TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC



46.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM, TRÙNG KIẾN NHỜ NƯỚC RỬA TAY ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI




Trích lục: kinh Điền Du Ký.


Sa-môn Thích-ca Di-da-la (Trung Hoa gọi Bà Năng Hữu) ở nước Chấp Sư Tử, là bậc dã thing đệ tam quả A-na-hàm. Trong năm đầu niên hiệu Lân Đức nhà Đường, Ngài du hóa đến Inang Hoa. Vua Cao Tôn nghe danh rất mến đọng, sắc chỉ cho Hoài Hóa đại tướng quân thành Ngài và Trường Niên chân nhân đồng về ở Bồng Lai Cung tại nội thành. Sau đó, Ngài lại đi khắp chùa tháp và các danh sơn, lễ bái Thánh tích.


Khi cư ngụ ở chùa Đại Nguyên tại kinh sư, Thích-ca Di-đa-la thấy chư tăng đang tụng kinh, nhân hỏi người thông dịch, được trả lời:


Đó là kinh Hoa Nghiêm.


Ngài nghe nói, liền nghiêm sắc mặt chắp tay cung kính bảo rằng:


- Không ngờ nơi đây cũng có kinh này. Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm công đức không thể nghĩ bàn, nếu chỉ nghe được đề mục, quyết định không đọa vào bốn ác thú. Ở Tây Vực có các Sa-môn thọ trì kinh này, trước khi trì tụng, dùng nước rửa tay, những trùng kiến bị nước rưới nhằm đều được thoát kiếp súc sinh, huống chi là những người trì tụng.


Ngài lại bảo tiếp:


Chuyện ấy nguyên do như sau: cách hơn hai ngàn dặm về hướng Đông Nam nước Vu Điền, có một xứ tên là Giá-câu-bàn. Gần vương cung xứ này có ngôi tinh xá, các Sa-môn ở đó thường khóa tụng kinh Hoa Nghiêm. Mỗi ngày, vua và các quan đều đem lễ vật đến cúng dường Một đêm nọ, bỗng có ánh sáng rực rỡ soi khắp hoàng thành. Trong ánh sáng có trăm ngàn chư thiên bay xuống, đem y phục châu báu cúng đường vua và các Sa-môn. Vua hỏi:


- Các vị là ai?


Dáp:


- Chúng tôi là những trùng kiến ở ngôi tỉnh xá. Các vị Sa-môn trước khi tụng kinh Hoa Nghiêm thường dùng nước rửa tay. Chúng tôi bị nước tưới nhầm, được nhờ ảnh hưởng công đức đó, khi bỏ mạng đều sinh lên cung trời Dao-lợi. Dùng thiên nhân biết bản thân đời trước, nên chúng tôi xuống đây cúng dường để báo ân.


Vua nghe nói, vừa mừng vừa cảm, liền lập pháp chế, dạy dân trong nước chỉ tu theo Đại thưa. Chư tăng ở các nước khác đến, khi nhập cảnh đều bị gạn hỏi, nếu là học giả Tiêu thừa, đều không cho vào, còn hàng Đại thừa thì dược cung thình cùng dường. Phong thái đó đến nay hãy còn, vẫn không thay đổi. Trong cung vua, có những kinh Đại thừa như: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa. Ma-ha Bát-nhã, Đại Tập v.v... Vua đích thân giữ chia khóa lầu Tàng kinh, mỗi ngày mở cửa vào đọc tụng, dùng các thức hương hoa cúng dường.



47.- SỰ CẢM ỨNG KINH HOA NGHIÊM ĐỔI CHỖ NẰM TRÊN KINH A-HÀM


Trích lục: Truyền Văn.


Gần thành Chiêm Ba xứ Nam Thiên Trúc, có ngôi tăng già-lam tên là Tỷ-sắc-nô. Các Sa- môn Tiểu thừa dùng nơi đây làm trụ sở tu học và hoằng hóa.


Về sau, có một Pháp sư Đại thừa đem theo bộ kinh Hoa Nghiêm đến xin cư ngụ. Vì đường lối chẳng đồng, bị các Sa-môn Tiêu thừa không kính trọng, vị Pháp sư để bộ kinh lại và ra đi. Các Sa-môn Tiểu thừa không tin đại pháp, đem bộ kinh Hoa Nghiêm liệng xuống giếng. Mấy hôm sau, thấy dưới giếng có ánh sáng rực rỡ như lừa hừng cháy, các Sư kinh sợ vớt lên, thấy bộ kinh còn nguyên không ướt, liền tin kinh này do Phật nói, không dám vất bỏ nữa. Tuy nhiên, họ vẫn cho rằng kinh ấy không bằng pháp Tiểu thừa, nên đem để dưới kinh A-hàm. Nhưng sáng ra, bỗng thấy kinh Hoa Nghiêm đôi chỗ nằm lên trên. Vị tăng trưởng gọi các Sư nhỏ lại gạn hỏi quở trách, đều được đáp rằng không ai động đến; ông liền đem để dưới kinh A-hàm như cũ. Song đến sáng lại thấy kinh Hoa Nghiêm nằm ở trên, thay đổi mấy lần đều có hiện trạng như vậy.


Chừng ấy, các Sa-môn Tiểu thừa mới kinh ngộ, biết kinh này cao siêu hơn sở học của mình. Tất cả đều gieo mình nơi đất thương khóc sám hối. Từ đó về sau, các Sư hồi tâm cùng chuyên thọ trì kinh Hoa Nghiêm, gây thành một truyền tập nơi chùa Tỳ-sắc-nô.



48.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM ĐƯỢC TẶNG THUỐC TIÊN


Trích lục: Hoa Nghiêm Truyện Ký.


Trong niên hiệu Vĩnh Huy, hai vị tăng ở chùa Thiền Định là Đạo Tường và Huệ Ngộ, đồng lập nguyện đến ẩn tu ở trong núi Thái Bạch. Đạo Tràng chuyên tụng kinh Niết-bàn, Huệ Ngộ chuyên tụng kinh Hoa Nghiêm. Cả hai tập khổ hạnh, ở hang động, ăn hoa tùng, uống nước suối, sáu thời lễ sám, ngày đêm tụng trì, tu hành như thế đã nhiều năm.


