ĐẦU ĐÀ MINH TUỆ
ẨN TU NGẪU VỊNH
19.- Ẩn tu tế độ chẳng quên lòng !
Bi, Trí đôi đường phải suốt thông
Y sĩ nhân TÂM dù đã sẳn
Còn rành nhân THUẬT mới thành công !
NHƯ Ý : Muốn thực hiện lòng nhân ái, tất phải có trước nhân ái HOÀN BỊ, ví như Y BÁC SĨ tuy có tâm cứu đời, nhưng về Y THUẬT phải rành rẽ chắc chắn, mới khỏi lầm lẫn làm CHẾT người, trái với LÒNG NHÂN của mình.
Người tu PHẬT cũng thế, muốn thực hiện TỪ BI, phải có đủ TRÍ HUỆ (PHƯƠNG TIỆN TÙY CƠ), muốn cứu độ chúng sanh trước phải CHỨNG Vô-sanh.
Kinh nói: "Bồ Đề tâm làm nhân, đại bi làm căn bản, phương tiện làm cứu cánh." Ví như người đi xa, trước tiên phải nhận định mục tiêu sẽ đến, phải ý thức chủ đích cuộc hành trình bởi lý do nào, và sau cùng dùng phương tiện hoặc xe, thuyền, hay phi cơ mà khởi tiến. Người tu cũng thế, trước tiên phải lấy quả Vô Thượng Bồ Đề làm mục tiêu cứu cánh; lấy lòng đại bi lợi mình lợi sanh làm chủ đích thật hành; và kế đó là tùy sở thích căn cơ lựa chọn các pháp môn hoặc Thiền, hoặc Tịnh, hoặc Mật, hoặc 12 HẠNH ĐẦU ĐÀ... làm phương tiện tu tập. Phương tiện với nghĩa rộng hơn, còn là trí huệ quyền biến tùy cơ nghi, áp dụng tất cả hạnh thuận nghịch trong khi hành đạo Bồ Tát. Cho nên Bồ Đề tâm là mục tiêu cần phải nhận định của hành giả, trước khi khởi công hạnh huân tu. Vì thế, chương trước đã đề cập sự thiết yếu của môn Niệm Phật cùng chủ đích cầu thoát sanh tử của môn này, chương tiếp đây lại cần ghi nhận Bồ Đề tâm là tiêu điểm cuối cùng phải đi đến. Đức Thế Tôn thuở xưa khi thuyết về Tứ Đế, đáng lẽ trước tiên phải nói Tập Đế là nguyên do, nhưng Ngài lại sắp Khổ Đế lên hàng đầu, là muốn trình bày quả khổ cho chúng sanh dễ nhận thấy để sanh lòng lưu ý kinh sợ, rồi sau mới tìm xét đến nguyên ủy cội nguồn. Cũng thế, nơi đây bút giả tuân theo ý kiến tiên đức, trước tiên nêu môn Niệm Phật cầu giải thoát làm vấn đề cấp thiết, rồi sau mới luận đến Bồ Đề tâm.
Kinh Hoa Nghiêm bảo: "Nếu quên mất tâm Bồ Đề mà tu các pháp lành, đó là nghiệp ma." Lời này xét ra rất đúng. Ví như người cất bước khởi hành mà chẳng biết mình sẽ đến đâu, và đi với mục đích gì, thì cuộc hành trình chẳng thành quanh quẩn, mỏi mệt, cùng vô ích lắm ư? Người tu cũng thế, nếu dụng công khổ nhọc mà quên sót mục tiêu cầu thành Phật để lợi mình lợi sanh, thì bao nhiêu hạnh lành chỉ đem đến kết quả hưởng phước nhơn thiên, chung cuộc vẫn bị chìm mê quanh quẩn trong nẻo luân hồi, chịu vô biên nỗi khổ. Như vậy chẳng là nghiệp ma còn là gì? Thế thì phát lòng Vô Thượng Bồ Đề để lợi ích mình và chúng sanh, phải ghi nhận là điểm phát tâm rất cần yếu.
