt sc thái, mt v đp riêng. Đi vi b này tôi chn đ dch trước, vì nó có tính cách ph thông, rt thích hp vi căn cơ phn đông Pht t. Qua đó khng đnh rng, đo Pht t khi hình thành, tn ti và phát trin, triết lý Pht giáo không nhng được truyn bá bng kinh k mà còn bng nhng câu chuyn k ước l, đm màu sc thn thoi. Hy vng rng, cun sách này s góp thêm tài liu đ quý bn đc tham kho, nghiên cu v tm quan trng ca triết lý Pht giáo trong s sng.

 

Xin đem vic làm này hi hướng cho bn ân, Pht qu và pháp gii hu tình.

 

Thích Thin-Tâm   

 

 


TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC


 

1.- S CM NG TO TƯỢNG PHT CA VUA ƯU ĐIN VÀ BA-TƯ-NC

 

Trích lc: kinh A-hàm, Tây Quc Truyn Chí.

 

Sau khi đc Thích-ca Thế Tôn thành đo tám năm, mun báo ân m là bà Ma-gia, Ngài t vườn Kỳ Hoàn hin lên cung tri Đao-li, ngi kiết già nơi tòa kim thch trong Thin Pháp Đường. Bi duyên cơ cm ca tình m con trong nhiu kiếp, hai tia sa t nơi bà Ma-gia bng bn vt đến làm tư nhun môi ming ca Pht. Kế đó, đc Như Lai vì m và chư thiên chúng, ch bày pháp yếu. 

 

Khi y, vng bóng Pht, bn chúng cõi trn đu sinh lòng bun thương khát ngưỡng, như tên xuyên vào tim, dường th tang cha m. Các đ t đi khp nơi vườn, rng, tinh xá, tìm không thy đc Thế Tôn, càng thêm bi cm; có hi thăm tôn gi A-nan, Ngài cũng đáp rng không được biết. Riêng hai vua Ưu Đin và Ba-tư-nc nh Pht đến sinh bnh.

 

Mt hôm, vua Ưu Đin cho triu nhng th khéo trong nước đến bo:

 

Ta mun to tượng đc Thế Tôn, các ông có th giúp được chăng?

 

Tượng sư đu thưa:

 

Tâu Đi vương! Chúng tôi không th tc thành tượng mu ca Pht. Dù cho tri Tỳ-th-yết-ma – v thn điêu khc - cũng không làm sao to hết nét đp ca Như Lai. Điu chúng tôi hoc may làm được, là ch có th mô phng phn nào hai tướng loa kế và ngc hào. Ngoài ra, nhng nét đp l, oai đc, quang minh ca các tướng khác, thiết tưởng trong đây không ai có th hình dung ni. Nếu c gng gượng làm, chc rng khi đc Như Lai tr v pháp hi, đi chúng đem so sánh, danh d chúng tôi s tiêu tan không còn. Vì thế, sau khi suy nghĩ kỹ, chúng tôi xin đành cam chu ti, tht chng dám nhn lãnh.

 

Không làm sao hơn, vua hi đến cht liu làm tượng. Các th gii đu thưa:

 

- Nên dùng g chiên đàn thun sc tím, vì th cht nó chc mn, mùi thơm du bn.

 

Khi hi qua v hình tướng nên làm ngi hay đng, cao thp thế nào, mt v trí thn thưa:

 

- Tâu Đi vương! Nên to tượng ngi. Bi tt c Như Lai khi thành đo, chuyn pháp luân, hin thn biến, làm Pht s ln, thy đu ngi. Li tượng phi kiết già, ngi trên tòa sư t.

 

By gi, tri Tỳ-thủ-yết-ma tiến thân làm th, cm các đ điêu khc, đến ca thành chuyn li thưa rng:

 

- Nay tôi mun vì Đi vương mà tc tượng!

 

Vua nghe c mng, lin cùng vi quan Ch tn vào kho la g thơm, đem giao cho th tri, bảo:

 

Ông gng to tượng làm sao cho ging đc Như Lai.

 

Lúc y, tôn gi Mc-liên nh thn lc Pht, đem th tri đến nhìn xem kim tướng. Khi khi công, tiếng búa đẽo g thu đến cung tri Đao-li, ch đc Thế Tôn thuyết pháp. Do sc Pht, tiếng y vang đến đâu, chúng sinh nghe qua, ti cu đu tiêu tr, k mù được sáng, người điếc nghe thông, k câm bỗng nói, người xu thành đp, k nghèo sinh phước; cho đến ba đường lìa kh được vui. Tt c s li ích chưa tng có, thy đu hin khi. Thiên thn Tỳ-thủ-yết-ma làm chng my ngày tượng đã xong, cao by thước, có k bo rng năm thước - do bi cơ cm nên s thy không đng. Mt và tay, chân Pht đu là sc t kim. Vua thy sc tướng đp như thế, sinh lòng tin trong sch, phin não tiêu tr, chng được Nhu thun nhn. Mi người trông thy, nghip chướng đu được tan, ch tr nhng k đi vi bc Thánh nhân đã tng ác khu.

 

Khi y, vua Ba-tư-nc thy thế, cũng cho vời th khéo trong nước đ to tượng Pht. Nhà vua nghĩ rng: “To hình tướng ca Như Lai, không ch bng vàng ròng". Theo ý nguyn, Ngài dùng thun cht t ma kim, đúc tượng Pht cao năm thước. Lúc y, trong cõi Diêm-phù mi có trước nht hai tôn tượng ca Như Lai.

 

Trên cõi tri, qua ba tháng h xong, đc Pht bo bn chúng:

 

- By hôm na ta s tr li cõi Diêm-phù, giáng xung bên b ao ln ca nước Tăng-già-thi.

 

Khi y, tri Đế Thích khuyến cáo T Ti Thiên dùng vàng, bc và thy tinh làm ba đường cp bc t đnh núi Tu-di xung đến b ao. Đến ngày, đc Thế Tôn do theo đường báu xung cõi Diêm-phù. Năm quc vương: vua Ba-tư-nc nước Ca-thi, vua Ưu Din nước Bt-ta, Ác Sinh Vương chúa x Ngũ Đô, vua Uu-đà-diên chúa min Nam Hi và vua Bình Sa nước Ma-ha-đa, đu đến ch Pht cung kính đảnh l.

 

Trong khi đó, vua Ưu Đin đu đi tôn tượng, đem theo các đ cúng dường quý l đến ch Pht dâng lên. Lúc y, tượng Pht g bỗng ri khi tòa bước đi nơi hư không như Pht sng, thân phóng ánh sáng, dưới chân mưa hoa, đến trước đc Thế Tôn. Tượng li chp tay l Pht, nói k rng:

 

Khi Pht Đao-l

Vì m nói pháp yế

Tiếng th tc tôn tượng 

Vang đến Thin Pháp Đường 

Chúng Tam thp tam thiên 

Đng li đu tùy h 

Nếu đi sau to tượng 

S được vô lượng phước.

 

Lúc y, đc Như Lai quỳ chp tay hướng v tượng hoàn l. Gia hư không, trăm ngàn hoa Pht cũng đu làm y như thế. Tượng Pht lin khúc cung cúi đu. Xong, đc Thế Tôn đến xoa đảnh tượng th ký rng:

 

- Sau khi ta dit đ mt ngàn năm, Ngài nên thay ta làm li ích ln cho hàng nhân thiên cõi này. Nay ta đem các đ t phó chúc cho Ngài. Nếu có chúng sinh nào sau khi ta Niết-bàn, to tượng Pht, dùng hương hoa, phướn lng cúng dường, người y đi sau s được thy Pht, thoát khi kh luân hi.

