TÔNG CẢNH LỤC
QUYỂN 5
Hỏi: Chân tâm chẳng thay đổi, diệu tính vô sinh phàm Thánh như
nhau, sao lại
nói đến vọng?
Đáp: Bản
tâm lặng lẽ bặt tướng,
lìa ngôn ngữ.
Tính tuy tự
như thế, nhưng
vì không giữ
được tính nên theo duyên nhiễm tịnh. Lại như
một thứ nước,
nếu bỏ hạt ngọc vào thì nước
trong, cho cát bụi
vào thì nước đục; như
chỉ có một hư
không, nếu
mây che thì mờ
tối, còn trăng hiện thì trong sáng.
Luận Đại Trí Độ nói: “Ví như ao nước
trong sạch
con voi điên lội
vào sẽ làm vẩn đục, nếu bỏ vào nước
hạt châu thanh thủy thì nước
liền trong sạch. Không thể nói ngoài nước
không có voi không có hạt
châu. Tâm cũng như vậy, phiền não xâm nhập thì tâm vẩn đục, các pháp lành như
từ bi v.v... đi vào trong tâm
làm cho tâm thanh tịnh.
Nhưng nhơ
sạch chẳng định chân vọng tùy duyên. Nếu mê tâm này chắc chắn niệm niệm luân hồi, đánh mất chân tính, nếu soi chiếu tự tâm thì chắc chắn tâm tâm tịch diệt viên chứng niết-bàn. Do đó biết chân vọng đều vô,nhân
“không” mà có ngôn thuyết.
Theo chân không nói, theo nói không chân đều là do tình tưởng
mê cuồng kiến lập. Nghìn điều mê đua nhau khởi như
Diễn-nhã mê cho là mình không
có đầu. Một pháp vừa sinh chỉ là cái bóng thành
Càn-thát-bà hiện.
Bởi vì chúng sinh không thấu suốt chỗ chân thật, chỉ chạy theo tình thức điên cuồng nên các bậc Thánh thuận với căn cơ
và hoàn cảnh
chúng sinh cùng đồng
sự lấy chốt tháo chốt, nói vọng mà từ vọng lập chân, lấy thô tiếp thô, nêu tướng
để nhờ tướng
mà rõ tính. Nếu
chẳng chấp vọng còn chẳng nói chân; bóng huyễn vừa tan mất ánh sáng trí tuệ dừng bừng cháy”.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Phật bảo A-nan: Tính chân diệu minh bản giác viên tịnh chẳng còn sinh tử và các trần cấu, cho đến hư
không đều
do vọng tưởng
sinh. Nguyên là bản
giác diệu
minh chân tinh, do vọng
mà phát sinh các thứ
khí thế gian, như
Diễn-nhã mê đầu nhận bóng. Vọng vốn không có nhân, ở trong vọng tưởng
lập tính nhân duyên. Mê nhân
duyên gọi
là tự nhiên, tính hư
không kia thực
ra vẫn là huyễn sinh. Nhân duyên hay tự nhiên đều là vọng tâm suy lường
của chúng sinh. Này A-nan, biết chỗ vọng khởi nói nhân duyên của vọng, nếu vọng vốn không thì nói nhân duyên
của vọng cũng không, huống chi không biết suy ra là tự nhiên”.
Triệu
pháp sư31, nói đến nguyên do khởi vọng lập phẩm Bản Tế như
sau: “Bản
tế là tính niết-bàn vô ngại của tất cả chúng sinh. Tại sao bỗng có vọng tâm và các thứ điên đảo như
thế? Chỉ vì một niệm tâm mê, một niệm này từ một mà khởi, một niệm này từ bất tư
nghì khởi,
bất tư
nghì là không có chỗ
khởi”.