Tiết 9.- Bồ
Đề Tâm Với Môn Tịnh Độ
* Phật pháp theo sự tùy hóa, thông thường có hai cấp bậc là Tiểu
Thừa và Đại Thừa. Tiểu Thừa nói những pháp thấp nhỏ, trọng tâm hướng về mục
tiêu gấp cầu liễu sanh tử cho chính mình, và
chỉ đi đến quả vị A La Hán hoặc Duyên Giác. Đại Thừa nói các pháp rộng lớn,
hướng về hoằng nguyện độ thoát tất cả chúng sanh, và đi đến quả vị Toàn Giác của Như Lai. Pháp môn Niệm Phật thuộc về
Đại Thừa, nên chẳng những đi về chiều hướng tự độ mà còn kiêm cả độ tha.
Đạo Phật du nhập vào Trung Hoa, trải qua sự hoằng dương của chư
vị Tổ Sư, kết quả lập thành mười tông. Trong
đó có hai tông thuộc về Tiểu Thừa là Thành Thật Tông và Câu Xá Tông. Nhưng
căn tánh của người Trung Hoa không hợp với pháp Tiểu Thừa, nên không bao lâu
hai tông này đều bị tàn tạ. Còn tám tông kia thì thuộc về Đại Thừa, gồm có
Thiên Thai Tông, Hiền Thủ Tông, Tam Luận Tông, Pháp Tướng Tông, Luật Tông,
Thiền Tông, Mật Tông và Tịnh Độ Tông. Môn hoằng dương của Tịnh Độ Tông là pháp
Niệm Phật. Nếu pháp môn này chỉ giảng thuyết về sự tự độ, thì e cho đã bị tiêu
mòn như hai tông Tiểu Thừa kia từ lâu rồi. Nước Việt Nam ta là một bán đảo
thuộc miền duyên hải, dân tánh có chiều hướng hoạt động suy tư rộng, nên phần
lớn thích hợp với Đại Thừa. Nên từ xưa đến nay, tại đất nước này, Thiền Tông và
Tịnh Độ đã chiếm phần ưu thắng.
* Luận về pháp, những pháp nào đi đến Phật quả cứu cánh, giảng
thuyết rộng về giới ngoại và sự lợi tha, đó là pháp Đại Thừa. Trái lại, chính
là pháp Tiểu Thừa. Nhưng điểm chủ
yếu để phân định Tiểu Thừa hay Đại Thừa, là thuộc về tâm chớ không phải pháp. Nếu dùng pháp Tiểu Thừa hoằng hóa làm phương tiện để dẫn đến
Phật quả thì đó chính Đại Thừa. Chẳng thế, khi đức Như Lai giảng dạy về Tiểu Thừa giáo, Ngài
cũng là hạng Tiểu Thừa hay sao? Vì lẽ ấy cho nên người niệm Phật cần phải chú
trọng về chỗ phát tâm, tức là phát Vô Thượng Bồ Đề tâm. Môn Niệm Phật đã thuộc
về pháp Đại Thừa nếu hành giả tu theo môn này lại phát đại Bồ Đề tâm nữa, thì
tâm và pháp đều được toàn vẹn, sẽ đi đến quả Viên Giác kiêm cả tự lợi lợi tha.
Nếu phát tâm nhơn thiên thừa mà niệm Phật, thì môn Niệm Phật thành pháp nhơn
thiên. Người niệm Phật mà phát tâm như thế, chỉ hưởng được sự sang quý ở cõi
người cõi trời, khi phước báo hết, lại chịu luân hồi sa đọa. Nếu phát tâm Tiểu
Thừa mà niệm Phật, thì môn Niệm Phật thành pháp Tiểu Thừa. Người niệm Phật mà
phát tâm này, thì chỉ được quả giác thấp kém không viên mãn của Thanh Văn,
Duyên Giác, lại còn phạm lỗi nhỏ hẹp thiếu lòng từ bi, duy biết lo giải thoát
cho mình, không đoái đến bao nhiêu chúng sanh đau khổ khác. Cho nên niệm Phật cần phải phát Vô Thượng
Bồ Đề tâm. Lời tục thường nói: "Sai
một ly, đi ngàn dặm." Người niệm Phật tu hành đối với điểm phát tâm có
chính xác cùng không, há chẳng phải là một điều đáng chú ý lắm ư?
“NIỆM PHẬT” THEO “BÁT CHÁNH ĐẠO”?
KINH, LUẬT, LUẬN nào nói đều nầy?
NIỆM PHẬT
Phải Phát
Lòng Bồ Đề
Ba cõi không an dường hỏa trạch
Đâu miền chân lạc khỏi tang thương?
Người vô thường,
Cảnh vô thường!
