A Commentary by the Venerable Master Hsuan Hua 

The Shurangama Sutra


VOLUME 6



Chapter 1. The Three Non-Outflow Studies

TAM VÔ LẬU HỌC


Chapter 2. Establishing the Bodhimanda

THIẾT LẬP ĐẠO TRÀNG


Chapter 3. The Spiritual Mantra

THẦN CHÚ PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM


Chapter 4. The Two Upside-down Causes

HAI CÁI NHÂN ĐIÊN ĐẢO


Chapter 5. The Twelve Categories of Living Beings

MƯỜI HAI LOẠI CHÚNG SINH



VOLUME 7

VOLUME 8



ĐI PHT ĐNH NHƯ LAI MT NHƠN

TU CHNG LIU NGHĨA CHƯ B TÁT VN HNH

TH LĂNG NGHIÊM KINH


QUYỂN 6


 

TAM VÔ LẬU HỌC

 

Ông A-nan sửa áo chỉnh-tề, ở trong đại-chúng, chấp tay đỉnh-lễ; tâm-tính trọn-sáng, vừa mừng vừa tủi; vì muốn lợi-ích cho các chúng-sinh vị-lai, cúi đầu bạch Phật: "Thưa đức Thế-tôn đại-bi, tôi nay đã ngộ được pháp-môn thành Phật, tu-hành trong đó, được không nghi-hoặc. Tôi thường nghe đức Như-lai dạy như thế nầy: Tự mình chưa được độ, trước đã độ người, đó là chỗ phát-tâm của các vị Bồ-tát; tự mình giác-ngộ viên-mãn, có thể giác-ngộ kẻ khác, đó là sự ứng-thế của các đức Như-lai. Tôi tuy chưa được độ, song nguyện độ tất-cả chúng-sinh trong đời mạt-pháp. Bạch Thế-tôn, các chúng-sinh đó cách Phật ngày càng xa, những tà-sư thuyết-pháp; số như cát sông Hằng; nếu muốn họ nhiếp-tâm vào Tam-ma-đề, thì nên khiến họ dựng-lập đạo-trường thế nào để rời các ma-sự, được không thoái-khuất nơi tâm Bồ-đề."

Khi bấy giờ, đức Thế-tôn, ở trong đại-chúng, khen-ngợi ông A-nan: "Hay lắm, hay lắm, như chỗ ông hỏi về dựng-lập đạo-trường, cứu-giúp chúng-sinh chìm-đắm trong đời mạt-pháp, ông hãy nghe cho chín, tôi sẽ vì ông mà nói". Ông A-nan và cả đại-chúng kính vâng lời-dạy của Phật.

Phật bảo ông A-nan: "Ông thường nghe tôi, trong Tỳ-nại-gia, tuyên-nói ba nghĩa quyết-định của sự tu-hành, đó là thu-nhiếp cái tâm là giới, nhân giới mà sinh định, nhân định mà phát tuệ, thế gọi là 3 pháp Vô-lậu-học."

 

 

CHỈ VỀ QUYẾT ĐỊNH ĐOẠN LÒNG DÂM

 

"A-nan, thế nào thu-nhiếp cái tâm thì gọi là giới?

Nếu chúng-sinh lục-đạo các thế-giới, cái tâm không dâm, thì không đi theo dòng sinh-tử tiếp-tục. Ông tu phép Tam-muội cốt để ra khỏi trần-lao, nếu không trừ lòng dâm, thì không thể ra khỏi trần-lao được. Dầu có nhiều trí thiền-định hiện-tiền, nếu không đoạn lòng dâm, cũng chắc lạc vào ma-đạo, hạng trên thành ma-vương, hạng giữa thành ma-dân, hạng dưới thành ma-nữ; các bọn ma kia cũng có đồ-chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô-thượng. Sau khi tôi diệt-độ rồi, trong đời mạt-pháp, có nhiều bọn ma nầy sôi-nổi trong thế-gian, gây nhiều việc tham-dâm, lại giả làm người thiện-tri-thức, khiến cho các chúng-sinh sa vào hầm ái-kiến; bỏ mất con đường Bồ-đề. Ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-đề, trước hết phải đoạn cái dâm trong tự tâm. Ấy gọi là lời dạy-bảo rõ-ràng thanh-tịnh, quyết-định thứ nhất của các đức Như-lai Tiên-Phật Thế-tôn. Vậy nên ông A-nan, nếu không đoạn lòng dâm mà tu thiền-định, thì cũng như nấu cát, nấu đá muốn cho thành cơm, dầu trải qua trăm nghìn kiếp cũng chỉ gọi là cát nóng, đá nóng, vì cớ sao? Vì đó là giống cát, giống đá, không phải là bản-nhân của cơm vậy. Ông đem thân dâm cầu diệu-quả của Phật, dầu được diệu-ngộ, cũng chỉ là gốc dâm, cỗi-gốc đã thành dâm, thì phải trôi-lăn trong tam-đồ, chắc không ra khỏi, còn đường nào tu-chứng Niết-bàn Như-lai. Chắc phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống dâm, cho đến tính-đoạn cũng không còn nữa, thì mới trông-mong chứng quả Bồ-đề của Phật. Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba-tuần."

 

 

CHỈ VỀ QUYẾT ĐỊNH ĐOẠN LÒNG SÁT

 

"A-nan, lại các chúng-sinh lục-đạo trong các thế-giới, nếu cái tâm không sát, thì không theo dòng sinh-tử tiếp-tục. Ông tu phép Tam-muội, cốt ra khỏi trần-lao, nếu không trừ lòng sát, thì không thể ra khỏi trần-lao được. Dầu có nhiều trí thiền-định hiện-tiền, nếu không đoạn lòng sát, thì chắc phải lạc vào thần-đạo; người bậc trên thì thành đại-lực-quỷ, người bậc giữa thì thành phi-hành-dạ-xoa và các loài quỷ-soái, người bậc dưới thì thành địa-hành la-sát, các loài quỷ-thần kia cũng có đồ-chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô-thượng. Sau khi tôi diệt-độ rồi, trong đời mạt-pháp, có nhiều quỷ-thần nầy sôi-nổi trong thế-gian, tự nói rằng ăn thịt, được đạo Bồ-đề. A-nan, tôi khiến hàng tỷ-khưu ăn năm thứ tịnh-nhục, thịt kia đều do thần-lực tôi hóa-sinh ra, vốn không có mạng-căn. Xứ Bà-la-môn các ông, đất-đai phần nhiều nóng-ướt, lại thêm cát đá, rau-cỏ không sinh được; tôi dùng sức đại-bi gia-bị, nhân sức đại-từ-bi, giả gọi là thịt và các ông cũng nhận được cái vị như thịt; làm sao, sau khi Như-lai diệt-độ, người ăn thịt chúng-sinh, lại gọi là Phật-tử! Các ông nên biết những người ăn thịt đó, dầu cho tâm được khai-ngộ, giống như Tam-ma-đề, đều là loài la-sát, quả-báo hết rồi, phải chìm-đắm trong bể khổ, không phải đệ-tử Phật. Những người như vậy, giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau chưa thôi, làm sao, lại được ra khỏi ba cõi. Ông dạy người đời tu phép Tam-ma-đề, thứ nữa, phải đoạn lòng sát. Ấy gọi là lời dạy rõ-ràng thanh-tịnh, quyết-định thứ hai của các đức Như-lai Tiên-Phật Thế-tôn.

Vậy nên A-nan, nếu không đoạn lòng sát mà tu thiền-định, thì cũng ví-như có người tự bịt lỗ tai, cất tiếng kêu to mà trông-mong người khác không nghe; bọn này gọi là muốn giấu thì càng lộ. Hàng tỷ-khưu thanh-tịnh và các vị Bồ-tát đi trong đường rẽ, không dẫm cỏ non, huống nữa là lấy tay nhổ cỏ; làm sao đức Đại-bi, lại lấy máu thịt của các chúng-sinh, mà làm đồ-ăn?

