KINH: Lúc xướng chữ A, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là Bồ
Tát oai lực nhập vô sai biệt cảnh giới.
ĐẠI PHƯƠNG
QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi
chín
Hán Dịch: Ðại Sư
Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa
thượng THÍCH TRÍ TỊNH
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP
PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
44- THIỆN TRI CHÚNG
NGHỆ HỌC BỒ TÁT TỰ TRÍ
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT THIỆN
TRI CHÚNG NGHỆ” nầy.
Thiện-Tài vâng lời đến đảnh lễ
đồng-tử, cung kính thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm
vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu
bồ-tát-đạo. Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Ðồng-Tử nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ta được
bồ-tát giải-thoát-môn tên là thiện-tri-chúng-nghệ.
Ta hằng xướng trì những tự-mẫu
nầy:
Lúc xướng chữ A, thời nhập bát-nhã
ba-la-mật-môn tên là bồ-tát-oai-lực nhập vô-sai-biệt cảnh-giới.
Lúc xướng chữ ÐA, thời nhập
bát-nhã ba-la-mật-môn tên là vô-biên-sai-biệt-môn.
Lúc xướng chữ BA, thời nhập
bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-chiếu-pháp-giới.
Lúc xướng chữ GIẢ, thời nhập
bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-luân-đoạn-sai-biệt.
Lúc xướng chữ NA, thời nhập
bát-nhã ba-la-mật-môn tên là đắc-vô-y-vô-thượng.
Lúc xướng chữ LÃ, thời nhập
bát-nhã ba-la-mật-môn tên là y-chỉ-vô-cấu.
Lúc xướng chữ ÐẢ, thời nhập
bát-nhã ba-la-mật-môn tên là bất-thối-chuyển-phương-tiện.
Lúc xướng chữ BÀ, thời nhập
bát-nhã ba-la-mật-môn tên là kim-cang-tràng.
Lúc xướng chữ ÐỒ, thời nhập
bát-nhã ba-la-mật-môn tên là nhật-phổ-luân.
Lúc xướng chữ SA, thời nhập
bát-nhã ba-la-mật-môn tên là hải-tạng.
Lúc xướng chữ PHƯỢC, thời nhập
bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-sanh-an-trụ.
Lúc xướng chữ ÐÁ, thời nhập
bát-nhã ba-la-mật-môn tên là viên-mãn-quang.
Lúc xướng chữ DÃ, thời nhập
bát-nhã ba-la-mật-môn tên là sai-biệt-tích-tụ.
Lúc xướng chữ SẮC-TRA, thời
nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-quang-minh-tức-phiền-não.
Lúc xướng chữ CA, thời nhập
bát-nhã ba-la-mật-môn tên là Vô-sai-biệt-vân.
Lúc xướng chữ TA, thời nhập
bát-nhã ba-la-mật-môn tên là giáng-chú-đại-vũ.
Lúc xướng chữ MẠ, thời nhập
bát-nhã ba-la-mật-môn tên là đại-lưu-thoan-khích-chúng-phong-tề-trĩ.
Lúc xướng chữ GIÀ, thời nhập
môn bát-nhã ba-la-mật tên là phổ-an-lập.
Lúc xướng chữ THA, thời
nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là chơn-như-bình-đẳng-tạng.
Lúc xướng chữ XÃ, thời nhập môn
bát-nhã ba-la-mật tên là nhập-thế-gian-hải-thanh-tịnh.
Lúc xướng chữ TOẢ, thời nhập
môn bát-nhã ba-la-mật tên là niệm-nhứt-thiết-phật-trang-nghiêm.
Lúc xướng chữ ÐÀ, thời nhập môn
bát-nhã ba-la-mật tên là quán-sát-giản-trạch-nhất-thiết-pháp-tụ.
Lúc xướng chữ XA, thời nhập môn
bát-nhã ba-la-mật tên là tùy-thuận-nhất-thiết-phật-giáo-luân-quang-minh.
Lúc xướng chữ KHƯ, thời nhập
môn bát-nhã ba-la-mật tên là tu-nhơn-địa-trí-huệ-tạng.
Lúc xướng chữ XOA, thời nhập
môn bát-nhã ba-la-mật tên là tức-chư-nghiệp-hải-tạng.
Lúc xướng chữ TA-ÐA, thời nhập
môn bát-nhã ba-la-mật tên là quyên-chư-hoặc-chướng-khai-tịnh-quang-minh.
Lúc xướng chữ NHƯƠNG, thời nhập
môn bát-nhã ba-la-mật tên là tác-thế-gian-trí-huệ-môn.
Lúc xướng chữ HẠT-LÃ-ÐA, thời
nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là sanh-tử-cảnh-giới-trí-huệ-luân.
Lúc xướng chữ BÀ, thời nhập môn
bát-nhã ba-la-mật tên là nhất-thiết-trí-cung-điện-viên-mãn-trang-nghiêm.
Lúc xướng chữ XA, thời nhập môn
bát-nhã ba-la-mật tên là tu-hành-phương-tiện-tạng-các-biệt-viên-mãn.
Lúc xướng chữ TA-MẠ, thời nhập
môn bát-nhã ba-la-mật tên là tùy-thập-phương-hiện-kiến-chư-phật.
Lúc xướng chữ HA-BÀ, thời nhập
môn bát-nhã ba-la-mật tên là quán-sát nhất-thiết vô-duyên chúng-sanh
phương-tiện nhiếp-thọ linh xuất-sanh vô-ngại-lực.
Lúc xướng chữ THA, thời nhập
môn bát-nhã ba-la-mật tên là tu-hành-xu-nhập-nhất-thiết-công-đức-hải.
Lúc xướng chữ GIÀ, thời nhập
môn bát-nhã ba-la-mật tên là trì-nhất thiết-pháp-vân-kiên-cố-hải-tạng.
Lúc xướng chữ TRA, thời nhập
môn bát-nhã ba-la-mật tên là tùy-nguyện-phổ-kiến-thập-phương-chư-Phật.