Do đó kinh nói: “Đạo bắt
đầu từ một, một là vô vi, một sinh hai, hai là vọng tâm, cho đến ba v.v... sinh ra muôn
pháp. Đã duyên vô vi mà có tâm, rồi duyên có tâm nên có sắc”. Vì thế kinh nói: “Các thứ tâm sắc,
vì tâm sinh ra muôn điều
lo nghĩ, sắc
dấy thành muôn mối, hòa hợp với nghiệp duyên làm thành hạt giống ba cõi. Sở dĩ có ba cõi là do chấp cái mê căn bản về chân nhất, liền có sự ô nhiễm sinh ra hơi
hám hư vọng (vọng khí); lắng trong ở mức độ vi tế là cõi vô sắc, gọi là tâm. Lóng lặng những ô trược
là cõi sắc,
gọi là thân. Gạn bỏ cặn bả là cõi dục, gọi là trần cảnh”.
Kinh nói: “Ba cõi hư vọng, chỉ có một vọng tâm biến hóa”. Bên trong có cái một sinh thì ở ngoài có vô vi, bên trong
có cái hai sinh thì bên ngoài có hữu vi, bên trong có cái ba sinh thì bên ngoài có ba cõi. Trong
ngoài tương ưng
với nhau bèn sinh ra các pháp
và vô số
phiền não. Cho nên biết trong ba cõi không một pháp nào chẳng từ tự tâm sinh. Nhân tâm tưởng
niệm, phân biệt tạo tác, như
sức huyễn thuật biến hóa muôn vật, dường
như bên ngoài phát hiện, hiện nhưng
không có tính hiện,
chỉ là do tâm sinh, người
mê lầm điên dảo chấp làm cảnh bên ngoài, theo cảnh phân biệt đẹp, xấu rồi khởi ưa,
chán và dấy
lên dấu vết trần lao.
Viễn
pháp sư32 nói: “Gốc ngọn từ đâu khởi diệt có không, một mảy may động cảnh cũng có thể làm cho thế núi sụp đổ”.
Chỉ
bên trong cái một
chẳng sinh thì không có các thứ. Muốn lấp kín hang động phiền não, chặt đứt gốc rễ sinh tử chỉ nên nội quán một niệm vô sinh, ắt hẳn ba cõi hoa đốm hư
không như gió cuốn bụi mù, như
bóng ảnh hư
ảo sáu trần, như
tuyết tan, rỗng rang không bờ mé, chỉ một chân tâm!
Kinh Tiến Thú Đại Thừa Phương Tiện ghi: “Phật dạy:
Cảnh giới nhất thật chính là tâm thể của chúng sinh từ xưa
nay bất sinh bất diệt, cho đến tâm của tất cả chúng sinh, tâm của tất cả Nhị thừa, tâm của tất cả Bồ-tát, tâm của tất cả chư
Phật đều là bất sinh bất diệt như
nhau vì là tướng chân như,
cho đến trong tất cả thế giới khắp mười
phương hư
không tìm hình trạng
của tâm cũng không có một chút khác biệt. Chỉ vì chúng sinh vô minh si
ám huân tập
nhân duyên, hiện
cảnh giới hư
vọng khiến sinh niệm chấp trước”.
Chỗ nói rằng tâm này không có thể tự biết, mê vọng tự nói: Có khởi tưởng
giác tri, chấp
ngã, ngã sở,
nhưng thật không có tướng
giác tri vì vọng
tâm này hoàn toàn vô thể
nên không có thể
thấy được.