Nếu các hàng tỷ-khưu không mặc những đồ tơ-lụa, là-lượt phương Đông và không dùng những giày-dép, áo-cừu, áo-len hay các thứ sữa, phó-mát, đề-hồ, thì những tỷ-khưu như thế, đối với thế-gian, thật là giải-thoát, trả hết nợ cũ xong, thì không vào trong ba cõi nữa, vì cớ sao? Dùng những bộ-phận thân-thể chúng-sinh, thì đều bị ảnh-hưởng chúng-sinh, cũng như con người ăn giống bách-cốc trong đất, thì chân không rời khỏi đất. Quyết phải khiến cho thân tâm, đối với thân-thể hay bộ-phận thân-thể của chúng-sinh, đều không mặc, không ăn, thì những người như thế, tôi mới gọi thật là giải-thoát. Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba-tuần."

 

 

CHỈ VỀ QUYẾT ĐỊNH ĐOẠN LÒNG THÂU ĐẠO

 

"A-nan, lại như chúng-sinh lục-đạo trong thế-giới, tâm không thâu-đạo, thì không theo dòng sinh-tử tiếp-tục. Ông tu phép Tam-muội, cốt ra khỏi trần-lao, nếu lòng thâu-đạo không trừ, thì không thể ra khỏi trần-lao được; dầu có nhiều trí thiền-định hiện-tiền, nếu không đoạn được lòng thâu-đạo, thì chắc phải lạc vào tà-đạo, hạng trên thì thành tinh-linh, hạng giữa thì thành yêu-mị, hạng dưới thì thành người tà-đạo bị các loài quỷ-mị nhập vào; các bọn tà-đạo kia cũng có đồ-chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô-thượng. Sau khi tôi diệt-độ rồi, trong đời mạt-pháp, có nhiều những hạng yêu-mị tà-đạo ấy sôi-nổi trong thế-gian, chúng lén-núp gian-dối, tự xưng là thiện-tri-thức, mỗi người tự xưng đã được đạo-pháp thượng-nhân, lừa-gạt kẻ không biết, doạ-dẫm khiến cho mất lòng chính-tín; chúng đi qua đến đâu, cửa nhà người ta đều bị hao-tổn tan-nát. Tôi dạy hàng tỷ-khưu theo thứ lớp khất-thực để bỏ lòng tham, thành đạo Bồ-đề. Các hàng tỷ-khưu không tự nấu ăn, gửi cái sống thừa tạm-bợ trong ba cõi, thị-hiện chỉ đi về một phen, đi rồi không trở lại nữa. Làm sao, bọn giặc mượn y-phục đạo Phật, buôn-bán Như-lai, gây các thứ nghiệp mà đều gọi là Phật-pháp, lại còn chê-bai các vị tỷ-khưu đầy-đủ giới-luật xuất-gia là đạo Tiểu-thừa; do chúng làm cho vô-lượng chúng-sinh mắc phải nghi-lầm, nên sẽ bị đọa vào ngục vô-gián. Sau khi tôi diệt-độ rồi, nếu có tỷ-khưu phát-tâm quyết-định tu phép Tam-ma-đề, biết ở trước hình-tượng Như-lai, chính mình thắp một cây đèn, đốt một đốt ngón tay hay ở trên thân, đốt một mồi hương, tôi nói người ấy, túc-trái vô-thủy, trong một thời trả hết, cáo-từ thế-gian, thoát hẳn các lậu. Người ấy, tuy chưa hiểu rõ đạo vô-thượng-giác, nhưng đối với Phật-pháp, tâm đã quyết-định; nếu không làm được cái nhân nhỏ-mọn xả-thân ấy, thì dầu thành đạo vô-vi, cùng phải lại sinh làm người, trả các nợ củ, như quả-báo mã-mạch của tôi, thật không sai khác. Ông dạy người đời tu phép Tam-ma-đề, sau nữa, phải đoạn lòng thâu-đạo. Ấy gọi là lời-dạy rõ-ràng thanh-tịnh, quyết-định thứ ba của các đức Như-lai Tiên-Phật Thế-tôn. Vậy nên ông A-nan, nếu không đoạn lòng thâu-đạo mà tu thiền-định, thì cũng như người lấy nước rót vào chén thủng, mong cho đầy chén, dầu trải qua kiếp-số như vi-trần, rốt-cuộc không thể đầy được. Nếu các hàng tỷ-khưu, ngoài y-bát ra, mảy-may không tích-trữ, xin ăn có dư, thì bố-thí cho chúng-sinh đói, nơi nhóm Hội lớn, chấp tay vái chào đại-chúng, có người đánh-mắng cũng đồng như khen-ngợi, quyết-định rời-bỏ cả thân và tâm, thân-thịt xương-máu thành sở-hữu chung của chúng-sinh, không đem những lời-dạy bất-liễu-nghĩa của Như-lai làm chỗ hiểu của mình, khiến cho kẻ sơ-học phải lầm-lạc, thì Phật ấn-chứng người ấy, thật được Tam-muội. Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba-tuần."

 

 

CHỈ VỀ QUYẾT ĐỊNH ĐOẠN LÒNG VỌNG

 

"A-nan, chúng-sinh lục-đạo trong thế-giới như thế, tuy nơi thân tâm không còn sát, đạo, dâm, cả ba hạnh đã được viên-mãn, nếu mắc phải đại-vọng-ngữ, thì Tam-ma-đề không được thanh-tịnh, thành giống ma ái-kiến và mất giống Như-lai; tức như chưa được gọi rằng được, chưa chứng gọi rằng chứng, hoặc để cầu thế-gian tôn-trọng tột-bậc, bảo người khác rằng: Nay tôi đã được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, đạo A-la-hán, thừa Bích-chi-Phật hay các quả-vị Bồ-tát trong thập-địa hay trước thập-địa, trông-mong người kia lễ-sám, tham sự cúng-dường. Những tên nhất-điên-ca ấy, tự tiêu-diệt giống Phật, như người lấy dao chặt cây đa-la; Phật ấn-ký người ấy, mất hẳn thiện-căn, không còn chính-tri-kiến, chìm-đắm trong ba bể khổ, không thành-tựu pháp Tam-muội. Tôi bảo các hàng Bồ-tát và A-la-hán, sau khi tôi diệt-độ rồi, hiện ra ứng-thân, sinh trong đời mạt-pháp kia, hiện ra nhiều hình-tướng khác nhau, đề độ những người còn trong vòng luân-hồi, hoặc làm sa-môn, bạch-y-cư-sĩ, vua-chúa, quan-lại, đồng-nam, đồng-nữ, như thế cho đến người dâm-nữ, người quả-phụ, người gian-dối, trộm-cắp, người hàng-thịt, buôn-bán, để khen-ngợi Phật-thừa với những người đồng-sự, khiến cho thân tâm của họ vào được Tam-ma-đề; nhưng rốt-ráo không tự bảo rằng tôi thật là Bồ-tát, thật là A-la-hán, khinh-xuất nói với những người chưa học, làm tiết-lậu mật-nhân của Phật, chỉ trừ đến lâm-chung, hoặc chăng, thầm có những lời di-chúc; làm sao, lại còn có lừa-gạt chúng-sinh, thành tội đại-vọng-ngữ. Ông dạy người đời tu phép Tam-ma-đề, sau-rốt phải đoạn-trừ các đại-vọng-ngữ. Ấy gọi là lời-dạy rõ-ràng thanh-tịnh, quyết-định thứ tư của các đức Như-lai Tiên-Phật Thế-tôn.

