TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC
31.- SỰ CẢM ỨNG LỄ BÁI KIM CANG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC ẢNH HƯỞNG GIẢI THOÁT
Trích lục: Tân Lục.
Ở Tần Châu, có một nữ nhân mồ côi, ngu si không tin Phật pháp, không biết nhân quả. Cô sống lẻ loi một mình, đến năm mười bảy tuổi, mang bệnh rồi chết. Thân xác liệm để đó, chưa ai phát tâm đem chôn.
Sáu hôm sau, cô bỗng sống lại, gieo mình thương khóc, tự hối trách lỗi mình. Nhiều người nghe chuyện lạ, đến hỏi nguyên do, cô trần thuật:
Tôi thấy một việc lạ kỳ hy hữu không thể nghĩ bàn. Khi mới chết, tôi bị áp giải vào địa ngục Thiết Hỏa, nhưng trải mấy ngày lửa cùng gươm dao không đốt và dâm chém dược. Ngục chú dem việc này bạch với Diêm vương. Sau cùng. Diêm vương đi đến cầm theo một quyền sách và bảo ngục chủ: “Nữ nhân này đã từng đến chỗ dạo tràng quản dành của Biện Hoằng hỏa thượng lễ bái Kim cang giới Mạn-da-la. Do ảnh hương của chủ lực gia trì, nên cô không phải là người ở trong vòng sinh từ nữa. Thôi, nên tha cho cô về".
Do đó, cô mới tự hối trách, và tử ấy đến sau phát tâm tu theo Phật.
32.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM THÁNH CHÚNG THAI TẠNG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC THOÁT NẠN
Trích lục: Tân Lục.
Đời Đường, một hành giả về Mật giáo được truyền pháp quán đánh là Huệ Ứng A-xà-lê, trụ ở chùa Dại Hưng Thiện. Ngài Huệ Ứng có nuôi một Sa-di nhỏ dễ làm thị giả. Năm lên bảy tuổi, vị Sa-di này có nhân duyên theo thuyền vượt biển đến nước Tân-la. Giữa vời, bị gió bão, thuyền lật úp, hơn năm mươi người hành hải trôi giạt theo sóng nước.
Khi rơi xuống biển, vừa ngoi đầu lên được, vị Sa-di liền chỉ thành niệm Thánh chúng trong Thai tạng giới, cầu chư Thánh khởi lòng dại bi cứu vớt những người bị chìm đắm. Bỗng Sa-di thấy trên hư không Thánh chúng giáng xuống đông đảo, hào quang sáng rõ như những vì sao sa; thân mình đã đứng trên bờ biển hồi nào không tự hay biết. Hơn năm mươi người kia cũng đều được cứu vớt, cùng tụ họp một chỗ. Trong đó, có hơn hai mươi người thấy rõ chu Thánh. Tất cả đều than thở khen ngợi sức cứu nạn thật không thể nghĩ bàn!
33.- SỰ CẢM ỨNG XÁ-LỢI HIỆN ĐIỂM LÀNH
Trích lục: Dị Lục Tuyên Nghiệm Ký.
Thời Tam Quốc, ở nước Ngô, nhằm lúc Tôn Hạo dương quyền, có viên quan tâu rằng:
- Nếu đạo Phật là chánh thì nên phát tích tại Trung Hoa, chở không phải là ở nước Hồ. Nay Phật giáo đã từ nước Hồ truyền sang, tất không phải là dạo chánh.
Vua Ngô nghe lời, cho quân sĩ vây các chùa, bắt hết chư tăng dem đến phán bảo:
Nếu Phật pháp quá hiển linh thì ta thờ phụng. Bằng chẳng thế, ta sẽ xử các người về tội dối dời, hoặc đều cho mặc đồ đen, đuổi ra khỏi nước!
Vị thống nhiếp tăng chúng thuở ấy là Tăng Hội pháp sư thưa:
- Xin bệ hạ gia hạn cho bảy ngày, chúng tôi sẽ cầu xá-lợi của Phật giáng hiện, để tỏ sự linh ứng.
Vua Ngô y lời.
Trong bảy ngày. Tăng Hội pháp sư để cái bát bằng đồng đựng nước trước trai đàn. Ngài cùng chư tăng chỉ thành tụng niệm, cầu nguyện cho xá-lợi giáng xuống bát. Đến cuối ngày thứ bày cũng là thời hạn chót, bỗng có một vệt sáng như sao sa rơi xuống bát đồng, tiếng khua nghe rốn rang. Rồi vật ấy nổi lên khỏi bát, ánh sáng chiếu khắp sân thểm. Tôn Hạo cùng các quan ngơ ngác kinh sợ, đều chắp tay tỏ vẻ khiêm cung lại gần chiêm ngưỡng. Tăng Hội pháp sư bước đến hai tay tiếp lấy vật ấy và thưa:
Dây là ngọc xá-lợi của Phật, do sức định huệ tối thượng kết thành, nên cứng chắc hơn kim cương. Nếu bệ hạ không tin, xin cho dập thử.
Vua Ngô nghe lời, trước tiên đốt hương rãi hoa, rồi khẩn to lên rằng:
- Nếu Phật pháp quả chân chánh, và đời sau Từ Thị Như Lai nối chuyển pháp luân như kinh đã nói, thì xin thị hiện sự hiển linh. Bằng không chắc ngôi Tam Bảo phải đoạn tuyệt!
