PHẬT THUYẾT
KINH A DI ĐÀ
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Độc nước Xá-Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội: đều là bậc A La Hán mọi người đều quen biết, như là: Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Đại Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Ma-Ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-Đa, Châu-Lợi-Bàn-Đà-Già, Nan-Đà, A-Nan-Đà, La-Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Đề, Tân Đầu-Lư-Phả-La-Đọa, Ca-Lưu-Đà-Di, Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc-Câu-La, A-Nâu-Lầu-Đà, những vị đại đệ tử như thế. Và hàng Đại Bồ Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi: Pháp-Vương-Tử, A-Dật-Đa Bồ Tát, Càn-Đà-Ha-Đề Bồ Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ tát… cùng với các vị Đại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích-Đề-Hoàn-Nhơn..v..v.. đại chúng cùng đến dự hội.
Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá-Lợi-Phất rằng: “Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp.
Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc? Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất. Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.
Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch.
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la. Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành.
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã.
Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần..v..v.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!
Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao? Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ.
Xá-Lợi-Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi.
Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá-Lợi-Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn nại đến nay, đã được mười kiếp.
Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.
Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi cực lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển.
Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi!
Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.
Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.
Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.
Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.
Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.
Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật- Nguyệt-Đăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Đăng Phật, Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bửu-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Âm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Đức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.
Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là Kinh: Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?
Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.
Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.
Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
Xá-Lợi-Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy: “Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này”. Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó! Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A-Tu-La, v..v.. nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra.
Hán dịch: Nhà Dao Tần, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
Đức Đại Thế Chí Bồ Tát nói:
'Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối luôn,
được Tam Ma Địa, đây là bậc nhứt'.
Cư
Sĩ Cao Thiệu Lân (1 - 2)
1
Trong bức thơ gửi đến, thấy nói cư sĩ đang nhiếp tâm niệm Phật,
lạy kinh Pháp Hoa và gắng trừ lỗi mà chưa được như ý, nghĩ muốn y theo phép
Công Quá Cách để tự kiểm điểm mỗi ngày. Bao nhiêu điều ấy, đủ chứng sự tu hành
của cư sĩ gần đây là thiết thật vì mình, không như những kẻ tự khi dối người,
phô trương bề ngoài để cầu danh dự. Như thế còn gì hay hơn, tôi xin tùy hỷ.
Phép lễ tụng trì niệm, phải lấy lòng thành kính làm chủ. Nếu
thành kính cùng cực, dù ở địa vị phàm phu công đức chưa được viên mãn, nhưng
kết quả cũng khó nghĩ bàn! Trái lại thì, tuy lễ tụng, xét ra khác gì múa hát,
dù có bày nét khổ, vui, thương cảm, đều là giả trang vì chẳng phải tự nơi đáy
lòng phát lộ. Nếu có công đức, chẳng qua là si phước ở cõi trời, người, mà
chính đó là chỗ y cứ để gây nghiệp ác, gieo nên quả khổ vô lượng về sau. Nên
đem điều nầy tỏ khắp với đồng bạn, khuyên nhau chơn thật tu hành để sự lợi ích
được lan rộng. Cách thức lạy kinh của cư sĩ lập ra, về Lý vẫn không ngại, nhưng
về Sự, nếu lạy xuông, phải niệm: 'Nam Mô Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Pháp
Hoa Hội Thượng Phật, Bồ Tát.' Niệm xong cúi xuống lạy, vừa tưởng bài kệ lễ
kinh:
Pháp
tánh chơn không tợ hư không,
Pháp
Bảo thường trụ khó nghĩ bàn!
Nơi
trước Pháp Bảo hiện bóng con,
Như
pháp một lòng nương kính lạy.
Lại tưởng toàn bộ kinh và chư Phật, Bồ Tát ở trong kinh đều
phóng ánh sáng soi đến thân mình cùng các loài hữu tình trong pháp giới. Nếu
lạy từng chữ, phải niệm: “Nam Mô Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (...) tự Pháp
Bảo”. Cứ lạy chữ nào thì niệm chữ ấy, từ chữ: “Như, thị, ngã, văn...” cho đến
hết bộ kinh đều niệm như thế. Nhưng phép quán tưởng chẳng phải dễ, nếu hiểu lý
không rành hoặc tâm thức rối loạn, sợ e bị những việc ma. Điều cần yếu phải lấy
sự chí thành cung kính làm chủ, nếu quán tưởng được thì quán, bằng không, nên
đem hết lòng thành mà lạy, công đức cũng vô lượng. Theo chương trình của cư sĩ
đã lập: đối trước kinh mà lạy, khi lạy xuống tưởng kệ, lúc đứng lên niệm Phật,
quán Phật... tốt hơn là nên để kinh trước bàn Phật cúng dường rồi chuyên nhất
lễ Phật A Di Đà. Chớ cho rằng công đức duyên tưởng một vị Phật không rộng lớn
bằng duyên tưởng nhiều vị Phật. Nên biết Phật A Di Đà là Pháp Giới Tạng Thân,
bao nhiêu công đức của chư Phật trong mười phương pháp giới, nơi một đức Phật A
Di Đà đều đầy đủ cả. Ví như lưới châu của trời Đế Thích, ngàn châu hiện đủ
trong một hột châu, một hột châu in bóng khắp ngàn châu, mỗi châu đều dung
nhiếp lẫn nhau, không dư không thiếu. Nếu bậc Đại Sĩ tu hành đã lâu, không ngại
gì duyên cảnh rộng nhiều, cảnh càng nhiều tâm càng chuyên nhất. Trái lại kẻ mới
học đạo, nếu duyên cảnh nhiều tâm thức sẽ rối loạn, và người chướng sâu huệ cạn
có khi còn bị những việc ma. Vì lẽ ấy, Thế Tôn ta và chư Tổ đều bảo phải một
lòng chuyên niệm Phật A Di Đà, đợi khi nào chứng được Tam Muội thì trăm ngàn
pháp môn, không lường diệu nghĩa thảy đều đầy đủ. Người xưa nói: “Tắm được biển
cả, tức là dùng nước trăm sông; đến điện Hàm Nguơn còn hỏi Trường An chi nữa?”
Lời này có thể gọi là một tượng trưng rất đúng cho lẽ trên đây vậy.
Đến như sự dứt dữ làm lành, thành thật kiểm điểm lấy mình, tuy
không chi hay hơn phép Công Quá Cách; nhưng nếu tâm không chuyên chú nơi sự
thành kính, dù mỗi ngày có ghi công, chép lỗi cũng là việc suông. Sổ Công Quá
Cách ở vùng này chưa thấy có. Cứ theo chỗ hiểu của tôi, chỉ nên giữ lòng thành
kính trong tất cả thời, đừng để một niệm không tốt nổi lên, khi đối đãi với
người phải luôn luôn gìn lòng trung thứ. Được như thế, dù vọng niệm có thoạt
khởi cũng liền tự biết, biết rồi liền trừ, tất ba nghiệp không bị lôi cuốn vào
đường lầm lạc. Những kẻ tiểu nhơn bề ngoài hiền lành, trong lòng ác độc, cho
rằng không ai biết mình; đâu ngờ người phàm dù không biết, song bậc tu hành đắc
đạo, thấy hiểu rõ ràng. Lại, chư thiên, quỷ thần tuy chưa đắc đạo, nhưng nhờ
quả báo có Tha Tâm Thông nên cũng hiểu biết được. Nói gì là các bậc Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát và chư Phật, tha tâm đạo nhãn thấy suốt ba đời như xem nơi
lòng bàn tay đó ư? Muốn không biết, chỉ có mình không biết thì được, nếu mình
biết thì trời đất, quỷ thần, Phật, Bồ Tát tất rõ biết. Hiểu nghĩa này, tuy ở
nơi nhà tối, chỗ vắng cũng không dám móng niệm ác. Kẻ ngoan cố nếu được biết lý
trên đây cũng tự hổ thẹn, lựa người chơn tu hay sao? Như muốn bớt lỗi phải ghi
nhớ điểm này, hằng đem lòng kính sợ. Nhưng đây là ước theo chỗ hiểu biết cạn
cợt của tình đời mà nói, thật ra tâm ta cùng mười phương pháp giới đồng thể
dung hợp, vì ta mê nên sự thấy biết chỉ cuộc ở riêng mình. Mười phương chư Phật
chứng suốt tạng tâm, tất cả chúng sanh trong pháp giới khởi lòng động niệm, các
ngài đều thấy biết rõ rệt như hình tượng in bóng trong gương. Đó là vì chư Phật
đã vào bản thể Bình Ðẳng Chân Như, mình và người không khác.
Nếu cư sĩ rõ suốt nghĩa này, có thể tự dè dặt sợ hãi, giữ lòng
kính thành, trước tiên còn gắng sức trừ vọng, lâu ngày vọng niệm sẽ tiêu mòn
không khởi nữa.
2
Được thơ, biết gần đây cư sĩ tu trì thân thiết, xét mình sửa lỗi
noi dấu thánh hiền, chẳng phải cầu lấy hư danh, tôi lấy làm vui đẹp! Muốn học
Phật, Tổ, thoát sanh tử, những điểm đầu tiên là: hổ thẹn, sám hối, dứt dữ, làm
lành, giữ trai giới và thường tự răn nhắc. Lại cần phải đạt đến chỗ thật, hết
sức mà làm, bằng không thì thành sự dối ở trong giả dối. Cho nên, biết không
khó, làm mới chính là khó! Nhiều bậc thông minh giữa đời, vì nói có làm không,
thành thử luống qua một kiếp, uổng chơi non báu đi về tay không, thật rất đáng
đau tiếc! Vọng niệm lẫy lừng là do bởi chưa chơn thiết giữ gìn Chánh Niệm, nếu
cứ chuyên chú một cảnh thì vọng tưởng sẽ đổi thành Chánh Trí. Cho nên, trị đắc
sách thì giặc cướp đều là con đỏ, trị thất sách tuy kẻ tâm phúc cũng hóa oan
gia. Ở địa vị phàm phu, ai lại không có nghiệp hoặc? Nhưng khi bình thường nếu
đề phòng trước, lúc gặp cảnh duyên, phiền não mới không bạo phát; dù phát khởi
cũng có thể liền tự biết mà dứt trừ. Những cảnh làm duyên để khởi phiền não rất
nhiều. Nhưng mạnh nhứt là tiền của, sắc đẹp và chuyện ngang trái bất thường.
Nên biết của tiền phi nghĩa hại hơn rắn độc thì không còn lòng tham muốn khi
thấy của. Giúp đỡ người chính là xây đắp nền phước đức cho mình về sau, biết
như thế, khi có ai hoạn nạn cầu cứu, không vì tiếc của không cho, mà khởi lòng
phiền não. Về sắc đẹp, lúc đối trước người xinh tốt như hoa, tợ ngọc, cho đến
kẻ kỹ nữ, nên tưởng đó là chị, hoặc em ruột, sanh lòng cứu độ xót thương, tất
không bị sắc làm động niềm ái dục. Ở gia đình, chồng vợ phải kính nhau như
khách, nên xem thê thiếp là người ơn giúp đỡ lẫn nhau và vì sự nối dõi dòng họ,
mới không bị sắc dục hại mình. Đến như gặp việc ngang trái nên sanh lòng xót
thương dung thứ cho kẻ không biết lỗi lầm, chớ tranh chấp hơn thua. Lại tưởng
rằng: kiếp trước mình đã từng làm khổ hại người, hôm nay bị việc này là trả nợ
tiền khiên; nghĩ như thế tự nhiên vui vẻ, không sanh lòng nóng giận muốn báo
cừu. Song, những phương pháp trên đây là để áp dụng với kẻ sơ cơ, nếu bậc Đại
Sĩ tu hành đã lâu, bao nhiêu phiền não đổi thành tạng tâm sáng suốt, muôn cảnh
vẫn không thật tánh, những việc tổn hại lợi ích đều tự nơi người mà thôi.
Đến như luận về pháp môn Niệm Phật thì Tín, Nguyện, Hạnh là tông
yếu. Ba món nầy đầy đủ, quyết định được vãng sanh. Về phần Tín, Nguyện, nên để
tâm chú trọng, phải một lòng cầu về Tây Phương, chớ mong kiếp sau trở lại làm
người hưởng sự giàu sang. Chẳng những không muốn thọ thân vua ở cõi trời,
người, dù cho thân một vị cao tăng nghe một hiểu ngàn, được đại tổng trì, mở
rộng pháp hóa làm lợi ích chúng sanh, cũng xem như gốc tội không khởi niệm ưa
thích (vì đó là ngộ chớ chưa phải chứng, vẫn còn bị luân hồi và có thể đọa
lạc). Được như thế thì tín nguyện của ta mới cảm đến Phật, và thệ nguyện của
Phật mới có thể nhiếp thọ ta. Nên biết cõi Cực Lạc chẳng những sức phàm phu
không thể đến, mà chính bậc thánh Tiểu Thừa cũng không đến được, vì nơi ấy là
cảnh bất tư nghì của Đại Thừa. Bậc tiểu thánh hồi tâm về Đại Thừa mới có thể
đến, còn phàm phu nếu không tín nguyện cảm Phật, dù cho có tu tất cả thắng hạnh
và hạnh mầu trì danh cũng không thể vãng sanh. Cho nên, tín nguyện rất là cần
yếu. Ngài Ngẫu Ích nói: “Được sanh cùng chăng, toàn do tín nguyện có hay không;
phẩm sen cao thấp, đều bởi trì danh sâu hoặc cạn”. Đây là một luận án sắt, dù
ngàn Phật ra đời cũng không thay đổi. Với lẽ này, nếu cư sĩ nhận chắc, mới có
phần nơi cõi Tây Phương.
Như niệm Phật khó quy nhất, phải nhiếp tâm niệm kỹ. Phép nhiếp
tâm không gì hơn chí thành, tha thiết, nếu không chí thành mà muốn quy nhứt ấy
là điều rất khó. Đã chí thành niệm còn chưa thuần, phải lắng tai nghe. Không
luận niệm thầm hay ra tiếng, đều phải niệm khởi từ nơi tâm, tiếng ra từ nơi
miệng rồi lại vào tai (dù niệm thầm nơi ý vẫn có tướng miệng niệm). Tâm và
miệng rành rẽ, tai nghe rõ ràng nhiếp tâm như thế, vọng niệm tự dứt. Nếu làn
sóng vọng tưởng nổi trào quá mạnh, nên dùng phép Thập Niệm Ký Số đem hết tâm
lực chuyên vào câu niệm Phật, thì vọng tưởng bị đàn áp không có chỗ xen hở để
nổi lên. Phép này nhiếp tâm rất tuyệt diệu, thuở xưa những vị hoằng dương tông
Tịnh Độ chưa nói đến là vì căn cơ người thời ấy còn sáng lẹ, không cần dùng
cách này vẫn có thể niệm Phật được quy nhứt. Ấn Quang tôi vì tâm khó điều phục,
nhiều phen dùng thử mới biết là hay, nguyện cùng những người độn căn đời sau y
theo tu tập để được đồng sanh về Cực Lạc. Thập Niệm Ký Số là khi niệm Phật phải
ghi nhớ rành rẽ từ một đến mười câu, hết mười câu liền trở lại một, cứ như thế
xoay vần mãi. Nhưng phải niệm trong vòng mười câu mà thôi, không được hai hoặc
ba mươi câu, lại không nên lần chuỗi, chỉ dùng tâm ghi nhớ. Nếu nhớ niệm luôn
một mạch mười câu thấy khó, thì phân làm hai đoạn, từ một đến năm, từ sáu đến
mười. Nếu hoặc còn thấy kém sức lại chia làm ba hơi, từ một đến ba, bốn đến
sáu, bảy đến mười. Cần để ý: Niệm, nhớ và nghe phải rõ ràng, vọng niệm mới
không xen vào được. Dùng phép này lâu, sẽ được nhất tâm. Nên biết phép Thập
Niệm Ký Số cùng phép Thập Niệm của ngài Từ Vân, về phần nhiếp vọng thì đồng,
phần dụng công lại rất khác. Phép Thập Niệm tùy theo hơi người dài ngắn, không
luận được bao nhiêu câu Phật, cứ một hơi kể là một niệm. Về phép này mỗi buổi
sớm mai, chỉ dùng trong mười niệm mà thôi, nếu quá số ấy lâu ngày sẽ thành bị
lao hơi. Phép Thập Niệm Ký Số thì niệm một câu biết một câu, mười câu biết mười
câu, từ một đến mười rồi trở lại, dù cho mỗi ngày niệm cho đến mấy muôn câu
cũng ghi nhớ như thế. Niệm như vậy không những trừ được vọng, lại có thể dưỡng
thần, vì tùy sức tùy ý, hoặc chậm hoặc mau, không chi trở ngại.
Lại, so với cách niệm lần chuỗi ghi số, phép Thập Niệm Ký Số lợi
ích hơn nhiều vì lần chuỗi thân mỏi nhọc, tinh thần xao động, còn cách này thì
thân nhàn mà tâm an. Chỉ những khi nào làm việc, hoặc khó ký số, nên khẩn thiết
niệm xuông, đợi lúc xong việc lại nhiếp tâm ký số. Như thế thì vọng tưởng không
còn tung hoành, tâm cảnh an trụ vào câu niệm Phật.
Đức Đại Thế Chí Bồ Tát nói: 'Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối
luôn, được Tam Ma Địa, đây là bậc nhứt'. Lời này với hạng lợi căn thì không cần
luận, nếu kẻ độn căn như chúng ta, bỏ phép Thập Niệm Ký Số mà muốn nhiếp sáu
căn, nối tịnh niệm, thật khó vô cùng! Cách niệm Phật lần chuỗi chỉ nên dùng
trong những khi đi đứng, còn lúc tịnh dưỡng thần, nếu lần chuỗi thì do tay
động, thần cũng không an, lâu ngày có thể sanh bịnh. Khác hơn thế, phép Thập
Niệm Ký Số lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều dùng được, nhưng khi nằm chỉ nên niệm
thầm, nếu ra tiếng đã không cung kính lại bị lao hơi, nên nhớ kỹ.
Cư sĩ tuổi đã năm mươi, nếu muốn được giải thoát trong hiện đời, phải chuyên chú nơi môn Tịnh Độ. Kinh Kim Cang, Pháp Hoa nên tạm gác một bên, đợi khi nào lý Tịnh Độ thông suốt, niệm Phật được nhứt tâm rồi sẽ hay. Nếu bây giờ vừa nghiên cứu vừa tu hành, e cho thời gian có hạn, trí lực không kham, bên nào chẳng thành bên nào, hai sự lợi ích cùng bị mất cả.
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
[24]
Ngài Đại-thế-chí Pháp-vương-tử
VIÊN THÔNG
VỀ KIẾN ĐẠI
Ngài Đại-thế-chí Pháp-vương-tử cùng với năm mươi hai vị Bồ-tát đồng-tu một pháp-môn, liền từ chổ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp trước, có đức Phật ra đời, tên là Vô-lượng-quang; lúc ấy mười hai đức Như-lai kế nhau thành Phật trong một kiếp đức Phật sau hết, hiệu là Siêu-nhật-nguyệt-quang, dạy cho tôi phép Niệm-Phật-tam-muội. Ví-như có người, một đằng chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu gặp cũng không là gặp, dầu thấy cũng là không thấy; nếu cả hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ mãi, khắc sâu vào tâm-niệm, thì đồng như hình với bóng, cho đến từ đời nầy sang đời khác, không bao-giờ cách-xa nhau. Thập-phương Như-lai thương-tưởng chúng-sinh như mẹ nhớ con, nếu con trốn-tránh, thì tuy nhớ, nào có ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không cách-xa nhau. Nếu tâm chúng-sinh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau, nhất-định thấy Phật; (KIẾN ĐẠI) cách Phật không xa thì không cần phương-tiện, tâm tự được khai-ngộ như người ướp-hương thì thân-thể có mùi thơm, ấy gọi là hương-quang-trang-nghiêm. Bản-nhân của tôi là dùng tâm niệm Phật mà vào pháp vô-sinh-nhẫn, nay ở cõi nầy tiếp-dẫn những người niệm Phật về cõi Tịnh-độ. Phật hỏi về viên-thông, tôi thu-nhiếp tất-cả sáu căn, không có lựa-chọn, tịnh-niệm kế-tiếp, được vào Tam-ma-đề, đó là thứ nhất."
[25]
Ngài Quán-thế-âm Bồ-tát
VIÊN THÔNG
VỀ NHĨ CĂN
Thuật lại chỗ tu-chứng
Khi bấy-giờ, ngài Quán-thế-âm Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, tôi nhớ vô-số hằng-sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời, hiệu là Quán-thế-âm; từ đức Phật kia, tôi phát-tâm Bồ-đề. Đức Phật kia dạy tôi, do nghe, nghĩ và tu,
mà vào Tam-ma-đề.
Ban đầu, ở trong tính-nghe, vào được dòng viên-thông, không
còn tướng sở-văn nữa. Trần-tướng đã vẳng-lặng, hai tướng động, tĩnh rõ thật không sinh. Như vậy thêm lần, các tướng năng-văn, sở-văn đều hết. Không dừng lại nơi chỗ dứt hết năng-văn, sở-văn mà tiến lên nữa, thì năng-giác, sở-giác, đều không. Không-giác tột bậc viên-mãn, các tướng năng-không, sở-không đều diệt. Sinh-diệt đã diệt, thì bản-tính tịch-diệt hiện-tiền. Bỗng nhiên, vượt ngoài thế-gian và xuất thế-gian, sáng-suốt cùng khắp mười phương, được hai cái thù-thắng: Một là, trên hợp với bản-giác-diệu-tâm thập phương chư Phật, cùng với chư Phật Như-lai đồng một từ-lực; hai là, dưới hợp với tất-cả chúng-sinh lục-đạo mười phương, cùng với các chúng-sinh đồng một bi-ngưỡng.
Do từ-lực, hiện ra 32 ứng-thân
Bạch Thế-tôn, do tôi cúng-dường đức Quán-âm Như-lai, nhờ Ngài truyền-thụ cho tôi Như-huyễn Văn-huân Văn-tu Kim-cương-tam-muội, được cùng chư Phật đồng một từ-lực, nên làm cho thân tôi
thành-tựu 32 ứng-thân vào các cõi-nước.
Bạch Thế-tôn, nếu các vị Bồ-tát vào Tam-ma-đề, tiến-tu pháp vô-lậu, thắng-giải hiện đã viên-mãn, tôi hiện ra thân Phật, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được giải-thoát.
Nếu các hàng hữu-học tu phép Diệu-minh vẳng-lặng, chỗ thắng-diệu đã viên-mãn. Tôi ở trước người kia, hiện ra thân Độc-giác, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được giải-thoát.
Nếu các hàng hữu-học đoạn 12 Nhân-duyên; do các
nhân-duyên đã đoạn mà phát
ra thắng-tính
và thắng-tính
đó hiện đã
viên-mãn, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Duyên-giác, vì họ mà thuyết-pháp khiến cho được giải-thoát.
Nếu các hàng hữu-học được phép-không của Tứ-đế, tu đạo-đế vào diệt-đế, thắng-tính hiện viên-mãn, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Thanh-văn, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được giải-thoát.
Nếu chúng-sinh muốn tâm được tỏ-ngộ, không phạm vào cảnh ngũ-dục và muốn cho thân được thanh-tịnh, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Phạm-vương, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được giải-thoát.
Nếu các chúng-sinh muốn làm Thiên-chúa, thống-lĩnh chư thiên, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Đế-thích, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh muốn thân được tự-tại, đi khắp mười phương, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Tự-tại-thiên, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh muốn thân được tự-tại, bay đi trên hư-không, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Đại-tự-tại-thiên, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh muốn thống-lĩnh quỷ-thần, cứu-giúp cõi-nước, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Thiên-đại-tướng-quân, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh muống sinh nơi thiên-cung, sai khiến quỷ-thần, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Thái-tử, con của Tứ-thiên-vương, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh muốn làm vua cõi người, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Vua, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh muốn làm chủ gia-đình danh-tiếng, thế-gian kính-nhường, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Trưởng-giả vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh thích
đàm-luận những lời hay, giữ mình trong-sạch, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Cư-sĩ, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh muốn trị cõi-nước, chia-đoán các bang, các ấp, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Tể-quan, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh thích các
số-thuật, tự-mình nhiếp-tâm giữ thân, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Bà-la-môn, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có người con trai muốn học phép xuất-gia, giữ các giới-luật, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Tỷ-khưu, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có người con gái muốn học phép xuất-gia, giữ các cấm-giới, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Tỷ-khưu-ni, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có người con trai thích giữ ngũ-giới, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Ưu-bà-tắc, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có người con gái tự giữ ngũ-giới, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Ưu-bà-di, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có người con gái lập-thân trong nội-chính, để tu-sửa nhà nước, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Nữ-chúa hay thân Quốc-phu-nhân, mệnh-phụ, đại-gia, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có chúng-sinh không phá
nam-căn, tôi ở trước người kia, hiện ra thân đồng-nam, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có người xử-nữ, thích thân xử-nữ, không cầu sự xâm-bạo, tôi ở trước người kia, hiện ra thân đồng-nữ, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có chư-thiên muốn ra khỏi loài trời, tôi hiện ra thân chư-thiên, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có các con rồng muốn ra khỏi loài rồng, tôi hiện ra thân rồng, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có dược-xoa muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân dược-xoa, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có càn-thát-bà muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân càn-thát-bà, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có a-tu-la, muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân a-tu-la, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có khẩn-na-la muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân khẩn-na-la, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có ma-hô-la-già muốn thoát khỏi loài mình; tôi ở trước họ, hiện ra thân ma-hô-la-già, vì
họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có chúng-sinh thích làm
người, tu cho
được thân người, tôi hiện ra thân người, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có loài phi-nhân, hoặc có hình, hoặc không hình, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân như họ, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Ấy gọi là 32 ứng-thân diệu-tịnh, vào các cõi-nước. Những thân ấy đều do vô-tác-diệu-lực của Văn-huân Văn-tu Tam-muội, mà tự-tại thành tựu.
Do bi-ngưỡng, bố-thí 14 công-đức vô-úy
"Bạch Thế-tôn, do tôi lại dùng vô-tác-diệu-lực của Văn-huân Văn-tu Kim-cương-tam-muội ấy, cùng với tất-cả lục-đạo chúng-sinh trong mười phương ba đời, đồng một lòng bi-ngưỡng, nên khiến các chúng-sinh, nơi thân-tâm tôi, được 14 thứ công-đức vô-úy:
Một, là do tôi không tự quán cái tiếng, mà quán cái tâm
năng-quán, nên khiến cho
chúng-sinh khổ-não thập phương kia, quán cái âm-thanh,
thì liền được giải-thoát.
Hai, là tri-kiến đã xoay trở lại, khiến cho các chúng-sinh, dầu vào đống lửa, lửa không thể đốt được.
Ba, là quán cái nghe đã
xoay trở lại, khiến cho các chúng-sinh bị nước lớn cuốn đi, mà không chết-đuối.
Bốn, là diệt hết vọng-tưởng, tâm không sát-hại, khiến các chúng-sinh vào những nước quỷ, quỷ không thể hại được.
Năm, là huân-tập và thành-tựu được tính-nghe, cả sáu căn đều tiêu về bản-tính, đồng như cái nghe, cái tiếng, có thể khiến cho chúng-sinh, lúc đương bị hại, dao gãy từng đoạn, khiến cho các binh-khí chạm vào thân người như cắt dòng nước, như thổi ánh-sáng, bản-tính không hề lay-động.
Sáu, là huân-tập tính-nghe sáng-suốt thấu khắp pháp-giới, thì các tính tối-tăm không thể toàn được, có thể khiến cho chúng-sinh, tuy các
loài dược-xoa,
la-sát, cưu-bàn-trà,
tỳ-xá-già, phú-dan-na, vân vân ... ở gần một bên, con mắt chúng vẫn không thể thấy được.
Bảy, là các tiếng đều viên-tiêu, thấy-nghe đã xoay vào tự-tính, rời các trần-cảnh hư-vọng, có thể khiến cho các chúng-sinh, những thứ cùm, dây, gông, xiềng không thể dính vào mình được.
Tám, là diệt tướng âm-thanh, viên-thông
tính-nghe, phát-sinh từ-lực cùng khắp, có thể khiến cho chúng-sinh đi qua đường hiểm, giặc không cướp được.
Chín, là huân-tập phát ra tính-nghe, rời các trần-tướng, sắc-dục không lôi-kéo được, có thể khiến cho tất-cả chúng-sinh đa-dâm, xa rời lòng tham-dục.
Mười, là thuần một thật-tướng của âm-thanh, không còn gì là
tiền-trần, căn và cảnh điều viên-dung, không có năng,
sở đối-đãi, có thể khiến cho tất-cả chúng-sinh nóng-giận, rời-bỏ lòng thù-ghét.
Mười một, là tiêu-diệt trần-tướng, xoay về tính bản-minh, thì pháp-giới, thân, tâm đều như ngọc lưu-ly, sáng-suốt không ngăn-ngại, có thể khiến cho những kẻ ngu-ngốc u-mê, xa-rời hẳn sự si-mê tối-tăm.
Mười hai, là viên-dung các
hình-tướng, xoay
tính-nghe trở về đạo-trường bất-động, hòa vào thế-gian mà không hủy-hoại thế-giới, cúng-dường được chư Phật Như-lai như số vi-trần, cùng khắp mười phương, ở bên mỗi mỗi đức Phật, làm vị Pháp-vương-tử, có thể khiến cho trong pháp-giới, những chúng-sinh không con, cầu có con trai, sinh ra đứa con trai có phúc-đức trí-tuệ.
Mười ba, là sáu căn
viên-thông, soi-sáng không hai, trùm khắp thập phương thế-giới, thành-lập đại-viên-kính Không-như-lai-tạng, vâng-lĩnh pháp-môn bí-mật của thập-phương vi-trần Như-lai, không có thiếu-sót, có thể khiến cho trong pháp-giới, những chúng-sinh không con, cầu có con gái, sinh ra người con gái có tướng-tốt, đoan-chính, phúc-đức, dịu-dàng, được mọi người yêu-kính.