Một hôm, hai người bỗng thấy có vị cư sĩ tướng mạo cao đẹp, râu bạc tóc sương, y phục nghiêm sạch, đến làm lễ thưa rằng:


- Hiện tại, tệ cư có thiết trai phạn, đệ tử muốn thỉnh một vị tăng.


Huệ Ngộ bảo:


- Nơi đây duy hai người, vậy chúng tôi đồng đi có được chăng?


Cư sĩ thưa:


- Đệ tử ở chốn quê mùa, chỉ dám thỉnh một vị thôi!


Hỏi:


- Thế thì Ngài thỉnh ai?


Đáp:


- Niết-bàn sám chủ công đức rất lớn, nhưng đệ tử xin cung thỉnh Hoa Nghiêm pháp sư.


Huệ Ngộ không nói chi, lặng lẽ đứng lên ôm bát đi theo cư sĩ.


Trải qua một khúc quanh, vị cư sĩ bỗng bay lên hư không, rồi nhìn xuống hỏi:


- Sao Pháp sư không bay theo?


Huệ Ngộ đáp:


- Bần đạo không có cánh.


Cư sĩ hỏi:


- Sư chưa đắc thần thông ư?


Đáp:


- Thật hổ thẹn, chưa được chi cả!


Vị cư sĩ liền trở xuống, dùng vạt áo bọc Huệ Ngộ, bảo nhắm mắt lại, rồi bay đi. Huệ Ngộ chỉ nghe bên tai gió lộng ào ào, giây phút đáp xuống, mở mắt ra chỉ thấy non xanh suối bạc, cổ thụ kỳ hoa bao quanh một tòa điện các nguy nga tráng lệ. Cư sĩ chắp tay thỉnh vào. Huệ Ngộ nhập điện, lễ Phật vừa xong, bỗng thấy năm trăm vị tăng cầm tích trượng ôm bát từ hư không bay xuống. Đối với cư sĩ, Sư tự thấy mình còn thấp kém, huống là năm trăm vị Thánh tăng, nên mỗi mỗi đều giữ phần sau chót. Cư sĩ thấy thế bảo:


- Pháp sư thọ trì kinh Hoa Nghiêm, đó là cảnh giới chư Phật, không nên ở sau bậc tiểu Thánh.


Nói đoạn, liền dẫn Huệ Ngộ ngồi trên năm trăm vị tăng.


Sau khi thọ trai xong, các vị Thánh tăng bay lên hư không đi mất. Cư sĩ sai người bưng đến một mâm bảo vật cúng dường và thỉnh Huệ Ngộ chú nguyện. Sư không thọ lễ vật, chú nguyện xong liền bảo:


- Bần đạo đến đây không do đường đất, chỉ nhờ cư sĩ đem bay đi, nay không thể tự trở về. Mong đàn việt đưa lại chỗ cũ, xin sẽ tụng kinh báo đức.


Cư sĩ nói:


- Đệ tử thiết trai, bản ý chỉ cúng dường một mình Pháp sư. Tuy có năm trăm vị A-la-hán đến thọ thực, song chỉ tùy tiện đến thời mới thỉnh mà thôi. Còn việc trở về xin chớ quản ngại.


Lúc ấy, trước sân có hơn mười vị đồng tử độ ba tuổi đang ở trần truồng đùa giỡn. Cư sĩ gọi một đứa đến bảo rằng:


- Ngươi nên phụng sự Pháp sư đây.


Đồng tử có vẻ bất đắc dĩ, song phải vâng lời, đến xin Huệ Ngộ thử cúi xuống há miệng, rồi nhìn vào bảo:


- Pháp sư mang rất nhiều bệnh!


Nói đoạn, dùng tay chà nơi mình, vò thành một hoàn thuốc bảo uống. Huệ Ngộ uống vào, cảm thấy thuốc tan thành hơi thơm, khí ẩm lan khắp thân thể, tinh thần sức khỏe dào dạt, dường như đổi khác. Giây phút, đồng tử lại bảo há miệng để nhìn xem, rồi nói:


- Pháp sư đã hết bệnh.


Nói xong, bỗng bay vọt vào miệng Huệ Ngộ. Cư sĩ chắp tay thưa:


- Đây là thuốc tiên hóa hình, người uống thuốc này đã lên tiên phẩm. Nay mong ơn Pháp sư quang lâm chú nguyện khiến đệ tử được tăng phước duyên, xin đem vật mọn này để đền đáp.


Đoạn cùng nhau từ biệt.


Huệ Ngộ liền tự bay trở về, ngồi kiết già nơi hư không, thuật rõ lại sự việc và bảo Đạo Tưởng rằng:


- Tôi nhờ công đức thọ trì kinh Hoa Nghiêm, được uống linh dược, nay đã thành tiên. Tiên và phàm ngôi vị khác nhau, không thể cùng ở. Nay tôi tạm đến các cung Tử Vi, Kim Khuyết, vẫn tiếp tục thọ trì kinh này. Xin hẹn trong kiếp tương lai sẽ đồng gặp nhau trước Phật.


Nói xong, vẫy tay thâu lấy ba y và bộ kinh Hoa Nghiêm rồi bay đi.


Về sau, Đạo Tường đem chuyện này thuật với bạn đồng môn là Đạo Thọ. Đạo Thọ thiền sư, một bậc cao hạnh, được ngợi khen là vị tăng đạo đức chân thật, lại đem chuyện này nói nguyên ủy cho đại chúng.



49.- SỰ CẢM ỨNG PHÁP LỰC KINH HOA NGHIÊM ĐÁNH LUI A-TU-LA


Trích lục: Hoa Nghiêm Truyện Ký.


Một ông Sa-di ở nước Vụ Điền, tên Bát- nhà Di-đà-bạt, có giới hạnh, hằng thọ trì kinh Hoa Nghiêm. Trải nhiều năm tụng niệm, thường cảm hiện nhiều điềm lành. Một hôm, bỗng có hai người đến nội thất ông, sau khi đảnh lễ, lại chắp tay dứng một bên hỏi han. Sa-di thấy hình tướng thần dị, lấy làm lạ, hỏi từ đâu đến. Hai người chỉ trên trời đáp:


- Đệ tử ở nơi kia.


rằng: Nói xong, mời Sa-di đến chỗ vắng vẻ, thưa


- Chư thiên sai đệ tử cung thinh Pháp sư.


