NIỆM PHẬT THẬP YẾU

Buddhism of Wisdom & Faith




























TƯỞNG NIỆM CỐ Hòa Thượng THÍCH THIỀN TÂM (21-11-92 Âm-lịch)


Th 3, ngày 02/01/2024 (21/11/2023 Âm-lịch)



NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHT

 

        Kính thưa đi chúng,

 

Tôi bm cht gy yếu, trong vài năm tr li đây, tinh thn cùng sc khe tht ra đu suy kém. Vì ngi cơn vô thường cht đến, nên nguyn an tht tnh dưỡng, trì nim cho mãn kiếp gi tm sng tha! Trước kỳ t t va qua, vào ngày 12 tháng 7 Âl năm Nhâm Thân 1992, Tôi có viết thư cho thy Minh Tánh và Toi Châu nh thy thay li, xin đi chúng gm chư Đi Đc Tăng ni và Pht t, vui lòng th min cho vic tiếp xúc cùng làm l khánh tuế sau khi mãn h. Nhưng khi hi li, thì thy Toi Châu nói đã đánh mt bc thư y, nên chng tuyên b. Do đó mà nhiu người đến thăm không được gp, nên sanh lòng phin mun.

 

Kỳ B Tát va ri Sư Cô Phương Liên (Thích n Thanh Nguyt) có nhc qua vic y (2-8-1992) nh thy Toi Châu trùng tuyên li nhng li ca tôi, mà thy cũng quên luôn. Trong ngày gi T này e đi chúng trách rng: Tôi b quên, không đ tâm nhc nh, nên xin có ít li khuyên tn, tm gi là gi cho xong phn nào vai trò ca người ln trong đo. Nhưng vì còn lo thy Toi Châu đau yếu, ri quên trước quên sau, nên nhân tin nh Sư Cô Phương Liên (Thích n THANH NGUYT) là người thân cn (Trưởng t tôi) thay nhc chư tăng ni, đc qua my li phng khuyến cho đi chúng được rõ:

 

Thưa chư Thượng Ta Đi Đc Tăng Ni :

 

Trước tiên, tôi kính thăm tt c đu được an lành và siêng năng tiến đo. Th đến, xin có đôi li phng khuyến.

 

T xưa đến nay, trong nhà chùa vào trong nhng ngày vía T chư Tăng Ni thường có li phc nguyn:

 

“Tông phong vĩnh chn,
T n trùng quang”.

 

Nói riêng theo pháp môn “NIM PHT” tc là nguyn cho tông “TNH Đ” do chư T tuyên dương, được chn chnh và hưng thnh phi như thế nào? Tôi xin nêu ra my chi tiết. Như trong “B Tát Gii Kinh” đã dy: Già chết gn k. Pht, pháp sp dit. Các Pht t vì mun đc đo phi nên nht tâm cn cu tinh tiến”. Câu kinh này đưa ra ba điu kin:

 

1.- Phi nghĩ đến s già chết gn k.

2.- Phi thương lo cho Pht pháp suy vong sp dit.

3.- Phi siêng năng tinh tiến tu hành.

 

Gi được ba điu kin y, tc có th làm cho: “Tông phong vĩnh chn – T n trùng quang”.

 

V điu th nht: Phi nghĩ đến s già chết gn k.

 

– Kiếp người gi tm, nào có bao lâu? Trong y biết bao nhiêu s vui bun, nhc, vinh, lo phin, nhc nhn, già yếu, đau bnh! Nếu ta không nghĩ đến thân người mong manh nhiu kh ly, mà c gng tu thin, c mãi to nghip, đ ri b chìm đm, có phi là h hng mê lm chăng?

 

V điu th hai: Phi thương lo cho Pht pháp suy vong sp dit.

 

– Đc Pht ra đi và chánh Pháp ca ngài rt khó gp, như hoa “Ưu Đàm Bát La” trong thi kiếp lâu xa, mi n mt ln. Nay đã đi sâu vào bui mt pháp, đo Pht sp suy tàn ri n mt. Chúng ta là hàng con Pht, phi kính mến thương lo, h trì mi đo và mun cho đo pháp trường tn, phi thương xót nâng đ nhau, đng vì li quyn danh vng, hoc tài, sc, mà bôi nhơ, tàn hi ln nhau.

 

Kinh Phm Võng nói:

 

“Pht pháp không phi thiên ma, ngoi đo có th hy phá, ch có người con Pht, mi phá hoi được mà thôi!”

 

Đau bun thay!!

 

Điu này hin nay, khp nơi đã nhan nhãn thy xut hin. Các bc hu tâm trong đo thy thế ch còn biết yên lng ngm ngùi!

 

Nh li thi cn đi nước Vit Nam ta, có hai bc túc nho va có tài danh, ln đc hnh. Vì thy luân thường đo ln, nho giáo suy đi, hai v y, đành cam b n dt. Nhưng đã có danh đc, tt có nhiu người tìm đến, nên cũng vì thế mà b người ganh ghét bôi nhơ! Nhng k làm vic đó, là người trong đo KHNG mà ma mai thay! phn đông li là hàng mô đ ca hai bc tôn túc nho kia! Sau khi được người thut li đy đ v vic hy báng y, trong hai bc lão nho, mt v mĩm cười khng khái nói:

 

“Rn rết gm ai lòng đc kia!
R
ng mây phó mc chuyn huyên thiên”

 

Còn mt v kia ch rơi l bo:

 

“Vic đi thà khut đôi con mt,
Lòng đ
o xin tròn mt tm gương”.

 

Nơi đây, ta nhìn xét thy hai trng thái:

 

“Mt n cười can đm, an nhn, bt chp, gác qua mi chuyn th phi …

 

“Và mt nét khóc, thương xót ai mê lm gây ti li mà mình bt lc không th can ngăn, khuyên bo, cu vãn được, ch còn biết t tnh, bn gi đo tâm, như gương tròn sáng.

 

N cười cùng tiếng khóc, ca hai bc lão nho xưa, đã hàm n đy đ tinh thBI – TRÍ – DŨNG ca đo Pht, tht đáng cho hàng Pht t, chúng ta phi suy gm.

 

Còn v điu th ba:  Phải siêng năng tinh tiến tu hành.


Thì ý kinh, khuyên ta phải siêng tu. Siêng tu đây, không phi ch tng kinh, nim Pht, đ khoe s nhiu, mà tng nim vi tâm thanh tnh, an lành, vi lòng chí thành trong sáng, mi được dit ti sanh phước.

 

Li chng phi ch có tng nim suông, mà phi gi tâm nim, li nói và hành đng, theo điu gii thin Như thế, mi xng hp là người tu Pht. Và tu như thế mi mong có ngày được lên b gii thoát.

 

Trước khi dt li, đ tóm lược, tôi xin trân trng nhc li cùng đi chúng ba điu trên là:

 

1.- Phi nghĩ đến s già, chết, vô thường.

2.- Phi thương mến đo, biết nâng đ nhau.

3.- Và phi biết siêng năng tu tp.

 

Nếu trái vi li kinh dy, thì ngôi nhà Pht, Pháp s b sp đ, bi s hy phá ca nhng người mang danh nghĩa là hàng “CON PHT”. Nhng v chân tu, t nhiên phi tht hành theo ba điu kin trên.

 

Còn trái li, nhng k gi tu, mun nhn din cũng không khó, quý v ch vi nghe li trau chuc bên ngoài, hãy xét k, nơi ngôn ng… cùng hành đng ca h, t khc s biết.

 

Xin Kính chúc chư Thượng Ta, Đi đc Tăng Ni, chư quý Pht t, mt mùa k nim T, đy tình thương và đo hnh.

 

THÍCH THIN TÂM

 

 

TB: Bc thư này nên tùy phương tin đc cho nhng v hu duyên nghe mà thôi!

 

Nhng k vô duyên, chc h không tnh ng, trước li thiết tha khuyên nhc!!!

 

Các v Lão thành xưa thc lượng sâu xa, cũng đu phi cam b n mình gi đo, trước tình thế không th khuyên ngăn được.

 

Thy cũng không hơn ni nhng bc tin bi y đâu.


 



ẨN TU NGẪU VỊNH

 

HÒA THƯỢNG TÔN SƯ

Ngài Tam-Tng Pháp-Sư Thích Thin-Tâm, hiVô-Nht.

 

TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,

GIÓ LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.


Vào  đêm RM, ngày 15/5/1989 Âm lch (nhm ngày K DU, tháng CANH  NG, năm K T), sau thi khóa, HÒA THƯỢNG THÍCH THIN TÂM bng ngu cm viết luôn mt mch 108 BÀI VNH, mi bài 4 câu, trong y nói lược qua thi gian NHP THT tri qua, ly đ mc là  N TU NGU VNH. 



NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHT

 

 

        Kính thưa Quý-v !


Cách đây ít lâu, mt hôm tôi sang vn an sc khe thy tôi bo, đêm RM va ri sau thi khóa, THY bng ngu cm viết luôn mt mch 108 BÀI VNH, mi bài 4 câu, trong y nói lược qua thi gian NHP THT tri qua, ly đ mc là  N TU.