Khuyên gọi cùng nhau tỉnh mộng
Quay về bể giác thanh lương.
Khởi lòng bi trí
Nguyện độ mười phương.
Ba tăng kỳ kiếp tu muôn hạnh.
Bền lòng không thối chuyển
Cầu ngôi vị Pháp Vương!
Tôn Giả
Ma Ha Ca Diếp
Đầu Đà Đệ
Nhất
Hòa Thượng
Tuyên Hóa
(TRÍCH
TỪ KINH PHÁP HOA LƯỢC GIẢNG)
12 HẠNH
ĐẦU ĐÀ
1. MẶC Y BÁ NẠP
2. CHỈ DÙNG BA BỘ ÁO
3. KHẤT THỰC
4. KHẤT THỰC CÓ THỨ TỰ
5. NGÀY ĂN MỘT BỮA
6. ĂN CÓ TIẾT LƯỢNG
7. QUÁ GIỜ NGỌ KHÔNG UỐNG NƯỚC CÓ CHẤT
BỔ
8. Ở NƠI A LAN NHÃ
9. Ở DƯỚI GỐC CÂY
10. Ở NGOÀI TRỜI
11. Ở NGOÀI NGHĨA ĐỊA
12. LƯNG KHÔNG CHẠM ĐẤT
13
HẠNH ĐẦU ĐÀ Thanh Tịnh Đạo Luận
1. Hạnh phấn tảo y 2. Hạnh ba y 3. Hạnh khất thực 4. Hạnh khất thực từng
nhà
5. Hạnh nhất toạ thực 6. Hạnh ăn bằng bát
7. Hạnh không để dành
đồ ăn (không nhận đồ ăn sau khi đã ăn xong) 8. Hạnh ở rừng 9. Hạnh ở gốc cây 10. Hạnh ở giữa trời 11. Hạnh ở nghĩa địa 12. Hạnh nghỉ chỗ nào cũng xong ? 13. Hạnh ngồi (không nằm) |
13
HẠNH ĐẦU ĐÀ ĐẦU
ĐÀ MINH TUỆ
1. Mặc y phấn tảo 2. Chỉ mặc ba y 3. Phải khất thực để sống 4. Khất thực theo thứ lớp (đến từng nhà) 5. Ăn ngồi một lần 6. Ăn bằng bình bát (ăn trong một bát) 7. Không để dành đồ ăn 8. Sống ở trong rừng 9. Ở dưới gốc cây 10. Ở ngoài trời 11. Ở nơi nghĩa địa, bãi tha ma 12. Nghỉ ở đâu cũng được ?
13. Ngồi ngủ, không được
nằm ngủ |
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
KINH NIỆM PHẬT BA LA MẬT
- "Kính bạch Đại-sĩ, con thường nghe chư vị trưởng lão từng tham dự những buổi thuyết pháp đầu tiên của đức Thế-Tôn tại vườn Lộc-Uyển, dạy rằng hoặc niệm Phật, hoặc niệm Pháp, hoặc niệm Tăng để được hiện tại lạc trú. Ý nghĩa ấy như thế nào ? Cứu cánh của môn niệm Phật có phải chăng là để được như vậy hay không ? Ngưỡng mong Đại-sĩ từ bi chỉ dạy, ngõ hầu các chúng sanh thời Mạt pháp khỏi rơi vào mê lầm, thác ngộ".
Phổ-Hiền Bồ-Tát bèn quán sát tâm niệm của hết thảy đại chúng hiện tiền, mà dạy rằng :
- "Nầy Phật tử, khi đức Thế-Tôn Thích-Ca Mâu-Ni thị hiện thành đạo, và bắt đầu hóa độ chúng sanh cang cường, Ngài đã vì hạng tiểu căn mà khai diễn tiểu pháp kẻo họ kinh nghi ... Nay đã tới thời kỳ giảng nói Đại pháp. Cũng chỉ là một pháp Niệm Phật, nhưng kẻ hạ liệt chí nhỏ, mong cầu xuất ly tam giới, thì niệm Phật chỉ là pháp Thanh-văn, Duyên-giác. Như-Lai vì họ mà dạy hiện tại lạc trú.
“ Riêng chư vị Bồ-Tát sơ phát tâm, dùng niệm Phật để thâm nhập Như-Lai tạng tâm thì không dính mắc vào hiện tại.