Nếu không có cái giác tri hay
phân biệt
thì cũng không có tướng sai biệt của tất cả thế giới trong mười
phương ba đời. Vì tất cả pháp đều không thể tự có, luôn luôn nương
vào vọng tâm phân biệt để có. Chỗ gọi là tất cả cảnh giới mỗi mỗi chẳng tự nghĩ là có, biết đây là tự, biết kia là tha. Thế nên tất cả pháp không thể tự có, thì không có gì sai
khác. Chỉ
nương vào vọng tâm, chẳng hiểu chẳng biết bên trong tự là không. Nghĩa là có cảnh bên ngoài được
biết rồi vọng sinh ra các pháp tưởng,
cho là có, là không, là đẹp, là xấu,
là phải, là trái, là được,
là mất v.v... cho đến sinh ra vô lượng
vô biên pháp tưởng. Nên biết tất cả các pháp đều từ vọng tưởng
sinh, dựa
vào vọng tâm làm gốc, nhưng
vì vọng tâm này không có tự tướng,
cũng y theo cảnh
giới mà có, chỗ gọi là vì duyên niệm giác tri cảnh giới trước
mắt nên gọi là tâm. Vọng tâm này và cảnh giới trước
mắt tuy cùng nương
nhau khởi
không trước sau, nhưng
vọng tâm này hay làm nguyên
chủ tất cả cảnh giới. Vì sao? Vì y theo vọng tâm không rõ được
cảnh giới nhất tướng
nên nói tâm có vô minh; nương vào sức mạnh của vô minh làm nhân nên hiện ra cảnh giới hư
vọng và cũng nương
vào vô minh diệt
nên tất cả cảnh giới đều diệt; chẳng phải nương
vào tất cả cảnh giới tự chẳng rõ nên nói cảnh giới có vô minh; cũng chẳng phải nương
cảnh giới mà sinh ra vô minh. Bởi vì tất cả chư
Phật đối với tất cả cảnh giới chẳng sinh vô minh; và cũng chẳng nương
theo cảnh giới diệt nên tâm vô minh diệt, vì tất cả cảnh giới từ xưa
nay thể tính tự diệt nên chưa
từng có. Do nghĩa này nên chỉ nói: Tất cả pháp y nơi
tâm làm gốc,
nên biết tất cả pháp đều gọi là tâm, vì trên mặt nghĩa lý, thể chẳng khác đều thu về tâm. Lại tất cả các pháp đều từ tâm khởi, cùng hòa hợp với tâm để hiện hữu, cùng sinh, cùng diệt, đều không trụ. Do tất cả cảnh giới đều tùy theo tâm sở duyên niệm niệm tương
tục nên được
gìn giữ lại, tạm thời có. Đoạn trên đã dẫn lời Phật dạy rất kỹ lưỡng
cũng chỉ
vì muốn giúp kẻ hậu học tin được
và sáng tỏ
tự tâm.
Luận Bảo Tạng nói: “Gương
xưa soi tinh tú, tinh tú tự tỏ rạng hình thể; cổ giáo chiếu tâm thể, tâm thể tự sáng tỏ”.
Chúng ta nên biết một
tâm trùm tất
cả tâm, không khác một mảy may, tất cả tính ở trong một tính, pháp pháp đều như
nhau, vô hình mà rỗng
suốt hư
không,nào ai phân kia đây; tìm dấu thì thênh thang khắp pháp giới mà chẳng
nắm được
mảy tơ.
Vì sao trong cõi chúng sinh ngay đây hiển hiện?
Đấy đều là do vọng niệm tích tập huân thành. Như
bụi trên gương
làm gương mờ, như
mây mù tạm
thời vần vũ bầu trời trong. Chỉ có một pháp hiện tiền đều là tự tâm phân biệt. Giả sử một niệm vừa khởi, thảy đều do cảnh huyễn phát sinh theo, đồng thời khởi diệt không có trước
sau. Nếu biết năng sở vô thể, đốn ngộ nhân không, pháp không, chợt tỉnh vật ngã không có chỗ nương
gá mới tin rằng cảnh lặng, tâm lặng. Lại nữa, tâm sinh cũng chẳng phải là do cảnh, vì cảnh chưa
từng sinh; tâm diệt cũng không phải là do cảnh vì cảnh chưa
từng diệt. Chúng ta nên biết cảnh do tâm khởi rồi trở lại đuổi theo cảnh, đánh mất tâm. Chỉ là tâm sinh, chẳng phải cảnh sinh, tâm diệt chẳng phải cảnh diệt như
con cá mẹ
nhớ cá con, như
ong chúa lĩnh đạo
bầy ong. Nếu cá mẹ không nhớ đến thì bọn cá con bị chết, con ong chúa không lĩnh
đạo thì bầy ong sẽ tan rã. Đó là có tâm duyên
tưởng muôn cảnh. Cho dù không niệm ức trì thì một mảy bụi cũng chẳng hiện, trọn không có pháp ở ngoài tâm. Hay cùng với tâm làm duyên chỉ là tự tâm sinh, rồi lại cho tâm là tướng.