Sau đó, thy có chnh đn li đôi chút, nay nhân tin đc cho con nghe. Sau khi nghe xong, tôi xin phép ghi li và mun chuyn đc cho các pht t đến thăm nghe biết.

 

Thy dy: “ Điu y không nên vì người tu trong mt lúc nào đó Tâm Thanh tnh, bng ny ra nhiu ý kiến cao siêu mi l nhưng phi lin gt b qua, nếu c ghi nh ý kiến hay y, tt Thành ra S TRI CHƯỚNG, bi Chân-Tâm là th VÔ TRI LINH TRI, tuy không biết mà biết tt c hoc ngay khi trong lúc tâm thanh tnh đó, hành gi có th viết ra c ngàn bài tng mt cách d dàng, song nếu chp ly danh t c ưa viết mãi trong TÔNG MÔN gi là thin bnh, gi li cnh gii người tu ch có người tu mi thu đáo.”

 

 Nên Thin Quyn có câu:

 

“Gp hàng kiếm khách nên trình kiếm,

chng phi thi nhân ch nói thi.”

 

Nếu con đc ra, s e k nói mt đng người nghĩ mt no, ri thành ra vic th phi mà thôi. Tôi thưa, con thy trong QUY NGUYÊN TRC CH ngài TÔNG BN khi n trong núi có vnh 100 bài thi gi là “SƠN CƯ BÁCH VNH” vic y như thế nào?”

Thy tôi đáp:  So sánh sao được vi TÔNG BN ĐI SƯ, ngài là mt bc đi ng đã vượt con đường muôn dm v đến quê nhà, còn thy thì ch mi tp tnh đi mt vài bước. Ngài ví như người sáng mt thy toàn th con HƯƠNG TƯỢNG, còn thy ví như người mù r VOI, nói ra d lc lm.

 

Câu chuyn đến đó ri cũng tm trôi qua, tuy nhiên có 5 , 3 PHT T đến viếng thăm Than Th Đã lâu lm ri không gp mt HÒA THƯỢNG, li không nghe được li nhc nh,  trong tình thế đáng thương y, tôi có lén thy trích đc ra mt vài đon, đ an i h.

Nay gn ti ngày CHUNG THT ca THÂN MU bn sư, tôi li c gng mt ln th ba xin thưa thêm. Bch thy: Thy nói cuc đi ca thy là N TU, ít hôm na là đến ngày chung tht cũng là ngày cui cùng làm L TRUY TIN bà v cõi Pht, con xin phép đc my bài hôm trước cũng như thay li tâm s đ GIÁC LINH bà thông cm cnh đN TU ca thy.

 

Thy im lng ý không mun chp nhn, nhưng cũng không n Ph Nhn li xin ca hàng đ t đã vì thân mu mình.

 

Tôi nghĩ thy im lng tc là tùy ý tùy duyên, nên hôm nay là cơ cm đ thy có dp tâm s vi Mu-Thân mt ln sau rt. Và đây xin đc bài th nht.

 

Tỳ-kheo-ni thích n PHƯƠNG LIÊN

 

 

 

1.- n tu nào phi c xa đi !

Mượn cnh u-nhàn hc đo thôi !

Nhng thn riêng mình nhiu nghip chướng

Bn ân còn nng nghĩa đn bi.

 

NHƯ Ý : THT HIN đi-sư than, “ÁO NÃO T THÂN ĐA NGHIP CHƯỚNG.” Bun thương thân mình nhiu nghip chướng, đi-sư còn t trách thế, hàng hu hc cũng nên t kim li.


 

4  TRNG  ÂN 

 

1) Ân Pht t

2) Ân Thy bn, Thin tri thc

3) Ơn Cha m dưỡng dc Sanh Thành

4) Ân đàn-vit và Chúng sanh h tr



100. -n tu Tng-yếu Tnh môn mu

Bí quyết đng xa nghĩ ngi cu

Thanh tnh chí thành trong my đim

LC, HÀNH, NGUYN THIT vi TIN sâu.

 

NHƯ Ý : 3 Đim TÍN NGUYN HNH vi s CHÍ THÀNH tu trì là yếu ước ca môn Tnh-đ, Tuy nói ít song nếu dn ra, thì Rng-rãi Mu-nhim Vô-cùng.

 

Đo NHO bo:

 

“Phóng Chi Tc Di  Ư Lc Hip,

Quyn Chi Tc Thoái Tàng Ư Mt.”

(Buông ra thì Đy-c Đt-tri,

Thâu li mt Không-còn Hình-tướng.)

 

 

Ý ny đâu khác chi vi Đo-Pht.

 

Thưa các V,

 

Tám bài cui xin min ging gii, càng nói li càng Sai lm, SAI VI ĐO, bi vì đây cũng là Ý sau rt ca người TU, Bút-gi  hin chưa đi đến Đa-v ny như Chư Tăng Ni khác, vn mong s đc Ý trước khi VIÊN TCH. 

 

 101. -n tu nim nim bút sanh hoa

Thi-t ngun tâm mt mch ra

Danh-t v nguyên là Pht-nhãn

Non Tây rc r dt hng hà.

  

102. -n tu trc trc, li bình bình

Nim đt vô-tình ln hu tình

Lu tuyết rã tan ngàn thế gii

Chân tri pháp nhãn l bình-minh.

  

103. -n tu nim v chp pha-lê

Muôn n ngàn yên lng khp b !

Riêng mt bóng Tăng ngi tĩnh-ta

Lâm-viên va bt tiếng sơn khê.

 

104. -n tu sng-sng ci cây khô

Mt ngón Thiên Long, dt ý-đ

Pht t đến thăm như hi đo

A Di Đà Pht li NAM MÔ. 

 

105. -n tu nhơn cnh cht đu quên

Sáng-r vng-nga ri trước thm

Mùi đo Lan-thanh riêng t biết

Kêu mưa đã vng ging cưu đêm.

  

106. -n tu sui lng bóng chim qua

Chim nước đu như t ti hoà

Di Lc trao cho xem túi vi

Dưới trên đu rng, ging kha kha !!!

 

107. -n tu bên vin tiếng chuông dn!

Sm n Oai âm tnh mng hn

Chn nhy vào hang Sư t chúa

Sư-Vương li do dã h thôn.

 

108. -n tu trì nim tháng năm qua

Đp li Sen thanh tr li NHÀ

Tin-tc ngày nay va thy được

Tiếng chuông Sơn t bóng trăng tà !

 



Hòa Thượng THÍCH THIỀN TÂM

(1925-1992)


T CM

 


Sáu tám nh
c-nhn k xiết chi,
Thăng tr
m nhiu ni chí không di.
Mài giũa cho thành ra ng
c quý,
M
i hay châu n thit “Ma-ni”.
Mt nim công-thun hai bn chn,
Cõi tm kh-hi my k tri!
Kh
đến, mèo kêu, ba chut chy,
Tr
n-duyên vĩnh dt, đon su bi.



Sáu tám năm qua vic đáng kinh,
Thăng-tr
m vùi-dp, lm tai-tinh.
Ch
ng qua mt gic mơ dài y,
Mà ki
ếp phù-sinh tm múa hình.
Hai bn năm ròng chuyên Nht-nim,
Di-Đà sáu ch phóng quang-minh.
Hôm qua tin-t
c tri TÂY báo,
GI
MO MAI ĐÂY T TH TÌNH.



Đời ta chỉ gởi chốn Liên trì,
Trần thế vinh hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A Di.


TA ĐI ĐÂY – ĐẠI CHÚNG NÊN BẢO TRỌNG




Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng

TRÚC LIÊN BỔN THẤT

CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ

Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng






 TÂY PHƯƠNG NHỰT KHÓA


 

Chớ quản gió-sương sông-núi cách,

Hoa sen Bảo-Tích sắc hương-mầu.

 

 

 CHƯƠNG 1. LỜI PHI LỘ VÀ PHỤNG KHUYẾN

 

1. Thích ứng cả ba căn

2. Gồm tự-lực, tha lực

3. Giải thoát ngay trong hiện-kiếp

4. Hợp với thời-tiết, cơ-duyên

5. Luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay

6. Vài điều kết yếu

 

 

 CHƯƠNG 2NGHI THỨC MẬT TÔNG

 

1. Lễ bái sám hối

2. Trì chú niệm Phật

3. Phát nguyện hồi hướng

 

 

 

CHƯƠNG 1


LỜI PHI LỘ VÀ PHỤNG KHUYẾN


 

Hiện nay, Người tu Tịnh-độ càng ngày càng đông. Sở-dĩ như thế, bởi vì môn Niệm-Phật có những yếu-tố :

 

1) Thích ứng cả ba căn

2) Gồm tự-lực, tha lực

3) Giải thoát ngay trong hiện-kiếp

4) Hợp với thời-tiết, cơ-duyên

5) Luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay

6) Vài điều kết yếu

 

 

1.- NIỆM PHẬT THÍCH ỨNG CẢ BA CĂN

 

           Các pháp-môn khác, nếu như thấp thì bậc THƯỢNG CĂN chẳng thích tu, và nếu như cao tất các bậc TRUNG, HẠ CĂN không kham tu.