Vậy nên ông A-nan, nếu không đoạn-trừ lòng đại-vọng-ngữ, thì cũng như khắc phân người làm thành hình cây chiên-đàn, mà muốn được hương-thơm, thật không có lẽ nào như vậy. Tôi dạy hàng tỷ-khưu lấy trực-tâm làm đạo-trường, trong hết thảy hành-động, nơi bốn uy-nghi, còn không có giả-dối, làm sao, lại có kẻ tự xưng đã được đạo-pháp thượng-nhân! Ví-như người dân-cùng xưng càn là đế-vương để tự chuốc lấy sự tru-diệt, huống nữa, là vị Pháp-vương, làm sao, lại dám xưng-càn! Nhân đã không thật, quả ắt quanh-co, như thế, mà cầu đạo Bồ-đề của Phật, thì cũng như người muốn cắn rốn, làm sao, mà thành-tựu được. Nếu như các hàng tỷ-khưu, tâm như dây đàn thẳng, tất-cả đều chân-thật mà vào Tam-ma-đề, thì hẳn không có các ma-sự, tôi ấn-chứng người đó, thành-tựu được vô-thượng tri-giác của các hàng Bồ-tát. Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba-tuần."

 

 

PHẬT KHAI THỊ VỀ MẬT GIÁO,

THẦM GIÚP CHO NHỮNG NGƯỜI TU HÀNH

 

"A-nan, ông hỏi cách nhiếp-trì tâm-niệm, thì tôi đã nói rằng: Người muốn vào Tam-ma-đề, tu-học pháp-môn nhiệm-mầu, cầu đạo Bồ-tát; trước hết cần giữ 4 thứ luật-nghi đó trong-sáng như giá, như sương, tự không thể sinh ra được tất-cả ngành lá; ba ý-nghiệp, bốn khẩu-nghiệp ác chắn không còn có nhân mà sinh được. A-nan, nếu giữ 4 việc như vậy không thiếu-sót, thì tâm còn không duyên với sắc, hương, vị, xúc, tất-cả ma-sự làm sao mà phát-sinh được. Nếu có tập-khí cũ không thể diệt-trừ, ông dạy người đó nhất-tâm tụng thần-chú vô-thượng "Phật-đỉnh quang-minh ma-ha tát-đát-đa bát-đát-ra" của tôi, đó là cái tâm-chú do Vô-vi-tâm-Phật của Vô-kiến-đỉnh-tướng Như-lai, từ nơi đỉnh hiện ra, ngồi trên hoa sen báu mà nói.

Vả lại, ông cùng nàng Ma-đăng-già, do nhân-duyên nhiều kiếp đời trước thành tập-khí ân-ái, không phải một đời hay là một kiếp; song, một phen tôi tuyên-dương thần-chú, thì Nàng Ma-đăng-già thoát hẳn khỏi lòng yêu, thành quả A-la-hán. Nàng kia, còn là dâm-nữ, không có tâm tu-hành, do sức thần-chú giúp, cũng mau chứng quả vô-học; thế thì bọn ông, những hàng Thanh-văn trong Hội nầy, cầu Tối-thượng-thừa, thì quyết-định sẽ thành Phật, cũng ví-như bụi bay gặp gió thuận, có khó-khăn gì?

Nếu có người, trong đời mạt-pháp, muốn ngồi đạo-trường tu-hành, trước hết phải giữ cấm-giới tỷ-khưu thanh-tịnh và cần phải lựa-chọn những vị sa-môn giữ-giới thanh-tịnh bậc nhất để làm thầy mình; nếu không gặp được tăng-chúng thật thanh-tịnh, thì giới-luật-nghi chắc không thành-tựu được. Sau khi giới được thành-tựu rồi, người đó đắp-y mới, sạch-sẽ, đốt hương, ở riêng một mình, tụng thần-chú, do tâm-Phật nói, một trăm tám biến; về sau, kết-giới dựng-lập đạo-trường, cầu các đức vô-thượng Như-lai, hiện ở trong các cõi-nước mười phương, phóng hào-quang đại-bi đến rọi nơi đỉnh-đầu mình.

A-nan, những hàng thanh-tịnh tỷ-khưu, hoặc tỷ-khưu-ni, hoặc bạch-y đàn-việt như vậy, trong đời mạt-pháp, tâm diệt được tham-dâm, giữ giới thanh-tịnh của Phật, ở trong đạo-trường, phát-nguyện Bồ-tát, khi ra, khi vào, khi tắm, khi rửa, cả trong sáu thời đều hành-đạo như vậy, không ngủ, đến ba lần bảy ngày, thì tôi tự hiện-thân đến trước người ấy, xoa đỉnh an-ủi, khiến cho khai-ngộ".

 


THIT LP ĐO TRÀNG

 

 

Ông A-nan bạch Phật rằng: Thưa Thế-tôn, tôi nhớ lời từ-bi dạy-bảo vô-thượng của đức Như-lai, tâm đã khai-ngộ, tự biết con đường tu-chứng thành-quả vô-học, song, những người tu-hành, trong đời mạt-pháp, muốn lập đạo-trường, cần kết-giới thế nào, cho hợp với quy-tắc thanh-tịnh của chư Phật Thế-tôn?"

 

Phật bảo ông A-nan: "Nếu người trong đời mạt-pháp, muốn lập đạo-trường, trước hết, phải lấy phân con đại-lực-bạch-ngưu ở núi Tuyết-sơn, bạch-ngưu nầy, ăn cỏ-thơm ngon-tốt trong núi và chỉ uống nước trong trên núi Tuyết-sơn, nên cái phân mịn-màng; nên lấy cái phân nó, hòa-hợp với hương chiên-đàn để quét trên mặt đất. Nếu, không phải ở Tuyết-sơn, thì phân bạch-ngưu hôi-nhớp, không thể trát đất được. Vậy thì, phải riêng ở nơi bình-nguyên, đào bỏ các lớp đất trên mặt, lấy thứ đất vàng từ 5 thước trở xuống; rồi lấy 10 thứ hương là chiên-đàn, trầm-thủy, tô-hợp, huân-lục, uất-kim, bạch-giao, thanh-mộc, linh-lăng, cam-tùng và kê-thiệt, nghiền-rây thành bột, trộn với đất ấy thành bùn, để trát trên mặt đất đạo-trường, mỗi bề 1 trượng 6, thành cái đàn bát-giác. Giữa trung-tâm đàn, an-trí một hoa sen làm bằng vàng, bạc, đồng, cây, giữa hoa để một cái bát, trong bát đựng trước nước mù-sương tháng Tám và trong nước ấy tùy-ý cắm các hoa lá hiện có. Rồi lấy 8 cái gương tròn, mỗi cái để một phía, chung-quanh hoa sen và bát hoa. Bên ngoài những gương ấy, an-trí 16 hoa sen và giữa các hoa sen để 16 lư-hương cho trang-hoàng. Trong lư-hương đốt toàn hương trầm-thủy, không cho thấy lửa. Lấy sữa bạch-ngưu để trong 16 khí-mãnh; lấy sữa làm bánh-nướng và các thứ đường-cát, bánh-rán, bột-sữa, tô-hộp, mứt-gừng, mật-ong, bơ tốt, mật tốt, mỗi thứ 16 khí-mãnh, đặt ở ngoài hoa sen và quanh vòng hoa sen; để cúng-dâng chư Phật và các vị Đại-bồ-tát.

 

Trong mỗi thời ăn cơm và ở giữa đêm, lấy nửa thăng mật và 3 cáp bơ, trước đàn để riêng một lư lửa nhỏ; lấy hương đâu-lâu-bà, nấu lấy nước thơm, rửa than cho sạch; rồi đốt than đỏ hồng trong lư và rót mật bơ vào, đốt cho hết khói để cúng-dường chư Phật, Bồ-tát.

 

Ở 4 phía ngoài, treo khắp phan và hoa; ở trong phòng đàn, an-trí hình-tượng hiện có của thập phương Như-lai và các vị Bồ-tát nơi 4 vách. Nên ở chính-giữa để hình-tượng Phật Lô-xá-na, Phật Thích-ca, Phật Di-lặc, Phật A-xơ, Phật Di-đà và các hình-tượng đại-biến-hóa của Ngài Quán-âm, lại thêm, hình-tượng các vị Kim-cương-tạng Bồ-tát để ở hai bên; những tượng của Đế-thích, Phạm-vương, Ô-sô-sắt-ma, Lam-địa-ca, Quân-trà-lỵ, Tỳ-câu-chi và Tứ-thiên-vương, Tần-na, Dạ-ca, vân vân..., treo ở hai bên cửa; lại lấy 8 cái gương treo úp trên hư-không, mặt gương nầy đối-chiếu với 8 gương trước, đã để trong đàn-tràng, làm cho các hình-ảnh lồng-nhau nhiều lớp.

