TÔNG CẢNH LỤC
QUYỂN 6
Mục
đích của Tông Cảnh là nói về đạo lý này, dù trình bày đầy đủ văn nghĩa cũng là vì phổ cập mọi căn cơ,
chỉ có một đường
lối duy nhất không có ý chỉ nào khác. Thiết nghĩ không thể nương
theo văn tự
mà đánh mất
tông chỉ
kia, nếu người
ngộ đạo lý này thì đáng được
truyền thừa. Có người
hỏi hòa thượng
Nam Tuyền37: Nơi
pháp hội Hoàng Mai có năm trăm người,
vì sao chỉ
có một mình Lư
hành giả
(Huệ Năng)38 được truyền y bát? Sư
đáp: Chỉ
vì bốn trăm chín mươi
chín người kia đều hiểu Phật pháp, chỉ có một mình Lư
hành giả
không hiểu
Phật pháp, chỉ lĩnh hội đạo lý này nên được
truyền y bát.
Đáp: Như Đức Bổn Sư
nói: Như Lai tại đạo tràng đắc pháp, pháp ấy là phi pháp, cũng là phi
phi pháp. Ta đối
với pháp này, trí không thể biết, mắt không thể thấy, không có hành xứ, tuệ không thông được,
minh cũng không rõ được. Hỏi không thì đáp có.
Lại
cổ nhân nói: Việc này dường
như không mà chẳng không, dường
như có mà chẳng có, ẩn ẩn thường
thấy, chỉ là tìm nơi
chốn của nó không thể được.
Vì thế, nếu quyết định là không thì trở thành đoạn kiến; nếu cho là thực có thì rơi
vào thường kiến. Nếu có nơi
chốn thì trở thành cảnh kia. Cho nên biết rằng việc này tâm không thể so lường,
trí không thể
biết được.
Hòa thượng Hương
Nghiêm39 có bài tụng:
Suy tính trước sau
Chấp vào khoảng giữa
Chẳng được một pháp
Chìm đắm vực sâu
Đều chẳng như thế
Ta ta hiện tiền
Người học mười phương
Làm sao tham thiền?
Nếu
nói như thế há có thể lĩnh hội chăng? Do đó người
xưa nói: Cần phải diệu hội mới được,
đây là hội
cái chẳng hội (biết cái chẳng biết) là khế hợp nhiệm mầu sâu kín bên trong. Cho
nên bài tụng
ngộ đạo của các Thánh thời trước
nói:
Tâm có không, đến đi đều dứt bặt
Trong, ngoài, khoảng giữa thấy đều không
Muốn thấy chỗ chân Phật Như Lai
Chỉ thấy dê đá sinh ngựa tơ.
Như thế sau khi đạt đến chỗ huyền diệu thì đạo cũng chẳng còn đâu còn bàn luận về tri giải, vọng tưởng
về hội hay chẳng hội!
Cổ
đức có bài kệ:
Khuyên anh học đạo chớ tham cầu
Muôn việc vô tâm hợp đạo mầu
Vô tâm mới chứng vô tâm đạo
Thể đắc vô tâm đạo cũng thôi.
Hòa thượng Động Sơn40 nói kệ:
Cái ấy còn chẳng phải
Huống Trương Tam, Lý Tứ
Chân không và phi không
Sẽ chẳng như nhau đâu
Rõ ràng như trước mắt
Chẳng cho chút nghĩ suy
Cái ấy còn chẳng phải
Huống chi cái gì khác,
Nhưng kẻ ngu hiểu sai.
Do đó kinh nói: “Tâm chẳng ràng buộc, đạo
cũng chẳng
kết nghiệp”. Đạo còn chẳng ràng buộc, theo đây có thể biết, vào trong Tông Cảnh tự nhiên thầm hợp.
Hỏi: Giác thể không dời đổi, giả danh có khác. Phàm Thánh bình
đẳng, sao chúng sinh chẳng giác tri? Nếu nói chẳng mê thì sao trong kinh
giáo nói có mê ngộ.
Đáp: Chỉ
nhân bản giác chân tâm mà khởi bất giác, do bất giác nên thành thỉ giác như
nhân đất mà ngã, nhân phương(hướng)
nên mê (lầm)
thì phải từ đất đứng lên, do phương
nên ngộ (tỉnh). Như
vậy lúc giác tuy ngộ, chỗ ngộ thường
không; bất
giác như mê, lúc mê vốn tịch. Thế nên mê ngộ một thuở tình tưởng
tự phân. Vì có tâm hư
vọng, nên ban cho thuốc hư
vọng.
Trong kinh Phật dạy
ta nói tam thừa
mười hai phần giáo như
nắm tay không gạt trẻ nít. Việc không biết này gọi là vô minh.
Tổ
sư nói kệ:
Tất cả pháp Như Lai,
Hay trừ tất cả tâm.
Ta không tất cả tâm,
Đâu cần tất cả pháp.
Cho nên phải biết nếu mắt của
chính mình khai mở, chân minh tự phát,
bệnh thấy mê
ngộ đã được trị hết thì
thuốc pháp quyền thật tự dẹp bỏ.
Tỏ ngộ pháp
này không nhờ trí của người khác
cùng thuật gì khác. Có người thấy ngay
như mở kho
tàng lấy vật báu,
như mổ con
trai lấy hạt ngọc, ánh
sáng phát từ bên trong, bóng trùm pháp giới. Bài
tụng trong kinh nói:
Như người được kho báu
Trọn đời lìa nghèo khổ
Bồ-tát được Phật pháp
Lìa cấu, tâm
thanh tịnh.
Nếu người chẳng tỏ ngộ thì tự sinh
chướng ngại. Luận
Thông Tâm nói: “Chân thường không biến đổi, còn
sinh diệt thì tự dời đổi; chí
lý viên thông, chấp vào khuôn khổ mà đến nỗi cách
xa. Đây đều là mê tự tính,
chỉ cậy
thông minh mà cần phải
chính con mắt mình tròn sáng không để người khác
xoay chuyển”.
Như Dung đại sư làm bài tụng:
Chó mù sủa bụi cỏ
Người đui la cọp dữ
Chạy theo
tiếng nên mê
Bởi vì mắt không thấy.
Nếu lúc
tâm khai mở chiếu soi
đạo lý, các kiến chấp đều dứt bặt, chẳng thấy Phật pháp
là phải, chẳng thấy thế pháp
là trái, vì ở trong tự tính
ngôn ngữ, suy tư đều dứt sạch.Như nói “vô sở thị” là bồ-đề, cũng
không nên đặt bồ-đề của Phật bên
“hữu sở thị”. Nay
không cần đặt để gì cả, thể nó tự hư huyền, như bình báu lưu ly dù đặt ở đâu
cũng không mất tính chất của nó.
Nếu biết việc này
thì mặc cho các bóng sắc đẹp xấu của phàm
Thánh hiện trong ấy mà
tính kia vẫn chẳng động; người
không biết liền theo
hình sắc trước mắt biến đổi phân
biệt đẹp xấu rồi sinh
ưa chán. Do đó Tổsư nói: ‘Theo dòng nhận được
tính, chẳng mừng
cũng chẳng lo’.
Luận Khởi Tín nói: ‘Tâm
sinh diệt môn nghĩa là nương Như Lai tạng có
tâm sinh diệt chuyển, chẳng
sinh diệt cùng với sinh
diệt hòa hợp chẳng phải một chẳng phải
khác, gọi là A-lại-da
thức’. Có hai nghĩa: Hay bao gồm tất các
pháp (năng nhiếp), hay sinh tất cả pháp
(năng sinh). Lại có hai nghĩa: 1- nghĩa giác. 2- nghĩa bất
giác. Giác nghĩa là tính của tâm
đệ nhất
nghĩa, lìa tất cả tướng vọng niệm. Vì
lìa tất cả tướng vọng niệm nên
trùm khắp hư không pháp giới, nhất tướng
pháp giới tức là
pháp thân bình đẳng của tất cả Như Lai. Nương nơi pháp thân này nói tất cả Như Lai là bản
giác, do đối với thỉ giác
lập thành bản
giác, nhưng lúc
thỉ giác tức là bản
giác, không riêng khởi giác. Lập thỉ giác
nghĩa là nương bản giác
có bất giác, nương bất giác
nên nói có thỉ giác. Lại vì
giác tâm nguyên nên gọi là cứu cánh
giác, bất giác tâm nguyên nên chẳng phải là cứu cánh
giác; cho đến vì có tâm vọng tưởng cho
nên hay biết rõ danh nghĩa là nói chân giác. Nếu
không có tâm bất giác thì không có tự tướng của chân
giác để nói”.
Sớ thích nói:
Nếu theo nhiễm,
theo dòng thành ra bất giác, đó là thuộc pháp
thế gian. Nếu bản giác
bất biến cùng
với thỉ giác
nghịch dòng là thuộc pháp
xuất thế gian.