Vì thế kinh Lăng Già nói: “Không rõ tự tâm hiện ra giới hạn, chẳng biết được
nội thức chuyển biến, bên ngoài hiện làm sắc, chỉ là do tự tâm hiện ra, chẳng rõ được
giới hạn như
thế, gọi đây là luận ác kiến, bởi vì chẳng biết tâm hiện nên khởi kiến chấp sai biệt, do đó nói là giới hạn”.
Vì vậy
ta mới biết nếu không ở trong chính nghĩa của Tông Cảnh, những hiểu biết của mình đều thuộc bè phái tà đạo, bày ra hình thức hay nói năng thảy đều rơi
vào luận nghị ác kiến. Pháp nghĩa Tông Cảnh có thể dùng làm tiêu chuẩn, không sai chính lý, có
thể căn cứ theo đây thực hành sẽ đắc lực ngay. Muôn điều tà đều bỏ hết, cho đến nghìn Thánh chẳng đổi dung nghi, liền có thể tẩy rửa mê hoặc, tiêu hết trần cấu, vọng lự, đi vào chỗ sâu lặng, chợt sáng tự tâm, độc diệu tuyệt luân nên không gì bằng!
Hỏi: Nếu nói có chân có vọng, đó là pháp tướng
tông; nếu
nói vô chân vô vọng,
đó là phá tướng tông, nay nói pháp tính
tông tại sao lại lập chân, lập vọng rồi lại nói phi chân phi vọng?
Đáp: Nay Tông Cảnh luận
bàn chẳng phải phá tướng
lập hữu, cũng chẳng phải là phá tướng
quy không, chỉ
đứng trên mặt tính tông viên giáo để làm sáng tỏ chính lý, tức là lấy chân như
bất biến, bất ngại tùy duyên làm viên nghĩa.
Nếu pháp tướng
tông chỉ
một bề nói có chân có vọng, nếu phá tướng
tông chỉ
một bề nói phi chân phi vọng. Cả hai môn đều kẹt vào một bên, đều thuộc tư
nghì. Nay viên tông này còn đủ hai môn không hữu ở
trước mà cũng chẳng trái ngại, đây là bất khả tư
nghì. Nếu
nói một cách quyết định thì hai môn hữu vô đều bất khả tư
nghì. Nay vì chẳng
nhiễm mà nhiễm thì bất biến tùy duyên; nhiễm mà chẳng nhiễm thì tùy duyên bất biến, thật không thể đem hữu vô suy lường,
cũng không thể
để cho chân vọng làm mê; đấy là tông thú bất tư
nghì, tình thức
không thể
biết đến được.
Nay tạm mượn
văn nghĩa đối
trị chỉ vì để phá tà chấp. Nếu tình hư
rỗng thì trí dứt bặt như
bệnh hết thì không cần thuốc, nếu có thể đến chỗ tận cùng gốc ngọn mới thấu suốt yếu chỉ viên thường.
Như bài kệ hỏi người
học khắp nơi
về chân vọng của pháp sư
Phục Lễ33 như sau:
Chân tính, tính vốn tịnh
Vọng niệm do đâu khởi
Từ chân có vọng sinh
Vọng này đâu thể dừng
Không gốc cũng không ngọn
Có trước mới có sau
Không trước thì không sau
Vẫn mờ mịt lý này
Xin mở bày huyền diệu
Phá vỡ thoát sinh tử.
Hòa thượng Trừng Quán34 đáp:
Mê chân, vọng niệm sinh
Ngộ chân, vọng liền dừng
Năng mê chẳng sở mê
Đâu phải giống hệt nhau
Xưa nay chưa từng ngộ
Nên nói vọng vô thỉ
Biết vọng vốn tự chân
Mới là lý hằng thường
Tâm phân biệt chưa mất
Làm sao thoát sinh tử?