 

           Chẳng hạn như về THIỀN TÔNG, thì đạo-lý thật mầu-nhiệm cao-siêu, một niệm đi thẳng vào chân-tâm sáng-suốt, ứng-dụng tự-tại, vượt khỏi đầu sào trăm trượng, như Nhạn bay giữa thái-hư dấu-vết chẳng còn lưu.


(Nhạn quá trường không

Ảnh trầm hàn thủy

Nhạn vô di tích chi ý

Thủy vô lưu ảnh chi tâm.)

 

           Nhưng khúc điệu càng cao, người họa lại càng thêm thưa ít. Nếu chẳng phải bậc Huệ-căn gieo sẵn, chỉ e cho vẽ cọp không thành.  

 

Nên cổ-đức đã bảo:

 

Chẳng phải căn thượng-thượng,

Dè-dặt chớ khinh-truyền.”

 

(Phi thượng-thượng căn,

Thận vật kinh hứa ).

 

           Bởi nếu không phải là bậc THƯỢNG CĂN triệt-ngộ thiền-cơ thì chẳng thể nhập được ngay vào chân-không, mà phần nhiều lại lạc vào lối chấp thiên-không.  Rồi từ đó bác phá nhân-quả, sự tướng, tăng lòng ngã-mạn, cống-cao.

 

           Về điều nầy trong bài Chng Đo Ca, VĨNH GIA HUYỀN GIÁC thiền sư có nói:

 

"Nếu chấp cái không trống-rỗng,

rồi bác phá nhân-quả thì ương-họa lan-tràn !".

 

 (Hoát-đạt không, Bác nhân-quả,

 Mãng-mãng, đảng-đảng chiêu ương-họa !).

 

           Thật ra THIỀN TÔNG cần phải duy-trì và phục-hưng, cho chúng-sanh được độ-thoát an-vui, vườn hoa Phật-giáo thêm thắm-tươi đầy đủ màu-sắc hơn. Nếu có bậc tu THIỀN chân chánh làm lợi-ích cho mình và người, cũng đáng nên cúi đầu đảnh-lễ. Rất tiếc nhiều kẻ mới vào cửa mầu THIỀN học, liền chuộng những huyền-lý cao siêu, vội xem thường sự: Thờ cúng, Tu phước, Giữ giới, Sám hối, Tụng kinh, cho là hành-môn thấp nhỏ, chấp-trước sự-tướng.

 

Cảnh-trạng một kẻ mê đường dẫn nhiều người lạc lối, khiến cho ngay những bậc tôn-đức bên THIỀN trông thấy cũng thê-lương cho Phật-pháp, xót-dạ, đau lòng !

 

           Nếu huyễn-sắc tức là chân-không thì dù tham THIỀN, niệm PHẬT, tụng KINH, hay hành-trì tất-cả sự-tướng trong đạo-pháp, cũng đều là chân không.  Bậc liễu-đạt tùy-niệm ứng-dụng tự-tại không dính-mắc, như trái hồ-lô lăn tròn trên mặt nước, can chi mà phòng-ngại!

 

           Cho nên chư Cổ-đức bên THIỀN đã cảnh-giác: " THIỀN TÔNG nếu đi đúng tất mau chứng-quả BỒ ÐỀ, còn lạc lầm thì đọa vào địa-ngục như tên bắn !". Các Pháp-môn cao, với bậc THƯỢNG CĂN mới được sự lợi-ích thiết-thật LÀ NHƯ THẾ ẤY.

 

          Còn môn TỊNH ÐỘ thì thích ứng tất cả  ba căn-cơ: THƯỢNG, TRUNG, HẠ. Bậc THƯỢNG THƯỢNG căn như các ngài:  VĂN THÙ, PHỔ HIỀN, LONG THỌ, TRÍ GIẢ và các bậc cao-đức khác nữa xưa nay, phần nhiều đều tu về môn nầy.

 

           Như trong kinh HOA NGHIÊM, THIỆN TÀI đồng-tử khi đi tham-phỏng bậc tri-thức đầu tiên là ÐỨC VÂN BỒ TÁT, ngài ÐỨC VÂN đã đem môn NIỆM PHẬT TAM MUỘI mà truyền dạy. Ðến lúc cuối cùng, PHỔ HIỀN đại sĩ cũng nói MƯỜI ÐẠI NGUYỆN vương, khuyên THIỆN TÀI và chư-vị Bồ-tát trong Hoa-tạng Hải-hội niệm Phật hồi-hướng về CỰC LẠC. Do đấy, nên bảo niệm PHẬT là pháp-môn thấp kém, chỉ để cho hạng tầm-thường, ngu-dốt tu, là quan-niệm rất sai lầm!

 

           Ðến như bậc hạ-căn, thì trong TỊNH ÐỘ THÁNH HIỀN LỤC đã ghi chép các sự-tích. Kẻ ngu-muội dốt-nát, phá-giới phạm-trai, nghèo khổ tật-nguyền, cho đến loài chim theo lời người dạy xưng danh-hiệu Phật, biết hồi-tâm sám-hối, trì-niệm chuyên-thành, đều được nguyện lực của PHẬT nhiếp-thọ, tiếp-dẫn sanh về Cực-lạc. Cho nên một bậc danh-đức xưa đã khen  môn Tịnh-độ là:

 

“Bảo-phiệt ra khỏi Ta-bà,

Huyền-môn để thành Phật-đạo”.

 

(Xuất Ta-bà chi bảo-phiệt,

Thành Phật-đạo chi huyền-môn).

 

Cũng  trong ý đó, Ấn-Quang Ðại-sư có câu đối :

 

“Bỏ đường tắt Tây-phương, chín giới chúng-sanh,

trên khó thể viên-thành quả-giác.

Lìa cửa mầu Tịnh-độ, mười phương chư PHẬT,

dưới không toàn độ thoát loài-mê”.

 

Nói theo kinh:

 

“Pháp-môn  niệm-Phật,

Quả thật như chiếc lưới báu cực to,

Có thể vớt tất-cả các loài cá lớn nhỏ trong tam-giới,

Đưa lên bờ Niết-bàn vậy”.

 

 

2. - NIỆM PHẬT GỒM TỰ LỰC VÀ THA LỰC

 

           Trừ hai pháp-môn TỊNH ÐỘ và MẬT TÔNG, các pháp-môn khác đều nương vào nơi TỰ LỰC, tức là sức tu của chính mình, để cầu giải-thoát. Luận riêng về TỊNH ÐỘ, thì môn nầy gồm cả "Tự-lực" và "Tha-lực". Tự-lực là sức trì-niệm của riêng mình; Tha-lực là sức nhiếp-thọ hộ-niệm trong hiện-tại và sự tiếp-dẫn vãng-sanh của PHẬT khi lâm-chung.

           Có người bảo người Tu môn niệm PHẬT là hèn-yếu, chỉ ỷ-lại vào tha-lực, cũng  là quan-niệm cạn-cợt, sai-lầm.

           Hành-giả Tịnh-độ Thân lễ-kính PHẬT, Miệng xưng danh PHẬT, Ý chuyên tưởng PHẬT,  nhiếp-tâm từ LOẠN vào ÐỊNH, cho đến cả khi ÐI, ÐỨNG, NẰM, NGỒI. Vận-dụng cả ba nghiệp để hành-trì, cố-gắng hết sức mình, đó là chứng-minh thực-tế và hiển-nhiên về Tự-lực.

           Như thế, tại sao lại bảo rằng niệm PHẬT là hèn-yếu, chỉ ỷ lại vào tha-lực ?

           Cho nên, niệm PHẬT chính là đem hết tự-lực của mình để cảm thông với tha-lực của PHẬT, cứu-cánh là dung-hòa TỰ với THA, TÂM và PHẬT, đi sâu vào CHÁNH ức NIỆM Tam-muội.  Bước đầu tiên khi đã có sự cảm thông, thì hành-giả sẽ được Phật phóng quang-minh thường-trụ nơi đảnh nhiếp-thọ, hiện-tiền tiêu-trừ tội-chướng tai bịnh, phước-huệ lần-lần tăng, khi mãn-phần lại được tiếp-dẫn sanh về Cực-lạc.

           Sỡ-dĩ người xưa nay khi đề-cập đến môn Tịnh-độ, phần nhiều nhấn-mạnh về Tha-lực, đó là hàm-ý chú-trọng sự tiếp-độ đến chỗ giải thoát. Vì nếu không được sức Phật nhiếp-thọ tiếp-dẫn, thì đạo lực tầm-thường của hành-giả không thể sanh về cõi Cực-lạc cách đây mười muôn ức Phật độ.

Bởi dù cho đạo lực của lục-thông La-Hán, cũng chỉ ở phạm-vi thấy biết, dạo đi trong cõi Tam-thiên đại-thiên, thuộc thế giới Ta-bà nầy mà thôi.  Và khi còn hoặc-nghiệp mà không được tiếp-dẫn vãng-sanh Cực-lạc, bước lên cảnh-giới Bất thối-chuyển, nương nơi thắng-duyên của cõi ấy mà tiến-tu, tất phải tùy nghiệp chịu cảnh luân-hồi, không biết chừng nào mới được giải-thoát !