Sao giải: Nói
về sự “nhiếp
pháp” trong hai thứ giác: thỉ giác
và bản giác. Nếu thuộc bản giác
tức là nghĩa đại trí
tuệ quang minh, là nghĩa soi khắp pháp
giới, là nghĩa chân thật thức tri
v.v... Nếu thuộc thỉ giác,
tức là tam minh, bát giải
thoát, ngũ nhãn, lục thần
thông, thập lực, tứ vô
úy, thập bát bất cộng
pháp v.v... Nhưng dù
nghĩa và lời có khác thật ra
cũng như nhau.
Cho nên Sớ nói trong môn sinh diệt lưu chuyển bất giác, nghịch dòng thỉ giác. Đối với nghĩa dụng thì nhiếp pháp không đồng. Trong chân như
môn thì dung dung hàm nhiếp nhiễm
tịnh chẳng khác, nghĩa là đem lý nhất chân như
để dung thông khiến cho nhiễm là chẳng phải nhiễm, tịnh chẳng phải tịnh, tức nhiễm tức tịnh sâu xa làm thành nhất vị nên không khác.
Như luận nói: Tất cả các pháp vốn lìa tướng
nói năng, lìa tướng danh tự, lìa tướng
tâm duyên, tuyệt
đối bình đẳng, không biến đổi, không thể phá hoại, chỉ là nhất tâm nên gọi chân như.
Nên biết rằng tùy theo duyên giác hoặc bất giác dường
như sinh nhiễm tịnh duyên sinh vô tính nên
nhiễm tịnh đều không thật.
Lại
nói: “Lìa tướng ngôn thuyết đâu có thể nói bàn được;
lìa tướng tâm duyên làm sao có thể đem tâm suy lường”,
nghĩa là tâm tư và lời nói đều dứt, chỉ chứng mới tương
ưng!
Ngôn thuyết của
phàm phu từ
giác quán sinh, là cộng
tướng hòa hợp rồi khởi phân biệt; do ý thức sinh, là từ suy tính so lường
mà khởi. Nói tóm lại, đều do bất giác, giác quán theo đó
sinh. Nếu
không có tâm bất
giác, tất
cả các pháp đều không có tự tướng
để nói, trừ bỏ môn phương
tiện mà vì muốn khai thị đạo cứu cánh hướng
đến vô ngôn.
Do đó luận
nói: “Nếu
lìa tâm bất
giác thì không có tự
tướng chân giác để nói, bởi vì giác là đối đãi với bất giác mà nói, cùng chuyển đổi nhau. Nếu không có bất giác, giác không có tự tướng,
như một bàn tay không vỗ nên tiếng”. Từ điều này suy nghĩ chúng ta mới thấy cho đến các pháp nhiễm tịnh cũng như
thế đều do đối đãi mà có, không có tự thể. Như
lìa dài đâu có ngắn,
lìa cao đâu có thấp.
Nếu vào trong Tông Cảnh tự nhiên dứt bặt đối đãi.
Trong Sao hỏi: Sinh diệt, chân như đều nhiếp các pháp, chẳng biết nghĩa nhiếp này giống nhau hay khác nhau?
Đáp: Khác nhau. Vì sao trong môn sinh diệt gọi là cai nhiếp (bao gồm), trong môn chân như
gọi là dung nhiếp? Vì cai nhiếp nên nhiễm tịnh đều có, vì dung nhiếp nên nhiễm tịnh đều mất; đều mất nên một vị chẳng phân, đều có nên rõ ràng sai biệt.
Luận Ma-ha-diễn nói: “Hai thứ giác có hai môn: 1- Nói sơ
lược bản giác an lập môn. 2- Nói sơ
lược thỉ giác an lập môn”.
Trong môn bản giác có hai môn: Một là thanh tịnh bản
giác môn, hai là nhiễm
tịnh bản giác môn. Trong môn thỉ giác cũng có hai môn: Một là thanh tịnh thỉ giác môn, hai là nhiễm tịnh thỉ giác môn.
Thế
nào là thanh tịnh
bản giác? Pháp thân sẵn có từ vô thỉ đến nay đầy đủ viên mãn Hằng sa đức vì thường
sáng sạch.
Thế
nào là nhiễm
tịnh bản giác? Tự tính thanh tịnh tâm bị vô minh huân, lưu
chuyển sinh tử không dứt.
Thế
nào là thanh tịnh
thỉ giác? Tính trí vô lậu ra khỏi tất cả vô lượng
vô minh vì không bị
vô minh huân.
Thế
nào gọi là nhiễm tịnh thỉ giác? Vì bát-nhã bị vô minh huân không thể lìa.
Các thứ
giác này đều
là quyến thuộc của trí, phải chứng lý gì để làm thể phần, nghĩa là tính chân như
và lý hư không. Hai lý này mỗi lý có hai loại: Thế nào là hai thứ chân như?
Một là thanh tịnh chân như,
hai là nhiễm
tịnh chân như.
Lý hư không cũng như
vậy.
Thế
nào là thanh tịnh
chân như? Vì hai thứ tịnh giác chỗ chứng chân như
lìa huân tập.
Thế
nào là nhiễm
tịnh chân như?
Vì hai thứ
nhiễm tịnh giác chứng chân như
chẳng lìa huân tập. Lý hư
không cũng như vậy. Do nghĩa gì mà miễn cưỡng
gọi là bản giác sai biệt tướng
nó như thế nào?
Tụng
nói:Bản giác đều riêng có mười,
thể tuy đồng, trên tự sự mỗi mỗi sai biệt, đó là các nghĩa căn,
minh v.v...
Luận
nói: Bản giác có mười.
Thế nào
là mười bản? Một là
căn tự sự bản pháp
thân sẵn có, hay khéo gìn giữ tất cả công
đức, ví như rễ cây
khéo giữ gìn tất cả cành
lá và hoa trái không hoại, không mất. Hai
là bản tự sự bản pháp
thân sẵn có, vì từ vô thỉ đến nay tính
tự nhiên có, không phải mới khởi. Ba
là viễn tự sự bản pháp
thân sẵn có, vì khi đủ đức thì
trùng trùng lâu xa không phân giới hạn. Bốn là tự tự sự bản pháp
thân sẵn có, vì ta tự làm
thành ta vì chẳng phải người khác
làm thành ta. Năm là thể tự sự bản pháp
thân sẵn có vì làm chỗ nương tựa cho
các diệu đức. Sáu
là tính tự sự bản pháp
thân sẵn có, vì nghĩa bất chuyển thường kiến lập. Bảy là
trụ tự sự bản pháp
thân sẵn có, vì trụ nơi vô trụ không
đến đi. Tám là thường tự sự bản pháp
thân sẵn có, vì thật tế quyết định
không lưu chuyển.
Chín là kiên tự sự bản pháp
thân sẵn có, vì xa lìa tướng gió
nên vững chắc bất động như kim cương. Mười là tổng tự sự bản pháp
thân sẵn có, vì nó rộng lớn tròn
đầy khắp tất cả nên
thông thể.
Thế nào
là mười
giác? 1- Cảnh tự sự giác,
vì trí tuệ bát-nhã thanh tịnh
sáng suốt không trần lụy. 2-
Khai tự sự giác,
vì trí tuệ bát-nhã thông đạt biết suốt
không chướng ngại. 3-
Nhất tự sự giác,
vì trí tuệ bát-nhã độc tôn,
độc nhất,
không thể so sánh được. 4-
Ly tự sự giác,
vì trí tuệ bát-nhã tự tính
giải thoát, xa lìa tất cả ràng
buộc. 5- Mãn tự sự giác,
vì trí tuệ bát-nhã tự có đầy đủ vô lượng
công đức. 6- Chiếu tự sự giác,
vì trí tuệ bát-nhã phóng đại
quang minh khắp vô lượng cảnh. 7-
Sát tự sự giác,
vì trí tuệ bát-nhã thường hằng
sáng suốt, không mê loạn. 8-
Hiển tự sự
giác,vì trong thể thanh tịnh của trí
tuệ bát-nhã các quyến thuộc tịnh phẩm đều có mặt. 9-
Tri tự sự giác,
vì trí tuệ bát-nhã biết tận cùng
tất cả pháp.
10- Giác tự sự giác,
vì trí tuệ bát-nhã có công đức chỉ giác
chiếu, không pháp nào mà không giác. Ý nghĩa
văn tự của mười thứ bản giác
như thế chỉ căn cứ vào một loại bản tính
pháp thân, tùy theo nghĩa mà giải
thích khác nhau chỉ có tự thể không
khác mà thôi. Hai thứ bản giác
được nói
đến ở đây,
bản giác nào là bản giác
thanh tịnh, chẳng phải bản giác
nhiễm tịnh.
Nghĩa của bản giác
nhiễm tịnh sai
biệt tướng nó ra sao?
Tụng rằng:
Trong bản giác
nhiễm tịnh
Hoặc đều có mười nghĩa
Trước nói trong mười việc
Vì đều có
tính lìa.
Luận nói:
Trong bản giác này, đều
riêng có mười. Vì sao?
