TÔNG CNH LC


 

QUYN 6


Mc đích ca Tông Cnh là nói v đo lý này, dù trình bày đy đ văn nghĩa cũng là vì ph cp mi căn cơ, ch có mt đưng li duy nht không có ý ch nào khác. Thiết nghĩ không th nương theo văn t mà đánh mt tông ch kia, nếu ngưi ng đo lý này thì đáng đưc truyn tha. Có ngưi hi hòa thưng Nam Tuyn37: Nơi pháp hi Hoàng Mai có năm trăm ngưi, vì sao ch có mt mình Lư hành gi (Hu Năng)38 đưc truyn y bát? Sư đáp: Ch vì bn trăm chín mươi chín ngưi kia đu hiu Pht pháp, ch có mt mình Lư hành gi không hiu Pht pháp, ch lĩnh hi đo lý này nên đưc truyn y bát.

Hi: Đo y làm sao lĩnh hi?

Đáp: Như Đc Bn Sư nói: Như Lai ti đo tràng đc pháp, pháp y là phi pháp, cũng là phi phi pháp. Ta đi vi pháp này, trí không th biết, mt không th thy, không có hành x, tu không thông đưc, minh cũng không rõ đưc. Hi không thì đáp có.

Li c nhân nói: Vic này dưng như không mà chng không, dưng như có mà chng có, n n thưng thy, ch là tìm nơi chn ca nó không th đưc. Vì thế, nếu quyết đnh là không thì tr thành đon kiến; nếu cho là thc có thì rơi vào thưng kiến. Nếu có nơi chn thì tr thành cnh kia. Cho nên biết rng vic này tâm không th so lưng, trí không th biết đưc.

Hòa thưng Hương Nghiêm39 có bài tng:

Suy tính trưc sau

Chp vào khong gia

Chng đưc mt pháp

Chìm đm vc sâu

Đu chng như thế

Ta ta hin tin

Ngưi hc mưi phương

Làm sao tham thin?

Nếu nói như thế há có th lĩnh hi chăng? Do đó ngưi xưa nói: Cn phi diu hi mi đưc, đây là hi cái chng hi (biết cái chng biết) là khế hp nhim mu sâu kín bên trong. Cho nên bài tng ng đo ca các Thánh thi trưc nói:

Tâm có không, đến đi đu dt bt

Trong, ngoài, khong gia thy đu không

Mun thy ch chân Pht Như Lai

Ch thy dê đá sinh nga tơ.

Như thế sau khi đt đến ch huyn diu thì đo cũng chng còn đâu còn bàn lun v tri gii, vng tưng v hi hay chng hi!

C đc có bài k:

Khuyên anh hc đo ch tham cu

Muôn vic vô tâm hp đo mu

Vô tâm mi chng vô tâm đo

Th đc vô tâm đo cũng thôi.

Hòa thưng Đng Sơn40 nói k:

Cái y còn chng phi

Hung Trương Tam, Lý T

Chân không và phi không

S chng như nhau đâu

Rõ ràng như trưc mt

Chng cho chút nghĩ suy

Cái y còn chng phi

Hung chi cái gì khác,

Nhưng k ngu hiu sai.

Do đó kinh nói: “Tâm chng ràng buc, đo cũng chng kết nghip”. Đo còn chng ràng buc, theo đây có th biết, vào trong Tông Cnh t nhiên thm hp.

Hi: Giác th không di đi, gi danh có khác. Phàm Thánh bình đng, sao chúng sinh chng giác tri? Nếu nói chng mê thì sao trong kinh giáo nói có mê ng.

Đáp: Ch nhân bn giác chân tâm mà khi bt giác, do bt giác nên thành th giác như nhân đt mà ngã, nhân phương(hưng) nên mê (lm) thì phi t đt đng lên, do phương nên ng (tnh). Như vy lúc giác tuy ng, ch ng thưng không; bt giác như mê, lúc mê vn tch. Thế nên mê ng mt thu tình tưng t phân. Vì có tâm hư vng, nên ban cho thuc hư vng.

Trong kinh Pht dy ta nói tam tha mưi hai phn giáo như nm tay không gt tr nít. Vic không biết này gi là vô minh.

T sư nói k:

Tt c pháp Như Lai,

Hay tr tt c tâm.

Ta không tt c tâm,

Đâu cn tt c pháp.

Cho nên phi biết nếu mt ca chính mình khai m, chân minh t phát, bnh thy mê ng đã đưc tr hết thì thuc pháp quyn tht t dp b.

T ng pháp này không nh trí ca ngưi khác cùng thut gì khác. Có ngưi thy ngay như m kho tàng ly vt báu, như m con trai ly ht ngc, ánh sáng phát t bên trong, bóng trùm pháp gii. Bài tng trong kinh nói:

Như ngưi đưc kho báu

Trn đi lìa nghèo kh

B-tát đưc Pht pháp

Lìa cu, tâm thanh tnh.

Nếu ngưi chng t ng thì t sinh chưng ngi. Lun Thông Tâm nói: “Chân thưng không biến đi, còn sinh dit thì t di đi; chí lý viên thông, chp vào khuôn kh mà đến ni cách xa. Đây đu là mê t tính, ch cy thông minh mà cn phi chính con mt mình tròn sáng không đ ngưi khác xoay chuyn”.

Như Dung đi sư làm bài tng:

Chó mù sa bi c

Ngưi đui la cp d

Chy theo tiếng nên mê

Bi vì mt không thy.

Nếu lúc tâm khai m chiếu soi đo lý, các kiến chp đu dt bt, chng thy Pht pháp là phi, chng thy thế pháp là trái, vì trong t tính ngôn ng, suy tư đu dt sch.Như nói “vô s th” là b, cũng không nên đt b ca Pht bên “hu s th”. Nay không cn đt đ gì c, th nó t hư huyn, như bình báu lưu ly dù đt đâu cũng không mt tính cht ca nó. Nếu biết vic này thì mc cho các bóng sc đp xu ca phàm Thánh hin trong y mà tính kia vn chng đng; ngưi không biết lin theo hình sc trưc mt biến đi phân bit đp xu ri sinh ưa chán. Do đó Tsư nói: ‘Theo dòng nhn đưc tính, chng mng cũng chng lo’.

Lun Khi Tín nói: ‘Tâm sinh dit môn nghĩa là nương Như Lai tng có tâm sinh dit chuyn, chng sinh dit cùng vi sinh dit hòa hp chng phi mt chng phi khác, gi là A-li-da thc’. Có hai nghĩa: Hay bao gm tt các pháp (năng nhiếp), hay sinh tt c pháp (năng sinh). Li có hai nghĩa: 1- nghĩa giác. 2- nghĩa bt giác. Giác nghĩa là tính ca tâm đ nht nghĩa, lìa tt c tưng vng nim. Vì lìa tt c tưng vng nim nên trùm khp hư không pháp gii, nht tưng pháp gii tc là pháp thân bình đng ca tt c Như Lai. Nương nơi pháp thân này nói tt c Như Lai là bn giác, do đi vi th giác lp thành bn giác, nhưng lúc th giác tc là bn giác, không riêng khi giác. Lp th giác nghĩa là nương bn giác có bt giác, nương bt giác nên nói có th giác. Li vì giác tâm nguyên nên gi là cu cánh giác, bt giác tâm nguyên nên chng phi là cu cánh giác; cho đến vì có tâm vng tưng cho nên hay biết rõ danh nghĩa là nói chân giác. Nếu không có tâm bt giác thì không có t tưng ca chân giác đ nói”.

S thích nói: Nếu theo nhim, theo dòng thành ra bt giác, đó là thuc pháp thế gian. Nếu bn giác bt biến cùng vi th giác nghch dòng là thuc pháp xut thế gian.