 

Trong tuần 7 ngày đầu, chí-thành đỉnh-lễ danh-hiệu thập phương Như-lai, các vị Đại-bồ-tát và A-la-hán, thường tron 6 thời tụng-chú đi quanh đàn, chí-tâm hành-đạo, một thời thường là 108 biến. Trong tuần 7 ngày thứ 2, một mặt chuyên-tâm phát-nguyện Bồ-tát, tâm không gián-đoạn; trong luật-nghi đạo, ta đã có chỉ-dạy về nguyện. Trong tuần 7 ngày thứ 3, trong cả 12 thời, một mặt trì-chú Bát-đát-ra của Phật; đến ngày thứ 7, thì thấy thập phương Như-lai một thời xuất-hiện, trong chỗ ánh-sáng các mặt gương giao-xen và được Phật xoa đỉnh. Rồi, liền ở nơi đạo-trường đó, tu phép Tam-ma-đề, có thể khiến cho những người tu-học như vậy, trong đời mạt-pháp, thân tâm được sáng-suốt, trong-sạch như ngọc lưu-ly.

 

A-nan, nếu trong các thầy truyền-giới cho vị tỷ-khưu ấy, hay trong 10 vị tỷ-khưu đồng-hội, có một người giới-hạnh không thanh-tịnh, thì những đạo-trường như thế, phần nhiều là không thành-tựu.

 

Từ sau 3 tuần 7 ngày, ngồi nghiêm-chỉnh an-cư, trải qua một trăm ngày, thì những người có lợi-căn, không rời khỏi chỗ ngồi, đã được quả Tu-đà-hoàn; dầu cho nơi thân tâm thánh-quả chưa thành, nhưng đã quyết-định tự biết sẽ thành Phật, không sai-chạy. Ông hỏi về đạo-trường, thì cách dựng-lập như vậy".



THN CHÚ

PHT ĐNH TH LĂNG NGHIÊM

 

 

PHÓNG HÀO QUANG, KHP TH HIN

 

Ông A-nan đnh-l chân Pht mà bch Pht rng: "T khi xut-gia, tôi -li nơi lòng thương-yêu ca Pht; vì cu tu đa-văn, chưa chng qu vô-vi, nên b tà-thut Phm-thiên kia bt-buc; tâm tuy rõ-ràng, nhưng sc không t-do, nh gp ngài Văn-thù, khiến cho tôi được gii-thoát. Tuy tôi thm nh sc ca thn-chú Pht-đnh Như-lai, nhưng chính mình còn chưa được nghe chú y, xin nguyn đc Đi-t tuyên-nói li cho, thương-xót cu-giúp các hàng tu-hành trong Hi ny và nhng người đi sau, còn trong luân-hi, được nh mt-âm ca Pht, mà thân-ý được gii-thoát". Lúc by gi, tt-c đi-chúng trong Hi thy đu làm l, ch nghe nhng câu chú bí-mt ca Như-lai.

 

Nhĩ thi Thế Tôn, tùng nhc kế trung, dõng bách bo quang, quang trung dõng xut, thiên dip bo liên, hu hóa Như Lai, ta bo hoa trung. Ðnh phóng thp đo, bá bo quang minh, nht nht quang minh, giai biến th hin, thp Hng Hà sa, Kim cang mt tích, kình sơn trì s, biến hư không gii, Ði chúng ngưỡng quan, úy ái kiêm bão, cu Pht ai hu, nht tâm thính Pht, vô kiến đnh tướng, phóng quang Như Lai, tuyên thuyết thn chú :


( Lúc đó, đc Thế-tôn, t nơi nhc-kế phóng ra trăm th hào-quang báu, trong hào-quang hin ra hoa sen báu ngàn cánh, có hóa-thân Như-lai ngi trong hoa sen, trên đình phóng ra mười đo hào-quang bách-bo; trong mi mi đo hào-quang, đu hin ra nhng v Kim-cương mt-tích, s-lượng bng mười s cát sông Hng, xách núi, cm x, khp cõi hư-không. Đi-chúng nga lên xem, va yêu va s, cu Pht thương-xót che-ch, mt tâm nghe đc Phóng-quang Như-lai, nơi Vô-kiến-đnh-tướng ca Pht, tuyên-nói thn-chú : )



 

PHT ĐNH QUANG T

MA HA TẤT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA

TH LĂNG NGHIÊM THN CHÚ

 


РNHT

 

Nam-mô tát đát tha tô già đa da a ra ha đế tam-miu tam-b-đà-ta. Tát đát tha Pht đà cu-tri sc ni sam.

Nam-mô tát bà bt đà bt đa, tát đa b t.

Nam-mô tát đa nm tam-miu tam-b-đà cu-tri nm. Ta xá ra bà ca tăng-già nm.

Nam-mô lô kê a-la-hán đa nm.

Nam-mô tô lô đa ba na nm.

Nam-mô ta yết r đà già di nm.

Nam-mô lô kê tam-miu già đa nm. Tam miu già ba ra đ ba đa na nm.

Nam-mô đ bà ly st na.

Nam-mô tt đà da tỳ đa da đà ra ly st na. Xá ba noa yết ra ha ta ha ta ra ma tha nm.

Nam-mô bt ra ha ma ni.

Nam-mô nhơn đà ra da.

Nam-mô bà già bà đế, lô đà ra da. Ô ma bát đế, ta hê d da.

Nam-mô bà già bà đế.

Na ra d noa da. Bàn-giá ma-ha tam m đà ra.

Nam-mô tt yết r đa da.

Nam-mô bà già bà đế, ma ha ca ra da. Ða r bác lc na già ra. Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A đa mc đế. Thi ma xá na nê bà tt nê. Ma đát r già noa.

Nam-mô tt yết r đa da.

Nam-mô bà già bà đế. Ða tha già đa cu ra da.

Nam-mô bát đu ma cu na da.

Nam-mô bt xà ra cu ra da.

Nam-mô ma ni cu ra da.

Nam-mô già xà cu ra gia.

Nam-mô bà già bà đế, đế r trà du ra tây na, ba ra ha ra noa ra xà dà, đa tha già đa da.

Nam-mô bà già bà đế.

Nam-mô a di đa bà da, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam-miu tam-b-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, a sô b da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miu tam-b-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, b sa xà da cu lô ph tr r da, bát ra bà ra xà da, đa tha già đa da.

Nam-mô bà già bà đế, tam b sư bí đa, tát lân ni ra lc xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miu tam-b-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, xá kê dã mu na du, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miu tam-b-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, lc đác na kê đô ra xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miu tam-b-đà da, đế biu nam-mô tát yết r đa, ế đàm bà giá bà đa, tát đác tha già đô sc ni sam, tát đác đa bác đác lam.

Nam-mô a bà ra th đam, bác ra đế dương kỳ ra, tát ra bà b đa yết ra ha, ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bc ra bí đa da st đà n, a ca ra mt r tr, bát r đát ra da nnh yết r, tát ra bà bàn đà na mc xoa ni, tát ra bà đt sc tra đt tt php bát na n pht ra ni, gi đô ra tht đế nm, yết ra ha ta ha tát ra nhã xà, tỳ đa băng ta na yết r, a sc tra băng xá đế nm, na xoa sát đác ra nhã xà, ba ra tát đà na yết r, a sc tra nm, ma ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết r, tát bà xá đô lô n bà ra nhã xà, hô lam đt tt php nan giá na xá ni, bí sa xá tt đác ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã xà, a bát ra th đa cu ra ma ha bác ra thin trì, ma ha đip đa, ma ha đế xà, ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bt ra bàn đà ra bà tt n, a r da đa ra, tỳ r cu tri, th bà tỳ xà da, bc xà ra ma l đ, tỳ xá lô đa, bt đng dõng ca, bt xà ra chế ht na a giá, ma ra chế bà bác ra cht đa, bc xà ra thin trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá b đ bà b th đa, tô ma lô ba, ma ha thuế đa, a r da đa ra, ma ha bà ra, a bác ra, bt xà ra thương yết ra chế bà, bt xà ra cu ma r, cu lam đà r, bt xà ra hc tát đa giá tỳ đa gia kin giá na ma r ca, khut tô mu bà yết ra đá na, b lô giá na cu r da, d ra th sc ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bt xà ra ca na ca ba ra bà, lô xà na bt xà ra đn tr giá, thuế đa giá ca ma ra sát xa thi ba ra bà, ế đế di đế, mu đà ra yết noa, ta b ra sám, qut phm đô, n th na m m ta.