 

Khi y, vua Ưu Đin thưa rng:

 

- Bch Thế Tôn! Nhng v to tượng Pht dit đ đi quá kh, hin nay  đâu?

 

Đc Thế Tôn đáp:

 

- Ta dùng Pht nhãn xem, thy nhng người đó đu đã được sinh trước mười phương chư Pht, không mt k nào còn trong vòng sinh t. Ch có người to tượng B-tát hin còn vài k lưu tr đi, như vua Bình Sa đây là mt.

 

By gi, tượng Pht g li bch xin đc Thế Tôn vào nơi tinh xá. Đng Điu Ng bảo:

 

Thôi! Không còn bao lâu na, ta s Niết-bàn. Ngài nên li đi làm li ích lâu dài cho chúng sinh. Như Lai s viên tch trước, vì nếu ta dit đ sau, mi người s d sinh lòng biếng trễ khinh ln.

 

Nói xong, đc Thế Tôn ct bước chm rãi đi vào tinh xá. Tượng Pht cũng tr v bn v, ngi cách đc Như Lai hai mươi b. Vua Ưu Đin trông thy khôn xiết vui mng.

 

Năm v vua li theo vào thưa rng:

 

- Bch Thế Tôn! Nên làm ch th tôn tượng như thế nào?

 

Đc Pht xòe bàn tay mt ra, t dưới đt lin hin lên cnh chùa th Pht Ca-diếp; và Ngài bảo nên ly đó làm khuôn mu. Năm v quc vương tuân li, đng góp sc làm thành cảnh chùa ln ti ch đó để th tượng Pht.




2.- SỰ CẢM ỨNG HỌA TƯỢNG PHẬT CỦA VUA ẢNH THNG


Trích lục: Tỳ-nại gia Luật Vân


Một thời, đức Phật cư ngụ tại vườn Trúc Lâm. Bấy giờ, ở Nam Thiệm Bộ có hai thành lớn là Danh Hoa và Thắng Âm. Hai thành này thường thay nhau bên suy, bên thịnh.


Lúc ấy, thành Thắng Âm nhân dân giàu thịnh. Vì vua tại đó tên là Tiên Đạo, dùng chánh pháp trị nước, dân không thán oán, ít bệnh khổ, ngũ cốc được mùa. Phu nhân của vua tên là Nguyệt Quang, thái tử hiệu Dành Kế. Có hai vị dại thần là Lợi Ích và Trử Hoạn giúp vua trị nước.


Cũng trong thời gian dó, tại thành Vương Xả có quốc vương Ảnh Thắng, hoàng hậu là Thắng Thân, thải tư tên Vị Sinh Oản và vị dại thần là Hành Vô.


Khi ấy, vua Tiên Dạo triệu tập đại hội, hỏi rằng: 


Có nước nào giàu thịnh bằng nước ta chăng?


Một khách thương gốc người xứ Ma-kiệt- dà thưa:


Tâu Đại vương! Về phương Đông có thành Vương Xá, vương quốc đó cùng nước này bằng nhau.


Vua Tiên Dạo liền lựa những châu báu thật quý dựng vào hộp vàng, viết một đạo chiếu thư sai sử dem tặng vị Quốc chủ thành Vương Xá, và sai làm một bộ bào giáp bậc thượng, bộ bảo giáp ấy có năm công năng: lúc tiết nóng mặc vào liền dược mát mẻ, dao chém chẳng dứt, tên dâm không thùng, tránh được các thứ độc, thường phát ánh sáng. Khi báo giáp chế tạo xong, vua viết theo một bức thư, sai sứ dem áo giáp dâng tặng vua Anh Thẳng.


Quốc chủ thành Vương Xá tiếp dược giáp. xem xong thư, sinh lòng hy hữu. Kể lại lo nghĩ rằng: “Bộ bào giáp này dáng mười ức đồng vàng, nước ta không có món nào trị giá tương dương, lấy chỉ để thù đáp?". Đại thần Hành Võ thấy vua có sắc lo, hỏi biết duyên cớ, tâu rằng:


Nước kia tuy có giáp báu, nhưng trong xử ta đã có Phật bảo, quý mầu bậc nhất ở thế gian này, cả mười phương không chỉ sánh bằng được!


Vua bảo:


Diều ấy đã hẳn, nhưng ý ông muốn nói gi?


Hành Vô thưa:


Dại vương nên cho thợ về tượng Phật trên lụa quý, rồi sai sứ đem tặng lại vua nước kia.


Vua đáp:


- Nếu vậy, phải bạch lại dức Thế Tôn.


Sau khi nghe vua Ảnh Thắng trình bạch lại sự việc ấy, đức Phật bảo:


Tốt lắm! Ý kiến hay, Dại vương nên cho họa hình ta tặng lại vị quốc vương kia. Sau khi họa xong, dưới tượng nên biên Tam quy y và Ngũ học xứ, tức là năm giới. Kế đó, bên thập nhị nhân duyên, từ lưu chuyển đến hoàn diệt, nên ghi một bài tụng như sau:


Ngài nên cầu giải thoát 

Siêng năng theo Phật đạo

Hàng phục được sinh tử 

Như voi xô am c


Ở trong luật pháp đây 

Cần tu không biếng tr 

Làm khô biên phiên não 

Dứt hết bờ mé khô.


Đại vương phải dặn sứ giả: "Khi dem tượng đến nước kia, trước phải treo lụa, phướn, bảo cải, trần thiết hương hoa cho trang nghiêm, sau mới mở tượng ra. Nếu có ai hỏi, thì đáp: “Đây là hình tượng đức Thế Tôn, dã bỏ ngôi vua, thành Chánh Giác. Còn những điều biên ở đuôi, tùy theo nghĩa mà giải thích”. Vua Ảnh Thắng hoan hỷ tuân theo lời.


Mọi việc xong, vua dể tượng vào chiếc hộp kim ngân lớn, rồi sai người dem thư tín sang thành Thắng Âm trước, họa tượng tiếp tục đến sau. Vua Tiên Đạo tiếp được thư mở ra xem, cá giận bảo các quan rằng:


- Nước họ có vật chỉ quỷ lạ, dến dỗi trong thư bảo ta phải sắm sửa dọn dường sá cho sạch sẽ bằng phẳng, trang sức thành quách, trần thiết hương hoa phướn lọng, tập hợp quần chúng đón chờ. Lại dặn ta phải rửa hai tay, tự thân xuất lãnh bồn đội binh đi xa ra khỏi thành nghĩnh tiếp. Đó là ý muốn khinh mạn. Vậy các khanh mau tập hợp bốn binh, cùng ta sang dánh nước Ma-kiệt-da!


Một vị đại thần thưa:


- Tâu Dại vương! Tôi từng nghe vua nước kia dộ lượng rộng lớn, chắc không có ý niệm khinh lờn. Dại vương nên tạm thuận theo lời họ xem sự thế ra sao, rồi việc chỉ tiến hành cũng không muộn!


Vua Tiên Đạo nghe hữu lý, liền sai sắp đặt mọi việc y theo trong thư.


Khi sứ giả đến, họa tượng được mở ra treo lên, những khách thương từ trung châu đến trông thấy, dồng chắp tay xướng to lên rằng: “Nam mô Phật Đà!”. Vua Tiên Dạo nghe qua, cả mình bồng dựng lông rợn ốc, liền lần lượt hỏi han ý nghĩa. Sứ giả và khách thương giải đáp đầy đủ. Vua dọc lại lời văn, để tâm ghi nhớ. Khi trở về cung, ngài ngồi yên theo lời văn suy nghĩ. Đến lúc hừng sáng, chưa rời khỏi tòa, vua bỏng giác ngộ chứng được sơ quả, lòng rất vui mừng, liền dọc kệ khen ngợi rằng:


Kính ly y vương

Khéo trị các tâm bệnh

Thế Tôn tuy ở xa.