Sao gii: Nói v s “nhiếp pháp” trong hai th giác: th giác và bn giác. Nếu thuc bn giác tc là nghĩa đi trí tu quang minh, là nghĩa soi khp pháp gii, là nghĩa chân tht thc tri v.v... Nếu thuc th giác, tc là tam minh, bát gii thoát, ngũ nhãn, lc thn thông, thp lc, t vô úy, thp bát bt cng pháp v.v... Nhưng dù nghĩa và li có khác tht ra cũng như nhau.

Cho nên S nói trong môn sinh dit lưu chuyn bt giác, nghch dòng th giác. Đi vi nghĩa dng thì nhiếp pháp không đng. Trong chân như môn thì dung dung hàm nhiếp nhim tnh chng khác, nghĩa là đem lý nht chân như đ dung thông khiến cho nhim là chng phi nhim, tnh chng phi tnh, tc nhim tc tnh sâu xa làm thành nht v nên không khác.

Như lun nói: Tt c các pháp vn lìa tưng nói năng, lìa tưng danh t, lìa tưng tâm duyên, tuyt đi bình đng, không biến đi, không th phá hoi, ch là nht tâm nên gi chân như. Nên biết rng tùy theo duyên giác hoc bt giác dưng như sinh nhim tnh duyên sinh vô tính nên nhim tnh đu không tht.

Li nói: “Lìa tưng ngôn thuyết đâu có th nói bàn đưc; lìa tưng tâm duyên làm sao có th đem tâm suy lưng”, nghĩa là tâm tư và li nói đu dt, ch chng mi tương ưng!

Ngôn thuyết ca phàm phu t giác quán sinh, là cng tưng hòa hp ri khi phân bit; do ý thc sinh, là t suy tính so lưng mà khi. Nói tóm li, đu do bt giác, giác quán theo đó sinh. Nếu không có tâm bt giác, tt c các pháp đu không có t tưng đ nói, tr b môn phương tin mà vì mun khai th đo cu cánh hưng đến vô ngôn.

Do đó lun nói: “Nếu lìa tâm bt giác thì không có t tưng chân giác đ nói, bi vì giác là đi đãi vi bt giác mà nói, cùng chuyn đi nhau. Nếu không có bt giác, giác không có t tưng, như mt bàn tay không v nên tiếng”. T điu này suy nghĩ chúng ta mi thy cho đến các pháp nhim tnh cũng như thế đu do đi đãi mà có, không có t th. Như lìa dài đâu có ngn, lìa cao đâu có thp. Nếu vào trong Tông Cnh t nhiên dt bt đi đãi.

Trong Sao hi: Sinh dit, chân như đu nhiếp các pháp, chng biết nghĩa nhiếp này ging nhau hay khác nhau?

Đáp: Khác nhau. Vì sao trong môn sinh dit gi là cai nhiếp (bao gm), trong môn chân như gi là dung nhiếp? Vì cai nhiếp nên nhim tnh đu có, vì dung nhiếp nên nhim tnh đu mt; đu mt nên mt v chng phân, đu có nên rõ ràng sai bit.

Lun Ma-ha-din nói: “Hai th giác có hai môn: 1- Nói sơ lưc bn giác an lp môn. 2- Nói sơ lưc th giác an lp môn”.

Trong môn bn giác có hai môn: Mt là thanh tnh bn giác môn, hai là nhim tnh bn giác môn. Trong môn th giác cũng có hai môn: Mt là thanh tnh th giác môn, hai là nhim tnh th giác môn.

Thế nào là thanh tnh bn giác? Pháp thân sn có t vô th đến nay đy đ viên mãn Hng sa đc vì thưng sáng sch.

Thế nào là nhim tnh bn giác? T tính thanh tnh tâm b vô minh huân, lưu chuyn sinh t không dt.

Thế nào là thanh tnh th giác? Tính trí vô lu ra khi tt c vô lưng vô minh vì không b vô minh huân.

Thế nào gi là nhim tnh th giác? Vì bát-nhã b vô minh huân không th lìa.

Các th giác này đu là quyến thuc ca trí, phi chng lý gì đ làm th phn, nghĩa là tính chân như và lý hư không. Hai lý này mi lý có hai loi: Thế nào là hai th chân như? Mt là thanh tnh chân như, hai là nhim tnh chân như. Lý hư không cũng như vy.

Thế nào là thanh tnh chân như? Vì hai th tnh giác ch chng chân như lìa huân tp.

Thế nào là nhim tnh chân như? Vì hai th nhim tnh giác chng chân như chng lìa huân tp. Lý hư không cũng như vy. Do nghĩa gì mà min cưng gi là bn giác sai bit tưng nó như thế nào?

Tng nói:Bn giác đu riêng có mưi, th tuy đng, trên t s mi mi sai bit, đó là các nghĩa căn, minh v.v...

Lun nói: Bn giác có mưi. Thế nào là mưi bn? Mt là căn t s bn pháp thân sn có, hay khéo gìn gi tt c công đc, ví như r cây khéo gi gìn tt c cành lá và hoa trái không hoi, không mt. Hai là bn t s bn pháp thân sn có, vì t vô th đến nay tính t nhiên có, không phi mi khi. Ba là vin t s bn pháp thân sn có, vì khi đ đc thì trùng trùng lâu xa không phân gii hn. Bn là t t s bn pháp thân sn có, vì ta t làm thành ta vì chng phi ngưi khác làm thành ta. Năm là th t s bn pháp thân sn có vì làm ch nương ta cho các diu đc. Sáu là tính t s bn pháp thân sn có, vì nghĩa bt chuyn thưng kiến lp. By là tr t s bn pháp thân sn có, vì tr nơi vô tr không đến đi. Tám là thưng t s bn pháp thân sn có, vì tht tế quyết đnh không lưu chuyn. Chín là kiên t s bn pháp thân sn có, vì xa lìa tưng gió nên vng chc bt đng như kim cương. Mưi là tng t s bn pháp thân sn có, vì nó rng ln tròn đy khp tt c nên thông th.

Thế nào là mưi giác? 1- Cnh t s giác, vì trí tu bát-nhã thanh tnh sáng sut không trn ly. 2- Khai t s giác, vì trí tu bát-nhã thông đt biết sut không chưng ngi. 3- Nht t s giác, vì trí tu bát-nhã đc tôn, đc nht, không th so sánh đưc. 4- Ly t s giác, vì trí tu bát-nhã t tính gii thoát, xa lìa tt c ràng buc. 5- Mãn t s giác, vì trí tu bát-nhã t có đy đ vô lưng công đc. 6- Chiếu t s giác, vì trí tu bát-nhã phóng đi quang minh khp vô lưng cnh. 7- Sát t s giác, vì trí tu bát-nhã thưng hng sáng sut, không mê lon. 8- Hin t s giác,vì trong th thanh tnh ca trí tu bát-nhã các quyến thuc tnh phm đu có mt. 9- Tri t s giác, vì trí tu bát-nhã biết tn cùng tt c pháp. 10- Giác t s giác, vì trí tu bát-nhã có công đc ch giác chiếu, không pháp nào mà không giác. Ý nghĩa văn t ca mưi th bn giác như thế ch căn c vào mt loi bn tính pháp thân, tùy theo nghĩa mà gii thích khác nhau ch có t th không khác mà thôi. Hai th bn giác đưc nói đến đây, bn giác nào là bn giác thanh tnh, chng phi bn giác nhim tnh. Nghĩa ca bn giác nhim tnh sai bit tưng nó ra sao?

Tng rng:

Trong bn giác nhim tnh

Hoc đu có mưi nghĩa

Trưc nói trong mưi vic

Vì đu có tính lìa.