Lúc xướng chữ NÃ, thời nhập môn
bát-nhã ba-la-mật tên là quán-sát tự-luân hữu vô-tận chư ức tự.
Lúc xướng chữ TA-PHÃ, thời nhập
môn bát-nhã ba-la-mật tên là hóa-chúng-sanh-cứu-cánh-xứ.
Lúc xướng chữ TA-CA, thời nhập
môn bát-nhã ba-la-mật tên là
quảng-đại-tạng-vô-ngại-biện-quang-minh-luân-biến-chiếu.
Lúc xướng chữ DÃ-TA, thời nhập
môn bát-nhã ba-la-mật tên là tuyên-thuyết nhất-thiết-phật-pháp cảnh-giới.
Lúc xướng chữ THẤT, thời nhập
môn bát-nhã ba-la-mật tên là nhất-thiết chúng-sanh-giới pháp-lôi biến-hống.
Lúc xướng chữ SÁ, thời nhập môn
bát-nhã ba-la-mật tên là dĩ vô-ngã-pháp khai-hiểu chúng-sanh.
Lúc xướng chữ ÐÀ, thời nhập môn
bát-nhã ba-la-mật tên là nhất-thiết pháp-luân sai-biệt-tạng.
Nầy Thiện-nam-tử! Lúc ta xướng
những tự-mẫu như vậy, thời trước tiên ta nhập bốn mươi hai môn bát-nhã
ba-la-mật đây cùng với vô-lượng vô-số môn bát-nhã ba-la-mật.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT
THIỆN TRI CHÚNG NGHỆ” nầy.
Như chư đại Bồ-Tát có thể đối
với pháp thiện-xảo thế-gian và xuất-thế-gian dùng trí thông đạt đến bỉ-ngạn.
Những phương-pháp lạ, những nghề nghiệp khéo đều thấu đáo không sót. Hiểu rành
những văn tự toán số, Y-phương, chú-thật, trị lành bịnh tật.
Lại biết rành những chỗ sản
xuất vàng, bạc, châu, ngọc, san-hô, lưu-ly, ma-ni, xa-cừ, tất cả kho tàng
bửu-vật, những phẩm-loại, những giá-trị.
Những xóm làng thành ấp, cung
điện vườn tược, núi, rừng, suối, ao phàm những chỗ ở của tất cả nhơn chúng,
Bồ-Tát đều có thể phương-tiện nhiếp thọ.
Bồ-Tát lại khéo quán-sát
thiên-văn, địa-lý, tướng người tốt xấu, tiếng của chim thú, mây ráng khí hậu,
trúng mùa, thất thu, quốc độ an nguy, tất cả kỹ nghệ thế-gian Bồ-Tát đều rành
rẽ tận nguyên bổn tất cả.
Bồ-Tát lại có thể phân biệt
pháp xuất thế, chánh-danh biện-nghĩa quán-sát thể tướng, tùy thuận tu hành, trí
nhập trong đó, không nghi ngại, không ngu tối, không ngoan độn, không ưu-não,
không trầm một, đều hiện chứng tất cả.
Ta thế nào biết được, nói được
công-đức-hạnh đó.
Nầy Thiện-nam-từ! Nước
Ma-Kiệt-Ðề có một tụ-lạc, trong đó có thành Bà-Ðát-Na. Trong thành ấy có một
ưu-bà-di tên là Hiền-thắng.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào
học bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-đạo?
Thiện-Tài đảnh lễ Tri-Nghệ
Ðồng-Tử, hữu-nhiễu vô-số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
KINH: Thiện Tài vâng lời đến đảnh lễ đồng tử, cung kính thưa rằng,
bạch Đức Thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học
Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo. Tôi nghe đức thánh khéo dạy bảo, xin chỉ
dạy cho.
Đồng tử nói: Này thiện nam tử, ta được bồ tát giải thoát môn tên
là thiện tri chúng nghệ. Ta hằng xướng trì những mẫu tự này…
GIẢNG: Mẫu tự là những chữ cái. Vị này tu một
pháp môn thường xướng trì (vừa hát to giọng vừa quán chiếu), những chữ cái Phạn
tự. Những mẫu tự này là do vị Phạm Thiên đặt ra, nên có rất nhiều huyền lực tác
động vào tâm thức người xướng lẫn người nghe.
KINH: Lúc xướng chữ A, thời nhập
bát nhã ba la mật môn tên là Bồ Tát oai lực nhập vô sai biệt cảnh giới.
GIẢNG: Khi ngài xướng chữ A, ngài quán chiếu rồi nhập môn tam
muội là bát nhã ba la mật tên là bồ tát oai lực nhập vô sai biệt cảnh giới. Vô
sai biệt cảnh giới là không hải của Bát Nhã, khi tất cả ý niệm, tất cả cảnh
giới, hình tướng v.v… rơi vào trong tam muội vô sai biệt ấy tức là đã vào không
hải, gần vào đến chân tâm.
KINH: Lúc xướng chữ Đa, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là
vô biên sai biệt môn.
GIẢNG: ở trên là vô sai biệt, còn đây là vô biên sai biệt môn.
Khi xướng chữ A tâm rơi vào không hải ấy, tâm lặng lẽ tịch tĩnh. Đến khi xướng
chữ ĐA thì trái lại nhập vào tất cả tướng sai biệt. Vậy thì chữ A là quán đi
vào không, chữ ĐA là quán đi vào Giả. Quán đến chữ BA là quán trung. Sự tu hành
chỉ có hai loại chuyển động tâm thức ấy thôi, chuyển động vào không, và chuyển
động ra giả chứ không có gì khác hết. Nhưng đến khi làm cho thành thục rồi, thì
sẽ đắc đạo.
KINH: Lúc xướng chữ BA thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là
phổ chiếu pháp giới.
GIẢNG: Phổ chiếu pháp giới là chiếu đầy khắp, tức là quán trung
đạo. Như trong ngôn ngữ nhà thiền gọi là vừa tịch, vừa chiếu. Tâm phải giữ thật
lặng lẽ, nhưng sáng sáng ngời chiếu soi tất cả pháp giới.