Sa-di kinh sợ, hết lời thối thoát. Hai vị nói: 


- Nguyện khởi lòng từ bi, chớ nên sợ hãi, và xin Pháp sư tạm thời nhắm mắt.


Bất đắc dĩ, Sa-di phải y lời. Liền đó, hai vị dùng thần lực đem ông lên thiên cung. Mở mắt ra, Sa-di thấy cung điện tốt đẹp nguy nga rực rỡ, không phải cảnh nhân gian có thể sánh bằng. Lại thấy Thiên đế quy thỉnh rằng:


- Chư thiên nay cùng A-tu-la chiến đấu, đang bị thối bại. Xin tôn đức khuất giá lên xe ngồi tụng kinh Hoa Nghiêm để nhờ pháp lực, khiến binh tướng chư thiên dẹp tan cường địch.


Sa-di vâng lời, lên xe báu ngồi, tay cầm phướn dài, tụng kinh Hoa Nghiêm. Chư thiên tưởng hộ giá hai bên, thiên binh kéo tiếp theo sau. Đi đến đâu, A-tu-la tan rã tới đó.


 Sau khi giặc lui, Thiên đế hoan hỷ thưa rằng:


- Tùy Pháp sư muốn điều chi, chúng tôi sẽ hết lòng giúp đỡ.


Sa-di dáp:


- Tôi chỉ cầu đạo Vô Thượng Bồ-đề, ngoài ra không mong muốn chi cả.


- Thiên đế tạ rằng:


- Đại nguyện của Pháp sư, sức chúng tôi không thể làm được.


Nói xong, đem trân vị cõi trên ra cúng dường, rồi sai thiên tướng đưa Sa-di về chỗ cũ. Về tới nhân gian, y phục của Sa-di còn nhiễm mùi thơm lạ, đến khi sắp viên tịch vẫn chưa tan.


Trước khi viên tịch, Sa-di đến bạch với đại chúng rằng mình được về cảnh Tịnh độ của Phật. Thưa xong, trở lại tịnh thất nằm nghiêng bên phải mà vãng sinh.


Cách ba mươi lăm năm sau, Tam tạng pháp sư nước Vu Điền là ngài Nhân-đà-la Bát-nhã du hóa đến Trung Hoa, lúc đó nhằm triều Nhà Ngụy. Khi trọ ở Đông Đô Tự, Ngài đem chuyện trên thuật lại với Hiền Thủ pháp sư.



50.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG BÀI KỆ KINH HOA NGHIÊM PHÁ ĐƯỢC ĐỊA NGỤC


Trích lục: Hoa Nghiêm Truyện .


Trong niên hiệu Văn Minh năm dầu, ở kinh sư, có người họ Vương không giới hạnh, chẳng biết làm lành, nhân đau bệnh rồi chết. Khi hồn lìa khỏi xác, Vương bị hai người dẫn đến địa ngục, thấy một vị tăng tự xưng là Địa Tạng Bồ- tất, dạy tụng một bài kệ rằng:


Nếu ngươi muốn biết rõ 

Chư Phật trong ba đời 

Nên quán tánh pháp giới 

Tất cả do tâm tạo.


Bồ-tát dạy xong, lại bảo:


- Bài kệ này có thể phá được địa ngục.


Vương y lời, học thuộc xong, bị dẫn đến chỗ Diêm-la Vương. Vua Diêm-la hỏi:


- Bình sinh, người có tu công đức chỉ chăng?


Vương đáp:


- Tôi chỉ thọ trì một bài kệ.


Vua Diêm-la bảo thử đọc xem. Vương vâng lời tụng to lên, tiếng tụng vang đến đâu, người thọ khổ nơi đó đều được giải thoát. Nhân đó, Vương được tha trở về.


Sau khi hoàn sinh, Vương đến chùa Không Quán lễ tạ Phật, và dối Tăng Định pháp sư thuật lại việc ấy. Các Sa-môn tra duyệt lại, thấy bài kệ đó xuất xứ từ kinh Hoa Nghiêm quyển hai, phẩm Dạ-ma Thiên Cung Vô Lượng Chư Bồ-tát Vân Tập Thuyết Pháp. Một Sa-môn bảo:


- Nếu tụng bài kệ này, thêm vào câu chân ngôn phá địa ngục: “Án, già ra đế da ta bà ha", thì năng lực phá địa ngục lại càng hiệu nghiệm.



TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC


MỤC LỤC


LỜI TỰA



QUYỂN THƯỢNG



1.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỦA VUA ƯU ĐIỄN VÀ BA-TƯ-NẶC

2.- SỰ CẢM ỨNG HA TƯỢNG PHẬT CỦA VUA ẢNH THNG

3.- SỰ CẢM ỨNG MNG THẤY TƯỢNG PHẬT CỦA MINH Đ NHÀ HÁN

4.- SỰ CẢM ỨNG THNH TƯỢNG PHẬT CỦA LƯƠNG VÕ Đ

5.- SỰ CẢM ỨNG DI TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC TỪ CÙNG DIÊM-LA TRỞ VỀ


6.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC MẠNG CHỒNG

7.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THẤY CÕI CỰC LẠC

8.- SỰ CẢM ỨNG CỦA HAI NGƯỜI NGHÈO ĐEM TIỀN VÀNG THUÊ HỌA TƯỢNG PHẬT

9.- SỰ CẢM ỨNG GÓP TIỀN TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỔ

10.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT VÀ BỒ-TÁT ĐƯỢC SINH LÊN CUNG TRỜI ĐÂU-SUẤT



11.- SỰ CẢM ỨNG THỜ HỌA TƯỢNG PHẬT A-DI-ĐÀ ĐƯỢC VÃNG SINH

12.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG A-DI-ĐÀ CAO BA TẤC CỦA THÍCH ĐẠO DŨ

13.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC SONG THÂN

14.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU CHÚNG SINH Ở TAM ĐỒ

15.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỦA SA-MÔN TĂNG CAO



16.- SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA CHIM ANH VŨ DẪN NGƯỜI NIỆM PHẬT

17.- SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA LÀM THÂN CÁ DẪN ĐỘ NGƯỜI NIỆM PHẬT.

