MƯỜI HAI LOẠI CHÚNG SINH
Dựa trên những tướng điên-đảo, xoay-vần đó, nên trong thế-giới
có những loài noãn-sinh, thai-sinh, thấp-sinh, hóa-sinh, hữu-sắc, vô-sắc,
hữu-tưởng, vô-tưởng, hoặc phi-hữu-sắc, hoặc phi-vô-sắc, hoặc phi-hữu-tưởng,
hoặc phi-vô-tưởng.
A-nan, nhân trong thế-giới có hư-vọng luân-hồi, điên-đảo về
động, nên hòa-hợp với khí, thành ra 84.000 loạn-tưởng bay-lặn, vì vậy, nên có
mầm-trứng trôi-lăn trong cõi-nước; cá, chim, rùa, rắn, các loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có tạp-nhiễm luân-hồi, điên-đảo về dục, nên
hòa-hợp với tư, thành ra 84.000 loạn-tưởng ngang dọc; vì vậy, nên có bọc-thai
trôi-lăn trong cõi-nước; người, súc, rồng, tiên, các loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có chấp-trước luân hồi, điên-đảo về thú, nên
hòa-hợp với noãn, thành ra 84.000 loạn-tưởng nghiêng-ngửa vì vậy, nên có tế-thi
thấp-sinh trôi-lăn trong cõi-nước; nhung-nhúc, quậy-động, các loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có biến-dịch luân-hồi, điên-đảo về giả, nên
hòa-hợp với xúc, thành ra 84.000 loạn-tưởng mới cũ; vì vậy, nên có yết-nam
hóa-sinh trôi-lăn trong cõi-nước; chuyển-thoái, phi-hành, các loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có lưu-ngại luân-hồi, điên-đảo về chướng,
nên hòa-hợp với trước, thành ra 84.000 loạn-tưởng tinh-diệu; vì vậy, nên có
yết-nam sắc-tướng trôi-lăn trong cõi-nước; hưu-cửu, tinh-minh, các loài
đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có tiêu-tán luân-hồi, điên-đảo về hoặc, nên
hòa-hợp với ám, thành ra 84.000 loạn-tưởng thầm-ẩn, vì vậy, nên có yết-nam
vô-sắc trôi-lăn trong cõi nước; không tán tiêu trầm, các loại đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có võng-tượng luân-hồi, điên-đảo về ảnh, nên
hòa-hợp với ức, thành ra 84.000 loạn-tưởng tiềm-kết; vì vậy, nên có yết-nam
hữu-tưởng trôi-lăn trong cõi-nước; thần-quỷ tinh-linh, các loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có ngu-độn luân-hồi, điên-đảo về si, nên
hòa-hợp với ngoan, thành ra 84.000 loạn-tưởng khô-cảo; vì vậy, nên có yết-nam
vô-tưởng trôi-lăn trong cõi-nước; tinh-thần hóa làm đất, cây, vàng, đá, các
loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có tương-đãi luân-hồi, điên-đảo về ngụy, nên
hòa-hợp với nhiễm, thành ra 84.000 loạn-tưởng nhân-y; vì vậy, nên có yết-nam,
không phải có sắc mà có sắc, trôi-lăn trong cõi-nước; những giống thủy-mẫu,
dùng tôm làm mắt, các loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có tương-đẫn luân-hồi, điên-đảo về tính, nên
hòa-hợp với chú, thành ra 84.000 loạn-tưởng hô-triệu; vì vậy, nên có yết-nam,
không phải vô-sắc mà vô-sắc, trôi-lăn trong cõi-nước, chú-trớ, yếm-sinh, các
loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có hợp-vọng luân-hồi, điên-đảo về võng, nên
hòa-hợp với dị, thành ra 84.000 loạn-tưởng hồi-hỗ; vì vậy, nên có yết-nam,
không phải có tưởng mà có tưởng, trôi-lăn trong cõi-nước; những giống tò-vò,
mượn chất khác thành cái thân của mình, các loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có oán-hại luân-hồi, điên-đảo về sát, nên
hòa-hợp với quái, thành ra 84.000 tư-tưởng ăn thịt cha-mẹ; vì vậy, nên có
yết-nam, không phải vô-tưởng mà vô-tưởng, trôi-lăn trong cõi-nước; như con
thổ-kiêu, ấp khối đất làm con, và chim phá-kính; ấp quả cây-độc làm con, con
lớn lên, thì cha mẹ đều bị chúng ăn thịt, các loài đầy-nhẩy.