           Vì sự vãng-sanh có điểm rất quan-hệ như vậy, nên Tha-lực của Tịnh-độ được chú-trọng nhiều, khiến cho kẻ nông-cạn vội nhận lầm là môn nầy chỉ ỷ-lại vào nơi Tha-lực, không cần tự lực.

 

           Ðến đây, thấy nên giải-thích thêm vài ba nghi-vấn. Có kẻ nói:

 

“Bậc Bồ-tát chứng vô-sanh nhẫn đã dứt hoặc-nghiệp, thoát khỏi luân-hồi, cần chi phải cầu về Cực-lạc ? Và  các vị ấy có thần thông đi đến vô-lượng thế-giới, lại cần chi niệm Phật để cầu sự tiếp-dẫn ?”

          

Xin đáp, theo kinh nói:

 

"Sự cất chân lên để bước xuống của PHẬT, bậc Ðẳng-Giác Bồ-tát còn không hiểu-thấu, huống chi hàng Thập-địa Bồ-Tát ! Các vị ấy tuy dứt kiến tư và trần-sa hoặc, song Vô-minh hoặc hãy còn, nên cần phải gần-gũi PHẬT để học đạo-pháp thành PHẬT. Thật ra, chư đại Bồ-tát có hai việc: Trên cầu về mười phương Tịnh-độ để học vô-lượng pháp-môn của Như-Lai, Dưới hiện thân khắp mười phương uế độ để giáo-hóa các loài hàm-thức.

           Pháp-thân của chư vị thường-trú, tuy ở cõi Tịnh mà không lìa cõi uế, và dù ở uế-độ vẫn không rời khỏi Tịnh-độ. Còn việc Bồ-tát niệm Phật để cầu tiếp-dẫn, ví như một học-giả đến viếng bậc Thầy của mình, tuy có thể tự-tại đi vào nhà, nhưng theo lễ phải xin phép.  Và vị Thầy đúng theo tâm-niệm dìu-dắt hàng hậu-lai, cũng vui vẻ tiếp đón. Việc như Bồ-tát muốn về Cực-lạc, niệm hồng-danh Phật để cần-cầu, và Đức Phật tùy bản-nguyện, đến tiếp dẫn cũng lại như thế.

           Nhưng Sự tiếp-dẫn của Phật tùy-niệm ứng-hiện, trong một sát na có thể đồng-thời đến vô-biên thế-giới ở mười phương, tiếp-dẫn số chúng-sanh như vi-trần, như gương trăng sáng hiện bóng khắp các điểm nước, sông, hồ, đâu có tướng đến đi và đâu có chi nhọc-mệt mà phòng-ngại!”.   

 

  

3.- NIỆM PHẬT GIẢI THOÁT NGAY TRONG HIỆN KIẾP

 

           Với các pháp-môn khác, hành-giả phải dứt trừ hết hoặc-nghiệp mới vượt sự sống-chết, luân-hồi. Riêng môn Tịnh-độ, dù cho hoặc-chướng hãy còn, vẫn có thể hiện-đời nương nơi nguyện-lực của PHẬT, đới-nghiệp vãng-sanh, tiến thẳng lên bờ giải-thoát. Về điểm nầy, trong bức thư phúc-đáp cho TỊNH TU pháp sư, ngài ẤN QUANG đã nói như sau:

 

"Có hai đường tiến đến chổ giải-thoát là: THÁNH ÐẠO và VÃNG SANH.

 

            Về THÁNH ÐẠO, tức đường tu chứng lên quả THÁNH không chi thẳng tắt mau lẹ hơn môn "Trực-chỉ thiền".  Nhưng tu Thiền giữa thời buổi nầy, trong hiện đời chưa dễ gì ngộ-đạo, huống chi là chứng-đạo ư?

           Nếu như không chứng quả, trong mười người tu đã lạc-lối hết tám chin, bởi khi luân hồi sẽ bị nhiều chướng-duyên làm cho thối-chuyển, dễ mê-muội túc-căn. Tu Thiền, nếu chứng được sơ-quả Tu đà-hoàn, tuy còn 7 lần sanh lên cõi Trời, 7 phen trở lại nhơn-gian, nhưng sẽ không lo thối-chuyển.  Khi chứng đến quả A LA HÁN, mới dứt hẳn luân-hồi.

           Ngoài ra, thì không nhứt-định, có kẻ đời hiện-tại tu-hành rất tốt, kiếp sau được hưởng phước, say đắm theo dục-lạc, tạo nghiệp ác rồi bị đọa vào địa-ngục. Dù cho năm ba đời giữ được thiện-căn, không tạo nghiệp ác, song ai có thể bảo-đảm những kiếp về sau lại chẳng gây nghiệp rồi bị đọa tam-đồ!

           Chẳng nói đâu xa, ngay trong đời hiện-tại, rất nhiều hành-giả trước siêng-năng, sau biếng-trễ, đạo-tâm dần-dà thối-chuyển, đến nỗi có kẻ phải hoàn tục. Những đời về sau, theo đà mạt-kiếp, Phật-pháp lần suy kém, bậc thiện tri-thức rất khó tìm, sự giải-thoát lại còn xa hơn nữa!

          

            Riêng có đường lối VÃNG SANH, là niệm PHẬT cầu về Tịnh-độ, thì dù cho hoặc-chướng hãy còn, vẫn có thể nương theo nguyện-lực tiếp-dẫn của đức A DI ÐÀ, vượt ngang ba cõi, đới-nghiệp thẳng sang Cực-lạc. Thật ra, cũng như bên Thiền, giữa thời Mạt-pháp nầy, người tu Tịnh-độ đến cảnh-giới "SỰ nhứt-tâm bất-loạn" rất là ít có, huống chi là cảnh "LÝ nhứt tâm", và đi sâu vào " Niệm-Phật Tam-muội"!

           Nhưng nếu thuở bình-nhựt chuyên trì-niệm, khi lâm-chung, chủng-tử của câu hồng-danh đã huân-tập từ lâu phát-hiện, liền khiến cho tạm-thời được nhứt-tâm. Lúc ấy chỉ cần gia thêm ý-niệm tha-thiết, rủ sạch trần-duyên  hướng về Liên-Quốc, quyết-định sẽ được sự cảm-thông tiếp-dẫn.

Khi đã về đến cõi ấy rồi, trên có PHẬT, Bồ-tát, dưới là các hàng Thượng thiện-nhơn, nước chảy, chim kêu, nói ra pháp-diệu, không còn bị các duyên ăn, mặc, ở và sanh-kế  (y, thực, trụ, hành) làm vướng-bận, sống lâu vô-lượng kiếp, lo chi đạo-quả không thành!  Pháp-sư đã hỏi, tôi chỉ y theo chỗ thấy hiểu của cổ-đức và căn-cứ nơi Phật-lý mà giải-đáp, "XIN SUY GẨM KỸ RỒI TÙY TÂM LỰA CHỌN ..."

           Lời trên đây của Ðại-sư, đã vạch rõ chỗ ổn-đáng và khó bảo đảm trên đường giải-thoát của thời nay, giữa TỊNH cùng THIỀN.

 

 

4.- NIỆM PHẬT HỢP THỜI TIẾT, CƠ DUYÊN

 

           Trong thời Chánh-pháp và Tượng-pháp, con người phần nhiều nghiệp nhẹ, tâm thuần, hoàn-cảnh sinh-hoạt giữa xã-hội lại đơn-giản, có thể tu các pháp-môn về Thánh-đạo. Thời ấy, Thiền-tông đặc-biệt hưng-thạnh, hành-giả căn-cơ sáng lẹ, thấy non xanh hoa-nở, nghe gió thổi suối reo đều có thể ngộ-đạo. 

Nhưng từ thời mạt-pháp về sau, nhơn tâm khác xưa, sự sinh-hoạt, tổ-chức giữa xã-hội lần-lần phức-tạp, căn-cơ người tu phần nhiều  là bậc Trung, Hạ.  Cho nên muốn bảo-đảm sự giải-thoát, cần phải hướng về pháp hợp với thời-tiết, cơ duyên là MÔN NIỆM PHẬT. Về điều nầy, xin dẫn những chứng-liệu như sau:

 

Trong kinh "ÐẠI TẬP NGUYỆT TẠNG", đức Thích Tôn đã lời huyền-ký: "THỜI MẠT PHÁP, ỨC ỨC KẺ TU HÀNH, SONG ÍT CÓ NGƯỜI ÐẮC ÐẠO, CHỈ NƯƠNG THEO PHÁP MÔN NIỆM PHẬT MÀ THOÁT KHỎI LUÂN HỒI." (Mạt-pháp, ức-ức nhơn tu-hành, hản nhứt đắc-đạo.  Duy y niệm-Phật, đắc độ sanh-tử).