18.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỔ ĐỊA NGỤC

19.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT A-SÚC BỆ CỦA THÍCH SONG HUỆ

20.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CÒN ĐƯỢC SỐNG THÊM NĂM MƯƠI NĂM 


21.- SỰ CẢM ỨNG CẦU NGUYỆN PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC GIÀU SANG 

22.- SỰ CẢM ỨNG ĐEM MỘT ĐỒNG TIỀN CÚNG PHẬT ĐƯỢC GIÀU SANG

23.- SỰ CẢM ỨNG NGƯỜI PHÁ GIỚI XƯNG HIỆU PHẬT DƯỢC SƯ LẠI ĐẮC GIỚI

24.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC KHỎI TỘI

25.- SỰ CẢM ỨNG MỘT THAI PHỤ ĐƯỢC PHẬT DƯỢC SƯ CỨU KHỎI NẠN 


26.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT DƯỢC SƯ ĐƯỢC HOÀN SINH

27.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT TỲ-LÔ-GIÁ-NA TRỪ ĐƯỢC CHƯỚNG NẠN

28.- SỰ CẢM ỨNG ĐỨC ĐỘNG HIỆP THÂN TỰ XƯNG VÔ GIÁ-ĐÀ-BÀ

29.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TƯỢNG NGẦM ĐỨC PHẬT CỦA NGÀI THÍCH HÀM CHIẾU

30.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC TRUYỀN THỪA CỦA HAI BỘ MẠN-ĐÀ-LA


31.- SỰ CẢM ỨNG LỄ BÁI KIM CANG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC ẢNH HƯỞNG GIẢI THOÁT

32.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM THÁNH CHÚNG THAI TẠNG MẠN-ĐÀ-LA ĐƯỢC THOÁT NẠN

33.- SỰ CẢM ỨNG XÁ-LỢI HIỆN ĐIỀM LÀNH

34.- SỰ CẢM ỨNG ÔNG A ĐẮC TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC HOÀN SINH

35.- SƯ CẢM ỨNG NHỜ BẠN CŨ TẠO CHÙA THÁP ĐƯỢC LÌA THÂN MÃNG XÀ


36.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM QUAN ÂM, PHÁT NGUYỆN LÀM THÁP PHẬT ĐƯỢC KHỎI TỘI CHẾT

37.- SỰ CẢM ỨNG ĐO NỀN TỊNH XÁ CỦA TRƯỞNG GIẢ TU ĐẠT

38.- SỰ CẢM ỨNG VỀ QUẢ LÀNH XÂY CẤT CHÙA SAU KHI PHẬT NHẬP DIỆT

39.- SỰ CẢM ỨNG DÙNG CHIẾC GẬY LÀM TRỤ VÁCH TINH XÁ ĐƯỢC KHỎI CHẾT YẾU

40.- SỰ CẢM ỨNG QUÉT SÂN TINH XÁ ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI


41.- SỰ CẢM ỨNG DO TẠO TINH XÁ, CHA MẸ NHIỀU ĐỜI ĐƯỢC THÊM PHƯỚC

42.- SỰ CẢM ỨNG VỀ OAI ĐỨC CỦA TINH XÁ PHẬT TẠI NƯỚC THẤT-LA-PHIỆT-TẤT-ĐẾ

43.- SỰ CẢM ỨNG CỦA ĐỨA TRẺ CHƠI ĐÙA, DÙNG LÁ CÂY LÀM TINH XÁ ĐƯỢC SỐNG LÂU

44.- SỰ CẢM ỨNG THẦY TỶ-KHEO TÔ ĐẮP LỖ VÁCH ĐƯỢC TĂNG THỌ

45.- SỰ CẢM ỨNG VUA NƯỚC KIM ĐỊA SỬA CHÙA HƯ ĐƯỢC THÊM TUỔI 




QUYỂN TRUNG



46.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM, TRÙNG KIẾN NHỜ NƯỚC RỬA TAY ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI

47.- SỰ CẢM ỨNG KINH HOA NGHIÊM ĐỔI CHỖ NẰM TRÊN KINH A-HÀM

48.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH HOA NGHIÊM ĐƯỢC TẶNG THUỐC TIÊN

49.- SỰ CẢM ỨNG PHÁP LỰC KINH HOA NGHIÊM ĐÁNH LUI A-TU-LA

50.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG BÀI KỆ KINH HOA NGHIÊM PHÁ ĐƯỢC ĐỊA NGỤC


51.- SỰ CẢM ỨNG LONG TỬ THÀNH TÂM HỌC KINH A-HÀM

52.- SỰ CẢM ỨNG SỰ TĂNG DU TỤNG KINH A-HÀM ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ

53.- SỰ CẢM ỨNG TẢ KINH A-HÀM ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI

54.- SỰ CẢM ỨNG CON CHÓ NGHE KINH A-HÀM, SAU ĐƯỢC CHỨNG QUẢ

55.- SỰ CẢM ỨNG BẦY DƠI NGHE TẢNG A-TỲ-ĐẠT MA ĐƯỢC GIẢI THOÁT


56.- SỰ CẢM ỨNG CON CHUỘT NGHE TANG LUẬT ĐƯỢC ĐẠO QUẢ

57.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TỶ-KHEO THỌ TRÌ TẠNG LUẬT

58.- SỰ CẢM ỨNG THỌ TRÌ KINH ĐẠI TẬP DIỆT TỘI NGŨ NGHỊCH

59.- SỰ CẢM ỨNG NGHE TÊN KINH PHƯƠNG ĐẲNG ĐƯỢC SINH TỊNH ĐỘ

60.- SỰ CẢM ỨNG TU PHƯƠNG ĐẲNG SÁM PHÁP ĐƯỢC THỌ KÝ


61.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG TỤNG KINH DUY-MA CẬT

62.- SỰ CẢM ỨNG TẢ KINH DUY-MA CỨU MÌNH VÀ SONG THÂN

63.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG KINH LĂNG-NGHIÊM

64.- SỰ CẢM ỨNG VỀ GIẢNG TỤNG THẮNG MAN

65.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TU TẬP KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ


66.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TỶ-KHEO THÍCH TĂNG CẢM

67.- SỰ CẢM ỨNG VỀ DIỄN GIẢNG KINH KIM QUANG MINH

68.- SỰ CẢM ỨNG TẠO KINH KIM QUANG MINH SIÊU ĐỘ OAN GIA

69.- SỰ CẢM ỨNG VỀ ĐỌC TỤNG THƯ TẢ KINH DƯỢC SỰ

70.- SỰ CẢM ỨNG VỀ THƯ TẢ KINH TỲ-LÔ-GIÁ-NA


71.- SỰ CẢM ỨNG VỀ ĐEO MANG TÙY CẦU ĐÀ-RA-NI

72.- SỰ CẢM ỨNG VỀ OAI THẦN CỦA TÔN THẮNG ĐÀ-RA-NI

73.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC NGHE KINH THỌ MẠNG

74.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP TRÌ TỤNG BÁT-NHÃ TÂM KINH

75.- SỰ CẢM ỨNG KHI DỊCH KINH ĐẠI BÁT-NHÃ


76.- SỰ CẢM ỨNG KHI CÚNG DƯỜNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ

77.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẢ KINH ĐẠI BÁT-NHÃ

78.- SỰ CẢM ỨNG VỀ NGHE VÀ TỤNG KINH ĐẠI BÁT-NHÃ

79.- SỰ CẢM ỨNG VỀ BIÊN CHÉP, ĐỌC TỤNG KINH KIM CANG BÁT-NHÃ

80.- SỰ CẢM ỨNG VỀ VIỆC GIẢNG TỤNG KINH NHÂN VƯƠNG BÁT-NHÃ


81.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TỤNG KINH VÔ LƯỢNG NGHĨA

82.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA, MÔI VÀ LƯỠI KHÔNG HƯ RÃ

83.- SỰ CẢM ỨNG TỤNG KINH PHÁP HOA ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ

84.- SỰ CẢM ỨNG VỀ CÚNG DƯỜNG KINH PHÁP HOA

85.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TRUYỀN BÁ KINH ĐẠI NIẾT-BÀN


86.- SỰ CẢM ỨNG TẢ TỤNG KINH NIẾT-BÀN ĐƯỢC SINH VỀ CÕI PHẬT VÔ ĐỘNG



QUYỂN HẠ



87.- SỰ CẢM ỨNG KHI ĐỨC VĂN-THÙ HẠ SINH

88.- SỰ CẢM ỨNG ĐỨC VĂN-THÙ HÓA LÀM BẦN NỮ

89.- SƯ CẢM ỨNG CẦU VĂN-THÙ BỒ-TÁT

90.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG ĐỨC VĂN-THÙ



91.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHỔ HIỀN BỒ-TÁT

92.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG ĐỨC DI-LẶC Ở NƯỚC Ô TRÀNH

93.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TẠO TƯỢNG BỒ-TÁT DI-LẶC

94.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM

95.- SỰ CẢM ỨNG NIỆM QUÁN ÂM ĐƯỢC SỐNG LÂU


96.- SỰ CẢM ỨNG CÚNG DƯỜNG TƯỢNG QUÁN ÂM HƯ MỤC

97.- SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG THẬP NHẤT ĐIỆN ÂM

98.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG THIÊN THỦ THIÊN NHÃN

99.- SỰ CẢM ỨNG HỌA TƯỢNG THIÊN THỦ NHÃN

100.- SỰ CẢM ỨNG CỦA SÁU BỨC TƯỢNG QUÁN ÂM


101.- SỰ CẢM ỨNG VỀ TƯỢNG QUÁN ÂM, ĐỊA TẠNG

102.- SỰ CẢM ỨNG KHI TẠO TƯỢNG ĐẠI THẾ CHÍ BỒ-TÁT

103.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG ĐỊA TẠNG BỒ-TÁT

104.- SỰ CẢM ỨNG CỦA PHÁP TƯỢNG NĂM VỊ BỒ-TÁT

105.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG DIỆT ÁC THÚ BỒ-TÁT

106.- SỰ CẢM ỨNG CỦA TƯỢNG DƯỢC VƯƠNG DƯỢC THƯỢNG BỒ-TÁT

107.- SỰ CẢM ỨNG CỦA ĐÀ-RA-NI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ-TÁT

108.- SƯ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG LONG THỌ BỒ-TÁT




LI K SAU CÙNG CA DCH GI


 

Đã y truyn sách biên son thành 

Tam Bo Cng Yếu Lược L

Các vic như thế hãy còn nhi

Ch ghi mt ít làm tín chng 

Nguyn người nghe thy đu phát tâm 

To kết duyên lành ngôi Tam B

Dù rng tin ngi hoc nghi chê 

Đu mong li ích thoát sinh t 

Pht tng th ký đi mt pháp 

Nghe danh Tam Bo khi lòng tin 

Ti chướng ba đi đu tiêu tr 

Kiếp sau được gn các Hin Thánh. 

 

Nguyn đem công đc biên son này 

Hi hướng chúng sinh trong pháp gii

Được nhiu thng duyên thêm phước hu 

Đu chng Vô Thượng đi B







46.-Ẩn tu lòng đạo sáng gương rằm

Bạn Cúc quê vàng cảnh vắng tâm

Cây biếc mây hồng che tĩnh xứ

Khói sương vùi dập mấy mươi năm.

 

47.-Ẩn tu Lan-Nhã ngắm tư bề

Ríu rít mây chim tiếng gọi về

Dâu biển người đời thương biến đổi

Đâu hay muôn cảnh vốn Bồ đề.

 

48.-Ẩn tu nhớ dạy Tịnh Liên Hoa

Trí Giả nguyên là Phật Thích Ca

Lại có Vĩnh Minh cùng Thiện Đạo

Tương truyền thân hóa của Di Đà

 

49.-Ẩn tu thấy nói Tổ bên Thiền

Long Thọ, Mã Minh chứng đạo huyền

Đều tín Liên tông khuyên NIỆM PHẬT

Sao hàng hậu học tạo khinh duyên ?

 

50.-Ẩn tu thương nghĩ cánh Nam tông

Tịnh độ cho là pháp viễn vông

Bác phá Đại thừa phi Phật thuyết

Yến Ly đâu biết dấu chim hồng ?






PHÁP YẾU TU HÀNH

Hòa-Thượng Thích-Thiền-Tâm

 

 

Yếu điểm của đường tu

Gồm hai phần Sự, Lý.