Mười bốn, là trong tam-thiên đại-thiên thế-giới này, có trăm ức mặt trời, mặt trăng, các Pháp-vương-tử hiện ở trong thế-gian, số-lượng có đến 62 số cát sông Hằng, đều tu Phật-pháp, nêu gương-mẫu, giáo-hóa chúng-sinh,
tùy-thuận
chúng-sinh, phương-tiện trí-tuệ của mỗi mỗi vị không đồng nhau. Do tôi được tính viên-thông, phát ra
diệu-tính của nhĩ-căn, cho đến thân-tâm nhiệm-mầu bao trùm khắp pháp-giới, nên có thể khiến cho chúng-sinh chấp-trì danh-hiệu của tôi, so với những người chấp-trì danh-hiệu của tất-cả các vị Pháp-vương-tử số-lượng bằng 62 số cát sông Hằng kia, phúc-đức hai bên thật bằng bậc, không sai khác.
Bạch Thế-tôn, một danh-hiệu của tôi cùng với rất nhiều danh-hiệu kia không khác, là do tôi
tu-tập được tính viên-thông chân-thật. Ấy gọi là 14 sức thí-vô-úy, đem phúc khắp cho chúng-sinh.
Theo cơ-cảm hiện ra 4 diệu-đức không nghĩ-bàn
"Bạch Thế-tôn, do tôi đã được Đạo tu-chứng viên-thông vô-thượng đó, nên lại khéo được 4 vô-tác-diệu-đức không nghĩ-bàn:
Một, là do tôi chứng được tính-nghe chí-diệu, nơi tâm-tính không còn có tướng năng-văn, các sự thấy, nghe, hay, biết không còn cách-biệt và đều thành một bảo-giác viên-dung thanh-tịnh, nên tôi có thể hiện ra rất nhiều hình-dung nhiệm-mầu, nói ra vô-số thần-chú bí-mật. Trong đó, hoặc hiện ra một đầu, 3 đầu, 5 đầu, 7 đầu, 9 đầu, 11 đầu, như thế cho đến 108 đầu, 1000 đầu, 10000 đầu, 84000 cái đầu, đầy-đủ các tướng; hoặc hiện ra hai tay, 4 tay, 6 tay,
12 tay, 14, 16, 18, 20, 24, như thế cho đến 108 tay, 1000 tay, 10000
tay, 84000 cái tay bắt-ấn; hoặc hiện ra hai mắt, 3 mắt, 4 mắt, 9 mắt, như thế cho đến 108 mắt, 1000 mắt, 10000 mắt, 84000 con mắt báu thanh-tịnh; hoặc khi thì từ, hoặc khi thì oai, hoặc khi thì định, hoặc khi thì tuệ, cứu-giúp chúng-sinh được rất tự-tại.
Hai, là do cái nghe, cái
nghĩ của tôi,
thoát ra ngoài sáu trần như cái tiếng qua bức tường, không thể bị ngăn-ngại, cho nên diệu-dụng của tôi có thể hiện mỗi mỗi hình, tụng mỗi mỗi chú, hình đó, chú đó đều có thể đem sức vô-úy mà bố-thí cho các chúng-sinh; vì
thế, cõi nước thập phương như vi-trần đều gọi tôi là vị Thí-vô-úy.
Ba, là tôi tu-tập, phát ra căn-tính bản-diệu viên-thông thanh-tịnh, nên đi qua thế-giới nào, đều khiến cho chúng-sinh xả-thân, xả đồ trân-bảo, cầu tôi thương-xót.
Bốn, là do tôi được tâm Phật, chứng đến chỗ rốt-ráo, nên có thể đem các thứ quý-báu cúng-dường thập phương Như-lai, cả đến chúng-sinh lục-đạo trong pháp-giới, ai cầu vợ thì được vợ, cầu con thì được con, cầu Tam-muội thì được Tam-muội, cầu sống lâu thì được sống lâu, như thế, cho đến cầu Đại-niết-bàn thì được Đại-niết-bàn.
Kết-luận về viên-thông nhĩ-căn
"Phật hỏi về viên-thông, tôi do văn-chiếu Tam-muội nơi nhĩ-căn mà duyên-tâm được tự-tại; nhân tướng nhập-lưu, được Tam-ma-đề, thành tựu quả Bồ-đề, đó là thứ nhất. Bạch Thế-tôn, đức Phật Như-lai kia, khen tôi khéo được pháp-môn viên-thông, ở trong Đại-hội, thụ-ký cho tôi cái hiệu là Quan-thế-âm; do tôi thấy-nghe thấu-suốt mười phương, nên danh-tiếng Quan-âm cùng khắp thập phương thế-giới".
Khi bấy giờ, đức Thế-tôn nơi sư-tử tọa, năm vóc đồng phóng ra hào-quang báu,
rọi xa trên
đỉnh thập phương Như-lai số như vi-trần và trên đỉnh các vị Pháp-vương-tử, các vị Bồ-tát. Các đức Như-lai kia, năm vóc cũng đồng phóng ra hào-quang báu,
từ các thế-giới số như vi-trần đến rọi trên đỉnh Phật và trên đỉnh các vị Đại-bồ-tát và A-la-hán trong Hội; rừng cây, ao hồ đều diễn ra pháp-âm; hào-quang
giao-xen cùng nhau như lưới tơ báu. Cả trong đại-chúng được cái chưa từng có; tất-cả đều được Kim-cương-tam-muội. Liền khi ấy, trời mưa hoa sen bách-bảo màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng xen-lộn lẫn nhau, thập phương hư-không hóa-thành sắc thất-bảo. Đất liền, núi sông của cõi Sa-bà nầy cùng một lúc không hiện ra, chỉ thấy vi-trần quốc-độ thập-phương hợp-thành một giới, tiếng hát ca-ngợi tự-nhiên nổi lên.
PHẬT BẢO NGÀI VĂN-THÙ LỰA-CHỌN CĂN VIÊN-THÔNG
Khi bấy-giờ, đức Như-lai bảo Ngài Văn-thù-sư-lỵ Pháp-vương-tử rằng: "Ông hãy xét trong
25 vị vô-học Đại-bồ-tát và A-la-hán, mỗi mỗi đều trình-bày phương-tiện hành-đạo lúc đầu, đều nói tu-tập tính viên-thông chân-thật; chỗ tu-hành của các vị kia, thật không có hơn, kém, trước, sau gì khác nhau. Nay
tôi muốn khiến cho ông A-nan khai-ngộ, thì trong 25 phép tu,
phép nào hợp với căn-cơ của ông ấy; lại, sau khi tôi diệt-độ rồi, chúng-sinh trong cõi nầy vào thừa Bồ-tát, cầu đạo vô-thượng, thì do pháp-môn phương-tiện gì, được dễ thành-tựu hơn?"
Tán-thán
tính-giác vốn diệu và chỉ rõ mê-vọng vốn không
Ngài Văn-thù-sư-lỵ Pháp-vương-tử, vâng từ-chỉ của Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật, dựa vào uy-thần của Phật, nói bài kệ đáp lại:
"Bản-tính biển Giác khắp đứng-lặng,
Tính khắp đứng-lặng vốn nhiệm-mầu,
Bản-minh
chiếu ra
hình-như sở,
Lập tướng sở, bỏ mất bản-minh.
Do mê-vọng, mà có
hư-không,
Nương hư-không, lập-thành thế-giới;
Tư-tưởng chăm-chú thành cõi-nước,
Hay-biết mọi việc, là chúng-sinh.
Hư-không
sinh ra trong đại-giác,
Như một bọt-nước sinh trong bể;
Các nước hữu-lậu, như vi-trần
Đều nương hư-không, mà phát-sinh;
Bọt-nước diệt, vốn không hư-không,
Huống nữa là, hình-tướng ba cõi.
(
Giác hải tánh trừng viên
Viên trừng giác
nguyên diệu
Nguyên minh chiếu sanh sở
Sở lập chiếu tánh vong.
Mê vọng hữu hư không
Y không lập thế giới
Tưởng trừng thành quốc độ
Tri giác nãi chúng sanh.
Không sanh đại giác trung
Như hải nhất âu phát
Hữu lậu vi trần quốc
Giai tòng không sở sanh
Âu diệt không bổn vô
Huống phục chư tam hữu.
)
Nêu rõ phương-tiện có mau chậm
"Bản-tính xoay về, vốn không hai,
Phương-tiện tu-chứng có nhiều cách,
Cách nào cũng thông vào bản-tính,
Nói thuận, nghịch, chỉ là phương-tiện;
Do hàng sơ-tâm vào
Tam-muội,
Bên mau, bên chậm không đồng nhau.
(
Quy nguyên tánh vô nhị
Phương tiện hữu đa môn
Thánh tánh vô bất thông
Thuận nghịch giai phương tiện
Sơ tâm nhập tam muội
Trì tốc bất đồng luân.
)
Lựa ra 6 trần
"Vọng-tưởng kết-lại thành sắc-trần,
Hay-biết không
thể thông-suốt được;
Làm sao, chính chỗ không
thông-suốt,
Tu-hành, lại được tính viên-thông?
Âm-thanh xen-lộn với lời nói,
Chỉ nương theo ý-vị danh-từ;
Nếu một, không trùm được tất-cả,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Hương, chỉ lúc hợp, mới rõ-biết,
Lúc rời-cách,
thì vốn không
có;
Nếu sở-giác, không được thường-xuyên,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Vị, không
phải bản-nhiên tự có,
Cần phải nếm, mới biết có vị;
Nếu
giác-quan, không thường duy-nhất,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Xúc, do các vật chạm mà biết,
Không vật chạm, thì không thành xúc;
Khi hợp, khi
ly, không nhất-định,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Pháp, cũng có tên là nội-trần,
Nương theo
trần, tất phải có sở;
Năng sở, không
viên-dung nhập một,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
(
Sắc tưởng kết thành trần.
Tinh liễu bất năng triệt.
Như hà bất minh triệt.
Ư thị hoạch viên thông?
Âm thanh tạp ngữ ngôn.
Đãn y danh cú vị.
Nhất phi hàm
nhất thiết.
Vân hà hoạch viên
thông?
Hương dĩ hợp trung tri.
Ly tắc nguyên
vô hữu.
Bất hằng kỳ sở giác.
Vân hà hoạch viên
thông?
Vị tánh phi bản nhiên.
Yếu dĩ vị thời hữu.
Kỳ giác bất hằng nhất.
Vân hà hoạch viên
thông?
Xúc dĩ sở xúc minh.
Vô sở bất minh xúc.
Hợp ly tánh
phi định.
Vân hà hoạch viên
thông?
Pháp xưng vi nội trần.
Bằng trần tất hữu sở.
Năng sở phi biến thiệp.
Vân hà hoạch viên
thông?
)
Lựa-ra 5 căn
"Cái thấy, tuy rỗng-suốt rất xa,
Nhưng thấy trước, mà không thấy sau;
Bốn-bề, còn thiếu mất một nửa,
Thì làm sao, được tính
viên-thông!
Mũi, có thở ra và thở vào,
Chặng giữa, hiện không có hơi-thở,
Nếu không
viên-dung sự cách-bức,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Ngoài sở-nhập, tính-nếm không thành,
Nhân các vị, mới có hay-biết;
Không có vị, rốt-ráo không có,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Thân biết-xúc với cảnh sở-xúc,
Đều có hạn, không phải cùng khắp;
Nếu không
nhận tính
không bờ-bến,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Ý-căn xen với các loạn-tưởng,
Đứng-lặng, rốt-cuộc không thấy gì;
Nếu không
thoát được các tưởng-niệm,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?"
(
Kiến tánh tuy đỗng nhiên.
Minh tiền bất minh hậu.
Tứ duy khuy
nhất bán.
Vân hà hoạch viên
thông?
Tỵ tức xuất nhập thông.
Hiện tiền vô giao khí.
Chi ly phỉ thiệp nhập.
Vân hà hoạch viên thông?
Thiệt phi nhập vô đoan.
Nhơn vị sanh giác liễu.
Vị vong liễu vô hữu.
Vân hà hoạch viên
thông?
Thân dữ sở xúc đồng.
Các phi viên giác quán.
Nhai lượng bất minh hội.
Vân hà hoạch viên
thông?
Ý căn tạp loạn tư.
Trạm liễu chung vô kiến.
Tưởng niệm bất khả thoát.
Vân hà hoạch viên
thông?
)
Lựa-ra 6 thức
"Nhãn-thức, phát-khởi nhờ căn trần,
Gạn-cùng, vốn không có tự-tướng;
Cả tự-thể, còn không nhất-định,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Tâm nghe rỗng-thấu cả mười phương,
Là do sức hoằng-thệ rộng-lớn;
Sơ-tâm,
không thể đến chỗ ấy
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Quán đầu-mũi, vốn là duyên-cơ,
Chỉ để nhiếp-tâm được an-trụ;
Nếu cảnh-quán, lại thành sở-trụ,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Thuyết-pháp,
diệu-dụng các danh-từ;
Cốt phải đã được khai-ngộ trước;
Nếu lời nói, không phải vô-lậu,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Giữ giới, chỉ câu-thúc cái thân,
Ngoài cái thân, lấy gì
câu-thúc;
Vốn không
phải cùng khắp tất-cả,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Thần-thông,
do túc-tập từ trước,
Nào dính gì ý-thức phân-biệt;
Tưởng-niệm, không thoát-ly sự-vật,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
(
Thức kiến tạp tam hoà.
Cật bổn xưng phi tướng.
Tự thể tiên vô định.
Vân hà hoạch viên
thông?
Tâm văn đỗng thập phương.
Sanh vu đại nhân lực.
Sơ tâm bất năng nhập.
Vân hà hoạch viên
thông?
Tỵ tưởng bổn quyền cơ.
Kỳ linh nhiếp tâm trụ.
Trụ thành
tâm sở trụ.
Vân hà hoạch viên
thông?
Thuyết pháp lộng âm văn.
Khai ngộ tiên
thành giả.
Danh cú phi vô lậu.
Vân hà hoạch viên
thông?
Trì phạm đãn thúc thân.
Phi thân vô sở thúc.
Nguyên phi biến nhất thiết.
Vân hà hoạch viên
thông?
Thần thông bổn túc nhơn.
Hà quan pháp phân biệt.
Niệm duyên phi ly vật.
Vân hà hoạch viên thông?
)
Lựa-ra 7 đại
"Nếu quán cái tính của địa-đại,
Thì nó ngăn-ngại, không
thông-suốt;
Pháp hữu-vi,
không phải chân-tính,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Nếu quán
cái tính của thủy-đại,
Quán-tưởng, đâu
phải là
chân-thật,
Nếu không
đi đến Diệu-chân-như,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Nếu quán hỏa-đại, trừ dâm-dục,
Chán cái có, không phải thật ly;
Phương-tiện, không hợp với sơ-tâm,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Nếu quán
cái tính của phong-đại,
Động, tĩnh,
đâu phải không đối-đãi;
Đối-đãi,
trái với vô-thượng-giác,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Nếu quán
cái tính của không-đại,
Hư-không
vô-tri, không hay-biết;
Không biết, khác hẳn với Bồ-đề,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Nếu quán
cái tính của thức-đại,
Thức sinh-diệt, đâu phải thường-trụ,
Để tâm
trong phân-biệt hư-vọng,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Tất-cả các hành đều vô-thường,
Tưởng-niệm, vốn trong vòng sinh diệt,
Nhân và quả, khác
nhau như thế,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?"
)
Nhược dĩ địa tánh quán.
Kiên ngại phi
thông đạt.
Hữu vi phi
thánh tánh.
Vân hà hoạch viên
thông?
Nhược dĩ thủy tánh quán.
Tưởng niệm phi chơn thật.
Như như phi giác quán.
Vân hà hoạch viên
thông?
Nhược dĩ hoả tánh quán.
Yếm hữu phi chơn ly.
Phi sơ tâm phương tiện.
Vân hà hoạch viên
thông?
Nhược dĩ phong tánh quán.
Động tịch phi vô đối.
Đối phi vô
thượng giác.
Vân hà hoạch viên
thông?
Nhược dĩ không tánh quán.
Hôn độn tiên
phi giác.
Vô giác dị bồ đề.
Vân hà hoạch viên
thông?
Nhược dĩ thức tánh quán.
Quán thức phi thường trụ.
Tồn tâm nãi
hư vọng.
Vân hà hoạch viên
thông?
Chư hành thị vô thường.
Niệm tánh vô
sanh diệt.
Nhân quả kim thù
cảm.
Vân hà hoạch viên
thông?
)
Hợp với giáo-thể cõi Sa-bà
"Tôi nay xin bạch đức Thế-tôn,
Phật ra đời trong cõi Sa-bà,
Trong cõi nầy, lối dạy chân-thật,
Thanh-tịnh, do chỗ nói và nghe;
Nay muốn tu-chứngTam-ma-đề,
Thật nên do
cái nghe mà vào."
(
Ngã kim bạch Thế Tôn
Phật xuất ta-bà giới
Thử phương chơn giáo thể
Thanh tịnh tại âm văn
Dục thủ tam ma đề
Thật dĩ văn trung nhập.
)
Xưng-tán ngài Quán-thế-âm
"Rời cái khổ và được giải-thoát,
Hay thay cho ngài Quán-thế-âm;
Trong kiếp số như cát sông Hằng,
Vào cõi Phật như số vi-trần,
Được sức tự-tại rất to-lớn,
Bố-thí
vô-úy cho chúng-sinh.
Ngài Quán-thế-âm, tiếng nhiệm-mầu,
Tiếng
trong-sạch và tiếng hải-trào,
Cứu đời, mọi việc được yên-lành,
Xuất-thế-gian, được quả thường-trụ."
(
Ly khổ đắc giải thoát
Lương tai
Quán Thế Âm
Ư hằng sa kiếp trung
Nhập vi trần phật quốc
Đắc đại tự tại lực
Vô úy thí chúng sanh
Diệu âm Quán Thế Âm
Phạm âm hải triều âm
Cứu thế tất an ninh
Xuất thế hoạch thường trụ.
)
Xưng-tán nhĩ-căn
"Tôi nay kính bạch đức Như-lai,
Như lời ngài Quán-âm vừa nói:
Ví-như, có người trong yên-lặng,
Chung-quanh mười phương đều đánh trống,
Thì đồng-thời nghe khắp mười nơi,
Như thế, mới là viên-chân-thật.
Mắt bị ngăn-che, không thấy được,
Thiệt-căn, tỷ-căn cũng như vậy,
Thân-căn, lúc hợp mới biết-xúc,
Ý-căn, phân-vân không manh-mối;
Cách tường,
nhĩ-căn vẫn nghe tiếng,
Dầu xa, dầu gần, đều nghe được;
Năm căn so-sánh thật không bằng,
Như thế, mới là thông-chân-thật.
Tính thanh-trần, có động, có tĩnh,
Trong tính-nghe thành có, thành không;
Khi không tiếng, gọi là không nghe,
Đâu phải thật không còn tính-nghe;
Không tiếng,
tính-nghe đã không diệt,
Có tiếng,
tính-nghe đâu phải sinh;
Trọn-rời cả hai thứ sinh-diệt,
Như thế, mới là thường-chân-thật.
Dầu cho,
trong lúc đương ngủ mê,
Không vì không nghĩ, mà không nghe;
Tính-nghe ra ngoài sự suy-nghĩ,
Thân, ý không thể so bằng được.
(
Ngã kim khải Như Lai
Như Quán Âm
sở thuyết
Thí như nhân
tĩnh cư
Thập phương câu kích cổ
Thập xứ nhất thời văn
Thử tắc viên chơn thật
Mục phi
quán chướng ngoại
Khẩu tỵ diệc phục nhiên
Thân dĩ hợp phương tri
Tâm niệm phân vô
tự
Cách viên thính âm hưởng
Hà nhĩ câu khả văn
Ngũ căn sở bất tề
Thị tắc thông chơn thật
Âm thinh tánh động tĩnh
Văn trung vi hữu vô
Vô thinh hiệu vô văn
Phi thật văn vô
tánh
Thinh vô ký vô diệt
Thinh hữu diệc phi sanh
Sanh diệt nhị viên ly
Thị tắc thường chơn thật
Túng linh tại mộng tưởng
Bất vị bất tư vô
Giác quán xuất tư duy
Thân tâm bất năng cập.
)
Chuyển mê thành ngộ
“Hiện nay, trong cõi Sa-bà nầy,
Các thứ thanh-luận được truyền-bá,
Do chúng-sinh bỏ mất tính-nghe,
Theo thanh-trần, nên bị lưu-chuyển;
A-nan, tuy có tính nhớ dai,
Vẫn không
khỏi mắc các tà-niệm;
Há không phải tùy chỗ chìm-đắm,
Xoay ngược dòng,
thoát khỏi hư-vọng.
A-nan, ông hãy nghe cho chín,
Nay tôi nương uy-lực của Phật,
Tuyên-nói phép Tam-muội chân-thật,
Chắc như Kim-cương-vương, như-huyễn,
Không nghĩ-bàn, xuất-sinh chư Phật.
Ông nghe tất-cả pháp bí-mật
Của chư Phật, số như vi-trần,
Nếu trước hết, không trừ dục-lậu,
Nghe nhiều, chứa-chấp thành lầm-lỗi;
Dùng cái nghe thụ-trì Phật-pháp,
Sao lại không tự nghe cái nghe?
Tính-nghe không phải tự-nhiên sinh,
Nhân thanh-trần mà có
danh-hiệu,
Xoay cái nghe, thoát-ly thanh-trần,
Cái thoát-ly ấy, gọi là gì?
Một căn, đã
trở về bản-tính,
Thì cả sáu căn,
được giải-thoát,
Thấy, nghe
như bệnh lòa huyễn-hóa,
Ba cõi như hoa-đốm hư-không;
Xoay tính-nghe, gốc lòa
tiêu-trừ,
Trần-tướng tiêu, giác-tính viên-tịnh.
Tột thanh-tịnh, trí-quang thông-suốt,
Thể tịch-chiếu trùm khắp hư-không,
Trở lại xem các việc thế-gian
Thật giống như chiêm-bao không khác.
Nàng Ma-đăng-già là chiêm-bao
Thì còn ai bắt ông được nữa?
Như các huyễn-sư khéo trong đời,
Làm trò, thành ra các trai, gái;
Tuy thấy các căn
đều cử-động,
Cốt-yếu, do cái máy dật dây;
Nghỉ máy, tất-cả đều yên-lặng,
Các trò, trở thành
không có tính.
Cả sáu căn
cũng giống như thế,
Vốn đều nương một tính tinh-minh
Chia ra thành sáu thứ hòa-hợp;
Một nơi, đã rời-bỏ quay về,
Thì cả sáu, đều không thành-lập;
Trong một niệm, trần-cấu đều tiêu,
Chuyển-thành
tính Viên-minh tịnh-diệu,
Còn sót trần-cấu là học-vị,
Sáng-suốt cùng-tột, tức Như-lai.
Hỡi đại-chúng và ông A-nan,
Hãy xoay lại cái
nghe điên-đảo,
Xoay cái nghe về, nghe tự-tính,
Nhận tự-tính, thành đạo vô-thượng;
Thật-tính
viên-thông là như thế."
(
Kim thử ta-bà quốc.
Thanh luận đắc tuyên minh.
Chúng sanh mê bổn văn.
Tuần thinh cố lưu chuyển.
A-nan túng cường ký.
Bất miễn lạc tà tư.
Khởi phi tùy sở luân.
Triền lưu hoạch vô vọng.
A-nan nhữ đế thính:
Ngã thừa Phật oai lực.
Tuyên thuyết Kim cang vương.
Như huyễn bất tư nghị.
Phật mẫu chơn tam muội.
Nhữ văn vi
trần Phật.
Nhất thiết bí mật môn.
Dục lậu bất tiên trừ.
Súc văn thành quá ngộ.
Tương văn
trì phật phật.
Hà bất tự văn văn?
Văn phi tự nhiên
sanh.
Nhơn thinh hữu danh tự.
Triền văn dữ thinh thoát.
Năng thoát dục thùy danh?
Nhất căn ký
phản nguyên.
Lục căn
thành giải thoát.
Kiến văn như huyễn ế.
Tam giới nhược không hoa.
Văn phục ế căn trừ.
Trần tiêu
giác viên tịnh.
Tịnh cực quang thông đạt.
Tịch chiếu hàm hư không.
Khước lai
quán thế gian.
Du như mộng trung sự.
Ma-đăng-già tại mộng.
Thùy năng lưu nhữ hình?
Như thế xảo huyễn sư.
Huyễn tác chư nam nữ.
Tuy kiến chư căn động.
Yếu dĩ nhất cơ trừu.
Tức cơ quy tịch nhiên.
Chư huyễn thành vô tánh.
Lục căn diệc như thị.
Nguyên y nhất tinh minh.
Phân thành lục hoà hợp.
Nhất xứ thành hưu phục.
Lục dụng giai bất thành.
Trần cấu ứng niệm tiêu.
Thành viên minh tịnh diệu.
Dư trần thượng chư học.
Minh cực tức Như Lai.
Đại chúng cập A-nan.
Triền nhữ đảo văn cơ.
Phản văn văn
tự tánh.
Tánh thành vô thượng đạo.
Viên thông thật như thị.
Thử thị vi trần Phật.
)
Chọn lấy nhĩ-căn làm phương-tiện thích-hợp
"Đây thật là một đường thẳng tiến
Vào Niết-bàn của vi-trần Phật;
Các đức Như-lai trong quá-khứ
Đều đã
thành-tựu
pháp-môn nầy;
Các vị Bồ-tát trong hiện-tại
Điều
viên-minh vào pháp-môn ấy;
Những người tu-học đời vị-lai
Đều nên nương theo pháp-môn đó;
Tôi cũng do pháp ấy mà chứng,
Không phải chỉ ngài Quán-thế-âm.
Thật như lời đức Phật Thế-tôn
Đã hỏi tôi về các phương-tiện
Để cứu-giúp, trong đời mạt-pháp,
Những người cầu pháp xuất-thế-gian
Thành-tựu được tâm-tính Niết-bàn
Thì ngài Quán-âm là hơn cả.
Còn tất-cả các phương-tiện khác
Đều là nhờ uy-thần của Phật,
Tức nơi sự, rời-bỏ trần-lao,
Không phải phép
tu-học thường-xuyên,
Nông hay sâu cũng đồng nghe được.
)
Nhất lộ niết-bàn môn.
Quá khứ chư Như Lai.
Tư môn dĩ thành tựu.
Hiện tại chư bồ tát.
Kim các nhập viên
minh.
Vị lai tu học nhơn.
Đương y như thị pháp.
Ngã diệc tòng
trung chứng.
Phi duy Quán Thế Âm.
Thành như Phật Thế Tôn.
Tuân ngã chư phương tiện.
Dĩ cứu chư mạt kiếp.
Cầu xuất thế gian nhơn.
Thành tựu niết-bàn tâm.
Quán Thế Âm vi tối.
Tự dư chư phương tiện.
Giai thị Phật oai thần.
Tức sự xả trần lao.
Phi thị trường tu học.
Thiển thâm đồng thuyết pháp.
)
Đỉnh-lễ cầu gia-bị
"Xin đỉnh-lễ tính Như-lai-tạng,
Vô-lậu, không
còn sự
nghĩ-bàn,
Nguyện gia-bị cho đời vị-lai,
Nơi
pháp-môn nầy, không
lầm-lẫn.
Đây là phương-tiện dễ thành-tựu,
Nên đem dạy cho ông
A-nan
Cùng những kẻ trầm-luân mạt-kiếp,
Chỉ dùng
nhĩ-căn mà tu-tập,
Thì viên-thông chóng hơn pháp khác;
Tâm-tính chân-thật là như thế."
(
Đảnh lễ Như Lai tạng.
Vô lậu bất tư nghị.
Nguyện gia bị vị lai.
Ư thử môn vô hoặc.
Phương tiện dị thành tựu.
Kham dĩ giáo A-nan.
Cập mạt kiếp trầm luân.
Đãn dĩ thử căn tu.
Viên thông siêu dư giả.
Chơn thật tâm như thị.
)
NGHE PHÁP
ĐƯỢC CHỨNG
Lúc ấy, ông A-nan cùng cả đại-chúng, thân tâm tỏ-rõ, nhận được sự khai-thị to-lớn, xem quả Bồ-đề và Đại-niết-bàn của Phật, cũng như có người nhân có việc phải đi xa, chưa trở về được, song đã biết rõ con đường về nhà. Trong Pháp-hội, cả đại-chúng, thiên-long bát-bộ, hàng Nhị-thừa hữu-học và tất-cả các Bồ-tát mới phát-tâm, số-lượng bằng mười số cát sông Hằng, đều được bản-tâm xa trần-tướng, rời cấu-nhiễm, được pháp-nhãn thanh-tịnh. Bà Tính-tỷ-khưu-ni nghe nói bài kệ xong, thành quả A-la-hán; vô-lượng chúng-sinh đều phát-tâm Vô-đẳng-đẳng-vô-thượng Chính-đẳng-chính-giác.
KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT
Đời Tấn, ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn ra Hán.
Hòa-Thuợng
Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.
PHẨM THỨ NĂM
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG
Lúc bấy giờ, Quốc mẫu Vi-Đề-Hy hoàng thái hậu hớn hở vui mừng được nghe pháp yếu của Như-Lai qua lời dạy của ngài Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát, bèn tiếp tục thưa thỉnh:
- "Kính bạch đấng Thiên Nhân Sư tối tôn, tối thắng ! Kính bạch Đại-sĩ đại từ, đại bi ! Con cũng thường nghe chư vị trưởng lão trong tăng già luôn
luôn nhắc nhở rằng chỉ có Tứ-niệm-xứ là con đường độc nhất giúp chúng sanh diệt trừ ưu bi khổ não, chứng ngộ Niết-bàn. Nay được Thế-Tôn mở bày pháp Niệm Phật, khiến hằng ưu-bà-tắc, và ưu-bà-di đều phân vân, do dự. Ý nghĩa ấy như thế nào ? Đâu mới là pháp chân thật, rốt ráo ? Đâu là pháp phương tiện, quyền biến ? Đâu là pháp tối hậu mà Như-Lai thường ban cho các chúng sanh ở vào thời kỳ Chánh pháp cuối cùng ?"Đức Phật mỉm cười lặng yên. Ngài Phổ-Hiền an nhiên nhập vào Niệm Phật Tam-muội. Thân tâm bất động.