KINH: Lúc xướng chữ GIẢ, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là
phổ luân đoạn sai biệt.
GIẢNG: Phổ luân đoạn sai biệt là tâm lúc bấy giờ như một luồng
quang minh xoay như bánh xe, đoạn tất cả những sai biệt, tức lúc đó nó lại vào
cái Không. Đại khái như vậy. Sau đó ngài kể ra 42 mẫu tự, mỗi mẫu tự khi ngài
quán không, lúc quán giả, nhưng thường là quán trung. Mỗi mẫu tự, lại đưa ngài
vào một môn tam muội với quyền năng riêng biệt của nó. Nhà Phật gọi môn mẫu tự
này là tự môn, cũng gọi là tự luân, vì quán
những mẫu tự xoay tròn như bánh xe. Trong nhiều kinh cũng nói về môn này, như
trong kinh Đại Bát Niết Bàn phẩm thứ 13, phẩm Văn tự. Trong đó nói có hai loại
văn tự: mãn tự và bán tự. Mãn tự là chữ đầy, tức là đầy đủ.
Mãn tự tượng trưng cho diệu tâm. Bán tự tượng trưng cho những hiện tượng phát
xuất từ diệu tâm ra. Một mặt là trên bình diện bản thể tuyệt đối, mãn tự. Một
mặt trên bình diện tượng hiện tương đối, bán tự…
Thuyết của nhà Phật nói rằng, tất cả kỹ thuật thế gian này đều
từ văn tự mà ra. Trước hết, ta cần biết rằng ngôn ngữ và văn tự có hai thứ.
Những văn tự thường của thế gian, (như chữ quốc ngữ của chúng ta chẳng hạn,) là
do người chế ra. Tất cả ngôn ngữ thế gian phần nhiều là ngôn ngữ thường, do
người sáng chế. Nhưng còn một loại chữ nữa, từ thời rất xa xưa, những loại chữ
cổ thì không biết có phải là thứ ngôn ngữ thần thánh hay không. Nhưng riêng chữ
Phạn thì nhiều sách vở, nhiều kinh nói rằng đó là ngôn ngữ của thần thánh. Tại
sao lại gọi là ngôn ngữ thần thánh? Vi nó được chế ra bởi
những bậc thánh, do các vị Phạm Thiên viết ra. Trong sách nói tiếng Phạn có 42
mẫu tự, và những mẫu tự đó sinh ra tất cả những tự khác. Nên chữ Phạn mới có giá
trị thiêng liêng là ở chỗ đó.Các vị Phạm Thiên này viết theo hình tướng của
những luồng quang minh, và diệu âm của pháp giới này. Mỗi thứ quang minh có một
diệu âm riêng của nó và những ba động riêng, nên mới có những mẫu tự khác nhau.
Đại khái là như vậy, chúng ta không thể hiểu rõ hơn vì đây là
lối tu hành rất bí mật của Mật Tông. Trong Kinh Đại Bảo Tích cũng có những
chương nói toàn về mẫu tự và Đà La Ni cả. Còn trong Mật Tông, khi tu tập họ
phải hát to những mẫu tự ấy lên với một giọng đúng, đồng thời trong óc phải
quán chiếu mẫu tự ấy. Quán chiếu như vậy tức là quán chiếu luồng quang minh lay
động như thế nào và phát diệu âm ra sao. Tỷ như chữ A là tượng trưng cho diệu
tâm ở trạng thái tịch tĩnh của nó, hết sức yên lặng. Trong kinh Đại Bát Niết
Bàn cũng nói về mây chủng tử này. Nhân đây, tôi xin đọc một đoạn kinh trong Đại
Bảo Tích để quí vị thấy Đức Phật giảng về nghĩa tịch tĩnh của tâm, môn này gọi
là tịnh thanh quang minh đà la ni. Tịnh, thanh là âm thanh
thanh tịnh, đồng thời âm thanh ấy có một thứ quang minh riêng của nó. Tụng âm
thanh ấy, thì đắc được môn đà la ni đó. Trong thời mạt pháp này, tuy chúng ta
không tu theo mật tông, nhưng cũng cần nên phải dựa vào mật chú nhiều. Vì chú
là mật ngôn của Chư Phật, nên có rất nhiều thần lực chu biến khắp nơi, và cũng
có nhiều vị đại quỉ thần hay hộ trì cho người trì kinh, trì chú. Nên phải hiểu
cái mức độ quan trọng của sự trì chú và quán chiếu các chủng tự tức mẫu tự.
Đây là một đoạn kinh trong Đại Bảo Tích, ngài Đà La Ni Tự Tại
Vương Đại Bồ Tát nói, nhưng được Phật ấn chứng.
KINH: Chữ A ở đầu tất cả các chữ, lúc đại Bồ Tát này nói chữ A
liền có thể nói tất cả pháp.
GIẢNG: Tức là nói về cái tâm ấy xuất sanh các pháp.
KINH: Chữ A có nghĩa là “không có.”
GIẢNG: ở đây ngài nói chữ A có nghĩa là không có, chính là rỗng
không.
KINH: Không có ấy là các pháp không có căn, không có sanh, không
có sơ khởi, không có biên tế, không có tận cùng.
GIẢNG: Chúng sanh thường chấp có đầu, có đuôi, có sự tận cùng,
có biên tế v.v… nhưng nhà Phật nói tất cả những thứ chấp ấy cũng đều là vọng
tưởng. Vì chính trong biển tâm tịnh tĩnh chẳng có gì cả, ngay cả đến cái không
cũng không có nữa. Nhưng sở dĩ chúng ta thấy tất cả mọi vật là có, là không…,
là vì cái tâm chúng ta còn động, nên mới khởi lên tất cả những vẻ lung linh hư
ảo của thế giới này.
KINH: Không cố tạọ tác, không có lai, không có khứ, không
có trụ, không có tánh, không có xuất, không có hành, không có tăng, không có
giảm, không có chủ.
GIẢNG: Không có gì cả, không có chủ thể, cái ngã cũng chỉ là một
vọng tưởng thôi.