Ấy gọi là mười hai chủng-loại chúng-sinh.
MƯỜI HAI LOẠI CHÚNG SINH
KINH VĂN:
乘 此 輪 轉 顚 倒 相故。是有世界卵生、胎生、濕生、化生、有色、無色、有想、無想、若非有色、若非無色、若非有想、若 非 無想。
Thừa thử luân-chuyển, điên-đảo tương-cố, thị hữu thế-giới, noãn sanh thai sanh, thấp sanh hóa sanh, hữu-sắc, vô-sắc, hữu-tưởng, vô-tưởng, nhược phi hữu-sắc, nhược phi vô-sắc, nhược phi hữu-tưởng, nhược phi vô-tưởng.
VIỆT DỊCH:
Dựa theo những tướng điên đảo xoay vần đó, nên trong thế giới có các loài noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, hoặc phi hữu sắc, hoặc phi vô sắc, hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng.
GIẢNG GIẢI:
Dựa theo những tướng điên đảo xoay vần đó.
Tác động qua lại của sáu trần và mười hai loại chúng sinh nên hình thành những điên đảo, nên trong thế giới có các loài noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, đấy là bốn loại sinh.
Có 4 duyên cần thiết để sinh từ trứng (NOÃN SINH):
1. Cha
2. Mẹ
3. Nghiệp căn
4. Hơi ấm.
Có 3 duyên để THAI SINH:
1. Cha
2. Mẹ
3. Nghiệp căn
Có 2 duyên cần thiết của THẤP SINH:
1. Nghiệp căn
2. Khí ẩm thấp.
Về HÓA SINH thì chỉ cần 1 duyên:
1. Đó là nghiệp căn.
Tùy vào nghiệp thức, các chúng sinh hóa sinh theo ý muốn, họ có thể biến, hiện cõi này, cõi nọ. Bốn loại chúng sinh: hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, hoặc phi hữu sắc.
Các chúng sinh này không phải là có sắc, cũng không phải là không có sắc. Hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng, đấy không phải là có tưởng, hoặc không có tưởng. Đấy là mười hai loại chúng sinh. Vì thời gian có hạn nên không thể giảng rộng, tôi chỉ nêu đại ý như vậy.
1) NOÃN SINH
KINH VĂN:
阿難。由因世界 虛妄輪迴 動顚倒故。和合氣成八萬四千 飛沈亂想。如是故有 卵羯邏藍。流 轉 國 土。魚鳥龜蛇。其類充塞。
A-Nan! Do nhân thế-giới, hư-vọng luân-hồi, động điên-đảo cố, hòa-hiệp khí thành bát vạn tứ thiên, phi trầm loạn tưởng, như thị cố hữu, noãn yết-la-lam, lưu chuyển quốc-độ, ngư điểu quy xà, lỳ loại sung-tắc.
VIỆT DỊCH:
A-Nan, do vì thế giới có hư vọng luân hồi, điên đảo về động nên hòa hợp với khí, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng bay lặn, vì vậy nên có mầm trứng trôi lăn trong các cõi nước: cá, chim, rùa, rắn, rất nhiều các loại.
GIẢNG GIẢI:
A-Nan, do vì thế giới có hư vọng luân hồi, điên đảo về động.
Chúng ta đã biết vọng khởi không phải là chân tánh, và từ Vô minh hữu hiện cả Tam tế, lục thô, thành ra hư vọng nối tiếp nhau trong vòng luân hồi bất tuyệt. Nghiệp là do động, và từ động sinh ra điên đảo, nên hòa hợp với khí, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng bay lặn.
“Khí” là tạo tác của nghiệp. “Tưởng bay”, chỉ chung các loài chim khác. “Tưởng lặn”, chỉ loài bò sát, lưỡng cư. Vì vậy do các tưởng nên có mầm trứng.
“Mầm” trong tiếng Sanskrit là YẾT LA LAM, có nghĩa là “KẾT ĐÔNG LẠI”, TỨC LÀ NHÓM TRỨNG ĐƯỢC THỌ SANH LÚC ĐẦU. Sinh từ trứng là do tưởng và 4 DUYÊN như đã nói qua. Những mầm ấy trôi lăn trong các cõi nước: cá, chim, rùa, rắn.
Chúng có rất nhiều và ở khắp nơi. Cá lội trong nước, chim bay trên không, và ếch nhái, là loài lưỡng cư, sống được trên cạn và dưới nước. Các loài bò sát khác như rắn, rùa, rất nhiều các loại trên mặt đất.