 

Nơi kinh "VÔ LƯỢNG THỌ", Phật cũng bảo: "TRONG ÐỜI TƯƠNG LAI, KHI KINH ÐẠO DIỆT HẾT, TA DÙNG SỨC TỪ BI, THƯƠNG XÓT, RIÊNG LƯU TRỤ KINH NẦY MỘT TRĂM NĂM.  CHÚNG SANH NÀO GẶP KINH NẦY, TÙY THEO SỞ NGUYỆN, ĐỀU CÓ THỂ ÐẮC ÐỘ."(Ðương-lai chi thế, kinh đạo diệt-tận, ngã dĩ từ-bi ai-mẫn, đặc lưu trữ kinh, chỉ trụ bá tuế.  Kỳ hữu chúng-sanh, trị tư kinh giã, tùy-ý sở-nguyện, giai-khả đắc-độ)

 Ðức Như-lai là bậc trí-huệ rộng sâu, vì sao chẳng lưu lại các pháp kia, mà chỉ lưu môn Tịnh-độ ? Ðó là thâm-ý PHẬT đã chỉ rõ : "THỜI MẠT PHÁP VỀ SAU, ÐƯỜNG TU HỢP VỚI CƠ DUYÊN CHÚNG SANH, CHỈ LÀ MÔN TỊNH ÐỘ”.

 

Nơi đoạn Minh-Giáo của AN LẠC TẬP, Ðạo-Xước Thiền-sư có lời bình-luận : NẾU GIÁO PHÁP HỢP VỚI THỜI CƠ, THÌ DỄ TU, DỄ NGỘ. NHƯ GIÁO PHÁP TRÁI THỜI CƠ, TẤT KHÓ TU, KHÓ NHẬP. Nên Kinh Chánh-Pháp Niệm nói: " HÀNH GIẢ KHI NHỨT TÂM CẦU ÐẠO, PHẢI QUAN SÁT VỀ PHƯƠNG TIỆN THỜI CƠ, NẾU TRÁI VỚI PHƯƠNG TIỆN ÐÓ, TẤT BỊ THẤT LỢI”. Tại sao thế ?

Như cọ gỗ ướt để tìm lửa thì không thể được, vì trái thời. Và như bẻ cây khô để tìm nước, cũng chẳng thể có, vì không trí-huệ. Ðức Như-lai đã phân-định năm thời kiên-cố sau khi Ngài nhập-diệt, mỗi thời là năm trăm năm.  Trong các thời Chánh-pháp và Thiền-định Kiên-cố, hành-giả nên chọn Thánh-đạo, tu Ðịnh-huệ làm phần chánh, cầu Tịnh-độ làm phụ”.

Từ cuối thời Ða-văn kiên-cố bước sang thời Tháp-tự và Ðấu-tranh kiên-cố về sau, nên lấy Tịnh-độ làm phần chánh, tu Thánh-đạo làm phụ".

 

           Ngoài những chứng-liệu trên, còn lời huyền-ký của bậc chơn-tu đắc đạo là Thiên-Như Thiền-sư, cùng những điểm nhận-định và biện-chứng của các bậc danh-đức xưa nay. Trong phạm-vi khái-ước nầy không thể nêu ra hết được. Bên Trung-Hoa từ cuối đời nhà Tống về sau, các bậc Tôn-đức quan-sát rõ thời-cơ, đều chuyển lần từ Thiền trở sang xiển-dương Tịnh-độ.  Tuy nhiên vì Thiền tông lưu-hành hưng-thịnh từ lâu thành phong-thái, nên thường có sự tranh-đua giữa TỊNH VÀ THIỀN.

Song, đó chỉ là Kiến-chấp của một số người chưa Quán-triệt Phật-lý cùng Thời-cơ, còn các bậc cao Tăng đã Liễu-đạt, thì chỉ tùy-duyên mà duy hộ chánh-pháp, tuyệt không có tâm-niệm phân-biệt đây kia. Cứ trung-thật mà luận, chúng hữu-tình có nhiều tâm-bệnh cùng sở-nguyện, riêng một môn Tịnh-độ vẫn không thể phổ-cập và thích-ứng để hoằng dương chánh-pháp, lợi-ích quần-sanh,  nên rất cần sự có mặt của các pháp-môn.

Theo thiển-ý, trong thời Mạt-pháp, hành-giả các tông-khác, tuy hoằng-truyền bản-môn, nhưng cũng nên nghiên-cứu Tịnh tông và quy-hướng về lối vãng-sanh để bảo-đảm cho sự giải-thoát, như chư Tôn-đức bên Tông Tào-động, ngoài hoằng Thiền trong kiêm tu Tịnh khi xưa. Và người tu Tịnh-độ cũng cần học-hỏi các TÔNG khác, để thêm tiến-ích cho đường hành-đạo của mình, bởi mỗi TÔNG như những đóa-hoa, đều sáng tươi riêng phần đặc-sắc. Lời dẫn-luận trên, chỉ y theo quan điểm từ-mẫn lợi sanh của PHẬT và chư Cổ-đức, nêu ra một đường lối tu-tập thích-ứng với thời-tiết và cơ duyên mà thôi.

 

           Ở Trung-Hoa vào thời cận đại, có phong-trào chấn-hưng Phật-giáo do một số danh-tăng và Phật-tử trung-kiên cổ-xúy. Quán-sát hành-vi lúc sanh-thời và khi lâm-chung của ít người trong nhóm đó, những biểu-tượng mà thường nhơn không thể có được, nhiều nhà học Phật quả-quyết đó là các bậc Bồ-tát tái-lai để duy hộ  chánh-pháp. Trong hạng các người phi-thường ấy :

 

Đế-Nhàn pháp-sư  giảng-kinh khắp nơi, chấn-hưng về Thiên-Thai tông

 

Hư-Vân Thượng-nhơn tu chỉnh các danh-lam, thánh-tích của Phật-giáo, chấn-hưng về Thiền tông.

 

Ấn-Quang đại-sư  dùng thơ-tín, kinh, tượng độ vô-số người, chấn-hưng về Tịnh-độ tông.

 

Hoằng-Nhứt đại-sư  nghiêm giữ giới-hạnh, soạn thành bộ "Nam-Sơn Luật Uyển Tông-thư, chấn-hưng về luật tông.

 

Thái-Hư đại-sư  vận-động cuộc canh-tân Phật-giáo, chấn-hưng về Duy-thức tông.

 

Kim-Cang Thượng-sư  Hô-Ðồ Khắc-Ðồ Tây-Khang đến truyền-dương về Mật-tông.

 

Đến như cư sĩ  Dương-Nhân-Sơn trọn đời thành-lập Bang, Hội sưu-tầm và ảnh ấn các tượng Phật, Bồ-Tát và "Tam-tạng kinh-điển", để cho chánh-pháp khỏi bị sớm hủy-diệt  về sau.

          

Riêng ngài ẤN QUANG đã đem sự vãng-sanh lúc lâm-chung, chứng-minh cho lời nói và hành-động buổi bình-thời, thì không cần bàn luận.

Còn Đế-Nhàn pháp-sư  tuy hoằng dương kinh Pháp-Hoa, truyền dạy môn Tam-Quán, nhưng lúc lâm-chung vẫn theo gót đấng khai-tổ bản-tông là Thiên-Thai Trí-Giả, niệm Phật sanh về Cực-lạc.

Hư-Vân Thượng-nhơn tuy thị-hiện ngộ-đạo, làm mô-phạm hướng-dẫn hành-giả  tu Thiền, song khi gặp hoàn-cảnh, cơ-duyên cũng khuyên người niệm-Phật.

Hoằng-Nhất đại-sư  lưu lại bút-tích "Bi-Hân Giao-Tập", lúc lâm-chung  khi thấy Tây-phương Tam-Thánh đến rước.

Thái-Hư đại-sư  hoằng dương Duy-Thức, song hằng khen-ngợi mười phương Tịnh-độ, nhưng vì không muốn trái với ứng-tích của đấng khai-tổ là Di-lặc Bồ-tát, nên hồi-hướng cầu sanh Ðâu-Suất Tịnh-Độ.

Thượng-sư Hô-Ðồ Khắc-Ðồ tuy-truyền pháp "Thánh cứu-độ Phật mẫu", gồm 21 Độ Mẫu, hóa-thân của đức Quán-Âm để cứu nạn tai thời mạt-kiếp, song cũng khuyên hàng đệ-tử đem công-đức trì-niệm hồi-hướng về Cực-lạc.

Dương-Nhân Sơn cư-sĩ lúc mãn phần, ngồi chắp tay nói với các hàng đạo-hữu:  "Bản-nguyện của tôi cùng bản nguyện đức A-Di-Ðà dung-hợp nhau" , rồi niệm Phật mà hóa.

 

Có phải chăng các bậc danh-đức trên đây, tuy mỗi người làm một Phật-sự, song đã dùng bản thân, hoặc lời nói mà ngầm khuyên các hành giả chú trọng về sự giải-thoát, vãng sanh.

 

 

5.- LUẬN VỀ NGƯỜI VÀ CẢNH THỜI NAY

 

Nói-chung trên phương-diện hoằng-dương đạo-pháp, mỗi Tông đều phát-huy  những đặc-điểm của mình, để người học Phật tùy sở-thích mà thu-nhập. Nhưng bình-tâm thử-nghiệm xét, lúc nầy là thời buổi nào ?

 

           Thời nầy LUẬN VỀ NGƯỜI, thì chúng sanh phần nhiều đều nặng nghiệp. Bên Trung-Hoa, khoảng cuối đời nhà Thanh bước sang thời Dân-quốc, Cư-sĩ Cao-Hạt-Niên khi hỏi đạo nơi các danh-lam, gặp một vị cao-tăng ẩn-tu bảo:  

“Thời nay, trong 100 kẻ ác, mới có một người thiện. Trong 100 kẻ thiện, mới có một người hướng về đạo. Trong 100 kẻ hướng về đạo, mới có một người giữ vững tâm-nguyện, không thối-chuyển trên bước đường tu-hành.”