KINH: không có tác động, không có nguyện cầu, không hí luận,
cũng không giác quán, không nói, không nghe, không ở, không vào.
GIẢNG: Vì cái nghe, cái nói, cái ở, cái vào ấy đều do cái tâm
động đậy phân biệt của chúng sanh. Cái tâm ấy là do sự tích lũy từ vô thủy nay
nở ra, khiến ta thấy là có người, có vật, có cảnh giới, có hành động, thi vi
tạo tác v.v… Vì người kia cũng chẳng phải thực là người, hoặc đi qua cái cửa
thì cái cửa ấy cũng chẳng phải thực là cửa, mà hành động đi vào cũng chẳng phải
là vào. Vì sao? vì tất cả những cái đó đều rỗng không cả, đều chỉ là giả hiện
tùy theo nghiệp lực của mình thôi. (Tôi biết nói như thế, quí vị thoạt nghe
cũng … khổ tâm không ít, nhưng nếu quí vị cứ chịu khó lắng nghe và suy tư chừng
năm, mười năm thì sẽ thấy những lời kinh thật lạ lùng, kỳ diệu.)
Sở dĩ đạo Phật dám nói thế là vì nếu chúng ta là loài người nhìn
thấy có tất cả mọi vật, nhà cửa, xe cộ, vườn, rừng v.v…, nhưng nếu có một thứ
chúng sanh khác, với một cộng nghiệp khác, đi qua thì lại chẳng thây gì cả, vì
thân căn của những chúng sinh đó dệt bằng một thứ quang minh khác và có thể đi
qua vách tường, nhà cửa như đi vào không trung. Vì vậy, đạo Phật dạy chúng ta
lối nhìn cao hơn, sâu hơn, để thấy tất cả chỉ như mơ, như mộng, như tia nắng
quải. Quán chiếu như vậy đến một ngày nào, khi đi giữa phố đông người, ta có
thể thấy được rằng, mọi sự, mọi vật chỉ chập chờn như tia nắng quải thôi, thì
lúc đó ta đã quán khá rồi, và mức độ tâm thức hiểu đạo cũng sâu hơn. Đến lúc đó
sẽ bớt phiền não, có khi đến mức độ bất tử nữa. Vì tất cả việc sống chết đều là
do tâm động đậy phân biệt của chúng sanh mà phát khởi, chứ thực ra, không có
vấn đề sống, chết, mà chỉ là vì chúng ta ở một mức độ tâm thức quá thấp nên
thấy những phân biệt ấy thôi. Nếu chịu khó lặn sâu hơn nữa, thì sẽ thây rằng,
con người là bất tử, và bệnh, tật, ốm đau, cùng sự chết chóc chỉ là giả hiện…,
như trong mộng mà thôi. Đạo Phật xuất hiện nơi đời chỉ dạy chúng ta mở rộng và
sâu cái tầm nhìn của ta, mà muốn nhìn được như vậy, phải có trí huệ bát nhã và
lòng đại bi bình đẳng mới có thễ lên đến mức độ tuyệt vời.
KINH: Các pháp không, vô ngã, không có chúng sanh, không tịnh,
không mạn, không tên, không chủ, không sĩ phu.
GIẢNG: Trong kinh thường dùng chữ sĩ phu để chỉ
cái chủ thể. Ngoại đạo hay chấp cái chủ thể (ngã) là của mình, (gọi là Thần
Ngã),còn trong đạo phật thì dùng chữ sĩ phu.
KINH: không nội, không ngoại, không thường, không tướng, không
nhớ, không lường, không làm, không dấu vết, không câu, không chữ, không ngại,
không cùng chung, không theo mình, không theo người, không phóng, không thủ,
không xả, không số, không thân, không tịnh, không có cảnh giới, không có dục
giới, sắc giới, vô sắc giới, không có thọ sanh, không có dẫn dắt…
GIẢNG: Chúng ta nói có các Đại BồTát dấn dắt chúng sanh, nhưng
trong nghĩa rốt ráo lại không phải, vẫn chỉ như mộng huyễn mà thôi.
KINH: Không có đen trắng, không cặn bã, không tư duy, không thời
gian, không qui về.
GIẢNG: Thời gian là một vọng tưởng, mà qui về cũng là vọng tưởng
của không gian.
KINH: Không thanh tịnh, không tạp uế, không thiêu đốt, không
quên Phật, không nhà cửa, không chi tiết, không lay động, không đứng ngừng,
không bền chắc, không mỏng manh, không thây được, không chạm được, không sáng,
không tối, không lỗi, không tội, không thiệt, không hư, không si ngu, không
huệ, không chứng, không kiến, không vào, không giác, không xúc, không thức v.v…
GIẢNG: Đại khái một lỗ chữ không như vậy. Điểm
này, tôi biết quí vị mới nghe thì thấy nản lắm, nhưng xin quí vị cứ ráng nghe
đi, vì dù chỉ là nghe thôi, công đức cũng đủ ghê gớm lắm rồi. Vì sao? vì không
mấy ai tin và hiểu những điều này cả. Tóm lại, chữ A là chỉ trạng thái tịch
tĩnh, vắng lặng của Không hải, diệu tâm ấy. Nhưng ngài triển khai thêm cho
chúng ta thấy rõ thôi, nhưng nó ‘lại thâu tóm trong câu bát bất rất
nổi tiếng của ngài Long Thọ mà Phật tử nào cũng phải biết:
Không sanh cũng không diệt
Không đoạn cũng không thường
Không lai cũng không khứ
Không nhất cũng không dị
Con đảnh lễ Đức Phật
Bậc Đại Tôn Tối Thắng.
Vậy thì, đạo Phật muốn nói rằng, tất cả những ý niệm khởi lên do
ý thức của con người đều không đúng, mà chỉ nắm được một khía cạnh lệch lạc nào
đó thôi. Như biển cả kia, chúng ta chỉ nhìn thấy được một lượn sóng mà không
thây được toàn thể cái biển cả. Chữ A tượng trưng cho biển cả, chứ không phải
lượn sóng. Bản hoài của Chư Phật là muốn diệt hết tất cả những lượn sóng trong
tâm thức của ta như yêu, ghét, giận, hờn v.v… thì sau này mới rơi vào được
không hải ấy.