Khi ấy, ngài Quán-Thế-Âm Đại Bồ-Tát liền từ bảo tòa đứng dậy, trịch áo phơi bày vai bên hữu, cung kính nhiễu quanh đức Phật ba vòng. Rồi Ngài hướng về bà Vi-Đề-Hy mà bảo rằng:
- "Nay tôi nương uy thần vô hạn của đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn, và tùy thuận Bản-nguyện-lực vô biên vô lượng của đức Phật A-Di-Đà, mà tuyên dương năng lực vô cùng tận của danh hiệu Phật, tức là Pháp Môn Niệm Phật Tam Muội.
- Nầy Vi-Đề-Hy, hãy nhận rõ như thế nầy, đừng rơi vào nghi lầm nữa.
Đúng như ngươi vừa mới trình bày, Tứ-niệm-xứ là pháp diệt khổ, là pháp đối trị tham dục, ưu bi khổ não, là pháp đắc Niết-bàn vắng lặng. Còn pháp Niệm Phật Tam-muội lại là pháp thành Phật, là pháp chứng Vô-thượng-giác, là pháp thâm nhập cảnh giới bất tư nghị của chư Phật, là pháp mở bày tỏ ngộ Tri Kiến Như-Lai, là pháp cứu độ tất cả mọi chúng sanh, là pháp siêu việt trên hết thảy hí luận cùng thiên kiến của nhị thừa. Tại sao vậy ?
Trước đây, đức Thế-Tôn vì những người ghê sợ hiểm nạn sanh tử, mà nói pháp Tứ-niệm-xứ, chánh niệm tinh tấn nhiếp phục tham sân si, để thoát khổ và đắc A-la-hán.
Nay vì những người tín ngưỡng, khát khao quả vị Bồ-đề chí hướng mong cầu Phật đạo, phát khởi đại bi tâm mà thực hành hạnh nguyện Bồ-Tát thì đức Thế-Tôn chỉ dạy pháp môn Niệm Phật Tam-muội.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì một niệm bất giác nổi lên, che mờ Bản-thể Thường-trụ, nhận vật bên ngoài làm TÂM. Luôn luôn bỏ mất TÂM chân thật, nên bị cảnh vật xoay chuyển. Do đó khởi tâm phân biệt, thấy có lớn nhỏ, rộng hẹp, cao hạ... Nếu xoay được cảnh vật bên ngoài thì thân tâm sẽ sáng suốt, trạm nhiên, trọn đầy, tức thời đồng với Như-Lai không khác.
Muốn xoay chuyển ngoại vật, thì không chi bằng sử dụng diệu lực vô úy của danh hiệu Phật. Thật vậy, nhờ xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật mà hành giả nhìn thấy cảnh vật bên ngoài đúng như bản chất thật sự của chúng. Do đó không còn bị ngoại cảnh chi phối, điều phục thân tâm. Và chẳng còn mống khởi tâm phân biệt. Lúc ấy, tuy không rời pháp hội mà biến hiện khắp mười phương quốc độ; trong một lỗ chân lông vẫn chứa đựng cả Hoa-tạng Thế-giới-hải.
Khi xưng niệm danh hiệu Phật, hành giả không để tâm dong ruổi theo thanh trần, mà xoay cái nghe trở vào Chơn-tánh, đó là danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng Tâm, mà mỗi mỗi sát-na đều hiển hiện Chơn-như-tánh. Chính nó thật là Tánh Nghe của mình, chẳng còn hai tướng động và tịnh, toàn là thể vắng lặng, soi chiếu khắp mười phương.
Tiếp tục hành trì niệm Phật như thế, chẳng bao lâu thì Tánh Nghe cũng không còn. Khi ấy, Phật Trí tự nhiên tỏa rạng, danh hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn.
Nầy Vi-Đề-Hy, trong pháp hội Thủ-Lăng-Nghiêm, tôi đã trình bày nhân địa tu hành Nhĩ Căn Viên Thông cho đại chúng. Nhưng, thời Mạt pháp các kinh điển dần dần ẩn mất, mà nên biết kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, sẽ bị diệt trước nhất, tiếp sau là kinh Lăng-Già,
kinh Kim-Cương, kinh Ma-Ha Bát-Nhã,
kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa ... Nếu không nương nhờ pháp niệm Phật thì rất khó chứng đắc Nhĩ Căn Viên Thông. Bởi vì sao ? Bởi vì Niệm Phật Tam-muội chính là món Viên-thông đệ nhất.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì lăn lộn trong đêm tối vô minh, nhận giặc làm cha, lấy vọng kiến làm chỗn nương về, lấy tà kiến làm bạn lữ, lấy biên kiến làm lương dược. Nhận ngã chấp, ngã kiến làm Tâm. Rời xa Tri-kiến Giải-thoát Vô-thượng. Do đó, khởi tâm phân biệt, thấy đúng sai, tà chánh, thiện ác, chân ngụy ... nếu lọc sạch ngã kiến, ngã chấp thì thân tâm sẽ quang minh, thường tại, chiếu suốt mười phương pháp giới. Tức đồng đẳng với Tri Kiến giác ngộ của chư Như-Lai.
Nếu muốn gạn lọc ngã kiến, ngã chấp, thì không chi hơn là phát huy năng lực vô biên của danh hiệu Phật. Thật vậy, nhờ chuyên tâm xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật mà hành giả tuần tự chuyển Thức thành Trí. Ngã chấp tự nhiên rơi rụng, ngã kiến tự nhiên tan mất như bong bóng nước dưới ánh mặt trời. Lúc bấy giờ, tuy không lìa cung Đâu-Suất mà vẫn phân thân khắp vi trần quốc độ để chuyển pháp luân vô thượng, và khai thị tuệ giác cho vô lượng chúng sanh, giúp hết thảy tứ sanh, cửu hữu cùng ngộ nhập Phật Tri Kiến.
Khi xưng niệm danh hiệu Phật, hành giả không để Thức nương theo nhân duyên mà dấy động, nên chẳng thành tựu pháp Y-tha-khởi. Vì không có sự tham dự của ngã và ngã sở nên Biến-kế Sở-chấp cũng chẳng tồn tại. Chỉ có danh hiệu Phật vẫn tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng tâm, mà mỗi mỗi sát-na đều biểu hiện Vô-thượng Diệu-viên Thức-tâm Tam-Muội, tức là Chân Duy Thức Tánh.
Tiếp tục hành trì niệm Phật như thế chẳng bao lâu, thì chẳng còn nhìn thấy huyễn tướng của vạn pháp ở bên ngoài và cũng chẳng còn bắt gặp Tám thức ở bên trong. Trong hay ngoài
đều giả dối, không thật. Ngay cả tướng Duy-thức cũng chẳng có nữa. Vì ba đời mười phương Như-Lai, vi trần sát quốc độ, hư không, sắc pháp, tâm vương, tâm sở... đều không một thứ nào ra ngoài Chân Duy Thức Tánh mà tự hữu, tự sanh, tự diệt, danh hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn, như có, như không, cho đến khi Chân Duy Thức biến mất, Đại Viên Cảnh Trí tự nhiên phơi bày, danh hiệu Phật sẽ dẫn dắt hành giả đi vào tánh Viên Thành Thật, chứng Vô-sanh Pháp-Nhẫn.
Do đó, phải nói rằng Niệm Phật là pháp môn đệ nhất dùng để chuyển thức thành trí, mà chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị vô số tư tưởng điên đảo làm khuất lấp tánh Viên-giác. Như kẻ ngủ mê chợt thức giấc giữa ngã tư đường cái, chẳng rõ phương hướng, lẫn lộn chánh tà, thấy cong nhìn ngược, bất phân thiện ác. Tư tưởng điên đảo ấy nẩy sanh thân và tâm, rồi nhận thân tứ đại giả hợp làm thân, chấp cái tư tưởng vô minh điên đảo kia làm tâm. Cứ thế mà sanh tử, tử sanh nối nhau không dứt, tạo vòng lẩn quẩn luân hồi.
Nhưng cái vô minh điên đảo ấy cũng chẳng thật. Như hoa đốm, như bóng nước, như ảo tưởng nơi sa mạc, như người ngủ chiêm bao, thấy những sự việc, cảnh vật rõ ràng, nhưng khi thức dậy, thời không còn gì hết. Nếu chuyển hóa vô minh điên đảo thời thân và tâm sẽ thành Giác-ngộ. Hoặc không phát tâm tu trì thời vẫn ở mãi trong sanh tử huyễn mộng ấy mà tự vui. Chỉ có danh hiệu Phật là đầy đủ năng lực nhiệm mầu để chuyển hóa sanh tử trở nên Niết-bàn, chuyển hóa giả huyễn trở nên chân thật.
Vì sao vậy ?
Khi xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật, hành giả dần dần thành tựu chánh định Như-Lai, tự nhiên phát sanh Tuệ-giác Không-tánh, vì danh
hiệu Phật là Hư-không-tạng, là Viên-giác-tánh, là
Vô-cấu-tạng, là Tịch-tịnh-tạng... Nhờ vậy, hành giả biết các pháp đều như huyễn, thời tự nhiên lìa xa các huyễn hóa, sanh diệt. Ngay lúc ấy, bèn thâm nhập Viên-giác-tánh. Đó
gọi là tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác.
Dùng pháp nào để Tri ? Nếu không phải là diệu dụng của danh hiệu Phật ?
Không cần phải hủy diệt các thứ huyễn, mới cho chúng nó là huyễn. Không cần thay đổi bản chất huyễn của nó mới gọi là Không. Mà chính cái biết "nhứt thiết pháp là Không" khiến đương thể của huyễn pháp tức là Không.
Tiếp tục xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật như thế, hành giả không phóng tâm theo huyễn cảnh, huyễn sự, mà hướng cái biết trở vào Viên-giác-tánh. Đó là
danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc. Mà mỗi mỗi sát-na đều hiển lộ Như-Lai Tạng, và cái biết cũng không còn nữa. Danh hiệu Phật vẫn tương tục không gián đoạn, hòa tan căn, trần, thức đều nhập vào Viên-giác-tánh, bình
đẳng bất động, thường trụ như hư không và tròn đầy chiếu suốt mười phương.
Bởi vậy, phải nói rằng niệm Phật là pháp môn đệ nhất, sử dụng danh hiệu Như-Lai mà thâm nhập Như-Lai-Tạng, mà chuyển biến huyễn hóa, hư dối trở nên Viên-giác-tánh. Các hạng chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị phiền não chi phối ngày đêm không tạm dừng, nên nhận vọng tưởng làm Tâm, bỏ quên Thắng-giải-trí, Vô-thượng-trí. Rồi lại bị tham, sân, si, mạn, nghi lôi cuốn, và thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến chồng chất lấp vùi. Do đó khởi tâm phân biệt, thấy có mừng có giận, yêu ghét, vui buồn, vinh hoa, hủy nhục... nếu tận trừ phiền não thì thân tâm vắng lặng, an nhiên, tự tại, tức đồng với chư Phật không hai không khác.
Muốn tận trừ phiền não, thì không chi hơn là phát huy năng lực Trí giả siêu việt của danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật. Thật vậy nhờ cần mẫn xưng niệm Phật hiệu mà hành giả hiện bày Tự Tâm Quang Minh Hiện Lượng, chuyển phiền não dữ dội ấy trở thành Bồ-đề thật tướng, đưa hành giả thẳng vào cảnh giới Thánh Tri Tự Chứng. Lúc bấy giờ, có khả năng bấm ngón chân xuống mặt đất, sử dụng ấn Địa Xúc để cải biến Ta-bà thành Tịnh-độ trang nghiêm, niệm niệm tương ứng với Thập-địa Bồ-Tát, niệm niệm du hành, giáo hóa xã hội chúng sanh khắp mười phương vi trần bằng hà sa thế giới.
Chapter 3. The Spiritual Mantra
THẦN CHÚ
PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM
KINH VĂN:
阿難頂禮佛足。而白佛言。自我出家。恃佛憍愛。求多聞故。未證無為。
A-Nan
đảnh lễ Phật túc, nhi bạch Phật ngôn: tự ngã xuất gia, thị Phật
kiều ái, cầu đa-văn cố, vị chứng vô
vi.
VIỆT
DỊCH:
Ông A
Nan đảnh lễ chân Phật mà thưa với Phật: Từ khi xuất gia, con ỷ lại lòng thương
yêu của Phật, vì cầu đa văn nên chưa chứng quả vị vô vi.
GIẢNG
GIẢI:
Sau khi ông A Nan nghe
Phật Thích Ca giảng giải, ông bèn đảnh lễ chân Phật mà thưa
với Phật: Từ khi xuất gia, con ỷ lại lòng thương yêu của Phật.
Con nhờ vào lòng thương
yêu đặc biệt của Phật đối với con, nhưng vì cầu đa văn nên chưa chứng
quả vị vô vi.
Ông ấy luôn muốn giỏi hơn nhiều người khác.
“Tôi muốn vượt hơn kẻ khác”, và suy nghĩ: “Ông không thể tụng
kinh theo trí nhớ, nhưng tôi làm được. Ông không giảng được kinh, còn tôi
thì nhớ rõ từng chữ”.
Ông
vẫn luôn cạnh tranh mình là số một, và quyết dùng sự đa văn của mình
để đạt vị trí thứ nhất. Và thực vậy, A Nan trở thành đệ nhất đa văn, nhưng ông
vẫn chưa đạt được quả vị vô vi, chưa vượt qua kiến thức học hỏi của chính mình.
Đấy là điều rất đáng tiếc đối với Ngài.
KINH VĂN:
遭彼梵天邪術所禁。心雖明了。力不自由。賴遇文殊。令我解脫。雖蒙如來佛頂神咒。冥獲其力。尚未親聞。
Tao bỉ phạm thiên, tà-thuật sở cấm, tâm tuy minh-liễu, lực
bất tự-do,
lại ngộ Văn-Thù, linh ngã giải-thoát, tuy mông Như-lai, Phật đảnh
thần-chú, minh hoạch kỳ lực, thượng vị thân văn.
VIỆT DỊCH:
Khi bị tà thuật Phạm
Thiên vây hãm, tâm tuy rõ ràng nhưng sức chẳng tự do, nhờ gặp ngài Văn Thù
khiến cho con được giải thoát. Mặc dù con thầm nhờ sức của thần chú Phật Đỉnh
Như Lai, nhưng con vẫn chưa được nghe qua thần chú ấy.
GIẢNG GIẢI:
Khi bị tà thuật Phạm Thiên vây hãm, tâm tuy rõ
ràng nhưng sức chẳng tự do.
Con bị pháp thuật làm cho mê muội, rối rắm.
Thân bị khốn đốn nhưng tâm con vẫn sáng suốt. Đấy là khi A Nan không cảnh giác,
nhưng cũng không phải là hoàn toàn rối loạn. Ông ấy rơi vào tình trạng mơ hồ,
như ngủ chưa tỉnh giấc. Hoặc như người say rượu, nhưng A Nan không dùng rượu –
trạng thái ấy giống như say rượu.
Khi quý vị hỏi một người say, họ sẽ nhớ điều
này, quên điều nọ - tình trạng ngài A Nan là vậy. Hoặc ông ấy như lơ mơ khi
ngủ, hẳn nhiên là chưa ngủ say, chưa chìm trong mộng mị. Ông ấy không có sức
giải thoát chính mình. Điều đó như đêm ngủ gặp quỷ Cưu Bàn Trà (Kumbhanda), nó
có sức làm cho quý vị phải đờ đẫn, mất cả tự chủ.
Khi tình trạng ấy xảy ra, quý vị có thể tỉnh táo
nhìn thẳng vào nó, nhưng bản thân vẫn bất động vì sức mạnh của quỷ. Đó là những
gì ngài A Nan trải nghiệm. Mặc dù ngài có ý thức, nhưng không tự kiểm soát,
không được tự do tự tại.
Nhờ gặp ngài Văn Thù khiến cho con được giải
thoát.
Đức Phật phái Bồ tát Văn Thù đến giải cứu, nhờ vậy
con được giải thoát.
Mặc dù con thầm nhờ sức của thần chú Phật Đỉnh
Như Lai, nhưng con vẫn chưa được nghe qua thần chú ấy.
Thần chú Phật Đỉnh do đức Thế Tôn, Như Lai,
Phật tuyên thuyết. Khi ngài Văn Thù đến chỗ con và tụng chú và con
đã thầm nhờ uy lực của chú ấy. Tức là khi Văn Thù đến, ngài không đọc chú thành
tiếng, mà chỉ thầm tụng.
Tất cả quý vị nên đọc chú thành tiếng là khi ở
trước Phật trong chùa, vậy mới có hiệu nghiệm. Nếu giữa đường phố mà quý vị đọc
to tiếng: Nam mô tát đát tha tô già đa ra… ắt mọi người sẽ nghĩ đó là
người điên.
Quý vị đừng đọc một vài đoạn chú để khiến
người khác xem thường, hủy báng pháp. Hành động lạ lung, kỳ dị của quý vị để họ
chế nhạo, vậy sẽ phạm tội. Quý vị đừng bảo:
“Nếu họ phạm tội thì đó là chuyện của họ.
Tôi cứ tụng thành tiếng, mặc họ phạm tội, họ sẽ sa vào địa ngục
thôi!”.
Nếu quý vị có thái độ và ý định
khiến người khác đi vào địa ngục thì xin quý vị đừng học Phật pháp nữa.
Người học Phật là người (KHÔNG LÀM CHUỚNG NGẠI NGƯỜI KHÁC ) nhiều tình cảm, có
lòng khoan dung đối với mọi người, họ không hành động bất cứ điều gì để khiến
kẻ khác phải sa địa ngục. Quý vị phải tu tập như vậy. Đừng nên nghĩ:
“Hắn báng bổ tôi, tôi sẽ đi theo sau
họ và đọc to chú Lăng Nghiêm, họ chê bai tôi thì cho họ rơi vào địa ngục”.
Nếu nghĩ như thế thì quý vị lập tức dừng
đọc chú Lăng Nghiêm, đừng học Phật nữa làm gì, bởi vì người học Phật không ganh
ghét ai, không gây trở ngại cho người hoặc có tính ích kỷ nặng nề. Đừng có thái
độ tôi hơn người. Phật pháp xuất hiện là cứu độ chúng sinh chứ không phải khiến
mọi người phạm tội. Quý vị phải hiểu rõ điều đó.
A Nan nói: “Con thầm nhờ sức
của thần chú nhưng con chưa được nghe qua”.
KINH VĂN:
惟願大慈重為宣說。悲救此會諸修行輩。末及當來在輪迴者。承佛密音。身意解脫。
Duy
nguyện đại-từ, trùng vi tuyên thuyết, bi cứu thử hội chư
tu-hành bối, mạt cập đương lai, tại luân-hồi giả, thừa Phật mật-âm, thân
ý giải-thoát.
VIỆT
DỊCH:
Chỉ
nguyện Đức Đại Từ tuyên nói lại cho, thương xót cứu giúp những hàng tu hành trong
Hội này và những kẻ đời sau còn trong luân hồi, được nhờ mật âm của Phật mà
thân ý giải thoát.
GIẢNG
GIẢI:
Chỉ nguyện đấng Thế Tôn, Đức
Đại Từ tuyên nói lại cho, mong muốn của con là được Phật
nói lại cho con nghe bài chú, và thương xót cứu giúp những hàng tu hành trong
Hội này. Nguyện xin nói lại để cứu giúp những kẻ
đời sau còn trong luân hồi sáu nẻo, được nhờ mật
âm của Phật mà thân ý giải thoát.
Nhờ vào mật âm của Phật mà
mọi người sẽ được giải thoát. Giải thoát là không còn tới lui sinh tử, và chúng
ta sẽ tụng chú Lăng Nghiêm hằng ngày để chúng sanh giải thoát mọi ràng buộc,
giúp họ nhận ra những sai lầm tệ hại.
Chẳng hạn mọi người đều biết
hút thuốc lá là không tốt – nó phí thời gian và gây hại cho sức khỏe, tuy nhiên
rất nhiều người vẫn cứ hút thuốc. Biết rõ thuốc lá tác hại đến sức khỏe, họ vẫn
không cố gắng từ bỏ.
Biết sát sanh là không đúng,
người ta vẫn hại sinh mạng vật. Biết tà dâm là không phải, họ vẫn coi thường
điều đó. Biết trộm cắp là sai trái, họ vẫn đêm ngày rình rập lấy trộm đồ vật,
tài sản của người khác, không trộm xe hơi thì cũng lấy máy hát. Kẻ trộm biết
mình phạm luật pháp, sẽ bị cảnh sát bắt giữ, nhưng họ vẫn không chịu từ bỏ.
Đấy là biết sai nhưng vẫn
làm.
KINH
VĂN:
於時會中一切大眾。普皆作禮。佇聞如來秘密章句。
Ư
thời hội trung nhứt thiết đại-chúng, phổ giai tác lễ, trử văn
Như-Lai, bí-mật chương cú.
VIỆT DỊCH:
Khi ấy, tất cả đại chúng
trong Hội thảy đều đảnh lễ chờ nghe câu chú bí mật của Như Lai.
GIẢNG
GIẢI:
Khi ấy, tất cả đại chúng
trong Hội, rất
đông đảo các chúng cùng hội tập. Thảy đều đảnh lễ chờ nghe câu chú bí
mật của Như Lai, mọi người đều làm lễ và cùng đứng chờ nghe
Phật nói từng chương, cú thần chú.
“Chương” gồm năm đoạn của
chú. “Cú” là bao hàm nhiều câu ngắn, như Nam mô tát đát tha, Tô già đa
gia, A ra ha đế, Tam miệu tam bồ đề tỏa. Nhưng chương và cú là điều bí
mật, có nghĩa chúng ta không dễ gì hiểu được. Sự bí mật ấy nằm trong đoạn câu
mà kiến thức của chúng ta không với tới.
Khi quý vị tụng chú, quý vị
không biết mình được lợi ích gì. Mặc dù có được nhiều lợi lạc nhưng chúng ta
không biết rõ, chúng ta cũng không biết về bí mật của chú.
KINH
VĂN:
爾時。世尊 從 肉 髻 中。湧百寶光。光 中 湧 出 千葉寶蓮。有化如來。坐寶華中。
Nhĩ
thời Thế-Tôn, tùng Nhục-kế trung, dõng bá bảo quang,
quang-trung dõng- xuất, thiên diệp bảo-liên, hữu-hóa Như-Lai, tọa
bảo-hoa trung.
VIỆT DỊCH:
Khi ấy, Đức Thế Tôn từ nơi
nhục kế phóng ra trăm thứ hào quang báu, trong hào quang hiện ra hoa sen báu
ngàn cánh, có hóa thân Như Lai ngồi trong hoa sen.
GIẢNG
GIẢI:
Khi ấy, Đức Thế Tôn từ nơi
nhục kế trên
đỉnh đầu của Phật Thích Ca Mâu Ni, phóng ra trăm thứ hào quang báu,
trong hào quang hiện ra hoa sen báu ngàn cánh, có hóa thân Như Lai ngồi trong
hoa sen.
Hóa thân của Phật ngồi trên
hoa sen ngàn cánh trong hào quang chói sáng.
KINH
VĂN:
頂 放 十 道 百寶光明。一一光明。皆徧示現。十恆河沙。金剛密跡。擎山持杵。徧 虛空 界。
Đảnh
phóng thập đạo, bá bảo quang-minh, nhứt nhứt quang-minh, giai biến thị hiện,
thập Hằng-hà-sa, Kim-Cang Mật-Tích, kình-sơn trì
xử, biến hư-không giới.
VIỆT DỊCH:
Trên đỉnh phóng ra mười đạo hào quang bách bảo,
trong mỗi đạo hào quang, số lượng bằng mười số cát sông Hằng, đều hiện ra các
vị Kim Cang Mật Tích, xách núi, cầm trùy, đầy khắp cả hư không.
GIẢNG
GIẢI:
Trên đỉnh phóng ra mười đạo
hào quang bách bảo.
Đỉnh ở đây là chỉ
đỉnh đầu của hóa thân Như Lai. Mười đạo hào quang bách bảo xuất
phát từ đỉnh đầu của hóa thân Phật.
Trong mỗi đạo hào quang, số
lượng bằng mười số cát sông Hằng, hào quang chiếu sáng khắp
mọi nơi, đâu đâu cũng có, đều hiện ra các vị Kim Cang Mật
Tích, xách núi, cầm trùy, đầy khắp cả hư không cùng lúc
hào quang phóng xuất, các Đức Kim Cang Mật Tích xuất hiện, tay cầm
núi, cầm trùy, như Bồ Tát Vi Đà thường dùng.
Các vị ấy hiện hữu đầy khắp
cả hư không.
KINH
VĂN:
大 眾 仰 觀。畏愛兼抱。求佛哀佑。一心 聽 佛。無見 頂相 放 光 如 來。宣 說神 咒。
Đại-chúng
ngưỡng quang, úy-ái kiêm bảo, cầu Phật ai hựu, nhứt tâm thính Phật, vô-kiến
đảnh-tướng, phóng quang Như-Lai, tuyên-thuyết thần chú:
VIỆT DỊCH:
Đại chúng ngẩng lên xem, vừa yêu vừa sợ, cầu
Phật xót thương che chở, một lòng nghe Đức Phóng Quang Như Lai từ nơi vô kiến
đỉnh tướng của Phật tuyên nói thần chú.
GIẢNG
GIẢI:
Đại
chúng ngẩng lên xem, vừa yêu vừa sợ, cầu Phật xót thương che chở.
Tất cả các
Đại Bồ tát, Đại A-la-hán, Đại Tỳ kheo cùng các chúng tại đại hội, ngẩng lên
nhìn hóa thân Như Lai xuất hiện từ đỉnh Phật, thảy đều sợ hãi khi nhìn thấy hóa
thân Phật, đồng thời, họ cũng cảm thấy yêu mến đấng Như Lai. Tình yêu đó không
phải là loại tình cảm yêu đương giữa nam nữ. Đấy là tình cảm yêu mến chân thật,
thoát khỏi mọi ham muốn. Cả hai loại tình cảm cùng hiện hữu: Khiếp sợ và yêu
thương. Do đó, mọi người mong được Phật xót thương che chở.
Một
lòng nghe Đức Phóng Quang Như Lai từ nơi vô kiến đỉnh tướng của Phật tuyên nói
thần chú.
Mọi
người đều chú tâm, đều muốn lắng nghe Phật, Khối thịt nhỏ
trên đỉnh đầu Phật gọi là Vô kiến đỉnh tướng. Gọi vô kiến là vì người
thường không nhìn thấy được. Mọi người nhìn thấy hào quang bách bảo và hóa
thân Phật xuất hiện trên đỉnh Phật tuyên nói thần chú.
Như
vậy, chú Lăng Nghiêm không phải do tự thân Đức Thích Ca nói ra, mà chính là hóa
thân Phật tuyên thuyết từ hư không.
Đối với thần chú, tức mật
ngữ, không ai có thể hiểu được, hoặc có thể giảng giải rõ từng âm tiết, từng
câu chữ. Nhưng nếu quý vị muốn biết, tôi sẽ cố gắng giảng giải. Tuy nhiên, ở
đây không có thời gian, vì chung ta đang nói về kinh Lăng Nghiêm, còn như chú,
cho dù có giảng trọn một năm cũng chưa xong, thậm chí cả ba năm, mười năm cũng
vậy. Do đó tôi sẽ chỉ thuyết minh về đại ý thôi.
Chú Lăng Nghiêm phân làm năm
bộ, biểu thị năm phương: Đông, Nam, Trung Ương, Tây, Bắc.
1. Đông
phương Kim cang bộ, đức Phật A Súc là Bộ chủ.
2. Nam
phương Bỏa bộ, Đức Phật Bảo Sinh là Bộ chủ.
3. Trung
ương Phật bộ, đức Phật Tỳ Lô Giá Na là Bộ chủ.
4. Tây
phương Liên hoa bộ, đức Phật A Di Đà là Bộ chủ,
5. Bắc
phương Yết Ma bộ, đức Phật Thành Tựu là Bộ chủ.
Nhân
vì thê giới có năm đại ma quân nên có năm phương Phật ngăn chặn, chấn áp.
Trong
năm bộ của chú, nhìn chung có hơn ba mươi pháp, nếu giảng rộng ắt có hơn trăm
pháp. Có năm loại pháp chính yếu sau:
1. Pháp Thành tựu: Có nghĩa với pháp này,
quý vì sẽ có được những gì tìm kiếm, hoặc cầu nguyện, mong cầu điều gì đó.
2. Pháp Tăng ích, tức là khi quý vị tụng thần
chú này, chẳng những chính quý vị được nhiều lợi ích, mà cả những người khác
cùng được lợi.
3. Pháp Câu triệu. Theo ý nghĩa, câu
triệu là bắt giữ và lệnh gọi các loài hữu tình, ma, quỷ. Không có
gì thóat khỏi, quý vị có thể đưa chúng trở lại và bắt giữ. Chẳng hạn có ai đó
gây hại người nào và xa chạy cao bay. Nếu biết sử dụng pháp câu triệu thì chắc
chắn kẻ đó không trốn khỏi.
4. Pháp
Hàng phục: Loài quỷ cũng có pháp thuật và chú để chúng sử dụng. Khi mình
tụng chú của mình thì chúng tụng chú của chúng. Nhưng nếu quý vị tụng chú Lăng
Nghiêm, quý vị sẽ phá tan các loại chú của chúng. Tôi cũng đã nói qua về uy lực
của chú, nó có công năng đánh đuổi và hủy diệt chú thuật của bọn ma vương gây
hại. Đối với những ai chưa học cũng nên lưu ý điều đó. Nhưng tại sao khi tụng
chú Lăng Nghiêm thì chú của Phạm Thiên thành vô hiệu?
Đấy là vì “Ngũ đại tâm chú”:
- Sất
Đà Nễ
- A
Ca La
- Mật
Rị Trụ
- Bát
Rị Đát Ra Da
- Nảnh
Yết Rị
Năm đoạn trên là “Ngũ đại tâm
chú”. Đấy là chú căn bản để hủy diệt các chú thuật và đánh đuổi bọn Thiên ma
cùng các quyến thuộc. Loại tâm chú này khi sử dụng thì mọi chú thuật của bọn ma
đều vô hiệu. Với pháp này, tôi có thể đánh đổi được vài triệu tiền đô, nhưng
tôi không bán. Nếu quý vị có lòng thành, tôi sẽ truyền cho quý vị, hoàn toàn
miễn phí.