Hay cho mắt huệ sáng.


Liền đó, vua phúc thư cho Anh Thắng vương, tạ rằng: “Nhờ ân huynh mà tôi rõ được chân dế. Nay tôi muốn yết kiến chư tăng, mong ân huynh bạch giúp lại dức Thế Tôn".


Vua Ảnh Thắng đọc thư xong, đến trần bạch với Phật. Dức Thế Tôn quán biết Tỳ-kheo Ca-da-diễn-na có túc duyên với vua Tiên Đạo, liền sai ông xuất lành chư tăng tất cả gồm năm trâm vị đến thành Thắng Âm. Trước đó, vua Anh Thắng có thông tin cho Tiên Dạo vương rằng: “Tôi đã bạch đức Thế Tôn, Ngài hứa sai năm trăm vị tăng sẽ sang phô thỉnh. Vậy nhân huynh nên cất một ngôi tỉnh xá rộng lớn, dọn sản năm trăm phòng và các thức cúng dường. Việc làm này sẽ được phước vô lượng". Vua Tiên Dạo y lời.


Khi tôn giả Ca-da-diễn-na sang thành Thắng Âm tùy cơ thuyết pháp trước nhà vua và đại hội, trong chúng hoặc có người chứng tử đạo quả, hoặc có kẻ phát tâm thú hướng Đại thừa. Lúc đó, vì chư tăng không tiện đến nội cung thuyết pháp, vua Tiên Đạo lại nhờ vua Ảnh Thằng bạch Phật. Đức Thế Tôn sai nhóm Bà- thế-la gồm năm trăm vị Tỳ-kheo-ni dến nội cung vua Tiên Đạo giảng dạy. Nguyệt Quang phu nhân nhân nghe pháp, mạng chung sinh lên cõi trời, liền trở xuống bảo tin cho vua Tiên Dạo biết. Vua vừa thương vừa mừng nghĩ rằng: “Ta lập thái tử Đảnh Kế lên làm vua, rồi xuất gia tu tập”. Nghĩ xong, vua dem ý niệm ấy tỏ cho hai vị dại thần và các quan. Tất cả đều rơi lệ. Kế đó, vua truyền dánh trống tuyên lệnh rao cho quốc dân biết thái tử sẽ lên nổi ngôi, rồi xuất của kho, lập hội vô-già bố thí cùng khắp.


Sự việc xong, vua Tiên Dạo từ giã quần thần quyến thuộc, dem một thị giả đi bộ hướng về thành Vương Xá. Mọi người theo dưa với vẻ bùi ngùi luyến tiếc. Khi đến thành, ngài tạm trọ ở một khu vườn, sai thị giả thông tri cho vua Ảnh Thẳng hay. Dược tin, nhà vua vội cho sửa sang dường sả, rồi cỡi ngựa đem kẻ tùy tùng đến thăm viếng cùng hỏi han lý do. Sau khi dược biết vua Tiên Đạo muốn cầu Phật xuất gia, cả hai dồng đi đến chỗ đức Thế Tôn. Đức Phật trông thấy bảo:


- Thiện lai Tỷ-kheo!


Râu tóc vua Tiên Dạo tự rụng, y phục hóa thành ca-sa, phong cách như vị Tỷ-kheo trăm tuổi.


Vua Ảnh Thắng lễ Phật trở về thành. Tiên Dạo Tỳ-kheo từ đó nương theo đại chúng trên bước đường thanh tịnh.



3.- SỰ CẢM ỨNG MỘNG THY TƯỢNG PHẬT CỦA MINH Đ NHÀ HÁN


Trích lục: Danh Vương Tuyền, Minh Tường Kỷ.


Minh Dế nhà Hán, năm nọ nằm mơ thấy một vị thân sắc vàng ròng, cao gần hai trượng, dầu có ảnh viên quang rực rỡ, bay đến trước đến. Sáng ra, vua dem việc ấy hỏi quần thần. Một lão quan tâu:


- Thần nghe ở phương Tây có Thánh nhân, gọi là Phật, hình tướng như vị mà bệ hạ dã thấy trong mộng.


Nhân đó, vua mới sai sứ sang nước Thiên Trúc thinh kinh và tượng Phật dem về Trung Hoa. Tượng về dến, từ vua đến quan, ai cũng đều kính thờ. Mọi người nghe nói khi chết thần hồn không mất, tùy theo tội phước mà thọ báo, thảy đều kinh sợ.


Trước tiên, khi sử gia Thái Âm thinh hai vị Sa-môn nước Thiên Trúc là Ca-diếp-ma-dẳng và Trúc Pháp Lan về, có chở theo tượng đức Thích- ca Mâu-ni của vua Ưu Điển đã cho thợ vẽ. Hán Dế nhìn kỹ, thấy quả dùng như vị trong giấc mộng minh dã thấy. Vua liền cho họa sư vẽ thêm vài bức, một thờ ở Thanh Lương Dài tại Nam Cung, một an trí ở diện Hiển Tiết tại Cao Dương Môn dê cúng dường. Tại Bạch Mã Tự, vua cùng cho thợ điêu khắc chạm những bích họa về tượng Phật. Về sau, mỗi khi xây một ngôi tháp, tạo một Phật tượng xong, vua dều trang nghiêm ngăn cỗ xe, muôn ngựa tốt, di nhiễu xung quanh ba vòng để tỏ lòng tôn kính.



4.- SỰ CẢM ỨNG THỈNH TƯỢNG PHẬT CỦA LƯƠNG VÕ Đ


Trích lục: Truyền Kỳ.


Đời nhà Lương, niên hiệu Thiên Giám năm dầu, dêm mồng tám tháng giêng, Võ Đế nằm mộng thấy tượng Phật chiên dàn vào cõi nước mình. Thức giấc, vua cảm dộng hạ chiếu sai sứ đi thỉnh Phật.


Cứ theo kinh Ưu Điền Vương và quyển Phật Du Thiên Trúc Ký: khi ba tháng hạ an cư, Phật lên trời Đao-lợi vì mẹ thuyết pháp, ở cõi trần các vị đệ tử đều đem lòng mong nhớ. Vua Ưu Điền lựa gỗ chiên đàn tốt, tuyển ba mươi hai thợ giỏi, nhờ tôn giả Mục-liên dùng thần thông đem thợ xem tướng Phật để lúc trở về tạc tượng cho giống. Khi hoàn thành, tượng cao năm thước, đến nay hãy còn lưu truyền dễ cúng dường. Lương Võ Đế muốn thỉnh pho tượng ấy.


Bấy giờ, Quyết Thắng tướng quân là Hích Khiêm Phú Hoa cùng dồng bọn gồm tám mươi người, ứng mạng đi thỉnh. Khi sang đến Tây Trúc, sứ giả dâng lễ và trình chiếu thư thưa bạch lại sự việc. Vua nước Xá-vệ nghe xong suy nghĩ và bảo:


- Đó là pho tượng bậc thượng ở xứ Trung Thiên Trúc này, không thể đem về biên dịa. Nhưng ta đã có cách làm mãn nguyện quốc vương của các ông.