Khấn xong, liền sai lực sĩ giơ lấy chủy sắt nặng trăm cân đập ngọc xá-lợi. Ngay lúc lực sĩ giờ chùy lên, từ đầu chủy bỗng nổi trận gió xoay vẫn, người xem đều kinh hãi. Chùy đập xuống nhiều lần mà xá-lợi vẫn không khuyết tổn, ánh sáng xẹt ra khắp bốn bên. Tôn Hạo liền rạp minh lễ bái, thiết trai đãi chư tăng, và thỉnh ngài Tăng Hội diễn giảng Phật pháp. Rồi nhà vua truyền xây thạch tháp ở phía Bắc thị xã Kiến Đường để thờ xá-lợi. Từ đó, nơi tháp ấy, hăng phóng quang minh.
Đến mùa Thu niên hiệu Ngươn Gia thứ mười chín, vào một đêm, từ thạch tháp ánh sáng tuôn ra rực rỡ, lấp lánh như vấy bạc. Lại có những ánh sao lửa nhiều quanh tháp từ Tây vòng qua Nam lên đến tầng thứ tư, bỗng vọt cao tòa sáng như lửa bùng cháy, bên trên hiện thành đóa hoa sen lớn. Vua cùng dân chúng một lòng kính tin, đổi nơi ấy dựng thành cảnh chùa hiệu là Kiến Sơ. Ai đi qua đó cũng đều gọi là đất Phật.
34.- SỰ CẢM ỨNG ÔNG A ĐẮC TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC HOÀN SINH
Trích lục: Tân Lục.
Một thường dân là ông Đường A Đắc chết dã ba ngày, bỗng sống laj thuật rằng:
- Khi tôi mới chết, liền có hai người cặp hai bên nách, đằng sau một vị quan lại cỡi ngựa bạch thôi thúc đuổi chạy như bay. Chạy đi không biết mấy dặm, vượt qua hai hắc môn, một cửa hướng về phương Bắc, một cửa hưởng về phương Đông. Sau cùng, vào một hắc môn hướng về phương Nam. Trong đó là tòa phủ đệ gồm hơn bảy mươi gian xây vần liên tiếp. Khi bị dần vào gian nhà rộng ở giữa, tôi thấy một vị trạng như vương giả, mặc áo bào đen, đội mão rồng, ngồi trên tòa cao. Đứng hầu hai bên là hai mươi mấy quan lại, tất cả đều cung xưng, vị ngồi trên là Phủ quân. Ở góc Tây Nam lại có độ năm mươi viên quan ngồi vòng theo hình cánh cung sau dây bản dài.
Lúc được dẫn đến trước, Phủ quân hỏi:
- Ngươi có làm công đức gì chăng?
Tôi thưa:
- Tệ dân từng cất chùa, xây tháp, và cúng dường người tu.
Phủ quân đổi dung sắc, khen:
- Ông là người tạo phước đức rất lớn!
Nói xong, liền xoay qua hỏi một viên quan:
- Đô lục sử! Vị này thọ số đã mãn chưa?
Viên quan đó nâng một quyển sổ bộ đã lật ra, trong ấy chữ rất nhỏ, đến trước án cuối xuống dâng lên, thưa:
Kính trình Phủ quân, thiện nhân đây thọ số còn ba mươi lăm năm nữa!
Phủ quân cả giận quát bảo:
- Kẻ tiêu lại kia sao hồ đồ bắt càn người như thế?
Đoạn, sai dẫn viên quan cỡi ngựa bạch trói áp vào cột, đánh phạt một trăm roi, máu ra ướt đầm cả áo. Phạt xong, Phủ quân hỏi tôi có muốn về không, tôi đáp:
Thưa có.
Ngài bảo:
Ta sẽ sai người đưa ông về, nhưng trước đó cũng nên đi xem qua cho biết cảnh xử phạt nơi địa ngục.
Phán rồi, liền cấp cho tôi một con ngựa và một người dẫn đường.
Chúng tôi theo cửa Đông Bắc ra khỏi phủ, đồng cỡi ngựa chạy đi, trải qua không biết mấy doạn đường, đến một vòng thành, chu vi độ vài mươi dặm. Trên tường thành rộng, nhà cửa cất xây sát; tôi thấy hai bác trai, gái và hai người chú, thím đã mãn phần, tất cả mặc y phục như thần nhân, nhưng thân thể đầy vết tích đổ máu. Mấy vị này chết trước lúc tôi biết thờ Phật. Sử giả lại giục tôi đến một chỗ nữa, nơi đây toàn là tội nhân bị hình phạt nằm trên giường sắt nóng đó. Trước sau tôi xem gần mười địa ngục, có ngục non đao rừng kiếm, ngục sa, Bạch sa... chỗ
nào cũng đầy sự khổ độc. Sau đó, lại đến một tòa nhà gồm bảy mươi gian, gọi là Phước xá, hai bên đường trồng toàn cây hòe. Trong đây có rất nhiều đệ tử của Phật ở, vị nào phước đức nhiều được đưa lên cõi trời, người phước ít tạm lưu trụ chờ nơi chuyển sinh. Nơi vùng này, trong một đại điện rộng hai mươi gian, tôi gặp một người bác trai cùng hai bác gái khác đã được tôi khuyên tu theo đạo Phật mới chết khoảng thời gian gần đây. Cùng trò chuyện gây lát, bỗng một vị đến hỏi:
- Ông có biết tôi chăng?
Tôi đáp:
- Chưa hân hạnh được biết.
Người ấy cười bảo:
- Tôi là kẻ đã góp phần trong vụ ông quyên tiền cất chùa thờ Phật đó.
Xem xong, chúng tôi đồng trở lại chỗ phủ đệ cũ. Phủ quân gọi hai người trước kia đã cập hai bên nách dẫn tôi đến, bắt phải đưa trở về.
35.- SỰ CẢM ỨNG NHỜ BẠN CŨ TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC LÌA THÂN MÃNG XÀ
Trích lục: Già-lam Ký.