5. Pháp
Tức tai: Tất cả mọi tai ương, họa hại đều được ngăn ngừa, tránh khỏi.
Chẳng hạn có ai đó rơi xuống biển, nhưng nếu người đó tụng chú Lăng Nghiêm, chắc
chắn sẽ tránh được tai họa, tức là rơi tõm xuống biển nhưng không chết chìm. Có
thể quý vị ở trong con tàu lẽ ra phải chìm, nhưng quý vị tụng thần chú này, tàu
sẽ không chìm. Hoặc có thể đi trên chiếc máy bay hỏng hóc, nhưng nếu tụng chú
Lăng Nghiêm, máy bay cũng sẽ hạ cánh an toàn. Tôi xin kể một câu chuyện thật
khó tin, lần đó tôi đi từ Miến Điện sang Thái Lan, đường bay lúc đó rất nguy
hiểm. Nhưng suốt cuộc hành trình, máy bay chẳng có dấu hiệu gì là bất ổn, và
chuyến đi hết sức bình yên, thuận lợi. Ngay cả viên phi công cũng lấy làm lạ:
“Tại sao chuyến bay lại được êm xuôi như thế?”. Anh ta không biết
trong suốt chặng đường đó đã có Thiện thần, Bát bộ Thiên long, và cả chư
Phật, các Bồ tát, cùng hộ trì chuyến bay được an toàn, thuận lợi.
Đấy là cách hành pháp Trừ họa (Tức tai). Khi có
một sự cố xảy ra, nó có thể hóa lớn thành bé, và họa bé cũng dễ dàng biến mất.
Thường, khi sự cố xảy ra, nó sẽ có “báo động nhưng không nguy hiểm” - nếu quý
vị tụng chú Lăng Nghiêm.
Lợi ích của chú rất lớn, cho dù có bỏ ra vài
năm giảng giải cũng không dứt. Ở đây, tôi chỉ nói qua vài pháp và ý nghĩa của
pháp ấy thôi.
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
KINH VĂN:
阿難。是佛頂光聚 悉怛多般怛囉 秘密伽陀 微妙章 句。出 生 十 方 一 切 諸 佛。十 方 如 來。因 此 咒 心。得 成 無 上 正 徧 知 覺。
A-Nan! Thị Phật đảnh quang-tụ “Tát-Đác-Đa Bác-Đác-Ra”,
bí mật già-đà, vi diệu chương cú. Xuất sanh thập phương, nhứt
thiết chư Phật, thập phương Như-Lai, nhân
thử chú tâm, đắc thành Vô-Thượng Chánh-Biến Tri-Giác.
VIỆT DỊCH:
A Nan, những câu vi
diệu, những kệ bí mật Tát đát đa, bát đát la của hóa thân từ hào quang nơi đỉnh
Phật, sinh ra tất cả các Phật khắp mười phương. Thập phương Như Lai nhân chú
tâm này mà được thành vô thượng chánh biến tri giác.
GIẢNG GIẢI:
A Nan, những câu vi diệu, những kệ bí mật Tát
đát đa, bát đát la của hóa thân từ hào quang nơi đỉnh Phật.
Trước câu “Tát đát đa, bát đát la” còn có hai
chữ Ma ha – nghĩa là lớn. Hán dịch: Đại
bạch tán cái, tức Lọng trắng lớn. Cái lọng này bao trùm các chúng sinh
trong ba ngàn đại thiên thế giới. “Kệ” là đoạn lặp lại (trùng tụng). Chú là mật
ngữ, gồm nhiều câu nối tiếp nên gọi là kệ bí mật.
Bài chú này sinh ra tất cả các
Phật khắp mười phương.
Do đó, chú Lăng Nghiêm còn gọi là “mẹ của
chư Phật”.
Thập phương Như Lai nhân chú tâm này mà được
thành vô thượng chánh biến tri giác.
Do chú Lăng Nghiêm mà các Đức Phật được chánh
biến tri. Chánh biến tri là sự biết từ tâm ứng khởi với mật pháp,
cũng tức là mật pháp xuất hiện từ tâm.
KINH VĂN:
十 方 如來。執此咒心。降 伏 諸 魔。制諸 外 道。
Thập phương Như-Lai trì thử chú-tâm, hàng-phục chư
ma, chế chư ngoại đạo.
VIỆT DỊCH:
Mười phương Như Lai nắm chú tâm này, trấn áp các ma, chế phục
các ngoại đạo.
GIẢNG GIẢI:
Tâm chú, tức chú Lăng Nghiêm, được tuyên
thuyết từ hóa thân Phật ngồi trên sen báu trong ánh hào quang từ đỉnh Phật
Thích Ca.
Mười phương Như Lai nắm chú tâm này, trấn áp các ma, chế phục các ngoại
đạo.
Đấy là tâm chú, và là tâm chú của các Phật nên các
Thiên ma và hàng ngoại đạo tà kiến đều sợ hãi lánh xa thần chú này.
KINH VĂN:
十 方 如來。乘此咒心。坐寶蓮華。應微塵國。
Thập phương Như-Lai thừa thử chú tâm, tọa bảo liên-hoa,
ứng vi trần quốc.
VIỆT DỊCH:
Mười phương Như Lai
hành tâm chú này, ngồi tòa sen báu, ứng hiện trong các cõi nước như số vi trần.
GIẢNG GIẢI:
Mười phương Như Lai hành tâm chú này.
Nhờ vào thần chú, tức uy lực của
tâm chú, và ngồi tòa sen báu rất nhiều hoa.
Ứng hiện trong các cõi nước như số vi trần.
Hóa thân Như Lai thị hiện trong khắp các cõi
nước nhiều như số vi trần, đấy là uy lực của tâm chú Lăng Nghiêm.
KINH VĂN:
十方 如 來。含此咒心。於微塵國 轉 大法輪。
Thập phương Như-Lai hàm thử chú-tâm, ư vi-trần quốc, chuyển đại
pháp-luân.
VIỆT DỊCH:
Mười phương Như Lai, ngậm tâm chú này, nơi cõi
nước như số vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn.
GIẢNG GIẢI:
Khi mười
phương Như Lai, nơi cõi nước như số vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn,
thảy đều nhờ vào thần chú, và ngậm tâm chú này.
KINH VĂN:
十 方 如來。持此咒心。能於十 方 摩頂授記。自果未成。亦於十 方 蒙 佛 授記。
Thập phương Như-Lai trì thử chú-tâm, năng ư thập phương ma đảnh
thọ ký, tự quả vị thành, diệc ư thập phương mông Phật thọ ký.
VIỆT DỊCH:
Mười phương Như Lai
giữ tâm chú này, có thể nơi mười phương xoa đảnh thọ ký. Tự mình quả vị chưa
thành, cũng có thể nơi mười phương mong nhờ Phật thọ ký.
GIẢNG GIẢI:
Mười phương Như Lai
giữ tâm chú này, tiếp thụ và giữ tâm chú, có
thể nơi mười phương xoa đảnh thọ ký, mọi người được dự báo
sẽ được thành Phật.
Tự mình quả vị chưa
thành, cũng có thể nơi mười phương mong nhờ Phật thọ ký.
Nếu các ông chưa có quả
vị, Phật cũng sẽ xoa lên đầu các ông và dự báo sẽ thành Phật.
KINH VĂN:
十 方 如來。依此咒心。能 於 十 方 拔濟群苦。所謂地獄 餓鬼畜生。盲聾瘖瘂。冤憎會苦、愛別離苦、求不得苦、五陰熾盛。大小諸橫 同 時 解 脫。賊難兵難、王 難 獄 難、風 火 水 難、飢渴貧窮。應念銷散。
Thập phương Như-Lai, y thử chú-tâm, năng ư thập phương,
bạc tế quần khổ, sở-dị địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh,
manh-lung ấm á, oán tắng hội khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm si
thạnh, đại tiểu chư hoạch, đồng thời giải-thoát, tặc-nạn bịnh-nạn, vương-nạn
ngục-nạn , phong hỏa thủy nạn, cơ khát bần-cùng, ứng niệm
tiêu-tán.
VIỆT DỊCH:
Mười phương Như Lai nương tâm chú này, có thể
nơi mười phương cứu vớt các khổ, như là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, mù, điếc,
ngọng, câm; các khổ oán tắng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh, các
nạn lớn nhỏ đồng thời được giải thoát; nạn giặc nạn binh, nạn vua, nạn ngục,
nạn gió, lửa, nước, những đói, khát, bần cùng liền đươc tiêu tán.
GIẢNG GIẢI:
Mười phương Như Lai nương tâm chú này, có thể
nơi mười phương cứu vớt các khổ.
1. Sinh
2. Tuổi già
3. Đau bệnh
4. Chết
5. Yêu nhau phải
xa cách.
6. Phải gần gũi
với người mình oán ghét.
7. Cầu chẳng
được.
8. Khổ do thân
tâm (năm ấm) sinh trưởng quá mạnh.
Ngoài ra còn có tám nỗi khổ khác:
1. Khổ
của địa ngục
2. Khổ của quỷ
đói
3. Khổ của loài
vật
4. Khổ vì đui,
điếc, hoặc câm
5. Khổ vì sinh
nơi Bắc câu ly (LÔ) châu
6. Khổ vì sinh
vào lúc thế gian không có Phật
7. Khổ vì tranh
luận tri thức và khả năng trong thế gian
8. Khổ vì tái sinh vào cõi trời thọ
mạng quá lâu dài.
Chúng sinh trong cõi Bắc câu ly châu
(Uttarakuru) có thọ mạng rất lâu, đời sống trung bình cả ngàn tuổi. Cư dân nơi
đây rất an lạc, bình đẳng; khổ ở đây là không được thấy Phật, nghe pháp, hoặc
có được Tăng già. Do đó, sống ở đó cũng là một trong tám nỗi khổ. Sự thật,
chúng sinh nơi các cõi trời, mặc dù có thọ mạng lâu dài, nhưng nếu không gặp
được Tam bảo thì cũng xem là khổ vậy.
“Tranh luận về tri
thức và khả năng trong thế gian” bao hàm nhiều lĩnh vực kiến
thức khác nhau, chẳng hạn phạm khoa học. Họ cố gắng trình bày, giải thích
những nguyên tắc vô nguyên tắc, và lý do thì không đâu vào đâu.
Như là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, mù, điếc,
ngọng, câm đều thuộc tám nỗi khổ.
Các khổ oán tắng hội.
Quý vị không ưa người nào đó và muốn tránh đi,
tìm nơi khác, nhưng rồi lại gặp phải người đáng chán như trước đó.
Hoặc như ái biệt ly, quý vị đặc
biệt yêu thích người nào, nhưng vì hoàn cảnh bắt buộc phải xa lìa họ.
Cầu bất đắc là tìm không được điều như ý, tâm sinh
ra thất vọng, khổ não.
Ngũ ấm xí thạnh. Năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, khi
thịnh thì bừng lên như lửa cháy.
Các nạn lớn nhỏ đồng
thời được giải thoát, có thể đó là sự đột tử, hoặc tai nạn xe cộ, hoặc bị
sát hại…
Những khổ khác
như nạn giặc nạn binh, nạn vua, nạn ngục, nạn gió, lửa,
nước, những đói, khát, bần cùng liền đươc tiêu tán.
KINH VĂN:
十 方 如來。隨此咒心。能於 十 方 事善知識。四威儀中 供 養 如 意。恆沙如來會中。推為大法王子。
Thập phương Như-Lai, tùy thử chú-tâm, năng ư thập
phương, sự Thiện Tri Thức, tứ oai-nghi trung, cúng dường như ý, hằng
sa Như-Lai hội trung suy vi Đại-Pháp Vương Tử.
VIỆT DỊCH:
Mười phương Như Lai
theo tâm chú này, có thể nơi mười phương phụng sự các thiện tri thức, trong bốn
uy nghi cúng dùng được như ý, trong pháp hội hằng sa Như Lai, được suy tôn là
Đại pháp vương tử.
GIẢNG GIẢI:
Mười phương Như Lai theo tâm chú này, có thể
nơi mười phương phụng sự các thiện tri thức.
Các bậc thiện tri thức đều được cúng dường và
phụng sự.
Trong bốn uy nghi cúng dùng được như ý, khi hành lễ Tam bảo, họ đều thực
hiện theo đúng pháp.
Trong pháp hội hằng sa Như Lai, được suy tôn
là Đại pháp vương tử. trong pháp hội hằng sa Như Lai, được suy tôn là Đại pháp
vương tử.
Đấy là những môn đồ ưu việt của Đức Phật.
KINH VĂN:
十 方如來。行此咒心。能於十方 攝授親因。令諸小 乘 聞秘密藏。不生驚怖。
Thập phương Như-Lai, hành thử chú-tâm, năng ư thập phương,
nhiếp-thọ thân-nhân, linh chư tiểu-thừa, văn bí mật tạng, bất-sanh kinh bố.
VIỆT DỊCH:
Mười phương Như Lai
dùng tâm chú này, có thể nơi mười phương nhiếp thọ các thân nhân, khiến cho các
hàng Tiểu thừa nghe được TẠNG BÍ MẬT, chẳng sinh lòng kinh sợ.
GIẢNG GIẢI:
Mười phương Như Lai
dùng tâm chú này, có thể nơi mười phương nhiếp thọ các thân nhân.
Đức Phật có sau loại
quyến thuộc, đấy là những người đầu tiên học đạo và được gần gũi Phật. Tại sao
khi Đức Phật Thích Ca thành đạo xong, Ngài liền đi đến vườn Nai để gặp lại năm
vị Tỳ kheo? Những vị Tỳ kheo ấy nguyên là quyến thuộc của Phật từ trong đời quá
khứ và trong đời hiện tại. Họ đều được Phật dạy.
Khiến cho các hàng
Tiểu thừa, đấy là những
quyến thuộc của họ chìm đắm trong các pháp Tiểu thừa, nghe được TẠNG BÍ
MẬT, chẳng sinh lòng kinh sợ.
Khi được nghe tạng bí
mật của Phật, tức giáo pháp Đại thừa, họ sẽ không còn sợ hãi.
KINH VĂN:
十 方 如來。誦此咒心。成 無 上 覺。坐菩提樹。入大涅槃。
Thập
phương Như-lai, tụng thử chú-tâm, thành vô-thượng giác, tọa
Bồ-Đề thọ, nhập Đại Niết-Bàn.
VIỆT DỊCH:
Mười phương Như Lai tụng tâm chú này, thành đạo
vô thượng, ngồi dưới cây Bồ đề, vào Đại Niết bàn.
GIẢNG
GIẢI:
Mười phương Như Lai tụng tâm
chú này.
Làm thế nào các Như Lai trong
mười phương trở thành Phật? Đấy là do tụng tâm chú
này. “TỤNG” có nghĩa là lặp lại từ trí nhớ (TỪ TÂM VÔ PHÂN BIỆT LƯU
XUẤT RA) chứ không phải nhìn vào sách đọc.
Thành đạo vô thượng, ngồi
dưới cây Bồ đề và
thành vị Phật vì tụng thận chú này và vào Đại Niết bàn.
KINH
VĂN:
十 方 如來。傳 此 咒 心。於滅度後付 佛 法 事。究竟住持。嚴 淨 戒律。悉得清淨。
Thập phương Như-Lai, truyền thử chú-tâm,
ư diệt độ hậu, phú Phật-pháp sự,
cứu kiến trụ-trì, nghiêm-tịnh giới-luật, tất đắc thanh-tịnh.
VIỆT DỊCH:
Mười phương Như Lai
truyền tâm chú này, sau khi diệt độ thì phó chúc pháp sự của Phật, được trụ trì
rốt ráo, giới luật nghiêm tịnh, thảy đều được trong sạch.
GIẢNG GIẢI:
Mười phương Như Lai
truyền tâm chú này, sau khi diệt độ thì phó chúc pháp sự của Phật, được trụ trì
rốt ráo.
Sau khi Phật vào Niết
bàn, mọi người đều y theo pháp tu tập và phụng sự Phật pháp, giới
luật nghiêm tịnh, thảy đều được trong sạch, nhờ vào uy lực
của chú mà mọi người đều được trong sạch và trọn vẹn.
KINH VĂN:
若 我說是 佛頂光聚 般怛囉咒。從旦至暮。音聲相 聯。字句中間。亦不重疊。經恆沙劫 終不能盡。
Nhược ngã thuyết thị, Phật đảnh quang-tụ, Bác-Đác-Ra chú, tùng
đán chí mộ, âm-thinh tương liễn, tự cú trung-gian, diệc bất trùng điệp, kinh
Hằng-sa kiếp, chung bất năng tận.
VIỆT DỊCH:
Nếu ta nói
chú PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ BÁT-ĐÁT-RA này, từ sáng đến tối, các tiếng nối
nhau, trong đó có những chữ, những câu cũng không trùng điệp, trải qua kiếp số
như cát sông Hằng, rốt cùng không thể dứt hết.
GIẢNG GIẢI:
Nếu ta nói chú Phật đỉnh quang tụ Bát đát la
này, từ sáng đến tối, các tiếng nối nhau, trong đó có những chữ, những câu cũng
không trùng điệp, câu chú Bát đát la liên hệ với chú Lăng Nghiêm, đấy
là chú kiên cố, là chú Đại Bạch Tán Cái.
Trải qua kiếp số như cát sông Hằng, rốt cùng không thể
dứt hết.
Tôi không sao giảng giải cho hết công đức
và sự kỳ diệu của tâm chú Lăng Nghiêm được.
KINH VĂN:
亦 說此咒 名如來頂。
Diệc thuyết thử chú, danh Như-Lai đảnh.
VIỆT DỊCH:
Chú này cũng gọi tên là Như Lai đảnh.
GIẢNG GIẢI:
Chú này cũng gọi tên là Như Lai đảnh.
Đấy là tên gọi của bài chú.
KINH VĂN:
汝 等 有 學。未盡輪迴。發心至誠 取阿羅漢。不持此咒 而坐道場。令其身心遠諸魔事。無有是處。
Nhữ đẳng Hữu-học,
vị tận luân hồi, phát tâm chí thành,
thủ A-La-Hán, bất trì thử
chú, nhi tọa Đạo-Tràng, linh kỳ thân tâm, viễn chư ma
sự, vô hữu thị xứ.
VIỆT DỊCH:
Hàng hữu học các ông
chưa dứt được luân hồi, phát TÂM CHÍ THÀNH tu chứng quả A-nậu-đa-la
tam-miệu-tam Bồ-đề, nếu KHÔNG TRÌ CHÚ NÀY mà ngồi vào đạo tràng, mong muốn cho
thân tâm xa rời được các ma sự thì không thể được.
GIẢNG GIẢI:
Hàng hữu học các ông chưa dứt được luân
hồi vẫn bị vây
hãm trong sáu nẻo luân hồi sanh tử, và phát lòng chí thành
tu chứng quả A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, ông
muốn đạt được quả vị A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề.
Nhưng nếu không trì chú này mà ngồi vào đạo tràng, mong muốn cho
thân tâm xa rời được các ma sự thì không thể được.
Như ông muốn được thành A-la-hán hoặc muốn
ngồi vào đạo tràng để thành Phật, thân tâm xa lìa ma sự
nhiễu loạn mà không trì thần chú này thì không thể được.
KINH VĂN:
阿難。若 諸 世界。隨所國土所有眾生。隨國所生 樺皮貝葉紙素白疊毛 書寫此咒。貯於香囊。是人心昏。未能誦憶。或帶身 上。或書 宅 中。當 知是人 盡其生年。一切諸毒所不能害。
A-Nan! Nhược chư Thế-giới, tùy sở quốc-độ, sở hữu
chúng-sanh, tùy quốc sở sanh, hoa bì-bối-diệp, chỉ tố bạch
diệp, thơ tả thử chú, trử ư hương
nan, thị nhân tâm hôn, vị năng tụng ức, hoặc đới thân
thượng, hoặc thơ trạch trung, đương tri thị nhân,
tận kỳ sanh niên, nhứt thiết chư độc,
sở bất năng
hại.
VIỆT DỊCH:
A Nan, nếu trong các thế giới có các chúng
sanh, tùy cõi nước mình sinh ra, như vỏ cây hoa, lá cây bối, hoặc như giấy
trắng, thảm trắng, dùng để bên chép chú này, đựng trong túi thơm; NẾU NGƯỜI ĐÓ
TỐI TĂM, CHƯA NHỚ TỤNG ĐƯỢC, nhưng hoặc đeo trên người, hoặc viết trong nhà ở,
thì nên biết là người ấy trọn đời, tất cả các thứ độc không thể hại được.
GIẢNG GIẢI:
Đây là Luận về chức năng của chú.
A Nan, nếu trong các thế giới có các chúng sanh.
Chỉ chung cho các chúng sanh trong
cõi này và tất cả các thế giới khác.
Tùy cõi nước mình sinh ra, có thể đó là nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật,
Trung Quốc, Ấn Độ, Thái, Miến Điện, Tích Lan, hoặc một
khu vực nào khác. Họ có thể viết trên các loại như vỏ cây
hoa, lá cây bối, hoặc như giấy trắng, thảm trắng, dùng để bên chép
chú này.
Vật liệu dùng để viết không phải
là vấn đề quan trọng, và người ta có thể viết một cách cẩn thận, kính cẩn, hoặc
viết tháo cho nhanh.
Sau đó đựng trong túi thơm; nếu người
đó tối tăm, chưa nhớ TỤNG được, nhưng hoặc đeo trên người, hoặc
viết trong nhà ở, thì nên biết là người ấy trọn đời, tất cả các thứ độc không
thể hại được.
Nếu người đó không có trí nhớ tốt,
hoặc đầu óc mơ hồ KHÔNG TỤNG CHÚ ĐƯỢC thuận lợi, họ có thể viết
chú, cho vào túi nhỏ đeo bên người, hoặc treo trên tường nhà. Làm được vậy,
người đó SUỐT ĐỜI KHÔNG BỊ ĐỘC HẠI.
KINH VĂN:
阿難。我今為汝更說此咒。救護世間得大無畏。成 就 眾 生 出世間智。
A-Nan! Ngã kim vị nhữ, cánh thuyết thử chú,
cứu hộ thế-gian, đắc đại vô-úy, thành-tựu chúng-sanh,
xuất-thế-gian trí.
VIỆT DỊCH:
A Nan, nay ta vì ông
tuyên lại chú này, cứu giúp trong thế gian được đại vô úy, THÀNH TỰU TRÍ
XUẤT THẾ GIAN cho chúng sanh.
GIẢNG GIẢI:
A Nan, nay ta vì ông tuyên lại chú này, tức là chú Lăng Nghiêm, cứu giúp trong
thế gian được đại vô úy, thành tựu trí xuất thế gian cho chúng sanh.
Thực hiện trọn vẹn những mong muốn
của các chúng sanh, nhưng quan trọng nhất là giúp mọi người được thành tựu trí
xuất thế gian.
KINH VĂN:
若我滅後。末世眾生。有能自誦。若教他誦。當知如是誦持眾生。火不能燒。水不能溺。大毒小毒所不能害。
Nhược ngã diệt hậu, mạt thế chúng-sanh, hữu năng tự tụng, nhược
giáo tha tụng, đương tri như thị, tụng trì chúng-sanh, hỏa bất năng
thiêu, thủy bất năng nịch, đại-độc tiểu-độc,
sở bất năng hại.
VIỆT DỊCH:
Nếu như sau khi ta diệt độ rồi, chúng sanh
trong đời mạt pháp, có người tự mình biết tụng, hoặc dạy người khác tụng chú
này, nên biết những chúng sanh trì tụng như vậy, lửa sẽ không đốt được, nước
không đắm được, các độc lớn độc nhỏ đều không hại được.
GIẢNG GIẢI:
Nếu như sau khi ta diệt độ rồi, chúng sanh
trong đời mạt pháp kể cả mọi người chúng ta nơi
đây.
Có người tự mình biết tụng, hoặc dạy người khác
tụng chú này, nên biết những chúng sanh trì tụng như vậy, lửa sẽ
không đốt được.
Người đó có thể tụng chú
theo trí nhớ, hoặc chỉ dạy cho người khác cũng theo trí nhớ. Người tụng chú
theo trí nhớ hoặc đọc theo ghi chép, người đó sẽ không bị nạn lửa thiêu đốt,
và nước không đắm được, các độc lớn độc nhỏ đều không hại được.
KINH VĂN:
如是乃至龍天鬼神。精祇魔魅。所有惡咒。皆不 能 著。心得正受。一切咒詛厭蠱毒藥、金毒銀毒、草木蟲 蛇 萬物毒氣。入此人口。成甘露味。
Như thị nãi chí, Long-Thiên quỉ-thần,
tinh-kỳ ma-mị, sở hữu
ác-chú, giai bất năng
trước. Tâm đắc chánh-thọ, nhứt thiết chú trớ yểm cổ độc-dược,
kim-độc ngân-độc, thảo mộc trùng-xà, vạn vật độc-khí, nhập thử nhân khẩu, thành
cam-lộ vị.
VIỆT DỊCH:
Như vậy, cho đến các hàng thiên, long, quỷ,
thần, tinh, kỳ, ma, mỵ, có những chú dữ đều chẳng làm gì được. Tâm người ấy
được chính thọ, tất cả mọi chú trớ, yểm cổ, thuốc độc, kim độc, ngân độc, những
độc khí vạn vật như cỏ, cây, sâu, rắn, vào miệng người ấy đều thành vị cam lộ.
GIẢNG GIẢI:
Như vậy, cho đến các hàng thiên, long, quỷ,
thần, tinh, kỳ, ma, mỵ, có những chú dữ đều chẳng làm gì được.
Tất cả mọi loài ma quỷ đều dùng
chú trớ. Có năm đoạn chú mà tôi đã nói qua, đó là:
- Sất
Đà Nễ
- A
Ca La
- Mật
Rị Trụ
- Bát
Rị Đát Ra Da
- Nảnh
Yết Rị.
Biểu hiện cho năm phương, năm bộ và năm vị
Phật. Đấy là “ngũ đại tâm chú”.
Quý vị không nên xem thường. Tâm chú ấy là của
chư Phật trong năm phương, nó có công năng hủy diệt mọi chú trớ của các loài ma
quỷ.
Tâm người ấy được chính thụ.
Khi quý vị tụng chú Lăng Nghiêm, quý vị sẽ
được chánh định.
Tất cả mọi chú trớ, mọi chú thuật
của Thiên ma và quyến thuộc đều không thể gây hại cho quý vị.
Yếm cổ, đây là một loài phù chú ở khu vực Đông
Nam Trung Quốc, hoặc Đông Nam Châu Á như Miến Điện, Hàn Quốc, Thái Lan,
Singapore, Malaysia và các nơi khác. Phù chú sử dụng gọi là “Cổ” (Làm cho mê
hoặc, đờ đẫn), căn bản là chú thuật.
Nếu quý vị ăn phải loài độc đó, quý vị hoàn
toàn không lệ thuộc họ, phải làm những gì họ sai khiến, nếu chống lại chỉ có
nước chết. Ở Australia, trong các vùng núi, có tôn giáo đã dùng chú thuật thu
nhỏ đầu người cỡ quả trứng, và họ trưng bày như biểu hiện uy lực của phù thủy
vậy.
Trong thế giới mênh mông này có rất nhiều sự việc siêu nhiên.
Quý vị đừng cho rằng mình không thấy thì dứt khoát không tin là nó có thực. Nếu
ai đó không tin thì thực là ngu ngốc! Tại sao tôi lại nói vậy? Có nhiều sự việc
quý vị không bao giờ nhìn thấy được, còn như muốn tìm hiểu, chứng kiến tận mắt
rồi mới tin thì e là đến cuối đời mình cũng không biết được.
Cũng
như nước Mỹ , thời xưa không ai biết được, nếu như quý vị gặp ai đó và cố gắng
giải thích rằng: “Có một lục địa khác, cũng có núi có sông, có cư dân,
thì chắc chắn họ sẽ không tin”. Thế nhưng, cho dù họ có tin hay không
tin thì nước Mỹ vẫn hiện hữu ở nơi xa xôi kia.
Cũng vậy, nếu quý vị
không tin vào những chuyện lạ là vì cho là vô lý, nhưng thực sự không phải vậy.
Chúng ta thường phủ nhận những gì mình không chứng kiến, căn bản là vì quý vị
không nhận thức rõ về sự thực thế giới này.
Một người bị YỂM CỔ làm hại thì khó lòng thoát khỏi, còn như chống
lại ắt sẽ bị chết. Nhưng Sự độc hại của YỂM CỔ cùng với thuốc độc, kim
độc, ngân độc, những độc khí của vạn vật như cỏ, cây, sâu, rắn, vào miệng của
người TRÌ CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM thì sẽ BIẾN THÀNH VỊ CAM LỘ.
Nếu quý vị đề nghị với
Tôi là QÚY VỊ muốn thử nghiệm điều ấy, thì cũng được thôi. Nhưng
phải đợi khi nào quý vị trì CHÚ LĂNG NGHIÊM có THÀNH TỰU, thì có thể
thử nghiệm; còn như chưa THÀNH TỰU thì không nên làm.
KINH VĂN:
一切惡星並諸鬼神。磣心毒人。於如是人不能起惡。頻那夜迦諸惡鬼王。並其眷屬。皆 領 深 恩。常 加 守 護。
Nhứt
thiết ác-tinh, tịnh chư quỉ-thần, thâm tâm độc nhân, ư như thị nhân
bất năng khởi ác, Tần-Na-Dạ-Ca, chư ác quỉ-vương, tịnh kỳ
quyến-thuộc, giai lảnh thâm-ân, thường gia thủ hộ.
VIỆT DỊCH:
Tất cả ác tinh cùng với các quỷ thần, lòng dữ
hại người, đối với người ấy cũng không thể khởi lên niệm ác. Tần Na Dạ Ca và
các quỷ vương khác, cùng với quyến thuộc, đều nhận lấy ân sâu, thường giữ gìn
ủng hộ.