2) THAI SINH
KINH VĂN:
由因世界 雜染輪迴 欲顚倒故。和合滋成 八萬四千橫 豎 亂 想。如是故有胎遏蒲曇。流 轉 國 土。人畜龍仙。其類充塞。
Do nhân thế-giới, tạp nhiễm luân-hồi, dục điên-đảo cố, hòa-hiệp tư thành, bát vạn tứ thiên, hoành thụ loạn-tưởng, như thị cố hữu, thai ác-bồ-đàm, lưu-chuyển quốc-độ, nhân súc Tiên long, kỳ loại sung-tắc.
VIỆT DỊCH:
Nhân trong thế giới có tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về dục, nên hòa hợp với tư, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng ngang dọc, như vậy nên có bọc thai trôi lăn trong cõi nước – người, súc, rồng, tiên, rất nhiều các loại.
GIẢNG GIẢI:
Đoạn này bàn về thai sinh. Thai sinh là do lòng dục. Sự ái dục sẽ làm thành bào thai. Loài người, thú, rồng, và tiên đều sinh theo cách này. Nhân trong thế giới có tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về dục.
“Tạp nhiễm” là bất tịnh, không trong sạch, hỗn tạp, “luân hồi” là XOAY VẦN TRONG sáu nẻo, hoặc làm người, làm súc vật, làm rồng, làm tiên – đều do dục tưởng và ham muốn thành điên đảo.
Điên đảo là hành vi trái luật, hoặc không theo đúng pháp. Chính vì lòng dục nên hòa hợp với tư, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng ngang dọc. “Tư” LÀ TƯ TƯỞNG HAM MUỐN ÁI DỤC, như vậy nên có bọc thai trôi lăn trong cõi nước – người, súc, rồng, tiên, rất nhiều các loại.
Sinh từ thai – đây là động vật có vú, hình thành do ái dục và ba điều kiện: cha, mẹ và nghiệp nhân. “Bọc thai” tiếng Sanskrit LÀ “YẾT-BỔ-ĐÀM”, tức là bọc trứng bắt đầu phát triển từ tuần lễ thứ hai. Các loài người, thú, rồng, tiên có nhiêu các nơi trên mặt đất.
3) THẤP SINH
KINH VĂN:
由因世界 執 著 輪 迴。趣顚倒故。和 合 煖 成 八萬四千 翻 覆 亂 想。如是故有 濕相 蔽尸。流 轉國 土。含蠢 蝡 動。其類充塞。
Do nhân thế-giới, chấp-trước luân-hồi, thù điên-đảo cố, hòa-hiệp noãn thành, bát vạn tứ thiên, phiền-phức loạn-tưởng, như thị cố hữu, thấp-tướng, tế-thi, lưu chuyển quốc-độ, hàm-xuẩn nhu-động, kỳ loại sung-tắc.
VIỆT DỊCH:
Nhân trong thế giới có chấp trước luân hồi, điên đảo về thú, nên hòa hợp với noãn, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng nghiêng ngửa, vậy nên có tế thi thấp sinh trôi lăn trong cõi nước, nhung nhúc quậy động, rất nhiều các loại.
GIẢNG GIẢI:
Đoạn này bàn về thấp sinh. Sinh từ nơi ẩm thấp là do hơi ẩm và hai điều kiện: Nghiệp cá nhân và khí ẩm.
Nhân trong thế giới có chấp trước luân hồi, điên đảo về thú.
“Chấp trước” là nắm giữ và không thể thay đổi. Do chấp trước nên phải chịu xoay vần trong luân hồi.
“Thú” là ý hướng, khuynh hướng về một điều gì đó, nên hòa hợp với noãn, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng nghiêng ngửa.
“Noãn”, khí ẩm là tạo tác của nghiệp. “Nghiêng” dao động, không vững. “Ngửa” là đảo ngược lại. Vậy nên có tế thi thấp sinh trôi lăn trong cõi nước, nhung nhúc quậy động, rất nhiều các loại. “Tế thi” TIẾNG Sanskrit, tức là HÌNH TƯỚNG BAN ĐẦU CỦA LOÀI THẤP -SANH.
“Thấp sinh”, chỉ các loại động vật nhỏ sinh ra từ nơi ẩm thấp như côn trùng, ruồi, muỗi. Chúng ở khắp nơi trên mặt đất.
Thường, chúng ta không để ý, nhưng thực sự cả mười hai loại đều liên quan nhau. Con người cũng liên quan đến các loài như vậy.