Nói xong, vua truyền lựa gỗ chiên dàn tốt, cũng tuyên ba mươi hai thợ giỏi, rập theo khuôn mẫu pho tượng cổ, tạc lại Phật tượng khác. Khi công thành, vua cùng sứ giả thiết lễ cúng dường, cảm mưa nhỏ bay phơi phới, dảnh tượng phóng quang minh, mùi hương lạ tỏa khắp xung quanh. Điểm này ứng với kinh Ưu Điền Vương nói: “Chân thân đã ẩn, lưu lại hai tượng, vì khắp chúng sinh, làm lợi ích sâu...".


Lễ xong, đoàn sứ giả nhà Lương từ giả vua Thiên Trúc, chở tượng trở về. Vượt qua vài muôn dặm đường, chịu đủ sự gian nan. Kế đó, cả đoàn lại chuyên sang đường biên. Trải qua nhiều cơn sóng gió nguy hiểm, sau cùng thuyền giạt vào một vùng núi miền duyên hải, lương thực đã cạn. Trong đoàn và những kẻ truyền tống đã có người chết. Nhóm còn lại đều lên bộ, tiếp tục tiến hành. Khi gặp các mãnh thú, tất cả dều chắp tay niệm Phật, bỗng nghe sau tượng có tiếng giáp trụ, hoặc có khi nghe tiếng chuông, thú dữ liền bỏ chạy. Đến một đoạn đường thấy có vị tăng ngồi kiết già nơi cội cây bên vách đá. Sứ giả khiêng tượng để trước vị tăng, tăng sĩ liền dứng lên lễ Phật. Xong, lại trao cho bình nước bảo tất cả uống. Đoàn sứ giả cảm thấy tươi tỉnh no đủ, sức khỏe hồi phục, đều lễ tạ vị tăng và thưa hỏi. Tăng sĩ bảo:


- Tượng này gọi là Tam-miệu Tam Phật đà. Có thần Kim-tỳ-la-vương theo hộ tượng đến cõi này làm Phật sự lớn.


Nói xong liền ẩn mất. Đêm ấy, cả đoàn đều mộng thấy thần. Sáng ra, có kẻ đem bút vẽ lại hình tướng.


Đến ngày mồng năm tháng tư năm Thiên Giám thứ mười, đoàn sứ giả mới về tới Dương Đô.


Võ Đế hay tin trước, dã cùng các quan ra khỏi kinh thành bốn mươi dặm đón tiếp. Nhà vua an trí tượng ở điện Thái Cực, thiết tiệc trai làm lễ siêu độ và dại xá tù nhân. Kế lại cho xây thêm một nơi thờ phụng gọi là Liên Hoa Tháp. Từ đó, vua trường trai tuyệt dục, hướng về dường tu niệm.


Tháng năm niên hiệu Đại Thông thứ ba, Lương Võ Đế băng hà. Đến khi Sương Đông Vương tức vị ở Giang Lăng, lại cho thỉnh Phật tượng từ Dương Đô về kinh đô để nơi điện Thừa Quang cúng dường. Đời Hậu Lương niên hiệu Đại Đinh thứ tám, Lương Võ Đế lại kiến tạo chùa Đại Minh ở Tĩnh Lăng nơi thành Bắc, rước tượng ấy đem về thờ phụng. 



5.- SỰ CẢM ỨNG DI TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC TỪ CUNG DIÊM-LA TRỞ VỀ


Trích lục: Truyền Kỳ.


Niên hiệu Khai Hoàng thứ ba, ở chùa Ngưng Quán có vị tăng tên Pháp Khánh, tạo tượng Thích-ca dúng, cao một trượng sáu. Tượng chưa hoàn thành, Pháp Khánh bỗng chết. Ngay hôm ấy, có vị tăng ở chùa Bảo Xương, tên Dại Trí chết ba ngày chọt sống lại, kể cho chư tăng nghe rằng:


Khi xuống trước vua Diêm-la, tôi thấy Pháp Khánh cũng ở dó, mặt dầy sắc lo. Giây phút, bỗng có tượng Phật đi đến, vua vội xuống thềm chắp tay lễ bái. Tượng Phật bảo vua rằng: “Pháp Khánh tạc tượng ta chưa xong, sao dễ cho nó chết?”. Diêm-la Vương quay lại hỏi một người rằng: “Pháp Khánh còn có thể sống chăng?”. Dáp: “Có thể sống, nhưng phần ăn đã hết”. Vua bảo: “Nên cấp lá sen cho ông ấy tiếp nối mạng sống, dễ hoàn thành việc phước”. Kế đó, tượng Phật ẩn mất...".


Nghe Đại Trí nói, vài vị tăng vội đến chùa Ngưng Quản thăm viếng, thì thấy Pháp Khánh vừa sống lại. Sư cũng trần thuật sự việc y như lời Đại Trí dã nói.


Pháp Khánh sau khi hồi sinh, không ăn thức chỉ dược, chỉ dùng toàn lá sen, cho là vị ngon. Tượng hoàn thành, vài năm sau sư mới viên tịch. Tượng ấy tướng tốt đầy đủ, thường phóng quang minh. Chùa Ngưng Quán nay tuy dã hư dồ, nhưng tượng Phật vẫn còn.



TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC


MỤC LỤC


LỜI TỰA



QUYỂN THƯỢNG



1.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỦA VUA ƯU ĐIỄN VÀ BA-TƯ-NẶC

2.- SỰ CẢM ỨNG HA TƯỢNG PHẬT CỦA VUA ẢNH THNG

3.- SỰ CẢM ỨNG MNG THẤY TƯỢNG PHẬT CỦA MINH Đ NHÀ HÁN

4.- SỰ CẢM ỨNG THNH TƯỢNG PHẬT CỦA LƯƠNG VÕ Đ

5.- SỰ CẢM ỨNG DI TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC TỪ CÙNG DIÊM-LA TRỞ VỀ


6.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC MẠNG CHỒNG

7.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THẤY CÕI CỰC LẠC

8.- SỰ CẢM ỨNG CỦA HAI NGƯỜI NGHÈO ĐEM TIỀN VÀNG THUÊ HỌA TƯỢNG PHẬT

9.- SỰ CẢM ỨNG GÓP TIỀN TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỔ

10.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT VÀ BỒ-TÁT ĐƯỢC SINH LÊN CUNG TRỜI ĐÂU-SUẤT



11.- SỰ CẢM ỨNG THỜ HỌA TƯỢNG PHẬT A-DI-ĐÀ ĐƯỢC VÃNG SINH

12.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG A-DI-ĐÀ CAO BA TẤC CỦA THÍCH ĐẠO DŨ

13.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC SONG THÂN

14.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU CHÚNG SINH Ở TAM ĐỒ

15.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỦA SA-MÔN TĂNG CAO



16.- SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA CHIM ANH VŨ DẪN NGƯỜI NIỆM PHẬT

17.- SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA LÀM THÂN CÁ DẪN ĐỘ NGƯỜI NIỆM PHẬT.