 

Thuở-xưa , trong lúc phú-pháp cho Huệ-Khả Ðại-sư, Tổ Ðạt-Ma có dạy:

“Khoảng 200 năm về sau, người học LÝ thì nhiều, song ngộ LÝ rất ít. Người nói Lý thì nhiều, song hành LÝ rất ít. Người hành LÝ hoặc nhiều, song chứng LÝ rất ít. Nên ý-thức, chỉ riêng bước đầu là phần học Phật-lý, nhiều kẻ nếu chẳng vướng về chấp CÓ, giữ chặt lấy SỰ TƯỚNG, thì cũng lạc vào chấp KHÔNG, bài-bác nhân-quả! Mấy ai là bậc hiểu sâu Phật thừa, liễu ngộ DIỆU HỮU TỨC CHƠN KHÔNG, CHƠN KHÔNG TỨC DIỆU HỮU ? Cư-sĩ tuy mộ-đạo, song dè-dặt đừng sa vào kiến-chấp đó”. 

 

Cao Hạt-Niên cư-sĩ có hỏi đến chỗ tiến chứng của nhiều bậc Trưởng-lão. Tất-cả đều khiêm-nhường Svà thành-thật trình-bày, đại-khái như: Nghiệp-chướng nặng, Còn nhiều tán-loạn, hôn-trầm, Giới-hạnh và oai-nghi kém-khuyết, Bước tu chưa đạt đến thật-địa…Khi cư-sĩ đề-cập đến những kẻ xưng mình đã chứng-ngộ, thì các vị ấy đều cảnh-giác:

“Theo kinh Lăng-Nghiêm, đức PHẬT có huyền-ký : Gần thì thập-thế 1000 năm (mỗi thế có 100 năm), xa thì bách-sanh 3000 năm  (mỗi sanh có 30 năm), có rất nhiều ma ngoại ám-nhập người tu, hoặc ẩn-bóng trong chánh-pháp. Thời buổi nầy, nếu có ai tự-xưng đã chứng-ngộ, hoặc bảo rằng mình là PHẬT, TỔ hiện-thân, đó đích-thị là hàng ma ngoại”. 

 

Những điều trình-thuật trên đây, cho chúng ta thấy CON NGƯỜI THỜI NAY HOẶC NGHIỆP và MA CHƯỚNG QUÁ NHIỀU !

 

LUẬN VỀ CẢNH, thì những tai-nạn : Ðộng đất, núi lở, bảo-lụt, trộm-cướp, chiến-tranh, lửa cháy, hạn-hán, mưa nắng trái thời, sâu trùng phá-hoại,  dịch-chướng lan-tràn, đã diễn ra ở nhiều nơi. Nhìn đến tương-lai, trận thế-chiến thứ ba chắc đâu tránh khỏi ! Các phái Tiên đều bảo buổi nầy là thời mạt-kiếp, có sự thanh-lọc rộng-lớn. Ðạo Chúa nói sẽ có tận-thế trước năm hai ngàn.

Còn riêng bên đạo Phật, khi HƯ VÂN thiền-sư xuất-thần lên cung trời Ðâu-xuất, được nghe DI LẶC Bồ-tát nói pháp-môn Duy-Tâm thức định. Nơi đoạn kết-thúc, Bồ-tát đọc bài kệ dài, trong ấy có mấy câu:


“Kiếp-nghiệp đương đầu.

Cảnh-tích phổ-giác.

Khổ-hải từ-hàng.

Vô-linh thối-khước”.

 

Ðại-ý của đức DI LẶC bảo, ở trần-giới tam tai tiểu-kiếp đã bắt đầu, gồm các nạn:  Ðói-khát, tật-dịch và chiến-tranh.  Bồ-tát khuyên thiền-sư và những hành-giả đạo Phật, nên làm chiếc thuyền từ trong biển khổ, nhắc-nhở chúng-sanh thức-tỉnh trước các tai-nạn ấy, mà gắng lo tu-hành, đừng để thối-chuyển ... Nói khái-quát, đi sâu vào thời mạt-pháp, chúng-sanh nghiệp nặng, thế-giới nạn-tai, cảnh nước lửa lầm-than đã hiện ra trước mắt. Thời buổi nầy, thật ra còn không nên có sự phân-biệt giữa các tôn-giáo, huống chi trong các môn phái đạo Phật! Hiện nay các đạo đều thi nhau đóng con thuyền tế-độ giữa cảnh sóng-gió, trầm-luân. Thần-đạo thì độ thuộc-phái trở về cảnh-giới Thần. Tiên-đạo thì độ các người có căn Tiên.

 

Còn Phật-đạo, tất phải khuyên kẻ hữu-duyên về nơi Phật-cảnh.

 

 

6.- VÀI ĐIỀU KẾT YẾU

          

Qua trên, Bút-giả đã trình-bày môn Tịnh-độ qua bốn yếu-điểm, rồi luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay, khái-lược các điều quan-yếu, để phụng-khuyến đồng  bạn trong biển mê tối trầm-luân, cùng hướng bước về nẻo sáng-suốt an-lành của pháp-môn Tịnh-độ. Đó là phần lý-thuyết,  còn phần thực-hành sẽ có NGHI THỨC ở chương sau.

 

Trong khi trình-luận, có mấy điểm đề-cập đến giới-hạn giữa TỊNH và THIỀN, cũng bởi-vì lý-do bất đắc-dĩ và cần-thiết:

 

“Vì một ít vị học Thiền, bài-bác việc tụng-kinh, niệm Phật qua nhiều điểm, khiến đa-số Phật-tử bối-rối  hoang-mang hỏi đến, nên bất đắc-dĩ phải biện-minh.

Vì nương theo gót từ-bi của Phật và chư Tôn-đức, đã nói về pháp hợp thời-cơ để làm lợi-ích cho người học-đạo, nên cần-thiết phải giải-thích. Bởi nếu nói pháp chẳng hợp cơ, tất chúng-sanh chìm trong bể-khổ.”

 

“Thuyết pháp bất đậu cơ,

Chúng sanh một khổ hải. ”

 

Thật ra, Bút-giả rất thích Thiền-tông và có-thể bảo là có căn-cơ về môn ấy. Nói mến-thích, vì Thiền-tông có những đặc-điểm của nó. Chẳng-hạn như, khi học-giả đến hỏi một Thiền-sư: Thế nào là đạo ?

 

Sư đáp:

 

“Một áng khói mây phong cửa động,

Muôn chim về tổ chợt mê đường!”

 

Chỉ dùng hai câu vừa văn-nhã, vừa giản-dị bao-quát để phá những khái-niệm phân biệt về đạo, đưa vào chân-tâm, Thiền-tông đã tỏa ra một hương vị thanh-thoát. Lại như câu chuyện, khi ngài Pháp-Nhãn hỏi Như-Tắc Thiền-sư: Sao chưa từng thấy giám-viện phỏng-đạo ?

 

Như-Tắc đáp, Tôi đã có chỗ sở-nhập do sư Thanh-Lâm khai-thị, vì khi tôi hỏi: Thế nào là Phật ?

 

Thanh-Lâm đáp: “Bính-Ðinh đồng-tử đi tìm lửa”. Ngài Pháp-Nhãn bảo: “Khá hay! Nhưng e ông chưa hiểu, vậy thử  tỏ bày chỗ kiến-giải xem sao ?

 

Như-Tắc thưa: “Bính, Ðinh (là hai can trong thập can) thuộc hành HỎA, tức là lửa, đem lửa tìm lửa, cũng như chính mình là PHẬT mà lại đi tìm PHẬT”. Pháp-Nhãn nói:  “Quả-nhiên Giám-viện hiểu sai rồi !” Như-Tắc không tỏ ra sắc giận, quay mình bỏ đi. Ngài Pháp-Nhãn bảo thị-giả: “Người nầy nếu trở lại thì cứu được, bằng không chắc chẳng thể cứu-độ”. Như TẮC Thiền-sư đi nửa đường, bỗng suy nghĩ: “ Ông ta là bậc Thiện tri-thức của đại chúng gồm 500 vị, chẳng lẽ lại trêu mình ?”. Liền trở lại, sám-hối cầu khai-thị.

 

PHÁP NHÃN bảo đề khởi lại câu hỏi trước. Sư liền đảnh-lễ thưa : “Bạch Tôn-đức, thế nào là PHẬT ?” PHÁP NHÃN đáp: “BÍNH ÐINH đồng-tử đi tìm lửa!”. Nghe xong NHƯ TẮC chợt tỏ ngộ.

 

Lối giải đáp của ngài PHÁP NHÃN là đúng ngay ý-thức tìm cầu về Phật đã có sẵn của NHƯ TẮC thiền-sư, hốt-nhiên đưa sư  đi thẳng vào cảnh-giới siêu-thức. Cảnh-giới tỏ-ngộ ấy sâu hay cạn và như thế nào, đều không phải lời nói, tâm-tư mà có thể đến được, chỉ do đương-nhơn tự biết lấy, như chính mình thể-nhận khi uống nước hoặc nóng hoặc lạnh mà thôi. Và đây cũng lại là một hương-sắc thơm đẹp của bên Thiền.