Lun nói: Trong bn giác này, đu riêng có mưi. Vì sao? Trong mưi nghĩa trưc đu có cái nghĩa chng gi t tính, t s phi hp thuc ‘y hưng’ cn phi biết. Như vy hai th giác này là đng hay khác, vì chng đng nên đng, vì chng khác nên khác. Do nghĩa này nên hoc đng hoc khác hoc chng phi đng chng phi khác, cho nên đu là phi và chng phi mà thôi. Do nghĩa gì gưng gi là th giác, t s sai bit tưng nó như thế nào?

Tng:

T vô th đến nay

Lúc không có hoc lon

Ngày nay mi tnh giác

Nên gi là th giác.

Lun nói: T vô th đến nay lúc th giác bát-nhã không có hoc lon, ngày nay va mi giác nên gi th giác; như vy th giác trưc hoc lon sau thì giác y chng phi là th giác. Và lúc không có hoc lon lý thưng hin, nay thưng mi bt đu nên là th giác. Th giác như thế, trong hai th giác phi là th giác nào? Thanh tnh giác hay phi nhim tnh giác? Nhim tnh th giác, t s sai bit tưng nó như thế nào?

Tng:

Trí th giác thanh tnh

Vì chng gi t tính

Mà hay chu nhim huân

Nên gi nhim tnh giác.

Tuy lúc không mê nhưng vì không gi t tính nên hay chu nhim huân tùy duyên lưu chuyn, do nghĩa này nên gi là nhim tnh th giác.

Do nghĩa gì gưng gi là chân như? T s sai bit tưng nó như thế nào?

Tng:

Tính chân như lý th

Bình đng bình đng nht

Vì không có nhiu tưng

Nên gi là chân như.

Lun nói: Tính chân như, lý bình đng bình đng, tuy đng mt tưng, cũng không mt tưng cũng không có nhiu tưng. Vì không mt tưng cho nên xa lìa đng duyên; vì không có nhiu tưng cho nên xa lìa d duyên. Do nghĩa này nên gi là chân như. Như thế chân như này là ch hai th tnh trí đích thân ni chng. Li na, chân như có mưi nghĩa. Thế nào là mưi chân? Mt là căn t s chân, cho đến th mưi là tng t s chân. Như thế mưi chân cùng mưi bn nghĩa tương ưng đu có, không xa lìa nhau, cho nên đng danh biu th mà thôi. Thế nào là thp như? Mt là cnh t s như, cho đến th mưi là giác t s như. Như vy mưi như cùng nghĩa giác tương ưng đu có, không xa lìa nhau cho nên đng danh biu th mà thôi. Vì sao? Vì mưi th chân lý pháp thân có đc phương tin; thp chân như lý trí tu bát-nhã có giác phương tin, do nghĩa này nên có ngôn t biu th như vy. Trong hai th chân như, phi là chân như nào? Là thanh tnh chân như hay phi nhim tnh chân như? Nhim tnh chân như, t s sai bit tưng nó như thế nào?

Tng:

Lý chân như thanh tnh

Vì chng gi t tính

Mà hay chu nhim huân

Là nhim tnh chân như.

Lun nói: Chân như thanh tnh t vô th đến nay t tính thanh tnh bình đng, chng sinh, chng dit, chng đến, chng đi, cũng không ch tr nhưng vì lý tính chân như chng gi t tính tùy duyên đng chuyn cho nên gi là nhim tnh chân như. Như thế chân như này là ch hai trí nhim tnh đích thân ni chng, tương ưng cùng có, không xa lìa nhau. Nhng nghĩa này đã nói ri, ch cn so sánh lin biết.

Do nghĩa gì gưng gi là hư không? T s sai bit tưng y thế nào? Hư không có mưi nghĩa, th tuy đng nhưng s nghĩa đu riêng sai bit, như vô ngi v.v...

Lun nói: Tính hư không, lý có mưi nghĩa:

1- Nghĩa không chưng ngi, vì trong các sc pháp không chưng ngi.

2- Nghĩa trùm khp, vì không nơi nào mà không đến đưc.

3- Nghĩa bình đng, vì không có la chn.

4- Nghĩa rng ln, vì không có gii hn.

5- Nghĩa vô tưng, vì bt các sc tưng.

6- Nghĩa thanh tnh, vì không có trn ly.

7- Nghĩa bt đng, vì không có thành hoi.

8- Nghĩa hu không, vì dt hu lưng.

9- Nghĩa không không, vì lìa chp trưc “không”.

10- Nghĩa vô đc, vì chng th chp th.

Mưi s nghĩa này có dng khác nhau nhưng căn c trên th thì không khác. Lý hư không này là ch ca hai th tnh trí đích thân ni chng, tương ưng cùng có, không xa lìa nhau.

Trong hai th hư không, phi là hư không nào ? Thanh tnh hư không hay là phi nhim tnh hư không? Nhim tnh hư không, t s sai bit, tưng nó thế nào?

Tng:

Lý hư không thanh tnh

Do chng gi t tính

Nên hay chu huân tp

Là nhim tnh hư không.

Lun nói: Thanh tnh hư không có đy đ mưi đc cũng không có tưng nhim, cũng không có tưng tnh nhưng vì tính hư không chng gi t tính nên hay chu nhim tnh huân tùy duyên lưu chuyn, do đó gi là nhim tnh hư không.

Khi Tín Lun S nói: “Bn giác là vì đi vi th giác nên nói là bn giác. Nói ly nim là lìa vng nim hin bày tính giác. Đng hư không đng nghĩa là không phi không có s m ti ca bt giác, mà còn có nghĩa ca ánh sáng đi trí tu v.v...”.

Hư không có hai nghĩa đ so sánh vi bn giác. Mt là nghĩa chu biến, nghĩa là ngang khp ba thi, dc thông phàm Thánh nên nói là trùm khp. Hai là nghĩa vô sai bit, nghĩa là dù ti trin hay ra khi chưng, tính hng không hai nên pháp gii nht tưng. Mun biết rõ nghĩa giác tưng xut trin hin bày nên nói tc là pháp thân Như Lai bình đng. Giác ng pháp thân lý y chng phi mi thành cho nên nói y vào pháp thân này gi là bn giác.

Lun Vô Tính Nhiếp nói: ‘Trí vô cu vô quái ngi đưc gi là pháp thân”.

Kinh Kim Quang Minh gi đi viên cnh trí là pháp thân, cũng là nghĩa này vy. Vì sao? Xét li ch lp danh có hai ý trách: 1- Trong chương m đu nói thng nghĩa giác, ti sao bây gi kết lun gi là bn giác. 2- trong đây đã gi là bn giác, vì sao trong lun li nói thng là giác, đây là trách tiến thoái vy.

Gii thích: Vì đi vi th nên gi là bn, đây là đáp cho ý ban đu. Do th đng vi bn, cho đến lúc tâm nguyên th giác đng vi bn giác, vì không có hai tưng, do đó trong lun ch nói ‘giác’, thôi, đây là đáp cho ý sau. Vì bn giác theo nhim sinh ra th giác, tr li đi đãi vi th giác mi gi là bn giác. Nhưng th giác này là ch thành tu ca bn giác, tr li khế hp vi tâm nguyên, hàm cha cùng mt th, mi gi là th giác, nên nói th giác đng vi bn giác.

Hi: Nếu th giác khác vi bn giác thì không thành th giác; nếu th đng vi bn thì không có s khác bit vi th giác, làm sao nói là đi vi th nên gi là bn?