18.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỔ ĐỊA NGỤC

19.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT A-SÚC BỆ CỦA THÍCH SONG HUỆ

20.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CÒN ĐƯỢC SỐNG THÊM NĂM MƯƠI NĂM 


21.- SỰ CẢM ỨNG CẦU NGUYỆN PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC GIÀU SANG 

22.- SỰ CẢM ỨNG ĐEM MỘT ĐỒNG TIỀN CÚNG PHẬT ĐƯỢC GIÀU SANG

23.- SỰ CẢM ỨNG NGƯỜI PHÁ GIỚI XƯNG HIỆU PHẬT DƯỢC SƯ LẠI ĐẮC GIỚI

24.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC KHỎI TỘI

25.- SỰ CẢM ỨNG MỘT THAI PHỤ ĐƯỢC PHẬT DƯỢC SƯ CỨU KHỎI NẠN 


26.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC HOÀN SINH

27.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT TỲ-LÔ-GIÁ-NA TRỪ ĐƯỢC CHƯỚNG NẠN

28.- SỰ CẢM ỨNG ĐỨC ĐỘNG HIỆP THÂN TỰ XƯNG VÔ GIÁ-ĐÀ-BÀ

29.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TƯỢNG NGẦM ĐỨC PHẬT CỦA NGÀI THÍCH HÀM CHIẾU

30.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC TRUYỀN THỪA CỦA HAI BỘ MẠN-ĐÀ-LA


31.- SỰ CẢM ỨNG LỄ BÁI KIM CANG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC ẢNH HƯỞNG GIẢI THOÁT

32.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM THÁNH CHÚNG THAI TẠNG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC THOÁT NẠN

33.- SỰ CẢM ỨNG XÁ-LỢI HIỆN ĐIỀM LÀNH

34.- SỰ CẢM ỨNG ÔNG A ĐẮC TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC HOÀN SINH

35.- SƯ CẢM ỨNG NHỜ BẠN CŨ TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC LÌA THÂN MÃNG XÀ


36.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM QUAN ÂM, PHÁT NGUYỆN LÀM THÁP PHẬT ĐƯỢC KHỎI TỘI CHẾT

37.- SỰ CẢM ỨNG ĐO NỀN TỊNH XÁ CỦA TRƯỞNG GIẢ TU ĐẠT

38.- SỰ CẢM ỨNG VỀ QUẢ LÀNH XÂY CẤT CHÙA SAU KHI PHẬT NHẬP DIỆT

39.- SỰ CẢM ỨNG DÙNG CHIẾC GẬY LÀM TRỤ VÁCH TINH XÁ ĐƯỢC KHỎI CHẾT YẾU

40.- SỰ CẢM ỨNG QUÉT SÂN TINH XÁ ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI


41.- SỰ CẢM ỨNG DO TẠO TINH XÁ, CHA MẸ NHIỀU ĐỜI ĐƯỢC THÊM PHƯỚC

42.- SỰ CẢM ỨNG VỀ OAI ĐỨC CỦA TINH XÁ PHẬT TẠI NƯỚC THẤT-LA-PHIỆT-TẤT-ĐẾ

43.- SỰ CẢM ỨNG CỦA ĐỨA TRẺ CHƠI ĐÙA, DÙNG LÁ CÂY LÀM TINH XÁ ĐƯỢC SỐNG LÂU

44.- SỰ CẢM ỨNG THẦY TỶ-KHEO TÔ ĐẮP LỖ VÁCH ĐƯỢC TĂNG THỌ

45.- SỰ CẢM ỨNG VUA NƯỚC KIM ĐỊA SỬA CHÙA HƯ ĐƯỢC THÊM TUỔI 




QUYỂN TRUNG



46.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM, TRÙNG KIẾN NHỜ NƯỚC RỬA TAY ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI

47.- SỰ CẢM ỨNG KINH HOA NGHIÊM ĐỔI CHỖ NẰM TRÊN KINH A-HÀM

48.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM ĐƯỢC TẶNG THUỐC TIÊN

49.- SỰ CẢM ỨNG PHÁP LỰC KINH HOA NGHIÊM ĐÁNH LUI A-TU-LA

50.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG BÀI KỆ KINH HOA NGHIÊM PHÁ ĐƯỢC ĐỊA NGỤC


51.- SỰ CẢM ỨNG LONG TỬ THÀNH TÂM HỌC KINH A-HÀM

52.- SỰ CẢM ỨNG SỰ TĂNG DU TỤNG KINH A-HÀM ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ

53.- SỰ CẢM ỨNG TẢ KINH A-HÀM ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI

54.- SỰ CẢM ỨNG CON CHÓ NGHE KINH A-HÀM, SAU ĐƯỢC CHỨNG QUẢ

55.- SỰ CẢM ỨNG BẦY DƠI NGHE TẢNG A-TỲ-ĐẠT MA ĐƯỢC GIẢI THOÁT


56.- SỰ CẢM ỨNG CON CHUỘT NGHE TANG LUẬT ĐƯỢC ĐẠO QUẢ

57.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TỶ-KHEO THỌ TRÌ TẠNG LUẬT

58.- SỰ CẢM ỨNG THỌ TRÌ KINH ĐẠI TẬP DIỆT TỘI NGŨ NGHỊCH

59.- SỰ CẢM ỨNG NGHE TÊN KINH PHƯƠNG ĐẲNG ĐƯỢC SINH TỊNH ĐỘ

60.- SỰ CẢM ỨNG TU PHƯƠNG ĐẲNG SÁM PHÁP ĐƯỢC THỌ KÝ


61.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG TỤNG KINH DUY-MA CẬT

62.- SỰ CẢM ỨNG TẢ KINH DUY-MA CỨU MÌNH VÀ SONG THÂN

63.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG KINH LĂNG-NGHIÊM

64.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG TỤNG THẮNG MAN

65.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TU TẬP KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ


66.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TỶ-KHEO THÍCH TĂNG CẢM

67.- SỰ CẢM ỨNG VỀ DIỄN GIẢNG KINH KIM QUANG MINH

68.- SỰ CẢM ỨNG TẠO KINH KIM QUANG MINH SIÊU ĐỘ OAN GIA

69.- SỰ CẢM ỨNG VỀ ĐỌC TỤNG THƯ TẢ KINH DƯỢC SỰ

70.- SỰ CẢM ỨNG VỀ THƯ TẢ KINH TỲ-LÔ-GIÁ-NA


71.- SỰ CẢM ỨNG VỀ ĐEO MANG TÙY CẦU ĐÀ-RA-NI

72.- SỰ CẢM ỨNG VỀ OAI THẦN CỦA TÔN THẮNG ĐÀ-RA-NI

73.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC NGHE KINH THỌ MẠNG

74.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP TRÌ TỤNG BÁT-NHÃ TÂM KINH

75.- SỰ CẢM ỨNG KHI DỊCH KINH ĐẠI BÁT-NHÃ


76.- SỰ CẢM ỨNG KHI CÚNG DƯỜNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ

77.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẢ KINH ĐẠI BÁT-NHÃ

78.- SỰ CẢM ỨNG VỀ NGHE VÀ TỤNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ

79.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP, ĐỌC TỤNG KINH KIM CANG BÁT-NHÃ

80.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC GIẢNG TỤNG KINH NHÂN VƯƠNG BÁT-NHÃ


81.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TỤNG KINH VÔ LƯỢNG NGHĨA

82.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA, MÔI VÀ LƯỠI KHÔNG HƯ RÃ

83.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ

84.- SỰ CẢM ỨNG VỀ CÚNG DƯỜNG KINH PHÁP HOA

85.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TRUYỀN BÁ KINH ĐẠI NIẾT-BÀN


86.- SỰ CẢM ỨNG TẢ TỤNG KINH NIẾT-BÀN ĐƯỢC SINH VỀ CÕI PHẬT VÔ ĐỘNG



QUYỂN HẠ



87.- SỰ CẢM ỨNG KHI ĐỨC VĂN-THÙ HẠ SINH

88.- SỰ CẢM ỨNG ĐỨC VĂN-THÙ HÓA LÀM BẦN NỮ

89.- SƯ CẢM ỨNG CẦU VĂN-THÙ BỒ-TÁT

90.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG ĐỨC VĂN-THÙ



91.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHỔ HIỀN BỒ-TÁT

92.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG ĐỨC DI-LẶC Ở NƯỚC Ô TRÀNH

93.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẠO TƯỢNG BỒ-TÁT DI-LẶC

94.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM

95.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM QUÁN ÂM ĐƯỢC SỐNG LÂU


96.- SỰ CẢM ỨNG CÚNG DƯỜNG TƯƠNG QUÂN ÂM HƯ MỤC

97.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯƠNG THẤP NHẤT ĐIÊN ÂM.