 

  

РNH

 

Ô hng, r st yết noa, bác lc xá tt đa, tát đát tha già đô sc ni sam. H hng, đô lô ung chiêm bà na. H hng, đô lô ung tt đam bà na. H hng, đô lô ung ba ra sc đa da tam bác xá noa yết ra. H hng, đô lô ung, tát bà dược xoa ht ra sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đng băng tát na yết ra. H hng, đô lô ung, gi đô ra thi đ nm, yết ra ha, ta ha tát ra nm, tỳ đng băng tát na ra. H hng, đô lô ung, ra xoa, bà già phm tát đát tha già đô sc ni sam, ba ra đim xà kiết r, ma ha ta ha tát ra, bt th ta ha tát ra tht r sa, cu tri ta ha tát nê đế l, a t đ th bà r đa, tra tra anh ca ma ha bt xà lô đà ra, đế r b bà na, man trà na, ô hng, ta tt đế bc bà đô, m m n th na m m ta.

 

  

РTAM

 

Ra xà bà d, ch ra bt d, a kỳ ni bà d, ô đà ca bà d, tỳ xa bà d, xá tát đa ra bà d, bà ra chước yết ra bà d, đt sc xoa bà d, a xá n bà d, a ca ra mt r tr bà d, đà ra ni b di kiếm ba già ba đà bà d, ô ra ca bà đa bà d, lc xà đàng trà bà d, na già bà d, tỳ điu đát bà d, tô ba ra noa bà d, dược xoa yết ra ha, ra xoa tư yết ra ha, tt r đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, b đa yết ra ha, cưu-bàn trà yết ra ha, b đơn na yết ra ha, ca tra b đơn na yết ra ha, tt kin đ yết ra ha, a bá tt ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa d yết ra ha, hê r bà đế yết ra ha, xã đa ha r nm, yết bà ha r nm, lô đa ra ha r nm, mang ta ha r nm, mê đà ha r nm, ma xà ha r nm, xà đa ha r n, th t đa ha r nm, tỳ đa ha r nm, bà đa ha r nm, a du giá ha r n, cht đa ha r n, đế sam tát b sam, tát bà yết ra ha nm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, ba r bt ra gi ca ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, trà din ni ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, ma ha bát du bác đát d, lô đà ra ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, na ra d noa ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, đát đa già lô trà tây ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, ma-ha ca ra ma đát r già noa ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, ca ba r ca ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, xà d yết ra, ma đ yết ra tát bà ra tha ta đt na ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, gi đt ra bà kỳ n ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, tỳ r dương ht r tri, nan đà kê sa ra dà noa bác đế, sách hê d ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, na yết na xa ra bà noa ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, a-la-hán ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, tỳ đa ra già ht r đm, t đà d xà sân đà d di, kê ra d di, bt xà ra ba n, cu hê d, cu hê d, ca đa bát đế ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, ra thoa vng, bà dà phm, n th na m m ta.

 

 

РT

 

Bà già phm, tát đát đa bác đá ra, Nam-mô tý đô đế, a tt đa na ra lc ca, ba ra bà tt ph tra, tỳ ca tát đát đa bát đế r, thp Pht ra thp Pht ra, đà ra đà ra, tn đà ra tn đà ra, sân đà sân đà. H hng. H hng, phn tra, phn tra, phn tra, phn tra, phn tra, ta ha, hê hê phn, a mâu ca da phn, a ba ra đ ha đa phn, ba ra bà ra đà phn, a t ra tỳ đà ra ba ca phn, tát bà đ b t phn, tát bà na già t phn, tát bà dược xoa t phn, tát bà kin thát bà t phn, tát bà b đơn na t phn, ca tra b đơn na t phn, tát bà đt lang ch đế t phn, tát bà đt sáp t lê ht sc đế t phn, tát bà thp bà lê t phn, tát bà a bá tt ma lê t phn, tát bà xá ra bà noa t phn, tát bà đa đế kê t phn, tát bà đát ma đà kê t phn, tát bà tỳ đà da ra th giá lê t phn, xà d yết ra ma đ yết ra, tát bà ra tha ta đà kê t phn; tỳ đa d giá lê t phn, gi đô ra phược kỳ n t phn, bt xà ra cu ma r, tỳ đà d ra th t phn, ma ha ba ra đinh dương xoa tỳ r t phn, bt ra xa thương yết ra d, ba ra trượng kỳ ra xà da phn, ma ha ca ra d, ma ha mt đát r ca noa.

 

Nam-mô ta yết r đa d phn, t sc noa tỳ du phn, bt ra ha mâu ni du phn, a kỳ ni du phn, ma ha yết r du phn, yết ra đàn trì du phn, mic đát r du phn, lao đát r du phn, giá văn trà du phn, yết la ra đát r du phn, ca bác r du phn, a đa mc cht đa ca thi ma xá na, bà tư n du phn, din kiết cht, tát đa bà ta, m m n th na m m ta.

 

  

РNGŨ

 

Ðt sc tra cht đa, a mt đát r cht đa, ô xà ha ra, già bà ha ra, lô đa ra ha ra, ta bà ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, th t đa ha ra, bc lược d ha ra, kin đà ha ra, b s ba ha ra, ph ra ha ra, bà ta ha ra, bác ba cht đa, đt sc tra cht đa, lao đà ra cht đa, dược xoa yết ra ha, ra sát ta yết ra ha, bế l đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, b đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tt kin đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa d yết ra ha, a bá tt ma ra yết ra ha, trch khê cách trà kỳ ni yết ra ha, r Pht đế yết ra ha, xà di ca yết ra ha, xá cu ni yết ra ha, lao đà ra nan đa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha, kin đ ba ni yết ra ha, thp Pht ra yên ca hê ca, try đế dược ca, đát l đế dược ca, gi đt thác ca, ni đ thp pht ra, t sam ma thp pht ra, bc đ ca, t đ ca, tht l st mt ca, ta n bác đế ca, tát bà thp pht ra, tht lô kiết đế, mt đà b đt lô chế kiếm, a  lô kim, mc khê lô kim, yết r đt lô kim, yết ra ha yết lam, yết na du lam, đn đa du lam, ht r d du lam, mt m du lam, bt r tht bà du lam, t lt sc tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri du lam, bt tt đế du lam, ô lô du lam, thường già du lam, hc tt đa du lam, bt đà du lam, ta phòng án già bác ra trượng già du lam, b đa t đa trà, trà kỳ ni thp bà ra, đà đt lô ca kiến đt lô kiết tri, bà l đa tỳ, tát bác lô, ha lăng già, du sa đát ra, ta na yết ra, tỳ sa d ca, a kỳ ni ô đà ca, mt ra b ra, kiến đa ra, a ca ra mt r đt đát lim b ca, đa lt lc tra, t r sc cht ca, tát bà na cu ra, t dn già t yết ra, r dược xoa, đác ra sô, mt ra th ph đế sam, ta b sam, tt đát đa bác đát ra, ma ha bc xà lô sc ni sam, ma ha bác lc trượng kỳ lam, d ba đt đà xá d xà na, bin đát l noa, tỳ đà da bàn đàm ca lô di, đế thù bàn đàm ca lô di, bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di, đác đic tha.

 

Án, a na l, tỳ xá đ, b ra bt xà ra đà r, bàn đà bàn đà n, bt xà ra bán ni phn. H hng, đô lô ung phn, ta bà ha.