Trong mười
nghĩa trước đều có
cái nghĩa chẳng giữ tự tính,
tự sự phối họp thuộc ‘y hướng’ cần phải biết. Như vậy hai
thứ giác này là đồng hay
khác, vì chẳng đồng nên
đồng, vì chẳng
khác nên khác. Do nghĩa này nên hoặc đồng hoặc khác
hoặc chẳng phải đồng chẳng phải
khác, cho nên đều là phải và
chẳng phải mà thôi.
Do nghĩa gì gượng gọi là thỉ giác,
tự sự sai
biệt tướng nó như thế nào?
Tụng:
Từ vô thỉ đến nay
Lúc không có hoặc loạn
Ngày nay mới tỉnh giác
Nên gọi là
thỉ giác.
Luận nói:
Từ vô thỉ đến nay
lúc thỉ giác bát-nhã không có hoặc loạn,
ngày nay vừa mới giác
nên gọi thỉ giác;
như vậy thỉ giác
trước hoặc loạn sau
thì giác ấy chẳng phải là
thỉ giác. Và lúc không có hoặc loạn lý
thường hiện, nay
thường mới bắt đầu nên
là thỉ giác. Thỉ giác
như thế,
trong hai thỉ giác phải là
thỉ giác nào? Thanh tịnh
giác hay phi nhiễm tịnh
giác? Nhiễm tịnh thỉ giác,
tự sự sai
biệt tướng nó như thế nào?
Tụng:
Trí thỉ giác
thanh tịnh
Vì chẳng giữ tự tính
Mà hay chịu nhiễm huân
Nên gọi nhiễm tịnh
giác.
Tuy lúc không mê nhưng vì không giữ tự tính
nên hay chịu nhiễm huân
tùy duyên lưu chuyển, do
nghĩa này nên gọi là nhiễm tịnh thỉ giác.
Do nghĩa gì gượng gọi là
chân như? Tự sự sai
biệt tướng nó như thế nào?
Tụng:
Tính chân như lý thể
Bình đẳng
bình đẳng nhất
Vì không có nhiều tướng
Nên gọi là
chân như.
Luận nói:
Tính chân như, lý
bình đẳng bình đẳng,
tuy đồng một tướng,
cũng không một tướng cũng không có nhiều tướng. Vì
không một tướng cho nên xa lìa đồng
duyên; vì không có nhiều tướng cho nên xa lìa dị
duyên. Do nghĩa này nên gọi là
chân như. Như thế chân
như này
là chỗ hai thứ tịnh trí
đích thân nội chứng. Lại nữa,
chân như có mười
nghĩa. Thế nào là mười
chân? Một là căn tự sự chân,
cho đến thứ mười là tổng tự sự chân.
Như thế mười chân
cùng mười bản
nghĩa tương ưng đều có,
không xa lìa nhau, cho nên đồng
danh biểu thị mà
thôi. Thế nào là thập như? Một là cảnh tự sự như, cho đến thứ mười là
giác tự sự như. Như vậy mười như cùng nghĩa giác tương ưng đều có,
không xa lìa nhau cho nên đồng
danh biểu thị mà
thôi. Vì sao? Vì mười thứ chân
lý pháp thân có đức phương tiện; thập chân
như lý
trí tuệ bát-nhã có giác phương tiện, do
nghĩa này nên có ngôn từ biểu thị như vậy. Trong
hai thứ chân như, phải là
chân như nào?
Là thanh tịnh chân như hay phi nhiễm tịnh
chân như? Nhiễm tịnh
chân như, tự sự sai
biệt tướng nó như thế nào?
Tụng:
Lý chân như thanh tịnh
Vì chẳng giữ tự tính
Mà hay chịu nhiễm huân
Là nhiễm tịnh chân như.
Luận nói:
Chân như thanh
tịnh từ vô thỉ đến nay
tự tính thanh tịnh
bình đẳng, chẳng
sinh, chẳng diệt, chẳng đến, chẳng đi,
cũng không chỗ trụ nhưng vì lý tính chân như chẳng giữ tự tính
tùy duyên động chuyển cho
nên gọi là nhiễm tịnh
chân như. Như thế chân
như này
là chỗ hai trí nhiễm tịnh
đích thân nội chứng, tương ưng cùng có, không xa lìa nhau. Những
nghĩa này đã nói rồi, chỉ cần so
sánh liền biết.
Do nghĩa gì gượng gọi là hư không? Tự sự sai
biệt tướng ấy thế nào?
Hư không
có mười
nghĩa, thể tuy đồng nhưng sự nghĩa
đều riêng sai biệt, như vô ngại
v.v...
Luận nói:
Tính hư
không, lý có mười
nghĩa:
1- Nghĩa không chướng ngại, vì ở trong
các sắc pháp không chướng ngại.
2- Nghĩa trùm khắp, vì
không nơi nào
mà không đến được.
3- Nghĩa bình đẳng, vì
không có lựa chọn.
4- Nghĩa rộng lớn, vì
không có giới hạn.
5- Nghĩa vô tướng, vì
bặt các sắc tướng.
6- Nghĩa thanh tịnh, vì
không có trần lụy.
7- Nghĩa bất động, vì
không có thành hoại.
8- Nghĩa hữu
không, vì dứt hữu lượng.
9- Nghĩa không không, vì lìa chấp trước
“không”.
10- Nghĩa vô đắc, vì
chẳng thể chấp thủ.
Mười sự nghĩa
này có dụng khác nhau nhưng căn cứ trên
thể thì không khác. Lý hư không này là chỗ của hai
thứ tịnh trí
đích thân nội chứng, tương ưng cùng có, không xa lìa nhau.
Trong hai thứ hư không, phải là hư không nào ? Thanh tịnh hư không hay là phi nhiễm tịnh hư không? Nhiễm tịnh hư không, tự sự sai
biệt, tướng nó thế nào?
Tụng:
Lý hư
không thanh tịnh
Do chẳng giữ tự tính
Nên hay chịu
huân tập
Là nhiễm tịnh hư
không.
Luận nói: Thanh tịnh
hư không có đầy đủ mười đức
cũng không có tướng
nhiễm,
cũng không có tướng
tịnh
nhưng vì tính hư không chẳng
giữ tự
tính nên hay chịu nhiễm tịnh
huân tùy duyên lưu
chuyển,
do đó gọi
là nhiễm tịnh
hư không.
Khởi
Tín Luận Sớ
nói: “Bản
giác là vì đối với
thỉ
giác nên nói là bản giác. Nói ly niệm
là lìa vọng
niệm
hiển
bày tính giác. Đẳng hư không đẳng
nghĩa là không phải không có sự mờ tối của bất
giác, mà còn có nghĩa của ánh sáng đại
trí tuệ
v.v...”.
Hư
không có hai nghĩa để so sánh với bản
giác. Một là
nghĩa chu biến, nghĩa là ngang khắp
ba thời,
dọc
thông phàm Thánh nên nói là trùm khắp.
Hai là nghĩa vô sai biệt, nghĩa là dù tại
triền
hay ra khỏi chướng, tính hằng
không hai nên pháp giới nhất tướng.
Muốn
biết
rõ nghĩa giác tướng
xuất
triền
hiển
bày nên nói tức là pháp thân Như Lai bình đẳng.
Giác ngộ
pháp thân lý ấy chẳng
phải mới
thành cho nên nói y vào pháp thân này gọi
là bản
giác.
Luận
Vô Tính Nhiếp nói: ‘Trí vô cấu
vô quái ngại được gọi là
pháp thân”.
Kinh
Kim Quang Minh gọi đại
viên cảnh
trí là pháp thân, cũng là nghĩa này vậy.
Vì sao? Xét lại chỗ lập
danh có hai ý trách: 1- Trong chương mở đầu
nói thẳng
nghĩa giác, tại sao bây giờ kết
luận gọi
là bản
giác. 2- Ở trong đây đã gọi
là bản
giác, vì sao trong luận lại
nói thẳng
là giác, đây là trách tiến thoái vậy.
Giải thích: Vì đối với
thỉ
nên gọi
là bản,
đây là đáp cho ý ban đầu. Do thỉ đồng
với bản,
cho đến
lúc tâm nguyên thỉ giác đồng
với bản
giác, vì không có hai tướng,
do đó trong luận chỉ
nói ‘giác’, thôi, đây là đáp cho ý sau. Vì bản
giác theo nhiễm sinh ra thỉ
giác, trở lại đối
đãi với
thỉ
giác mới gọi
là bản
giác. Nhưng thỉ
giác này là chỗ thành tựu của bản
giác, trở lại
khế hợp với
tâm nguyên, hàm chứa cùng một
thể, mới gọi
là thỉ
giác, nên nói thỉ giác đồng
với bản
giác.
Hỏi: Nếu
thỉ
giác khác với bản
giác thì không thành thỉ giác; nếu
thỉ đồng
với bản
thì không có sự khác biệt với
thỉ
giác, làm sao nói là đối với
thỉ
nên gọi
là bản?