Đức Phật Thế-Tôn, Chánh Biến Tri
Tướng hảo đoan nghiêm đều viên mãn,
Rủ lòng đại từ bi vô hạn,
Mở bày đại pháp cứu quần mê.
Niệm Phật hiện tiền đắc Phật tướng,
Thâm nhập cảnh giới bất tư nghị.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Quyết định một lòng xưng niệm Phật,
Hồng danh chứa nhóm vô lượng nghĩa,
Lợi lạc muôn ức chúng hữu tình.
Đức Phật Thế-Tôn, đấng Vô-thượng
Tri kiến, giác ngộ đều quang minh,
Rắc rải tuệ nhật khắp mười phương,
Rưới trận mưa pháp như Cam lộ.
Niệm Phật vãng sanh cõi Cực-Lạc,
An nhiên chứng đắc Vô-Sanh-Nhẫn.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Gìn giữ thân tâm bằng Phật hiệu,
Hồng danh tỏ ngộ Chân Như Tánh,
Dẫn dắt chúng sanh vào Tam-muội.
Đức Phật Như-Lai đấng Bất-động
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng đoạn thường,
Xa lìa chấp hữu hoặc chấp vô,
Tự tại chỉ bày phương tiện lực.
Niệm Phật an trụ nơi bản giác,
Tùy nghi hòa hợp với tánh Không.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Trang nghiêm tự thân bằng niệm Phật,
Hồng danh hiển phát Hư-Không-Tạng,
Tức thời thẳng vào Viên-giác-tánh.
Con nay xưng tán Đại Đạo-Sư,
Khen ngợi hồng danh vô lượng lực.
Nguyện đem hồi hướng khắp chúng sanh,
Mong cầu hết thảy cùng niệm Phật.
Niệm Phật Phải Quyết Định Nguyện Vãng Sanh
Kinh A Di Đà, đức Thích Tôn cứ
mãi nhắc đi nhắc lại điểm ấy, qua các đoạn văn như sau:
* "Lại nữa, Xá
Lợi Phất! Chúng sanh về cõi nước Cực Lạc đều là hàng A Bệ Bạt Trí. Trong ấy có
nhiều bậc Nhất Sanh Bổ Xứ, số lượng rất đông, không thể dùng toán số tính biết
được, chỉ có thể lấy số không lường không ngằn a tăng kỳ để nói mà thôi. Xá Lợi
Phất! Chúng sanh nghe rồi, phải nên phát nguyện cầu sanh về cõi kia. Bởi tại
sao? Vì được cùng các bậc thượng thiện nhơn như thế đồng họp một chỗ.
... Xá Lợi Phất! Ta
thấy sự lợi ích đó, nên nói lời này. Nếu có chúng sanh nào nghe lời nói đây,
phải nên phát nguyện cầu sanh về quốc độ ấy.
... Xá Lợi Phất!
Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh về
nước Phật A Di Đà, những người đó hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh,
đều được không thối chuyển nơi quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ở cõi nước
kia. Cho nên Xá Lợi Phất! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn nếu có lòng tin, phải
nên phát nguyện cầu sanh về quốc độ ấy."
Như trên, ta thấy
đức Thích Tôn mãi nhắc đi nhắc lại hai chữ "phát nguyện" lời ý đều
khẩn thiết. Cho đến phần kết cuộc của kinh văn, Ngài cũng vẫn đôi ba phen bảo
phải phát nguyện cầu sanh. Tại sao thế? Vì nếu về cõi Cực Lạc, sẽ được ở cảnh
giới vô cùng mầu đẹp trang nghiêm, được thân kim cương đủ ba mươi hai tướng
tốt, dứt hẳn nỗi khổ sanh già bịnh chết; được gần gũi Phật, chư đại Bồ Tát và
hội họp với các bậc thượng thiện nhơn; được thần thông Tam Muội, không còn thối
chuyển nơi quả vô thượng Bồ Đề. Bởi trí huệ của Phật nhìn thấy rất nhiều sự lợi
ích như thế, Ngài mới vận lòng từ bi vì
cứu độ loài hữu tình mà khuyên phát nguyện vãng sanh. Lòng bi mẫn của đức Thích
Ca Thế Tôn, thật là vô lượng.
CHÚ “ĐẠI BI” KHÔNG PHẢI “PHÁP HÀNH”?
“Vấn đề hoằng dương Phật pháp không phải là sự dễ.
Nói đâu phải có văn Kinh làm chứng đến đó, mới thủ tín
được".