 

 

THẬP PHƯƠNG NHƯ LAI NHÂN CHÚ TÂM NẦY,

THÀNH ĐƯỢC VÔ THƯỢNG CHÁNH BIẾN TRI GIÁC


 

"A-nan, nhng câu nhim-mu, nhng k bí-mt "Tt-đát-đa-bát-đát-ra" ca hóa-thân nơi hào-quang đnh-Pht, sinh ra tt-c chư Pht thp phương. Thp phương Như-lai nhân chú-tâm ny, thành được Vô-thượng-chính-biến-tri-giác. Thp phương Như-lai nm chú-tâm ny, un-dp các ma, chế-phc các ngoi-đo. Thp phương Như-lai vn chú-tâm ny, ngi hoa sen báu, ng-hin trong các cõi-nước như s vi-trn. Thp phương Như-lai ngm chú-tâm ny, nơi cõi-nước như s vi-trn, xoay bánh xe Pháp ln. Thp phương Như-lai gi chú-tâm ny, có th nơi mười phương xoa đnh th-ký, t mình qu-v chưa thành, cũng có th nơi mười phương nh chư Pht th-ký. Thp phương Như-lai nương chú-tâm ny, có th nơi mười phương cu-vt các kh như đa-ngc, ng-qu, súc-sinh, đui, điếc, ngng, câm; các kh oán-tăng-hi, ái-bit-ly, cu-bt-đc, ngũ-m-xí-thnh; nhng tai-nn ln nh đng-thi được gii-thoát; nn gic, nn binh, nn vua, nn ngc, nn gió, la, nước, cho đến đói-khát bn-cùng, lin được tiêu-tan. Thp phương Như-lai theo chú-tâm ny, có th nơi mười phương, phng-s thin-tri-thc, trong bn uy-nghi, cúng-dường được như-ý; trong Pháp-hi hng-sa Như-lai, được suy-tôn là v Đi-pháp-vương-t. Thp phương Như-lai dùng chú-tâm ny, có th nơi mười phương, nhiếp-th các nhân-thân, khiến cho các hàng Tiu-tha nghe tng bí-mt, không sinh lòng kinh-s. Thp phương Như-lai tng chú-tâm ny, thành-đo Vô-thượng-giác, ngi dưới cây B, vào Đi-niết-bàn. Thp phương Như-lai truyn chú-tâm ny, sau khi dit-đ ri, phó-chúc Pháp-s ca Pht, được tr-trì rt-ráo; gii-lut nghiêm-tnh, thy đu trong-sch."

"Nếu tôi nói chú "Pht-đnh-quang-t bát-đát-ra" ny, t sáng đến ti, các tiếng ni nhau, trong đó nhng ch, nhng câu cũng không trùng-đip, tri qua kiếp-s như cát sông Hng, rt-cuc không th hết được. Chú ny cũng gi tên là Như-lai-đnh."

"Hàng hu-hc các ông chưa hết luân-hi, phát-lòng chí-thành tu chng qu A-la-hán, nếu không trì-chú ny, khi ngi đo-trường, mà khiến thân tâm xa-ri được các ma-s, thì không th được.

A-nan, nếu trong các thế-gii, có nhng chúng-sinh, tùy cõi-nước mình sinh ra, nào v cây hóa, nào lá cây bi, nào giy trng, nào bch-dip, dùng đ viết-chép chú ny, đng trong túi thơm; nếu người đó ti-tăm chưa tng, chưa nh được, mà hoc đeo trên mình, hoc viết trong nhà , thì nên biết ngườy, trn đi tt-c các th đc không th hi được.

A-nan, nay tôi vì ông tuyên li chú ny, cu-giúp trong thế gian được đi-vô-úy và thành-tu trí xut-thế-gian cho chúng-sinh.

Nếu sau khi tôi dit-đ ri; chúng-sinh trong đi mt-pháp, có người biết t mình tng, hoc dy người khác tng-chú ny, nên biết nhng chúng-sinh trì-tng như vy, la không đt được, nước không đm được, đc ln, đc nh không th hi được, cho đến các hàng thiên, long, qu, thn, tinh, kỳ, ma, m, có nhng chú-d, đu không làm gì được. Tâm ngườy được chính-th; tt-c chú-tr, ym-c, thuc-đc, kim-đc, ngân-đc và đc-khí muôn vt như c, cây, sâu, rn, vào ming ngườy đu thành v cam-l. Tt-c ác-tinh vi các qu-thn, lòng d hi người, đi vi ngườy, cũng không th khi ra ác-nim; Tn-na, D-ca và các qu-vương d khác, cùng vi quyến-thuc, đu lĩnh-ơn sâu, thường gìn-gi ng-h.

A-nan, nên biết chú ny, thường có 84.000 na-do-tha hng-hà-sa câu-chi chng-tc Kim-cương-tng-vương B-tát, mi mi đu có nhng chúng Kim-cương làm quyến-thuc, ngày đêm theo hu. Gi-s có chúng-sinh, vi tâm tán-lon, ch không phi Tam-ma-đ, tâm nh nim-trì chú ny; thì các Kim-cương-vương đó, cũng thường theo bên thin-nam-t kia, hung na, là nhng người có tâm B quyết-đnh; đi vi nhng người ny, các v Kim-cương-tng-vương B-tát đó, dùng tnh-tâm thm xúc-tiến, phát-huy thn-thc; ngườy lin khi đó, tâm nh li được 84.000 hng-ha-sa kiếp, rõ-biết cùng khp, được không nghi-hoc. T kiếp th nht cho đến thân cui-cùng, đi đi ngườy không sinh vào các loài dược-xoa, la-sát, phú-đan-na, ca-tra-phú-đan-na, cưu-bàn-trà, tỳ-xá-già, vân vân..., cùng các loài ng-qu, có hình, không hình, có tưởng, không tưởng và nhng ch d như thế. Thin-nam-t đó, hoc đc, hoc tng, hoc viết, hoc chép, hoc đeo, hoc gi, hoc cúng-dường nhiu cách chú ny, thì kiếp kiếp không sinh vào nhng nơi bn-cùng h-tin, không th ưa-thích.

Các chúng-sinh đó, dù cho chính mình không làm vic phúc, thp phương Như-lai có các công-đc đu cho h hết, do đó, h được trong nhng kiếp hng-sa vô-s, không th nói, không th nói hết, thường cùng chư Pht đng sinh mt ch; vô-lượng công-đc nhóm-li như trái ác-xoa, đng mt ch huân-tu, hng không phân-tán. Vy nên, có th khiến người phá gii, mà gii-căn cũng được thanh-tnh; người chưa được gii, khiến cho được gii; người chưa tinh-tiến, khiến cho tinh-tiến; người không trí-tu, khiến được trí-tu; người không thanh-tnh, mau được thanh-tnh; người không gi trai-gii, t thành có trai-gii. A-nan, thin-nam-t y, khi trì-chú ny, gi-s có phm cm-gii khi chưa th-trì, thì sau khi trì-chú, các ti phá gii, không lun nng nh, mt thi, đu tiêu-dit, dù đã ung rượu, ăn th ngũ tân và các th không sch, tt-c chư Pht, B-tát, Kim-cương, Thiên-tiên, Qu-thn không cho là có li; dù mc y-phc rách-nát không sch, thì mt cái đi, mt cái đng, thy đng như thanh-tnh; dù không lp đàn, không vào đo-trường, cũng không hành-đo mà tng-trì chú ny, thì công-đc cũng như vào đàn, hành-đo, không có khác vy; dù gây nhng ti nng ngũ-nghch, vô-gián và phm nhng ti t-khí, bát-khí ca t-khưu và t-khưu-ni, thì khi tng-chú ny ri, cũng như gió mnh thi-tan đng cát, nhng nghip nng như vy, đu dit-tr hết, không còn chút my-may. 

