TÔNG CNH LC


 

QUYN 5


Hi: Chân tâm chng thay đi, diu tính vô sinh phàm Thánh như nhau, sao li nói đến vng?

Đáp: Bn tâm lng l bt tưng, lìa ngôn ng. Tính tuy t như thế, nhưng vì không gi đưc tính nên theo duyên nhim tnh. Li như mt th nưc, nếu b ht ngc vào thì nưc trong, cho cát bi vào thì nưc đc; như ch có mt hư không, nếu mây che thì m ti, còn trăng hin thì trong sáng.

Lun Đi Trí Đ nói: “Ví như ao nưc trong sch con voi điên li vào s làm vn đc, nếu b vào nưc ht châu thanh thy thì nưc lin trong sch. Không th nói ngoài nưc không có voi không có ht châu. Tâm cũng như vy, phin não xâm nhp thì tâm vn đc, các pháp lành như t bi v.v... đi vào trong tâm làm cho tâm thanh tnh. Nhưng nhơ sch chng đnh chân vng tùy duyên. Nếu mê tâm này chc chn nim nim luân hi, đánh mt chân tính, nếu soi chiếu t tâm thì chc chn tâm tâm tch dit viên chng niết-bàn. Do đó biết chân vng đu vô,nhân “không” mà có ngôn thuyết. Theo chân không nói, theo nói không chân đu là do tình tưng mê cung kiến lp. Nghìn điu mê đua nhau khi như Din-nhã mê cho là mình không có đu. Mt pháp va sinh ch là cái bóng thành Càn-thát-bà hin. Bi vì chúng sinh không thu sut ch chân tht, ch chy theo tình thc điên cung nên các bc Thánh thun vi căn cơ và hoàn cnh chúng sinh cùng đng s ly cht tháo cht, nói vng mà t vng lp chân, ly thô tiếp thô, nêu tưng đ nh tưng mà rõ tính. Nếu chng chp vng còn chng nói chân; bóng huyn va tan mt ánh sáng trí tu dng bng cháy”.

Kinh Th Lăng Nghiêm nói: “Pht bo A-nan: Tính chân diu minh bn giác viên tnh chng còn sinh t và các trn cu, cho đến hư không đu do vng tưng sinh. Nguyên là bn giác diu minh chân tinh, do vng mà phát sinh các th khí thế gian, như Din-nhã mê đu nhn bóng. Vng vn không có nhân, trong vng tưng lp tính nhân duyên. Mê nhân duyên gi là t nhiên, tính hư không kia thc ra vn là huyn sinh. Nhân duyên hay t nhiên đu là vng tâm suy lưng ca chúng sinh. Này A-nan, biết ch vng khi nói nhân duyên ca vng, nếu vng vn không thì nói nhân duyên ca vng cũng không, hung chi không biết suy ra là t nhiên”.

Triu pháp sư31, nói đến nguyên do khi vng lp phm Bn Tế như sau: “Bn tế là tính niết-bàn vô ngi ca tt c chúng sinh. Ti sao bng có vng tâm và các th điên đo như thế? Ch vì mt nim tâm mê, mt nim này t mt mà khi, mt nim này t bt tư nghì khi, bt tư nghì là không có ch khi”.

Do đó kinh nói: “Đo bt đu t mt, mt là vô vi, mt sinh hai, hai là vng tâm, cho đến ba v.v... sinh ra muôn pháp. Đã duyên vô vi mà có tâm, ri duyên có tâm nên có sc”. Vì thế kinh nói: “Các th tâm sc, vì tâm sinh ra muôn điu lo nghĩ, sc dy thành muôn mi, hòa hp vi nghip duyên làm thành ht ging ba cõi. S dĩ có ba cõi là do chp cái mê căn bn v chân nht, lin có s ô nhim sinh ra hơi hám hư vng (vng khí); lng trong mc đ vi tế là cõi vô sc, gi là tâm. Lóng lng nhng ô trưc là cõi sc, gi là thân. Gn b cn b là cõi dc, gi là trn cnh”.

Kinh nói: “Ba cõi hư vng, ch có mt vng tâm biến hóa”. Bên trong có cái mt sinh thì ngoài có vô vi, bên trong có cái hai sinh thì bên ngoài có hu vi, bên trong có cái ba sinh thì bên ngoài có ba cõi. Trong ngoài tương ưng vi nhau bèn sinh ra các pháp và vô s phin não. Cho nên biết trong ba cõi không mt pháp nào chng t t tâm sinh. Nhân tâm tưng nim, phân bit to tác, như sc huyn thut biến hóa muôn vt, dưng như bên ngoài phát hin, hin nhưng không có tính hin, ch là do tâm sinh, ngưi mê lm điên do chp làm cnh bên ngoài, theo cnh phân bit đp, xu ri khi ưa, chán và dy lên du vết trn lao.

Vin pháp sư32 nói: “Gc ngn t đâu khi dit có không, mt my may đng cnh cũng có th làm cho thế núi sp đ”.

Ch bên trong cái mt chng sinh thì không có các th. Mun lp kín hang đng phin não, cht đt gc r sinh t ch nên ni quán mt nim vô sinh, t hn ba cõi hoa đm hư không như gió cun bi mù, như bóng nh hư o sáu trn, như tuyết tan, rng rang không b mé, ch mt chân tâm!