98.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯƠNG THIÊN THỦ THIÊN NHÂN.

99.- SỰ CẢM ỨNG HOA TƯƠNG THIÊN THỦ NHÂN.

100.- SỰ CẢM ỨNG CỦA SÂU BỨC TƯỢNG QUÂN ÂM..


101.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TƯỢNG QUÁN ÂM, ĐỊA TẠNG

102.- SỰ CẢM ỨNG KHI TẠO TƯỢNG ĐẠI THẾ CHÍ BỒ-TÁT

103.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG ĐỊA TẠNG BỒ-TÁT

104.- SỰ CẢM ỨNG CỦA PHÁP TƯỢNG NĂM VỊ BỒ-TÁT

105.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG DIỆT ÁC THÚ BỒ-TÁT

106.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG DƯỢC VƯƠNG DƯỢC THƯỢNG BỒ-TÁT

107.- SỰ CẢM ỨNG CỦA ĐÀ-RA-NI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ-TÁT

108.- SƯ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG LONG THỌ BỒ-TÁT




LI K SAU CÙNG CA DCH GI


 

Đã y truyn sách biên son thành 

Tam Bo Cng Yếu Lược L

Các vic như thế hãy còn nhi

Ch ghi mt ít làm tín chng 

Nguyn người nghe thy đu phát tâm 

To kết duyên lành ngôi Tam B

Dù rng tin ngi hoc nghi chê 

Đu mong li ích thoát sinh t 

Pht tng th ký đi mt pháp 

Nghe danh Tam Bo khi lòng tin 

Ti chướng ba đi đu tiêu tr 

Kiếp sau được gn các Hin Thánh. 

 

Nguyn đem công đc biên son này 

Hi hướng chúng sinh trong pháp gii

Được nhiu thng duyên thêm phước hu 

Đu chng Vô Thượng đi B



1.- Ẩn tu nào phải cố xa đời !

Mượn cảnh u-nhàn học đạo thôi !

Những thẹn riêng mình nhiều nghiệp chướng

Bốn ân còn nặng nghĩa đền bồi.

 

2.- Ẩn tu cảm xót biển trần-ai !

Sóng gió trầm luân mãi lạc loài

Thân khổ kiếp người muôn nỗi khổ !

Nghiệp đời vay trả, trả rồi vay !

 

3.- Ẩn tu hôm sớm niệm Di Đà

Lòng lặng mười muôn chẳng cách xa

Canh vắng giường thiền khi mãn định

Hoa sương cười nụ dưới trăng tà.

 

4.- Ẩn tu uổng tiếc bạn đồng hành !

Nói lý cao huyền đắm lợi danh !

Già, bịnh, đoạ sa, không phản tỉnh

Bóng câu mấy nỗi thoáng bên mành !

 

5.- Ẩn tu cõi tịnh nhẹ buông hồn !

Tưởng quán trời Tây nhớ Bảo-thôn

Ráng đỏ sắp đưa, vầng Nhật-lặn

Phất phơ tà áo gió hoàng hôn.






PHÁP YẾU TU HÀNH

Hòa-Thượng Thích-Thiền-Tâm

 

 

Yếu điểm của đường tu

Gồm hai phần Sự, Lý.

 

LÝ tu là sửa tâm

Cho hợp với chân lý

Sự tu chỉnh ba nghiệp

Giúp chứng cảnh chân như

Sửa tâm là dứt trừ

Nghiệp tham, ái, nóng, giận

Si mê cùng tật đố

Ngã mạn với kiêu căng

Chớ chạy theo hình thức

Say đắm nẻo lợi danh

Chuộng địa vị, quyền hành

Khoe thông minh, tài giỏi

Phải sanh lòng giác ngộ

Niệm thanh tịnh từ bi

Dõng tiến mà kiên trì

Sáng suốt mà khiêm hạ

Tự nghĩ mình xưa nay

Ðã tạo nhiều tội chướng

Chịu nhẫn nhục, sám hối

Biết an phận, tùy duyên

Duyên tốt chẳng kiêu khoe

Duyên xấu không thối não

Bình tỉnh mãi tiến tu

Như bơi thuyền ngược nước

Về biển Tát Bà Nhã

Ðến Bảo Sở an vui

Ðó là phần tu tâm

Hợp với lý giải thoát.

 

SỰ tu là thân nghiệp

Lễ kính Phật sám hối

Khẩu nghiệp trì chú kinh

Hoặc niệm Phật khen ngợi

Ý  nghiệp giữ thanh tịnh

Mật tu môn Lục Niệm

Nguyện đền đáp bốn ân

Nguyện mình cùng chúng sanh

Sanh cõi vui thành Phật

Ðời đời gặp chánh Pháp

Tu sáu độ muôn hạnh

Tâm Bồ Ðề độ sanh

Trần kiếp không thối chuyển

Tu Sự mà bỏ Lý

Làm sao mở chân tâm?

Tu Lý mà phế Sự

Cũng không thể thành Phật !

Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG

Thì tức SẮC là KHÔNG

Tu Lý không bỏ Sự

Ðó tức KHÔNG là SẮC

Lý chính thật Chân-Không

Sự là phần Diệu-Hữu

Chân-Không tức Diệu-Hữu

Diệu-Hữu tức Chân-Không

Nếu chưa đạt lẽ nầy

Thà tu hành chấp CÓ

Ðừng cầu cao bác tướng

Mà lạc vào Ngoan-Không

Ðây chính hầm khổ đọa

Kẻ thông minh đời nay

Ða số mắc lỗi nầy.

Xưa có sư TÔNG THẮNG

Tài huệ biện cao siêu

Vì ỷ giỏi kiêu căng

Nên bị nhục chiết phục

Hỗ thẹn muốn tự tận

Thọ thần hiện thân khuyên

“ Sư nay đã trăm tuổi 

Tám mươi năm lầm lạc

May nhờ gặp Thánh nhân

Huân tu mà học đạo

Tuy có chút công đức

Mà lòng hay bỉ ngã

Ỷ thông minh biện bác

Lấn người không khiêm hạ

Lời cao hạnh chưa cao

Nên phải bị quả báo

Từ đây nên tự kiểm

Ít lâu thành trí lạ.

Các THÁNH đều tồn tâm

NHƯ LAI cũng như vậy ”

Lại có kẻ đua tướng

Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư

Mượn thuyết pháp, tụng kinh

Ðể mưu cầu lợi dưỡng

Dành đệ tử, chùa chiền

Lập bè đảng, quyến thuộc

Thấy có ai hơn mình

Liền thị phi tật đố

Hại Thầy Bạn, phản Ðạo

Lừa dối hàng tín tâm

Lời nói thật rất cao

Việc làm thật rất thấp

Lý Sự đều sai trái

Hạng ấy hiện rất nhiều

Tạo biển khổ thêm sâu

Khiến đau lòng tri-thức

Lý, Sự đại lược thế.

 

CÔNG ĐỨC làm sao được?