 

 

TNG TÂM CHÚ TH LĂNG NGHIÊM 

CHẲNG BAO LÂU CHNG ĐƯỢC VÔ SANH PHÁP NH

MC Ý LÀM VÔ BIÊN PHT S

 

A-nan, nếu có chúng-sinh, t vô-lượng vô-s kiếp đến nay, có tt-c nhng ti-chướng nh, nng mà trong các đi trước, chưa kp sám-hi, nếu biết đc, tng, viết, chép chú ny, gi đeo trên thân mình hay đ nơi ch , như trang, trch, viên, quán, thì nhng nghip cha-nhóm t trước như vy, đu tiêu-tan như nước sôi tiêu tuyết, chng bao lâu, đu ng được vô-sinh-nhn.

"Li na, A-nan, nếu có người đàn-bà chưa sinh con trai, con gái, mong-cu có thai, mà biết chí-tâm nh nim-chú, ho trên mình đeo chú Tt-đát-đa-bát-đát-ra ny, thì lin sinh nhng con trai, con gái có phúc-đc trí-tu; người cu sng lâu, thì được sng lâu, người cu qu-báo mau được viên-mãn, thì mau được viên-mãn, cho đến v thân-mnh, sc-lc, thì cũng được viên-mãn như vy; sau khi mnh-chung, tùy nguyn được vãng-sinh trong thp phương quc-đ, chc-chn không sinh nơi biên-đa h-tin, hung na là các tp-hình.

"A-nan, nếu các cõi-nước, các châu, các huyn, các làng-xóm b nn đói-kém, dch-l, ho nhng nơi có đao-binh, tc-nn, đánh nhau, cãi nhau và tt-c nhng nơi có ách-nn khác, viết thn-chú ny, đ trên bn ca thành, cùng các tháp hay trên các thoát-xà và khiến chúng-sinh hin có trong cõi-nước, kính-rước chú ny, l-bái cung-kính nht-tâm cúng-dường, khiến trong nhân-dân, mi mi người đeo chú trong mình, hoc đ nơi ch , thì tt-c tai-ách thy đu tiêu-dit. A-nan, chúng-sinh trong cõi-nước, ch nào, ch nào có được chú ny, thì thiên-long vui-mng, mưa-gió thun-thi, ngũ-cc được mùa, dân-chúng an-vui; li có th trn được tt-c ác-tinh, nó tùy nơi, biến ra nhng điu quái-d; tai-chướng không khi lên, người không honh-t, chết-yu, gông-cùm, xing-xích không dính vào mình, ngày đêm ng yên, thường không ác-mng. A-nan, cõi Sa-bà ny có 84.000 ác-tinh tai-biến, 28 đi-ác-tinh làm thượng-th, li có 8 đi-ác-tinh làm ch, xut-hin trên đi vi nhiu hình-trng, có th sinh ra các tai-nn d-kỳ cho chúng-sinh; ch nào có chú này, thì tt-c đu tiêu-dit, ly 12 do-tun làm vòng kết-gii, các tai-biến hung-d, hn không th vào được.

"Vy nên Như-lai tuyên-dy chú ny, bo-h cho nhng người tu-hành sơ-hc, trong đi v-lai, vào Tam-ma-đ, thân tâm thư-thái, được đi-an-n, không còn tt-c các ma, qu-thn, và nhng oan-khiên đi trước, nghip cũ, n xưa, t vô-thy ti nay, đến khuy-hi nhau. Ông vi nhng người hu-hc trong chúng và nhng k tu-hành đi v-lai, y như li-dy ca tôi mà lp đàn-trường, đúng theo pháp mà trì-gii, gp được tăng-chúng thanh-tnh ch-trì vic th-gii, đi vi chú-tâm ny, không sinh lòng nghi-hi; nhng thin-nam-t như thế, chính nơi cái thân cha m sinh ra, mà không được tâm-thông, thì thp phương Như-lai bèn là vng-ng".

 

 

CHƯ V THIN THN KHÔNG NHP NIT BÀN

PHÁT NGUYN BO H NGƯỜI TRÌ CHÚ MAU THÀNH ĐO BỒ Đ

 

 

Pht dy ly ri, vô-lượng trăm ngàn Kim-cương trong Hi, mt thi đng trước Pht, chp tay đnh-l mà bch Pht rng: "Như li Pht dy, chúng tôi phi thành tâm bo-h nhng người tu-đo B như vy".

Khi by gi, Phm-vương và Thiên-đế-thích, T-thiên đi-vương cũng  trước Pht, đng-thi đnh-l mà bch Pht rng: "Xét có người lành tu-hc như vy, chúng tôi phi hết lòng chí-thành bo-h, khiến cho trong mt đi, tu-hành được như nguyn".

Li có, vô-lượng Đi-tướng-dược-xoa, các vua La-sát, vua Phú-đan-na, vua Cưu-bàn-trà, vua Tỳ-xá-già, các Đi-qu-vương như Tn-na, D-ca, và các Qu-xoái, cũng  trước Pht, cht tay đnh-l mà bch Pht rng: "Chúng tôi cũng th-nguyn h-trì cho người đó, khiến cho tâm B mau được viên-mãn".

Li có, không lường Nht, Nguyt thiên-t, Phong-sư, Vũ-sư, Vân-sư, Lôi-sư cùng vi Đin-bá và các Niên-tuế-tun-quan, chư tinh và quyến-thuc, vân vân..., cùng  trong Hi, đnh-l chân Pht mà bch Pht rng: "Chúng tôi bo-h người tu-hành y, lp ra đo-trường, được không e-s".

Li có, vô-lượng Sơn-thn, Hi-thn, tt-c tinh-kỳ, đt-đai muôn vt, thy, lc, không, hành, vi Phong-thn-vương và Chư-thiên Vô-sc-gii,  trước Như-lai, đng-thi cúi đu bch Pht rng: "Chúng tôi cũng bo-h người tu-hành y, được thành B, hn không ma-s".

Khi by gi, 84.000 na-do-tha hng-hà-sa Câu-chi Kim-cương-tng-vương B-tát,  trong đi Hi, lin t ch ngi đng dy, đnh-l nơi chân Pht mà bch Pht rng: "Thế-tôn, như bn chúng tôi, công-nghip tu-hành, đã thành đo B lâu ri, mà không nhn-ly Niết-bàn, thường theo chú ny, cu-giúp nhng người chân-chính tu-hành pháp Tam-ma-đ trong đi mt-pháp. Bch Thế-tôn, nhng người tu-tâm vào chính đnh như thế, dù  đo-trường, hay là nhng lúc kinh-hành, cho đến khi tán-tâm đi chơi trong làng-xóm, đ-chúng chúng tôi thường phi đi theo th-v ngườy, dù cho Ma-vương, Đi-t-ti-thiên mun được phương-tin khuy-phá, cũng không th được; các qu-thn nh, phi cách xa người lành y, ngoài 10 do-tun, tr khi, h phát-tâm thích người tu-thin. Bch Thế-tôn, nhng ác-ma như thế, hay quyến-thuc ca ma, mun đến xâm-ln khuy-phá người lành y, chúng tôi dùng bo-x đp-nát cái đu như vi-trn, thường khiến cho ngườy tu-hành được như nguyn."



HAI CÁI NHÂN ĐIÊN ĐẢO

 

 

Ông A-nan, liền t ch ngi đng dy đnh-l nơi chân Pht mà bch Pht rng: "Chúng tôi ngu-đn, ưa tu đa-văn, đi vi các tâm hu-lu, chưa cu thoát-ly, nh Pht t-bi dy-bo được li huân-tu chân-chính, thân tâm khoan-khoái, được li-ích ln. Bch Thế-tôn, nhng người tu-chng pháp Tam-ma-đ ca Pht như thế, chưa đến Niết-bàn, thì thế nào gi là Càn-tua, trong 44 tâm, đến th-bc nào, mi được danh-mc tu-hành, đến phương-s nào, mi gi là nhp-đa, thế nào, gi là Đng-giác B-tát?" Nói lrồi, năm vóc gieo xung đt, trong đi-chúng đu nht-tâm, chăm-ch mong-đi t-âm ca Pht.