4) HÓA SINH
KINH VĂN:
由因世界 變易輪迴 假顚倒故。和合 觸成 八萬四千新故亂想。如是故有化相羯南。流轉國土。轉蛻 飛 行。其類充塞。
Do nhân thế-giới, biến-dịch luân-hồi, giả điên-đảo cố, hòa-hiệp xúc thành, bát vạn tứ thiên, tân cố loạn-tưởng, như thị cố hữu, hóa-tướng yết-nam, lưu-chuyển quốc-độ, chuyển thoát phi-hành, kỳ loại sung tắc.
VIỆT DỊCH:
Nhân trong thế giới có biến dịch luân hồi, điên đảo về giả, nên hòa hợp với xúc, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng mới cũ, vậy nên có yết nam hóa sinh trôi lăn trong các cõi nước, chuyển thoái, phi hành, các loài rất nhiều.
GIẢNG GIẢI:
Đoạn này bàn về Hóa sinh – điều kiện chỉ là nghiệp của tự thể. Do nghiệp thức nên ưa thích mới, nhàm chán cũ, và liền được hóa sinh. Chẳng hạn, vài loại chuột có thể hóa sinh thành dơi. Và loại chim chuyển sinh thành cá, hoặc loài sống được ở dưới nước và trên bờ. Hoặc sâu chuyển thành bướm. Sự thay đổi và chuyển hóa này đều do tưởng điên đảo hình hành.
Nhân trong thế giới có biến dịch luân hồi, điên đảo về giả, đấy là sự vay mượn tới lui, đổi thay và chuyển hóa của các sinh vật, nên hòa hợp với xúc, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng mới cũ. Có vài loại sinh vật nhàm chán những gì cũ kỹ, chúng ham muốn có điều gì đó mới lạ hơn.
Chẳng hạn muốn thành chim biết bay, muốn chuyển thành loài sống được ở dưới nước và trên bờ, như ếch chẳng hạn. Các loài sâu bướm, ấu trùng, giòi, chán việc trườn, bò muốn đổi thành côn trùng, như bướm chẳng hạn. Vài loài chuột đã chán thân chuột, muốn biến đổi thành dơi. Những ví dụ ấy đều chỉ sự hóa sinh.
Vậy nên có yết nam hóa sinh trôi lăn trong các cõi nước. Yết nam là tiếng PHẠN là do LOẠN TƯỞNG KIÊN CỐ HÒA HIỆP LÀM THÀNH 84 NGÀN CHỦNG LOẠI– đây là trường hợp biến hình của động vật, là loại chuyển biến thoái hóa. Các loài hóa sinh này có khắp thế giới, chuyển thoái, phi hành, các loài rất nhiều.
Các sinh vật bò, trườn, chuyển biến thành chim chóc, hoặc loài chim chuyển thành loài bơi lội. Sự chuyển hóa giữa các loài có rất nhiều.
5) HỮU SẮC
KINH VĂN:
由因世界 留礙輪迴 障 顚 倒故。和合著成 八萬四千精 耀 亂 想。如是故有 色相羯南。流 轉 國 土。休咎精明。其類充塞。
Do nhân thế-giới, lưu-ngại luân-hồi, chướng điên-đảo cố, hòa-hiệp trứ thành, bát vạn tứ thiên, tinh-diệu loạn-tưởng, như thị cố hữu, sắc tướng yết-nam, lưu-chuyển quốc-độ, hưu-cữu tinh-minh, kỳ loại sung-tắc.
VIỆT DỊCH:
Nhân trong thế giới có lưu ngại luân hồi, điên đảo về chướng – nên hòa hợp với trước, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng tinh diệu, vì vậy nên có yết nam sắc tướng trôi lăn trong cõi nước, hưu cửu, tinh minh, các loài rất nhiều.
GIẢNG GIẢI:
Đoạn này bàn về hữu sắc.
Nhân trong thế giới có lưu ngại luân hồi, điên đảo về chướng. Ngại là ngăn cản, gây chướng ngại, có nhiều sắc, chướng ngại đan xen nhau, nên hòa hợp với trước, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng tinh diệu.
“Trước” là tạo nghiệp, do chấp trước nên làm khuất đi ánh sáng chân tâm, vì vậy nên có yết nam sắc tướng trôi lăn trong cõi nước. Đây là loài phát sáng như mặt trời mặt trăng, loại mang điềm lành gọi là HƯU, có điểm dữ gọi là CỬU; ở NGỌC TRAI là do PHÁT SÁNG của ĐOM ĐÓM và HÀU tạo thành, các loài như vậy có rất nhiều.