 

           Còn nói có căn về Thiền, vì Bút-giả lúc trẻ tuổi đang trên đường học đạo, một hôm đứng tựa gốc cây, bỗng-nhiên muôn niệm đều tiêu-tan, tâm cảnh thoạt vào cõi rất mực an-tĩnh, nhẹ-nhành, sáng-suốt. Cảnh thoát trần không thể diễn-tả ấy, chỉ kéo dài không đầy năm phút. Khi hoàn lại trạng thái cũ, Bút-giả suy-nghĩ  biết đó là túc-tập về tu Thiền trong một tiền-kiếp của mình. Từ ấy hằng ưa-thích thiền tĩnh-tọa. Trên bước tu, tuổi càng lớn, sự lịch-duyệt càng sâu, tự xét mình thiện căn tuy có song hoặc-nghiệp còn nhiều, lối luận-thuyết cao-siêu, sự hiểu biết chút ít về đạo, không thể đưa đến chỗ giải-thoát được. Do đó lần-lần hướng về Tịnh-độ, sám-hối, niệm Phật, cầu nguyện lực của Như-Lai hộ trì, tiếp dẫn.

 

Ðến nay, Thành-thật mà nói: “Gương tánh hãy mờ, gót tu chưa ổn, căn-thân chẳng tịnh, hạnh-kiểm còn sơ”. Soi gương Bá-Ngọc, hơn 50 vẫn còn thấy lỗi-lầm. Hướng gót Triệu-Châu, tuổi 80 còn mong học hỏi. Với danh-phận xuất-gia, tự thấy còn chưa xứng-đáng, chẳng qua trên cương-trường hoằng-hóa, phải cố-gắng đóng cho trọn vai-tuồng của mình đó thôi. Nhìn về tương-lai, Xét về bổn-phận, Xin mượn hai câu sau đây để tự diễn-tả:

 

Quý Tử áo thô nhiều vẻ thẹn,

Lưu-lang suối cũ luống bàng-hoàng!

 

 

CHƯƠNG 2 


NGHI THỨC MẬT TÔNG


 

          Từ đây trở về sau, những đoạn nào có khép vòng đơn ( ), là các điều căn-dặn hoặc dẫn-giải, in bằng chữ nghiêng.  Chữ lớn thẳng là phần xướng-tụng hành-trì. Trải nhiều năm kinh-nghiệm, bút-giả xét thấy các hành-giả thời nay có những ma-chướng, mà đạo-lực kém-yếu của phần đông người thời mạt-pháp khó nổi vượt qua.  Ðó là những ma-chướng nội-tâm,  ma-chướng ngoại-cảnh và ma-chướng thuộc giới vô-hình. Vì thế, sau khi nghiên-cứu trong Ðại-tạng, tệ-nhơn đã dựa vào kinh-nghiệm của chính mình và nhiều hành giả khác thuật lại, dung-hợp môn tu Tịnh-độ thuộc Mật-giáo cùng Hiển-giáo soạn ra nghi-thức nầy.

           Trong đây chú-trọng về sự khái-quát đơn-giản, lời gọn mà ý-tứ đầy-đủ.  Pháp-nghi nói sau chia ra làm ba phần:

     

1. Lễ bái sám hối

2. Trì chú niệm Phật

3. Phát nguyện hồi hướng

 

Xin lưu-ý, Pháp-nghi chỉ là hình-thức, là khuôn-mẫu, để cho “hành-giả” nương vào nơi sự-tướng mà tiến-tu, mà hướng về chơn-cảnh. Còn tiến-trình sâu hay cạn, thấp hay cao, công-đức ít hoặc  nhiều , còn tùy tâm chí-thành,  sức trì-niệm của các hành-giả.     

 


 

1. - PHẦN LỄ BÁI SÁM HỐI




 

( Trước tiên rửa tay, rửa mặt, lễ phục nghiêm-chỉnh. Khi đến nơi lễ tụng, Hành-giả dùng ẤN KIẾT TƯỜNG, tay trái ngón cái  nắm co đầu ngón vô danh, vẽ và tưởng chữ LAM. 

 




sắc trắng trong lòng tay mặt 3 lần.  Rồi tay mặt cũng kiết ấn  vẽ  vào lòng tay trái y như vậy. Kế tiếp đốt hương rồi bước lui đứng chấp tay trước bàn Phật, đọc bài kệ tán)

 

  

Pháp vương vô-thượng tôn

Tam-giới vô luân thất

Thiên nhơn chi Ðạo-sư

Tứ-sanh chi từ-phụ

Ư nhứt niệm quy-y

Năng diệt tam-kỳ nghiệp

Xưng dương nhược tán-thán

Ức kiếp mạc năng tận.

Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,

Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,

Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,

Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,

Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,

Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.


 

(Hành giả có thể đọc bài kệ tán khác mà mình thích)

 


PHỔ LỄ CHƠN NGÔN


ÁN ! PHẠ NHỰT RA VẬT 

( AUM ! VÀJRA VAṬ)


(7 lần)

 


            ( Trong khi tụng chú, kiết ẤN KIM CANG HIỆP CHƯỞNG để trên đầu, chấp hai tay lại  ngón so le, hữu áp tả. Theo Mật-giáo, nên tưởng mình hiện thân khắp pháp-hội 10 phương, lễ kính chư PHẬT. Xong xả ấn ngay nơi đảnh.)



CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trụ Tam-Bảo. (1 lạy)

 

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ: Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)

 

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)

 


(Kế tiếp, quỳ trước bàn Phật, chấp tay, chí-thành, đọc bài kệ Sám-hối)

 


 

SÁM THẬP PHƯƠNG 


 

Thập phương Tam-thế Phật

A-Di-Đà đệ nhứt,

Cửu phẩm độ chúng-sanh

Oai-đức vô cùng cực,

Ngã kim đại quy-y.

Sám-hối tam nghiệp tội,

Phàm hữu chư phước thiện,

Chí tâm dụng hồi-hướng.

Nguyện đồng niệm Phật nhơn,

Cảm ứng tùy thời hiện,

Lâm chung Tây-phương cảnh,

Phân-minh tại mục tiền,

Kiến văn giai tinh tấn,

Đồng sanh Cực-lạc quốc,

Kiến Phật liễu sanh-tử,

Như Phật-độ nhứt-thiết,

Vô-biên phiền-não đoạn,

Vô-lượng pháp môn tu;

Thệ nguyện độ chúng-sanh,

Tổng giai thành Phật đạo;

Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,

Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,

Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.

 

Nhứt giả lễ kính chư Phật,

Nhị giả xưng tán Như-Lai,

Tam giả quảng tu cúng-dường,

Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,

Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,

Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,

Thất giả thỉnh Phật trụ thế,

Bát giả thường tùy Phật học,

Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,

Thập giả phổ giai hồi-hướng.

 

Nguyện tương dĩ thử thắng công-đức,

Hồi-hướng vô-thượng chơn pháp-giới,

Tánh tướng Phật, Pháp cập Tăng-già,

Nhị đế dung thông tam-muội ấn,

Như thị vô-lượng công-đức hải,

Ngã kim giai tất tận hồi-hướng,

Sở hữu chúng-sanh thân, khẩu, ý,

Kiến hoặc đàn báng ngã pháp đẳng,

Như thị nhứt thiết chư nghiệp-chướng

Tất giai tiêu-diệt tận vô dư,

Niệm niệm trí châu ư pháp-giới,

Quảng độ chúng-sanh giai bất thối,

Nãi chí hư-không thế-giới tận,

Chúng-sanh cập nghiệp phiền-não tận,

Như thị tứ pháp quảng vô-biên,

Nguyện kim hồi-hướng diệc như-thị.

 

NAM MÔ ÐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT. (3 lần)

 

 

(Đứng lên chấp tay xướng)

 

Ðệ-tử Sám-hối, phát-nguyện rồi, chí-tâm đảnh-lễ Tam-bảo. (1 lạy)    

 

 

2.- PHẦN TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT


 


( Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật. Tịnh tâm trong giây phút, rồi Tưởng chữ  "LAM" sắc Trắng trên đầu, phóng ánh sáng Đỏ.) 





( Kế dùng ấn Kiết tường Viết và Tưởng chữ "LAM" cùng chữ "HÙM" cũng đều sắc Trắng, gia trì Hai lòng bàn tay và Chuỗi, mỗi nơi ba lần.

 

Lại tiếp dùng ấn Kiết tường, gia trì SỔ CHÂU chân ngôn sau đây nơi tràng Chuỗi, xong búng Ba cái, xả ấn trên Đảnh.)