GIẢNG
GIẢI:
Đoạn trước có nói về các loại
độc khi vào miệng người trì tụng chú Lăng Nghiêm thì nó thành vị cam lồ. Căn
bản là những loại độc đó đã biến đổi vị, sự biến đổi ấy là do người trì tụng
chú Lăng Nghiêm.
Tât cả ác tinh liên
hệ với nhiều sao dữ như Trư Đầu và Bạch Hổ tinh, hoặc sao Tượng Ti rất xấu, có
thể gây chết người. Nhưng các loại sao ấy không thể gây hại, cùng với
các quỷ thần, lòng dữ hại người.
Có người nói họ không tin có
quỷ. Họ không thấy nên không tin, nếu nhìn thấy, họ không thể không tin, cho dù
có không muốn tin cũng phải tin thôi. Lòng dữ là một loại thuốc độc rất nguy
hại, nhưng nó có ngấm vào tim một người trì chú Lăng Nghiêm cũng sẽ chẳng gây
hại gì, cho nên đối với người ấy cũng không thể
khởi lên niệm ác.
Sự độc hại trong tim người đó
đã được chuyển hóa.
Tần Na Dạ Ca (Vinayaka) được nói đến
trong phần Bồ đề đạo tràng, đây là vị quỷ thần thường hiện thân mình người, đầu
heo hoặc đầu voi, trông rất dữ dằn, xấu xí.
Và các quỷ vương khác, cùng với
quyến thuộc, đều nhận lấy ân sâu, thường giữ gìn ủng hộ.
Các quỷ vương và
thần Hộ pháp thấm nhuần lòng từ sâu xa của Phật trong quá khứ nên thảy đều ra
sức gìn giữ, bảo hộ người tụng chú Lăng Nghiêm này.
KINH VĂN:
阿難當 知 是咒 常有八萬四千那由他 恆河沙俱胝金剛藏 王菩薩種族。一一皆有 諸金剛眾 而為眷屬。晝夜隨侍。
A-Nan! Đương tri thị chú, thường hữu bát vạn tứ thiên
na-do-tha, Hằng-hà-sa cu-chi Kim-Cang Tạng Vương Bồ-Tát
chủng tộc, nhứt nhứt giai hữu, chư Kim-Cang chúng, nhi vi
quyến-thuộc, trú dạ tùy thị.
VIỆT DỊCH:
A Nan, nên biết chú
này thường có tám mươi bốn nghìn na do tha hằng sa câu chi chủng tộc Kim Cang
Tạng vương Bồ tát. Mỗi mỗi đều có các chúng Kim Cang làm quyến thuộc, đêm ngày
theo hầu.
GIẢNG GIẢI:
“Na-do-tha” là một trong mười bốn số lớn nhất trong
ngôn ngữ Sanskrit. Có người nói NA DO THA bằng một ngàn tỷ, người khác cho là
mười ngàn tỷ. Nhìn chung đó là con số rất lớn. Hằng-sa câu-chi tương đương một
ngàn tỷ. Không chỉ Kim Cang Tạng vương Bồ tát hộ trì thần chú, mà các quyến
thuộc của Kim Cang cũng đều tham gia bảo hộ. Đêm cũng như ngày luôn theo giúp
người tụng chú Lăng Nghiêm.
Lời nguyện của các Bồ tát như sau:
Nam-mô thường-trụ thập-phương Phật.
Nam-mô thường-trụ thập-phương Pháp.
Nam-mô thường-trụ thập-phương Tăng.
Nam-mô Thích-Ca Mâu-Ni Phật.
Nam-mô Phật-đảnh Thủ-Lăng-Nghiêm.
Nam-mô Quán-Thế-Âm Bồ-tát.
Nam-mô Kim-Cang-Tạng Bồ-tát.
Tám mươi bốn nghìn là chỉ số lượng lớn, có
nhiều vô số. Thực sự, không chỉ có Kim Cang Tạng Bồ tát và các quyến thuộc, mà
còn rất nhiều Bồ tát khác cũng theo bảo hộ.
KINH VĂN:
設 有 眾 生。於散亂心。非三摩地。心憶口持。是金剛王。常隨從彼 諸善男子。何況決定 菩提心者。此諸金剛 菩薩 藏 王。精心陰速。發彼神識。
Thiết hữu chúng-sanh, ư tán-loạn tâm, phi
tam-ma-địa, tâm ức khẩu trì, thị Kim-Cang Vương, thường tùy tùng bỉ,
chư Thiện-nam-tử, hà huống quyết định, Bồ-Đề tâm giả,
thử chư Kim-Cang, Bồ-Tát Tạng
Vương, tinh tâm ấm tốc, phát bỉ
thần-thức.
VIỆT DỊCH:
Giả như có chúng sanh với tâm tán loạn chứ không phải tam ma
địa, tâm nhớ niệm trì chú này thì các Kim Cang Vương cũng thường theo bên thiện
nam tử kia, huống hồ là người có tâm Bồ đề quyết định; các vị Kim Cang Tạng
vương Bồ tát đó sẽ dùng tịnh tâm thầm xúc tiến phát huy thần thức.
GIẢNG GIẢI:
Giả như có chúng sanh với tâm tán loạn tư tưởng rời rạc, không tập trung được, chứ
không phải Tam Ma Địa (CHÁNH ĐỊNH), nhưng tâm nhớ niệm trì chú
này, người ấy nhớ đọc chú Lăng Nghiêm của
Phật, thì các Kim Cang Vương, các vị Bồ tát, cũng
thường theo bên thiện nam tử kia, tức những người tâm tán
loạn nhưng tụng thần chú này, huống hồ là người có tâm Bồ đề quyết
định, người có tâm Bồ đề kiên cố sẽ được các
vị Kim Cang Tạng vương Bồ tát đó sẽ DÙNG TỊNH TÂM thầm xúc tiến phát huy thần
thức, các Bồ tát sẽ âm thầm giúp đỡ và họ sẽ làm gì?
Đấy là giúp quý vị phát huy Trí Huệ, TÂM
tán loạn của quý vị dần dần được tập trung vào CHÁNH ĐỊNH, sau đó sẽ đạt được
khả năng thiền tịnh. Sự gia hộ, giúp đỡ của các Bồ tát đều âm thầm, không thể
thấy biết được.
KINH VĂN:
是人應時 心能記憶 八萬四千恆河沙劫。周徧了知。得無疑惑。
Thị nhân ứng thời, tâm năng ký ức, bát vạn tứ
thiên, hằng-hà-sa kiếp, châu biến liễu-tri, đắc vô
nghi-hoặc.
VIỆT DỊCH:
Người ấy liền khi đó, tâm nhớ lại được tám mươi bốn nghìn Hằng
hà sa kiếp rõ biết cùng khắp, được không nghi hoặc.
GIẢNG GIẢI:
Khi Kim Cang Tạng vương Bồ tát thầm giúp người
ấy phát huy trí huệ thì người ấy liền khi đó,
tâm nhớ lại được tám mươi bốn nghìn Hằng hà sa kiếp rõ biết cùng khắp, được
không nghi hoặc.
Họ hiểu biết rất rõ những sự việc
xảy ra trong suốt quá khứ rất lâu xa. Trí không còn
nghi ngờ. Điều ấy có nghĩa họ được định trong đời sống quá khứ, biết những gì
đã xảy ra trong quá khứ.
KINH VĂN:
從第一劫乃至後身。生生不生 藥叉羅剎。及富單那。迦吒富單那。鳩槃茶。毗舍遮等。並諸餓鬼。有形無形、有想無想、如是惡處。
Tùng đệ nhứt
kiếp, nãi chí hậu thân, sanh
sanh bất sanh, Dạ-xoa La-Sát, cập Phú-đàn-na,
Ca tra phú-đàn-na, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-giá
đẳng, tịnh chư Ngạ-quỉ,
hữu-hình vô-hình, hữu-tưởng vô tưởng như thị ác
xứ.
VIỆT DỊCH:
Từ kiếp thứ nhất cho đến kiếp cuối cùng, đời
đời người ấy đều không sinh vào các loại Dược Xoa, La Sát, Phú Đan Na, Ca Tra
Phú Đan Na, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Già cùng các loài ngạ quỷ, có hình không hình,
có tưởng, không tưởng, và những nơi dữ như thế.
GIẢNG GIẢI:
Từ kiếp thứ nhất cho đến kiếp cuối cùng, tức là đến khi thành Phật. Đời đời
người ấy đều không sinh vào các loại Dược Xoa.
Họ vẫn còn tới lui sanh tử, nhưng
không sanh vào các nẻo dữ như Dược Xoa, Tiệp Tật quỷ. Cũng không
sinh vào La Sát, một loài quỷ dữ ăn thịt người. Khi có người chết,
loài quỷ này dùng bùa chú làm cho xác chết thành thịt tươi sống và ăn lấy. Họ
cũng tránh phải vào đường Phú Đan Na, xú ác quỷ.
Nếu quý vị gặp phải loài quỷ này,
quý vị sẽ phát sốt ngay. Người ấy cũng
không sinh làm Ca Tra Phú Đan Na, loài quỷ có mùi cực thối. Đấy là
mùi hôi thối cực mạnh, chắc chắn là quý vị chưa từng biết đến. Nếu gửi phải sẽ
bị nôn tháo tức khắc. Loài quỷ này cũng là nguyên nhân gây nên cảm sốt, cơn
nóng sốt lên đến 120 độ hoặc cao hơn, sức nóng có thể đốt cháy cả xương người.
Người đó không sinh làm Cưu Bàn Trà,
còn gọi là quỷ bí đao, loài quỷ chuyên hút tinh khí người. Khi quý vị ngủ,
chúng hiện đến và hút lấy tinh khí, làm cho tê liệt đi. Quý vị có mở mắt ra tìm
thì cũng chẳng động đậy hay nói năng gì được. Loài quỷ này rất hung dữ, chúng
có thể giết người và hút lấy tinh lực.
Nếu một người có dương khí thịnh, chúng quay
sang hút âm khí. Thế nào là dương? Dương ở con người có nghĩa luôn luôn hạnh
phúc, thực sự hanh phúc trong tự tánh của quý vị, đấy là kinh nghiệm cực hỷ
trong tánh sở hữu. Còn như tự tánh của mình lúc nào cũng lo buồn, rầu rĩ, bị
nhiều áp lực, luôn chịu nhiều đau khổ dày vò, thì đó là âm.
Âm là thuộc tính của quỷ. Dương là thuộc tinh
thần. Ưu thế của dương là tinh thần, ưu thế của âm là quỷ. Người tu học
Phật có lực dương trong sạch và nhẹ nhàng. Đối với một người quá thịnh âm thì
lực hắc ám. Người thiện họ có luồng khí trắng vây quanh, người xấu, ác thì
quanh họ chỉ là hác ám, đen tối.
Người tụng thần chú này cũng không sinh
làm Tỳ Xá Già…Tỳ Xá Già là loài quỷ ăn khí huyết con người. Đây là
loài quỷ cực hung ác không có chút lương thiện. Hầu hết, quỷ là loài xấu, là
ác, nhưng trong số cũng có quỷ nhân từ như Bồ tát, chẳng hạn như quỷ vương ra
sức trừng trị các quỷ khác.
Họ không sinh vào cùng các loài ngạ quỷ. Đây
là loại quỷ đói, có loài quỷ bụng rất to, có loài quỷ cổ họng nhỏ như cây
kim. Có hình, không hình, vài loại có thân hình, có loại không thể
nhìn thấy – chúng không có thân hiện thực. Loài quỷ ấy vô hình nhưng có ý thức,
chúng ta không thể thấy. Nhưng nếu quý vị có ngũ nhãn (năm loại mắt: Nhục nhãn,
Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn) và lục thông (sáu loại thần thông:
Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông…), ắt sẽ dễ dàng nhận thấy chúng.
Có tưởng, không tưởng, có vài loại khả dĩ suy tưởng, có loại không
thể nghĩ tưởng, chúng như gỗ, như đá. Và một người trì tụng chú Lăng Nghiêm sẽ
không sinh vào những nơi dữ như thế, từ đời này cho đến đời
sau, họ không bao giờ sinh vào các nơi có quỷ đói, hoặc các loài quỷ khác.
KINH VĂN:
是善男子。若讀若誦、若書 若寫、若 帶若 藏。諸色 供 養。劫劫不生 貧窮下賤 不可樂處。
Thị thiện-nam-tử, nhược độc nhược tụng, nhược thơ
nhược tả, nhược đới nhược tàng, chư sắc cúng-dường, kiếp
kiếp bất sanh, bần cùng hạ tiện, bất khả lạc xứ.
VIỆT DỊCH:
Thiện nam tử đó, hoặc
đọc, hoặc tụng, hoặc viết, hoặc chép, hoặc đeo, hoặc giữ, hoặc dùng nhiều cách
cúng dường thần chú này thì kiếp kiếp không sinh vào các nơi bần cùng hạ tiện,
không ưa thích.
GIẢNG GIẢI:
Thiện nam tử đó, hoặc đọc chú từ sách, hoặc
tụng theo trí nhớ, hoặc viết cẩn thận, hoặc
chép, hoặc đeo bên mình người ấy, hoặc giữ lại
trong nhà, hoặc dùng nhiều cách cúng dường thần chú này, cúng
dường chú Lăng Nghiêm do Hóa thân Phật tuyên thuyết, tốt nhất là
dùng các loại hương, hoa, đèn, nến, trái cây.
Như vậy thì kiếp kiếp không sinh vào
các nơi bần cùng hạ tiện, không ưa thích. Tôi từng nói, nếu quý vị nhớ rõ
chú Lăng Nghiêm, tức tâm trí thông thuộc từng câu chữ thì khi trì
chú, quý vị sẽ vào được chánh định. Tụng đọc được một cách lưu loát, trôi chảy,
ít nhất quý vị cũng có được sức khỏe trong bảy đời.
Nếu quí vị liên tục tụng chú như vậy từ đời
này đến đời sau, quý vị sẽ có sức khỏe trong bảy đời, hoặc bảy trăm, hoặc bảy
nghìn, hoặc cả bảy triệu đời đều có được sức khỏe. Hẳn nhiên cũng không phải là
cố định như vậy. Khi quý vị muốn mình là người khỏe mạnh rất nhiên sẽ được.
Có khi quý vị cảm thấy đầy đủ và hài lòng về
chính mình, bởi vì các tỷ phú cũng có vấn đề riêng của họ mà chúng ta không
thích. Khi quý vị có thể thành Phật, và một khi đã thành Phật rồi thì chẳng còn
vấn đề gì. Đấy là:
Trong trạng thái như
nhiên bất động.
Người mãi luôn ngời sáng rỡ ràng.
Một người trì chú và trân trọng bằng mọi cách
sẽ không sinh vào các nẻo khổ, không có ưa thích. Quý vị không thể sa vào các
nẻo như vậy, cho dù có muốn cũng không được.
Tại sao? Đấy là do chú Lăng Nghiêm thúc
đẩy, nhắc nhở quý vị không được vào đường xấu, ác như thế.
KINH VĂN:
此諸 眾 生。縱其自身不作 福 業。十 方 如來 所有功德。悉與此人。
Thử chư chúng-sanh, tùng kỳ tự than bất tác phước
nghiệp, thập phương Như-Lai sở hữu công-đức,
tất dữ thử nhân.
VIỆT DỊCH:
Các chúng sinh đó, cho
dù chính mình không làm việc thiện, mười phương Như Lai có các công đức đều ban
cho người đó hết.
GIẢNG GIẢI:
Các chúng sinh đó, tụng và trì chú Lăng Nghiêm, cho dù
chính mình không làm việc thiện, họ không bao giờ làm
các việc thiện, hoặc có được phước lành nào, khi ấy, mười
phương Như Lai có các công đức đều ban cho những người như thế.
Tại sao phải làm như vậy? Vì
họ thọ trì chú Lăng Nghiêm, hoặc đọc, hoặc biên chép… Tuy họ không có
được phước lành nào, nhưng mười phương Như Lai có các công đức đều ban
cho người đó hết.
KINH VĂN:
由是得於恆河沙阿僧祇不可說不可 說 劫。常 與 諸 佛 同生 一 處。無量功德。如惡叉聚。同處熏修。永無分散。
Do thị đắc ư Hằng-hà-sa, a-tăng-kỳ, bất khả thuyết, bất khả
thuyết kiếp, thường dữ chư Phật, đồng sanh nhứt
xứ, vô lượng công-đức, như ác-xoa tụ, đồng xứ huân tu, vĩnh vô
phân-tán.
VIỆT DỊCH:
Do vậy, họ được trong
những kiếp hằng sa A tăng kỳ không thể nói, không kể xiết, thường cùng chư Phật
đồng sinh một chỗ, vô lượng công đức nhóm lại như quả ác xoa, cùng một chỗ huân
tu, hằng không phân tán.
GIẢNG GIẢI:
Do vậy, họ được trong những kiếp hằng sa A
tăng kỳ không thể nói, không kể xiết, thường cùng chư Phật.
Hằng sa là cát sông Hằng, chỉ số
lượng rất nhiều. A tăng kỳ cũng là số lượng lớn, có nghĩa vô số
trong ngôn ngữ Sanskrit.
Đồng sinh một chỗ, vô lượng công đức nhóm lại như
quả ác xoa, cùng một chỗ huân tu, hằng không phân tán.
Sinh một chỗ không phải là cùng
một nơi sinh, mà là sinh vào thời có Phật trong thế gian này. Một
trong tám nỗi khổ là sinh trước hoặc sau khi có Phật. Sống vào thời có Phật tất
sẽ có được vô vàn công đức. Quả ác xoa, mỗi chùm có ba quả liền nhau, không hể
tách riêng ra được. Cũng vậy, những người sống nơi Phật cũng sẽ ảnh hưởng sự tu
dưỡng, họ không bao giờ xa rời khỏi Phật.
KINH VĂN:
是故能令破戒之人。戒根清淨。未得戒者。令其得戒。未精進者。令得精進。無智慧者。令得智慧。不清淨者。速得清淨。不持齋戒。自成齋戒。
Thị cố năng linh, phá giới chi nhân, giới căn thanh-tịnh,
vị đắc giới giả, linh
kỳ đắc giới, vị tinh-tấn giả, linh đắc tinh-tấn,
Vô trí-huệ giả, linh
đắc trí-huệ, bất thanh-tịnh giả, tốc đắc thanh-tịnh, bất
trì trai-giới, tự
thành trai-giới.
VIỆT DỊCH:
Vậy nên, có thể khiến
cho người phá giới mà giới căn cũng được thanh tịnh; người chưa được giới,
khiến cho được giới, người chưa tinh tấn, khiến cho tinh tấn, người không trí huệ,
khiến được trí huệ, kẻ chẳng thanh tịnh, chóng được thanh tịnh, kẻ chẳng giữ
trai giới, tự thành có trai giới.
GIẢNG GIẢI:
Vậy nên, có thể khiến cho người phá giới mà
giới căn cũng được thanh tịnh, ngay cả người phá giới cũng được giới trở lại nếu
như người đó thật lòng trì tụng chú Lăng Nghiêm hằng ngày. Về căn bản, người
nào phá giới sẽ không được cứu độ, nhưng nếu tụng chú này thì giới căn sẽ được
thanh tịnh. Tụng ở đây không có nghĩa là đọc tụng cho qua, mà tâm ý quý vị phải
hoàn toàn tịnh chỉ khi trì chú như tôi đã nói qua. Khi CHÚ KHỞI TỪ TÂM VÀ
QUAY TRỞ VỀ TÂM quý vị, điều đó có nghĩa là:
TÂM TỨC LÀ CHÚ, CHÚ TỨC LÀ TÂM. CHO NÊN, GỌI
LÀ "TÂM-CHÚ".
Chú và tâm của quý vị trở thành một. Không có
sự phân biệt đôi đường. Quý vì đừng quên, đấy là sự tự tụng Quý vị không tụng,
nhưng nó vẫn đang tụng, quý vị đang tụng, nhưng hầu như quý vị không hiện diện.
Ngay cả khi không muốn tụng, nó vẫn đang đọc tụng. Chúng ta đang nói về tụng
chú trước khi giảng kinh, và đấy là cách CĂN BẢN ĐẠT CHÁNH ĐỊNH, đề
ra một cách thức cho quý vị. Hẳn nhiên, đây cũng không hẳn là lúc giảng về chú
Quý vị có thể tụng thần chú bất cứ lúc nào. Điều quan trọng là loại trừ đi mọi
nghĩ tưởng để chỉ tập trung tâm ý, gọi là nhất tâm, là tâm chuyên nhất. Sự đọc
tụng thành liên tục và không có suy nghĩ gì khác. Giống như dòng nước miên man
xuôi chảy và con sóng này nối tiếp con sóng khác, như cơn gió thoảng qua không
hình bóng, nhưng tất cả đều biết là nó đang hiện diện.
NƯỚC CHẢY, GIÓ THỔI,
ĐỀU TUYÊN THUYẾT GIÁO NGHĨA ĐẠI-THỪA.
Âm thanh của nước là gió nói lên giáo pháp Đại
thừa, và tất cả đều là TÂM của thần CHÚ LĂNG NGHIÊM.
Người chưa tinh tấn, khiến cho tinh tấn, người
không trí huệ, khiến được trí huệ, kẻ chẳng thanh tịnh, chóng được thanh tịnh,
kẻ chẳng giữ trai giới, tự thành có trai giới.
Người chưa tinh tấn, chưa học hỏi
nghiên cứu giáo lý Phật cũng có thể khởi phát sức mạnh
do tụng chú Lăng Nghiêm một thời gian dài. “Người không trí huệ sẽ được
trí huệ”. Xem thế, một kẻ có ngốc nghếch, tâm trí chậm lụt cũng được
mở mang, sáng suốt.
“Kẻ chẳng thanh tịnh sẽ mau chóng được thanh
tịnh”.
Nếu quý vị có tu dưỡng và chưa được thanh
tịnh; nếu quý vị phá giới, bỏ ngang việc ăn chay, phạm sự bất tịnh một thời
gian dài, nhưng nếu quý vị không quên tâm chú này, cũng vẫn mau chóng được
thanh tịnh trở lại. Một khi muốn thay đổi, chúng ta sẽ được thanh tịnh. Tôi
chẳng biết ở đây có nhiều vị thích học Phật, nhưng thân tâm chưa được thanh
tịnh.
Điều đó cũng không sao, chỉ e là quý vị không
chịu học. Vì nếu học, sẽ có lúc quý vị trở nên thanh tịnh. Còn như quý vị không
chịu học, nói: “Tôi không muốn trở nên thanh tịnh, tôi không muốn mạnh mẽ. Tôi
thích lười, tôi không biết gì hơn”.
Nếu thế thì chẳng còn gì để nói. “Đấy có thể
là nguyên do người ta không trì trai để thành người ăn chay theo cách tự
nhiên”. Nếu quý vị tụng chú Lăng Nghiêm đến độ tâm ý hoàn toàn chú định khi ấy,
cả gió cũng chẳng thổi qua, mưa không sao thấm ướt. Chừng ấy, quý vị KHÔNG TRÌ
TRAI thì quý vị vẫn tự động ĂN CHAY.
Tại sao? Vì tư tưởng quý vị không tản mạn, rời rạc, gốc rễ ham
muốn không còn, những ưa thích ăn các món thịt, cá, không còn khuấy động tâm
quý vị.
KINH VĂN:
阿難。是善男子持此咒時。設 犯 禁 戒 於未受時。持咒之後。眾破戒罪。無問輕重。一時銷滅。
A-Nan! Thị Thiện-nam tử trì thử chú thời, thiết phạm cấm giới, ư
vị thọ thời, trì chú chi hậu, chúng phá giới tội, vô
vấn khinh trọng nhứt thời tiêu diệt.
VIỆT DỊCH:
A Nan, thiện nam tử ấy, khi trì chú này, giả
như có phạm giới cấm khi chưa thọ trì, thì sau khi trì chú, các tội phá giới,
bất luận nặng nhẹ, một thời đều tiêu diệt.
GIẢNG GIẢI:
Đoạn này giải thích rất rõ ràng. A
Nan, thiện nam tử ấy, khi trì chú này, giả như có phạm giới cấm khi
chưa thọ trì. Nếu như hiện tại trì chú, nhưng trước đó từng phạm giới, phá
giới, thì sau khi trì chú, các tội phá giới, bất luận nặng nhẹ, một
thời đều tiêu diệt.
Tất cả mọi giới hạnh bất tịnh đều không còn,
ngay cả bốn giới Ba la di cũng vậy Ba-la-di là một trọng tội
không thể hối cải được. Nhưng nếu tụng chú Lăng Nghiêm, người ấy sẽ được bảo vệ
và trở nên trong sạch, giống như nước sôi rưới vào nắm tuyết vậy.
MƯỜI GIỚI TRỌNG
Ba-la-di (Parajika) là một trọng tội không thể hối cải được.
1.- GIỚI SÁT SANH
2.-
GIỚI TRỘM CƯỚP
3.-
GIỚI DÂM
4.-
GIỚI VỌNG
5.- GIỚI BÁN RƯỢU
6.-
GIỚI RAO LỖI CỦA TỨ CHÚNG
7.- GIỚI
TỰ KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI
8.-
GIỚI BỎN SẺN THÊM MẮNG ĐUỔI
9.-
GIỚI GIẬN HỜN KHÔNG NGUÔI
10.-
GIỚI HỦY BÁNG TAM BẢO
Sám hối có ba cách:
1. Tác pháp sám
hối: Người có tội đối truớc chư Tăng, hoặc hai mươi vị, bốn vị, ba vị,
một vị mà phát lồ sám hối, tùy theo tội lớn nhỏ; Tác pháp sám hối chỉ
trừ được tội khinh. Đối thú sám hối tức là Tác pháp sám hối.
2. Thủ tướng sám
hối: Tức là sám hối cho được thấy hảo tướng; Thủ tướng sám có thể
diệt tội thập trọng (Parajika) và tất cả tội
khinh.
3. Vô sanh sám
hối: Quán chơn lý thật tướng, chứng ngộ vô sanh thời tội diệt. Vô
sanh sám hối có thể diệt tất cả tội, dầu là tội thất nghịch.
Đây là tội thất-nghịch :
1. Ác-tâm làm thân Phật
chảy máu;
2. Hại bực Thánh-Nhân;
3. Giết cha;
4. Giết mẹ;
5. Giết Hòa-Thượng;
6. Giết A-Xà-Lê;
7. Phá Yết-Ma-Tăng,
chuyển Pháp-Luân-Tăng.
Nếu phạm
tội thất-nghịch, thời hiện đời không đắc giới. Ngoài ra tất
cả người đều được thọ giới.
Giảng Sư
Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
Chứng thực tướng, vô
nhân pháp,
Sát-na diệt khước A-tỳ
nghiệp.
Nhược tương vọng ngữ
cuống chúng sanh,
Tự chiêu bạt thiệt trần
sa kiếp.
Vĩnh Gia Huyền Giác
CHỨNG ĐẠO CA
KINH VĂN:
縱經飲酒。食噉五辛。種種不淨。一切諸佛菩薩金剛天仙鬼神不將為過。
Túng kinh ẩm tửu, thực hám ngũ-tân, chủng chủng bất tịnh, nhứt
thiết chư Phật Bồ-Tát, Kim-Cang Thiên-Tiên, Quỷ-Thần bất tương vi
quá.
VIỆT DỊCH:
Dù đã uống rượu, ăn
thứ ngũ tân và các loại không sạch, tất cả các Phật, Bồ tát, Kim Cang,
Thiên tiên, Quỷ thần không cho đó là lỗi.
GIẢNG GIẢI:
Ngũ tân là năm thứ: tỏi, hành, hẹ, kiệu, nén –
là những loại gia vị phổ biến. Các loại này đều có hương vị nồng, ăn vào dễ
PHÁT DÂM VÀ NÓNG TÍNH. Nhưng dù đã uống rượu, ăn thứ ngũ tân và các loại không
sạch trước đó, khi đã trì chú thì tất cả các Phật, Bồ tát,
Kim Cang, Thiên tiên, Quỷ thần không cho đó là lỗi. Quý vị
thường tụng trì chú Lăng Nghiêm, các Phật, Bồ tát và Pháp sư đều
KHÔNG TRÁCH quý vị trước đó là KHÔNG TRONG SẠCH.
Tại sao? Vì người thường trì chú LĂNG NGHIÊM,
thì lần lần sẽ không thích các mùi, HÀNH, HẸ, TỎI, KIỆU, NÉN, UỐNG RƯỢU… cùng
THỊT CÁ hôi tanh…
KINH VĂN:
設著不淨破弊衣服。一行一住悉同清淨。縱不作壇。不入道場。亦不行道。誦持此咒。還同入壇 行道功德。無有異也。
Thiết trước bất tịnh, phá tệ y-phục, nhứt hành nhứt trụ, tất
đồng thanh-tịnh, túng bất tác đàn, bất nhập Đạo-Tràng, diệc bất hành đạo, tụng
trì thử chú, hoàn đồng nhập Đàn, hành đạo công-đức, vô
hữu dị dã.
VIỆT DỊCH:
Dù có mặc y phục cũ rách không sạch, thì việc
đi, việc đứng thảy đồng như thanh tịnh; dù chẳng lập đàn, chẳng vào đạo tràng,
cũng chẳng hành đạo mà trì tụng chú này, thì công nhức cũng như vào đàn, hành
đạo, chẳng có khác gì.
GIẢNG GIẢI:
Dù có mặc y phục cũ rách không sạch, thì việc
đi, việc đứng.
Trong đoạn trước, nói về đạo
tràng, Đức Phật có dạy phải mặc y mới, nhưng ở đây Ngài lại bảo điều đó không
cần thiết. Nếu không có y mới thì cứ mặc y cũ. Khi quý vị thực hành tu tập
trong suốt ba tuần, quý vị cũng sẽ trở nền trong sạch.
Bởi vì năng lực thần chú sẽ làm cho y phục mới
hoặc cũ đều được trong sạch. Quý vị sẽ ngạc nhiên – vậy tại sao Phật lại bảo
phải mặc y mới khi vào đàn. Thực sự, chúng ta mặc y mới là thể hiện lòng tôn
kính, sự tôn kính tuyệt đối THÌ ĐƯỢC THANH TỊNH trong sạch.
Dù chẳng lập đàn, chẳng vào đạo tràng.