Kinh Tiến Thú Đi Tha Phương Tin ghi: “Pht dy: Cnh gii nht tht chính là tâm th ca chúng sinh t xưa nay bt sinh bt dit, cho đến tâm ca tt c chúng sinh, tâm ca tt c Nh tha, tâm ca tt c B-tát, tâm ca tt c chư Pht đu là bt sinh bt dit như nhau vì là tưng chân như, cho đến trong tt c thế gii khp mưi phương hư không tìm hình trng ca tâm cũng không có mt chút khác bit. Ch vì chúng sinh vô minh si ám huân tp nhân duyên, hin cnh gii hư vng khiến sinh nim chp trưc”. Ch nói rng tâm này không có th t biết, mê vng t nói: Có khi tưng giác tri, chp ngã, ngã s, nhưng tht không có tưng giác tri vì vng tâm này hoàn toàn vô th nên không có th thy đưc. Nếu không có cái giác tri hay phân bit thì cũng không có tưng sai bit ca tt c thế gii trong mưi phương ba đi. Vì tt c pháp đu không th t có, luôn luôn nương vào vng tâm phân bit đ có. Ch gi là tt c cnh gii mi mi chng t nghĩ là có, biết đây là t, biết kia là tha. Thế nên tt c pháp không th t có, thì không có gì sai khác. Ch nương vào vng tâm, chng hiu chng biết bên trong t là không. Nghĩa là có cnh bên ngoài đưc biết ri vng sinh ra các pháp tưng, cho là có, là không, là đp, là xu, là phi, là trái, là đưc, là mt v.v... cho đến sinh ra vô lưng vô biên pháp tưng. Nên biết tt c các pháp đu t vng tưng sinh, da vào vng tâm làm gc, nhưng vì vng tâm này không có t tưng, cũng y theo cnh gii mà có, ch gi là vì duyên nim giác tri cnh gii trưc mt nên gi là tâm. Vng tâm này và cnh gii trưc mt tuy cùng nương nhau khi không trưc sau, nhưng vng tâm này hay làm nguyên ch tt c cnh gii. Vì sao? Vì y theo vng tâm không rõ đưc cnh gii nht tưng nên nói tâm có vô minh; nương vào sc mnh ca vô minh làm nhân nên hin ra cnh gii hư vng và cũng nương vào vô minh dit nên tt c cnh gii đu dit; chng phi nương vào tt c cnh gii t chng rõ nên nói cnh gii có vô minh; cũng chng phi nương cnh gii mà sinh ra vô minh. Bi vì tt c chư Pht đi vi tt c cnh gii chng sinh vô minh; và cũng chng nương theo cnh gii dit nên tâm vô minh dit, vì tt c cnh gii t xưa nay th tính t dit nên chưa tng có. Do nghĩa này nên ch nói: Tt c pháp y nơi tâm làm gc, nên biết tt c pháp đu gi là tâm, vì trên mt nghĩa lý, th chng khác đu thu v tâm. Li tt c các pháp đu t tâm khi, cùng hòa hp vi tâm đ hin hu, cùng sinh, cùng dit, đu không tr. Do tt c cnh gii đu tùy theo tâm s duyên nim nim tương tc nên đưc gìn gi li, tm thi có. Đon trên đã dn li Pht dy rt k lưng cũng ch vì mun giúp k hu hc tin đưc và sáng t t tâm.

Lun Bo Tng nói: “Gương xưa soi tinh tú, tinh tú t t rng hình th; c giáo chiếu tâm th, tâm th t sáng t”.

Chúng ta nên biết mt tâm trùm tt c tâm, không khác mt my may, tt c tính trong mt tính, pháp pháp đu như nhau, vô hình mà rng sut hư không,nào ai phân kia đây; tìm du thì thênh thang khp pháp gii mà chng nm đưc my tơ. Vì sao trong cõi chúng sinh ngay đây hin hin? Đy đu là do vng nim tích tp huân thành. Như bi trên gương làm gương m, như mây mù tm thi vn vũ bu tri trong. Ch có mt pháp hin tin đu là t tâm phân bit. Gi s mt nim va khi, thy đu do cnh huyn phát sinh theo, đng thi khi dit không có trưc sau. Nếu biết năng s vô th, đn ng nhân không, pháp không, cht tnh vt ngã không có ch nương gá mi tin rng cnh lng, tâm lng. Li na, tâm sinh cũng chng phi là do cnh, vì cnh chưa tng sinh; tâm dit cũng không phi là do cnh vì cnh chưa tng dit. Chúng ta nên biết cnh do tâm khi ri tr li đui theo cnh, đánh mt tâm. Ch là tâm sinh, chng phi cnh sinh, tâm dit chng phi cnh dit như con cá m nh cá con, như ong chúa lĩnh đo by ong. Nếu cá m không nh đến thì bn cá con b chết, con ong chúa không lĩnh đo thì by ong s tan rã. Đó là có tâm duyên tưng muôn cnh. Cho dù không nim c trì thì mt my bi cũng chng hin, trn không có pháp ngoài tâm. Hay cùng vi tâm làm duyên ch là t tâm sinh, ri li cho tâm là tưng. Vì thế kinh Lăng Già nói: “Không rõ t tâm hin ra gii hn, chng biết đưc ni thc chuyn biến, bên ngoài hin làm sc, ch là do t tâm hin ra, chng rõ đưc gii hn như thế, gi đây là lun ác kiến, bi vì chng biết tâm hin nên khi kiến chp sai bit, do đó nói là gii hn”.

Vì vy ta mi biết nếu không trong chính nghĩa ca Tông Cnh, nhng hiu biết ca mình đu thuc bè phái tà đo, bày ra hình thc hay nói năng thy đu rơi vào lun ngh ác kiến. Pháp nghĩa Tông Cnh có th dùng làm tiêu chun, không sai chính lý, có th căn c theo đây thc hành s đc lc ngay. Muôn điu tà đu b hết, cho đến nghìn Thánh chng đi dung nghi, lin có th ty ra mê hoc, tiêu hết trn cu, vng l, đi vào ch sâu lng, cht sáng t tâm, đc diu tuyt luân nên không gì bng!

Hi: Nếu nói có chân có vng, đó là pháp tưng tông; nếu nói vô chân vô vng, đó là phá tưng tông, nay nói pháp tính tông ti sao li lp chân, lp vng ri li nói phi chân phi vng?

Đáp: Nay Tông Cnh lun bàn chng phi phá tưng lp hu, cũng chng phi là phá tưng quy không, ch đng trên mt tính tông viên giáo đ làm sáng t chính lý, tc là ly chân như bt biến, bt ngi tùy duyên làm viên nghĩa. Nếu pháp tưng tông ch mt b nói có chân có vng, nếu phá tưng tông ch mt b nói phi chân phi vng. C hai môn đu kt vào mt bên, đu thuc tư nghì. Nay viên tông này còn đ hai môn không hu trưc mà cũng chng trái ngi, đây là bt kh tư nghì. Nếu nói mt cách quyết đnh thì hai môn hu vô đu bt kh tư nghì. Nay vì chng nhim mà nhim thì bt biến tùy duyên; nhim mà chng nhim thì tùy duyên bt biến, tht không th đem hu vô suy lưng, cũng không th đ cho chân vng làm mê; đy là tông thú bt tư nghì, tình thc không th biết đến đưc. Nay tm mưn văn nghĩa đi tr ch vì đ phá tà chp. Nếu tình hư rng thì trí dt bt như bnh hết thì không cn thuc, nếu có th đến ch tn cùng gc ngn mi thu sut yếu ch viên thưng. Như bài k hi ngưi hc khp nơi v chân vng ca pháp sư Phc L33 như sau:

Chân tính, tính vn tnh

Vng nim do đâu khi

T chân có vng sinh

Vng này đâu th dng

Không gc cũng không ngn

Có trưc mi có sau

Không trưc thì không sau

Vn m mt lý này

Xin m bày huyn diu

Phá v thoát sinh t.

Hòa thưng Trng Quán34 đáp:

Mê chân, vng nim sinh

Ng chân, vng lin dng

Năng mê chng s

Đâu phi ging ht nhau

Xưa nay chưa tng ng

Nên nói vng vô th

Biết vng vn t chân

Mi là lý hng thưng

Tâm phân bit chưa mt

Làm sao thoát sinh t?