Phật là ÐẠI Y VƯƠNG

Pháp là DIỆU TIÊN DƯỢC

Là phương-thuật rất mầu

Là như-ý bảo châu

Hay trừ nạn nghèo khổ

Khiến cho được giàu vui

Hay trừ tất cả bệnh

Khiến mau được bình phục

Hay trừ nạn yểu số

Khiến thọ-mạng dài lâu

Hay khỏi các tai ách

Như bão lụt, binh lửa

Giặc cướp cùng tà ngoại

Ác thú với độc xà

Các yêu ma , quỷ mị

Nạn động đất, xe, thuyền

Những phù-chú ếm-đối

Ðều phá tiêu tan hết

Cho đến trừ tội chướng

Sanh trưởng phước huệ to

Cứu chúng đọa Tam Ðồ

Siêu lên bờ giải thoát.

CHUYÊN TỤNG một phẩm Kinh

Một Chân-Ngôn, hiệu Phật

Thì thành tựu các nguyện

Thỏa mãn các mong cầu

Chỉ sợ người không tin

Hoặc tin mà không sâu

Lại ngại không thực hành

Hoặc hành không bền lâu

Hoặc tuy hành bền lâu

Không chí tâm khẩn cầu

Chí tâm là không vọng

Trì niệm quên thân tâm

Lặng lẽ dứt phân biệt

Không trong, ngoài, người, cảnh

Khi đi, đứng, thức, ngủ

Chẳng bỏ câu trì niệm

Lúc hưỡn, gấp, an, nguy

Cũng vững vàng trì niệm

Cho đến khi sắp chết

Vẫn như thế trì niệm

Ðắc, thất đều do đây

Cần chi hỏi tri thức

Không hành như trên đây

Phật cũng khó cứu vớt

Huống nữa là PHÀM TĂNG

Giúp ích được gì đâu

Nhớ lời Cổ Ðức dạy:

“Ta có một bí quyết

Khẩn thiết khuyên bảo nhau

Là hết lòng THÀNH KÍNH

Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”

Hãy ghi nhớ lời nầy

LẮNG LÒNG suy gẫm sâu.

Trời xanh tươi biếc một mầu

Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay

Mà sao đời đạo đổi thay

Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ

“THUYẾT PHÁP bất đậu cơ

Chúng sanh một khổ hải ”

Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương

Sóng dồn bọt biển tà dương

Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên

Bụi hồng tung gió đảo điên

Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.


Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.

 







BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN

ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI

 

NAM MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA. A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA. 

UM! BÚT RUM! HÙM!


(21 lần)



VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHƠN NGÔN

  

NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA. 

NAM MÔ A RỊ DA.  A MI TÁ BÀ DA.  TÁT THA GA TÁ DA.  A RA HA TI.  SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA.  TÁT DA THA. 

UM !  A MI RỊ TI.  A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ GA BÊ.  A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ.  A MI RỊ TÁ SI TÊ.  A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.

A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ.  A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI.  A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI.  SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI.  SẠT VA MA CA LI.  SA KHẤT SÁ DU CA LI.  SÓA HA.  UM! BÚT RUM! HÙM!


 (21 lần)


Nam mô Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, PHÁP GIỚI TẠNG THÂN A DI ĐÀ NHƯ LAI biến pháp giới Tam bảo.




NAM MÔ A DI ĐÀ PHT

(nim mau 10 hơi)





(KINH: Lúc xướng chữ A, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là Bồ Tát oai lực nhập vô sai biệt cảnh giới.)



Đc Pht Thế-Tôn, Chánh Biến Tri

Tướng ho đoan nghiêm đu viên mãn,

R lòng đi t bi vô hn,

M bày đi pháp cu qun mê.


Nim Pht hin tin đc Pht tướng,

Thâm nhp cnh gii bt tư ngh.

Nhân đây B-Tát Sơ phát tâm,

Quyết đnh mt lòng xưng nim Pht,

Hng danh cha nhóm vô lượng nghĩa,

Li lc muôn c chúng hu tình.

Đc Pht Thế-Tôn, đng Vô-thượng

Tri kiến, giác ng đu quang minh,

Rc ri tu nht khp mười phương,

Rưới trn mưa pháp như Cam l.


Nim Pht vãng sanh cõi Cc-Lc,

An nhiên chng đc Vô-Sanh-Nhn.

Nhân đây B-Tát Sơ phát tâm,

Gìn gi thân tâm bng Pht hiu,

Hng danh t ng Chân Như Tánh,

Dn dt chúng sanh vào Tam-mui.

Đc Pht Như-Lai đng Bt-đng

Chng đến, chng đi, chng đon thường,

Xa lìa chp hu hoc chp vô,

T ti ch bày phương tin lc.


Nim Pht an tr nơi bn giác,

Tùy nghi hòa hp vi tánh Không.

Nhân đây B-Tát Sơ phát tâm,

Trang nghiêm t thân bng nim Pht,

Hng danh hin phát Hư-Không-Tng,

Tc thi thng vào Viên-giác-tánh.

Con nay xưng tán Đi Đo-Sư,

Khen ngi hng danh vô lượng lc.


Nguyn đem hi hướng khp chúng sanh,

Mong cu hết thy cùng nim Pht.


NAM MÔ A DI ĐÀ PHT



T Tán Tâm S Đi Đến Đnh Tâm

 

Ming nim Pht, tâm tưởng Pht, hoc tr nơi câu nim Pht, gi là Đnh Tâm Nim Pht. Ming nim Pht, tâm không nh Pht mà suy nghĩ mông lung vic khác, đó là Tán Tâm Nim Pht. Tán tâm mà nim, hiu lc so vi đnh tâm yếu kém rt nhiu. Vì l y, t xưa đến nay các bc thin tri thc đu khuyên người c gng đnh tâm trì nim, đng đ tán tâm.


Cho nên tán tâm nim Pht không đ làm gương mu.

 

Tuy nhiên, mi tác đng bên ngoài đu liên quan đến tim thc, tc là thc th tám  bên trong. Nếu tán tâm nim Pht hoàn toàn không công hiu, thì sáu ch hng danh kia t đâu phát hin? Đã có sáu ch hin thành, tt phi có hai chuyn lc: mt là do chng t, t tim thc phát hin ra ngoài. Hai là sc tác đng t ngoài li huân tp tr vào bên trong. Cho nên chng th nói tán tâm nim Pht hoàn toàn không công hiu, bt quá so vi đnh tâm nó yếu kém hơn nhiu mà thôi. Li nim tán tâm t xưa đến nay không được đ xướng, nhưng hàm ý và công dng ca nó cũng không th ph nhn. Vì thế c nhơn có lưu mt bài k rng:


Di Đà sáu ch pháp trung vương,
T
o nim phân vân ch ngi màng!
Muôn d
m phù vân che ánh nht.
Nh
ơn hoàn khp x ng dương quang.

 

Bài k này suy ra có điu xác đáng. Bi ht ging nim Pht nơi thc th tám khi thành thc, tt dn phát thc th sáu khiến cho sanh khi tnh nim. Ri t thc th sáu li c đng ra năm thc trước đ thành hin hành. Nhưng vì lúc chng t nim Pht tri qua thc th sáu, bi trn nhim ca chúng sanh sâu dày, nên b các nim khác ln cướp, tuy có lt khi vòng vây song nh hưởng còn li chng bao nhiêu. Ví như ánh mt tri tuy rc r, nhưng vì b nhiu lp mây che, nên khi lt xung nhân gian, ch còn v ng sáng. Nhưng ánh sáng thy s dĩ có, cũng do công năng nh hưởng ca mt tri. Biết được l này, người tu Tnh Đ đng quá ngi màng đến tp tưởng phân vân, ch liên tiếp nim hết câu này sang đến câu khác, chánh nim còn được bao nhiêu hay by nhiêu. Nim như thế mt lúc lâu, t nhiên nga ý s quay v tàu, vượn lòng ln ln vào đng. Nim mt lúc lâu na, thì chánh nim hin l rõ ràng, không cn gn b điu nhiếp, mà t nhiên thành tu. Hiu được l này thì ch quý nim nhiu, đng ngi tán tâm. Như nước tuy bn đc, lóng mãi tt s thành trong. Người tuy tp nim nhiu, nim Pht lâu tt s thành chánh nim. Nên biết c đc khi đi đng nm ngi và tt c hành đng đu nim Pht. Nếu các v y hoàn toàn dùng đnh tâm mà nim, thì lúc đi đường tt phi vp chm, hoc khi t kinh hay làm vic cũng không th thành công.