Sa-môn An Thế Cao, nguyên là thái tử con vua nước An Tức. Lúc còn tại gia, Ngài là người con chí hiểu. Sau khi xuất gia, lại đi hoằng giáo khắp các nơi.
Một năm, nhân du hóa sang Trung Hoa, trên đường đi đến Dự Chương, An Thế Cao sắp ngang qua Cung Đình Hồ. Đêm ấy, nghỉ nơi quán trọ, Ngài nằm mơ thấy một vị thần đến thưa rằng:
Tôi là thần miếu hồ Cung Đình. Kiếp trước tôi sinh ở nước ngoài, xuất gia làm Sa- môn, và là bạn đồng học của Ngài. Nhân vì tôi ưa bố thí nhưng không giữ giới, tánh lại hay nóng giận, nên khi chết đọa làm thần hồ Cung Đình. Phạm vì tôi cai quản rộng gần một ngàn dặm. Do phước bố thí kiếp trước, nên được dân chúng đem cúng đồ vật nơi miếu rất nhiều. Hiện nay tôi đã mang túc nghiệp, lại thọ hưởng sự sát sinh cúng tế, e rằng khi chết phải đọa vào địa ngục. Mong Ngài niệm tình đồng bạn xưa, sáng mai khi thuyền đi ngang qua miếu, xin ghé lại chú nguyện cho tôi thoát khỏi nghiệp thần, ân đức ấy thật là vô tận!
Tỉnh giấc, Ngài An Thế Cao thiền định quan sát, thấy biết rõ mọi việc. Hôm sau, đi ngang hồ Cung Đình, Ngài ghé lên miếu thì thấy có mấy vị kỳ lão cùng tráng dân do thần báo mộng, đã đến trước dọn dẹp sạch sẽ và đón rước. Ngài liền bước tới trước thần vị, đốt hương khẩn rằng:
- Trong buổi tiền thân, ông là bạn đồng học của tôi, tiếc vì không nghe lời khuyên gián lần nhau, nên sa vào thần nghiệp. Nay tôi đã đến đây, vậy xin tạm hiện thân để cùng tỏ bày nghĩa cũ.
Khấn vừa dứt, bỗng nghe tiếng thần chào hỏi và nói:
Xưa là tình đồng bạn, nay Ngài đã thành vị cao tăng, gặp nhau hãy vui mừng, nhưng nhìn lại thân phận mình, không khỏi sinh lòng hồ thẹn! Tôi có một ngàn xấp lụa và các bảo vật hiện để trong hòn đá nơi miều. Xin Ngài dùng số đồ vật đó đổi lấy tiền để xây tháp và làm các Phật sự, cho tôi nhờ công đức ấy đời sau được sinh đến chỗ lành. Vì túc nghiệp, tôi thọ quả báo xấu ác, e người trông thấy kinh hãi, nên không dám hiện thân.
An Thế Cao bảo:
Điều ấy tôi đã rõ, xin cứ hiện thân, chớ e ngại.
Nói vừa dứt, sau bàn thần bỗng có một đầu rắn mãng xà rất to lộ ra bò đến trước đầu gối Ngài An Thế cao. Ngài liền cúi xuống thì thầm chủ nguyện một hồi lâu, rắn sa nước mắt như mưa rồi biến mất. An Thế Cao liền bảo các tùng giả thâu lấy đồ vật đem hết xuống thuyền, đoạn từ biệt ra đi. Thuyền trương buồm chạy một đỗi xa, thần còn hiện thân rắn lên đầu núi cao ngó theo. Đại sư cùng chúng trong thuyền ngoảnh lại vẫy tay, rắn mới ẩn.
Chiều lại, thuyền đến Dự Chương. Ngài An Thế Cao lưu trụ nơi đây, dùng tiền của thần xây cất ngôi Tiểu Tự. Chùa vừa hoàn thành, thì nghe tiếng đồn có một con mãng xà cực to, đầu đuôi cách nhau bốn mươi dặm, chết nổi xác ở đầm Sơn Tây. An Thế Cao biết thần đã thoát nghiệp, đến nơi đó xả thân.
Chỗ ấy, về sau lập thành làng gọi là Xà Thôn. Ngài lại đến Tầm Dương, đem số tiền còn dư xây ngôi tháp hai tầng ở chùa Ngỏa Quan để thờ Tam Bảo. Sau, Ngài mộng thấy thần đến tạ rằng: “Nhờ Dại sư gây giúp duyên phước và chú nguyện, nên nay tôi đã thoát thân răn, sinh vào chỗ lành!".
TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC
MỤC LỤC
LỜI TỰA
QUYỂN THƯỢNG
1.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỦA VUA ƯU ĐIỄN VÀ BA-TƯ-NẶC
2.- SỰ CẢM ỨNG HỌA TƯỢNG PHẬT CỦA VUA ẢNH THẮNG
3.- SỰ CẢM ỨNG MỘNG THẤY TƯỢNG PHẬT CỦA MINH ĐẾ NHÀ HÁN
4.- SỰ CẢM ỨNG THỈNH TƯỢNG PHẬT CỦA LƯƠNG VÕ ĐẾ
5.- SỰ CẢM ỨNG DI TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC TỪ CÙNG DIÊM-LA TRỞ VỀ
6.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC MẠNG CHỒNG
7.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THẤY CÕI CỰC LẠC
8.- SỰ CẢM ỨNG CỦA HAI NGƯỜI NGHÈO ĐEM TIỀN VÀNG THUÊ HỌA TƯỢNG PHẬT
9.- SỰ CẢM ỨNG GÓP TIỀN TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỔ
10.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT VÀ BỒ-TÁT ĐƯỢC SINH LÊN CUNG TRỜI ĐÂU-SUẤT
11.- SỰ CẢM ỨNG THỜ HỌA TƯỢNG PHẬT A-DI-ĐÀ ĐƯỢC VÃNG SINH
12.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG A-DI-ĐÀ CAO BA TẤC CỦA THÍCH ĐẠO DŨ
13.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC SONG THÂN
14.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU CHÚNG SINH Ở TAM ĐỒ
15.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỦA SA-MÔN TĂNG CAO
16.- SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA CHIM ANH VŨ DẪN NGƯỜI NIỆM PHẬT
17.- SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA LÀM THÂN CÁ DẪN ĐỘ NGƯỜI NIỆM PHẬT.