Thin sư Tông Mt gii thích: Giáo nghĩa kinh đin Đi tha đưc thng nhiếp trong ba tông: tông pháp tưng, tông phá tưng và tông pháp tính. Câu hi này nhm vào đim then cht trong tông pháp tính ch không hi v hai tông kia. Nếu tông pháp tưng nói tt c vng pháp hu lu, tnh pháp vô lu, t vô th đến nay mi th đu có chng t, trong thc a-li-da gp duyên huân tp đu t t tính khi, không liên h gì đến chân như thì ai cho rng t chân sinh vng? Tông này nói chân như mt b là vô vi tch dit, không sinh khi, không lng dng, không th thc mc t chân có vng sinh. Còn tông phá tưng mt b nói phàm Thánh, nhim tnh, tt c đu không, vn không có gì c, dù thy mt pháp hơn c niết-bàn cũng như huyn mng. Tông phá tưng này vn đã chng lp chân hung chi là vng, cho nên chng nghi ng “t chân có vng”. Ch nghi tông pháp tính vì kinh lun ca tông này nói rng “y chân khi vng”, như nói pháp thân lưu chuyn trong năm đưng, Như Lai tng th kh vui v.v... Nói ng vng tc là chân, như nói lúc mi phát tâm lin thành vô thưng b. Biết vng vn t chân, thy Pht lin thanh tnh. Li nói phàm Thánh ln ln, như nói tt c chúng sinh bn lai thành Chính giác, Bát niết-bàn, trong thân Tỳ-lô-giá-na có đ tt c chúng sinh trong sáu đưng. Chân vng tương tc, tuy nói phin não b không có th chung, li cũng nói phin não hết sch mi gi là Diu giác. Văn kinh Hoa Nghiêm, lun Khi Tín v.v... t đu đến cui, nghĩa tông có ngi vì chính trong li nói trái nhau, nếu mun chn lc cũng không th ly mt b mt, mun hp nghĩa lý cũng khó hp, còn dùng c hai thì li trái nhau. Th hi hc sĩ trong thiên h, ngưi liu đt lin tri chân nhp đo. Nếu theo li đáp ca các sư đu là không rõ ý ca câu hi, vì căn c vào tuyt tưng quy lý mà nói, đu không biết nguyên do t chân khi vng và lý tu vng chng chân. Nhưng mê chân khi vng bi vì có nguyên do dt vng v chân chng phi không có nguyên do. Pháp sư Phc L đâu không biết chân vng đu tch, lý s đu như. Như trong im lng đâu có hi đáp. Nhưng có hai môn nghĩa lý còn d rõ đưc, không trái nghch nhau. Mt môn chuyên nói có vng đ đon, có chân đ chng. Mt môn ch nói phi chân phi vng, không phàm không Thánh. Hai môn này đu bt kh tư nghì. Cho nên kinh Thng Man nói: “Chúng sinh t tính tâm thanh tnh, không nhim phin não, không nhim mà nhim, nhim mà không nhim, đu nói là khó có th biết rõ”.

Sư Phc L hi ngay nghĩa này, các sư đu đáp: Không cu nhim. Ch xét li câu tr li ca hòa thưng v chân như bt biến bt ngi tùy duyên mi tht đúng. Tông Mt đáp:

Bn tnh bn bt giác,

Do đây vng nim khi,

Biết chân vng tc không.

Biết không vng lin dng,

Ch dng có chung cuc,

Khi mê không khi đu.

Nhân duyên như huyn mng,

Đâu là chung là th,

Nguyên do có chúng sinh

Thu sut đưc điu này

Lin ra khi sinh t.

Phn nhiu ngưi ta thưng nói chân hay sinh vng nên nghi vng chng hết, vì đ quyết đnh cho lý này nên đáp bng bài k trưc:

Chng phi chân sinh vng

Do mê chân khi vng

Biết vng vn t chân

Biết chân vng lin dng

Vng dng như chm dt

Ng ri vn như xưa

Mê ng tính đu không

Tính không chng trưc sau

Sinh t do mê này

Liu đt thoát sinh t.

Li căn c vào th chung mà có phân bit bn trưng hp: 1- Hu th vô chung (có bt đu không kết thúc) là th giác. 2- Hu chung vô th (có kết thúc, không có bt đu) là vô minh. 3- Vô chung vô th (không kết thúc, không bt đu) là tht tế. 4- Hu th hu chung (có bt đu, có kết thúc) là mt giai đon sinh t.

Gii thích: Vô th hu chung: đi vi ngưi m mt, không rõ cái lý này thưng đem các s vic pháp tưng k ra và thc mc. Nay nói: Có vng tc chân thì đng vi không có th và chung (vô chung th). Nếu phân bit nói thì phi có bn câu: vng nim không có th mà có chung, chân lý thì không chung và không th. Cht khi vng nim là có chung, có th.Nếu v viên dung đu không có th và chung, đã không có th và chung, cũng không có vô chung vô th, ch có im lng và dt tưng mi có th hi đưc ch huyn diu này. Rõ ràng ý câu đáp trên đây rt hp vi viên tông, đi vi môn tùy duyên ban đu tc mê chân khi vng, sau đó ng vng tc chân, trong mê ng dưng như nó phân trưc sau. Căn c vào môn bt biến vng t vn không, ai bo trưc sau, chân tc vô tính, phàm Thánh ch có tên gi. Ví như làm si dây là con rn, nghi ác thú là qu, chân đế phi hu, thế đế phi vô. Hai đế làm thành cho nhau, không rơi vào tà kiến. Do đó tc đế không th không có, có mà luôn t không; chân đế chng th chng không, không mà hng sut có. Ngày nay phn đông ngưi hc đu mê chp hai môn không, hu đu thành thiên kiến; ch chung tt c chng lp, phi b du vết tr v không, trong nghĩa sai bit trái nhau hoàn toàn không có mt tu, đã chng rõ đưc ch mê lm làm sao gii nghi. Cho nên nói tâm niết-bàn d đưc, trí sai bit khó rõ. Nếu trong hai môn không hu hay cùng ngăn cùng soi (song già song chiếu), không lìa hai đế chân tc mi có th hong pháp, vì ngưi ni tiếp Pht chng.

Hi: Hai tông pháp tưng và pháp tính làm sao phân bit?