Đáp: Nay trong môn sinh dit, căn c vào nghĩa tùy nhim, biu l bt giác bn giác nên nói v th giác; tht ra th giác lúc đến tâm nguyên thì duyên nhim đã hết thì th bn không khác, bình đng tuyt ngôn tc là nhiếp v môn chân như,vì thế tên gi ca bn giác trong môn sinh dit không phi trong môn chân như. Th giác th hai là tên trùng lp, nương theo bn giác có cái bt giác, nói rõ nguyên do khi th giác nghĩa là tâm th này theo vô minh vng đng khi ra vng nim, nhưng do sc huân tp bên trong ca bn giác nên dn dn có chút tnh giác biết nhàm chán s mong cu cho đến cui cùng tr v đng vi bn giác cho nên nói là y bn giác. Thế nên y bn giác có bt giác, y bt giác có th giác. Lun nói: Bn giác theo nhim sinh ra trí tnh tưng, đây là th giác.

Đi ý trong đây là “minh” bn giác thành bt giác, bt giác thành th giác, th giác đng bn giác; vì đng bn giác nên không gì chng giác. Vì không bt giác nên không bn giác; vì không bn giác nên bình đng, bình đng lìa ngôn ng, bt nghĩ suy. Thế nên Pht qu viên dung, vng lng không nương gá; đã không có s sai khác gia th giác và bn giác hung chi là s khác bit gia ba th thân. Ch tùy vt tâm hin cho nên nói đến cái dng ca báo (thân) và hóa (thân).

Li nay căn c chân như là bn giác, vô minh là bt giác. Chân như có hai nghĩa: 1- Bt biến. 2- Tùy duyên. Vô minh cũng có hai nghĩa: 1- Vô th tc là không. 2-Hu dng thành s. Tùy duyên chân như và thành s vô minh này mi th đu có hai nghĩa: 1- Vi t thun tha. 2- Vi tha thun t.

Trong vô minh, vi t thun tha có hai nghĩa: 1 - Phn đi s t bày tính đc. 2- Biết danh nghĩa mà thành tnh dng. Vi tha thun t cũng có hai nghĩa: 1- Che lp chân lý. 2- Thành lp vng tâm.

Trong chân như, vi tha thun t có hai nghĩa: 1- Xoay vng nhim đ hin t đc. 2- Ni huân vô minh khi tnh dng. Vi t thun tha cũng có hai nghĩa: 1- n t chân th. 2- Hin hin vng pháp.

Do nghĩa phn đi s t bày tính đc trong vô minh và nghĩa xoay vng đ hin đc trong chân như, t hai nghĩa này có đưc bn giác. Li do nghĩa biết danh nghĩa trong vô minh và nghĩa ni huân trong chân như, t hai nghĩa này có đưc th giác. Li do nghĩa che lp chân lý trong vô minh và nghĩa n th trong chân như nên có đưc căn bn bt giác. Li do nghĩa thành vng trong vô minh và nghĩa hin vng trong chân như nên có chi mt bt giác. Nói tóm li, giác và bt giác nếu dung hp tng nhiếp ch nm trong mt môn sinh dit. Môn chân như là nói trên th tuyt tưng, môn bn giác là nói trên mt tính đc. Đi trí tu quang minh đng nghĩa vi giác; bn là nghĩa ca tính, giác là tâm trí tu.

Sao thích nói: Bt biến trong chân và th không trong vng to thành môn chân như; tùy duyên trong chân và thành s trong vng to thành môn sinh dit; cho đến tt c tnh duyên gii hn pháp tưng đu thuc v hai th giác, tt c nhim duyên gii hn pháp tưng thuc v hai th bt giác. Li th ca tnh pháp thuc v bn giác, dng ca tnh pháp thuc v th giác. Th ca nhim pháp thuc v căn bn bt giác, tưng ca nhim pháp thuc v chi mt bt giác. Li th giác là ngn chng lìa gc ca bn giác.

Lun nói: Th giác tc đng bn giác. Li nói. Tht ra không có s khác bit ca th giác, vì bình đng đng mt th giác; chi mt bt giác chng lìa căn bn bt giác.

Lun nói: Nên biết vô minh hay sinh tt c nhim pháp, bi vì tt c nhim pháp đu là tưng bt giác. Nhưng hai th giác này ch là th dng sai khác. Hai th bt giác bn, mt ch khác nhau ch thô và tế; đâu có th lìa th có dng, lìa tế có thô?

Cái mê căn bn ca chúng sinh có hai: 1- Mê pháp nghĩa là vô minh tr đa mê m che lp pháp th. Pháp đó là tâm chúng sinh gi là tế ý (ý che lp), bi vì vô minh này là gc ca vng hoc, là cái ban đu ca mê chân. 2- Mê nghĩa thông t tr hoc, do s ngu si trưc cho nên mê m che lp cái nghĩa nhân duyên vô ngã, vng lp các pháp, mê các pháp thy có trong có ngoài nghĩa là kiêu mn, tà kiến đây là da vào bên trong mà mê; vng lp ngã pháp, t cao xem thưng mi vt, ái nim, tà kiến, đây là da vào bên ngoài mà mê; lm cho rng có ngã s và cnh gii bên ngoài ri sinh tham ái, như con nai khát nưc đui theo sóng nng, như khi mò trăng dưi nưc, tha h vng chp đ oan ung đi vào đưng kh, đu là t mê tâm ch chng phi do li nào khác.

Lun Đ Chính nói: ‘Tâm là li ca Như Lai suy tôn Thánh đa, thân là nói b cách bit vi phàm phu, nếu chng ng thì công đc vô lưng cũng ch là gang tc, tht ra tưng đp rõ ràng chng ra ngoài m gii”.

Li ghi trên bia nói:

Pháp tính bình đng, tht tu hư thông,

Ngã đng vi d, nhân d vi đng.

Chng hoi nơi hu, chng th nơi không,

Đo chng ngoài tâm, Pht trong tâm.

Hi: Vng tâm bt giác vn không có t th; nay đã giác ng, lúc vng tâm khi không có tưng ban đu thì hoàn toàn thành chân giác. Tưng chân giác này là theo vng cùng dp b hay là nên kiến lp trưc sau?

Đáp: Nhân vng nói chân, chân không có t tưng; t chân khi vng, th ca vng vn rng; vng đã v không thì chân cũng chng lp. Lun Khi Tín nói: “Nghĩa bt giác, nghĩa là vì t vô th đến gi không biết như tht mt pháp chân như nên tâm bt giác khi mà có vng nim.T không tht tưng chng lìa bn giác, cũng nhưngưi mê vì y c phương hưng cho nên lm lc; cái mê lm không có t tưng và chng lìa phương hưng. Chúng sinh cũng thế, nương nơi giác mà có bt giác, vng nim mê sinh; nhưng bt giác kia t nó không có tht tưng và chng lìa bn giác. Li đi đãi vi bt giác nên nói chân giác. Bt giác đã không thì chân giác cũng chng còn”.

Đây là nói v tên gi chân giác đi đãi vi vng tưng. Nếu lìa bt giác thì không có t tưng ca chân giác đ nói, đây là nói chân giác đi đãi vi bt giác. Nếu chng đi đãi thì không có t tha. Do đi đãi vi cái khác (tha) mà có cũng không có t tưng. T tưng đã không thì làm sao có đưc tha tưng? Đây là hin bày nghĩa các pháp vô s đc.

Lun nói: Nên biết tt c các nhim pháp, tnh pháp đu là đi đãi, không có t tưng đ nói.

Lun Đi Trí Đ nói: ‘Nếu thế đế có mt chút tht hu thì đ nht nghĩa đế cũng phi có tht hu’.

K nói:

Lúc Pht ngi đo tràng

Chng đc mt pháp tht

Nm tay không di tr

Dn d đ tt c.

Mt khi lp chân vng

Đu là theo ý ngưi,

Thuc li nói giáo hóa.