18.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỔ ĐỊA NGỤC
19.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT A-SÚC BỆ CỦA THÍCH SONG HUỆ
20.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CÒN ĐƯỢC SỐNG THÊM NĂM MƯƠI NĂM
21.- SỰ CẢM ỨNG CẦU NGUYỆN PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC GIÀU SANG
22.- SỰ CẢM ỨNG ĐEM MỘT ĐỒNG TIỀN CÚNG PHẬT ĐƯỢC GIÀU SANG
23.- SỰ CẢM ỨNG NGƯỜI PHÁ GIỚI XƯNG HIỆU PHẬT DƯỢC SƯ LẠI ĐẮC GIỚI
24.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC KHỎI TỘI
25.- SỰ CẢM ỨNG MỘT THAI PHỤ ĐƯỢC PHẬT DƯỢC SƯ CỨU KHỎI NẠN
26.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC HOÀN SINH
27.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT TỲ-LÔ-GIÁ-NA TRỪ ĐƯỢC CHƯỚNG NẠN
28.- SỰ CẢM ỨNG ĐỨC ĐỘNG HIỆP THÂN TỰ XƯNG VÔ GIÁ-ĐÀ-BÀ
29.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TƯỢNG NGẦM ĐỨC PHẬT CỦA NGÀI THÍCH HÀM CHIẾU
30.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC TRUYỀN THỪA CỦA HAI BỘ MẠN-ĐÀ-LA
31.- SỰ CẢM ỨNG LỄ BÁI KIM CANG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC ẢNH HƯỞNG GIẢI THOÁT
32.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM THÁNH CHÚNG THAI TẠNG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC THOÁT NẠN
33.- SỰ CẢM ỨNG XÁ-LỢI HIỆN ĐIỀM LÀNH
34.- SỰ CẢM ỨNG ÔNG A ĐẮC TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC HOÀN SINH
35.- SƯ CẢM ỨNG NHỜ BẠN CŨ TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC LÌA THÂN MÃNG XÀ
36.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM QUAN ÂM, PHÁT NGUYỆN LÀM THÁP PHẬT ĐƯỢC KHỎI TỘI CHẾT
37.- SỰ CẢM ỨNG ĐO NỀN TỊNH XÁ CỦA TRƯỞNG GIẢ TU ĐẠT
38.- SỰ CẢM ỨNG VỀ QUẢ LÀNH XÂY CẤT CHÙA SAU KHI PHẬT NHẬP DIỆT
39.- SỰ CẢM ỨNG DÙNG CHIẾC GẬY LÀM TRỤ VÁCH TINH XÁ ĐƯỢC KHỎI CHẾT YẾU
40.- SỰ CẢM ỨNG QUÉT SÂN TINH XÁ ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
41.- SỰ CẢM ỨNG DO TẠO TINH XÁ, CHA MẸ NHIỀU ĐỜI ĐƯỢC THÊM PHƯỚC
42.- SỰ CẢM ỨNG VỀ OAI ĐỨC CỦA TINH XÁ PHẬT TẠI NƯỚC THẤT-LA-PHIỆT-TẤT-ĐẾ
43.- SỰ CẢM ỨNG CỦA ĐỨA TRẺ CHƠI ĐÙA, DÙNG LÁ CÂY LÀM TINH XÁ ĐƯỢC SỐNG LÂU
44.- SỰ CẢM ỨNG THẦY TỶ-KHEO TÔ ĐẮP LỖ VÁCH ĐƯỢC TĂNG THỌ
45.- SỰ CẢM ỨNG VUA NƯỚC KIM ĐỊA SỬA CHÙA HƯ ĐƯỢC THÊM TUỔI
QUYỂN TRUNG
46.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM, TRÙNG KIẾN NHỜ NƯỚC RỬA TAY ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
47.- SỰ CẢM ỨNG KINH HOA NGHIÊM ĐỔI CHỖ NẰM TRÊN KINH A-HÀM
48.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM ĐƯỢC TẶNG THUỐC TIÊN
49.- SỰ CẢM ỨNG PHÁP LỰC KINH HOA NGHIÊM ĐÁNH LUI A-TU-LA
50.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG BÀI KỆ KINH HOA NGHIÊM PHÁ ĐƯỢC ĐỊA NGỤC
51.- SỰ CẢM ỨNG LONG TỬ THÀNH TÂM HỌC KINH A-HÀM
52.- SỰ CẢM ỨNG SỰ TĂNG DU TỤNG KINH A-HÀM ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ
53.- SỰ CẢM ỨNG TẢ KINH A-HÀM ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
54.- SỰ CẢM ỨNG CON CHÓ NGHE KINH A-HÀM, SAU ĐƯỢC CHỨNG QUẢ
55.- SỰ CẢM ỨNG BẦY DƠI NGHE TẢNG A-TỲ-ĐẠT MA ĐƯỢC GIẢI THOÁT
56.- SỰ CẢM ỨNG CON CHUỘT NGHE TANG LUẬT ĐƯỢC ĐẠO QUẢ
57.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TỶ-KHEO THỌ TRÌ TẠNG LUẬT
58.- SỰ CẢM ỨNG THỌ TRÌ KINH ĐẠI TẬP DIỆT TỘI NGŨ NGHỊCH
59.- SỰ CẢM ỨNG NGHE TÊN KINH PHƯƠNG ĐẲNG ĐƯỢC SINH TỊNH ĐỘ
60.- SỰ CẢM ỨNG TU PHƯƠNG ĐẲNG SÁM PHÁP ĐƯỢC THỌ KÝ
61.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG TỤNG KINH DUY-MA CẬT
62.- SỰ CẢM ỨNG TẢ KINH DUY-MA CỨU MÌNH VÀ SONG THÂN
63.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG KINH LĂNG-NGHIÊM
64.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG TỤNG THẮNG MAN
65.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TU TẬP KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ
66.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TỶ-KHEO THÍCH TĂNG CẢM
67.- SỰ CẢM ỨNG VỀ DIỄN GIẢNG KINH KIM QUANG MINH
68.- SỰ CẢM ỨNG TẠO KINH KIM QUANG MINH SIÊU ĐỘ OAN GIA
69.- SỰ CẢM ỨNG VỀ ĐỌC TỤNG THƯ TẢ KINH DƯỢC SỰ
70.- SỰ CẢM ỨNG VỀ THƯ TẢ KINH TỲ-LÔ-GIÁ-NA
71.- SỰ CẢM ỨNG VỀ ĐEO MANG TÙY CẦU ĐÀ-RA-NI
72.- SỰ CẢM ỨNG VỀ OAI THẦN CỦA TÔN THẮNG ĐÀ-RA-NI
73.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC NGHE KINH THỌ MẠNG
74.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP TRÌ TỤNG BÁT-NHÃ TÂM KINH
75.- SỰ CẢM ỨNG KHI DỊCH KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
76.- SỰ CẢM ỨNG KHI CÚNG DƯỜNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
77.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẢ KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
78.- SỰ CẢM ỨNG VỀ NGHE VÀ TỤNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ
79.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP, ĐỌC TỤNG KINH KIM CANG BÁT-NHÃ
80.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC GIẢNG TỤNG KINH NHÂN VƯƠNG BÁT-NHÃ
81.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TỤNG KINH VÔ LƯỢNG NGHĨA
82.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA, MÔI VÀ LƯỠI KHÔNG HƯ RÃ
83.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ
84.- SỰ CẢM ỨNG VỀ CÚNG DƯỜNG KINH PHÁP HOA
85.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TRUYỀN BÁ KINH ĐẠI NIẾT-BÀN
86.- SỰ CẢM ỨNG TẢ TỤNG KINH NIẾT-BÀN ĐƯỢC SINH VỀ CÕI PHẬT VÔ ĐỘNG
QUYỂN HẠ
87.- SỰ CẢM ỨNG KHI ĐỨC VĂN-THÙ HẠ SINH
88.- SỰ CẢM ỨNG ĐỨC VĂN-THÙ HÓA LÀM BẦN NỮ
89.- SƯ CẢM ỨNG CẦU VĂN-THÙ BỒ-TÁT
90.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG ĐỨC VĂN-THÙ
91.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHỔ HIỀN BỒ-TÁT
92.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG ĐỨC DI-LẶC Ở NƯỚC Ô TRÀNH
93.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẠO TƯỢNG BỒ-TÁT DI-LẶC
94.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM
95.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM QUÁN ÂM ĐƯỢC SỐNG LÂU
96.- SỰ CẢM ỨNG CÚNG DƯỜNG TƯỢNG QUÁN ÂM HƯ MỤC
97.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG THẬP NHẤT ĐIỆN ÂM
98.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
99.- SỰ CẢM ỨNG HỌA TƯỢNG THIÊN THỦ NHÃN
100.- SỰ CẢM ỨNG CỦA SÁU BỨC TƯỢNG QUÁN ÂM
101.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TƯỢNG QUÁN ÂM, ĐỊA TẠNG
102.- SỰ CẢM ỨNG KHI TẠO TƯỢNG ĐẠI THẾ CHÍ BỒ-TÁT
103.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG ĐỊA TẠNG BỒ-TÁT
104.- SỰ CẢM ỨNG CỦA PHÁP TƯỢNG NĂM VỊ BỒ-TÁT
105.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG DIỆT ÁC THÚ BỒ-TÁT
106.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG DƯỢC VƯƠNG DƯỢC THƯỢNG BỒ-TÁT
107.- SỰ CẢM ỨNG CỦA ĐÀ-RA-NI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ-TÁT
108.- SƯ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG LONG THỌ BỒ-TÁT
LỜI KỆ SAU CÙNG CỦA DỊCH GIẢ
Đã y truyện sách biên soạn thành
Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược Lục
Các việc như thế hãy còn nhiều
Chỉ ghi một ít làm tín chứng
Nguyện người nghe thấy đều phát tâm
Tạo kết duyên lành ngôi Tam Bảo
Dù rằng tin ngợi hoặc nghi chê
Đều mong lợi ích thoát sinh tử
Phật từng thọ ký đời mạt pháp
Nghe danh Tam Bảo khởi lòng tin
Tội chướng ba đời đều tiêu trừ
Kiếp sau được gần các Hiền Thánh.
Nguyện đem công đức biên soạn này
Hồi hướng chúng sinh trong pháp giới
Được nhiều thắng duyên thêm phước huệ
Đều chứng Vô Thượng đại Bồ-đề.
31.-Ẩn tu niệm dứt tướng vào ra
Không thấy thân tâm Phật với ta
Thanh thoát rõ rành vang Thánh-hiệu
Trăm hoa đua sắc tiếng Oanh ca.