Đáp: Pháp tưng nói nhiu đến s tưng, pháp tính ch nói lý tính. Như tông Pháp Tưng lìa thc th tám không có các thc: Nhãn thc v.v...; còn tông Pháp Tính, lìa Như Lai tng không có tám thc; nếu chân như chng gi t tính biến thành thc thì tám thc này là cái nghĩa tùy duyên trên chân tính, hoc phân tông, bin tưng s thì phân hai. Nếu tính tưng làm thành cho nhau lý quy v nht nghĩa, vì tùy duyên bt biến, bt biến tùy duyên, như toàn sóng là nưc, toàn nưc là sóng, đng tnh dưng như phân cách nhưng tính ưt không khác.

Thanh Lương Ký dn bài k trong kinh Mt Nghiêm:

Như Lai thanh tnh tng

Thế gian a-li-da

Như vàng và nhn đeo

Chuyn đi tính không khác.

Th ca a-li-da là Như Lai tng, cùng vi vng nhim gi chung là a-li-da, không có th riêng như vàng ròng và nhn đeo tay đu có “th” là cht vàng. Nhưng s khác bit trên đây gm có bn trưng hp:

1- T bn thành mt, bn n mt tn: Đây là tn n chng khác cho nên nói vì vng vô th, vng nm ly chân đ dy khi thì chân b n ch có vng hin.

2- Nhiếp mt quy bn, mt tn bn hin: Đây là hin dit đ rõ đưc cái chng khác, cho nên nói chân th là tht, vng phi hết ch có chân hin.

3- Nhiếp bn tùng mt, mt tn nhiếp bn, quy bn bn hin: Đây là hai pháp đu tn ti. Ch chân vng có khác là có chân có vng, vì rõ đưc chân vng không khác nên nói vng vô th, cái th chân tht chng khác nên nói không khác.

4- Nhiếp bn tn mt bn n, là cái nghĩa bt không. Nhiếp mt quy bn mt tn, là cái nghĩa bt hu. Chng có chng không chng t là chng khác, cũng là hai câu sau cùng. Vì chng khác nên chng phi mt bên, chng phi mt bên nên chng phi gia, chng mt bên chng gia, đây là ch chng pháp gii diu trí trm nhiên, thưng tr, không nương gá; và li chng phi mt chng phi khác nên luôn mt bên mà là gia, li chng mt tc sinh t, chng khác tc niết-bàn. Vì chng mt tc chng khác nên hng trong sinh t tc là sng trong niết-bàn, đy cũng vì chúng sinh mê nên thành a-li-da, Như Lai ng nên thành Như Lai tng. Như vàng nh tài khéo ca th kim hoàn làm thành nhn đeo tay, như chiếc nhn đưa vào lò nu li thành vàng. S thành hoi xoay vn ch là vàng không có gì khác. Như Lai tng tâm cũng như vy, ch vì theo duyên nhim lúc mê tr thành a-li-da, theo duyên tnh lúc ng là Như Lai tng; trưc sau chuyn đi ch có mt tâm hoàn toàn không khác.

Như Vô Sinh Nghĩa nói: “Trong thân chúng sinh có niết-bàn, tc là trong ngn đã bao hàm có gc. Chúng sinh là vt dng ca nhà niết-bàn, là trong gc bao hàm có ngn. Tham dc tc là đo, tc là trong ngn đã gm có gc; tham dc là gia dng ca đo, tc là trong gcđã gm có ngn”. Cho nên kinh nói: “Tt c phàm phu thưng trong đnh”.

Hi: Thưng trong đnh nào?

Đáp: Do chng hoi pháp tính tam-mui nên đây là trong ngn gm có gc, trong pháp tính gm có chúng sinh tc là trong gc gm có ngn.

Kinh Đi Phm nói: “Chng lìa hu vi nói vô vi, chng lìa vô vi nói hu vi. V li nghĩa mt tc là bn, bn tc là mt như nưc tc là sóng, sóng tc là nưc”. Như kinh nói: “Sinh t tc niết-bàn vì vô dit vô sinh”.

Kinh Lăng Già nói: “Chân thc và hin thc như khi đt và ht bi. Này Đi Tu, nếu khi đt và ht bi khác nhau thì khi đt chng phi do ht bi làm thành nhưng tht ra khi đt do ht bi kết thành, cho nên không khác. Khi đt, ht bi không có gì khác nhau. Như vy chân tưng ca chuyn thc và tng thc nếu khác thì tng thc không phi nhân, nếu chng khác thì chuyn thc dit tng thc cũng phi dit mà t chân tưng tht chng dit. Thế nên chng phi t chân tưng dit, mà ch có nghip tưng dit”. Trong đây chân tưng là Như Lai tng, chuyn thc là by chuyn thc, tng thc là a-li-da.

Li nói các thc có ba tưng: chuyn tưng, nghip tưng, chân tưng. Ba loi tưng này cùng thông vi tám thc khi tâm gi là chuyn. Vì tám thc cùng khi nên đu có sinh dit, do đó gi là chuyn tưng, đng t là nghip. Như đu tiên là nghip tưng trong tam tế, tám thc đu đng, gi là nghip tưng. Chân tính ca tám thc này đu gi là chân tưng. Cho nên kinh nói: “Nói sơ lưc có ba loi thc, nói rng có tám th tưng. Nhng gì là ba? Đó là chân thc, hin thc, phân bit s thc. Căn c vào ch vng không hp vi Như Lai tng tâm cho là chân thc hin tc là thc th tám”. Kinh nói: “Ví như gương sáng gi ly các hình sc, ch hin thc hin bày cũng như vy. Còn by thc kia đu gi là phân bit s thc”.

Kinh nói: “Nếu khác thì tng thc chng phi nhân, nói là ba”. Nếu khác thì tng thc s chng dùng chân tưng và chuyn tưng làm nhân. Vì đã do chuyn thc huân cho nên chân thc tùy duyên mà thành tng thc; do đó biết nếu không khác (bt d) thì không ly tng thc làm nhân ca hai thc kia. Vì thế kinh nói: “Chng phi t chân tưng dit mà ch là nghip tưng dit”, đây là ba vic phi có đ. Trong kinh nêu ra ba ví d: Ht bi, nưc và khi đt. Dùng nưc hòa vi ht bi mi thành khi đt, do nghip huân chân tưng nghip thc lin sinh. Kinh nói: Nếu t chân tưng dit thì tng thc s dit; trái li hin tng thc do chân vng hòa hp mà thành; ch có vng dit, ch chân th chng không. Li t chân tưng đưc Hiu pháp sư35 gii thích: Tâm bn giác không nương vng duyên, tính t thân gii gi là t chân tưng.

Căn c vào nghĩa chng mt (bt nht), lúc theo gió vô minh to ra sinh dit; tính thn gii và bn (tính) không khác, cũng gi là t chân tưng. Đây là căn c theo nghĩa bt d (chng khác) mà nói.

Li kinh nói: “Như Lai tng huân tp các tp khí ác (ác tp) t vô th gi là tng thc... Đi Tu, Như Lai tng là nhân ca thin và bt thin khi lên tt c các loài như din viên biu din khp nơi”.