6) VÔ SẮC
KINH VĂN:
由因世界 銷散輪迴。惑顚倒故。和合暗成 八萬四千陰隱亂想。如是故有 無色羯南。流 轉 國 土。空 散銷沈。其類充塞。
Do nhân thế-giới, tiêu-tản luân-hồi, hoặc điên-đảo cố, hòa-hiệp ám thành, bát vạn tứ thiên, ám-ẩn loạn-tưởng, như thị cố hữu, vô-sắc yết-nam, lưu-chuyển quốc-độ, không-tản tiêu-trầm, kỳ loại sung-tắc.
VIỆT DỊCH:
Nhân trong thế giới có tiêu tán luân hồi, điên đảo về hoặc nên hòa hợp với ám, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng, thầm ẩn, vậy nên có yết nam vô sắc trôi lăn trong cõi nước; không tán tiêu trầm, các loại rất nhiều.
GIẢNG GIẢI:
Đoạn này bàn về các chúng vô sắc, tức các chư Thiên cõi Vô sắc giới.
Nhân trong thế giới có tiêu tán luân hồi, điên đảo về hoặc. Mặc dù “tiêu” và “tán” bao hàm sự dứt diệt, không tồn tại, chẳng còn thấy gì, nhưng ở đây vẫn có sự hiện hữu, đấy là thức và nghiệp, tức là vẫn có các chúng – đấy là sự tái sinh.
“Hoặc” là MÊ VỌNG, nó là một loại vô minh làm cho điên đảo, hoặc nên hòa hợp với ám, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng, thầm ẩn. Nghiệp rất khó cảm nhận, và do đó nó gây ra vô số loạn tưởng.
“Thầm” và “Ẩn” là loại ý tưởng khó nhận biết. Vậy nên có yết nam vô sắc trôi lăn trong cõi nước. Chúng phát triển cùng khắp, không tán tiêu trầm, các loại rất nhiều. “Không” là không vô biên sắc thiên. “Tán” là phi tưởng, phi phi tưởng xứ thiên. Các chúng sinh ấy hiện hữu là do thức nghiệp, không có sắc tướng và có rất nhiều trong thế giới.
7) HỮU TƯỞNG
KINH VĂN:
由因世界 罔象 輪迴。影顚倒故。和合憶成 八萬四千潛結 亂想。如是故有 想相 羯南。流 轉 國 土。神鬼精靈。其類充塞。
Do nhân thế-giới, võng-tượng luân-hồi, ảnh điên-đảo cố, hòa-hiệp ức thành, bát vạn tứ thiên, tiềm-kiết loạn tưởng, như thị cố hữu, tưởng-tướng yết-nam, lưu-chuyển quốc-độ, Thần-Quỷ tinh-linh, kỳ loại sung-tắc.
VIỆT DỊCH:
Nhân trong thế giới có võng tượng luân hồi, điên đảo về ảnh nên hòa hợp với ức, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng tiềm kết, vậy nên có yết nam hữu tưởng trôi lăn trong cõi nước, thần quỷ tinh linh, các loài rất nhiều.
GIẢNG GIẢI:
Nhân trong thế giới có võng tượng luân hồi, điên đảo về ảnh.
Phần này bàn về các chúng sinh hữu tưởng, nhưng vô sắc. Các chúng sinh ấy như là thần, quỷ, tinh linh. Do vọng chấp ảnh tượng nên hòa hợp với ức, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng tiềm kết.
Do tiềm ẩn nên không ai hay biết. Các loạn tưởng của chúng thầm kết, vậy nên có yết nam hữu tưởng trôi lăn trong cõi nước, thần quỷ tinh linh, các loài rất nhiều.
Hữu tưởng ở đây không phải là loại tưởng của noãn sinh, mà là loại vọng tưởng tạo tác. Có một số QỦY VƯƠNG là do chư ĐẠI BỒ TÁT thị hiện, rất khó suy lường được.
Cho nên, QUỶ và THẦN là loại một TINH QUÁI, cũng phải cư xử rất đúng mực. Tinh linh là các loài sơn thần, hải thần, thành hoàng…các loài rất nhiều và ở khắp mọi nơi.