32.-Ẩn tu niệm chẳng thánh cùng phàm
Mắt huệ can chi dính mạt vàng ?
Hữu tướng tức đồng Vô tướng niệm
Chân Không huyễn sắc khắp bao hàm.
33.-Ẩn tu tuy biết ý cao siêu
Mà chẳng thích ưa lý luận nhiều
Căn tánh người nay đà kém loạn
Nói hay làm phỏng được bao nhiêu ?
34.-Ẩn tu ngại lỗi luận đua tranh
Nói cũng vì người thuyết khác hành
Thái cực ai-phân nhơn-ngã đó
Lạnh lùng huyễn lợi với hư danh !
35.-Ẩn tu suối bạc ánh màu ngân
Muốn gẫm gần xa chuyện túc nhân
Người cảnh ai bày vui với khổ
Hoa trăng cười cợt ý bâng khuâng.
PHÁP YẾU TU HÀNH
Hòa-Thượng Thích-Thiền-Tâm
Yếu điểm của đường tu
Gồm hai phần Sự, Lý.
LÝ tu là sửa tâm
Cho hợp với chân lý
Sự tu chỉnh ba nghiệp
Giúp chứng cảnh chân như
Sửa tâm là dứt trừ
Nghiệp tham, ái, nóng, giận
Si mê cùng tật đố
Ngã mạn với kiêu căng
Chớ chạy theo hình thức
Say đắm nẻo lợi danh
Chuộng địa vị, quyền hành
Khoe thông minh, tài giỏi
Phải sanh lòng giác ngộ
Niệm thanh tịnh từ bi
Dõng tiến mà kiên trì
Sáng suốt mà khiêm hạ
Tự nghĩ mình xưa nay
Ðã tạo nhiều tội chướng
Chịu nhẫn nhục, sám hối
Biết an phận, tùy duyên
Duyên tốt chẳng kiêu khoe
Duyên xấu không thối não
Bình tỉnh mãi tiến tu
Như bơi thuyền ngược nước
Về biển Tát Bà Nhã
Ðến Bảo Sở an vui
Ðó là phần tu tâm
Hợp với lý giải thoát.
SỰ tu là thân nghiệp
Lễ kính Phật sám hối
Khẩu nghiệp trì chú kinh
Hoặc niệm Phật khen ngợi
Ý nghiệp giữ thanh tịnh
Mật tu môn Lục Niệm
Nguyện đền đáp bốn ân
Nguyện mình cùng chúng sanh
Sanh cõi vui thành Phật
Ðời đời gặp chánh Pháp
Tu sáu độ muôn hạnh
Tâm Bồ Ðề độ sanh
Trần kiếp không thối chuyển
Tu Sự mà bỏ Lý
Làm sao mở chân tâm?
Tu Lý mà phế Sự
Cũng không thể thành Phật !
Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG
Thì tức SẮC là KHÔNG
Tu Lý không bỏ Sự
Ðó tức KHÔNG là SẮC
Lý chính thật Chân-Không
Sự là phần Diệu-Hữu
Chân-Không tức Diệu-Hữu
Diệu-Hữu tức Chân-Không
Nếu chưa đạt lẽ nầy
Thà tu hành chấp CÓ
Ðừng cầu cao bác tướng
Mà lạc vào Ngoan-Không
Ðây chính hầm khổ đọa
Kẻ thông minh đời nay
Ða số mắc lỗi nầy.
Xưa có sư TÔNG THẮNG
Tài huệ biện cao siêu
Vì ỷ giỏi kiêu căng
Nên bị nhục chiết phục
Hỗ thẹn muốn tự tận
Thọ thần hiện thân khuyên
“ Sư nay đã trăm tuổi
Tám mươi năm lầm lạc
May nhờ gặp Thánh nhân
Huân tu mà học đạo
Tuy có chút công đức
Mà lòng hay bỉ ngã
Ỷ thông minh biện bác
Lấn người không khiêm hạ
Lời cao hạnh chưa cao
Nên phải bị quả báo
Từ đây nên tự kiểm
Ít lâu thành trí lạ.
Các THÁNH đều tồn tâm
NHƯ LAI cũng như vậy ”
Lại có kẻ đua tướng
Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư
Mượn thuyết pháp, tụng kinh
Ðể mưu cầu lợi dưỡng
Dành đệ tử, chùa chiền
Lập bè đảng, quyến thuộc
Thấy có ai hơn mình
Liền thị phi tật đố
Hại Thầy Bạn, phản Ðạo
Lừa dối hàng tín tâm
Lời nói thật rất cao
Việc làm thật rất thấp
Lý Sự đều sai trái
Hạng ấy hiện rất nhiều
Tạo biển khổ thêm sâu
Khiến đau lòng tri-thức
Lý, Sự đại lược thế.
CÔNG ĐỨC làm sao được?
Phật là ÐẠI Y VƯƠNG
Pháp là DIỆU TIÊN DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma , quỷ mị
Nạn động đất, xe, thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải thoát.
CHUYÊN TỤNG một phẩm Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các nguyện
Thỏa mãn các mong cầu
Chỉ sợ người không tin
Hoặc tin mà không sâu
Lại ngại không thực hành
Hoặc hành không bền lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu
Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người, cảnh
Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
Không hành như trên đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là PHÀM TĂNG
Giúp ích được gì đâu
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng THÀNH KÍNH
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
LẮNG LÒNG suy gẫm sâu.
Trời xanh tươi biếc một mầu
Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay
Mà sao đời đạo đổi thay
Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ
“THUYẾT PHÁP bất đậu cơ
Chúng sanh một khổ hải ”
Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương
Sóng dồn bọt biển tà dương
Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên
Bụi hồng tung gió đảo điên
Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.
Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.
BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI
NAM MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA. A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(21 lần)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHƠN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA. UM! BÚT RUM! HÙM!
(21 lần)
Nam mô Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, PHÁP GIỚI TẠNG THÂN A DI ĐÀ NHƯ LAI biến pháp giới Tam bảo.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
(niệm mau 10 hơi)
(KINH: Lúc xướng chữ A, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là Bồ Tát oai lực nhập vô sai biệt cảnh giới.)
Đức Phật Thế-Tôn, Chánh Biến Tri
Tướng hảo đoan nghiêm đều viên mãn,
Rủ lòng đại từ bi vô hạn,
Mở bày đại pháp cứu quần mê.
Niệm Phật hiện tiền đắc Phật tướng,
Thâm nhập cảnh giới bất tư nghị.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Quyết định một lòng xưng niệm Phật,
Hồng danh chứa nhóm vô lượng nghĩa,
Lợi lạc muôn ức chúng hữu tình.
Đức Phật Thế-Tôn, đấng Vô-thượng
Tri kiến, giác ngộ đều quang minh,
Rắc rải tuệ nhật khắp mười phương,
Rưới trận mưa pháp như Cam lộ.
Niệm Phật vãng sanh cõi Cực-Lạc,
An nhiên chứng đắc Vô-Sanh-Nhẫn.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Gìn giữ thân tâm bằng Phật hiệu,
Hồng danh tỏ ngộ Chân Như Tánh,
Dẫn dắt chúng sanh vào Tam-muội.
Đức Phật Như-Lai đấng Bất-động
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng đoạn thường,
Xa lìa chấp hữu hoặc chấp vô,
Tự tại chỉ bày phương tiện lực.
Niệm Phật an trụ nơi bản giác,
Tùy nghi hòa hợp với tánh Không.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Trang nghiêm tự thân bằng niệm Phật,
Hồng danh hiển phát Hư-Không-Tạng,
Tức thời thẳng vào Viên-giác-tánh.
Con nay xưng tán Đại Đạo-Sư,
Khen ngợi hồng danh vô lượng lực.
Nguyện đem hồi hướng khắp chúng sanh,
Mong cầu hết thảy cùng niệm Phật.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Từ Tán Tâm Sẽ Đi Đến Định Tâm
Miệng niệm Phật, tâm tưởng Phật, hoặc trụ nơi câu niệm Phật, gọi là Định Tâm Niệm Phật. Miệng niệm Phật, tâm không nhớ Phật mà suy nghĩ mông lung việc khác, đó là Tán Tâm Niệm Phật. Tán tâm mà niệm, hiệu lực so với định tâm yếu kém rất nhiều. Vì lẽ ấy, từ xưa đến nay các bậc thiện tri thức đều khuyên người cố gắng định tâm trì niệm, đừng để tán tâm.
Cho nên tán tâm niệm Phật không đủ làm gương mẫu.
Tuy nhiên, mỗi tác động bên ngoài đều liên quan đến tiềm thức, tức là thức thứ tám ở bên trong. Nếu tán tâm niệm Phật hoàn toàn không công hiệu, thì sáu chữ hồng danh kia từ đâu phát hiện? Đã có sáu chữ hiện thành, tất phải có hai chuyển lực: một là do chủng tử, từ tiềm thức phát hiện ra ngoài. Hai là sức tác động từ ngoài lại huân tập trở vào bên trong. Cho nên chẳng thể nói tán tâm niệm Phật hoàn toàn không công hiệu, bất quá so với định tâm nó yếu kém hơn nhiều mà thôi. Lối niệm tán tâm từ xưa đến nay không được đề xướng, nhưng hàm ý và công dụng của nó cũng không thể phủ nhận. Vì thế cổ nhơn có lưu một bài kệ rằng:
Di Đà sáu chữ pháp trung vương,
Tạo niệm phân vân chớ ngại màng!
Muôn dặm phù vân che ánh nhật.
Nhơn hoàn khắp xứ ửng dương quang.
Bài kệ này suy ra có điều xác đáng. Bởi hạt giống niệm Phật nơi thức thứ tám khi thành thục, tất dẫn phát thức thứ sáu khiến cho sanh khởi tịnh niệm. Rồi từ thức thứ sáu lại cổ động ra năm thức trước để thành hiện hành. Nhưng vì lúc chủng tử niệm Phật trải qua thức thứ sáu, bởi trần nhiễm của chúng sanh sâu dày, nên bị các niệm khác lấn cướp, tuy có lọt khỏi vòng vây song ảnh hưởng còn lại chẳng bao nhiêu. Ví như ánh mặt trời tuy rực rỡ, nhưng vì bị nhiều lớp mây che, nên khi lọt xuống nhân gian, chỉ còn vẻ ửng sáng. Nhưng ánh sáng thừa ấy sở dĩ có, cũng do công năng ảnh hưởng của mặt trời. Biết được lẽ này, người tu Tịnh Độ đừng quá ngại màng đến tạp tưởng phân vân, chỉ liên tiếp niệm hết câu này sang đến câu khác, chánh niệm còn được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Niệm như thế một lúc lâu, tự nhiên ngựa ý sẽ quay về tàu, vượn lòng lần lần vào động. Niệm một lúc lâu nữa, thì chánh niệm hiển lộ rõ ràng, không cần gạn bỏ điều nhiếp, mà tự nhiên thành tựu. Hiểu được lẽ này thì chỉ quý niệm nhiều, đừng ngại tán tâm. Như nước tuy bợn đục, lóng mãi tất sẽ thành trong. Người tuy tạp niệm nhiều, niệm Phật lâu tất sẽ thành chánh niệm. Nên biết cổ đức khi đi đứng nằm ngồi và tất cả hành động đều niệm Phật. Nếu các vị ấy hoàn toàn dùng định tâm mà niệm, thì lúc đi đường tất phải vấp chạm, hoặc khi tả kinh hay làm việc cũng không thể thành công.