Các kinh đin đu cho Như Lai tng là thc th. Cho nên biết tâm tính tc là Như Lai tng, ngoài ra không có pháp. Bài k trong lun Duy Thc nói:

Li các pháp thng nghĩa

Cũng tc là chân như

Vì thưng như tính kia

Là duy thc tht tính.

Do đó biết rõ ngài Thiên Thân cũng ly Như Lai tng làm thành thc th, nhưng ngưi sau gii thích lun ch lp bt biến, đó là li ca h. Nói tóm li, các nghĩa trên đu là chân vng hòa hp phi nht phi d, hay thành môn nht tâm nh đế, chng rơi vào đon thưng trong diu ch trung đo, s lý xen sut, tính tưng dung thông, không pháp nào chng thâu, đu quy v Tông Cnh.

Hi: Hai tâm chân vng hành tưng đu khác, làm sao dung hi đưc viên tông ca tính nhân pháp?

Đáp: Ch biết vng nim vô sinh tc là chân tâm bt đng, ngoài cái bt đng ra không có mt pháp có th đưc. Kinh nói: “Qu D lưu, Nht lai, Bt hoàn, A-la-hán, các bc Thánh nhân này đu nương nơi tâm vng mà có”. Kinh Đi Bát-nhã nói: “Này Thin Hin, Bát-nhã ba-la-mt vô cùng sâu xa, phân tích các pháp hơn cc vi lưng, trn chng thy mt chút gì là có cho nên gi là Bát-nhã ba-la-mt-đa. Chân vng vô th đu có danh t, danh t vô th, danh t đu nương vào ngôn thuyết; ngôn thuyết tính không, không có ch khi thì tt c ngôn ng đu bình đng. Tt c các pháp đu chân tht”. Do đó kinh Thng Tư Duy Phm Thiên S Vn ghi: “Phm Thiên hi Văn-thù: Li nhân gi chân tht chăng? Văn-thù đáp: Này thin nam, tt c ngôn thuyết đu là chân tht.

Hi: Li nói hư vng cũng là chân tht sao? Đáp: Đúng thế. Vì sao? Bi vì tt c ngôn thuyết đu hư vng không nơi chn. Pháp hư vng không nơi chn tc là chân tht, vì nghĩa này nên tt c ngôn thuyết đu chân tht. Này thin nam, li nói ca Đ-bà-đt-đa và li Pht không sai không khác. Vì sao? Tt c ngôn thuyết đu là do Như Lai nói nên chng ra ngoài Như. Nhng điu đưc nói ra bng ngôn t tt c đu vô s thuyết cho nên đưc nói ra”. Ph Hành Ký gii thích: Mt nim tâm đã thành quán cnh. Đây có hai nghĩa:

1- Ly thin làm cnh, không đng vi tâm thế gian.

2- Ngay cnh này tâm phi lìa dính mc, còn tâm thinnói mt nim, mt nhiu tương tc. Vì nht tâm hay đy đ các pháp nên ch bày mt cách đơn gin rng: chng nên theo vng chp mt nim, nên biết rõ vng nim không có mt tưng khác. Đt đưc vô tưng này là đy đ tt c tâm. Tam thiên đy đ mi có th chiếu soi nơi nht đa tương tc. Đây căn c theo tp quán ca ngưi sơ tâm, e rơi vào vng tình cnh quán, vì vy cn phi ch sơ li vào ca. Nếu theo lý lun, thy đu là pháp gii, cũng đâu khác vng tình chp trưc. Vì nim vn t không, vng không th đưc vì ngưi chp hu mà dy quán không.

Tiên đc nói: Lúc chưa nghĩ thì nim chưa sinh, chưa sinh thì không có. Pháp không có này cũng không có t tưng. Nim hin ti theo duyên sinh, nim nếu t có lý đáng chng phi đi duyên, đi duyên mi sinh cho nên là vô t th. Do đó biết tâm vô t tính, duyên khi tc không. Như mun ngăn dòng nưc cn bít ngun, mun cây khô héo ch cn ct đt r, không cn phi ra nhiu công sc, tht vô cùng đơn gin. Do đó lun Thông Tâm nói: “Trói buc là t tâm trói buc, ci m là t tâm ci m; trói buc, ci m đu t tâm, không do cái gì khác. Phương cách đ gii thoát ch có quán tâm. Quán tâm đến ng đưc thì tt c đu thu sut. Vì thế ngưi trí trưc tiên nên quán tâm. Quán tâm đưc an tnh, tr li quán sát t tâm hư di, chng tht, như huyn như hóa, lăng xăng chng ngng, nhy nhót như kh vưn, lng ln như nga hoang, vô th vô minh t nhiu kiếp trôi ni chng biết làm sao đưc thoát ra. Nếu hay quán sát nhng lm li y ca tâm mình ri li suy xét các cnh, cnh không có t tính, do thy cnh mi có, không thy cnh lin không. Li xét đến ch thy, cái thy không có t tính; do tâm có đng, chng đng thì không. Li xét đến đng tâm, đng vô t tính, ch do bt giác, giác thì chng đng. Li suy xét v bt giác, bt giác chng có ci r, ngay đó là tp khí hư vng t vô th, nim nim t mê, chân tâm vô nim chng có mt nim”.

Lun nói: “Như ngưi mê cho đông là tây ch phương hưng tht không đi di, chúng sinh cũng như vy. Vì vô minh mê m nên cho rng tâm là đng mà tâm tht chng đng. Nếu hay quán tâm, biết tâm chng khi, lin đưc tùy thun th nhp chân như môn. Chúng ta nên biết nhng gì hin hu đu là do tâm nim hư vng sinh. Tâm có thì có; tâm không lin không, có không đu t tâm. Ch cn t tnh giác, ch nên không tnh giác đ b tâm t di mình. Đã biết tâm gi di thì ch nên lưu tâm; phi trái, tt xu thy đu dp sch thì tâm s không có ch tr, tâm không có ch tr hn là không có tâm, đã không có tâm thì cũng không không tâm; có không đu không, thân tâm đu bt hết, thân tâm đu hết sch cho nên bt hết muôn cnh. Muôn cnh vô tưng hp vi ci gc sâu kín. Âm thm huyn chiếu, chiếu mà vn tch, ly tch làm th, th y rng rang, hư tch vô cùng thông c pháp gii. Pháp gii duyên khi mt cách t nhiên, chng t đâu đến, chng đi v đâu. Li na, pháp không có tưng c đnh. Chân, vng do tâm dy khi và chm dt đng ngun, không còn có ý ch nào khác”. Do đó chư sư thi xưa đã gii thích rng v cái nghĩa chân vng giao trit như sau: V chân vng, nếu căn c vào tam tính thì viên thành là chân, biến kế là vng, tính y tha khi va chân va vng. Phn tnh là chân, phn nhim là vng. Căn c biến kế là vng thì tình hu, tc là lý vô, là vng trit chân; lý vô tc là tình hu, là chân trit vng. Nếu y tha phn nhim là vng, duyên sinh vô tính, đó là vng trit chân. Vô tính duyên thành, là chân trit vng. Nếu căn c theo tc nói chân vng thì chân vng vn hư di, đương nhiên nó phi trit nhau. Chân vng đu chân thì bn lai mt v, cho nên biết chân vng luôn luôn trit nhau cũng chng hoi tưng chân vng thì chân bao trùm vng, chân phi chân mà trm tch. Vng trit chân, vng phi vng mà lăng xăng dy khi như nưc gm có sóng mà chng phi tính ưt ca nưc.