Đủ thấy rằng, diệu tâm phát ra trùng điệp những cơn lốc quang
minh, mỗi lớp quang minh, kèm một lớp diệu âm, khởi lên quyện lại với nhau, nở
thành ra những cái hoa, tức là các thứ trong khí thế gian. Nên kinh Hoa Nghiêm
là kinh của vô lượng quang minh và diệu âm. Cũng như sau này, chúng ta sẽ đọc đến
chỗ gọi là diệu ý hoa môn, là thành diệu ý hoa, diệu
là chỉ cho cái hạnh (bi), ý là chỉ cho cái trí, Bát Nhã. Bi và trí lồng vào
nhau kết lại thành những cánh hoa.
Vị thiện tri thức này tu pháp môn tự luân, pháp môn xướng trì,
trong khi xướng chữ A thì quán chiếu nó theo chữ Phạn, nổi thành nét lửa trên
tâm nguyệt luân của vị đồ. Xướng lâu rồi, thì vào tam muội tên là vô sai biệt
cảnh giới, tức là vào được biển Không hải của Bát Nhã. Mật Tông là chỉ chuyên
xướng lên và quán những mẫu tự cùng tụng chú. Thần chú đôi khi mang một vài ý
nghĩa nhưng phần nhiều là tên các vị Đại Thần Linh cả. Như chú Đại Bi, chú Thủ
Lăng Nghiêm trong đó toàn là tên của các vị thần linh và các Đại Bồ Tát, như
ngài Quán Thế Âm, cùng những chư đại bồ tát khác. Đó là những mẫu tự ghép lại
thành tên của các ngài Còn ở đây là những mẫu tự nguyên sơ, nên chú có huyền
lực ghê gớm.
KINH: Lúc xướng chữ NA, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là
đắc vô y, vô thượng.
GIẢNG: Đắc vô y vô thượng tức là vào cái không hải ấy.
KINH: Lúc xướng chữ LÃ, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là y
chỉ vô cấu.
GIẢNG: Cũng là vào đến cái Bạch Tịnh Thức ấy, vào cái vô cấu
thức ấy.
KINH: Lúc xướng chữ ĐẢ, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là
bất thối chuyển phương tiện.
GIẢNG: Trong nhà Phật các vị Đại Bồ Tát hay khởi tâm đại bi, dạy
hai thứ pháp, thiệt và quyền, pháp vô lậu và pháp hữu lậu. Những pháp chưa ra
khỏi thế gian thì gọi là thối chuyển phương tiện, hữu lậu, còn
những pháp ra khỏi thế gian thì gọi là bất thối chuyển phương tiện, vô lậu.
ở đây, khi ngài đọc chư ĐẢ, vào tam muội ấy, ngài nói những pháp cao nên gọi
là bất thối chuyển tam muội.
KINH: Lúc xướng chữ BÀ, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là
kim cang tràng.
GIẢNG: Đại khái đó là môn ba la mật của tràng trí huệ, gọi là
Kim Cang.
KINH: Lúc xướng chữ Đồ, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là
nhật phổ luân.
GIẢNG: Nhập vào trí huệ đó, xoay như bánh xe và phổ vào tất cả
mọi nơi.
KINH: Lúc xướng chữ SA, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là
hải tạng.
GIẢNG: Câu này ý cũng là đi vào chỗ sai biệt.
KINH: Lúc xướng chữ PHƯỢC, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên
là phổ sanh an trụ.
GIẢNG: Câu này dạy chúng ta song chiếu, thọ sanh tất cả mọi nơi
nhưng vẫn an trụ ở điểm “không hư” nơi không hải.
KINH: Lúc xướng chữ ĐÁ, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là
viên mãn quang.
GIẢNG: Cũng chỉ để dạy chúng ta chiếu trí huệ đầy khắp, viên
mãn.
Quí vị ngồi nghe nhữngthứnày có thấy…chán không? tôi chỉ sợ, quí
vị nghe nhàm tai ngủ gục mất!
PHẬT TỬ: Nghe thì thấy cũng có… hơi chán, nhưng xin ông cứ nói
tiếp, vì theo như ông đã dạy ở đây nhiều lần, hiểu hay không ít nhiều cũng lọt
vào đến tàng thức, thì chắc cũng được phần nào công đức.
KINH: Lúc xướng chữ DÃ, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là
sai biệt tích tụ.
GIẢNG: Cũng là đi vào đại bi.
KỈNH: Lúc xướng chữ SẮC-TRA, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên
là phổ quang minh tức phiền não.
GIẢNG: Tức có nghĩa là làm ngưng lại, làm sạch
tất cả phiền não. Ở đây ý nói phóng các quang minh làm sạch tất cả phiền
não cho chúng sanh.
KINH: Lúc xướng chữ CA, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là
vô sai biệt vân.
GIẢNG: thì ở đây, ngài lại dạy tâm thức ta phải trở lại cái vô
sai biệt đó… như một đám mây.
KINH: Lúc xướng chữ TA, thời nhập bát nhã ba la mật mồn tên là
giáng chú đại vũ.
GIẢNG: Lúc nhập bát nhã này thuyết pháp như một cơn mưa lớn vậy.
chúng ta phải hiểu rằng các vị Đại Bồ Tát từ địa thứ chín trở lên, khi thuyết
pháp rất ghê gớm, các ngài thuyết pháp bằng tâm lực biến hóa tràn đầy thế gian,
từ trên mỗi lỗ lông, các ngài phát ra một mẫu tự nào, thì tất cả cây cỏ vô tình
cùng hữu tình đều khởi lên diệu âm thuyết pháp, và tùy theo ngôn ngữ âm thanh
riêng biệt, loài chúng sanh nào nghe cũng hiểu cả.
KINH: Lúc xướng chữ MẠ, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là đại
luti thoan khích chúng phong tề trĩ.