Đáp: Nay trong môn sinh diệt,
căn cứ
vào nghĩa tùy nhiễm, biểu lộ bất
giác bản
giác nên nói về thỉ
giác; thật
ra thỉ
giác lúc đến tâm nguyên thì duyên nhiễm
đã hết
thì thỉ bản
không khác, bình đẳng tuyệt
ngôn tức
là nhiếp về
môn chân như,vì
thế
tên gọi của bản
giác trong môn sinh diệt không phải
trong môn chân như.
Thỉ
giác thứ
hai là tên trùng lặp, nương theo bản
giác có cái bất giác, nói rõ nguyên do khởi
thỉ
giác nghĩa là tâm thể này theo vô minh vọng
động
khởi
ra vọng
niệm,
nhưng do sức
huân tập
bên trong của bản
giác nên dần dần
có chút tỉnh giác biết
nhàm chán sự mong cầu
cho đến
cuối
cùng trở về đồng
với bản
giác cho nên nói là y bản giác. Thế
nên y bản
giác có bất giác, y bất
giác có thỉ giác. Luận
nói: Bản
giác theo nhiễm sinh ra trí tịnh
tướng,
đây là thỉ giác.
Đại ý trong đây là “minh” bản
giác thành bất giác, bất
giác thành thỉ giác, thỉ
giác đồng
bản
giác; vì đồng bản
giác nên không gì chẳng giác. Vì không bất
giác nên không bản giác; vì không bản
giác nên bình đẳng, bình đẳng
lìa ngôn ngữ, bặt
nghĩ suy. Thế nên Phật
quả
viên dung, vắng lặng
không nương gá; đã không có sự
sai khác giữa thỉ
giác và bản giác huống
chi là sự
khác biệt
giữa
ba thứ
thân. Chỉ
tùy vật
tâm hiện
cho nên nói đến cái dụng
của
báo (thân) và hóa (thân).
Lại nay căn cứ
chân như là bản
giác, vô minh là bất giác. Chân như có hai nghĩa: 1- Bất
biến.
2- Tùy duyên. Vô minh cũng có hai nghĩa: 1- Vô thể tức
là không. 2-Hữu dụng
thành sự.
Tùy duyên chân như và
thành sự vô
minh này mỗi thứ đều
có hai nghĩa: 1- Vi tự thuận
tha. 2- Vi tha thuận tự.
Trong vô minh, vi tự
thuận
tha có hai nghĩa: 1 - Phản đối sự tỏ
bày tính đức. 2- Biết
danh nghĩa mà thành tịnh dụng.
Vi tha thuận tự
cũng có hai nghĩa: 1- Che lấp chân lý. 2- Thành lập vọng
tâm.
Trong chân như, vi
tha thuận tự có
hai nghĩa: 1- Xoay vọng nhiễm để hiển tự đức.
2- Nội
huân vô minh khởi tịnh
dụng.
Vi tự thuận tha cũng có hai nghĩa: 1- Ẩn tự
chân thể.
2- Hiển hiện vọng
pháp.
Do nghĩa phản đối sự tỏ
bày tính đức trong vô minh và nghĩa xoay vọng
để hiển đức
trong chân như, từ
hai nghĩa này có được bản
giác. Lại
do nghĩa biết danh nghĩa trong vô minh và nghĩa nội
huân trong chân như, từ
hai nghĩa này có được
thỉ giác.
Lại
do nghĩa che lấp chân lý trong vô minh và nghĩa ẩn
thể
trong chân như
nên có được
căn bản bất
giác. Lại
do nghĩa thành vọng ở
trong vô minh và nghĩa hiện vọng ở
trong chân như
nên có chi mạt bất
giác. Nói tóm lại, giác và bất
giác nếu
dung hợp tổng
nhiếp
chỉ nằm
trong một
môn sinh diệt. Môn chân như là nói trên thể
tuyệt tướng,
môn bản
giác là nói trên mặt tính đức.
Đại
trí tuệ
quang minh đồng nghĩa với
giác; bản
là nghĩa của tính, giác là tâm trí tuệ.
Sao
thích nói: Bất biến
trong chân và thể không trong vọng
tạo
thành môn chân như;
tùy duyên trong chân và thành sự trong vọng
tạo
thành môn sinh diệt; cho đến tất cả tịnh
duyên giới hạn
pháp tướng
đều
thuộc về
hai thứ
giác, tất cả
nhiễm
duyên giới hạn
pháp tướng
thuộc về
hai thứ bất
giác. Lại
thể của tịnh
pháp thuộc về bản
giác, dụng
của tịnh
pháp thuộc về thỉ
giác. Thể của
nhiễm
pháp thuộc về
căn bản bất
giác, tướng
của
nhiễm
pháp thuộc về
chi mạt bất
giác. Lại
thỉ
giác là ngọn chẳng
lìa gốc của bản
giác.
Luận nói: Thỉ
giác tức đồng
bản
giác. Lại
nói. Thật
ra không có sự khác biệt của
thỉ
giác, vì bình đẳng đồng
một
thứ
giác; chi mạt bất
giác chẳng
lìa căn bản bất
giác.
Luận nói: Nên biết
vô minh hay sinh tất cả
nhiễm
pháp, bởi
vì tất cả
nhiễm
pháp đều
là tướng
bất
giác. Nhưng hai thứ
giác này chỉ là thể dụng
sai khác. Hai thứ bất
giác bản,
mạt
chỉ
khác nhau ở chỗ
thô và tế;
đâu có thể lìa thể có
dụng,
lìa tế có
thô?
Cái mê căn bản của
chúng sinh có hai: 1- Mê pháp nghĩa
là vô minh trụ địa
mê mờ
che lấp
pháp thể.
Pháp đó là tâm chúng sinh gọi là tế ý
(ý che lấp),
bởi
vì vô minh này là gốc của vọng
hoặc,
là cái ban đầu của
mê chân. 2- Mê nghĩa thông tứ trụ hoặc,
do sự
ngu si trước
cho nên mê mờ che lấp
cái nghĩa nhân duyên vô ngã, vọng lập
các pháp, mê các pháp thấy có trong có ngoài nghĩa là kiêu mạn,
tà kiến
đây là dựa
vào bên trong mà mê; vọng lập
ngã pháp, tự cao xem thường
mọi vật,
ái niệm,
tà kiến,
đây là dựa
vào bên ngoài mà mê; lầm cho rằng
có ngã sở và
cảnh
giới
bên ngoài rồi sinh tham ái, như con nai khát nước
đuổi
theo sóng nắng, như khi mò trăng dưới nước,
tha hồ vọng
chấp để
oan uổng
đi vào đường
khổ, đều
là từ mê
tâm chớ chẳng
phải
do lỗi
nào khác.
Luận Đỗ
Chính nói: ‘Tâm là lời của
Như Lai suy tôn Thánh địa,
thân là nói bồ-đề
cách biệt với
phàm phu, nếu chẳng
ngộ
thì công đức vô lượng cũng chỉ là
gang tấc,
thật
ra tướng
đẹp
rõ ràng chẳng ra ngoài ấm
giới”.
Lời ghi trên bia nói:
Pháp tính bình đẳng,
thật tuệ hư
thông,
Ngã đồng với dị, nhân dị với đồng.
Chẳng hoại nơi hữu,
chẳng thủ nơi
không,
Đạo chẳng ngoài tâm, Phật ở
trong tâm.
Hỏi: Vọng
tâm bất
giác vốn
không có tự thể;
nay đã giác ngộ, lúc vọng
tâm khởi
không có tướng
ban đầu
thì hoàn toàn thành chân giác. Tướng chân giác này là theo vọng
cùng dẹp bỏ
hay là nên kiến lập
trước
sau?
Đáp: Nhân vọng
nói chân, chân không có tự tướng; từ
chân khởi vọng,
thể của vọng
vốn rỗng;
vọng
đã về
không thì chân cũng chẳng lập. Luận Khởi Tín nói: “Nghĩa bất
giác, nghĩa là vì từ vô thỉ đến
giờ
không biết
như thật một pháp
chân như nên tâm bất
giác khởi
mà có vọng
niệm.Tự
không thật tướng
chẳng
lìa bản
giác, cũng nhưngười
mê vì y cứ phương hướng cho nên lầm lạc;
cái mê lầm
không có tự tướng và chẳng
lìa phương hướng. Chúng sinh cũng thế, nương nơi giác mà có bất
giác, vọng
niệm
mê sinh; nhưng
bất
giác kia tự nó không có thật tướng
và chẳng
lìa bản
giác. Lại đối
đãi với bất
giác nên nói chân giác. Bất giác đã không thì chân giác cũng chẳng
còn”.
Đây là nói về
tên gọi
chân giác đối đãi với vọng
tưởng.
Nếu
lìa bất
giác thì không có tự tướng của
chân giác để nói, đây là nói chân giác đối
đãi với bất
giác. Nếu
chẳng
đối
đãi thì không có tự tha. Do đối
đãi với
cái khác (tha) mà có cũng không có tự tướng.
Tự tướng
đã không thì làm sao có được
tha tướng?