Nếu ngưi cht thy tính,

Ai bàn lun vic y.

Nếu như ngay lúc này

Chng trc ng nht tâm

Thy đu là tà vy

Dù bên ngoài tìm Pht

Đu chng phi chân chính.

Hàn Sơn41 làm thơ:

Làm trai đáng chí trai

Hành đng ch thô tc

Tâm rn ri st đá

Thng đến no b

Đưng quanh chng thèm đi

Hành trình nhiu cay đng

Chng cn cu qu Pht

Biết làm ch tâm vương.

Thế mi biết nếu thy có pháp đ cu, có đo đ tu, đu là đánh mt cái nghĩa t tông ca tâm vương. Nếu thng vào Tông Cnh thì muôn vic đu thôi dt, tình phàm Thánh hết sch, đưc an lc diu thưng, lìa đây khi tâm đu thành nhc nhn. Cho nên Phó đi sĩ làm bài tng:

Núi phía đông ni trên mt nưc

Núi phía tây đi mãi chng dng

Diêm-phù dưi ánh sao Bc đu

Là nơi gii thoát chân tht.

Đưng d đi,

Đưng d đi mà ngưi chng biết.

Na đêm trên đu trăng sáng soi

Chng “ng” tht nhc nhn!

Bài k ng đo ca hòa thưng Đng Sơn nói:

Trưc kia vt vt mun cu thông

Ch vì chng biết rõ đưc tông

Ngày nay thy rõ toàn vô s

Mi hay vn pháp vn là không.

Hi: Chân đế chng lm, bn giác chng hư (rng) vì sao li cùng vi vng đng thi dp b?

Đáp: Nhân mê lp giác, nói vng đ bày chân, đu là theo cơ nghi, đu không có t th. Theo thế tc thì có căn c trên tht đế là không; ch tr dp tên gi đi đãi nhau, chng phi là dit mt tính linh. Tính tuy bt đi đãi, s có đi tr; đui dp là vì phá tình chp, kiến lp là vì tr đon kiến, kh hnh là vì đ hàng phc ngoi đo, dùng thn thông nhm giáo hóa k ngu si, tam-mui hàng phc thiên m, ‘không quán’ tr b s vưng mc các tưng, thy kh dt tp là vì đi tr ngưi tăng thưng mn, chng dit tu chân đu tr thành trò hí lun, tt c đu là ‘quyn trí’ đưa vào tông này. Như thế thì không có mt pháp đ truyn, không có mt pháp đ dp, bn ma chng th làm gim bt, đi giác chng th làm tăng thêm, xoay v tâm thì nghĩa lý đu tiêu mt, rõ ý ch thì danh ngôn t dt.

Hi: Đã nói rng chân tâm bt du vết, lý vưt khi hu vô, vì sao trong giáo li nói rng v ý ch vô sinh vô tưng?

Đáp: Môn nht tâm vi diu khó xét đến cùng tn, công đc đy đ, lý s dung thông, tri gii không th thu, phân bit chng đến đưc. Nói “vô tưng” tht ra là không có pháp đưc gi là vô tưng. Cũng như vô sinh, cũng không có pháp đ hin lý vô sinh.

Lun Phát B Tâm nói: ‘B-tát quán tt c điu thin, bt thin, ngã, vô ngã, tht, bt tht, không, bt không, thế đế, chân đế, chính đnh, tà đnh, hu vi, vô vi, hu lu, vô lu, hc pháp, bch pháp, sinh t, niết-bàn, như pháp gii tính nht tưng vô tưng. Trong đây không có mt pháp có th gi là vô tưng, cũng không có mt pháp đưc xem là vô tưng; đây gi là nht thiết pháp n bt kh hoi n; trong n này cũng không có n tưng, đây gi là trí tu chân tht”.

Gii thích: Nht thiết pháp n nghĩa là đem tâm n này n vào tt c pháp đ xác đnh s chân tht. Bt kh hoi n nghĩa là vì tt c các pháp có, không, trong, ngoài đu không có th phá hoi. Trong n này cũng không có n tưng nghĩa là muôn pháp đu không cũng không có s n. Pháp s n đã không, trí năng n cũng chng có, thông đt như vy gi là trí tu chân tht.

C đc nói: Xét li pháp này là bn nguyên ca chúng sinh, là ch chng ca chư Pht, siêu vit tt c lý, lìa tt c tưng; không th dùng ngôn ng, trí thc, hu vô, n hin đ suy tìm đưc, ch có tâm tâm in vào nhau, n n khế hp nhau; làm cho t chng biết ánh quang minh t th dng mà thôi.

Hi: Lp tâm làm tông, ly gì làm mc tiêu?

Đáp: Ly tín hnh đc qu làm mc tiêu, vì thế trưc hết lp đi tông sau đó quy thú, cho nên nói ch tôn trng ca ngôn ng là tông, ch hưng v ca tông là thú, lin dt đưc hoài nghi phát khi lòng tin trn vn và hiu biết chân chính, thành chân tu viên mãn qu chân thưng đt đến cu cánh giác ng.

Duy thc tính bao gm đy đ bn pháp: giáo, lý, hnh, qu. Tâm năng thuyên là giáo, tâm s thuyên là lý, tâm năng thành là hnh, tâm s thành là qu.

Pháp sư Pháp Tng42 căn c theo kinh Hoa Nghiêm, kinh này lp nhân qu, lý duyên khi, thp pháp gii làm tông ch.

Gii thích: Pháp gii nhân qu cùng dung cùng lìa, tính tưng hn nhiên vô ngi t ti, có mưi nghĩa môn:

1- Do lìa tưng cho nên nhân qu chng khác pháp gii, tc nhân qu là phi nhân qu, đây là tc tưng làm tông, ly tưng làm thú; hoc ly tưng làm tông, vong nhân qu làm thú.

2- Do lìa tính nên pháp gii chng khác nhân qu, tc pháp gii là phi pháp gii.

3- Do lìa tính mà chng mt tính nên khi pháp gii tc là nhân qu, pháp gii rõ ràng thì cho phi pháp gii là pháp gii.

4- Do lìa tưng mà chng hoi tưng nên khi nhân qu tc là pháp gii, nhân qu rõ ràng thì cho phi nhân qu là nhân qu.

5- Vì lìa tưng không khác lìa tính nên nhân qu pháp gii song dn (cùng mt), câu dung (cùng bao hàm), vưt qua li nói và s suy nghĩ.

6- Do chng hoi, chng khác, chng mt nên nhân qu pháp gii cùng tn ti, rõ ràng trưc mt có th thy đưc.

7- Do hai môn tn và dn (năm và sáu) li không khác nên diu pháp siêu vit thy nghe mà luôn luôn thy nghe thông sut, bt nghĩa suy lưng sâu xa, chưa tng chưng ngi đi vi ngôn t và ý nim.

8- Do vì tính pháp gii hàm dung nên không th phân, tc là nhân qu ca pháp gii đu đng thi, hoàn toàn thu nhiếp vào pháp gii.

9- Lúc nhân qu hoàn toàn nhiếp vào pháp gii, nhân qu theo pháp gii đu cùng hin ra trong nhân qu. Do đó trong Pht có B-tát, trong Ph Hin có Pht.

10- Hai v nhân qu đu tùy theo pháp sai bit, đu bao gm pháp gii cho nên tt c pháp, tt c hnh, tt c v, tt c đc, đu chung nhiếp v vô tn vô tn lưi tri, lp lp các bin pháp môn.

Đây gi là tông thú vô tn ca Hoa Nghiêm. Vì tht giáo Hoa Nghiêm gm nhiếp các kinh, nêu ra viên tông vô tn có th bao trùm muôn pháp, có th gi là chu biến vô ngi, t ti dung thông, mi biu hin đưc tâm ta có th thành Tông Cnh.   