Quý vị không cần thiết phải vào đạo tràng,
việc tu tập có thể bất kỳ nơi đâu, bất kỳ lúc nào. Cho dù cũng chẳng
hành đạo, ngay cả không tu dưỡng, mà trì tụng chú này, đấy
là tất cả những gì mọi người có thể tu tập, thì công nhức
cũng như vào đàn, hành đạo, chẳng có khác gì.
Nếu quý vị tụng chú Lăng Nghiêm
thì công đức của quý vị chẳng khác gì vào đàn tràng hành đạo vậy. Thực sự, cái
đức của thần chú này là hết sức phi thường.
ĐỊNH BÁO
( Là quả báo nhất định phải chịu, không thể chuyển biến được,
bởi sức nghiệp đã quá thuần thục, trong mười phần thành tựu cả mười )
Thuở xưa vua Lưu-Ly cử binh đến đánh dòng họ Thích, Ðức Thế-Tôn can ngăn ba lần
mà không được. Tôn-giả Mục-Kiền-Liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc
thuộc, thì ngài bảo đó là ĐỊNH NGHIỆP.
Tôn-giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm người họ Thích trên cung
trời. Nhưng khi Lưu-Ly-Vương dẹp xong hàng Thích-Chủng, thì năm trăm người ấy
cũng đều thành huyết mà chết. Ðây là một sự kiện chứng minh sức định
nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ.
Cho nên, chư Phật có “Tam năng” (ba việc làm được) và “tam
bất năng” (ba việc không làm được).
1) Chư Phật có thể
độ tất cả Chúng-sanh Hữu-duyên
và Chư Phật không thể độ những
Chúng-sanh Vô-duyên.
2) Chư Phật có thể biết cùng
tận nghiệp tánh của Chúng-sanh
và Chư Phật không thể
diệt được Định-nghiệp của Chúng-sanh.
3) Chư Phật có thể độ Vô-lượng
Chúng-sanh
và Chư Phật không thể độ hết Chúng-sanh-giới
Bởi thế, sức “NGƯỜI" cố nhiên là hữu hạn, nhưng
sức "PHẬT" cũng không phải là TOÀN NĂNG.
Nếu chúng-sanh KHÔNG tín hướng Ðức Như-Lai, không thực
hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng không thể hóa độ
được.
Nếu chúng-sanh TÍN hướng Ðức Như-Lai, thực hành đúng theo
lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng có thể hóa độ được.
NHƯ VUA LƯU-LY, NẾU NGHE THEO LỜI CAN NGĂN CỦA ĐỨC PHẬT, THÌ ĐƯƠNG SỐNG KHÔNG
BỊ ĐỌA VÀO ĐỊA NGỤC A TỲ (LÀ SỰ ĐAU KHỔ KHÔNG HỀ ĐƯỢC GIÁN ĐOẠN).
Cho nên, “NGHIỆP LỰC THÙ HẬN” của vua lưu-ly cũng thật
sự “BẤT KHẢ TƯ NGHÌ”, cho dù “ĐỨC PHẬT” cũng không thể
ngăn cản được.
Tóm lại, nếu qúy vị thường trì tụng thần CHÚ LĂNG NGHIÊM thì chuyển
“ĐỊNH NGHIỆP” thành “BẤT ĐỊNH NGHIỆP”; chuyển “VÔ DUYÊN” thành
“HỮU DUYÊN” ; chuyển “CHÚNG SANH KHÔNG ĐỘ ĐƯỢC” thành
“CHÚNG SANH ĐỘ ĐƯỢC” phải không ?
“Quét sạch tất cả nghiệp chướng khó trừ trong vô số kiếp trước của qúi vị
đã tạo.”
PHẬT HỌC TINH YẾU
(HT. THÍCH THIỀN TÂM)
Kệ tụng:
Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì
Chấn động tam thiên thế giới thì
HỮU DUYÊN VÔ DUYÊN hàm nhiếp hóa
Từ bi phổ độ Diêm-phù-đề
CHÚ ĐẠI BI GIẢNG GIẢI
(HT. THÍCH TUYÊN HÓA)
KINH VĂN:
若造五逆無間重罪。及諸比丘比丘尼四棄八棄。誦此咒已。如是重業。猶如猛風 吹散沙聚。悉皆滅除。更無毫髮。
Nhược tạo ngũ nghịch, vô gián trọng tội, cập chư Tỳ-Khưu
Tỳ-Khưu-ni, tứ khí bát khí, tụng thử chú dĩ, như thị
trọng-tội, do như mãnh-phong, xuy tản sa-tụ,
tất giai diệt trừ, cánh vô hào-phát.
VIỆT DỊCH:
Dù gây tội nặng như
ngũ nghịch, vô gián và phạm những tội tứ khí, bát khí của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni;
khi tụng chú này rồi thì như cơn gió mạnh thổi tan đống cát, mọi nghiệp nặng
như vậy đều diệt trừ dứt, chẳng còn chút mảy may gì.
GIẢNG GIẢI:
Dù gây tội nặng như ngũ nghịch, vô gián. Trong Phật đạo có năm tội rất nặng:
1. Giết
mẹ
2. Giết cha
3. Giết bậc
A-la-hán
4. Phá hòa hợp
Tăng
5. Làm thân Phật
chảy máu.
Nếu làm tổn thương thân Phật bằng con dao, hoặc vật nhọn, hoặc
bất cứ thứ gì làm chảy máu thân Phật, đều phạm tội rất nặng.
“Tôi không còn thấy Phật. Đức Phật đã rời khỏi thế gian,
vậy tôi không phạm vào lỗi này”.
Không phải vậy, bởi vì bôi xóa hoặc phá vỡ
hình ảnh Phật, cũng gọi là làm chảy máu thân Phật. Ngay cả ảnh Phật cũng vậy.
Sự hủy họa hình ảnh Phật khi Ngài không còn tại thế cũng phạm tội.
“Vô gián” là hậu quả của trọng tội. Kẻ
phạm tội sẽ bị mười con quỷ đưa đi trừng phạt, nhưng phạm phải năm tội nặng như
đã nêu thì sự trừng phạt rất khốc liệt, kẻ ấy tất phải vào ngục vô gián. Loại
địa ngục này tôi cũng đã nói qua. Ở đấy có rất đông tội nhân, do đó nên còn gọi
là “vô gián”, tức không có khoảng trống. Gọi là vô gián vì tội nhân liên tục
chịu khổ đau, không bao giờ dừng dứt.
Phạm những tội tứ khí, bát khí của Tỳ kheo, Tỳ
kheo ni có ba nghĩa:
1. Khất
sĩ.
2. Bố ma
3. Phá phiền não
Tỳ kheo ni là thành viên nữ trong Tăng già. Có
bốn tội Ba-la-di là:
1. Dâm
2. Sát
3. Đạo
4. Vọng ngữ
Đấy là bốn giới căn bản. Nếu phạm phải bất cứ
tội nào trong bốn giới ấy đều phải bị loại khỏi Tăng già đạo Phật. Điều ấy
chẳng khác nào đem Phật phá vất xuống biển vậy. Bốn tội Ba la di thuộc về Tỳ
kheo, đối với Tỳ kheo ni có tám tội Ba la di. Ngoài bốn tội thuộc Tỳ kheo, thêm
bốn tội khác:
5. Ma xúc
6. Bát sự
7. Phú tàng tha
8. Bất tùy thuận.
Ma-xúc, theo giải thích của giới luật là: Đụng
chạm vào thân thể phụ nữ khi có ý dâm. Đối tượng đụng chạm với ý dâm có
thể là nữ, là nam, hoặc Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, người thế tục – đều phạm phải
trọng tội. Nếu không có lòng ham muốn dâm dục thì không phạm giới.
Bát-sự, tức tám điều ngăn cấm trong Ba la
di. Tỳ kheo Ni khi tiếp chuyện phải luôn ở nơi công cộng, thoáng đãng. Không
được tiếp riêng một người đàn ông nơi vắng vẻ, hoặc phòng riêng. Nói
chung, Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni – một nam, một nữ không được ở chỗ riêng với nhau. Khi
phạm tội này, Tỳ kheo có phần nhẹ hơn Tỳ kheo Ni.
Phú-tàng-tha – Biết đồng hữu phạm tội nhưng cố
tình che giấu, không báo cho mọi người biết.
Bất tùy thuận: Theo luật người xuất gia, mỗi tháng có
hai lần đọc tụng giới bản, vào ngày mồng một và ngày mười lăm trong tháng. Tỳ
kheo Ni đọc tụng giới phải có Tỳ kheo chủ trì. Họ không được tự mình
thuyết giới, nếu không làm đúng như vậy thì phạm tội Bất tùy thuận.
Nhưng nếu người đó phạm phải các tội nặng như
vậy, khi tụng chú này rồi thì như cơn gió mạnh thổi tan
đống cát, mọi nghiệp nặng như vậy đều diệt trừ dứt, chẳng còn chút mảy may gì.
Cho dù là phạm tội ngũ nghịch, phạm bốn tội,
tám tội Ba la di, tụng thần chú này sẽ bay biến tất cả, như một cơn
gió mạnh thổi tan đống cát. Đấy là năng lực phi thường của chú Lăng Nghiêm.
Giới luật (Vinaya)
KINH VĂN:
阿難。若 有 眾 生。從無量無數劫來。所有一 切 輕 重 罪 障。從前世來未及懺悔。若 能 讀 誦書寫此咒。身 上 帶 持。若 安住處莊宅 園 館。如是積 業。猶湯消雪。不久皆得悟無生忍。
A-Nan! Nhược hữu chúng-sanh, tùng vô luợng vô-số kiếp lai, sở
hữu nhứt thiết khinh-trọng tội-chướng, tùng tiền thế lai, vị cập sám hối,
nhược năng độc tụng, thơ tả thử chú, thân thượng đái
trì nhược an-trụ xứ trang trạch, viên quán, như thị tích nghiệp, do thang tiêu
tuyết. Bất cửu giai đắc ngộ vô sanh nhẫn.
VIỆT DỊCH:
A-Nan, nếu có chúng sinh từ vô lượng vô số
kiếp đến nay, đã có tất cả mọi tội chướng nhẹ nặng, nhưng trong các đời trước
chưa kịp sám hối, nếu biết đọc, tụng, viết, chép chú này, giữ đeo bên mình, hay
để nơi chỗ ở, nhưng trang, trạch, vườn, quán; như vậy mọi nghiệp chứa nhóm từ
trước đều tiêu tán như nước sôi làm tan tuyết, KHÔNG BAO LÂU ĐỀU CHỨNG
ĐƯỢC VÔ SINH PHÁP NHẪN.
GIẢNG GIẢI:
A-Nan,
nếu có chúng sinh từ vô lượng vô số kiếp đến nay, đã có tất cả mọi tội chướng
nhẹ nặng, nhưng trong các đời trước chưa kịp sám hối.
Họ chưa từng có được cơ hội để sám
hối lầm lỗi và sửa đổi. “Sám” là nêu ra những sai lầm trước đó. “Hối” là thay
đổi, sửa chữa, không tái phạm tội. Nếu biết đọc chú Lăng
Nghiêm, hoặc tụng, viết, chép chú này.
Tụng
chú phải trong một thời gian dài. Đức Phật không nói tụng một hoặc hai lần. Ý
của Ngài là phải thực hiện việc tụng đọc lâu dài.
Hoặc
là giữ đeo bên mình.
Khi
đeo chú, phải đeo trên cổ, trước ngực, đấy là cách biểu hiện sự tôn kính, không
được cất, mang ở phần dưới thân. Càng trân trọng, tôn kính thì chú càng có hiệu
nghiệm.
Hay
để nơi chỗ ở, nhưng trang, trạch, vườn, quán; như vậy mọi nghiệp
chứa nhóm từ trước, tức những tội lỗi tích tập trong nhiều
đời đã qua, đều tiêu tán như nước sôi làm tan tuyết, mọi tội lỗi đều thức thì
tan biến hết, không bao lâu đều chứng được vô-sinh pháp-nhẫn.
KINH VĂN:
復次阿難。若有女人。未生男女。欲求孕者。若能至心憶念斯咒。或能 身上 帶此 悉怛多般怛囉者。便生 福 德 智慧男女。
Phục thứ A-Nan! Nhược hữu nữ nhân, vị sanh nam nữ, dục cầu dựng
giả, nhược năng chí tâm, ức
niệm tư chú, hoặc năng thân thượng, đới thử “Tát-Đác-
Đa Bác- Đác- Ra” giả, tiên-sanh phước-đức trí-huệ nam-nữ.
VIỆT DỊCH:
Lại nữa, A Nan, nếu có người đàn bà chưa sinh
con trai, con gái mong cầu có thai, nếu biết chí tâm nhớ niệm chú, hoặc trên
người đeo chú Tát-đát-đa bát-đát-ra này, thì liền sinh được con trai,
con gái có phước đức trí huệ.
GIẢNG GIẢI:
Lại nữa, A Nan, và Đức Phật nói tiếp, nếu có người đàn
bà chưa sinh con trai, con gái mong cầu có thai. Tỷ như có những người
đàn bà thích làm mẹ, họ muốn có thai, nếu bết
chí tâm nhớ niệm chú, hoặc trên người đeo chú.
Chú tâm là tâm ý chuyên nhất, cũng có nghĩa
là tâm tuyệt đối chân thành. Họ có thể tụng chú theo trí nhớ, hoặc dùng sách.
Hoặc họ thỉnh cầu Cao Tăng vết cho bài tâm chú và đeo bên mình.
Tát-đát-đa bát-đát-ra có nghĩa Đại-Bạch Tán-Cái (Lọng trắng
lớn), khi quý vị mang bài chú ấy trên người, hoặc nhớ trong tâm, chiếc lọng ấy
sẽ che chở và giúp ích những mong muốn của quý vị. Người đàn bà ước mong có
con, họ sẽ có được con phước đức trí huệ.
KINH VĂN:
求 長 命者。即得 長 命。欲求果報速圓滿者。速得圓滿。身命色力。亦復如是。
Cầu trường-mạng giả, tức đắc trường-mạng, dục cầu quả-báo, tốc
viên-mãn giả, tốc đắc viên-mãn, thân-mạng sắc-lực, diệc phục như thị.
VIỆT DỊCH:
Người cầu sống lâu sẽ
được sống lâu, người cầu quả báo mau được viên mãn, sẽ mau chóng được viên mãn;
cả đến về thân mạng, sắc lực, cũng được trọn vẹn như vậy.
GIẢNG GIẢI:
Người tụng chú Lăng Nghiêm và cầu sống lâu, sẽ được sống lâu. Người mong cầu
quả báo sớm sẽ được viên mãn, sẽ mau chóng được viên mãn. Chẳng hạn,
người phụ nữ hy vọng tương lai có người chồng tốt, họ sẽ được như vậy. Đối với
người đàn ông cũng vậy. Đó là ý nghĩ mong cầu điều gì cũng sẽ được như vậy.
Người mong cầu giàu sang và danh vọng, sẽ được giàu sang, danh
vọng.
Người mong cầu sống lâu, sẽ được sống lâu.
Cầu có con trai, sẽ được con trai.
Cầu có con gái, sẽ có con gái.
Mọi mong cầu đều sẽ được, cả đến về thân mạng, sắc lực,
cũng được trọn vẹn như vậy, tất cả những cầu mong đều đạt được, mong muốn
có tuổi thọ cũng như vậy.
KINH VĂN:
命 終之後。隨願 往生 十方國土。必定不生邊地下賤。何況雜形。
Mạng-chung
chi hậu, tùy nguyện vãng-sanh, thập phương quốc
độ, tất định bất
sanh, biên-địa hạ-tiện, hà huống tạp-hình.
VIỆT DỊCH:
Sau khi mạng chung, tùy
nguyện được vãng sinh về mười phương TỊNH ĐỘ, chắc chắn không sinh nơi biên địa
hạ tiện, huống chi là các tạp hình.
GIẢNG
GIẢI:
Sau khi mạng chung, tùy
nguyện được vãng sinh về mười phương TỊNH-ĐỘ.
Nếu quý vị muốn vãng sinh về
phương Đông với Phật A Súc, hoặc phương Tây với Phật A Di Đà, hoặc phương Bắc,
phương Nam…Tùy Ý của quý vị có thể vãng sinh về bất kỳ
cõi TỊNH ĐỘ nào, đều được như NGUYỆN.
Chắc chắn không sinh nơi biên
địa hạ tiện,
huống chi là các tạp hình.
Là con người, quý vị sẽ không
tái sinh là kẻ thấp kém hạ tiện, thậm chí cũng chẳng sinh
làm thú vật.
Phật A Súc : Akshobhya Buddha
KINH VĂN:
阿難。若諸國土 州縣聚落。饑荒疫癘。或復刀兵賊難鬬諍。兼餘一切 厄難之地。寫此神咒。安城四門。并諸支提。或 脫 闍 上。令其國土 所 有 眾 生。奉 迎 斯 咒。禮拜恭敬。一 心 供 養。令其人民。各各身佩。或各各安 所居宅地。一切災厄悉皆消滅。
A-Nan! nhược chư quốc-độ châu-huyện tụ lạc, cơ hoang dịch-lệ,
hoặc phục đao-binh, tặc nạn đấu- tranh, kiêm dư nhứt thiết, ách nạn chi
địa. tả thử thần-chú, an
thành tứ môn, tinh chư chi đê, hoặc thoát-xà thượng, linh kỳ quốc-độ,
sở hữu chúng-sanh, phụng-nghinh tư
chú, lễ bái cung-kỉnh, nhứt-tâm cúng
dường, linh kỳ nhân-dân, các các thân bội, hoặc các các an, sở cư trạch địa,
nhứt thiết tai-ách, tất giai tiêu-diệt.
VIỆT DỊCH:
A-Nan, nếu các cõi nước, các châu, huyện, làng xóm, bị nạn đói
kém, DỊCH LỆ, hoặc ở những nơi có đao binh, giặc loạn, đánh nhau, và những
nơi có ách nạn, viết thần chú này đặt trên bốn cửa thành, cùng các tháp, hay
trên tràng phan, và khiến chúng sinh trong cõi nước đó, kính rước chú này, cung
kính lễ bái, nhất tâm cúng dường, khiến nhân dân, mỗi mỗi người đeo chú trên
người, hoặc để nơi chỗ ở thì tất cả tai ách đều tiêu diệt.
GIẢNG GIẢI:
A Nan, nếu các cõi nước, các châu, huyện, làng
xóm, chỉ chung
một nơi nào đó, hoặc rộng lớn như lục địa, hoặc nhỏ như làng xóm.
Khi đói kém, hạn hán kéo dài, cỏ cây khô héo, hoặc có khi mưa lũ ngập chìm cả
hoa màu, lương thực. Hoặc DỊCH LỆ bùng phát, gây hại biết chừng nào.
Hoặc ở những nơi có đao binh, giặc loạn, đánh
nhau, và những nơi có ách nạn, ở các nơi khó khăn nguy hiểm như
thế, nên viết thần chú này đặt trên bốn cửa thành, cùng các tháp. Có
thể đặt phía trên các cửa. Tháp là nơi đặt xá lợi Phật, hoặc Thánh tăng. Hay có
thể đặt trên tràng phan, tức cờ phướn. Cũng có thể viết chú
trên lá phướn và đặt trên cao nhất, như tháp đồng hồ, hoặc cột cờ.
Và khiến chúng sinh ở trong cõi nước, kính rước chú này, cung kính lễ bái,
nhất tâm cúng dường, khiến nhân dân nơi xứ ấy, mỗi
mỗi người đeo chú trên người, hoặc để nơi chỗ. Có thể mang theo chú
bên người, hoặc để ở nơi sinh sống, thì tất cả tai ách
đều tiêu diệt. Mọi sự bất hạnh và quỷ dữ đều xa lánh hết. Công đức của
chú Lăng Nghiêm rất vi diệu. Quý vị không thể nào hình dung được sự lạ lùng kỳ
diệu ấy.
Có người cho rằng tu tập không cần thiết phải
thiền định, hoặc phải học kinh điển. Không phải vậy. Người khác thì nghĩ chi
cần tụng chú và học kinh, không cần đến thiền định. Điều này cũng không đúng.
Có người nghe nói về hiệu quả và năng lực của thần chú, họ nghĩ thế thì chỉ nên
đọc chú, khỏi tu hành gì khác. Thái độ như vậy là rất cực đoan.
Trong việc tu tập, quý vị phải chọn lấy pháp
Trung đạo, không thiên lệch, cũng chẳng thái quá. Thần chú thực sự có hiệu
nghiệm, nhưng quý vị cũng phải phát huy định lực của chính mình. Bản kinh này
xác định chú là hữu hiệu, nhưng điểm tinh yếu nhất của sự tu tập ở đây là giảng
giải pháp môn quay trở lại lắng nghe tự tánh của chính mình – Đấy là pháp môn
viên mãn của nhĩ căn.
Vậy nên ngay cả khi quí vị tụng chú, có nghĩa
quý vị quay trở lại lắng nghe tự tánh, trợ lại với ánh sáng QUANG MINH từ CHƠN
TÂM.
Khi tụng chú thì tâm là chú và chú là tâm. Cả
hai không thể phân chia. Tâm và chú là hai, nhưng không phải hai. Mặc dù là hai
nhưng nó là một. Nếu được vậy thì mọi điều quý vị mong muốn, đều sẽ đạt
được. Nếu CHÚ và TÂM thành một khối duy nhất, quý vị sẽ được định của
Thiền. Quý vị nên chú ý điều này.
KINH VĂN:
阿難。在在處處。國土眾生。隨有此咒。天龍歡喜。風雨順時。五穀豐殷。兆庶安樂。
A-Nan!
Tại tại xứ xứ, quốc-độ chúng-sanh, tùy hữu thử chú, Thiên-Long hoan-hỉ,
phong vũ thuận thời, ngũ cốc phong-ân, chúng-thứ an
lạc.
VIỆT DỊCH:
A-Nan, chúng sinh trong cõi nước, chỗ nào nơi
nào có được chú này, thì thiên long vui mừng, mưa gió thuận thời, ngũ cốc được
mùa, dân chúng an vui.
GIẢNG
GIẢI:
A Nan, chúng sinh trong cõi
nước, chỗ nào nơi nào có được chú này, thì thiên long vui mừng, và mưa gió
thuận thời.
Không phải lo lắng vì thiếu
thức ăn. Ngũ cốc được mùa, các loại cây lương thực đều được
mùa gặt hái, dân chúng an vui.
KINH
VĂN:
亦復能鎮一切惡星。隨 方 變怪。災 障 不起。人無橫夭。杻械枷鎖。不著其身。晝夜安眠。常無惡夢。
Diệc phục năng trấn, nhứt thiết ác-tinh, tùy phương biến quái,
tai chướng bất khởi, nhân vô hoạch-yểu, nựu-giới già-tỏa, bất trước kỳ thân,
trú-dạ an manh, thường vô ác mộng.
VIỆT DỊCH:
Lại có thể trấn được
tất cả các ác tinh, chúng tùy nơi mà biến ra nhiều điều quái dị, tai chướng
không khởi lên, người không chết bất ngờ, chết yểu, gông cùm, xiềng xích không
mang vào thân, ngày đêm ngủ yên, thường không ác mộng.
GIẢNG GIẢI:
Đoạn này nói mọi người đều có thể tránh khỏi
ác mộng, lại có thể trấn được tất cả các ác
tinh. Chú có thể kiểm soát được các hung tinh. Giống như
một người trí huệ điều hành xứ sở của mình theo đúng hướng, mọi
người xấu, ác đều sửa đổi, mọi vấn đề được giải quyết dễ dàng. Khi một người
dùng đức cai trị, dân trong xứ sẽ phục tùng họ.
Ở đây, thần chú giống như một thủ lãnh đạo
đức, kiểm soát được mọi điều xấu, mọi biến cố bất hạnh. Những hung tinh
ấy, chúng tùy nơi mà biến ra nhiều điều quái dị. Chúng mang
đến bao điều tai họa đáng sợ. Nhưng tai chướng không khởi lên,
người không chết bất ngờ, chết yểu.
Chết bất ngờ là hoạch tử, chết cách đột xuất,
chẳng hạn tai nạn xe cộ, hay máy bay nổ tung, hoặc đâm xuống biển, hoặc chết
cháy. Đoạn này nói về nguyên nhân con người chết khi họ không muốn chết, khi họ
chưa chuẩn bị để chết. Cái chết bất ngờ thường là ám chỉ cái chết còn trẻ. Mọi
cái chết trước tuổi ba mươi đều được coi là bất ngờ, vì cuộc sống như vậy là
không thọ.
Gông cùm, xiềng xích không mang vào thân, ngày đêm ngủ yên,
thường không ác mộng, không có ma quỷ nào đến quấy phá.
KINH VĂN:
阿難。是娑婆界。有八萬四千災變惡星。二十八大惡星 而為上首。復有八大惡星以為其主。作種種形 出現世時。能生眾生 種種災異。
A-Nan! Thị Ta-Bà giới, hữu bát vạn tứ thiên tai-biến
ác-tinh, nhị thập bát đại ác-tinh, nhi vi thượng thủ, phục hữu bát
đại ác tinh, dĩ vi kỳ chủ, tác chủng chủng hình, xuất
hiện thế thời, năng sanh chúng-sanh, chủng chủng
tai-dị.
VIỆT DỊCH:
A-Nan, cõi TA-BÀ này có 84 nghìn ác tinh tai
biến, 28 đại ác tinh làm thượng thủ, lại có 8 đại ác tinh làm chủ, xuất hiện
trong đời với nhiều hình dạng, có thể sinh ra các tai nạn kỳ dị cho chúng sinh.
GIẢNG GIẢI:
A Nan, cõi ta bà này
có 84 nghìn ác tinh tai biến. Có vô số ác tinh liên hệ với thế giới
chúng ta đang sống, 28 đại ác tinh làm thượng thủ, lại có 8 đại
ác tinh làm chủ.
Mặc dù có 28 loại ác,
nhưng chúng có thể cũng là thiện. Ở Trung Quốc, 28 chòm
sao phân chia thành 4 hướng mỗi hướng có 7 sao. Theo thiên văn Trung Quốc, các
chòm sao được đặt định tương ứng với thời gian ngày, giờ.
Mỗi chu kỳ là 28 ngày
– Theo tháng Âm lịch. Nếu một người thiện, các sao dữ sẽ biến thành thiện. Nếu
như người ở nơi dữ thì các thiện tinh cũng sẽ biến thành hung tinh.
Do đó, không có vì sao
nào nhất định là hung, là cát – Điều đó còn tùy thuộc ở nghiệp quả và các hành
vi thiện-ác. Ở đây nói đến các ác tinh, và chú lăng Nghiêm có công năng hóa
giải.
Theo bản kinh, những
ác tinh đó là điềm xấu, chỉ mang lại bất hạnh. Đối với các ác tinh – Biểu hiện
cho điềm dữ, nếu một người thiếu đi thiện căn, hoặc kém phước đức, dĩ nhiên,
người đó sẽ gặp nhiều điều bất lợi. Nhưng nếu anh ta trì tụng chú Lăng Nghiêm,
những bất lợi kia sẽ biến thành lợi lạc cho người đó.
Lược kê hai mươi tám sao
Thứ năm |
Thứ sáu |
Thứ bảy |
Chủ nhật |
Thứ hai |
Thứ ba |
Thứ tư |
Giác |
Cang |
Đề |
Phòng |
Tâm |
Vỹ |
Cơ |
Đầu |
Ngưu |
Nữ |
Hư |
Nguy |
Thất |
Bích |
Khuê |
Lâu |
Vị |
Mão |
Tất |
Chủng |
Sâm |
Tỉnh |
Quỹ |
Liễu |
Tinh |
Trương |
Dực |
Chẩn |
Lại có tám đại ác tinh làm chủ
1) Mộc
tinh – Jupiter
2) Hỏa tinh –
Mars
3) Thổ tinh –
Saturn
4) Kim tinh –
Venus
5) Thủy tinh –
Mercury
6) La Hầu –
(North Node)
7) Kế đô –
(South node)
8) Sao chổi – (Comets)
Có vài thiên thể rất đáng sợ, một số khác tốt
đẹp hơn. Trong suốt các vương triều ở Trung Quốc, có sao chổi từng xuất hiện.
Thực sự, sao chổi ấy là gì? Đấy là một đứa bé mặc áo ngủ màu đỏ, nó đi dạy các
trẻ khác hát. Khi mọi trẻ con cùng hát thì xứ ấy đã đến hồi kết thúc.
Điều ấy ám chỉ, khi có sao chổi xuất hiện thì
chính quyền thay đổi, tân Hoàng đế sẽ đứng lên trị vì đất nước. Những biến cố
của vận mệnh, thường không thấy biết được. Có những trường hợp đặc biệt nảy
sinh bất thường và luôn luôn là điềm không hay. Các biến cố, các tình huống bất
thường ấy báo hiệu sự việc có chiều thay đổi và mất cân bằng, không chính xác.
KINH VĂN:
有此咒地。悉皆銷滅。十二由旬 成結界地。諸惡災祥 永不能入。
Hữu thử chú địa, tất giai tiêu-diệt, thập nhị do
tuần, thành kiết-giới địa, chư ác
tai-chướng, vĩnh bất năng nhập.
VIỆT DỊCH:
Nơi nào có chú này thì tất cả đều tiêu diệt,
lấy 12 do tuần làm vòng kiết giới, các tai biến hung hiểm hẳn không vào được.
GIẢNG GIẢI:
Nơi nào có chú này thì tất cả đều tiêu
diệt. Ở nơi có chú Lăng
Nghiêm, mọi biến cố tai ương đều bị tiêu diệt. Lấy 12 do
tuần làm vòng kiết giới. Sự kiết giới do trì tụng chú sẽ làm thành nơi
an toàn.
Chẳng hạn, người tụng chú Lăng Nghiêm hướng về
phương Bắc, về phương Đông, phương Nam, phương Tây. Ở mỗi hướng kiết
giới trong vòng 12 do tuần khi tụng chú. Trong khoảng cách ấy là khu
vực an toàn, tất cả các loài ma quỷ không thể xâm phạm quấy phá được.
Các tai biến hung hiểm hẳn không vào được.