Đây là hiển bày nghĩa các pháp vô sở đắc.
Luận nói: Nên biết tất cả
các nhiễm
pháp, tịnh
pháp đều
là đối
đãi, không có tự tướng để
nói.
Luận Đại
Trí Độ
nói: ‘Nếu
thế đế có
một
chút thật hữu
thì đệ nhất
nghĩa đế
cũng phải
có thật hữu’.
Kệ nói:
Lúc Phật ngồi đạo tràng
Chẳng đắc một pháp thật
Nắm tay không dối
trẻ
Dẫn dụ độ tất cả.
Một khi lập chân vọng
Đều là theo ý người,
Thuộc lời nói giáo hóa.
Nếu người chợt thấy tính,
Ai bàn luận việc ấy.
Nếu như
ngay lúc này
Chẳng trực ngộ nhất tâm
Thảy đều là tà vạy
Dù bên ngoài tìm Phật
Đều chẳng phải chân chính.
Hàn Sơn41 làm thơ:
Làm trai đáng chí trai
Hành động chớ thô tục
Tâm rắn rỏi sắt đá
Thẳng đến nẻo bồ-đề
Đường quanh chẳng
thèm đi
Hành trình nhiều
cay đắng
Chẳng cần cầu quả Phật
Biết làm chủ tâm vương.
Thế mới
biết nếu
thấy
có pháp để cầu,
có đạo để
tu, đều
là đánh mất cái nghĩa tự
tông của
tâm vương. Nếu
thẳng
vào Tông Cảnh thì muôn việc đều
thôi dứt,
tình phàm Thánh hết sạch,
được
an lạc
diệu
thường,
lìa đây khởi tâm đều
thành nhọc
nhằn.
Cho nên Phó đại sĩ làm bài tụng:
Núi phía đông nổi
trên mặt nước
Núi phía tây đi mãi chẳng
dừng
Diêm-phù dưới ánh sao Bắc đẩu
Là nơi giải thoát chân thật.
Đường dễ đi,
Đường dễ đi mà người chẳng biết.
Nửa đêm trên đầu trăng sáng soi
Chẳng “ngộ” thật nhọc nhằn!
Bài kệ
ngộ đạo của hòa thượng
Động Sơn
nói:
Trước kia vật vật muốn cầu thông
Chỉ vì chẳng biết rõ được tông
Ngày nay thấy rõ toàn vô sự
Mới hay vạn pháp vốn là không.
Hỏi: Chân đế chẳng lầm, bản giác chẳng hư
(rỗng) vì sao lại cùng với vọng đồng thời dẹp bỏ?
Đáp: Nhân mê lập giác, nói vọng để
bày chân, đều
là theo cơ nghi, đều không có tự thể. Theo thế tục thì có căn cứ trên thật đế là không; chỉ trừ dẹp tên gọi đối đãi nhau, chẳng phải là diệt một tính linh. Tính tuy bặt đối đãi, sự có đối trị; đuổi dẹp là vì phá tình chấp, kiến lập là vì trừ đoạn kiến, khổ hạnh là vì để hàng phục ngoại đạo, dùng thần thông nhằm giáo hóa kẻ ngu si, tam-muội hàng phục thiên mạ, ‘không quán’ trừ bỏ sự vướng
mắc các tướng,
thấy khổ dứt tập là vì đối trị người
tăng thượng mạn, chứng diệt tu chân đều trở thành trò hí luận, tất cả đều là ‘quyền trí’ đưa
vào tông này. Như thế thì không có một pháp để truyền, không có một pháp để dẹp, bốn ma chẳng thể làm giảm bớt, đại giác chẳng thể làm tăng thêm, xoay về tâm thì nghĩa lý đều tiêu mất, rõ ý chỉ thì danh ngôn tự dứt.
Hỏi: Đã nói rằng chân tâm bặt dấu vết, lý vượt
khỏi hữu vô, vì sao trong giáo lại nói rộng về ý chỉ vô sinh vô tướng?
Đáp: Môn nhất tâm vi diệu khó xét đến cùng tận,
công đức đầy đủ, lý sự dung thông, tri giải không thể thấu, phân biệt chẳng đến được.
Nói “vô tướng” thật ra là không có pháp được
gọi là vô tướng.
Cũng như vô sinh, cũng không có
pháp để hiển lý vô sinh.
Luận Phát Bồ-đề Tâm nói: ‘Bồ-tát quán tất cả điều thiện, bất thiện, ngã, vô ngã, thật, bất thật, không, bất không, thế đế, chân đế, chính định, tà định, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, hắc pháp, bạch pháp, sinh tử, niết-bàn, như
pháp giới
tính nhất
tướng vô tướng.
Trong đây không có một
pháp có thể
gọi là vô tướng,
cũng không có một
pháp được xem là vô tướng;
đây gọi là nhất thiết pháp ấn bất khả hoại ấn; trong ấn này cũng không có ấn tướng,
đây gọi là trí tuệ chân thật”.
Giải
thích: Nhất
thiết pháp ấn nghĩa là đem tâm ấn này ấn vào tất cả pháp để xác định sự chân thật. Bất khả hoại ấn nghĩa là vì tất cả các pháp có, không, trong,
ngoài đều
không có thể
phá hoại. Trong ấn này cũng không có ấn tướng
nghĩa là muôn pháp đều
không cũng không có sở
ấn. Pháp sở ấn đã không, trí năng ấn cũng chẳng có, thông đạt như
vậy gọi là trí tuệ chân thật.
Cổ
đức nói: Xét lại pháp này là bản nguyên của chúng sinh, là chỗ chứng của chư
Phật, siêu việt tất cả lý, lìa tất cả tướng;
không thể
dùng ngôn ngữ,
trí thức, hữu vô, ẩn hiển để suy tìm được,
chỉ có tâm tâm in vào nhau, ấn ấn khế hợp nhau; làm cho tự chứng biết ánh quang minh tự thụ dụng mà thôi.
Hỏi: Lập tâm làm tông, lấy gì làm mục tiêu?
Đáp: Lấy
tín hạnh đắc quả làm mục tiêu, vì thế trước
hết lập đại tông sau đó quy thú, cho
nên nói chỗ
tôn trọng của ngôn ngữ là tông, chỗ hướng
về của tông là thú, liền dứt được
hoài nghi phát khởi
lòng tin trọn
vẹn và hiểu biết chân chính, thành chân tu
viên mãn quả
chân thường đạt đến cứu cánh giác ngộ.
Duy thức
tính bao gồm
đầy đủ bốn pháp: giáo, lý, hạnh, quả. Tâm năng thuyên là giáo,
tâm sở thuyên là lý, tâm năng thành
là hạnh, tâm sở thành là quả.
Pháp sư Pháp Tạng42 căn cứ theo kinh Hoa Nghiêm,
kinh này lập
nhân quả,
lý duyên khởi,
thập pháp giới làm tông chỉ.
Giải
thích: Pháp giới
nhân quả
cùng dung cùng lìa, tính tướng hồn nhiên vô ngại tự tại, có mười
nghĩa môn:
1- Do lìa tướng cho nên nhân quả chẳng khác pháp giới, tức nhân quả là phi nhân quả, đây là tức tướng
làm tông, ly tướng làm thú; hoặc ly tướng
làm tông, vong nhân quả
làm thú.
2- Do lìa tính nên pháp giới chẳng
khác nhân quả,
tức pháp giới là phi pháp giới.
3- Do lìa tính mà chẳng mất
tính nên khi pháp giới
tức là nhân quả, pháp giới rõ ràng thì cho phi pháp
giới là pháp giới.
4- Do lìa tướng mà chẳng hoại tướng
nên khi nhân quả
tức là pháp giới, nhân quả rõ ràng thì cho phi nhân
quả là nhân quả.
5- Vì lìa tướng không khác lìa tính nên
nhân quả
pháp giới
song dẫn (cùng mất), câu dung (cùng bao
hàm), vượt qua lời nói và sự suy nghĩ.
6- Do chẳng
hoại, chẳng khác, chẳng mất nên nhân quả pháp giới cùng tồn tại, rõ ràng trước
mắt có thể thấy được.
7- Do hai môn tồn và dẫn
(năm và sáu) lại
không khác nên diệu
pháp siêu việt
thấy nghe mà luôn luôn thấy nghe thông suốt, bặt nghĩa suy lường
sâu xa, chưa từng chướng
ngại đối với ngôn từ và ý niệm.
8- Do vì tính pháp giới hàm dung nên không thể phân, tức
là nhân quả
của pháp giới đều đồng thời, hoàn toàn thu nhiếp vào pháp giới.
9- Lúc nhân quả hoàn toàn nhiếp vào pháp giới, nhân quả theo pháp giới đều
cùng hiện
ra ở trong nhân quả. Do đó trong Phật có Bồ-tát, trong Phổ Hiền có Phật.