Hi: Ly tâm làm tông chính mch thin môn, nhưng tâm ch là tên gi, ly gì làm th?

Đáp: T trưc đến nay, các hc gi phn đông đu chp vào văn t, trái tông ch, chng rõ th, ch nhn ly tên gi. Ngưi nhn danh mà quên th làm sao thu đáo ch chân tht? Ngưi chy theo ch nghĩa, mê m ý ch thì làm sao khế hp vi ngun đo? Thế thì tâm là tên gi (danh) ly cái biết làm th. Tính linh tri này t thn gii, chng ging như vng thc phi nương vào duyên, gá vào cnh tác ý mà biết, cũng không phi như hư không rng rang đon dit, vô tri.

Triu Lun nói: “Bát-nhã vô tri là cái biết không chp tưng”.

Ngưi bình thưng đu nói bát-nhã là trí, trí là có biết; nếu có biết thì có chp trưc; có chp trưc thì không khế hp vô sinh. Nay nói rng bát-nhã chân trí vô tưng vô duyên, tuy soi xét chân đế mà không chp tưng nên nói là vô tri.

Kinh nói: “Tâm ca Thánh nhân vô tri nhưng không điu gì mà không biết”.

Kinh li nói: “Chân bát-nhã thanh tnh như hư không, vô tri,vô kiến, vô tác, vô duyên”, đây là t biết vô tri ri đâu cn đi phn chiếu sau đó mi vô tri. Ch tính biết này t vô tri, chng đi quên tính quên. Nh chân tri này nên không rơi vào cnh hu vô, vì thế chư Pht có bí mt giáo, T sư có mt truyn; tông mt truyn ch chính mình âm thm tnh giác lin tương ưng, không th biu th bng li nói. Nếu ngưi sáng t tông thì rõ ràng không mê m, lng l thưng biết; rõ ràng chiếu soi mi l đâu phi nh vào thn thông hin hin; rc r không mt my bi chng thu đâu phi kh nhc dùng bin tài khéo léo đ din bày. Vì ngưi chng đt nên m ra môn phương tin đ cho h nương vào cái biết này không điu sâu kín nào mà chng thu.

Hi: Các pháp sinh ra ch là do tâm hin, li là t tâm biến hin hay li là tc tâm t tính?

Đáp: Là bn tính ca tâm, chng phi do tâm biến.

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Biết tt c pháp là t tính ca tâm, thành tu tu thân không do ngưi khác mà ng”.

Bài k trong kinh Pháp Hoa nói:

Trong ba nghìn thế gii

Tt c các mm mng

Tri, ngưi, a-tu-la

Đa ngc, qu, súc sinh

Các sc tưng như thế

Đu hin trong thân.

Như thế phi biết tâm tính bao trùm khp nơi, cho nên bn th sinh và chín loài đu hin ra trong t tính thân, vì t chân tâm là tính ca tt c muôn loài, cho nên tùy theo là sc không cùng khp pháp gii, theo nghip phát hin qu báo bt đng, nơi các loài chúng sinh thì chìm ni trong bin nghip, sinh t ni tiếp; nơi chư Thánh thì pháp thân viên mãn, diu dng vô cùng n hin tuy khác nhưng mt tính bt đng.

Hi: Nếu tt c pháp là t tính ca tâm, vì sao li nói tính cũng phi tính?

Đáp: Tc t tính ca tâm là biu th đc tính (biu thuyên), do tt c pháp vô tính nên tc là tht tính ca tâm mình. Tính cũng phi tính đây là ngăn chn li lm (già thuyên). Nếu có th vưt lên biu thuyên già thuyên, bt dt là lìa tình chp, mi là thy tính, con mt ca chính mình đưc hoàn toàn sáng sut. Hin ti mun đn ng t tâm, khai tri kiến Pht, ch cn rõ đưc t tính khp mi nơi. H có thy nghe đu t tâm hin, ngoài tâm không có pháp nào có th tính, mi mi đu chng biết nhau, mi mi đu chng đến nhau, vì sao? Vì là mt pháp nên không có pháp đ biết nhau và đến nhau. Nếu có hai pháp tc là qua li vi nhau. Vì biết hoc phàm, hoc Thánh, hoc cnh, hoc trí đu đng mt tính, gi là vô tính. Ý ch vô tính này là mc tiêu đc đo, là đu mi ca s bình đng, là lý do nói v không, liu ng lin thành Pht, không cn dng công.

Như bài tng trong kinh Hoa Nghiêm nói:

Pháp tính vn không tch

Không gi cũng không thy

Tính không tc là Pht

Chng th suy lưng đưc.

Nếu không ngay đây tin đưc tâm này, dy nim chy tìm, cũng như ngưi si tránh hư không, như k mt đu điên cung b chy.

Đi sư Dung nói: “Phân bit phàm Thánh phin não càng nhiu, suy tính trái thưng, tìm cu chân, quay lưng vi chính”.

Lun Bo Tng nói: “Chăm chăm xét nét ch lung thêm nghĩ ngi vin vông, lo lng tìm cu bên ngoài càng đánh mt đo mu”.

Thế nên chư Pht mưi phưomg chính nim ngay đây th nhp ci ngun tht tính và nh đó mi m rng ca đi tu bình đng, làm ngưi bn không cn thnh ca chúng sinh.

Do đó phm Vn Minh nói: “By gi, B-tát Văn-thù-sư-li hi B-tát Giác Th: Pht t! Tâm tính là mt ti sao thy có các th sai bit như đi đến cõi lành cõi ác, các căn đ hay khuyết, s th sinh đng hoc khác, đp, xu; kh vui bt đng. Nghip chng biết tâm, tâm chng biết nghip; th chng biết báo, báo chng biết th; tâm chng biết th, th chng biết tâm; nhân chng biết duyên, duyên chng biết nhân; trí chng biết cnh, cnh chng biết trí.

B-tát Giác Th nói k đáp:

Nhân gi hi nghĩa này

Vì thc tnh ngưi mê

Tôi như tính kia đáp

Xin ngài hãy lng nghe

Các pháp không tác dng

Cũng không có th tính.

Cho nên tt c pháp

Mi mi chng biết nhau.

Như nưc trong dòng sông

Cun cun đy nhau đi

Mi mi chng biết nhau,

Các pháp cũng như thế.

Cũng như đng la to

Mt lúc bng rc cháy

Mi mi chng biết nhau,

Các pháp cũng như thế.

Cũng như gió bão khi

Quét sch hết mi vt

Mi mi chng biết nhau

Các pháp cũng như thế.

Cũng như các cõi đt

Xoay vn cùng tn ti

Mi mi chng biết nhau

Các pháp cũng như thế.

Mt, tai, mũi, lưi, thân

Tâm ý các tình căn

Do đây thưng lưu chuyn.

Nhưng cái không th chuyn

Là pháp tính vô sinh.

Th hin nên có sinh

Trong y không năng hin

Cũng không vt s hin

Mt, tai, mũi, lưi, thân

Tâm ý các tình căn

Tt c “không” vô tính

Vng tâm phân bit có

Như lý mà quán sát

Tt c đu vô tính.

Pháp nhãn bt tư nghì

Cái thy chng điên đo

Hoc tht hoc chng tht

Hoc vng hoc chng vng

Thế gian xut thế gian

Ch tm mưn li nói.