GIẢNG: Nội đọc cái tên của tam muội này thôi cũng đủ chới với
rồi, rất khó hiểu. Thì đại khái môn tam muội là như vầy, đại lưu, ngọn
nước lớn, tâm ngài biến hiện như ngọn nước lớn, đồng thời phong tề
trĩìà ngọn núi rất cao. Tâm các ngài biến hiện các cảnh giới như vậy
để độ chúng sanh.
KINH: Lúc xướng chữ GIÀ, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là
phổ an lập.
GIẢNG: ở đây, tôi xin nhắc là tuy trong kinh nói bát nhã
ba la mật môn nhưng tất cả không chỉ riêng về bát nhã mà còn có đại bi
nữa.
KINH: Lúc xướng chữ XÃ, thời nhập môn bát nhã ba la mật tên là
nhập thế gian hải thanh tịnh. Lúc xướng chữ TỎA, thời nhập môn bát nhã ba la
mật tên là niệm nhất thiết phật trang nghiêm. Lúc xướng chữ ĐÀ, thời nhập môn
bát nhã ba la mật tên là quán sát giản trạch nhất thiết pháp tụ.
GIẢNG: Khi ngài vào tam muội ấy, thì có thể phân biệt tất cả các
thứ pháp tụ lại thành ra một thứ nào đó (giản trạch).
KINH: Lúc xướng chữ XA, thời nhập môn bát nhã ba la mật tên là
tùy thuận nhất thiết phật giáo luân quang < minh.
GIẢNG: vẫn là những pháp luân quang minh.
KINH: Lúc xướng chữ KHƯ, thời nhập môn bát nhã ba la mật tên là
tu nhân địa trí huệ tạng. Lúc xướng chữ XOA, thời nhập môn tam muội tên là tức
chư nghiệp hải tạng.
GIẢNG: Nghiệp chúng sanh lớn như một cái biển mà ngài có thể làm
dừng lại cái biển nghiệp ấy.
KINH: Lúc xướng chữTA-ĐA, thời nhập môn bát nhâ ba la mật tên ìà
quyện chư hoặc chướng khai tịnh quang minh.
GIẢNG: “Quyện” là làm sạch, làm sạch tất cả nghiệp chướng. Ngài
còn nói rất nhiều những mẫu tự, nhưng đại khái là như vậy, tôi xin nói lược qua
phần này vì chắc quí vị đã … nản lắm rồi. Sau cùng đến mẫu tự thứ 42 …
KINH: Lúc xướng chữ ĐÀ, thời nhập môn bát nhã ba la mật tên là
nhất thiết pháp luân sai biệt tạng.
GIẢNG: Cũng vẫn đi vào sai biệt, tức vẫn dùng đại bi. Chúng ta
thấy trong kinh có nói đến mấy vị đồng tử, vị đồng tử này thứ 44, tên là Thiện
Tri Chúng Nghệ Bồ Tát Tự Trí. Còn vị thiện tri thức thứ 14 là một vị đồng tử
tên là Đồng Tử Tự Tại, ngài Tự Tại chỉ nói về toán học thôi, vỊ này thì cao
hơn, nhưng vẫn dạy về các pháp môn, học thuật trong thế gian. Nhưng đến vị đồng
tử thiện tri thức thứ 50 thì ngài dạy về như huyễn. Khi chúng ta đi vào bát
nhã, vào diệu tâm ấy, tu hành lâu có đại bi tâm, khi khởi lên nó sẽ bao trùm cả
pháp giới này, trong đó có bao nhiêu kỹ thuật, toán số, ví dụ, bao nhiêu môn
học, nghề khéo v.v… ta đều biết hết, vì tất cả chỉ từ trong tâm mà ra. Vì sao
thế? Vì từ vô lượng kiếp, khi thì ta làm cá, rùa, khi làm người Ấn Độ, khi thì
làm nhà bác học, chư Thiên, loài quỉ, loài rồng, v.v… mà không những ở cõi này,
chúng ta còn lang thang nhiều cõi khác nữa (giang hồ ham chơi quên quê hương
mà!), nên sự biết của chúng ta miên man và rộng như vậy. Tất cả những chủng tử
ây rớt vào trong tàng thức của ta, đến khi ta khởi tâm tu hành, muốn trở về,
khi tu đến mức độ nào đó, có thễ mở cái kho tàng thức ấy thì tất cả đều “bổn
cụ,” biết hết tất cả những chúng nghệ ở thế gian.
KINH: Này thiện nam tử, lúc ta xướng những mẫu tự như vậy, thởi
trước tiên ta nhập bốn mươi hai môn bát nhã ba la mật đây cùng với vô lượng vô
số môn bát nhã ba la mật.
Này thiện nam tử, ta chỉ biết môn giải thoát bồ tát thiện tri
chúng nghệ này. Như Chư Đại Bồ Tát có thể đối với pháp thiện xảo thế gian và
xuất thế gian dùng trí thông đạt đến bỉ ngạn.
GIẢNG: Đến bỉ ngạn là đến bờ bên kia, tột bờ
mé.
KINH: Những phương pháp lạ, những nghề nghiệp khéo đều thâu đáo
không sót. Hiểu rành những văn tự toán số, y phươhg, chú thuật, trị lành bệnh
tật. Lại biết rành những chỗ sản xuất vàng bạc, châu, ngọc, san hô, lưu ly, ma
ni, xà cừ, tất cả kho tàng bửu vật, những phẩm loại, những giá trị.
GIẢNG: Dùng thiên nhãn thấy được chỗ nào có vàng bạc, hoặc những
đồ quí giá trên thế gian, đồng thời biết luôn cả kỹ thuật khai thác những đồ
đó.
KINH: Những xóm làng thành ấp, cung điện vườn tược, núi rừng,
suối, ao, phàm những chỗ ở của tất cả nhơn chúng, Bồ Tát đều có thể phương tiện
nhiếp thọ.
GIẢNG: Những chỗ ở của chúng sanh, bồ tát có thể tùy phương tiện
mà xây cất thành trì, nhà cửa v.v…
KINH: Bồ tát lại khéo quán sát thiên văn, địa lý, tướng người
tốt xấu, tiếng chim của thú, mây ráng khí hậu, trúng mùa, thất thu, quốc độ an
nguy, tất cả kỹ nghệ thế gian Bồ Tát đều rành rẽ tận nguyên bổn tất cả.