Phải biết chư PHẬT, BỒ
TÁT hoằng pháp có nhiều cách : hoặc THUẬN hoặc NGHỊCH,
hoặc ẩn hoặc hiển, kiến thức phàm phu không thể hiểu thấu. Biết chừng
đâu ĐẦU ĐÀ MINH TUỆ thị hiện
không rõ thấu để thúc đẩy thêm sự tín hướng CHÚ ĐẠI BI của người
sau!” !?
“HÀNG PHỤC” LÀ LÀM CHO “CHÚNG SANH”
MAU THÀNH “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”.
Đây là bổn nguyện của Bồ tát, vì muốn cứu độ tất cả chúng sanh sẽ thành PHẬT ĐẠO, đặc biệt là qủy, thần. Nhưng muốn độ qủy, thần thì phải cùng loại với họ thì mới độ được. Đây cũng có thể gọi là hoá thân của BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM để dạy tất cả qủy thần khác tu đạo.
Tại sao? Vì Bồ-tát do trì Chú đại bi và 42 thủ nhãn mà thành CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI. Cho nên, Qủy thần NGHE TRÌ “Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp” TRONG 7 NGÀY LIÊN TỤC, thì sẽ thành “PHẬT ĐẠO” như ngài không khác.
Có lẽ, đây là chổ thần diệu nhất TRONG 42 THỦ NHÃN của KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI, là có thể Ngăn chặn tất cả việc ác không cho thành tựu, còn tất cả thiện căn công đức thì sớm được thành tựu viên mãn, lại làm cho thân tâm của QỦY THẦN thường an vui thanh tịnh.
LAM
Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo (3 lần)
Y Hê Di Hê [36]
Án-- độ nẳng, phạ nhựt-ra xá.
Hỏi: Thầy có trì chú Đại Bi không?
Đáp: À, cái chú đó học làm cái gì đâu! Con không học chú Đại Bi. Con đọc qua, vậy thôi, cái đó không phải pháp hành.
Hỏi: Sao rất nhiều người hay đọc chú đó, rất là linh nghiệm?
Đáp: Dạ, nhưng cho con hỏi, anh có thể nói chú Đại Bi chắc
anh cũng hiểu về chú Đại Bi rồi?
Hỏi: con có đọc nhưng không hiểu.
Đáp: Chú Đại Bi chẳng hạn như đọc cái thần chú đó lên với mục
đích làm gì cơ? Nếu mà để trừ TÀ, trừ
MA hay trừ QUỶ gì đó để cho mình yên ổn, được an ổn. Chẳng hạn như giờ con thấy
một con quỷ ở đó, tới đọc thần chú để hại nó, để mình được an ổn thì mình độc
ác, đâu có cần thần chú đó đâu? Mình TỪ
BI, mình hại họ, đánh đập họ, đuổi họ đi để mình có chỗ ở, hay mình được an
ổn thì cái đó học làm gì đâu? ĐÓ LÀ ĐIỀU
ÁC!
(Nếu mà để trừ TÀ, trừ MA hay trừ QUỶ gì đó để
cho mình yên ổn, được an ổn. KINH, LUẬT,
LUẬN nào nói đều nầy?
Và
từ (Thiên Quang Vương Tĩnh
Trụ Như Lai) ấy
đến nay, tôi (Bồ-tát Quán Thế
Âm)
vẫn hằng trì tụng chú (ĐẠI
BI) này, chưa từng quên bỏ.
Bồ-
tát Quán Thế Âm trong vô lượng kiếp về trước
từng thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai mà chưa từng quên bỏ. (CHÚ ĐẠI BI)
Vậy Bồ-tát Quán Thế Âm không có “TÂM ĐẠI BI CHĂNG” ?
Lại nói, trì chú ĐẠI BI để được TÂM ĐẠI BI; nhưng ĐẦU ĐÀ MINH TUỆ
đã có
TÂM ĐẠI BI rồi, cần chi phải trì CHÚ ĐẠI BI?
Vậy
Bồ-tát Quán Thế Âm cũng phải hổ thẹn với “ĐẦU ĐÀ MINH
TUỆ
” rồi
phải không?
Đức Phật bảo: - Vị Bồ Tát ấy hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng
tên là Nhiên Sách, cũng gọi là Thiên Quang Nhãn.