Cho nên người xưa cũng có lúc phải phân tâm mà niệm, nhưng vẫn không rời câu niệm Phật, bởi dù có tán tâm vẫn không mất phần ảnh hưởng.
Đến đây, xin thuật một câu chuyện. Lúc nọ, có người đến hỏi một thượng tọa: "Thưa thật với thầy, tôi niệm Phật đã hơn mười năm nay mà vọng niệm vẫn còn nhiều, không biết cách chi trừ diệt. Tôi có đi nhiều nơi cầu hỏi phương pháp với những bậc đã tu trước mình. Vị này đưa kinh nghiệm này, vị kia dạy cách khác, có một đại đức lại khuyên tôi nên nín hơi niệm luôn hai mươi mốt câu rồi nuốt một cái. Tôi đã áp dụng qua đủ mọi phương thức, nhưng chỉ định tâm được lúc đầu, rồi sau có lẽ vì lờn quen nên vọng niệm trở lại như cũ. Không biết thầy có phương pháp nào hữu hiệu để dạy tôi chăng?"
Vị thượng tọa đáp: "Điểm thất bại đó do ông không bền lòng, mà cứ thay đổi đường lối. Nên biết phàm phu chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay gây tạo nghiệp nhiễm vọng quá nhiều đâu thể nhứt thời mà thanh tịnh được! Chỗ cốt yếu là phải dụng tâm cho bền lâu. Tôi xin đưa ra đây hai thí dụ: Ví như một bình nước hôi nhơ dẫy đầy, ông đem nước thơm sạch đổ vào. Vì nước dơ đã đầy, nước sạch tất phải dội ra ngoài, song ít nhứt nó cũng lưu lại trong bình một vài giọt. Nếu ông cứ bền tâm đổ vào mãi, ngày kia bình nước hôi sẽ hóa ra nước sạch thơm. Lại ví như ông đau bịnh dạ dày, uống thuốc chi cũng đều ói mửa ra. Ông cứ bền lòng dùng ngay thuốc trị bịnh dạ dày mà uống, đừng thay đổi thuốc chi khác. Mỗi phen uống tuy có bị ói mửa, nhưng chất thuốc cũng lưu lại ít nhiều, lần lần bệnh của ông sẽ dứt. Bệnh phiền não vọng tưởng của chúng sanh cũng thế, dùng thuốc niệm Phật điều trị tự nhiên là thích đáng, nếu thay đổi mãi làm sao thành công? Như có người dùng phèn lóng nước, nó chưa kịp trong, lại nóng nảy vội quậy lên đổ muối vào, đổ muối chưa kịp trong, lại quậy lên đổ vôi bột vào. Cứ thay đổi mãi như thế, làm sao nước trong cho được? Thế nên vấn đề dứt vọng niệm, không phải do nơi thay đổi nhiều phương pháp, mà ở nơi lựa một phương pháp thích hợp rồi thật hành cho bền lâu là thành tựu." Vị ấy nghe xong gật đầu cho là hữu lý.
Như đã nói, muốn được định tâm, điểm căn bản là phải dụng công cho bền lâu. Tuy nhiên nếu sợ niệm lực tán loạn, cần có phương tiện để tâm dễ yên tịnh, thì nên áp dụng pháp Thập Niệm Ký Số đã trình bày ở trước. Phép này do dùng hết tâm lực ghi nhớ từ một đến mười câu, nên dễ vào tịnh định. Nếu tâm còn rối loạn và không thể dùng phép Thập Niệm Ký Số, thì trong mỗi câu niệm chỉ cần chú tâm ghi giữ cho chắc một chữ "A". Khi chữ A còn thì mấy chữ khác đều còn, nếu mê mờ để cho nó mất, tất năm chữ kia cũng mất. Lại chữ A cũng chính là chữ căn bản, và là mẹ của tất cả chữ. Chú tâm vừa niệm vừa ghi chắc chữ A, lâu lâu tự nhiên tâm và cảnh đều tiêu tan dung hợp thành một khối, lượng rộng lớn dường hư không, Phật và mình cũng đều mất.
Lúc bấy giờ đương nhiên chữ A cũng không còn. Nhưng lúc trước nó mất là do bởi tâm xao động rối loạn, lúc này nó không còn chính thuộc về trạng thái dung hóa của thường định. Đây là hiện tượng tâm cảnh đều không, điểm sơ khởi để đi vào Niệm Phật Tam Muội.
Niệm Phật Thập Yếu
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
Một câu A Di Ðà
Như ngọc lắng trong nước
Ngàn muôn tạp niệm rối
Chẳng dứt tự thành không.
Nhứt cú Di Ðà
Như thủy thanh châu
Phân vân tạp niệm
Bất đoạn tự vô.
Hạt châu Thủy Thanh có công năng lóng nước đục thành trong. Câu niệm Phật cũng thế, không luận vọng niệm nhiều ít, hành giả cứ chuyên chú giữ chắc sáu chữ hồng danh lâu ngày, tạp niệm tự nhiên tan mất. Ðiểm đáng lưu ý trong đây là không nên khởi tâm dứt trừ vọng niệm. Vì vọng niệm vốn như huyễn, cố tình muốn dẹp, nó lại càng tăng. Một nhà hiền triết đã nói kinh nghiệm này qua câu: "Càng muốn đè nén, chính là cố tâm làm cho nó thêm phát khởi." (Tương dục án chi, tất cố hưng chi).
Comments
Post a Comment