GIẢNG: Ở đây nói đến quốc độ an nguy, chúng tôi xin nhắc
điểm này, mà trong kinh lúc nào cũng nói đến. Nói rằng, nơi nào có những vị
minh quân, dùng chánh pháp tri dân, nơi đó không thể có tai họa được. Còn nơi
nào muốn tránh giặc giã, tránh những thiên tai, như động đất, hỏa hoạn, sóng
thần, lụt lội, tật bệnh, thất mùa v.v… thì nơi đó nhân dân chịu khó tụng chú,
nếu không tụng được thì đeo chú trọng mình, nơi đó không thể có tai họa được,
bắt buộc các vị quĩ thần phải đưa tai họa ra chỗ khác. Cho dù giặc giã tới đầy
ngoài thành, mà cả nhân dân trong thành tụng chú thì rồi quỉ thần cũng phải thu
xếp sao cho đám giặc ấy phải tan. Đó lặ diều khó tin, nhưng suy nghĩ lâu rồi sẽ
thấy đúng, vì đạo lý vận hành của pháp giới là từ chỗ tâm vô hình tỏa ra chỗ
hữu hình.
Nên phật tử chúng ta ở đây, trong mỗi thời tụng kinh, nhớ hồi
hướng cho Việt Nam đói khổ.
Nay xin trở về kinh…
Từ đầu đến giờ, tôi đã nói có rất nhiều vị thiện tri thức rất
khó gặp, rất khó nhìn thấy, ngược lại, cũng có những vị trông thấy được ngay. Ở
vị thiện tri thức đầu là ngài Đức Vân thì Thiện Tài phải quán bảy ngày, bảy đêm
mới thấy được, về sau thì có nhiều vị thường thường gặp dễ, nhưng đến những vị
Chủ Dạ Thần, thân các ngài mênh mông vô biên như hư không Thiện Tài phải quán
chiếu lâu mới thấy.
Đến ngài Ma Gia phu nhơn là khó thây nhất, trong kinh nói rằng
Thiện Tài phải vừa đi, vừa suy tư quán chiếu mãi. Vì các ngài khoác một diệu
sắc thân, ở một mức quang minh vi tế rất sâu. Khi Thiện Tài quán đến đâu thì
chiêu cảm đến đó, bắt đầu ngài quán trên con đường đi gặp Ma Gia phu nhơn, thì
chiêu cảm những vị Chủ Thành Thần, rồi đến hai vị Thân Chúng Thần, sau đến vị
La Sát Vương, sau cùng mới đến ngài Ma Gia phu nhơn. Từ đây trở đi, Thiện Tài
rất dễ gặp các vị thiện tri thức, vì các ngài mang một sắc thân người. Sau cùng
đến ngài Di Lặc và ngài Phổ Hiền thì rất khó gặp, phải quán chiếu rất lâu,
phải đi gần đến chỗ Bạch Tịnh Thức lúc đó mới thây được ngài, mặc dù ngài vẫn
ngồi ở Bồ Đề Đạo Tràng bên cạnh đức Phật. Từ vị thứ 45 đến 50 tuy các
ngài rất cao nhưng ngài dạy rất ngắn, vì không cần phải dạy
nhiều, nói qua là Thiện Tài cũng đủ hiểu rồi, vì đường tu chứng của Thiện Tài
có lẽ gần đến đệ thập địa rồi.
NIỆM PHẬT
THẬP YẾU
Hòa
thượng Thích Thiền Tâm
Tiết 60.- TỪ TÁN
TÂM SẼ ĐI ĐẾN ĐỊNH TÂM
Miệng niệm Phật, tâm
tưởng Phật, hoặc trụ nơi câu niệm Phật, gọi là Định Tâm Niệm Phật. Miệng niệm
Phật, tâm không nhớ Phật mà suy nghĩ mông lung việc khác, đó là Tán Tâm Niệm
Phật. Tán tâm mà niệm, hiệu lực so với định tâm yếu kém rất nhiều. Vì lẽ ấy, từ
xưa đến nay các bậc thiện tri thức đều khuyên người cố gắng định tâm trì niệm,
đừng để tán tâm. Cho nên tán tâm niệm Phật không đủ làm gương mẫu.
Tuy nhiên, mỗi tác động
bên ngoài đều liên quan đến tiềm thức, tức là thức thứ tám ở bên trong. Nếu tán
tâm niệm Phật hoàn toàn không công hiệu, thì sáu chữ hồng danh kia từ đâu phát
hiện? Đã có sáu chữ hiện thành, tất phải có hai chuyển lực: một là do chủng tử,
từ tiềm thức phát hiện ra ngoài. Hai là sức tác động từ ngoài lại huân tập trở
vào bên trong. Cho nên chẳng thể nói tán tâm niệm Phật hoàn toàn không công
hiệu, bất quá so với định tâm nó yếu kém hơn nhiều mà thôi. Lối niệm tán tâm từ
xưa đến nay không được đề xướng, nhưng hàm ý và công dụng của nó cũng không thể
phủ nhận. Vì thế cổ nhơn có lưu một bài kệ rằng:
Di Đà sáu chữ pháp trung vương,
Tạo niệm phân vân chớ ngại màng!
Muôn dặm phù vân che ánh nhật.
Nhơn hoàn khắp xứ ửng dương quang.