Vì vậy, bất cứ nơi nào có người
trì tụng chú Lăng Nghiêm, thì mọi người ở nơi
ấy đều được gia hộ. Trong khu vực được kiết giới, mọi tai ương, họa hại đều bị
tiêu diệt.
Phép kiết giới như thế nào?
1) Hoặc tụng chú vào lưỡi dao
sạch, rạch đất xung quanh làm giới hạn.
2) Hoặc tụng chú vào nước
sạch, rảy bốn phương làm giới hạn.
3) Hoặc tụng chú vào hột cải
trắng, liệng ra bốn phía làm giới hạn.
4) Hay dùng tâm tưởng đến chỗ nào thì chỗ đó
là giới hạn.
5) Hoặc tụng chú vào tro
sạch, rải xung quanh làm giới hạn.
6) Hoặc tụng chú vào chỉ ngũ
sắc, treo vây bốn bên làm giới hạn.
Mấy phương pháp trên đây, dùng cách
nào cũng được. Nên nhớ mỗi thứ đều phải tụng cho đủ 108 biến.
Nếu tụng trì đúng pháp, tự nhiên sẽ được hiệu quả.
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM TÂM CHÚ
Đác điệc tha.
Án, a na lệ, tỳ xá đề,
bệ ra bạt xà-ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà-ra bán ni phấn. Hổ hồng, đô lô
ung phấn, ta bà-ha.
(Tụng 108 lần)
1 do tuần khoảng 12-15 km
12 Do tuần khoảng 144 - 180km
KINH VĂN:
是故如來宣示此咒。於未來世。保護初學 諸修行者。入三摩地。身心泰然。得大安隱。
Thị cố Như-Lai, tuyên thị thử chú, ư vị-lai thế, bảo-hộ sơ-học,
chư tu-hành giả, nhập Tam-ma-địa, thân-tâm thái-nhiên, đắc đại
an-ổn.
VIỆT DỊCH:
Vậy nên Như Lai tuyên
dạy chú này, bảo hộ cho những người tu hành sơ học, trong đời vị lai vào
Tam-ma-địa, thân tâm thư thái, được đại an ổn.
GIẢNG GIẢI:
Vậy nên Như Lai, Phật Thích Ca Mâu Ni, tuyên dạy
chú Lăng Nghiêm này, bảo hộ cho những người tu hành sơ học,
trong đời vị lai vào Tam-ma-địa. Họ sẽ đạt được định lực, thân
tâm thư thái, được đại an ổn. Họ có được TÂM thanh tịnh,
thoát khỏi mọi lo lắng khổ não.
KINH VĂN:
更無一切諸魔鬼神。及無始來 冤橫 宿殃。舊 業 陳 債。來相惱害。
Cánh vô nhứt-thiết chư ma-quỷ thần, cập vô-thỉ lai, oan-hoạch
túc-ương, cựu-nghiệp trần-trái, lai tương
não-hại.
VIỆT DỊCH:
Không còn các ma, quỷ
thần và những oan khiên đời trước, nghiệp cũ nợ xưa, từ vô thủy tới nay đến
khuấy hại.
GIẢNG GIẢI:
Không còn các ma, quỷ thần và những oan khiên
đời trước khuấy rối người trì chú này. Mọi bất hạnh đều là từ
những sai lầm, tội lỗi đã tạo nên từ các đời đã qua, đấy chính là nghiệp
cũ, là cái nhân tạo tác trước đó – những chướng ngại của
nghiệp làm thành nợ xưa từ vô thủy tới nay.
Chẳng hạn kẻ nào đó giết người, tất nhiên
người đó phải trả lại mạng sống còn nợ. Nếu ăn thịt ai
đó, y cũng phải trả lại mối nợ xương thịt đó. Mọi món nợ đều phải trả. Nhưng
nếu trì tụng chú Lăng Nghiêm thì mọi bất hạnh do nghiệp, do nợ nần, đều
không đến khuấy hại. Chẳng có gì có thể gây hại cho quý vị.
KINH VĂN:
汝及眾中 諸有學人。及未來世諸修行者。依我壇場如法持戒。所受戒主。逢 清 淨 僧。持此咒心。不生疑悔。是善男子。於此父母所生之身。不得心通。十方 如 來 便為妄語。
Nhữ cập chúng trung, chư hữu học-nhân, cập vị-lai thế, chư
tu-hành giả, y ngã
Đàn-tràng, như pháp trì giới, sở thọ giới chủ, phùng Thanh-tịnh Tăng, trì thử
chú - tâm, bất sanh nghi-hối. Thị Thiện-nam tử, ư thử
phụ-mẫu, sở-sanh chi thân, bất đắc tâm thông, thập phương Như Lai, tiện
vi vọng ngữ.
VIỆT DỊCH:
Ông cùng những người
HỮU HỌC trong chúng và những kẻ tu hành đời vị lai, y theo lời dạy của ta mà
lập đàn tràng, đúng theo pháp mà trì giới, gặp được Tăng chúng thanh tịnh chủ
trì việc thọ giới, đối với chú tâm này không sinh TÂM nghi hối. Những thiện nam
tử như thế, chính nơi thân do cha mẹ sinh ra, nếu chẳng được tâm thông thì mười
phương NHƯ LAI bèn là vọng ngữ.
GIẢNG GIẢI:
Ông A Nan, cùng những người HỮU HỌC trong
chúng và những kẻ tu hành đời vị lai. Kể cả trong đời hiện
tại. Nếu như mọi người đều y theo lời dạy của ta mà lập đàn tràng, cách
lập đàn như đã nói qua. Và đúng theo pháp mà trì giới, gặp được Tăng
chúng thanh tịnh chủ trì việc thọ giới, Tăng chúng thanh tịnh là những
người không phạm giới, và đối với chú tâm này không sinh
TÂM nghi hối – không một chút nghi ngờ gì về
chú này.
Những thiện nam tử như thế, theo lời chỉ dạy mà thành
lập đạo tràng, gặp được Tỳ kheo trong sạch, giữ trọn
giới hạnh – và đấy là nguyên nhân và điều kiện cần thiết, và chính nơi thân
do cha mẹ sinh ra, nếu chẳng được tâm thông, tức là, nếu họ không
trở nên giác ngộ và được NGŨ NHÃN, lục thần
thông, thì mười phương NHƯ LAI bèn là vọng ngữ - chư
Phật trong khắp mười phương đều nói lời không thật.
KINH VĂN:
說是語已。會中無量百千金剛。一時佛前合掌 頂禮。而白佛言。如佛所說。我當誠心保護如是修菩提者。
Thuyết thị ngữ dĩ, hội-trung vô-luợng bá thiên Kim-Cang, nhứt
thời Phật tiền, hiệp chưởng đảnh lễ, nhi bạch Phật ngôn: Như Phật sở thuyết,
ngã đương thành-tâm, bảo-hộ như thị Tu-Bồ-Đề
giả.
VIỆT DỊCH:
Phật dạy lời ấy xong, vô lượng trăm ngàn KIM
CANG trong Hội, đồng thời đứng trước Phật, chắp tay đảnh lễ mà thưa với Phật
rằng: “Như lời Phật dạy, chúng con phải thành tâm bảo hộ những người tu đạo Bồ
đề như vậy”.
GIẢNG GIẢI:
Phật Thích Ca Mâu Ni dạy lời ấy xong, vô
lượng trăm ngàn KIM-CANG trong Hội, đồng thời đứng trước Phật, chắp tay đảnh lễ
mà thưa với Phật rằng: “Như lời Phật dạy, chúng con phải thành tâm bảo hộ những
người tu đạo Bồ đề như vậy”, chúng con sẽ bảo hộ tất cả
những người thành tâm tu theo pháp môn này để đạt được đạo Bồ đề.
KINH VĂN:
爾時 梵 王、并 天 帝 釋、四天大王亦於佛前 同時頂禮。而白佛言。審有如是 修學善人。我 當 盡 心至 誠 保 護。令其一生 所作 如願。
Nhĩ thời Phạm-Vương, tịnh Thiên-Đế-Thích, Tứ-Thiên-Đại-Vương,
diệc ư Phật tiền, đồng thời đảnh lễ, nhi bạch Phật ngôn: Thẩm hữu như thị, tu
học thiện-nhân, ngã đương tận-tâm, chí thành bảo-hộ, linh kỳ nhứt sanh,
sở tác như nguyện.
VIỆT DỊCH:
Lúc bấy giờ, PHẠM
VƯƠNG và THIÊN ĐẾ THÍCH, TỨ ĐẠI THIÊN VƯƠNG cùng ở trước Phật, đồng thời đảnh
lễ và thưa với Phật: “Xét có người lành tu học như vậy, chúng con phải hết lòng
chí thành bảo hộ, khiến cho trong một đời tu hành được như nguyện”.
GIẢNG GIẢI:
Lúc bấy giờ, PHẠM VƯƠNG, chủ tể của Đại
Phạm Thiên, và THIÊN ĐẾ THÍCH, vua trời, TỨ
ĐẠI THIÊN VƯƠNG cùng ở trước Phật. Tất cả cùng đứng lên, đồng
thời đảnh lễ trước Phật và thưa với Phật: “Xét có người lành
tu học như vậy, chúng con phải hết lòng chí thành bảo hộ, khiến cho
trong một đời tu hành được như nguyện”.
Nếu như thực sự có người tu hành
theo lời Phật dạy, tất cả chúng con sẽ thành tâm giữ gìn và bảo hộ họ đạt được
ý nguyện.
KINH VĂN:
復有無量 藥叉大將、諸羅剎王、富單那王、鳩槃茶王、毗舍遮王、頻那夜迦、諸大鬼王、及諸鬼帥。亦於佛前合 掌 頂禮。我亦誓願 護持是人。令菩提心 速得圓滿。
Phục hữu vô-lượng, Dạ-xoa đại-tướng, chư La-Sát vương,
Phú-đàn-na vương, Cưu-bàn-trà vương, Tỳ-xá-giá vương, Tần-na, Dạ-ca, chư
Đại-Quỷ vương, cập chư Quỷ-Soái, diệc ư Phật tiền, hiệp chưởng đảnh lễ; Ngã
diệc thệ-nguyện hộ-trì thị nhân, linh Bồ-Đề tâm, tốc đắc
viên-mãn.
VIỆT DỊCH:
Lại có vô lượng Đại
tướng DƯỢC XOA, các vua LA SÁT, vua PHÚ ĐAN NA, vua CƯU BÀN TRÀ, vua TỲ XÁ GIÀ,
TẦN NA DẠ CA, các Đại QỦY VƯƠNG và các QỦY SOÁI cũng ở trước Phật, chắp tay
đảnh lễ mà thưa với Phật rằng: “Chúng tôi cũng thệ nguyện hộ trì cho người
đó, khiến cho tâm Bồ đề mau được viên mãn”.
GIẢNG GIẢI:
Lại có vô lượng Đại tướng DƯỢC XOA, quỷ Tật tốc, các vua LA
SÁT, loại quỷ ăn thịt người, vua PHÚ ĐAN NA, quỷ
xú ác, hay gây bệnh sốt, vua CƯU BÀN TRÀ, quỷ có hình dạng
trái bí đao, gây liệt cho con người, vua TỲ XÁ GIÀ, đây cũng
là loại quỷ rất đáng sợ. TẦN NA DẠ CA, thường gây ra các
chướng ngại. Các Đại QỦY VƯƠNG và các QỦY SOÁI cũng ở trước Phật, chắp
tay đảnh lễ mà thưa với Phật rằng:
“Chúng tôi cũng thệ nguyện hộ trì cho người
đó, khiến cho tâm Bồ đề mau được viên mãn”.
KINH VĂN:
復 有 無 量 日 月 天 子。風 師 雨 師。雲師雷師。并電伯等。年歲巡官。諸星 眷 屬。亦於會中 頂禮佛足。而白佛言。我亦保護 是修行人。安立道場。得無所畏。
Phục hữu vô-lượng Nhựt-Nguyệt Thiên-Tử, Phong-Sư Vũ-Sư, Vân-Sư
Lôi-Sư, tinh Điện-bá đẳng, Niên tuế tuần quan, chư tinh quyến-thuộc, diệc
ư hội-trung, đảnh lễ Phật túc, nhi bạch Phật ngôn: Ngã diệc bảo-hộ, thị
tu-hành nhân, an-lập Đạo-Tràng, đắc vô sở-úy.
VIỆT DỊCH:
Lại có vô lượng NHẬT
NGUYỆT thiên tử, PHONG SƯ, VŨ SƯ, VÂN SƯ, LÔI SƯ cùng với ĐIỆN BÁ và các NIÊN
TUẾ tuần quan, chư tinh quyến thuộc cũng ở trong Hội, đảnh lễ chân Phật mà thưa
với Phật: “Chúng con bảo hộ người tu hành ấy an lập đạo tràng, được không
lo sợ”.
GIẢNG GIẢI:
Lại có vô lượng NHẬT NGUYỆT thiên tử, PHONG
SƯ, VŨ SƯ, VÂN SƯ, LÔI SƯ cùng với ĐIỆN BÁ và các NIÊN TUẾ tuần quan. Hầu hết mọi người đều không nhận
ra rằng vào mỗi năm, đều có Tuần quan đi lại giám sát việc thiện ác
trong nhân gian. Chư tinh quyến thuộc cũng ở trong
Hội mỗi vì sao đều có quyến thuộc riêng, cùng đảnh lễ chân
Phật mà thưa với Phật:
“Chúng con bảo hộ người tu hành ấy an lập đạo
tràng, được không lo sợ”. Chúng con cùng nguyện cho người tu hành, bảo hộ người lập đạo
tràng, họ sẽ có được sức mạnh, không còn lo sợ.
KINH VĂN:
復 有 無量 山神 海神。一切 土地 水陸 空行。萬物精祇。并 風 神 王。無色界天。於如來前。同時稽首而白佛言。我亦保護是修行人。得成菩提。永無魔事。
Phục hữu vô-lượng Sơn-thần, Hải-thần, nhứt thiết Thổ-địa,
Thủy-lục, Không-hành, vạn vật tinh-kỳ, Tinh-Phong Thần-Vương, Vô-Sắc-Giới
Thiên, ư Như-Lai tiền, đồng thời khể-thủ, nhi bạch Phật
ngôn: Ngã diệc bảo-hộ, thị tu-hành nhân, đắc thành Bồ-Đề, vĩnh vô ma-sự.
VIỆT DỊCH:
Lại có vô lượng Sơn thần, Hải
thần, tất cả thổ địa, thủy lục không hành, tinh
kỳ muôn vật, với Phong thần vương cùng chư Thiên vô
sắc giới, ở trước Như Lai đồng thời đảnh lễ, thưa với Phật: “Chúng con
cũng bảo hộ người tu hành ấy được thành quả Bồ đề, hẳn không ma sự”.
GIẢNG GIẢI:
Lại có vô lượng Sơn thần, Hải thần, tất
cả thổ địa, thủy lục không hành, tinh kỳ muôn vật, với Phong thần vương
cùng chư Thiên vô sắc giới, ở trước Như Lai đồng thời đảnh lễ, thưa với
Phật, tất cả cùng
hành lễ trước Phật.
“Chúng con cũng bảo hộ người tu hành ấy được
thành quả Bồ đề, hẳn không ma sự”, chúng con sẽ bảo vệ những
người tu ấy tiến thẳng đến quả Bồ đề, và không bao giờ
gặp phải ma sự.
KINH VĂN:
爾時八萬四千那由他恆河沙俱胝 金剛藏王 菩 薩。在大會中。即從座起。頂禮佛足而白佛言。世尊。如我 等輩 所修功業。久成菩提。不取涅槃。常 隨 此 咒。救護末世修三摩地正 修行者。
Nhĩ thời bát vạn tứ thiên, Na–do-tha
Hằng–hà-sa câu-chi, Kim-Cang Tạng-Vương Bồ-Tát, tại đại hội trung,
tức tùng tọa khởi, đảnh lễ Phật túc nhi bạch Phật ngôn: Thế-Tôn! Như ngã đẳng
bối, sở tu công-nghiệp, cữu thành Bồ-Đề, bất thủ Niết-Bàn,
thường tùy thử chú, cứu hộ mạt thế, tu tam-ma-địa, chánh tu hành
giả.
VIỆT DỊCH:
Khi ấy, tám mươi bốn nghìn na do tha Hằng hà
sa Câu chi Kim Cang Tạng vương Bồ tát ở trong Hội, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà thưa với Phật: “Thế Tôn, như bọn chúng
tôi, công nghiệp tu hành đã thành tựu Bồ đề lâu rồi, nhưng không nhận Niết
bàn, thường theo chú này, cứu giúp những người chân chính tu hành pháp
Tam-ma-địa trong thời mạt pháp”.
GIẢNG GIẢI:
Khi ấy, tám mươi bốn nghìn na do tha – số lượng nhiều bằng mấy trăm
triệu Hằng hà sa Câu chi Kim Cang Tạng vương Bồ tát ở trong Hội, liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà thưa với Phật: “Thế Tôn, như bọn
chúng tôi, công nghiệp tu hành đã thành tựu Bồ đề lâu rồi, nhưng không nhận
Niết bàn, thường theo chú này”.
Công đức tu hành của chúng con từ lâu đã chứng
đạt Bồ đề, vậy tại sao chúng con không vào Niết bàn? Đấy là vì chúng con luôn
theo giúp những người trì chú này. Chúng con quyết định “cứu giúp
những người chân chính tu hành pháp Tam-ma-địa trong thời mạt pháp”.
Đấy là những người chân chính thực hiện Thiền
định, đều sẽ được chúng con bảo vệ, cứu giúp.
KINH VĂN:
世尊。如是修心求正定人。若在道場 及餘經行。乃至散心遊戲聚落。我等徒眾。常 當 隨 從 侍衛此人。
Thế-Tôn! Như thị tu tâm, cầu chánh-định nhân, nhược tại
Đạo-Tràng, cập dư kinh hành, nãi chí tán tâm, du hí tụ lạc, ngã đẳng đồ
chúng, thường đương tùy tùng thị vệ thử
nhân.
VIỆT DỊCH:
Bạch Thế Tôn, người tu
tâm vào chánh định như thế, dù tại đạo tràng hay lúc kinh hành, cho đến
khi tán tâm đi chơi trong làng xóm, đồ chúng chúng con thường phải đi
theo hộ vệ người ấy.
GIẢNG GIẢI:
Kim Cang Tạng vương Bồ tát tiếp tục thưa với
Phật: “Bạch Thế Tôn, người tu tâm vào chánh định như thế”, người
muốn đạt được định lực, dù tại đạo tràng hay lúc kinh hành. Ngồi
thiền là công phu thiền định, lúc kinh hành thì hoặc niệm Phật hoặc trì chú,
đấy là công phu trì tụng Tam muội.
Cho đến khi tán tâm đi chơi trong làng xóm. Đức Kim Cang tạng vương Bồ tát còn bảo
vệ cả những người tu không hành thiền, không vào đạo tràng, không kinh hành trì
chú. Dù vậy, khi đi chơi chỗ này chỗ nọ, quý vị đều có thể trì chú này, như
vậy, đồ chúng chúng con thường phải đi theo hộ vệ người ấy.
Nếu một người khéo trì tụng chú Lăng Nghiêm
tất sẽ có tám mươi bốn nghìn Kim Cang Tạng vương Bồ tát cùng các chúng đi theo
bảo vệ, cho dù người đó đi đến đâu – giống như một đoàn quân đi theo tướng lĩnh
của họ vậy.
KINH VĂN:
縱令魔王 大自在天。求其方便。終不可得。諸小鬼神。去此善人十由旬外。除彼發心樂修禪者。
Túng lịnh ma vương, đại tự-tại thiên, cầu kỳ
phương-tiện, chung bất khả đắc, chư tiểu Quỷ thần, khứ thử
thiện nhân, thập do-tuần ngoại, trừ bỉ phát tâm,
lạc tu thiền giả.
VIỆT DỊCH:
Cho dù Ma vương, Đại Tự Tại Thiên muốn
có được phương tiện khuấy phá cũng không thể được, các quỷ thần nhỏ
phải cách xa người lành ấy mười do tuần.Trừ khi họ phát tâm ưa
thích tu thiền.
GIẢNG GIẢI:
Cho dù Ma vương, Đại Tự Tại Thiên muốn có được
phương tiện khuấy phá cũng không thể được. Bọn họ tìm đủ mọi cách để khuấy
phá, nhiễu loạn người tu, nhưng thảy đều không được.
Ngay cả các quỷ thần nhỏ phải
cách xa người lành ấy mười do tuần. Các QỦY-VƯƠNG và cả
Đại Tự Tại Thiên chẳng khuấy phá gì được người lành ấy thì quỷ nhỏ cũng phải
tránh xa ngoài hai trăm bảy mươi lăm dặm.
Trừ khi họ phát tâm ưa thích tu thiền, ngoại
trừ các loài quỷ ưa thích nghe kinh, nghe pháp và tu thiền định,
bọn chúng có thể đến đạo tràng để nghe kinh, còn không thì phải
tránh xa ngoài hai trăm bảy mươi lăm dặm.
KINH VĂN:
世尊。如是惡魔 若魔 眷屬。欲來侵擾 是善人者。我以寶杵殞碎其首。猶如微塵。恆令此人。所作如願。
Thế - Tôn! Như thị Ác-ma, nhược ma quyến-thuộc, dục lai
xâm-nhiểu, thị thiện nhân giả, ngã dĩ bửu sử, vẫn toái kỳ thủ, do như vi
trần, hằng lịnh thử nhân, sở tác như nguyện.
VIỆT DỊCH:
Bạch Thế Tôn, những ác
ma như thế, hay quyến thuộc của ma, muốn đến xâm lấn quấy phá người lành
ấy, chúng con dùng bảo chùy đạp nát cái đầu như bụi nhỏ, thường khiến cho
người tu hành được như nguyện.
GIẢNG GIẢI:
Quý vị sẽ nói, sao giáo pháp Kim Cang dữ dội
như thế? Các vị ấy bảo sẽ đập đầu bọn quỷ nát như tro bụi. Quý vị có thể hình
dung sức mạnh ấy thế nào rồi. Thực ra, Kim Cang Tạng Bồ tát không nhất thiết
phải dùng chùy báu như thế, chính sức mạnh thiền định của Bồ tát cũng đủ để
trấn áp tất cả rồi. Vì vậy, các vị ấy thưa với Phật:
“Bạch Thế Tôn, những ác ma
như thế, hay quyến thuộc của ma, muốn đến xâm lấn quấy phá người lành ấy, chúng
con dùng bảo chùy đạp nát cái đầu như bụi nhỏ, thường khiến cho người tu hành
được như nguyện”.
Ngày nay, trong các nơi đô hội, khi xảy ra
những thiên tai, nhân họa, giết người, phóng hỏa…đều có các QỦY-VƯƠNG vô hình
ra sức thao túng. Người tu học Phật có năng lực thiền định, khi đạt được ngũ
nhãn sẽ nhìn thấy các ác ma khuấy phá ấy.
Vấn đề là người học Phật phải cần thời gian
lâu dài, ba năm, năm năm, mười năm hoặc hai mươi năm mới có được vài thuận lợi;
trong khi ấy, thủ pháp bọn quỷ cao xa khó lường và chúng học cũng rất nhanh.
Bọn chúng có năng lực rất đáng sợ, thường đi xuyên suốt thế gian, khuấy phá
khắp nơi.
Tuy nhiên, nếu quý vị tụng chú Lăng Nghiêm,
bọn ác ma ấy sẽ lánh xa. Nếu không có ai trì tụng Lăng Nghiêm, chắc chắn bọn
chúng sẽ ha hồ tàn phá thế gian này.
THẦN CHÚ
PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM
PHÓNG HÀO QUANG, KHẮP THỊ HIỆN
Ông A-nan đỉnh-lễ chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Từ khi xuất-gia, tôi ỷ-lại nơi lòng thương-yêu của Phật; vì cầu tuệ
đa-văn, chưa chứng quả vô-vi, nên bị tà-thuật Phạm-thiên kia bắt-buộc; tâm tuy
rõ-ràng, nhưng sức không tự-do, nhờ gặp ngài Văn-thù, khiến cho tôi được
giải-thoát. Tuy tôi thầm nhờ sức của thần-chú Phật-đỉnh Như-lai, nhưng chính
mình còn chưa được nghe chú ấy, xin nguyện đức Đại-từ tuyên-nói lại cho,
thương-xót cứu-giúp các hàng tu-hành trong Hội nầy và những người đời sau, còn
trong luân-hồi, được nhờ mật-âm của Phật, mà thân-ý được giải-thoát". Lúc
bấy giờ, tất-cả đại-chúng trong Hội thảy đều làm lễ, chờ nghe những câu chú
bí-mật của Như-lai.
( Lúc đó, đức Thế-tôn, từ nơi nhục-kế phóng ra
trăm thứ hào-quang báu, trong hào-quang hiện ra hoa sen báu ngàn cánh, có
hóa-thân Như-lai ngồi trong hoa sen, trên đình phóng ra mười đạo hào-quang
bách-bảo; trong mỗi mỗi đạo hào-quang, đều hiện ra những vị Kim-cương mật-tích,
số-lượng bằng mười số cát sông Hằng, xách núi, cầm xử, khắp cõi hư-không.
Đại-chúng ngửa lên xem, vừa yêu vừa sợ, cầu Phật thương-xót che-chở, một tâm
nghe đức Phóng-quang Như-lai, nơi Vô-kiến-đỉnh-tướng của Phật, tuyên-nói
thần-chú : )
Nhĩ thời Thế Tôn, tùng nhục kế trung, dõng bách bảo quang, quang
trung dõng xuất, thiên diệp bảo liên, hữu hóa Như Lai, tọa bảo hoa trung. Ðảnh
phóng thập đạo, bá bảo quang minh, nhất nhất quang minh, giai biến thị hiện,
thập Hằng Hà sa, Kim cang mật tích, kình sơn trì sử, biến hư không giới, Ðại
chúng ngưỡng quán, úy ái kiêm bão, cầu Phật ai hựu, nhất tâm thính Phật, vô
kiến đảnh tướng, phóng quang Như Lai, tuyên thuyết thần chú :
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
ÐỆ NHỨT
Nam-mô tát đát tha tô già đa da a ra ha đế tam-miệu
tam-bồ-đà-tỏa.Tát đát tha Phật đà cu-tri sắc ni sam.
Nam-mô tát bà bột đà bột địa, tát đa bệ tệ.
Nam-mô tát đa nẩm tam-miệu tam-bồ-đà cu-tri nẩm. Ta xá ra bà ca
tăng-già nẩm.
Nam-mô lô kê a-la-hán đa nẩm.
Nam-mô tô lô đa ba na nẩm.
Nam-mô ta yết rị đà già di nẩm.
Nam-mô lô kê tam-miệu già đa nẩm. Tam miệu già ba ra để ba đa na
nẩm.
Nam-mô đề bà ly sắt nỏa.
Nam-mô tất đà da tỳ địa da đà ra ly sắt nỏa. Xá ba noa yết ra ha
ta ha ta ra ma tha nẩm.
Nam-mô bạt ra ha ma ni.
Nam-mô nhơn đà ra da.
Nam-mô bà già bà đế, lô đà ra da. Ô ma bát đế, ta hê dạ da.
Nam-mô bà già bà đế.
Na ra dả noa da. Bàn-giá ma-ha tam mộ đà ra.
Nam-mô tất yết rị đa da.
Nam-mô bà già bà đế, ma ha ca ra da. Ðịa rị bác lặc na già ra.
Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A địa mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị
già noa.
Nam-mô tất yết rị đa da.
Nam-mô bà già bà đế. Ða tha già đa cu ra da.
Nam-mô bát đầu ma cu na da.
Nam-mô bạt xà ra cu ra da.
Nam-mô ma ni cu ra da.
Nam-mô già xà cu ra gia.
Nam-mô bà già bà đế, đế rị trà du ra tây na, ba ra ha ra noa ra
xà dà, đa tha già đa da.
Nam-mô bà già bà đế.
Nam-mô a di đa bà da, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam-miệu
tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, a sô bệ da, đa tha già đa da, a ra ha đế,
tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, bệ sa xà da cu lô phệ trụ rị da, bát ra bà
ra xà da, đa tha già đa da.
Nam-mô bà già bà đế, tam bổ sư bí đa, tát lân nại ra lặc xà da,
đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, xá kê dã mẫu na duệ, đa tha già đa da, a ra
ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, lặc đác na kê đô ra xà da, đa tha già đa
da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da, đế biều nam-mô tát yết rị đa, ế đàm bà
giá bà đa, tát đác tha già đô sắc ni sam, tát đác đa bác đác lam.
Nam-mô a bà ra thị đam, bác ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa
yết ra ha, ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bạc ra bí địa da sất đà nể, a ca
ra mật rị trụ, bát rị đát ra da nảnh yết rị, tát ra bà bàn đà na mục xoa ni,
tát ra bà đột sắc tra đột tất phạp bát na nể phạt ra ni, giả đô ra thất đế nẫm,
yết ra ha ta ha tát ra nhã xà, tỳ đa băng ta na yết rị, a sắc tra băng xá đế
nẫm, na xoa sát đác ra nhã xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắc tra nẫm, ma ha yết
ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết rị, tát bà xá đô lô nể bà ra nhã xà, hô lam
đột tất phạp nan giá na xá ni, bí sa xá tất đác ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã
xà, a bát ra thị đa cu ra ma ha bác ra thiện trì, ma ha điệp đa, ma ha đế xà,
ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nể, a rị da đa ra, tỳ rị
cu tri, thệ bà tỳ xà da, bạc xà ra ma lễ để, tỳ xá lô đa, bột đằng dõng ca, bạt
xà ra chế hắt na a giá, ma ra chế bà bác ra chất đa, bạc xà ra thiện trì, tỳ xá
ra giá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, tô ma lô ba, ma ha thuế đa, a rị da đa
ra, ma ha bà ra, a bác ra, bạt xà ra thương yết ra chế bà, bạt xà ra cu ma rị,
cu lam đà rị, bạt xà ra hắc tát đa giá tỳ địa gia kiền giá na ma rị ca, khuất
tô mẫu bà yết ra đá na, bệ lô giá na cu rị da, dạ ra thố sắc ni sam, tỳ
chiết lam bà ma ni giá, bạt xà ra ca na ca ba ra bà, lô xà na bạt xà ra đốn trỉ
giá, thuế đa giá ca ma ra sát xa thi ba ra bà, ế đế di đế, mẫu đà ra yết noa,
ta bệ ra sám, quật phạm đô, ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ NHỊ
Ô hồng, rị sắt yết noa, bác lặc xá tất đa, tát đát tha già đô
sắc ni sam. Hổ hồng, đô lô ung chiêm bà na. Hổ hồng, đô lô ung tất đam bà na.