8) VÔ TƯỞNG
KINH VĂN:
由因世界愚鈍輪迴。癡顚倒故。和合頑成 八萬四千 枯 槁 亂 想。如是故有 無想羯南。流轉 國土。精神化為土木 金石。其類充塞。
Do nhân thế-giới, ngu-độn luân-hồi, si điên-đảo cố, hòa-hiệp ngoan thành bát vạn tứ thiên, khô cảo loạn-tưởng, như thị cố hữu, vô-tri yết-nam, lưu-chuyển quốc-độ, tinh thần hóa-vi, thổ mộc kim-thạch, kỳ loại sung-tắc.
VIỆT DỊCH:
Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si nên hòa hợp với ngoan, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng khô cảo; vậy nên có yết nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước, tinh thần hóa làm đất, cây, vàng, đá, các loại rất nhiều.
GIẢNG GIẢI:
Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si.
Loại vô tưởng tuy có sắc nhưng không có tư tưởng, do đó thành ngu muội ám độn, nên hòa hợp với ngoan, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng khô cảo. Ý tưởng hoàn toàn cạn kiệt, vậy nên có yết nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước, tinh thần hóa làm đất, cây, vàng, đá, các loại rất nhiều. Vì tư tưởng của họ khô héo nên TINH và THẦN chuyển hóa thành đất, gỗ, kim loại hoặc đá. Loại này có ở nhiều nơi.
Và, tại sao tinh và thần lại biến thành như vậy?
Ở Hồng Kông có ngọn núi gọi là Vọng phu. Chuyện kể rằng có người đàn bà, chồng là Hải quân, anh ta ra đi không bao giờ trở lại. Người vợ cứ ngày ngày dẫn con lên ngọn núi nhìn về phía biển đợi chờ.
Ngày qua ngày, tinh thần chờ đợi của người đàn bà ấy dần dần cạn kiệt và chuyển hóa, đến sau đó thì thành đá. Ngày nay, quý vị đến đó sẽ nhìn thấy hình tượng đá một người đang đứng, phía sau có đứa bé. Bà ấy vẫn trông chờ. Hầu hết chúng ta rất khó tin rằng cái tinh thần của con người lại có thể biến thành gỗ, đá – nhưng đó là sự thực.
Nó đã thực sự xảy ra, có nhiều trường hợp con người biến thành đá như vậy. Hoặc nhiều sự việc xảy ra tương tự như vậy. Chẳng hạn, một người có tánh rất nóng, một khi ngọn lửa tự tánh của người ấy bộc phát mạnh thì thực chất của anh ta dễ dàng biến thành than ngay. LỬA CỦA TỰ TÁNH RẤT MẠNH, nó có sức nóng thật khủng khiếp, và như vậy, thực chất cũng dễ bị đốt cháy.
Con người bao gồm các yếu tố kim loại, gỗ, nước, lửa và đất, nếu họ thường xuyên tiếp xúc và dốc hết tâm ý vào một yếu tố nào thì họ sẽ biến thành yếu tố đó. Điều đó xảy ra là do tư tưởng cố chấp tham trước. Khi hiện tượng ấy xảy ra thì vật thể kia có trở lại làm người không ?
Vâng, có thể, nhưng không biết thời gian sẽ kéo dài bao lâu – chắc chắn là lâu lắm.
9) PHI HỮU SẮC
KINH VĂN:
由因世界 相待輪迴。偽顚倒故。和合染成八萬四千 因依亂想。如是故有非有色相。成色羯南。流轉 國 土。諸水 母 等。以蝦為目。其類充塞。
Do nhân thế-giới, tương-đải luân-hồi, ngụy điên-đảo cố, hòa-hiệp nhiễm thành bát vạn tứ thiên, nhân y loạn-tưởng, như thị cố hữu, phi hữu sắc tướng, thành-sắc yết-nam, lưu-chuyển quốc-độ, chư thủy-mẫu đẳng, dĩ hà vi-mục, kỳ loại sung-tắc.
VIỆT DỊCH:
Nhân trong thế giới có tương đãi luân hồi, điên đảo về ngụy nên hòa hợp với nhiễm, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng nhân y, vậy nên có yết nam, không phải có sắc mà có sắc trôi lăn trong cõi nước, các loài thủy mẫu dùng tôm làm mắt, các loại rất nhiều.
GIẢNG GIẢI:
Phần này bàn về các chúng phi hữu sắc. Nhân trong thế giới có tương đãi luân hồi, điên đảo về ngụy nên hòa hợp với nhiễm, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng nhân y. Nhân y là nương tựa vào nhau, vậy nên có yết nan, không phải có sắc mà có sắc trôi lăn trong cõi nước.