Cho nên người xưa cũng có lúc phi phân tâm mà nim, nhưng vn không ri câu nim Pht, bi dù có tán tâm vn không mt phnh hưởng.

 

Đến đây, xin thut mt câu chuyn. Lúc n, có người đến hi mt thượng ta: "Thưa tht vi thy, tôi nim Pht đã hơn mười năm nay mà vng nim vn còn nhiu, không biết cách chi tr dit. Tôi có đi nhiu nơi cu hi phương pháp vi nhng bc đã tu trước mình. V này đưa kinh nghim này, v kia dy cách khác, có mt đi đc li khuyên tôi nên nín hơi nim luôn hai mươi mt câu ri nut mt cái. Tôi đã áp dng qua đ mi phương thc, nhưng ch đnh tâm được lúc đu, ri sau có l vì ln quen nên vng nim tr li như cũ. Không biết thy có phương pháp nào hu hiu đ dy tôi chăng?"


V thượng ta đáp: "Đim tht bi đó do ông không bn lòng, mà c thay đi đường li. Nên biết phàm phu chúng ta t vô lượng kiếp đến nay gây to nghip nhim vng quá nhiu đâu th nht thi mà thanh tnh được! Ch ct yếu là phi dng tâm cho bn lâu. Tôi xin đưa ra đây hai thí d: Ví như mt bình nước hôi nhơ dy đy, ông đem nước thơm sch đ vào. Vì nước dơ đã đy, nước sch tt phi di ra ngoài, song ít nht nó cũng lưu li trong bình mt vài git. Nếu ông c bn tâm đ vào mãi, ngày kia bình nước hôi s hóa ra nước sch thơm. Li ví như ông đau bnh d dày, ung thuc chi cũng đu ói ma ra. Ông c bn lòng dùng ngay thuc tr bnh d dày mà ung, đng thay đi thuc chi khác. Mi phen ung tuy có b ói ma, nhưng cht thuc cũng lưu li ít nhiu, ln ln bnh ca ông s dt. Bnh phin não vng tưởng ca chúng sanh cũng thế, dùng thuc nim Pht điu tr t nhiên là thích đáng, nếu thay đi mãi làm sao thành công? Như có người dùng phèn lóng nước, nó chưa kp trong, li nóng ny vi quy lên đ mui vào, đ mui chưa kp trong, li quy lên đ vôi bt vào. C thay đi mãi như thế, làm sao nước trong cho được? Thế nên vn đ dt vng nim, không phi do nơi thay đi nhiu phương pháp, mà  nơi la mt phương pháp thích hp ri tht hành cho bn lâu là thành tu." V y nghe xong gt đu cho là hu lý.

 

Như đã nói, mun được đnh tâm, đim căn bn là phi dng công cho bn lâu. Tuy nhiên nếu s nim lc tán lon, cn có phương tin đ tâm d yên tnh, thì nên áp dng pháp Thp Nim Ký S đã trình bày  trước. Phép này do dùng hết tâm lc ghi nh t mt đến mười câu, nên d vào tnh đnh. Nếu tâm còn ri lon và không th dùng phép Thp Nim Ký S, thì trong mi câu nim ch cn chú tâm ghi gi cho chc mt ch "A". Khi ch A còn thì my ch khác đu còn, nếu mê m đ cho nó mt, tt năm ch kia cũng mt. Li ch A  cũng chính là ch căn bn, và là m ca tt c ch. Chú tâm va nim va ghi chc ch A, lâu lâu t nhiên tâm và cnh đu tiêu tan dung hp thành mt khi, lượng rng ln dường hư không, Pht và mình cũng đu mt.



 

Lúc by gi đương nhiên ch A cũng không còn. Nhưng lúc trước nó mt là do bi tâm xao đng ri lon, lúc này nó không còn chính thuc v trng thái dung hóa ca thường đnh. Đây là hin tượng tâm cnh đu không, đim sơ khi đ đi vào Nim Pht Tam Mui.

 

Nim Pht Thp Yếu





MT TRĂM BÀI K NIM PHT 


 Tế Tnh Đi Sư, t Trit Ng, hiu Np Đường



Mt câu A Di Ðà

Như ngc lng trong nước

Ngàn muôn tp nim ri

Chng dt t thành không.

 

Nht cú Di Ðà

Như thy thanh châu

Phân vân tp nim

Bt đon t vô.


Ht châu Thy Thanh có công năng lóng nước đc thành trong. Câu nim Pht cũng thế, không lun vng nim nhiu ít, hành gi c chuyên chú gi chc sáu ch hng danh lâu ngày, tp nim t nhiên tan mt. Ðim đáng lưu ý trong đây là không nên khi tâm dt tr vng nim. Vì vng nim vn như huyn, c tình mun dp, nó li càng tăng. Mt nhà hin triết đã nói kinh nghim này qua câu: "Càng mun đè nén, chính là c tâm làm cho nó thêm phát khi." (Tương dc án chi, tt c hưng chi).


Khi xưa có mt Tú Tài đến phng đo nơi bc cao đc, v Thin sư này hi: “Cư sĩ tên h chi?" Tú Tài đáp: "Thưa, đ t nhũ danh Trương Chuyết". Ch Chuyết có nghĩa là vng v. Thin Sư nghe xong bo: “Vi đo khéo còn chng có, hung chi đến vng!" Tú Tài nghe qua lin ng vào Bt Nh pháp môn, làm k trình lên rng:


Ánh linh lng chiếu khp hng sa
Phàm thánh nguyên lai bn tánh ta
Mt nim chng sanh toàn th hin
Sáu căn va đng b mây lòa
Dt tr phin não càng thêm bnh
Tìm ti Chân Như cũng vn tà
Tùy thun các duyên không tr ngi
Niết bàn sanh t t không hoa.


Theo ý hai câu lun bài k trên, phin não vn là không, là huyn, c mc nhiên gi chánh nim, nó s t tiêu tan. Nếu khi ý dt tr thì phin vng li hóa thành có. Chân Như là th tánh t nhiên, biết lng l dung hp vi t nhiên, tánh Chân Như s hin l. Nếu khi tâm tìm tòi xu hướng, tc có nim phân bit, trái vi th bn nhiên, đó chính là tà vng. Рb túc ý trên, xin ghi thêm li ca Ðàm Hư đi sư, mt bc cao tăng cn đi thuc giáo phái Thiên Thai bên Trung Quc.


Ðây Pht T quê hương
X x hin phong quang
Nước non min đt rng
Ưng t có biên cương
Ðng vt tùy sanh trưởng
Thc vt t phô trương
Nng mưa tùy đi tiết
Tháng năm t đon trường
Vinh hư muôn tượng hin
Là t th chân thường
Nếu c ý cu toàn
Tr li b tn thương!

Comments

Popular posts from this blog