Dù sóng lng hay cun cun ba đào thì tính tưng nưc vn rõ ràng, mi mi đu dung thông, lp lp giao xen không chưng ngi, th, tưng, dng gm thâu vào trong Tông Cnh pháp nhĩ t nhiên. Cho nên Tiên đc nói: S dĩ chân vng giao trit là vì chng lìa nht tâm. Do đó Thin Nguyên Tp nói: “Tt c phàm Thánh căn bn đu là nht pháp gii tâm. Ánh sáng báu giác tính nơi mi ngưi đu tròn đy, vn chng có tên là chư Pht, cũng chng có tên là chúng sinh. Ch vì tâm linh diu này t ti chng gi t tính theo duyên mê ng thành ra phàm Thánh. Li tùy duyên nhưng chng mt t tính, thưng chng hư vng, thưng không đi khác, không th phá hoi, ch là nht tâm gi là chân như, cho nên nht tâm này thưng có hai môn, chưa tng khiếm khuyết ch vì trong môn tùy duyên phàm Thánh không nht đnh nghĩa là xưa nay chưa tng giác ng nên nói phin não vô th. Nếu tu chng thì phin não dt sch nên nói phin não có kết thúc, nhưng tht ra không có th giác nào khác cũng không có bt giác, tuyt đi bình đng, cho nên nht tâm này luôn luôn đy đ hai môn chân như và sinh dit. Chân vng đu có hai nghĩa: 1- Chân có hai nghĩa bt biến tùy duyên. 2- Vng có hai nghĩa th không thành s. Nghĩa là do chân bt biến cho nên vng th không là chân như môn. Do chân tùy duyên nên vng thc thành s là sinh dit môn. Vì sinh dit tc là chân như cho nên các kinh đin nói không có Pht, không có chúng sinh, xưa nay vn là tưng niết-bàn thưng tch. Vì chân như tc là sinh dit nên kinh nói: Pháp thân lưu chuyn trong năm đưng gi là chúng sinh. Đã biết mê ng, phàm Thánh môn sinh dit, hin nay môn này có đ hai tưng phàm Thánh, tc là chân vng hòa hp phi nht phi d, gi là thc a-li-da. Thc này phàm vn có hai nghĩa giác và bt giác. Giác là ci gc ca hin Thánh ba tha, bt giác là gc ca phàm phu trong lc đo. Xét v cái tâm bt giác này vô th thì t hn tính chân giác hin tin”. Kinh Bo Tích ghi: “Pht dy: B-tát tìm tâm như thế nào? Cái gì là tâm? Có phi tham dc là tâm không? Hay sân gin? Hay ngu si? Hoc quá kh, v lai, hin ti? Tâm quá kh đã dit ri, tâm v lai chưa đến, tâm hin ti chc chn không có ch tr, tâm này không trong, không ngoài, không khong gia, tâm này không sc, không hình, không đi đãi, không hay, không biết, không dng , không nơi chn. Tâm này mưi phương ba đi tt c chư Pht đã chng thy, hin chng thy, s chng thy. Nếu tt c chư Pht quá kh, hin ti, v lai đu không thy thì làm sao tâm này có đưc? Ch vì cái tưng điên đo nên tâm sinh ra các pháp sai bit. Tâm này như huyn vì do c tưng phân bit nên khi ra các th nghip, nhn ly các loi thân”. Ngài Ca-diếp không tìm đưc tưng ca tâm này; nếu không tìm đưc thì tâm chng thuc quá kh, hin ti, v lai; nếu chng thuc quá kh, v lai, hin ti, thì tâm vưt qua thi gian; nếu vưt qua thi gian thì tâm phi hu phi vô; nếu tâm phi hu phi vô thì hn chng khi ; nếu tâm chng khi tc là tâm vô tính; tâm vô tính tc là vô sinh; nếu tâm vô sinh tc là vô dit; nếu tâm vô dit thì tâm không ch lìa; nếu tâm không có ch lìa thì tâm không đến không đi, không dit, không sinh; nếu không đến, không đi, không dit, không sinh thì tâm không có hành nghip; nếu không có hành nghip thì tâm vô vi; nếu vô vi thì đó là ci gc ca các bc Thánh.

Kinh Trì Thế nói: “Lúc y B-tát nghĩ thế gian hết sc cung si, cho nói rng t c tưng, hiu biết phân bit khi ra thế gian, cùng vi tâm ý thc hp. Ba cõi đu là thc. Tâm ý thc này cũng không có hình tưng, không có nơi chn, không trong pháp, không ngoài pháp. Phàm phu b hư vng trói buc, trong thc m tham chp ngã và ngã s”. Kinh Kim Cang Tam-mui nói: “Biết các danh sc ch là tâm si mê phân bit, tâm si mê phân bit các pháp không còn vic gì khác ra ngoài danh sc, biết rõ pháp như vy không theo li văn, lưu tâm đến nghĩa lý chng phân bit ngã”.

Lun thích: Đon này nói rõ phương tin quán có hai:

1-Trình bày duy thc tm tư không có gì ngoài danh sc. Danh là bn un (th, tưng, hành, thc), sc là sc un, nhng pháp bt tương ưng đu gi kiến lp, lìa danh sc không có th riêng, cho nên các vic hu vi đu thuc danh sc. Như vy các pháp do tâm to tác, lìa tâm không có cnh, lìa cnh không có tâm, đây gi là duy thc tm tư.

2- Hin như tht trí, biết pháp như thế chng theo văn t, đây gi là suy xét v điu đưa đến tht trí, luôn luôn đi vi nghĩa không phân bit ngã, vì tm tư nghĩa dn đến như tht trí nên hai th ngã là nhân, pháp đu vô nghĩa, do đó trong y không có s phân bit, do không phân bit nên hai tâm chân vng, v mt tình phân làm hai th mà trí hiu biết ch là mt. Khi mt và hai đu mt thì mi vào đưc Tông Cnh. Do đó kinh Duy-ma ghi: “B-tát Diu Tý nói: Tâm B-tát, tâm Thanh văn là hai. Quán tưng tâm là không, như huyn, như hóa, thì không tâm B-tát, không tâm Thanh văn đây là nhp pháp môn bt nh”. Chúng ta nên biết đã không do vô tâm hin tâm thì t hn không có pháp hin pháp làm sao do tt c cnh gii tùy theo nim mà sinh ? Nim vn đã không, pháp sao li có?