                


GIA TRÌ SỔ CHÂU CHÂN NGÔN

 

UM! VAI RÔ CA NA MA RA XÓA HA 

(AUM !  VAIROCANA MARA SVĀHĀ)


 (7 lần)


( Xả ấn xong, vẫn ngồi chắp tay tụng bài Hương tán)

 

Nguyện thử diệu hương vân,

Biến mãn thập phương giới,

Cúng dường nhứt-thế Phật,

Tôn pháp chư Bồ tát,

Vô-biên Thanh văn chúng,

Cập nhứt thế Thánh-Hiền,

Duyên khởi quang minh đài,

Xứng tánh tác Phật-sự,

Phổ huân chư chúng-sanh,

Giai phát Bồ-Ðề tâm,

Viễn-ly chư vọng-nghiệp,

Viên-thành vô-thượng đạo.

 

NAM MÔ HƯƠNG VÂN CÁI B TÁT MA HA TÁT (3 ln)


 

(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)

         

Quang, thọ khó suy lường,

Sáng lặng khắp mười phương.

Thế Tôn Vô Lượng Quang,

Cha lành cõi Liên ban.

Thần lực chẳng tư nghì,

Sống lâu A tăng kỳ.

A-Di-Đà Như Lai,

Tiếp dẫn lên liên đài.

Cực Lạc cõi thuần tịnh,

Công đức lạ trang nghiêm.

Nơi tất cả quần sanh,

Vượt lên ngôi Bất thối.

Mười phương hằng sa Phật.

Đều ngợi khen Vô Lượng.

Cho nên hôm nay con,

Nguyện sanh về An Dưỡng.


NAM MÔ LIÊN TRÌ HI HI PHT B TÁT (3 ln)

 

(Tiếp tụng)


 

PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN


ÁN ! TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐÀ TA PHẠ, 

ĐẠT MẠ TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐỘ HÁM. 

UM ! LAM LAM LAM.


(7 lần)


( AUM!  SVABHÀVA SUDDHA, SARVA DHARMA, 

SVABHÀVA SUDDHA HAṂ

AUM !  RAM  RAM RAM )




HÁM



LAM


 



Khi tụng chú này, kiết Chuẩn Đề biệt ấn. Cả hai tay, ngón cái nắm co ba ngón: trỏ, vô danh và út. Kế hiệp hai lại, hai ngón giữa dụm đầu nhau dựng đứng. Tụng xong xả ấn nơi đảnh.

 

Đây là phối hợp chú Tịnh tam nghiệp và Tịnh pháp giới. Chân ngôn này có công năng khiến cho bên trong: thân, khẩu, ý, y phục, bên ngoài từ chỗ ở của mình đến hoàn cảnh rộng xa đều thanh tịnh. Do chú này, tội chướng đều được tiêu trừ, có thể thành tựu các việc thù thắng.) 


 

HỘ THÂN CHƠN NGÔN

 

       ÁN ! PHẠ NHỰT RA, A NGHĨ NI, 

BÁ RA NĂM BÌ ĐÁ DA, XÓA HA.

   ÁN ! XỈ LÂM XỈ LÂM XỈ LÂM.


(7 lần)


( AUM! VAJRA AGNI 

PRA NÀMBIDHÁYA SVAHA. 

AUM! SRAM SRAM SRAM)



XỈ-LÂM





Khi tụng chú này, kiết ấn Bị giáp hộ thân, Hành giả xoa hai tay vào trong, hữu áp tả, hai ngón giữa dựng đầu dính vào nhau, hai ngón cái áp vào ngón vô danh. Hai ngón trỏ cong lại như lưỡi câu, những không đụng vào lưng hai ngón giữa.

Đây là phối hợp chú hộ thân trong nghi Thập bát đạo và Mạn Thù Nhất Tự chân ngôn "XỈ LÂM", khi kiết tụng ấn chú này, thân của đương nhơn liền được mặc giáp trụ. Tất cả loài ma làm chướng ngại, bỗng thấy hành giả oai đức tự tại, ánh sáng bao phủ chói ngời, liền tan rã bỏ chạy. Sức chân ngôn nầy có thể bảo về được bản thân và tất cả mọi người quanh. Các ách nạn như: nước, lửa, cọp, sói, sư tử, dao gậy, gông xiềng thảy điều tiêu diệt. Khi tụng chú này xong 7 biến liền xả ấn nơi đảnh.




Kế hai tay đều kiết ấn Kim cang quyền, ngón cái bấm vào gốc ngón vô danh, nắm chặt lại. Rồi đem ấn in vào các nơi: trán, yết hầu, hai vai, ngực, rún, hai bắp đùi, sau thận môn, xương gu cổ và đảnh rồi xả ấn. Trong khi ấy miệng tụng chữ Hùm 


 HÙM


liên tiếp, cho đến khi xả ấn rồi mới thôi. Đây là pháp thức trấn tà ma không cho xâm nhập vào thân.)


 

VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN

 

NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA. 

NAM MÔ A RỊ DA.  A MI TÁ BÀ DA.  TÁT THA GA TÁ DA.  A RA HA TI.  SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA.  TÁT DA THA. 

UM !  A MI RỊ TI.  A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ GA BÊ.  A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ.  A MI RỊ TÁ SI TÊ.  A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.

A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ.  A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI.  A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI.  SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI.  SẠT VA MA CA LI.  SA KHẤT SÁ DU CA LI.  SÓA HA.

 

UM! BÚT RUM!  HÙM!

 

(54 hoặc 108 lần)


( NAMO RATNATRĀYAYA. 

NAMO ĀRYA. AMITABĀYA. TATTHĀGATAYA. ARAHATI. SAMYAKSAMBUDDHAYA. TADYATHĀ ! 

AUM ! AMIṚTI, AMIṚTA NABĀVE. AMIṚTA SAMBĀVE, AMIṚTA GABE, AMIṚTA ŚUDDHE, AMIṚTA SITE, AMIṚTÁ VICALANTE, 

AMIṚTA VICALANTA GĀMINI. AMIṚTA GAGANA KITICALI, AMIṚTA LODO VISABHATI. SARVARITHA SADHĀNI, SARVA MACALI. SAKSA YŪCALI. SVĀHĀ.

 AUM ! BHRUM, HŪM.)


 

BÚT-RUM !

( Bộ-lâm ! )



 HÙM




Khi tụng chân ngôn này, kiết ấn Vô Lượng liên hoa. Hai xoa bên ngoài hữu áp tả. Dựng hai ngón giữa đầu dụm cong lại như cánh sen. Có thể kiết ấn này tụng chân ngôn ba lần, xả ấn lên đảnh, rồi lần chuỗi ký số. Đà ra ni này, tụng một biến, diệt các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác trong tự thân, tất cả tội chướng đều tiêu diệt.

Nếu hàng xuất gia tăng ni, hoặc tại gia thiện tín, phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Khi kiết ấn tụng chơn ngôn nầy, liền cảnh giác đức Vô Lượng Thọ Như Lai phóng quang trụ nơi đảnh của hành-giả, và được sự nhiếp thọ. Tụng đến một vạn biến, Tâm bồ đề hiển hiện trong thân không quên mất.

Người trì niệm lần lần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng mát mẻ trong sạch như trăng thu, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành giả thấy Phật A Di Đà cùng với  vô lượng trăm ức chúng Bồ Tát vây quanh đến an ủi tiếp dẫn. Đương nhơn liền sanh về phẩm Thượng thượng ở Cực Lạc.

Câu: “UM! BÚT RUM!  HÙM!” là chân ngôn “Nhứt Tự chuyển luân”, như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. Trên đây là pháp thức Tịnh độ của Mật giáo. Các vị tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng chú nầy.

Bút-gi vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.

Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề.  Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.

Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.)



 MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

 

Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:

 

Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.

 

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA. (3 lần)



BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN

ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI

 

NAM-MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA.

A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA. (3 lần)

 


(Tụng ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI xong, tiếp chắp tay đọc bài kệ khen tướng hảo đức A Di Đà và tiếp qua niệm Phật.)



Khể thủ tây phương An-Lạc quốc

Tiếp dẫn chúng-sanh đại đạo sư

Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh

Duy nguyện từ-bi ai nhiếp thọ

 

Ngã kim phổ vị tứ ân tam hữu, cập pháp-giới chúng-sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô-thượng bồ-đề đạo-cố, chuyên tâm trì niệm A-Di-Ðà-Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh tịnh-độ. Duy nguyện Từ-Phụ A-Di-Ðà Phật ai lân nhiếp thọ từ-bi gia hộ.

 

A-Di-Ðà Phật thân kim sắc

Tướng hảo quang-minh vô đẳng luân,

Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di.

Hám mục trừng thanh tứ đại hải,

Quang trung hóa Phật vô số ức,

Hóa bồ-tát chúng diệc vô-biên,

Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

 

 

NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI

ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT

        

  (Kế tiếp niệm)

 

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

 

( Chuyên tụng Vô Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.

          Về cách trì niệm, tệ nhơn lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:

 

1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.

 

2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.

 

3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt.  Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.

 

4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.

 

          Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)

 

 

3.- PHẦN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG

 

(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)

 

Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)

Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)

Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)

Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)

Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)

 

(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)

 

Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.

 

Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.

         

          ( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)

 

NHỨT TÂM QUY MẠNG  ÐẢNH LỄ: Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A-Di-Ðà Như-Lai biến pháp giới Tam bảo (1 lạy)

 

Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)

Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)

Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)


NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ: Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)


 

CHUNG



UM! BÚT RUM!  HÙM!

(AUM ! BHRUM, HŪM.)


Comments

Popular posts from this blog