 

LÝ tu là sửa tâm

Cho hợp với chân lý

Sự tu chỉnh ba nghiệp

Giúp chứng cảnh chân như

Sửa tâm là dứt trừ

Nghiệp tham, ái, nóng, giận

Si mê cùng tật đố

Ngã mạn với kiêu căng

Chớ chạy theo hình thức

Say đắm nẻo lợi danh

Chuộng địa vị, quyền hành

Khoe thông minh, tài giỏi

Phải sanh lòng giác ngộ

Niệm thanh tịnh từ bi

Dõng tiến mà kiên trì

Sáng suốt mà khiêm hạ

Tự nghĩ mình xưa nay

Ðã tạo nhiều tội chướng

Chịu nhẫn nhục, sám hối

Biết an phận, tùy duyên

Duyên tốt chẳng kiêu khoe

Duyên xấu không thối não

Bình tỉnh mãi tiến tu

Như bơi thuyền ngược nước

Về biển Tát Bà Nhã

Ðến Bảo Sở an vui

Ðó là phần tu tâm

Hợp với lý giải thoát.

 

SỰ tu là thân nghiệp

Lễ kính Phật sám hối

Khẩu nghiệp trì chú kinh

Hoặc niệm Phật khen ngợi

Ý  nghiệp giữ thanh tịnh

Mật tu môn Lục Niệm

Nguyện đền đáp bốn ân

Nguyện mình cùng chúng sanh

Sanh cõi vui thành Phật

Ðời đời gặp chánh Pháp

Tu sáu độ muôn hạnh

Tâm Bồ Ðề độ sanh

Trần kiếp không thối chuyển

Tu Sự mà bỏ Lý

Làm sao mở chân tâm?

Tu Lý mà phế Sự

Cũng không thể thành Phật !

Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG

Thì tức SẮC là KHÔNG

Tu Lý không bỏ Sự

Ðó tức KHÔNG là SẮC

Lý chính thật Chân-Không

Sự là phần Diệu-Hữu

Chân-Không tức Diệu-Hữu

Diệu-Hữu tức Chân-Không

Nếu chưa đạt lẽ nầy

Thà tu hành chấp CÓ

Ðừng cầu cao bác tướng

Mà lạc vào Ngoan-Không

Ðây chính hầm khổ đọa

Kẻ thông minh đời nay

Ða số mắc lỗi nầy.

Xưa có sư TÔNG THẮNG

Tài huệ biện cao siêu

Vì ỷ giỏi kiêu căng

Nên bị nhục chiết phục

Hỗ thẹn muốn tự tận

Thọ thần hiện thân khuyên

“ Sư nay đã trăm tuổi 

Tám mươi năm lầm lạc

May nhờ gặp Thánh nhân

Huân tu mà học đạo

Tuy có chút công đức

Mà lòng hay bỉ ngã

Ỷ thông minh biện bác

Lấn người không khiêm hạ

Lời cao hạnh chưa cao

Nên phải bị quả báo

Từ đây nên tự kiểm

Ít lâu thành trí lạ.

Các THÁNH đều tồn tâm

NHƯ LAI cũng như vậy ”

Lại có kẻ đua tướng

Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư

Mượn thuyết pháp, tụng kinh

Ðể mưu cầu lợi dưỡng

Dành đệ tử, chùa chiền

Lập bè đảng, quyến thuộc

Thấy có ai hơn mình

Liền thị phi tật đố

Hại Thầy Bạn, phản Ðạo

Lừa dối hàng tín tâm

Lời nói thật rất cao

Việc làm thật rất thấp

Lý Sự đều sai trái

Hạng ấy hiện rất nhiều

Tạo biển khổ thêm sâu

Khiến đau lòng tri-thức

Lý, Sự đại lược thế.

 

CÔNG ĐỨC làm sao được?

Phật là ÐẠI Y VƯƠNG

Pháp là DIỆU TIÊN DƯỢC

Là phương-thuật rất mầu

Là như-ý bảo châu

Hay trừ nạn nghèo khổ

Khiến cho được giàu vui

Hay trừ tất cả bệnh

Khiến mau được bình phục

Hay trừ nạn yểu số

Khiến thọ-mạng dài lâu

Hay khỏi các tai ách

Như bão lụt, binh lửa

Giặc cướp cùng tà ngoại

Ác thú với độc xà

Các yêu ma , quỷ mị

Nạn động đất, xe, thuyền

Những phù-chú ếm-đối

Ðều phá tiêu tan hết

Cho đến trừ tội chướng

Sanh trưởng phước huệ to

Cứu chúng đọa Tam Ðồ

Siêu lên bờ giải thoát.

CHUYÊN TỤNG một phẩm Kinh

Một Chân-Ngôn, hiệu Phật

Thì thành tựu các nguyện

Thỏa mãn các mong cầu

Chỉ sợ người không tin

Hoặc tin mà không sâu

Lại ngại không thực hành

Hoặc hành không bền lâu

Hoặc tuy hành bền lâu

Không chí tâm khẩn cầu

Chí tâm là không vọng

Trì niệm quên thân tâm

Lặng lẽ dứt phân biệt

Không trong, ngoài, người, cảnh

Khi đi, đứng, thức, ngủ

Chẳng bỏ câu trì niệm

Lúc hưỡn, gấp, an, nguy

Cũng vững vàng trì niệm

Cho đến khi sắp chết

Vẫn như thế trì niệm

Ðắc, thất đều do đây

Cần chi hỏi tri thức

Không hành như trên đây

Phật cũng khó cứu vớt

Huống nữa là PHÀM TĂNG

Giúp ích được gì đâu

Nhớ lời Cổ Ðức dạy:

“Ta có một bí quyết

Khẩn thiết khuyên bảo nhau

Là hết lòng THÀNH KÍNH

Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”

Hãy ghi nhớ lời nầy

LẮNG LÒNG suy gẫm sâu.

Trời xanh tươi biếc một mầu

Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay

Mà sao đời đạo đổi thay

Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ

“THUYẾT PHÁP bất đậu cơ

Chúng sanh một khổ hải ”

Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương

Sóng dồn bọt biển tà dương

Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên

Bụi hồng tung gió đảo điên

Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.


Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.

 







BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN

ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI

 

NAM MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA. A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA. 

UM! BÚT RUM! HÙM!


(21 lần)



VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHƠN NGÔN

  

NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA. 

NAM MÔ A RỊ DA.  A MI TÁ BÀ DA.  TÁT THA GA TÁ DA.  A RA HA TI.  SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA.  TÁT DA THA. 