Bài kệ này suy ra có điều
xác đáng. Bởi hạt giống niệm Phật nơi thức thứ tám khi thành thục, tất dẫn phát
thức thứ sáu khiến cho sanh khởi tịnh niệm. Rồi từ thức thứ sáu lại cổ động ra
năm thức trước để thành hiện hành. Nhưng vì lúc chủng tử niệm Phật trải qua
thức thứ sáu, bởi trần nhiễm của chúng sanh sâu dày, nên bị các niệm khác lấn
cướp, tuy có lọt khỏi vòng vây song ảnh hưởng còn lại chẳng bao nhiêu. Ví như
ánh mặt trời tuy rực rỡ, nhưng vì bị nhiều lớp mây che, nên khi lọt xuống nhân
gian, chỉ còn vẻ ửng sáng. Nhưng ánh sáng thừa ấy sở dĩ có, cũng do công năng
ảnh hưởng của mặt trời. Biết được lẽ này, người tu Tịnh Độ đừng quá ngại màng
đến tạp tưởng phân vân, chỉ liên tiếp niệm hết câu này sang đến câu khác, chánh
niệm còn được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Niệm như thế một lúc lâu, tự nhiên ngựa
ý sẽ quay về tào, vượn lòng lần lần vào động. Niệm một lúc lâu nữa, thì chánh
niệm hiển lộ rõ ràng, không cần gạn bỏ điều nhiếp, mà tự nhiên thành tựu. Hiểu
được lẽ này thì chỉ quí niệm nhiều, đừng ngại tán tâm. Như nước tuy bợn đục,
lóng mãi tất sẽ thành trong. Người tuy tạp niệm nhiều, niệm Phật lâu tất sẽ
thành chánh niệm. Nên biết cổ đức khi đi đứng nằm ngồi và tất cả hành động đều
niệm Phật. Nếu các vị ấy hoàn toàn dùng định tâm mà niệm, thì lúc đi đường tất
phải vấp chạm, hoặc khi tả kinh hay làm việc cũng không thể thành công. Cho nên
người xưa cũng có lúc phải phân tâm mà niệm, nhưng vẫn không rời câu niệm Phật,
bởi dù có tán tâm vẫn không mất phần ảnh hưởng.
Đến đây, xin thuật một
câu chuyện. Lúc nọ, có người đến hỏi một thượng tọa: "Thưa thật với thầy,
tôi niệm Phật đã hơn mười năm nay mà vọng niệm vẫn còn nhiều, không biết cách
chi trừ diệt. Tôi có đi nhiều nơi cầu hỏi phương pháp với những bậc đã tu trước
mình. Vị này đưa kinh nghiệm này, vị kia dạy cách khác, có một đại đức lại
khuyên tôi nên nín hơi niệm luôn hai mươi mốt câu rồi nuốt một cái. Tôi đã áp
dụng qua đủ mọi phương thức, nhưng chỉ định tâm được lúc đầu, rồi sau có lẽ vì
lờn quen nên vọng niệm trở lại như cũ. Không biết thầy có phương pháp nào hữu
hiệu để dạy tôi chăng?"
Vị thượng tọa đáp:
"Điểm thất bại đó do ông không bền lòng, mà cứ thay đổi đường lối. Nên
biết phàm phu chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay gây tạo nghiệp nhiễm vọng quá
nhiều đâu thể nhứt thời mà thanh tịnh được! Chỗ cốt yếu là phải dụng tâm cho
bền lâu. Tôi xin đưa ra đây hai thí dụ: Ví như một bình nước hôi nhơ dẫy đầy,
ông đem nước thơm sạch đổ vào. Vì nước dơ đã đầy, nước sạch tất phải dội ra
ngoài, song ít nhứt nó cũng lưu lại trong bình một vài giọt. Nếu ông cứ bền tâm
đổ vào mãi, ngày kia bình nước hôi sẽ hóa ra nước sạch thơm. Lại ví như ông đau
bịnh dạ dày, uống thuốc chi cũng đều ói mửa ra. Ông cứ bền lòng dùng ngay thuốc
trị bịnh dạ dày mà uống, đừng thay đổi thuốc chi khác. Mỗi phen uống tuy có bị
ói mửa, nhưng chất thuốc cũng lưu lại ít nhiều, lần lần bệnh của ông sẽ dứt.
Bệnh phiền não vọng tưởng của chúng sanh cũng thế, dùng thuốc niệm Phật điều
trị tự nhiên là thích đáng, nếu thay đổi mãi làm sao thành công? Như có người
dùng phèn lóng nước, nó chưa kịp trong, lại nóng nảy vội quậy lên đổ muối vào,
đổ muối chưa kịp trong, lại quậy lên đổ vôi bột vào. Cứ thay đổi mãi như thế,
làm sao nước trong cho được? Thế nên vấn đề dứt vọng niệm, không phải do nơi
thay đổi nhiều phương pháp, mà ở nơi lựa một phương pháp thích hợp rồi thật
hành cho bền lâu là thành tựu." Vị ấy nghe xong gật đầu cho là hữu lý.
Như đã nói, muốn được
định tâm, điểm căn bản là phải dụng công cho bền lâu. Tuy nhiên nếu sợ niệm lực
tán loạn, cần có phương tiện để tâm dễ yên tịnh, thì nên áp dụng pháp Thập Niệm
Ký Số đã trình bày ở trước. Phép này do dùng hết tâm lực ghi nhớ từ một đến
mười câu, nên dễ vào tịnh định. Nếu tâm còn rối loạn và không thể dùng
phép Thập Niệm Ký Số, thì trong mỗi câu niệm chỉ cần chú tâm ghi giữ cho chắc
một chữ "A". Khi chữ A còn thì mấy chữ khác đều còn, nếu mê mờ để cho
nó mất, tất năm chữ kia cũng mất. Lại chữ A cũng chính là chữ căn bản, và là mẹ
của tất cả chữ. Chú tâm vừa niệm vừa ghi chắc chữ A, lâu lâu tự nhiên tâm và
cảnh đều tiêu tan dung hợp thành một khối, lượng rộng lớn dường hư không, Phật
và mình cũng đều mất. Lúc bấy giờ đương nhiên chữ A cũng không còn. Nhưng lúc
trước nó mất là do bởi tâm xao động rối loạn, lúc này nó không còn chính thuộc
về trạng thái dung hóa của thường định. Đây là hiện tượng tâm cảnh đều không,
điểm sơ khởi để đi vào Niệm Phật Tam Muội.
KINH: Lúc xướng chữ A, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là Bồ Tát oai lực nhập vô sai biệt cảnh giới.
Comments
Post a Comment