10- Hai vị nhân quả
đều tùy theo pháp sai biệt, đều bao gồm pháp giới cho nên tất cả pháp, tất cả hạnh, tất cả vị, tất cả đức, đều chung nhiếp về vô tận vô tận lưới
trời, lớp lớp các biển pháp môn.
Đây gọi
là tông thú vô tận
của Hoa Nghiêm. Vì thật giáo Hoa Nghiêm gồm nhiếp các kinh, nêu ra viên
tông vô tận
có thể bao trùm muôn pháp, có thể gọi là chu biến vô ngại, tự tại dung thông, mới biểu hiện được
tâm ta có thể
thành Tông Cảnh.
Hỏi: Lấy tâm làm tông chính mạch thiền môn, nhưng
tâm chỉ là tên gọi, lấy gì làm thể?
Đáp: Từ
trước đến nay, các học giả phần đông đều chấp vào văn tự, trái tông chỉ, chẳng rõ thể, chỉ nhận lấy tên gọi. Người
nhận danh mà quên thể làm sao thấu đáo chỗ chân thật? Người
chạy theo chữ nghĩa, mê mờ ý chỉ thì làm sao khế hợp với nguồn đạo? Thế thì tâm là tên gọi (danh) lấy cái biết làm thể. Tính linh tri này tự thần giải, chẳng giống như
vọng thức phải nương
vào duyên, gá vào cảnh
tác ý mà biết,
cũng không phải
như hư
không rỗng
rang đoạn
diệt, vô tri.
Triệu Luận nói: “Bát-nhã vô tri là
cái biết không chấp tướng”.
Người bình thường
đều nói bát-nhã là trí, trí
là có biết;
nếu có biết thì có chấp trước;
có chấp trước
thì không khế
hợp vô sinh. Nay nói rằng bát-nhã chân trí vô tướng
vô duyên, tuy soi xét chân đế mà không chấp tướng nên nói là vô tri.
Kinh nói: “Tâm của Thánh nhân vô tri nhưng không điều gì mà không biết”.
Kinh lại
nói: “Chân bát-nhã thanh tịnh như hư
không, vô tri,vô kiến,
vô tác, vô duyên”, đây là tự biết
vô tri rồi
đâu cần đợi phản chiếu sau đó mới vô tri. Chỉ tính biết này tự vô tri, chẳng đợi quên tính quên. Nhờ chân tri này nên không rơi
vào cảnh hữu vô, vì thế chư
Phật có bí mật giáo, Tổ sư
có mật truyền; tông mật truyền chỉ chính mình âm thầm tỉnh giác liền tương
ưng,
không thể
biểu thị bằng lời nói. Nếu người
sáng tỏ tông thì rõ ràng không mê
mờ, lặng lẽ thường
biết; rõ ràng chiếu soi mọi lẽ đâu phải nhờ vào thần thông hiển hiện; rực rỡ không một mảy bụi chẳng thấu đâu phải khổ nhọc dùng biện tài khéo léo để diễn bày. Vì người
chẳng đạt nên mở ra môn phương
tiện để cho họ nương
vào cái biết
này không điều
sâu kín nào mà chẳng
thấu.
Hỏi: Các pháp sinh ra chỉ là do tâm hiện, lại là từ tâm biến hiện hay lại là tức tâm tự tính?
Đáp: Là bản tính của
tâm, chẳng
phải do tâm biến.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Biết tất cả pháp là tự tính của tâm, thành tựu tuệ thân không do người
khác mà ngộ”.
Bài kệ
trong kinh Pháp Hoa nói:
Trong ba nghìn thế giới
Tất cả các mầm mộng
Trời, người, a-tu-la
Địa ngục, quỉ, súc
sinh
Các sắc tướng như thế
Đều hiện ở trong
thân.
Như thế phải biết tâm
tính bao trùm khắp nơi, cho nên bốn thứ sinh
và chín loài đều hiện ra ở trong
tự tính thân, vì tự chân
tâm là tính của tất cả muôn
loài, cho nên tùy theo là sắc
không cùng khắp pháp giới,
theo nghiệp phát hiện quả báo bất đồng, nơi các loài chúng sinh thì chìm nổi
trong biển nghiệp,
sinh tử nối tiếp; ở nơi chư Thánh thì pháp thân viên mãn, diệu dụng vô
cùng ẩn hiển tuy
khác nhưng một tính
bất động.
Hỏi: Nếu tất cả pháp
là tự tính của tâm,
vì sao lại nói tính cũng phi tính?
Đáp: Tức tự tính
của tâm là biểu thị đức tính
(biểu thuyên), do tất cả pháp
vô tính nên tức là thật tính
của tâm mình. Tính cũng phi tính đây là ngăn
chặn lỗi lầm (già
thuyên). Nếu có thể vượt lên
biểu thuyên già thuyên, bặt dứt là
lìa tình chấp, mới là
thấy tính, con mắt của chính
mình được hoàn
toàn sáng suốt. Hiện tại muốn đốn ngộ tự tâm,
khai tri kiến Phật, chỉ cần rõ được tự tính ở khắp mọi nơi. Hễ có thấy nghe
đều từ tâm
hiện, ngoài tâm không có pháp nào có thể tính,
mỗi mỗi đều chẳng biết
nhau, mỗi mỗi đều chẳng đến
nhau, vì sao? Vì là một pháp nên không có pháp để biết nhau
và đến nhau. Nếu có
hai pháp tức là qua lại với
nhau. Vì biết hoặc
phàm, hoặc Thánh, hoặc cảnh, hoặc trí
đều đồng một
tính, gọi là vô tính. Ý chỉ vô
tính này là mục tiêu đắc đạo, là
đầu mối của sự bình
đẳng, là lý do nói về
không, liễu ngộ liền
thành Phật, không cần dụng
công.
Như bài tụng
trong kinh Hoa Nghiêm nói:
Pháp tính vốn
không tịch
Không giữ cũng
không thấy
Tính không tức là
Phật
Chẳng thể suy lường được.
Nếu
không ngay đây tin được tâm này, dấy niệm chạy tìm, cũng như
người si tránh hư
không, như kẻ mất đầu điên cuồng bỏ chạy.
Đại
sư Dung nói: “Phân biệt phàm Thánh phiền não càng nhiều, suy tính trái thường,
tìm cầu chân, quay lưng
với chính”.
Luận Bảo Tạng nói: “Chăm chăm xét nét chỉ luống thêm nghĩ ngợi viễn vông, lo lắng tìm cầu bên ngoài càng đánh mất đạo mầu”.
Thế
nên chư Phật mười
phưomg chính niệm ngay đây thể nhập cội nguồn thật tính và nhờ đó mới mở rộng cửa đại tuệ bình đẳng, làm người
bạn không cần thỉnh của chúng sinh.
Do đó phẩm
Vấn Minh nói: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi Bồ-tát Giác Thủ: Phật tử! Tâm tính là một tại sao thấy có các thứ sai biệt như
đi đến cõi lành cõi ác, các căn
đủ hay khuyết, sự thụ sinh đồng hoặc khác, đẹp, xấu; khổ vui bất đồng. Nghiệp chẳng biết tâm, tâm chẳng biết nghiệp; thụ chẳng biết báo, báo chẳng biết thụ; tâm chẳng biết thụ, thụ chẳng biết tâm; nhân chẳng biết duyên, duyên chẳng biết nhân; trí chẳng biết cảnh, cảnh chẳng biết trí.
Bồ-tát
Giác Thủ
nói kệ đáp:
Nhân giả hỏi nghĩa này
Vì thức tỉnh người mê
Tôi như tính kia đáp
Xin ngài hãy lắng nghe
Các pháp không tác dụng
Cũng không có thể tính.
Cho nên tất cả pháp
Mỗi mỗi chẳng biết nhau.
Như nước trong dòng sông
Cuồn cuộn đẩy nhau đi
Mỗi mỗi chẳng biết nhau,
Các pháp cũng như thế.
Cũng như đống lửa to
Một lúc bừng rực cháy
Mỗi mỗi chẳng biết nhau,
Các pháp cũng như thế.
Cũng như gió bão khởi
Quét sạch hết mọi vật
Mỗi mỗi chẳng biết nhau
Các pháp cũng như thế.
Cũng như các cõi đất
Xoay vần cùng tồn tại
Mỗi mỗi chẳng biết nhau
Các pháp cũng như thế.
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
Tâm ý các tình căn
Do đây thường lưu chuyển.
Nhưng cái không thể chuyển
Là pháp tính vô sinh.
Thị hiện nên có sinh
Trong ấy không năng hiện
Cũng không vật sở hiện
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
Tâm ý các tình căn
Tất cả “không” vô tính
Vọng tâm phân biệt có
Như lý mà quán sát
Tất cả đều vô tính.
Pháp nhãn bất tư nghì
Cái thấy chẳng điên đảo
Hoặc thật hoặc chẳng thật
Hoặc vọng hoặc chẳng vọng
Thế gian xuất thế gian
Chỉ tạm mượn lời nói.