Loài phi hữu sắc tức vốn không có sắc, nó chỉ nhờ vào vật khác nên mới có sắc, do đó các loài thủy mẫu dùng tôm làm mắt, các loại rất nhiều. Loài thủy mẫu nhờ vào bọt nước làm thành thân, chúng không có mắt nên phải nhờ vào mắt của tôm, đấy là mối tương quan, ký sinh. Loài thủy mẫu này trông như những bong bóng trong nước, chúng vô sắc có ở khắp nơi.
10) PHI VÔ SẮC
KINH VĂN:
由因世界 相 引輪迴。性顚倒故。和合 咒成 八萬四千 呼召亂想。由是故有非無色相。無色羯南。流轉 國 土。咒咀厭生。其類充塞。
Do nhân thế-giới, tương-dẫn luân-hồi, tánh điên-đảo cố, hòa-hiệp chú-thành bát vạn tứ thiên, hô-triệu loạn-tưởng, do thị cố hữu, phi vô sắc tướng, vô-sắc yết-nam, lưu-chuyển quốc-độ, chú trớ yểm sanh, kỳ loại sung tắc.
VIỆT DỊCH:
Nhân trong thế giới có tướng dẫn luân hồi, điên đảo về tính nên hòa hợp với chú, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng hô triệu, vậy nên có yết nam, không phải vô sắc mà vô sắc, trôi lăn trong cõi nước, chú trớ, yếm sinh, các loài rất nhiều.
GIẢNG GIẢI:
Đây là loại phi vô sắc, chúng vốn không có sắc, chỉ dùng chú ra hiệu.
Nhân trong thế giới có tướng dẫn luân hồi, điên đảo về tính, đấy là tác động qua lại của sự mê hoặc, làm thành điên đảo vọng tưởng, nên hòa hợp với chú, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng hô triệu.
Gần đây tôi đã nói về pháp “Câu triệu”, pháp “Hô triệu” này cũng có dạng như vậy. Hô là gọi tên ai đó. Thường thì mọi người không thấy gì, nhưng khi tụng niệm chú thì đối tượng sẽ hiện đến, lúc đó chúng ta có thể thấy được.
Mặc dù chúng ta gọi đó là quỷ, thần, nhưng họ đều là một loại THẦN THỨC đặc biệt - vậy nên có yết nam, không phải vô sắc mà vô sắc, trôi lăn trong cõi nước, Quỷ, thần ở đây là loại phi vô sắc – là những thần hộ pháp. Họ dùng chú trớ, yếm sinh, các loài rất nhiều. Trong Mật giáo có nhiều loại chú này.
11) PHI HỮU TƯỞNG
KINH VĂN:
由因世界 合妄輪迴。罔顚倒故。和合異成 八萬四千迴互亂想。如是故有非有想相。成想羯南。流轉 國土。彼蒲盧等異質 相 成。其類充塞。
Do nhân thế-giới, hiệp-vọng luân-hồi, võng điên-đảo cố, hòa-hiệp dị-thành, bát vạn tứ thiên, hồi-hổ loạn-tưởng, như thị cố hữu, phi hữu-tưởng tướng, thành-tưởng yết-nam, lưu-chuyển quốc-độ, bỉ bồ-lư đẳng, dị-chất tướng thành, kỳ loại sung-tắc.
VIỆT DỊCH:
Nhân trong thế giới có hợp vọng luân hồi, điên đảo về võng nên hòa hợp với dị, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng hồi hỗ, vậy nên có yết nam, không phải có tưởng mà có tưởng, trôi lăn trong cõi nước, những giống tò vò, mượn chất khác làm thân của mình, các loại rất nhiều.
GIẢNG GIẢI:
Nhân trong thế giới có hợp vọng luân hồi, điên đảo về võng nên hòa hợp với dị, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng hồi hỗ.
Cả hai có khác, nhưng sự biến hình thì như nhau. Tám mươi bốn nghìn là số nhiều, dùng để chỉ trong mỗi loại, thực ra trong từng loại còn có rất nhiều loại khác, số lượng không thể tính được.
Vậy nên có yết nam, không phải có tưởng mà có tưởng, trôi lăn trong cõi nước.
Lúc đầu, những sinh vật này chưa nhận thức mình sẽ hình thành loại nào, nhưng trải qua tiến trình nghĩ tưởng nó mới hình thành hiện thể. Đó là những giống tò vò, mượn chất khác làm thân của mình, các loại rất nhiều.