UM !  A MI RỊ TI.  A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ GA BÊ.  A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ.  A MI RỊ TÁ SI TÊ.  A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.

A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ.  A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI.  A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI.  SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI.  SẠT VA MA CA LI.  SA KHẤT SÁ DU CA LI.  SÓA HA.  UM! BÚT RUM! HÙM!


 (21 lần)


Nam mô Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, PHÁP GIỚI TẠNG THÂN A DI ĐÀ NHƯ LAI biến pháp giới Tam bảo.




NAM MÔ A DI ĐÀ PHT

(nim mau 10 hơi)





(KINH: Lúc xướng chữ A, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là Bồ Tát oai lực nhập vô sai biệt cảnh giới.)



Đc Pht Thế-Tôn, Chánh Biến Tri

Tướng ho đoan nghiêm đu viên mãn,

R lòng đi t bi vô hn,

M bày đi pháp cu qun mê.


Nim Pht hin tin đc Pht tướng,

Thâm nhp cnh gii bt tư ngh.

Nhân đây B-Tát Sơ phát tâm,

Quyết đnh mt lòng xưng nim Pht,

Hng danh cha nhóm vô lượng nghĩa,

Li lc muôn c chúng hu tình.

Đc Pht Thế-Tôn, đng Vô-thượng

Tri kiến, giác ng đu quang minh,

Rc ri tu nht khp mười phương,

Rưới trn mưa pháp như Cam l.


Nim Pht vãng sanh cõi Cc-Lc,

An nhiên chng đc Vô-Sanh-Nhn.

Nhân đây B-Tát Sơ phát tâm,

Gìn gi thân tâm bng Pht hiu,

Hng danh t ng Chân Như Tánh,

Dn dt chúng sanh vào Tam-mui.

Đc Pht Như-Lai đng Bt-đng

Chng đến, chng đi, chng đon thường,

Xa lìa chp hu hoc chp vô,

T ti ch bày phương tin lc.


Nim Pht an tr nơi bn giác,

Tùy nghi hòa hp vi tánh Không.

Nhân đây B-Tát Sơ phát tâm,

Trang nghiêm t thân bng nim Pht,

Hng danh hin phát Hư-Không-Tng,

Tc thi thng vào Viên-giác-tánh.

Con nay xưng tán Đi Đo-Sư,

Khen ngi hng danh vô lượng lc.


Nguyn đem hi hướng khp chúng sanh,

Mong cu hết thy cùng nim Pht.


NAM MÔ A DI ĐÀ PHT



T Tán Tâm S Đi Đến Đnh Tâm

 

Ming nim Pht, tâm tưởng Pht, hoc tr nơi câu nim Pht, gi là Đnh Tâm Nim Pht. Ming nim Pht, tâm không nh Pht mà suy nghĩ mông lung vic khác, đó là Tán Tâm Nim Pht. Tán tâm mà nim, hiu lc so vi đnh tâm yếu kém rt nhiu. Vì l y, t xưa đến nay các bc thin tri thc đu khuyên người c gng đnh tâm trì nim, đng đ tán tâm.


Cho nên tán tâm nim Pht không đ làm gương mu.

 

Tuy nhiên, mi tác đng bên ngoài đu liên quan đến tim thc, tc là thc th tám  bên trong. Nếu tán tâm nim Pht hoàn toàn không công hiu, thì sáu ch hng danh kia t đâu phát hin? Đã có sáu ch hin thành, tt phi có hai chuyn lc: mt là do chng t, t tim thc phát hin ra ngoài. Hai là sc tác đng t ngoài li huân tp tr vào bên trong. Cho nên chng th nói tán tâm nim Pht hoàn toàn không công hiu, bt quá so vi đnh tâm nó yếu kém hơn nhiu mà thôi. Li nim tán tâm t xưa đến nay không được đ xướng, nhưng hàm ý và công dng ca nó cũng không th ph nhn. Vì thế c nhơn có lưu mt bài k rng:


Di Đà sáu ch pháp trung vương,
T
o nim phân vân ch ngi màng!
Muôn d
m phù vân che ánh nht.
Nh
ơn hoàn khp x ng dương quang.

 

Bài k này suy ra có điu xác đáng. Bi ht ging nim Pht nơi thc th tám khi thành thc, tt dn phát thc th sáu khiến cho sanh khi tnh nim. Ri t thc th sáu li c đng ra năm thc trước đ thành hin hành. Nhưng vì lúc chng t nim Pht tri qua thc th sáu, bi trn nhim ca chúng sanh sâu dày, nên b các nim khác ln cướp, tuy có lt khi vòng vây song nh hưởng còn li chng bao nhiêu. Ví như ánh mt tri tuy rc r, nhưng vì b nhiu lp mây che, nên khi lt xung nhân gian, ch còn v ng sáng. Nhưng ánh sáng thy s dĩ có, cũng do công năng nh hưởng ca mt tri. Biết được l này, người tu Tnh Đ đng quá ngi màng đến tp tưởng phân vân, ch liên tiếp nim hết câu này sang đến câu khác, chánh nim còn được bao nhiêu hay by nhiêu. Nim như thế mt lúc lâu, t nhiên nga ý s quay v tàu, vượn lòng ln ln vào đng. Nim mt lúc lâu na, thì chánh nim hin l rõ ràng, không cn gn b điu nhiếp, mà t nhiên thành tu. Hiu được l này thì ch quý nim nhiu, đng ngi tán tâm. Như nước tuy bn đc, lóng mãi tt s thành trong. Người tuy tp nim nhiu, nim Pht lâu tt s thành chánh nim. Nên biết c đc khi đi đng nm ngi và tt c hành đng đu nim Pht. Nếu các v y hoàn toàn dùng đnh tâm mà nim, thì lúc đi đường tt phi vp chm, hoc khi t kinh hay làm vic cũng không th thành công.


Cho nên người xưa cũng có lúc phi phân tâm mà nim, nhưng vn không ri câu nim Pht, bi dù có tán tâm vn không mt phnh hưởng.