Sớthích ghi:
Hỏi: Ý nói rõ tâm tính là một, vì sao lại thấy các loại báo? Nếu tính theo sự mà sai khác thì mất đi chân đế. Nếu sự theo tính mà thành một thì làm hoại tục đế. Giả sử có người
nói thêm các thứ
báo sai biệt
là do từ
nghiệp huân vào, thức biến hiện không quan hệ gì đến tâm tính cho nên không
trái nhau. Để
ngăn lời ấy nên gạn lại nghiệp chẳng biết tâm, nghĩa là tâm và nghiệp nương
vào nhau, mỗi
thứ đều không có tự tính; tự tính đã không có thì đâu
có thể biết mà sinh các pháp; đã lìa
chân tính đều
không tự
lập, biết rõ việc này đều nương
tâm mà khởi.
Tâm tính là một,
lý đáng không nhiều;
sự pháp đã nhiều, lý đáng tính chẳng phải một. Đây là vấn đề trước
sau trái nhau. Theo đây ý muốn hỏi
là lìa Như Lai tạng chẳng chấp nhận năng huân sở huân của thức thứ tám riêng có tự thể hay sinh các pháp, chỉ có Như
Lai tạng là nơi
y cứ sinh ra các pháp. Văn-thù
vì muốn hiển bày lý thật giáo nên đem tâm tính để hỏi về “bản” để khiến cho Bồ-tát Giác Thủ nhờ pháp tính thị hiện sinh, nên khẳng định đáp.
Hải
hội đồng chứng tâm tính là một, nghĩa là tâm tính là Như
Lai tạng; và vì tâm tức là tính nên là tâm tự tính thanh tịnh. Lại nữa, tính của vọng tâm là tính của vô tính cho nên là không
Như Lai tạng. Vì tính của chân tâm là tính của thật tính cho nên là bất không Như
Lai tạng, đều bình đẳng không hai cho nên nói là
một. Lại, tính của vọng tâm thành tính của tâm, vọng tâm là tướng
vì tính tướng chẳng giống nhau. Tính của chân tâm vì chân tâm tức là tính. Lại nói tính của hai thứ tâm trước
riêng nói về
hai tạng. Hai tính trước
đều có đủ hai tạng, chỉ vì bị vọng che lấp nên gọi là Như
Lai tạng, nói thẳng tạng thể tức là tâm tự tính. Cho nên chân tâm tự tính thanh tịnh này không hợp với vọng, gọi là không Như
Lai tạng; có đủ Hằng sa đức thì gọi là bất không Như
Lai tạng; trước
là nói về
“tức ly”, đây là nói về “không hữu” cho nên nêu ra lần nữa. Còn bảo là bình đẳng không hai nghĩa là hai
cái trước tức ly bất đồng. Do tính tức tâm nên bất tức, do tâm tức tính nên bất ly. Bất tức bất ly là tính của tâm. Hai cái sau là cái
thật của tức không là bất không tạng; cái không của tức thật là không tạng. Nhưng
tính không, hữu
chẳng hai là tính của tâm; nhưng
không hữu
không có hai tính chính là tính bất tức
bất ly nên chỉ nói là một. Lại không phải chỉ có bản tính là một, nếu ta xét kỹ những sự việc hiện tiền đều chẳng biết nhau; đã có các thứ duyên gì chẳng biết nhau; đã chẳng biết nhau thì làm sao có thể quán sát những thứ này từ đâu có; đã chẳng biết nhau là do một tính hay nhiều thứ?
Hơn nữa, câu hỏi có hai ý: 1- Về bản thức, nghiệp là năng y, tâm là sở y, vì lìa sở không có năng nên nghiệp chẳng biết tâm; vì lìa năng không có
sở nên tâm chẳng biết nghiệp. Bởi vì đều không có thể dụng không thể làm thành cho nhau, đã chẳng biết nhau thì cái gì sinh ra
các thứ. 2- Về thức thứ sáu, nghiệp là sở tạo, tâm là năng tạọ, thảy đều chóng diệt; lúc khởi không nói ta khởi, lúc diệt không nói ta diệt, sao có cái thể mà được
tương sinh thành các thứ? Lại căn cứ trên cảnh trí đối nhau thấy nhau hư
dối chẳng khó nghĩa là cảnh là tâm biến ra, cảnh chẳng biết tâm; tâm gá cảnh sinh, tâm không biết cảnh; vì không có tâm ngoài cảnh hay chấp lấy cảnh ngoài tâm cho nên tâm cảnh hư
vọng chẳng biết nhau.
Nghiệp
chẳng biết tâm, tâm chẳng biết nghiệp có hai: 1- Xét trên bản thức, nghiệp là tâm sở nên nương
vào tâm. Tâm tức
thức thứ tám là căn bản y, tức lìa sở không có năng. Tại sao? Không có tâm vương
sở y thì không có nghiệp năng y. Nay nương
vào tâm có nghiệp,
nghiệp từ duyên sinh nên không tự tính, không thể biết tâm. Nếu lìa năng không có sở thì rời cái nghiệp năng y thì tâm chẳng phải là sở y. Nay do nghiệp thành sở, vì sở y vô tính nên không thể biết nghiệp nghĩa là đều từ duyên thành tính không vô
thể, tương
y không có sức
mạnh nên nói vô dụng. Vì vậy kinh nói: Vì không có thể dụng cho nên chẳng biết nhau. 2-Xét trên thức thứ sáu, nghiệp là sở tạo, tâm là năng tạo; gọi thức thứ sáu là tâm, vì do tích tập thông tướng
mà nói, nghĩa là thức
thứ sáu do chấp vô minh, mê lý dị thục của nghĩa chân thật, do thiện bất thiện tương
ưng
riêng tạo
các tội lỗi; do ba hành là tội, phước,
bất động huân thức A-lại-da, hay cảm các quả báo của năm đường
ái, phi ái v.v... về
nghĩa “chẳng
biết nhau”, nói thông tướng
là căn cứ
không có thể
dụng; nói theo biệt tướng
thì dụng môn không đồng. Dụng này đại khái có hai môn:
1- Môn vô thường: Kinh nói: “Thảy đều chóng diệt”. Phẩm Đệ Tử trong kinh Tịnh Danh nói: “Tất
cả pháp như
huyễn, như
tia chớp, các pháp chẳng đối đãi nhau, cho đến một niệm, vì các pháp đều là vọng kiến nên chẳng trụ các pháp, như
thế tâm nghiệp đều không”.
Bài tụng
trong kinh Hoa Nghiêm nói:
Các báo tùy nghiệp sinh
Như mộng chẳng chân thật
Niệm niệm luôn hoại diệt
Trước sau gì cũng vậy.
Vì vô thường nên các pháp không thể biết nhau.
2- Môn vô ngã: Lúc khởi không nói là ta khởi, lúc diệt chẳng nói là ta diệt. Căn cứ vào pháp không ta (vô ngã)
nói về chẳng biết nhau, thụ chẳng biết báo, báo chẳng biết người
thụ. Thụ là nhân năng thụ, báo là báo sở thụ, là loại danh ngôn.
Luận Duy Thức nói: “Sinh tử nối tiếp do bởi các tập khí”.Tập khí gồm có ba thứ: 1- Danh ngôn tập khí, 2-Ngã chấp tập khí, 3- Hữu chi tập khí.
Danh ngôn tập khí nghĩa là pháp hữu vi đều
là chủng tử khác nhau. Danh ngôn có
hai: Một là biểu nghĩa danh ngôn, tức là hay thuyên bày nghĩa
âm thinh sai biệt;
hai là hiển
cảnh danh ngôn tức là hay biết rõ cảnh pháp tâm tâm sở; tùy theo hai thứ danh ngôn huân tập thành chủng tử làm ra pháp hữu vi đều là nhân duyên khác nhau.
Giải
thích: Các chủng
tử khác nhau, nghĩa là vì ba
tính khác loại.
Hay thuyên bày ý nghĩa âm thinh, nghĩa là không có tiếng (thinh) vì không có tên
(danh), tên là biểu
hiện của tiếng (thinh). Chỉ có tính vô ký không thể huân thành các thứ sắc tâm nhưng
do danh khởi
chủng, lập danh nói chủng; hiển cảnh danh ngôn tức là kiến phần tâm của thức thứ bảy, chẳng phải tướng
phần tâm. Tướng
phần tâm vì nó không thể hiển bày cảnh. Kiến phần này thực sự chẳng phải là danh ngôn. Như
ngôn, danh nhằm
biểu thị ý nghĩa. Tâm tâm sở năng hiển và cảnh sở liễu tợ như
danh nói lên ý nghĩa, theo danh và ngôn đều huân thành chủng.
Luận
nói: Thứ
ba là hữu
chi tập khí nghĩa là đưa
đến nghiệp chủng dị thục trong ba cõi, hữu chi có hai:
1- Hữu
lậu thiện: Hay chiêu quả nghiệp đáng ưa
thích.
2- Chư bất thiện: Hay đưa
đến quả nghiệp xấu. Tùy theo hai hữu chi này được
huân thành chủng
khiến cho quả dị thục cõi thiện ác khác nhau.