Sthích ghi:

Hi: Ý nói rõ tâm tính là mt, vì sao li thy các loi báo? Nếu tính theo s mà sai khác thì mt đi chân đế. Nếu s theo tính mà thành mt thì làm hoi tc đế. Gi s có ngưi nói thêm các th báo sai bit là do t nghip huân vào, thc biến hin không quan h gì đến tâm tính cho nên không trái nhau. Đ ngăn li y nên gn li nghip chng biết tâm, nghĩa là tâm và nghip nương vào nhau, mi th đu không có t tính; t tính đã không có thì đâu có th biết mà sinh các pháp; đã lìa chân tính đu không t lp, biết rõ vic này đu nương tâm mà khi. Tâm tính là mt, lý đáng không nhiu; s pháp đã nhiu, lý đáng tính chng phi mt. Đây là vn đ trưc sau trái nhau. Theo đây ý mun hi là lìa Như Lai tng chng chp nhn năng huân s huân ca thc th tám riêng có t th hay sinh các pháp, ch có Như Lai tng là nơi y c sinh ra các pháp. Văn-thù vì mun hin bày lý tht giáo nên đem tâm tính đ hi v “bn” đ khiến cho B-tát Giác Th nh pháp tính th hin sinh, nên khng đnh đáp.

Hi hi đng chng tâm tính là mt, nghĩa là tâm tính là Như Lai tng; và vì tâm tc là tính nên là tâm t tính thanh tnh. Li na, tính ca vng tâm là tính ca vô tính cho nên là không Như Lai tng. Vì tính ca chân tâm là tính ca tht tính cho nên là bt không Như Lai tng, đu bình đng không hai cho nên nói là mt. Li, tính ca vng tâm thành tính ca tâm, vng tâm là tưng vì tính tưng chng ging nhau. Tính ca chân tâm vì chân tâm tc là tính. Li nói tính ca hai th tâm trưc riêng nói v hai tng. Hai tính trưc đu có đ hai tng, ch vì b vng che lp nên gi là Như Lai tng, nói thng tng th tc là tâm t tính. Cho nên chân tâm t tính thanh tnh này không hp vi vng, gi là không Như Lai tng; có đ Hng sa đc thì gi là bt không Như Lai tng; trưc là nói v “tc ly”, đây là nói v “không hu” cho nên nêu ra ln na. Còn bo là bình đng không hai nghĩa là hai cái trưc tc ly bt đng. Do tính tc tâm nên bt tc, do tâm tc tính nên bt ly. Bt tc bt ly là tính ca tâm. Hai cái sau là cái tht ca tc không là bt không tng; cái không ca tc tht là không tng. Nhưng tính không, hu chng hai là tính ca tâm; nhưng không hu không có hai tính chính là tính bt tc bt ly nên ch nói là mt. Li không phi ch có bn tính là mt, nếu ta xét k nhng s vic hin tin đu chng biết nhau; đã có các th duyên gì chng biết nhau; đã chng biết nhau thì làm sao có th quán sát nhng th này t đâu có; đã chng biết nhau là do mt tính hay nhiu th?

Hơn na, câu hi có hai ý: 1- V bn thc, nghip là năng y, tâm là s y, vì lìa s không có năng nên nghip chng biết tâm; vì lìa năng không có s nên tâm chng biết nghip. Bi vì đu không có th dng không th làm thành cho nhau, đã chng biết nhau thì cái gì sinh ra các th. 2- V thc th sáu, nghip là s to, tâm là năng tạọ, thy đu chóng dit; lúc khi không nói ta khi, lúc dit không nói ta dit, sao có cái th mà đưc tương sinh thành các th? Li căn c trên cnh trí đi nhau thy nhau hư di chng khó nghĩa là cnh là tâm biến ra, cnh chng biết tâm; tâm gá cnh sinh, tâm không biết cnh; vì không có tâm ngoài cnh hay chp ly cnh ngoài tâm cho nên tâm cnh hư vng chng biết nhau.

Nghip chng biết tâm, tâm chng biết nghip có hai: 1- Xét trên bn thc, nghip là tâm s nên nương vào tâm. Tâm tc thc th tám là căn bn y, tc lìa s không có năng. Ti sao? Không có tâm vương s y thì không có nghip năng y. Nay nương vào tâm có nghip, nghip t duyên sinh nên không t tính, không th biết tâm. Nếu lìa năng không có s thì ri cái nghip năng y thì tâm chng phi là s y. Nay do nghip thành s, vì s y vô tính nên không th biết nghip nghĩa là đu t duyên thành tính không vô th, tương y không có sc mnh nên nói vô dng. Vì vy kinh nói: Vì không có th dng cho nên chng biết nhau. 2-Xét trên thc th sáu, nghip là s to, tâm là năng to; gi thc th sáu là tâm, vì do tích tp thông tưng mà nói, nghĩa là thc th sáu do chp vô minh, mê lý d thc ca nghĩa chân tht, do thin bt thin tương ưng riêng to các ti li; do ba hành là ti, phưc, bt đng huân thc A-li-da, hay cm các qu báo ca năm đưng ái, phi ái v.v... v nghĩa “chng biết nhau”, nói thông tưng là căn c không có th dng; nói theo bit tưng thì dng môn không đng. Dng này đi khái có hai môn:

1- Môn vô thưng: Kinh nói: “Thy đu chóng dit”. Phm Đ T trong kinh Tnh Danh nói: “Tt c pháp như huyn, như tia chp, các pháp chng đi đãi nhau, cho đến mt nim, vì các pháp đu là vng kiến nên chng tr các pháp, như thế tâm nghip đu không”.

Bài tng trong kinh Hoa Nghiêm nói:

Các báo tùy nghip sinh

Như mng chng chân tht

Nim nim luôn hoi dit

Trưc sau gì cũng vy.

Vì vô thưng nên các pháp không th biết nhau.

2- Môn vô ngã: Lúc khi không nói là ta khi, lúc dit chng nói là ta dit. Căn c vào pháp không ta (vô ngã) nói v chng biết nhau, th chng biết báo, báo chng biết ngưi th. Th là nhân năng th, báo là báo s th, là loi danh ngôn.

Lun Duy Thc nói: “Sinh t ni tiếp do bi các tp khí”.Tp khí gm có ba th: 1- Danh ngôn tp khí, 2-Ngã chp tp khí, 3- Hu chi tp khí.

Danh ngôn tp khí nghĩa là pháp hu vi đu là chng t khác nhau. Danh ngôn có hai: Mt là biu nghĩa danh ngôn, tc là hay thuyên bày nghĩa âm thinh sai bit; hai là hin cnh danh ngôn tc là hay biết rõ cnh pháp tâm tâm s; tùy theo hai th danh ngôn huân tp thành chng t làm ra pháp hu vi đu là nhân duyên khác nhau.

Gii thích: Các chng t khác nhau, nghĩa là vì ba tính khác loi. Hay thuyên bày ý nghĩa âm thinh, nghĩa là không có tiếng (thinh) vì không có tên (danh), tên là biu hin ca tiếng (thinh). Ch có tính vô ký không th huân thành các th sc tâm nhưng do danh khi chng, lp danh nói chng; hin cnh danh ngôn tc là kiến phn tâm ca thc th by, chng phi tưng phn tâm. Tưng phn tâm vì nó không th hin bày cnh. Kiến phn này thc s chng phi là danh ngôn. Như ngôn, danh nhm biu th ý nghĩa. Tâm tâm s năng hin và cnh s liu t như danh nói lên ý nghĩa, theo danh và ngôn đu huân thành chng.

Lun nói: Th ba là hu chi tp khí nghĩa là đưa đến nghip chng d thc trong ba cõi, hu chi có hai:

1- Hu lu thin: Hay chiêu qu nghip đáng ưa thích.

2- Chư bt thin: Hay đưa đến qu nghip xu. Tùy theo hai hu chi này đưc huân thành chng khiến cho qu d thc cõi thin ác khác nhau.