 

Đến đây, xin thut mt câu chuyn. Lúc n, có người đến hi mt thượng ta: "Thưa tht vi thy, tôi nim Pht đã hơn mười năm nay mà vng nim vn còn nhiu, không biết cách chi tr dit. Tôi có đi nhiu nơi cu hi phương pháp vi nhng bc đã tu trước mình. V này đưa kinh nghim này, v kia dy cách khác, có mt đi đc li khuyên tôi nên nín hơi nim luôn hai mươi mt câu ri nut mt cái. Tôi đã áp dng qua đ mi phương thc, nhưng ch đnh tâm được lúc đu, ri sau có l vì ln quen nên vng nim tr li như cũ. Không biết thy có phương pháp nào hu hiu đ dy tôi chăng?"


V thượng ta đáp: "Đim tht bi đó do ông không bn lòng, mà c thay đi đường li. Nên biết phàm phu chúng ta t vô lượng kiếp đến nay gây to nghip nhim vng quá nhiu đâu th nht thi mà thanh tnh được! Ch ct yếu là phi dng tâm cho bn lâu. Tôi xin đưa ra đây hai thí d: Ví như mt bình nước hôi nhơ dy đy, ông đem nước thơm sch đ vào. Vì nước dơ đã đy, nước sch tt phi di ra ngoài, song ít nht nó cũng lưu li trong bình mt vài git. Nếu ông c bn tâm đ vào mãi, ngày kia bình nước hôi s hóa ra nước sch thơm. Li ví như ông đau bnh d dày, ung thuc chi cũng đu ói ma ra. Ông c bn lòng dùng ngay thuc tr bnh d dày mà ung, đng thay đi thuc chi khác. Mi phen ung tuy có b ói ma, nhưng cht thuc cũng lưu li ít nhiu, ln ln bnh ca ông s dt. Bnh phin não vng tưởng ca chúng sanh cũng thế, dùng thuc nim Pht điu tr t nhiên là thích đáng, nếu thay đi mãi làm sao thành công? Như có người dùng phèn lóng nước, nó chưa kp trong, li nóng ny vi quy lên đ mui vào, đ mui chưa kp trong, li quy lên đ vôi bt vào. C thay đi mãi như thế, làm sao nước trong cho được? Thế nên vn đ dt vng nim, không phi do nơi thay đi nhiu phương pháp, mà  nơi la mt phương pháp thích hp ri tht hành cho bn lâu là thành tu." V y nghe xong gt đu cho là hu lý.

 

Như đã nói, mun được đnh tâm, đim căn bn là phi dng công cho bn lâu. Tuy nhiên nếu s nim lc tán lon, cn có phương tin đ tâm d yên tnh, thì nên áp dng pháp Thp Nim Ký S đã trình bày  trước. Phép này do dùng hết tâm lc ghi nh t mt đến mười câu, nên d vào tnh đnh. Nếu tâm còn ri lon và không th dùng phép Thp Nim Ký S, thì trong mi câu nim ch cn chú tâm ghi gi cho chc mt ch "A". Khi ch A còn thì my ch khác đu còn, nếu mê m đ cho nó mt, tt năm ch kia cũng mt. Li ch A  cũng chính là ch căn bn, và là m ca tt c ch. Chú tâm va nim va ghi chc ch A, lâu lâu t nhiên tâm và cnh đu tiêu tan dung hp thành mt khi, lượng rng ln dường hư không, Pht và mình cũng đu mt.



 

Lúc by gi đương nhiên ch A cũng không còn. Nhưng lúc trước nó mt là do bi tâm xao đng ri lon, lúc này nó không còn chính thuc v trng thái dung hóa ca thường đnh. Đây là hin tượng tâm cnh đu không, đim sơ khi đ đi vào Nim Pht Tam Mui.

 

Nim Pht Thp Yếu





MT TRĂM BÀI K NIM PHT 


 Tế Tnh Đi Sư, t Trit Ng, hiu Np Đường



Mt câu A Di Ðà

Như ngc lng trong nước

Ngàn muôn tp nim ri

Chng dt t thành không.

 

Nht cú Di Ðà

Như thy thanh châu

Phân vân tp nim

Bt đon t vô.


Ht châu Thy Thanh có công năng lóng nước đc thành trong. Câu nim Pht cũng thế, không lun vng nim nhiu ít, hành gi c chuyên chú gi chc sáu ch hng danh lâu ngày, tp nim t nhiên tan mt. Ðim đáng lưu ý trong đây là không nên khi tâm dt tr vng nim. Vì vng nim vn như huyn, c tình mun dp, nó li càng tăng. Mt nhà hin triết đã nói kinh nghim này qua câu: "Càng mun đè nén, chính là c tâm làm cho nó thêm phát khi." (Tương dc án chi, tt c hưng chi).


Khi xưa có mt Tú Tài đến phng đo nơi bc cao đc, v Thin sư này hi: “Cư sĩ tên h chi?" Tú Tài đáp: "Thưa, đ t nhũ danh Trương Chuyết". Ch Chuyết có nghĩa là vng v. Thin Sư nghe xong bo: “Vi đo khéo còn chng có, hung chi đến vng!" Tú Tài nghe qua lin ng vào Bt Nh pháp môn, làm k trình lên rng:


Ánh linh lng chiếu khp hng sa
Phàm thánh nguyên lai bn tánh ta
Mt nim chng sanh toàn th hin
Sáu căn va đng b mây lòa
Dt tr phin não càng thêm bnh
Tìm ti Chân Như cũng vn tà
Tùy thun các duyên không tr ngi
Niết bàn sanh t t không hoa.


Theo ý hai câu lun bài k trên, phin não vn là không, là huyn, c mc nhiên gi chánh nim, nó s t tiêu tan. Nếu khi ý dt tr thì phin vng li hóa thành có. Chân Như là th tánh t nhiên, biết lng l dung hp vi t nhiên, tánh Chân Như s hin l. Nếu khi tâm tìm tòi xu hướng, tc có nim phân bit, trái vi th bn nhiên, đó chính là tà vng. Рb túc ý trên, xin ghi thêm li ca Ðàm Hư đi sư, mt bc cao tăng cn đi thuc giáo phái Thiên Thai bên Trung Quc.


Ðây Pht T quê hương
X x hin phong quang
Nước non min đt rng
Ưng t có biên cương
Ðng vt tùy sanh trưởng
Thc vt t phô trương
Nng mưa tùy đi tiết
Tháng năm t đon trường
Vinh hư muôn tượng hin
Là t th chân thường
Nếu c ý cu toàn
Tr li b tn thương!

Comments

Popular posts from this blog