Bài tụng trong luận
nói:
Do tập khí các nghiệp
Hai thủ và tập khí
Dị thục trước đã diệt
Lại sinh dị thục khác.
Năng dẫn nghiệp
này là tập
khí các nghiệp. Danh ngôn chủng
này là nhị thủ tập
khí. Lời
nói là do nghiệp dẫn tức
là cái nghĩa “cùng đi”. Nói gần quả thể là
do danh ngôn. Nếu không có nghiệp
chủng
sẽ
không phải
chuốc lấy sự khổ,
vui như hạt
giống
không có đất ruộng
thì hoàn toàn không thể nẩy mầm.
Cho nên danhngôn phải do nghiệp dẫn
khởi mới
nhận lấy
cái báo khổ vui của
quả dị thục đời
sau. Vì thế kinh
Hoa Nghiêm nói: “Nghiệp là ruộng,
thức
là hạt
giống”.
Những
câu hỏi về
“nghĩa chẳng biết
nhau” đã giải thích, bây giờ từ tướng
duyên khởi
giải
thích. Câu đầu: tướng nhân duyên tạm gá
đều
vô lực.
Câu kế:
Vì quả
pháp rỗng
nên vô thể tính. Do đó, duyên khởi hư vọng
có ba nghĩa: Một, do nương gá lẫn
nhau mỗi mỗi đều
không có thể dụng
nên không biết nhau. Hai, do nương vào cái vô tri vô tính này mới
có duyên khởi. Ba, do pháp hư vọng
này mỗi mỗi đều
không nên khiến cho chân lý vô tính luôn luôn hiển
hiện.
Quả từ
nhân sinh quả không có thể
tính, nhân do quả lập,
nhân không có thể tính; nhân vô thể
tính làm thế nào có cái dụng
cảm
quả;
quả vô
thể
tính làm sao có thể đáp ứng
nhân? Vì nhân quả đối
đãi nhau nên vô lực, vì lấy
cái khác làm mình nên vô thể. Do đó thể dụng
đều
không, cho nên tất cả
pháp mỗi mỗi đều
chẳng
biết
nhau.
Thử lấy tứ đại
làm ví dụ:
1- Nương vào nước có sự
trôi chảy.
2- Nương vào lửa
có khởi
diệt.
3- Nương vào gió có động
tác. 4- Nương
vào đất
có sự
gìn giữ.
Trong bốn
pháp là: 1- Nương
vào sự tương tục của
chân vọng.
2- Nương vào sự khởi
diệt của
chân vọng.
3- Tác dụng
của vọng
nương chân khởi.
4- Vọng
bị
chân nắm
giữ.
Các ví dụ
này mỗi
thứ đều
có ba nghĩa: 1- Chỉ là năng y. 2- Nương sở y.
3- Chỉ có
sở y.
Trong ví dụ đầu chỉ có năng y là
tuôn chảy,
nhưng sự
tuôn chảy
này có mười
nghĩa không biết nhau mà thành: 1- Dòng nước
chẳng
tự
trôi chảy,
do dòng sau đẩy tới
nên trôi chảy, như thế
dòng trước
vô tự
tính nên chẳng biết
dòng sau. 2- Dòng sau tuy đẩy dòng trước mà chẳng
đến được
dòng trước
nên cũng chẳng biết
nhau. 3- Dòng sau chẳng tự
trôi chảy
do dòng trước dẫn
nên trôi chảy, như thế
dòng sau vô tự tính cho nên chẳng
biết
nhau. 4- Dòng trước
tuy dẫn
dòng sau mà chẳng đến
sau nên cũng chẳng biết
nhau. 5- Cái hay xô đẩy và cái được dẫn
không hai nên chẳng biết
nhau. 6- Cái hay dẫn và cái bị xô
đẩy
không hai nên không biết nhau. 7- Cái hay xô đẩy
và cái bị xô
đẩy
không hai nên không biết nhau. 8- Cái hay dẫn
và cái được dẫn
không hai nên chẳng biết
nhau. 9- Cái hay xô đẩy và cái hay dẫn
không cùng đi với nhau nên chẳng
biết
nhau. 10- Cái bị xô đẩy
và cái bị dẫn
cũng không đi với nhau nên chẳng
biết
nhau. Do đó trước
sau chẳng
đến với
nhau đều
vô tự
tính. Chỉ do
cái vô tri vô tính này mới có trôi chảy,
hẳn
là chẳng
trôi chảy
mà trôi chảy.
Tăng Triệu
nói: Dòng sông trôi chảy mà chẳng
trôi chảy,
đó là nghĩa này.
2- Nương
vào sở y: Nghĩa là dòng trước,
dòng sau đều nương vào nước, thảy đều
không có tự thể,
không thể biết
nhau, nhưng chẳng
hoại tướng
trôi chảy
nên nói nước
chảy.
3- Chỉ có
sở y: Dòng đã hoàn toàn không, chỉ là
nước,
nước
trước
và nước
sau không có hai tính nên chẳng có thể biết
nhau. Như vậy vốn
không có trôi chảy mà nói trôi chảy.
Trong hai pháp có ba nghĩa: 1- Dòng nước dụ
cho vọng
pháp năng y. 2- Vọng nương chân lập.
3- Vọng
hết
chỉ
còn chân. Ban đầu vọng
duyên khởi
các pháp dường
như nương cậy
nhau mà đều chẳng
đến với
nhau, thảy đều
vô tự
tính nên vô tính vô tri, do đó có mà không có.
2- Y sở y: Vọng
pháp này mỗi mỗi tự rỗng
không mà hàm chứa “cái chân thật”
nên mới lập,
làm sao thể dụng
biết
nhau và làm thành nhau. Do cái không biết
không thành này hàm chứa cái chân nên có, do đó chẳng
có mà có.
3- Duy sở y: Vọng
pháp năng y không có thể dụng
chỉ có chân tâm hiển hiện rõ ràng, đã không có cái
này cái kia làm sao biết nhau. Chính vì nghĩa này, vọng pháp có tức chẳng phải có là có.
Lại
nơi chân tính ẩn, vì chẳng ẩn là ẩn. Trước
sau có hai: 1- Trước sau sinh diệt. 2- Trước
sau cái này cái kia.
Trước sau sinh diệt nghĩa là trước
diệt sau sinh đưa
đến nhau và xô đẩy nhau, đây là nói theo chiều dọc như
trẻ với già. Dòng nước
chảy sinh diệt trong sát-na. Sát-na trước
diệt, sát-na sau sinh.
Trước sau cái này cái kia, là
nói theo chiều
ngang cũng như hai người
cùng đi trên đường hẹp, người
sau đẩy người
trước, người
trước dẫn người
sau. Từng phân nước
đều có trước
sau cho đến
một giọt nước
cũng có một
ít giọt nước
trước và một ít giọt nước
sau cho nên góp lại
nhiều thành dòng tuôn chảy ắt hẳn là vô tính vậy. Tiểu Thừa cũng nói đương
xứ sinh diệt, không chấp nhận từ nơi
này chuyển
đến nơi
khác nhưng họ chẳng biết cái nghĩa duyên khởi vô tính.
37Nam Tuyền: Thiền tăng Phổ Nguyện đời Đường, hoằng pháp ở núi Nam Tuyền,
Trì Dương.
38Huệ Năng: (638-713) Thiền tăng đời Đường, Tổ thứ sáu của Thiền tông, người
khai sáng Nam tông, họ Lư.
39Hương Nghiêm Trí Nhàn (810-898) Thiền tăng đời Đường, họ
Cao, tự Ngộ Chi, người Thanh Châu, nối pháp thiền sư Qui Sơn Linh Hựu. Sư ở núi
Hương Nghiêm, Đặng Châu (Hà Nam), thiền lữ khắp nơi tụ hội, pháp hóa thịnh
hành.
40Động Sơn Lương Giới (807-869) Thiền tăng đời Đường, tổ
tông Tào Động, họ Du, người Chư Kị, Cối Kê, Chiết Giang, Trung-quốc, đắc pháp từ
Vân Nham Đàm Thạnh. Sư xướng thuyết Ngũ vị quân thần.
41Hàn Sơn: Thi tăng đời Đường, sư sinh vào niên hiệu Cảnh Vân (710-711).
Sư ở trong hang núi Thiên Thai vắng vẻ, lạnh lẽo, không biết rõ tên họ nên gọi
là Hàn Sơn. Sư làm bạn với tăng nhân Thập Đắc chùa Quốc Thanh. Theo truyền thuyết,
Sư là hóa thân của bồ-tát Văn-thù.
42Pháp Tạng (643-712) Cao tăng Trung-quốc sống vào đời Đường, tổ thứ ba tông Hoa Nghiêm, tự Hiền Thủ, hiệu pháp sư Quốc Nhất. Suốt đời Sư giảng kinh Hoa Nghiêm, chú thích nhiều kinh luận Đại thừa và hệ thống hóa tư tưởng Phật giáo thành ngũ giáo và thập tông.
Comments
Post a Comment