Hổ hồng, đô lô ung ba ra sắc địa da tam bác xá noa yết ra. Hổ hồng, đô lô ung,
tát bà dược xoa hắt ra sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ
hồng, đô lô ung, giả đô ra thi để nẫm, yết ra ha, ta ha tát ra nẫm, tỳ đằng
băng tát na ra. Hổ hồng, đô lô ung, ra xoa, bà già phạm tát đát tha già đô sắc
ni sam, ba ra điểm xà kiết rị, ma ha ta ha tát ra, bột thọ ta ha tát ra thất rị
sa, cu tri ta ha tát nê đế lệ, a tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca ma ha bạt
xà lô đà ra, đế rị bồ bà na, man trà na, ô hồng, ta tất đế bạc bà đô, mạ mạ ấn
thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ TAM
Ra xà bà dạ, chủ ra
bạt dạ, a kỳ ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tát đa ra bà dạ, bà ra
chước yết ra bà dạ, đột sắc xoa bà dạ, a xá nể bà dạ, a ca ra mật rị trụ bà dạ,
đà ra ni bộ di kiếm ba già ba đà bà dạ, ô ra ca bà đa bà dạ, lặc xà đàng trà bà
dạ, na già bà dạ, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra
xoa tư yết ra ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha,
cưu-bàn trà yết ra ha, bổ đơn na yết ra ha, ca tra bổ đơn na yết ra ha, tất
kiền độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa dạ yết
ra ha, hê rị bà đế yết ra ha, xã đa ha rị nẩm, yết bà ha rị nẩm, lô địa ra ha
rị nẩm, mang ta ha rị nẩm, mê đà ha rị nẩm, ma xà ha rị nẩm, xà đa ha rị nữ,
thị tỷ đa ha rị nẩm, tỳ đa ha rị nẩm, bà đa ha rị nẩm, a du giá ha rị nữ, chất
đa ha rị nữ, đế sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẩm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di,
kê ra dạ di, ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ
di, trà diễn ni hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha bát du
bác đát dạ, lô đà ra hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na ra
dạ noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, đát đỏa già lô trà
tây hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma-ha ca ra ma đát rị
già noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ca ba rị ca hất rị
đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, xà dạ yết ra, ma độ yết ra tát bà
ra tha ta đạt na hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, giả đốt ra
bà kỳ nể hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ rị dương
hất rị tri, nan đà kê sa ra dà noa bác đế, sách hê dạ hất rị đởm, tỳ đà dạ xà
sân đà dạ di, kê ra dạ di, na yết na xa ra bà noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân
đà dạ di, kê ra dạ di, a-la-hán hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ
di, tỳ đa ra già hất rị đởm, tỷ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, bạt xà ra
ba nể, cu hê dạ, cu hê dạ, ca địa bát đế hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di,
kê ra dạ di, ra thoa vỏng, bà dà phạm, ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ TỨ
Bà già phạm, tát đát
đa bác đá ra, Nam-mô tý đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra bà tất phổ tra, tỳ
ca tát đát đa bát đế rị, thập Phật ra thập Phật ra, đà ra đà ra, tần đà ra tần
đà ra, sân đà sân đà. Hổ hồng. Hổ hồng, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra,
phấn tra, ta ha, hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề ha đa phấn, ba ra bà
ra đà phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát bà đề bệ tệ phấn, tát bà na già tệ
phấn, tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà kiền thát bà tệ phấn, tát bà bổ đơn na tệ
phấn, ca tra bổ đơn na tệ phấn, tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn, tát bà đột sáp
tỷ lê hất sắc đế tệ phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát bà a bá tất ma lê tệ
phấn, tát bà xá ra bà noa tệ phấn, tát bà địa đế kê tệ phấn, tát bà đát ma đà
kê tệ phấn, tát bà tỳ đà da ra thệ giá lê tệ phấn, xà dạ yết ra ma độ yết ra,
tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn; tỳ địa dạ giá lê tệ phấn, giả đô ra phược kỳ nể
tệ phấn, bạt xà ra cu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, ma ha ba ra đinh dương
xoa tỳ rị tệ phấn, bạt ra xa thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra xà da phấn,
ma ha ca ra dạ, ma ha mạt đát rị ca noa.
Nam-mô ta yết rị đa dạ
phấn, tỷ sắc noa tỳ duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ phấn, a kỳ ni duệ phấn, ma
ha yết rị duệ phấn, yết ra đàn trì duệ phấn, miệc đát rị duệ phấn, lao đát rị
duệ phấn, giá văn trà duệ phấn, yết la ra đát rị duệ phấn, ca bác rị duệ phấn,
a địa mục chất đa ca thi ma xá na, bà tư nể duệ phấn, diễn kiết chất, tát đỏa
bà tỏa, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ NGŨ
Ðột sắc tra chất đa, a
mạt đát rị chất đa, ô xà ha ra, già bà ha ra, lô địa ra ha ra, ta bà ha ra, ma
xà ha ra, xà đa ha ra, thị tỷ đa ha ra, bạc lược dạ ha ra, kiền đà ha ra, bố sử
ba ha ra, phả ra ha ra, bà tỏa ha ra, bác ba chất đa, đột sắc tra chất đa,
lao đà ra chất đa, dược xoa yết ra ha, ra sát ta yết ra ha, bế lệ đa yết ra ha,
tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất kiền đà yết ra
ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, trạch khê
cách trà kỳ ni yết ra ha, rị Phật đế yết ra ha, xà di ca yết ra ha, xá cu ni
yết ra ha, lao đà ra nan địa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha, kiền độ ba ni
yết ra ha, thập Phật ra yên ca hê ca, trụy đế dược ca, đát lệ đế dược ca, giả
đột thác ca, ni đề thập phạt ra, tỷ sam ma thập phạt ra, bạc để ca, tỷ để ca,
thất lệ sắt mật ca, ta nể bác đế ca, tát bà thập phạt ra, thất lô kiết đế, mạt
đà bệ đạt lô chế kiếm, a ỷ lô kiềm, mục khê lô kiềm, yết rị đột lô kiềm, yết ra
ha yết lam, yết na du lam, đản đa du lam, hất rị dạ du lam, mạt mạ du lam, bạt
rị thất bà du lam, tỷ lật sắc tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri du lam, bạt
tất đế du lam, ô lô du lam, thường già du lam, hắc tất đa du lam, bạt đà du
lam, ta phòng án già bác ra trượng già du lam, bộ đa tỷ đa trà, trà kỳ ni thập bà
ra, đà đột lô ca kiến đốt lô kiết tri, bà lộ đa tỳ, tát bác lô, ha lăng già, du
sa đát ra, ta na yết ra, tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca, mạt ra bệ ra, kiến đa
ra, a ca ra mật rị đốt đát liểm bộ ca, địa lật lặc tra, tỷ rị sắc chất ca, tát
bà na cu ra, tứ dẫn già tệ yết ra, rị dược xoa, đác ra sô, mạt ra thị phệ đế
sam, ta bệ sam, tất đát đa bác đát ra, ma ha bạc xà lô sắc ni sam, ma ha bác
lặc trượng kỳ lam, dạ ba đột đà xá dụ xà na, biện đát lệ noa, tỳ đà da bàn đàm
ca lô di, đế thù bàn đàm ca lô di, bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di, đác
điệc tha.
Án, a na lệ, tỳ xá đề,
bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bán ni phấn. Hổ hồng, đô lô
ung phấn, ta bà ha.
THẬP PHƯƠNG NHƯ LAI
NHÂN TỤNG TÂM CHÚ NÀY MÀ ĐƯỢC THÀNH PHẬT
"A-nan, những câu nhiệm-mầu, những kệ bí-mật
"Tất-đát-đa-bát-đát-ra" của hóa-thân nơi hào-quang đỉnh-Phật, sinh ra
tất-cả chư Phật thập phương. Thập phương Như-lai nhân chú-tâm nầy,
thành được Vô-thượng-chính-biến-tri-giác. Thập phương Như-lai nắm
chú-tâm nầy, uốn-dẹp các ma, chế-phục các ngoại-đạo. Thập phương Như-lai vận
chú-tâm nầy, ngồi hoa sen báu, ứng-hiện trong các cõi-nước như số vi-trần. Thập
phương Như-lai ngậm chú-tâm nầy, nơi cõi-nước như số vi-trần, xoay bánh xe Pháp
lớn. Thập phương Như-lai giữ chú-tâm nầy, có thể nơi mười phương xoa đỉnh
thụ-ký, tự mình quả-vị chưa thành, cũng có thể nơi mười phương nhờ chư Phật
thụ-ký. Thập phương Như-lai nương chú-tâm nầy, có thể nơi mười phương cứu-vớt
các khổ như địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sinh, đui, điếc, ngọng, câm; các khổ oán-tăng-hội,
ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, ngũ-ấm-xí-thịnh; những tai-nạn lớn nhỏ đồng-thời được
giải-thoát; nạn giặc, nạn binh, nạn vua, nạn ngục, nạn gió, lửa, nước, cho đến
đói-khát bần-cùng, liền được tiêu-tan. Thập phương Như-lai theo chú-tâm nầy, có
thể nơi mười phương, phụng-sự thiện-tri-thức, trong bốn uy-nghi, cúng-dường
được như-ý; trong Pháp-hội hằng-sa Như-lai, được suy-tôn là vị
Đại-pháp-vương-tử. Thập phương Như-lai dùng chú-tâm nầy, có thể nơi mười
phương, nhiếp-thụ các nhân-thân, khiến cho các hàng Tiểu-thừa nghe tạng bí-mật,
không sinh lòng kinh-sợ. Thập phương Như-lai tụng chú-tâm nầy, thành-đạo
Vô-thượng-giác, ngồi dưới cây Bồ-đề, vào Đại-niết-bàn. Thập phương Như-lai
truyền chú-tâm nầy, sau khi diệt-độ rồi, phó-chúc Pháp-sự của Phật, được
trụ-trì rốt-ráo; giới-luật nghiêm-tịnh, thảy đều trong-sạch."
"Nếu tôi nói chú "Phật-đỉnh-quang-tụ bát-đát-ra"
nầy, từ sáng đến tối, các tiếng nối nhau, trong đó những chữ, những câu cũng
không trùng-điệp, trải qua kiếp-số như cát sông Hằng, rốt-cuộc không thể hết được.
Chú nầy cũng gọi tên là Như-lai-đỉnh."
"Hàng hữu-học các ông chưa hết luân-hồi, phát-lòng
chí-thành tu chứng quả A-la-hán, nếu không trì-chú nầy, khi ngồi đạo-trường, mà
khiến thân tâm xa-rời được các ma-sự, thì không thể được.
A-nan, nếu trong các thế-giới, có những chúng-sinh, tùy cõi-nước
mình sinh ra, nào vỏ cây hóa, nào lá cây bối, nào giấy trắng, nào bạch-diệp,
dùng để viết-chép chú nầy, đựng trong túi thơm; nếu người đó tối-tăm chưa tụng,
chưa nhớ được, mà hoặc đeo trên mình, hoặc viết trong nhà ở, thì nên biết người
ấy, trọn đời tất-cả các thứ độc không thể hại được.
A-nan, nay tôi vì ông tuyên lại chú nầy, cứu-giúp trong thế gian
được đại-vô-úy và thành-tựu trí xuất-thế-gian cho chúng-sinh.
Nếu sau khi tôi diệt-độ rồi; chúng-sinh trong đời mạt-pháp, có
người biết tự mình tụng, hoặc dạy người khác tụng-chú nầy, nên biết những
chúng-sinh trì-tụng như vậy, lửa không đốt được, nước không đắm được, độc lớn,
độc nhỏ không thể hại được, cho đến các hàng thiên, long, quỷ, thần, tinh, kỳ,
ma, mị, có những chú-dữ, đều không làm gì được. Tâm người ấy được chính-thụ;
tất-cả chú-trớ, yểm-cổ, thuốc-độc, kim-độc, ngân-độc và độc-khí muôn vật như
cỏ, cây, sâu, rắn, vào miệng người ấy đều thành vị cam-lộ. Tất-cả ác-tinh với
các quỷ-thần, lòng dữ hại người, đối với người ấy, cũng không thể khởi ra
ác-niệm; Tần-na, Dạ-ca và các quỷ-vương dữ khác, cùng với quyến-thuộc, đều
lĩnh-ơn sâu, thường gìn-giữ ủng-hộ.
A-nan, nên biết chú nầy, thường có 84.000 na-do-tha hằng-hà-sa
câu-chi chủng-tộc Kim-cương-tạng-vương Bồ-tát, mỗi mỗi đều có những chúng
Kim-cương làm quyến-thuộc, ngày đêm theo hầu. Giả-sử có chúng-sinh, với tâm
tán-loạn, chứ không phải Tam-ma-đề, tâm nhớ niệm-trì chú nầy; thì các
Kim-cương-vương đó, cũng thường theo bên thiện-nam-tử kia, huống nữa, là những
người có tâm Bồ-đề quyết-định; đối với những người nầy, các vị
Kim-cương-tạng-vương Bồ-tát đó, dùng tịnh-tâm thầm xúc-tiến, phát-huy
thần-thức; người ấy liền khi đó, tâm nhớ lại được 84.000 hằng-ha-sa kiếp,
rõ-biết cùng khắp, được không nghi-hoặc. Từ kiếp thứ nhất cho đến thân
cuối-cùng, đời đời người ấy không sinh vào các loài dược-xoa, la-sát,
phú-đan-na, ca-tra-phú-đan-na, cưu-bàn-trà, tỳ-xá-già, vân vân..., cùng các
loài ngạ-quỷ, có hình, không hình, có tưởng, không tưởng và những chỗ dữ như
thế. Thiện-nam-tử đó, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc viết, hoặc chép, hoặc đeo, hoặc
giữ, hoặc cúng-dường nhiều cách chú nầy, thì kiếp kiếp không sinh vào những nơi
bần-cùng hạ-tiện, không thể ưa-thích.
Các chúng-sinh đó, dù cho chính mình không làm việc phúc, thập
phương Như-lai có các công-đức đều cho họ hết, do đó, họ được trong những kiếp
hằng-sa vô-số, không thể nói, không thể nói hết, thường cùng chư Phật đồng sinh
một chỗ; vô-lượng công-đức nhóm-lại như trái ác-xoa, đồng một chỗ huân-tu, hằng
không phân-tán. Vậy nên, có thể khiến người phá giới, mà giới-căn cũng được
thanh-tịnh; người chưa được giới, khiến cho được giới; người chưa tinh-tiến,
khiến cho tinh-tiến; người không trí-tuệ, khiến được trí-tuệ; người không thanh-tịnh,
mau được thanh-tịnh; người không giữ trai-giới, tự thành có trai-giới. A-nan,
thiện-nam-tử ấy, khi trì-chú nầy, giả-sử có phạm cấm-giới khi chưa thụ-trì, thì
sau khi trì-chú, các tội phá giới, không luận nặng nhẹ, một thời, đều
tiêu-diệt, dù đã uống rượu, ăn thứ ngũ tân và các thứ không sạch, tất-cả chư
Phật, Bồ-tát, Kim-cương, Thiên-tiên, Quỷ-thần không cho là có lỗi; dù mặc
y-phục rách-nát không sạch, thì một cái đi, một cái đứng, thảy đồng như
thanh-tịnh; dù không lập đàn, không vào đạo-trường, cũng không hành-đạo mà
tụng-trì chú nầy, thì công-đức cũng như vào đàn, hành-đạo, không có khác vậy;
dù gây những tội nặng ngũ-nghịch, vô-gián và phạm những tội tứ-khí, bát-khí của
tỷ-khưu và tỷ-khưu-ni, thì khi tụng-chú nầy rồi, cũng như gió mạnh thổi-tan
đống cát, những nghiệp nặng như vậy, đều diệt-trừ hết, không còn chút
mảy-may.
TỤNG TÂM-CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM
KHÔNG BAO LÂU CHỨNG ĐƯỢC VÔ-SANH
PHÁP-NHẪN
MẶC Ý LÀM VÔ BIÊN PHẬT SỰ
A-nan, nếu có chúng-sinh, từ vô-lượng vô-số kiếp đến nay, có
tất-cả những tội-chướng nhẹ, nặng mà trong các đời trước, chưa kịp sám-hối, nếu
biết đọc, tụng, viết, chép chú nầy, giữ đeo trên thân mình hay để nơi chỗ ở,
như trang, trạch, viên, quán, thì những nghiệp chứa-nhóm từ trước như vậy, đều
tiêu-tan như nước sôi tiêu tuyết, chẳng bao lâu, đều ngộ được vô-sinh-nhẫn.
"Lại nữa, A-nan, nếu có người đàn-bà chưa sinh con trai,
con gái, mong-cầu có thai, mà biết chí-tâm nhớ niệm-chú, hoặc ở trên mình đeo
chú Tất-đát-đa-bát-đát-ra nầy, thì liền sinh những con trai, con gái có phúc-đức
trí-tuệ; người cầu sống lâu, thì được sống lâu, người cầu quả-báo mau được
viên-mãn, thì mau được viên-mãn, cho đến về thân-mệnh, sắc-lực, thì cũng được
viên-mãn như vậy; sau khi mệnh-chung, tùy nguyện được vãng-sinh trong thập
phương quốc-độ, chắc-chắn không sinh nơi biên-địa hạ-tiện, huống nữa là các
tạp-hình.
"A-nan, nếu các cõi-nước, các châu, các huyện, các làng-xóm
bị nạn đói-kém, dịch-lệ, hoặc ở những nơi có đao-binh, tặc-nạn, đánh nhau, cãi
nhau và tất-cả những nơi có ách-nạn khác, viết thần-chú nầy, để trên bốn cửa
thành, cùng các tháp hay trên các thoát-xà và khiến chúng-sinh hiện có trong
cõi-nước, kính-rước chú nầy, lễ-bái cung-kính nhất-tâm cúng-dường, khiến trong
nhân-dân, mỗi mỗi người đeo chú trong mình, hoặc để nơi chỗ ở, thì tất-cả
tai-ách thảy đều tiêu-diệt. A-nan, chúng-sinh trong cõi-nước, chỗ nào, chỗ nào
có được chú nầy, thì thiên-long vui-mừng, mưa-gió thuận-thời, ngũ-cốc được mùa,
dân-chúng an-vui; lại có thể trấn được tất-cả ác-tinh, nó tùy nơi, biến ra
những điều quái-dị; tai-chướng không khởi lên, người không hoạnh-tử, chết-yểu,
gông-cùm, xiềng-xích không dính vào mình, ngày đêm ngủ yên, thường không
ác-mộng. A-nan, cõi Sa-bà nầy có 84.000 ác-tinh tai-biến, 28 đại-ác-tinh làm
thượng-thủ, lại có 8 đại-ác-tinh làm chủ, xuất-hiện trên đời với nhiều
hình-trạng, có thể sinh ra các tai-nạn dị-kỳ cho chúng-sinh; chỗ nào có chú
này, thì tất-cả đều tiêu-diệt, lấy 12 do-tuần làm vòng kết-giới, các tai-biến
hung-dữ, hẳn không thể vào được.
"Vậy nên Như-lai tuyên-dạy chú nầy, bảo-hộ cho những người
tu-hành sơ-học, trong đời vị-lai, vào Tam-ma-đề, thân tâm thư-thái, được
đại-an-ẩn, không còn tất-cả các ma, quỷ-thần, và những oan-khiên đời trước,
nghiệp cũ, nợ xưa, từ vô-thủy tới nay, đến khuấy-hại nhau. Ông với những người
hữu-học trong chúng và những kẻ tu-hành đời vị-lai, y như lời-dạy của tôi mà
lập đàn-trường, đúng theo pháp mà trì-giới, gặp được tăng-chúng thanh-tịnh
chủ-trì việc thụ-giới, đối với chú-tâm nầy, không sinh lòng nghi-hối; những
thiện-nam-tử như thế, chính nơi cái thân cha mẹ sinh ra, mà không được
tâm-thông, thì thập phương Như-lai bèn là vọng-ngữ".
CHƯ VỊ THIỆN-THẦN KHÔNG NHẬP NIẾT-BÀN
PHÁT-NGUYỆN BẢO-HỘ NGƯỜI TRÌ CHÚ
MAU THÀNH ĐẠO BỒ-ĐỀ
Phật dạy lời ấy rồi, vô-lượng trăm ngàn Kim-cương trong Hội, một
thời đứng trước Phật, chấp tay đỉnh-lễ mà bạch Phật rằng: "Như lời Phật
dạy, chúng tôi phải thành tâm bảo-hộ những người tu-đạo Bồ-đề như vậy".
Khi bấy giờ, Phạm-vương và Thiên-đế-thích, Tứ-thiên đại-vương
cũng ở trước Phật, đồng-thời đỉnh-lễ mà bạch Phật rằng: "Xét có người lành
tu-học như vậy, chúng tôi phải hết lòng chí-thành bảo-hộ, khiến cho trong một
đời, tu-hành được như nguyện".
Lại có, vô-lượng Đại-tướng-dược-xoa, các vua La-sát, vua Phú-đan-na,
vua Cưu-bàn-trà, vua Tỳ-xá-già, các Đại-quỷ-vương như Tần-na, Dạ-ca, và các
Quỷ-xoái, cũng ở trước Phật, chất tay đỉnh-lễ mà bạch Phật rằng: "Chúng
tôi cũng thệ-nguyện hộ-trì cho người đó, khiến cho tâm Bồ-đề mau được
viên-mãn".
Lại có, không lường Nhật, Nguyệt thiên-tử, Phong-sư, Vũ-sư,
Vân-sư, Lôi-sư cùng với Điện-bá và các Niên-tuế-tuần-quan, chư tinh và
quyến-thuộc, vân vân..., cùng ở trong Hội, đỉnh-lễ chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Chúng tôi bảo-hộ người tu-hành ấy, lập ra đạo-trường, được không
e-sợ".
Lại có, vô-lượng Sơn-thần, Hải-thần, tất-cả tinh-kỳ, đất-đai
muôn vật, thủy, lục, không, hành, với Phong-thần-vương và Chư-thiên
Vô-sắc-giới, ở trước Như-lai, đồng-thời cúi đầu bạch Phật rằng: "Chúng tôi
cũng bảo-hộ người tu-hành ấy, được thành Bồ-đề, hẳn không ma-sự".
Khi bấy giờ, 84.000 na-do-tha hằng-hà-sa Câu-chi
Kim-cương-tạng-vương Bồ-tát, ở trong đại Hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Thế-tôn, như bọn chúng tôi,
công-nghiệp tu-hành, đã thành đạo Bồ-đề lâu rồi, mà không nhận-lấy Niết-bàn,
thường theo chú nầy, cứu-giúp những người chân-chính tu-hành pháp Tam-ma-đề
trong đời mạt-pháp. Bạch Thế-tôn, những người tu-tâm vào chính định như thế, dù
ở đạo-trường, hay là những lúc kinh-hành, cho đến khi tán-tâm đi chơi trong
làng-xóm, đồ-chúng chúng tôi thường phải đi theo thị-vệ người ấy, dù cho
Ma-vương, Đại-tự-tại-thiên muốn được phương-tiện khuấy-phá, cũng không thể
được; các quỷ-thần nhỏ, phải cách xa người lành ấy, ngoài 10 do-tuần, trừ khi,
họ phát-tâm thích người tu-thiền. Bạch Thế-tôn, những ác-ma như thế, hay
quyến-thuộc của ma, muốn đến xâm-lấn khuấy-phá người lành ấy, chúng tôi dùng
bảo-xứ đập-nát cái đầu như vi-trần, thường khiến cho người ấy tu-hành được như
nguyện."
KHAI-THỊ NHỮNG THỨ-BẬC TU-CHỨNG
TRƯỚC SAU
Ông A-nan, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đỉnh-lễ nơi chân Phật mà
bạch Phật rằng: "Chúng tôi ngu-độn, ưa tuệ đa-văn, đối với các tâm
hữu-lậu, chưa cầu thoát-ly, nhờ Phật từ-bi dạy-bảo được lối huân-tu chân-chính,
thân tâm khoan-khoái, được lợi-ích lớn. Bạch Thế-tôn, những người tu-chứng pháp
Tam-ma-đề của Phật như thế, chưa đến Niết-bàn, thì thế nào gọi là Can-tuệ-địa, trong
44 tâm, đến thứ-bậc nào, mới được danh-mục tu-hành, đến phương-sở nào, mới gọi
là nhập-địa, thế nào, gọi là Đảng-giác Bồ-tát?" Nói lời ấy rồi,
năm vóc gieo xuống đất, trong đại-chúng đều nhất-tâm, chăm-chỉ mong-đợi từ-âm
của Phật.
Khi bấy giờ, đức Thế-tôn khen ông A-nan rằng: "Hay thay!
Hay thay! Các ông lại biết, vì cả đại-chúng và hết thảy chúng-sinh tu
Tam-ma-đề, cầu pháp Đại-thừa trong đời mạt-pháp, xin tôi chỉ trước đường
tu-hành vô-thượng chân-chính từ phàm-phu đến Đại-niết-bàn; nay ông hãy nghe cho
chín, tôi sẽ vì ông mà nói".
Ông A-nan và đại-chúng chấp tay sạch lòng, yên-lặng thụ-giáo.
LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ có 5 hội:
HỘI THỨ NHẤT
TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI
( VAIROCANA SATTHATA PATTRAIN )
Đây là “TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI”, có nghĩa: Những lời bí mật của 12 pháp môn đoạn dưới đều từ nơi PHÁP-THÂN hay TỲ LÔ CHÂN TÁNH LƯU LỘ RA.
HỘI THỨ HAI
THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI
( SAKYAMUNI SATATHA PRASASITA)
Đây là “THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI” hay LĂNG NGHIÊM GIÁO CHỦ HỘI, có nghĩa: Năm bộ Tam-Bảo trong thần chú gồm chư DƯỢC-XOA, THẦN-VƯƠNG, KIM-CANG MẬT-TÍCH, cho đến tất cả Pháp môn, đều do đức Phật Thích Ca và chư Phật THỊ HIỆN RA.
HỘI THỨ BA
QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI
(AVALOKITE SHVARAYA SUPARANA MAHA PAYUH PATTAYA)
Đây là “QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI”. Bốn môn trong đây đều là do đức Quán-Thế-Âm trên đồng dưới hiệp, VIÊN-THÔNG TU CHỨNG chẳng thể nghĩ bàn, đức mầu VÔ-TÁC thành tựu một cách tự-tại.
HỘI THỨ TƯ
KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI
(VAJRA PANIYA SATTATHA PATTRA)
Đây là “KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI”, do HỎA-THỦ-KIM-CANG BỒ-TÁT KHAI HIỂN, nên chư Kim-Cang-Tạng-Vương sau khi nghe niệm chú, đều dùng sắc lịnh để hộ vệ, đối với kẻ ác thì chiết phục, với kẻ thiện thì nhiếp thâu.
Chư Kim-Cang Mật-Tích cũng đều hiện phần bản tích ứng hóa của mình.
HỘI THỨ NĂM
VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI
(MANJUSRI SATTVA SITATA PATTRAI)
Đây là “VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI”. Đức Văn-Thù hay Mạn-Thù-Thất-Lỵ sau khi lãnh chú đến che chở hộ trì rồi thay đại chúng thưa hỏi pháp môn tu. Nếu chẳng phải là bậc đại trí đức thì không thể thông hiểu và hoằng truyền pháp môn nầy.
Năm hội trên tượng trưng cho NGŨ-TRÍ ĐẢNH của Tỳ Lô Giá Na. Hiệp cả năm hội lại gọi chung là PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ CỨU CÁNH KIÊN CỐ ĐẠI BẠCH TÁN CÁI THẦN CHÚ.
(VSNISA JVALA SURAM GAMA MAHA SITATA PATTRAM)
(Hòa Thượng Thích THIỀN-TÂM)
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ là trên ĐẢNH PHẬT phóng ra 10 đạo hòa QUANG bách bảo và TỤ lại trên ĐẢNH CHÚNG-SANH trong Pháp Giới, khi tụng Thần Chú Thủ-Lăng Nghiêm.
Đây là Hóa Thân Phật dùng THẦN CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM để “ẤN-TÂM” cho Qúy-vị sẽ thành Phật trong vị lai.
ĐẠI (Lớn) là “THỂ” của Chú Lăng Nghiêm, không đối đãi phân biệt, biến khắp tận cùng hư không pháp giới, nên gọi là MA HA.
BẠCH (Trắng) là “TƯỚNG” của Chú Lăng-Nghiêm, thanh tịnh không ô nhiễm, nên gọi là TÁT ĐÁT ĐA.
TÁN CÁI (Tàng Lọng) là “DỤNG” của Chú Lăng Nghiêm, có khả năng che chở, bảo hộ, TRUỞNG DƯỠNG THIỆN CĂN, TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG TRONG VÔ LƯỢNG KIẾP, KHÔNG TRẢI QUA 3 A-TĂNG KỲ, MÀ QÚY VỊ CŨNG CHỨNG ĐƯỢC PHÁP THÂN, nên gọi là BÁT ĐÁT RA.
CỨU CÁNH KIÊN CỐ là THỦ LĂNG NGHIÊM ĐẠI ĐỊNH, định này là VUA trong các định.
THẦN là thần diệu linh thông, khó mà suy lường được.
CHÚ là khi qúy vị TỤNG , thì có công năng PHÁ TÀ LẬP CHÁNH, tiêu trừ nghiệp ác, phát sanh phước đức căn lành.
TRÊN ĐẢNH CỦA PHẬT TỲ LÔ GIÁ NA (PHẬT PHÁP-THÂN) LƯU LỘ RA NGŨ-TRÍ. CHO NÊN, GỌI LÀ “NGŨ-TRÍ” ĐẢNH CỦA TỲ -LÔ-GIÁ-NA.
Comments
Post a Comment