Bài tng trong lun nói:

Do tp khí các nghip

Hai th và tp khí

D thc trưc đã dit

Li sinh d thc khác.

Năng dn nghip này là tp khí các nghip. Danh ngôn chng này là nh th tp khí. Li nói là do nghip dn tc là cái nghĩa “cùng đi”. Nói gn qu th là do danh ngôn. Nếu không có nghip chng s không phi chuc ly s kh, vui như ht ging không có đt rung thì hoàn toàn không th ny mm. Cho nên danhngôn phi do nghip dn khi mi nhn ly cái báo kh vui ca qu d thc đi sau. Vì thế kinh Hoa Nghiêm nói: “Nghip là rung, thc là ht ging”. Nhng câu hi v “nghĩa chng biết nhau” đã gii thích, bây gi t tưng duyên khi gii thích. Câu đu: tưng nhân duyên tm gá đu vô lc. Câu kế: Vì qu pháp rng nên vô th tính. Do đó, duyên khi hư vng có ba nghĩa: Mt, do nương gá ln nhau mi mi đu không có th dng nên không biết nhau. Hai, do nương vào cái vô tri vô tính này mi có duyên khi. Ba, do pháp hư vng này mi mi đu không nên khiến cho chân lý vô tính luôn luôn hin hin. Qu t nhân sinh qu không có th tính, nhân do qu lp, nhân không có th tính; nhân vô th tính làm thế nào có cái dng cm qu; qu vô th tính làm sao có th đáp ng nhân? Vì nhân qu đi đãi nhau nên vô lc, vì ly cái khác làm mình nên vô th. Do đó th dng đu không, cho nên tt c pháp mi mi đu chng biết nhau.

Th ly t đi làm ví d: 1- Nương vào nưc có s trôi chy. 2- Nương vào la có khi dit. 3- Nương vào gió có đng tác. 4- Nương vào đt có s gìn gi. Trong bn pháp là: 1- Nương vào s tương tc ca chân vng. 2- Nương vào s khi dit ca chân vng. 3- Tác dng ca vng nương chân khi. 4- Vng b chân nm gi. Các ví d này mi th đu có ba nghĩa: 1- Ch là năng y. 2- Nương s y. 3- Ch có s y. Trong ví d đu ch có năng y là tuôn chy, nhưng s tuôn chy này có mưi nghĩa không biết nhau mà thành: 1- Dòng nưc chng t trôi chy, do dòng sau đy ti nên trôi chy, như thế dòng trưc vô t tính nên chng biết dòng sau. 2- Dòng sau tuy đy dòng trưc mà chng đến đưc dòng trưc nên cũng chng biết nhau. 3- Dòng sau chng t trôi chy do dòng trưc dn nên trôi chy, như thế dòng sau vô t tính cho nên chng biết nhau. 4- Dòng trưc tuy dn dòng sau mà chng đến sau nên cũng chng biết nhau. 5- Cái hay xô đy và cái đưc dn không hai nên chng biết nhau. 6- Cái hay dn và cái b xô đy không hai nên không biết nhau. 7- Cái hay xô đy và cái b xô đy không hai nên không biết nhau. 8- Cái hay dn và cái đưc dn không hai nên chng biết nhau. 9- Cái hay xô đy và cái hay dn không cùng đi vi nhau nên chng biết nhau. 10- Cái b xô đy và cái b dn cũng không đi vi nhau nên chng biết nhau. Do đó trưc sau chng đến vi nhau đu vô t tính. Ch do cái vô tri vô tính này mi có trôi chy, hn là chng trôi chy mà trôi chy.

Tăng Triu nói: Dòng sông trôi chy mà chng trôi chy, đó là nghĩa này.

2- Nương vào s y: Nghĩa là dòng trưc, dòng sau đu nương vào nưc, thy đu không có t th, không th biết nhau, nhưng chng hoi tưng trôi chy nên nói nưc chy.

3- Ch có s y: Dòng đã hoàn toàn không, ch là nưc, nưc trưc và nưc sau không có hai tính nên chng có th biết nhau. Như vy vn không có trôi chy mà nói trôi chy. Trong hai pháp có ba nghĩa: 1- Dòng nưc d cho vng pháp năng y. 2- Vng nương chân lp. 3- Vng hết ch còn chân. Ban đu vng duyên khi các pháp dưng như nương cy nhau mà đu chng đến vi nhau, thy đu vô t tính nên vô tính vô tri, do đó có mà không có.

2- Y s y: Vng pháp này mi mi t rng không mà hàm cha “cái chân tht” nên mi lp, làm sao th dng biết nhau và làm thành nhau. Do cái không biết không thành này hàm cha cái chân nên có, do đó chng có mà có.

3- Duy s y: Vng pháp năng y không có th dng ch có chân tâm hin hin rõ ràng, đã không có cái này cái kia làm sao biết nhau. Chính vì nghĩa này, vng pháp có tc chng phi có là có.

Li nơi chân tính n, vì chng n là n. Trưc sau có hai: 1- Trưc sau sinh dit. 2- Trưc sau cái này cái kia.

Trưc sau sinh dit nghĩa là trưc dit sau sinh đưa đến nhau và xô đy nhau, đây là nói theo chiu dc như tr vi già. Dòng nưc chy sinh dit trong sát-na. Sát-na trưc dit, sát-na sau sinh.

Trưc sau cái này cái kia, là nói theo chiu ngang cũng như hai ngưi cùng đi trên đưng hp, ngưi sau đy ngưi trưc, ngưi trưc dn ngưi sau. Tng phân nưc đu có trưc sau cho đến mt git nưc cũng có mt ít git nưc trưc và mt ít git nưc sau cho nên góp li nhiu thành dòng tuôn chy t hn là vô tính vy. Tiu Tha cũng nói đương x sinh dit, không chp nhn t nơi này chuyn đến nơi khác nhưng h chng biết cái nghĩa duyên khi vô tính.

 


37Nam Tuyền: Thiền tăng Phổ Nguyện đời Đường, hoằng pháp ở núi Nam Tuyền, Trì Dương.

38Huệ Năng: (638-713) Thiền tăng đời Đường, Tổ thứ sáu của Thiền tông, người khai sáng Nam tông, họ Lư.

39Hương Nghiêm Trí Nhàn (810-898) Thiền tăng đời Đường, họ Cao, tự Ngộ Chi, người Thanh Châu, nối pháp thiền sư Qui Sơn Linh Hựu. Sư ở núi Hương Nghiêm, Đặng Châu (Hà Nam), thiền lữ khắp nơi tụ hội, pháp hóa thịnh hành.

40Động Sơn Lương Giới (807-869) Thiền tăng đời Đường, tổ tông Tào Động, họ Du, người Chư Kị, Cối Kê, Chiết Giang, Trung-quốc, đắc pháp từ Vân Nham Đàm Thạnh. Sư xướng thuyết Ngũ vị quân thần.

41Hàn Sơn: Thi tăng đời Đường, sư sinh vào niên hiệu Cảnh Vân (710-711). Sư ở trong hang núi Thiên Thai vắng vẻ, lạnh lẽo, không biết rõ tên họ nên gọi là Hàn Sơn. Sư làm bạn với tăng nhân Thập Đắc chùa Quốc Thanh. Theo truyền thuyết, Sư là hóa thân của bồ-tát Văn-thù.

42Pháp Tạng (643-712) Cao tăng Trung-quốc sống vào đời Đường, tổ thứ ba tông Hoa Nghiêm, tự Hiền Thủ, hiệu pháp sư Quốc Nhất. Suốt đời Sư giảng kinh Hoa Nghiêm, chú thích nhiều kinh luận Đại thừa và hệ thống hóa tư tưởng Phật giáo thành ngũ giáo và thập tông.  

Comments

Popular posts from this blog