 

Khi bấy gi, đc Thế-tôn khen ông A-nan rng: "Hay thay! Hay thay! Các ông li biết, vì c đi-chúng và hết thy chúng-sinh tu Tam-ma-đ, cu pháp Đi-tha trong đời mt-pháp, xin tôi ch trước đường tu-hành vô-thượng chân-chính t phàm-phu đến Đi-niết-bàn; nay ông hãy nghe cho chín, tôi s vì ông mà nói".

 

Ông A-nan và đại-chúng chp tay sch lòng, yên-lng th-giáo.

 

Phật dy: "A-nan, nên biết diu-tính là viên-minh, rời các danh-tướng, bn-lai không có thế-gii chúng-sinh. Nhân cái vng mà có sinh, nhân cái sinh mà có dit, sinh-dit gi là vng, dit vng gi là chân, y gi là hai hiu chuyn-y vô-thượng B và Đi-niết-bàn ca Như-lai.

A-nan, nay ông muốn tu pháp Chân-tam-ma-đề, đến thng Đi-niết-bàn ca Như-lai, trước hết, phi biết hai cái nhân điên-đo ca thế-gii và chúng-sinh ny; điên-đo không sinh, đó là Chân-tam-ma-đ ca Như-lai.

A-nan, thế nào gi là điên-đo v chúng-sinh? Do cái tâm bn-tính là minh và tính-minh ấy viên-mãn cùng khp, nên nhân tính-minh phát ra hình-như có tính; mà vng-kiến nhn là có tính sinh ra, t ch rt-ráo là không, li thành rt-ráo là có. Có cái s-hu như thế, là do phi-nhân làm nhân và nhng tướng năng-tr, s-tr rt-ráo không có ci-gc. Ri gc nơi cái vô-tr đó, mà kiến-lp ra thế-gii và các chúng-sinh.

Vì mê, không nhận được tính viên-minh sn có, nên sinh ra hư-vng, tính hư-vng không có t-th, không phi tht có ch nương-đng. Hu mun tr li chân-tính, thì cái muốn chân đó, đã không phi là tính chân-như chân-tht. Cu tr li không đúng chân-lý, thì hin-thành ra nhng phi-tướng: không phi sinh gi rng sinh, không phi tr gi rng tr, không phi tâm gi rng tâm, không phi pháp gi rng pháp.

Xoay-vần phát-sinh và sinh-lc phát-huy, huân-tp thành ra nghip-báo; đng-nghip thì cm vi nhau, nhân đó, li cm ra các nghip dit nhau, sinh nhau, do đó, mi có điên-đo v chúng-sinh.

A-nan, thế nào gi là điên-đo v thế-gii? Do có cái s-hu đó, nên từng phn, tng đon gi-di sinh ra, vì thế, mà không-gian thành-lp; do phi-nhân làm nhân, không có năng-tr, s-tr, nên di-đi mãi, không có năng-tr, s-tr, nên di-đi mãi, không an-tr, vì thế, mà thi-gian thành-lp. Ba đi bn phương, hòa-hcan-thiệp cùng nhau, chúng-sinh biến-hóa thành 12 loài. Vy nên trong thế-gii, nhân đng có tiếng, nhân tiếng có sc, nhân sc có hương, nhân hương có xúc, nhân xúc có v, nhân v biết pháp, sáu vng-tưởng càn-lon thành ra nghip-tính, do đó, 12 cách đi-hiện xoay-vn mãi mãi. Vy nên trong thế-gian, nhng thanh, hương, v, xúc biến-đi cùng-tt, đến 12 ln xoay tr li.



MƯỜI HAI LOI CHÚNG SINH

 

 

Da trên nhng tướng điên-đo, xoay-vn đó, nên trong thế-gii có nhng loài noãn-sinh, thai-sinh, thp-sinh, hóa-sinh, hu-sc, vô-sc, hu-tưởng, vô-tưởng, hoc phi-hu-sc, hoc phi-vô-sc, hoc phi-hu-tưởng, hoc phi-vô-tưởng.

A-nan, nhân trong thế-gii có hư-vng luân-hi, điên-đo v đng, nên hòa-hp vi khí, thành ra 84.000 lon-tưởng bay-ln, vì vy, nên có mm-trng trôi-lăn trong cõi-nước; cá, chim, rùa, rn, các loài đy-nhy.

Nhân trong thế-gii có tp-nhim luân-hi, điên-đo v dc, nên hòa-hp vi tư, thành ra 84.000 lon-tưởng ngang dc; vì vy, nên có bc-thai trôi-lăn trong cõi-nước; người, súc, rng, tiên, các loài đy-nhy.

Nhân trong thế-gii có chp-trước luân hi, điên-đo v thú, nên hòa-hp vi noãn, thành ra 84.000 lon-tưởng nghiêng-nga vì vy, nên có tế-thi thp-sinh trôi-lăn trong cõi-nước; nhung-nhúc, quy-đng, các loài đy-nhy.

Nhân trong thế-gii có biến-dch luân-hi, điên-đo v gi, nên hòa-hp vi xúc, thành ra 84.000 lon-tưởng mi cũ; vì vy, nên có yết-nam hóa-sinh trôi-lăn trong cõi-nước; chuyn-thoái, phi-hành, các loài đy-nhy.

Nhân trong thế-gii có lưu-ngi luân-hi, điên-đo v chướng, nên hòa-hp vi trước, thành ra 84.000 lon-tưởng tinh-diu; vì vy, nên có yết-nam sc-tướng trôi-lăn trong cõi-nước; hưu-cu, tinh-minh, các loài đy-nhy.

Nhân trong thế-gii có tiêu-tán luân-hi, điên-đo v hoc, nên hòa-hp vi ám, thành ra 84.000 lon-tưởng thm-n, vì vy, nên có yết-nam vô-sc trôi-lăn trong cõi nước; không tán tiêu trm, các loi đy-nhy.

Nhân trong thế-gii có võng-tượng luân-hi, điên-đo v nh, nên hòa-hp vi c, thành ra 84.000 lon-tưởng tim-kết; vì vy, nên có yết-nam hu-tưởng trôi-lăn trong cõi-nước; thn-qu tinh-linh, các loài đy-nhy.

Nhân trong thế-gii có ngu-đn luân-hi, điên-đo v si, nên hòa-hp vi ngoan, thành ra 84.000 lon-tưởng khô-co; vì vy, nên có yết-nam vô-tưởng trôi-lăn trong cõi-nước; tinh-thn hóa làm đt, cây, vàng, đá, các loài đy-nhy.

Nhân trong thế-gii có tương-đãi luân-hi, điên-đo v ngy, nên hòa-hp vi nhim, thành ra 84.000 lon-tưởng nhân-y; vì vy, nên có yết-nam, không phi có sc mà có sc, trôi-lăn trong cõi-nước; nhng ging thy-mu, dùng tôm làm mt, các loài đy-nhy. 

Nhân trong thế-gii có tương-đn luân-hi, điên-đo v tính, nên hòa-hp vi chú, thành ra 84.000 lon-tưởng hô-triu; vì vy, nên có yết-nam, không phi vô-sc mà vô-sc, trôi-lăn trong cõi-nước, chú-tr, yếm-sinh, các loài đy-nhy.

Nhân trong thế-gii có hp-vng luân-hi, điên-đo v võng, nên hòa-hp vi d, thành ra 84.000 lon-tưởng hi-h; vì vy, nên có yết-nam, không phi có tưởng mà có tưởng, trôi-lăn trong cõi-nước; nhng ging tò-vò, mượn cht khác thành cái thân ca mình, các loài đy-nhy.

Nhân trong thế-gii có oán-hi luân-hi, điên-đo v sát, nên hòa-hp vi quái, thành ra 84.000 tư-tưởng ăn tht cha-m; vì vy, nên có yết-nam, không phi vô-tưởng mà vô-tưởng, trôi-lăn trong cõi-nước; như con th-kiêu, p khi đt làm con, và chim phá-kính; p qu cây-đc làm con, con ln lên, thì cha m đu b chúng ăn tht, các loài đy-nhy.

y gi là mười hai chng-loi chúng-sinh.

Comments

Popular posts from this blog