Này thiện nam tử! Quán Thế Âm Bồ Tát thần thông oai lực không
thể nghĩ bàn, trong vô lượng kiếp về
trước từng thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì nguyện lực đại
bi, vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các hàng Bồ Tát, vì muốn an vui
thành thục cho chúng sanh, ngài mới giáng tích hiện làm Bồ Tát. Vậy ông và đại
chúng, các hàng Bồ Tát, Ma Ha Tát, Phạm vương, Đế Thích, Long thần đều nên cung
kính, chớ sanh lòng khinh mạn, xem thường. Nếu tất cả hàng trời, người thường
xưng niệm, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ được vô lượng phước diệt vô lượng
tội , mạng chung sanh về cõi nước của Phật A Di Đà.
Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: Bạch đức Thế tôn! Tôi nhớ vô
lượng ức kiếp về trước, có Phật ra đời, hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như
Lai, đức Phật ấy vì thương nghĩ đến tôi và tất cả chúng sanh nên nói ra môn Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra
Ni, ngài lại dùng tay sắc vàng xoa nơi đầu tôi mà bảo: Thiện nam tử! Ông
nên thọ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi nước ở đời vị
lai mà làm cho họ được sự an vui lớn.
Lúc đó tôi mới ở ngôi sơ địa, vừa nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Bấy giờ
tôi rất vui mừng, liền phát thệ rằng:
Nếu trong đời vị lai, tôi có thể làm lợi ích an vui cho tất cả
chúng sanh với thần chú này, thì xin
khiến cho thân tôi liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt.
Khi tôi phát thệ rồi, thì ngàn tay ngàn mắt đều hiện đủ nơi
thân, lúc ấy, cõi đất 10 phương rung động 6 cách, ngàn đức Phật trong 10 phương
đều phóng ánh quang minh soi đến thân tôi, và chiếu sáng 10 phương vô biên thế
giới. Từ đó về sau, tôi ở trong vô lượng pháp hội của vô lượng chư Phật, lại
được nghe và thọ trì môn đà ra ni này. Mỗi lần nghe xong, tôi khôn xiết vui
mừng, liền được vượt qua sự sanh tử vi tế trong vô số ức kiếp. Và từ (Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai) ấy đến nay, tôi (Quán Thế Âm Bồ-tát) vẫn hằng trì tụng chú này, chưa từng quên
bỏ. Do sức trì tụng ấy, tùy theo chỗ sanh, tôi không còn chịu thân bào
thai, được hóa sanh nơi hoa sen, thường gặp Phật nghe pháp. Nếu có vị Tì khưu,
Tỳ khưu ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hay đồng nam, đồng nữ nào muốn tụng trì chú
này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh, và sau đây y theo tôi
mà phát nguyện:
Nam
mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con mau biết tất cả pháp.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con sớm được mắt trí huệ.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con mau độ các chúng sanh,
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con sớm được phương tiện khéo.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con mau lên thuyền bát nhã.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con sớm được qua biển khổ,
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con mau được đạo giới định.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con sớm lên non Niết Bàn.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con mau về nhà vô vi.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.
Nếu con hướng về nơi non đao,
non đao tức thời liền sụp đổ.
Nếu con hướng về lửa, nước sôi,
nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.
Nếu con hướng về cõi địa ngục,
địa ngục liền mau tự tiêu diệt,
“NẾU CON HƯỚNG VỀ LOÀI NGẠ QUỶ”.
Ngạ quỷ liền được tự no đủ,
Nếu con hướng về chúng Tu La,
Tu la tâm ác tự điều phục,
Nếu con hướng về các súc sanh,
súc sanh tự được trí huệ lớn.
Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn!
Nếu chúng sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào 3 đường ác, tôi thề không thành chánh giác.
Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cõi Phật, tôi thề
không thành chánh giác.
Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng tam muội biện tài, tôi
thề không thành chánh giác.
Tụng trì thần chú Đại Bi tất cả sự mong
cầu trong đời hiện tại, nếu
không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi
tâm đà ra ni, “DUY TRỪ CẦU
NHỮNG VIỆC BẤT THIỆN”, trừ kẻ tâm không chí thành.
KINH THIÊN THỦ THIÊN
NHÃN
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG
ÐẠI VIÊN MÃN
VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ÐÀ RA
NI
Đời Đường, Sa-môn Dà-Phạm Đạt-Mạ người xứ Tây-Thiên-Trúc dịch
Comments
Post a Comment