“Tò vò” tiếng PHẠN là BỔ LÔ, tức là một loại ONG VÒ VẺ, CHẲNG THỂ TỰ SINH CON. Cho nên, ONG VÒ VẺ này bắt lấy sâu bướm và chuyển chúng thành con mình. Nó đưa con sâu bướm về tổ, đoạn tụng chú trong bảy ngày: “Hãy như ta, hãy như ta”.
Sau đó nó dời đi nơi khác. Người ta gọi LOÀI NÀY là không có tưởng (PHI HỮU TƯỞNG), vì lúc đầu sâu bướm không nghĩ là mình biến thành con tò vò.
Kinh Thi có câu: “Sâu bướm có con, Tò vò mang nợ”.
12) PHI VÔ TƯỞNG
KINH VĂN:
由因世界 怨害輪迴。殺顚倒故。和合怪成 八萬四千食父母想。如是故有非無想相。無想羯南。流轉 國土。如土梟等 附塊為兒。及破鏡鳥以毒樹果。抱為其子。子成。父母 皆遭其食。其類充塞。
Do nhân thế-giới, oán-hại luân-hồi, sát điên-đảo cố, hòa-hiệp quái-thành, bát vạn tứ thiên, thực phụ-mẫu tưởng, như thị cố hữu, phi vô-tưởng tướng, vô-tưởng yết-nam, lưu-chuyển quốc-độ, như thổ-cưu đẳng, phụ khối vi nhi, cập phá-cảnh điểu, dĩ độc thọ quả, bảo vi kỳ tử, tử thành phụ-mẫu, giai tao kỳ thực, kỳ loại sung-tắc.
VIỆT DỊCH:
Nhân trong thế giới có oán hại luân hồi, điên đảo về sát nên hòa hợp với quái thành ra tám mươi bốn nghìn nghĩ tưởng ăn thịt cha mẹ, vậy nên yết nam, không phải vô tưởng mà vô tưởng, trôi lăn trong cõi nước, như con Thổ kiêu, ấp khối đất làm con, và chim Phá kính ấp quả cây độc làm con, con lớn lên thì cha mẹ đều bị chúng ăn thịt, các loại rất nhiều.
GIẢNG GIẢI:
Đây là loại phi vô tưởng trong mười hai loại chúng sinh. Chúng có tư tưởng nhưng không thường chánh.
Nhân trong thế giới có oán hại luân hồi, điên đảo về sát. Ông hại tôi, tôi hại ông. Ông giết tôi, tôi giết ông. Ông ghét tôi, tôi ghét ông, nên hòa hợp với quái thành ra tám mươi bốn nghìn nghĩ tưởng ăn thịt cha mẹ.
Khi oán hận đầy dẫy thì kết thành thân nghiệp điên đảo, vậy nên yết nam, không phải vô tưởng mà vô tưởng, trôi lăn trong cõi nước. Chúng xuất hiện như con Thổ kiêu, ấp khối đất làm con.
Ở Trung Quốc, chim Thổ kiêu còn gọi là chim Ưng đầu mèo, hoặc chim Bất hiếu. Loại chim này không đẻ trứng, mà nó ôm ấp khối đất làm con. Có điều, khi các con Thổ kiêu đầy lòng oán hận khi lớn lên, chúng sẽ ăn thịt cha mẹ, và chim Phá kính ấp quả cây độc làm con.
Phá kính là tên loài thú ở Trung Quốc, trông giống con sói nhưng nhỏ hơn. Loại thú này không sinh sản, nó chỉ ôm ấp quả độc làm con, con lớn lên thì cha mẹ đều bị chúng ăn thịt, các loại rất nhiều.
Phá kính cũng là loài thú bất hiếu. “Chim” có thể là do dịch sai. Các loại ấy có ở nhiều nơi.
KINH VĂN:
是名 眾 生 十 二 種 類。
Thị danh chúng-sanh thập nhị chủng loại.
VIỆT DỊCH:
Đấy gọi là mươi hai loại chúng sinh.
GIẢNG GIẢI:
Phía trên đã giảng về mười hai chủng loại chúng sinh.
Thứ Ba Mươi Sáu
Thế thế sinh sinh pháp vương gia
Cung điện lâu các diệu liên hoa
Bất thọ thai tạng thân thanh tịnh
Tín giải hành chứng ma ha tát.
Phạt Ma Ra [34]
Án-- vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.
Đác Điệc Tha.
Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bán ni phấn. Hổ hồng, đô lô ung phấn, ta bà ha.
(Tụng 108 lần)
Comments
Post a Comment