Như Kinh Đi Pháp C Đà-la-ni nói: “Này Kiu-thi-ca! Nếu có ngưi đến hi đi chúng đây đưc s th dng đy đ phi gng công thế nào? Nếu có ngưi hi như vy thì ngươi tr li sao? Đế Thích đáp: Bch Thế Tôn, con không đáp đưc. Vì sao? Bch Thế Tôn, hin nay con đang sng cõi Tam thp tam thiên này, tt c mi nhu cu đu tùy theo tâm nim hin ra, không phi to tác. Pht bo: Này Kiu-thi-ca, tt c các pháp cũng như vy, thy đu trong tâm tùy theo lúc nghĩ lin có. Kiu-thi-ca, như các chúng sinh thuc noãn sinh ch do tâm nim lin th thân, nhn ly sinh mng, tt c các pháp cũng như vy đu t tâm nim pháp lin hin tin. Này Kiu-thi-ca, tt c loài thp sinh như cá, rng, rùa, v.v... cũng thuc noãn sinh. Nhng loài này ch đi đưc mt do-tun, hoc hai, hoc ba, bn hoc hơn by do tun, đến ch đt ca nó lin đt trng trên y, chng phi nhc nhn cho đến khi trng n. Kiu-thi-ca! Tam tng giáo đin này cũng như vy, tùy lúc nghĩ nh nghip kia lin hin ra ngay mt cách tun t ni tiếp không ngng, vic này cùng vi ý nghĩa kia phù hp nhau”.

Lun Pht Đa nói: “Cõi Tam thp tam thiên có mt khu rng tên Tp Lâm, nơi này do phúc lc ca chư thiên hòa hp nên chiêu cm đưc các cung đin, mi th đu tt đp, tt c chư thiên cùng hưng th khoái lc tuy nhiên s hơn kém cũng có sai khác. Có ngã và ngã s thì s th dng khác nhau. Hoc trong rng này hoc có các th, hoc s th dng đu không hơn kém đu là tuyt diu bc nht. Nếu không có ngã và ngã s hòa hp th dng hay khiến cho s th dng bình đng, hòa hp nên gi là Tp Lâm”. Đây là nh chư thiên n lc tu phúc nghip bình đng hòa hp nên khiến cho thc A-li-da ca chư thiên biến hin khu rng này cùng mt nơi, cùng mt lúc, cùng mt tưng trng. Do s ưu vit ca rng này làm cho chuyn thc ca chư thiên cũng đng biến hin, tuy mi ngưi th dng nhưng không khác. Vì thế, nếu liu đt các pháp đu do tâm tưng sinh thì t thế tc môn bưc vào hành x ca bc Thánh.

Như kinh Vô Tn Ý B-tát nói: “By gi tôn gi Xá-li-pht hi Vô Tn Ý: Thin nam! Ông t đâu đến? Danh hiu Pht là gì? Thế gii tên chi? Cách đây xa gn? Vô Tn Ý đáp: Xá-li-pht, có cái tưng đi đến chăng? Xá-li-pht nói: Thin nam, ta biết tưng ri. Vô Tn Ý: Nếu biết tưng thì có hai tưng, vì sao li hi t đâu đến? Xá-li-pht, có đến đi là nghĩa hòa hp, như tưng hòa hp là vô hp bt hp, vô hp bt hp tc là chng có đến đi, chng đến chng đi là hành x ca chư Thánh”.

Trong kinh Pht Tng, Pht bo: “Xá-li-pht, theo s nghĩ nh khi ra tt c tưng đu là tà kiến. Xá-li-pht, rng rang, không giác, không quán, không sinh, không dit, ngưi thông đt như vy gi là nim Pht”.

Kinh Hi Long Vương ghi : “Pht bo: Đi vương, tt c pháp đu t nim dy khi, tùy theo s to tác mi mi đu thành hình. Các pháp vô tr và cũng không có nơi chn”.

Lun Đi Trí Đ nói: “B-tát quán tâm nim x như thế nào? B-tát quán ni ngoi tâm. Ni tâm này có ba tưng là sinh, tr, dit. B-tát nghĩ tâm này chng t đâu đến và cũng không có ch đi, ch nh nhân duyên bên trong bên ngoài hòa hp mà sinh. Tâm này không có tht tưng c đnh, cũng không tht có sinh, tr, dit, cũng không trong ba thi quá kh, v lai, hin ti; tâm này không trong, không ngoài, không khong gia, tâm này cũng vô tính vô tưng, cũng vô sinh, không làm sinh, ngoài có sáu th nhân duyên tp, trong có tâm tưng điên đo sinh dit tương tc nên tm gi là tâm. Như thế, ni tâm, tưng ca tâm thc không tìm thy. Tâm tính này chng sinh chng dit, thưng là tnh tưng vì b tưng ca khách phin não dính mc nên gi là tâm bt tnh. Tâm chng t biết, vì sao? Vì tâm tưng ca tâm là không. Tâm này trưc sau không có pháp tht. Tâm này cùng vi các pháp chng hp chng tan, cũng không có ranh gii trưc, sau, khong gia, không sc, không hình, không đi đãi, ch điên đo hư di sinh. Tâm ny không, vô ngã, vô ngã s, vô thưng, vô tht. Đây gi là tùy thun tâm, quán biết tâm tưng vô sinh, th nhp pháp vô sinh. Vì sao? Vì tâm này vô sinh, vô tính, vô tưng, bc trí biết đưc. Ngưi trí tuy quán tưng sinh dit ca tâm này cũng không đưc pháp tht sinh dit, chng phân bit cu tnh mà đưc tâm thanh tnh. Vì tâm này thanh tnh không b khách trn phin não làm ô nhim. Quán ni tâm như thế, quán ngoi tâm, ni ngoi tâm cũng như vy. Do đó chúng ta biết pháp vn chng có, do tâm nên sinh, lìa c tưng thì không có pháp nào thành lp đưc, b đi phân bit thì không có trn có th hin đưc. Ri quán tr li c tưng, phân bit rt cùng là vô sinh. Tri sut ba thi tìm kiếm, tìm mãi chng thy, khp c mưi phương tìm du vết cũng chng ra, đã không có cái tâm làm sinh khi cũng không có du tích b dit đi. Khi dit đu lìa, s lìa này cũng không. Tâm cnh rng lng gi là kiến đo. Lúc kiến đo, s đi đãi gia chân vng t tiêu dung, s đi đãi gia năng s đu dt bt, đến ch hết sch năng s t nhiên thành Pht”.

Như Hoa Nghiêm Lun ghi: “Kinh nói: Dùng chút phương tin chóng đc B không ging như quyn giáo B-tát vì hu vi nên lp năng chng s chng. Trong mt nim không có năng s, đến ch hết năng s gi là Chính giác, nhưng cũng không ging vi Tiu tha dt năng s, vì thu rõ vn vô đng, đây là hn nhiên theo pháp tính, đng, tch đu như nhau; vì bn trí chng đng tch, lm cho là đng. Ngưi ngu chng rõ, b đng cu tch, đây là ni kh ln”. Vì thế kinh Duy-ma nói: “Biết sut năm th m không là nghĩa kh, vì Tiu tha có ưa và chán nên kh sinh”. 

Hi: Đây nói v hai tâm chân vng là pháp tưng tông hay là pháp tính tông?

Đáp: Theo Hoa Nghiêm Din Nghĩa: “Lun nói: Tam gii hư vng ch là nht tâm”. Nếu chp ly tam gii hư vng là s tác lin thuc thế đế, nếu theo năng tác là đ nht nghĩa. Lun gii thích ch là năng tác. Nay kinh nói: Ba cõi ch do tâm chuyn thì thông c năng s. Nhưng năng s là có hai. Nếu trong pháp tính tông t đ nht nghĩa tùy duyên thành hu (có) tc là năng tác, có tâm cnh đu thông s tác vì bt tư nghì huân, bt tư nghì biến là nhân ca hin thc. Nếu pháp tưng tông, đ nht nghĩa tâm ch là cái b mê (s mê) chng phi là năng tác, có ba th năng biến như thc th tám v.v...Lun Duy thc nói: “Kinh Đi tha li còn nói cái nghĩa tam gii duy tâm. Ch tâm là ch có ni tâm, không có các cnh gii bên ngoài như sc, hương v.v... điu này làm sao biết ?” Như kinh Thp Đa nói: “Tam gii hư vng ch là do nht tâm làm ra”, cho nên tâm, ý, thc và liu bit, bn pháp này có tên gi khác nhau nhưng cùng mt nghĩa đây là căn c tâm tương ưng nói, chng nói theo tâm bt tương ưng. Tâm có hai loi: Tâm tương ưng và tâm bt tương ưng. Tâm tương ưng nghĩa là tt c phin não kết s như th, tưng, hành v.v... vì thế nên nói tâm ý cùng vi thc và liu bit có cùng mt nghĩa mà tên gi khác nhau. Tâm bt tương ưng là đ nht nghĩa đế, t tính tâm thanh tnh thưng tr bt biến cho nên nói tam gii hư vng ch nht tâm làm ra, đây là tâm tương ưng. Nay nương vào pháp tính nên nói đ nht nghĩa tâm đưc xem là năng tác, nói chuyn là nghĩa khi tác cũng có nghĩa chuyn biến.

Hi: Như trên nói v hai tâm chân vng, ch là văn lý hi quy, môn phương tin nào giúp đưc kiến tính?

Đáp: Vng bt hết, tâm không, chân tri t hin. Nếu khi suy tính li càng thêm tâm vng, ch lúc đưc diu ng thì các duyên t dt. Như bài tng c Pht ng đo nói :

Thy sao Mai cht ng

Ng ri chng phi sao

Chng chy đui theo vt

Chng phi là vô tình.

Lun Bo Tng nói: “Tông ca muôn vt chng phi có chng phi không, m ca vn vt chng phi có chng phi không, không có ch thoát khi nó cũng không có ch vào đó, trùm khp vn hu mà không là gì c, ng hóa vô cùng mà chng làm ch. Đo tính như thế, đâu có th suy lưng, lúc kiến tính t nhiên phơi bày”. Có bài tng xưa:

Vng dng t lng sinh

Lng sinh cái biết hin

Biết sinh lng lin buông

Rõ ràng ch “chân kiến”.

Tín Tâm Minh nói:

Tin tế biết không

Ch biết đu (là) tông

Chiếu cnh rõ ràng

Theo chiếu mù m

Mt tâm tr ngi

Muôn pháp chng thông

Đến đi t đó

Chng dng suy cùng.

Như có ngưi hc hi hòa thưng Hoàng Bá36 :

- Như hư không trưc mt chng phi là cnh sao? Đâu không ch cnh thy tâm ?.

Đáp: Cái tâm nào hưng trên cnh thy? Gi s đưc thy như vy vn ch là tâm chiếu cnh như ngươi dùng gương soi mt, dù thy rõ ràng mi mt nhưng ch là bóng mà thôi, nào có dính dáng gì đến vic ca ông.

Hi: Nếu không nh soi chiếu làm sao thy đươc?

Đáp: Nếu có nhân phi nh đến vt thì đến khi nào mi liu đt? Ông chng nghe nói buông thõng tay dưng như ông không có mt vt, tht ung công nói bàn đ điu.

Hi: Lúc biết soi chiếu cũng không mt vt sao?

Đáp: Nếu không vt thì ch nào đưc chiếu soi? Ông ch nên m mt nói m.

Sư nói: Biết trăm th chng bng bc đo nhân vô cu, đó là bc nht.

 

 

 

31Triệu pháp sư (Tăng Triệu 384-414) Cao tăng Trung-quốc, sống vào thời Đông Tấn, người Trường An, họ Trương.

32Viễn pháp sư (Huệ Viễn 334-416) cao tăng Trung-quốc, sống vào thời Đông tấn, người Nhạn môn, họ Giả là sơ Tổ tông Tịnh độ.

33Phục Lễ: Danh tăng Trung-quốc đời Đường, người Thiểm Tây, họ Hoàng Phủ.

34Trừng Quán: (738-839): Cao tăng Trung-quốc, sống vào đời Đường, tổ thứ 4 tông Hoa Nghiêm, người Chiết Giang, họ Hạ Hầu, tự Đại Hưu, hiệu Thanh Lương quốc sư, Hoa Nghiêm Bồ-tát.

35Hiểu pháp sư (Nguyên Hiểu 617-?) Cao tăng Triều Tiên, thuộc tông Hoa Nghiêm, họ Tiết.

36Hoàng Bá Hy Vận (765-850) Thiền tăng đời Đường, họ Vương, người xứ Mân, Trung-quốc, nối pháp thiền sư Bách Trượng Hoài Hải. Sư trụ núi Hoàng Bá phát huy tâm yếu trực chỉ đơn truyền nên được gọi là Hoàng Bá Hy Vận.

Comments

Popular posts from this blog