Thiền
sư Tông Mật giải thích: Giáo nghĩa kinh điển Đại thừa được
thống nhiếp trong ba tông: tông pháp
tướng, tông phá tướng
và tông pháp tính. Câu hỏi này nhằm
vào điểm then chốt trong tông pháp tính chứ không hỏi về hai tông kia. Nếu tông pháp tướng
nói tất cả vọng pháp hữu lậu, tịnh pháp vô lậu, từ vô thỉ đến nay mỗi thứ đều có chủng tử, trong thức a-lại-da gặp duyên huân tập đều từ tự tính khởi, không liên hệ gì đến chân như
thì ai cho rằng
từ chân sinh vọng? Tông này nói chân như
một bề là vô vi tịch diệt, không sinh khởi, không lặng dừng, không thể thắc mắc từ chân có vọng sinh. Còn tông phá tướng
một bề nói phàm Thánh, nhiễm tịnh, tất cả đều không, vốn không có gì cả, dù thấy một pháp hơn
cả niết-bàn cũng như
huyễn mộng. Tông phá tướng
này vốn đã chẳng lập chân huống chi là vọng, cho nên chẳng nghi ngờ “từ chân có vọng”. Chỉ nghi tông pháp tính vì
kinh luận
của tông này nói rằng “y chân khởi vọng”, như
nói pháp thân lưu chuyển trong năm đường,
Như Lai tạng thụ khổ vui v.v... Nói ngộ vọng tức là chân, như
nói lúc mới
phát tâm liền
thành vô thượng bồ-đề. Biết vọng vốn tự chân, thấy Phật liền thanh tịnh. Lại nói phàm Thánh lẫn lộn, như
nói tất cả chúng sinh bản lai thành Chính giác, Bát
niết-bàn, trong thân Tỳ-lô-giá-na
có đủ tất cả chúng sinh trong sáu đường.
Chân vọng tương
tức, tuy nói phiền não bồ-đề không có thỉ chung, lại cũng nói phiền não hết sạch mới gọi là Diệu giác. Văn kinh Hoa
Nghiêm, luận
Khởi Tín v.v... từ đầu đến cuối, nghĩa tông có ngại vì chính trong lời nói trái nhau, nếu muốn chọn lọc cũng không thể lấy một bỏ một, muốn hợp nghĩa lý cũng khó hợp, còn dùng cả hai thì lại trái nhau. Thử hỏi học sĩ trong thiên hạ, người
liễu đạt liền tri chân nhập đạo. Nếu theo lời đáp của các sư
đều là không rõ ý của câu hỏi, vì căn cứ vào tuyệt tướng
quy lý mà nói, đều
không biết
nguyên do từ
chân khởi
vọng và lý tu vọng chứng chân. Nhưng
mê chân khởi
vọng bởi vì có nguyên do dứt vọng về chân chẳng phải không có nguyên do. Pháp
sư Phục Lễ đâu không biết chân vọng đều tịch, lý sự đều như.
Như trong im lặng đâu có hỏi đáp. Nhưng
có hai môn nghĩa lý còn dễ rõ được, không trái nghịch nhau. Một môn chuyên nói có vọng để đoạn, có chân để chứng. Một môn chỉ nói phi chân phi vọng, không phàm không Thánh.
Hai môn này đều
bất khả tư
nghì. Cho nên kinh Thắng Man nói: “Chúng sinh tự tính tâm thanh tịnh, không nhiễm phiền não, không nhiễm mà nhiễm, nhiễm mà không nhiễm, đều nói là khó có thể biết rõ”.
Sư Phục Lễ hỏi ngay nghĩa này, các sư
đều đáp: Không cấu nhiễm. Chỉ xét lại câu trả lời của hòa thượng
về chân như
bất biến bất ngại tùy duyên mới thật đúng. Tông Mật đáp:
Bản tịnh bản bất giác,
Do đây vọng niệm khởi,
Biết chân vọng tức không.
Biết không vọng liền dừng,
Chỗ dừng có chung cuộc,
Khi mê không khởi đầu.
Nhân duyên như
huyễn mộng,
Đâu là chung là thỉ,
Nguyên do có chúng sinh
Thấu suốt được điều này
Liền ra
khỏi sinh tử.
Phần nhiều người ta
thường nói
chân hay sinh vọng nên nghi vọng chẳng hết, vì
để quyết định cho
lý này nên đáp bằng bài kệ ở trước:
Chẳng phải chân sinh vọng
Do mê chân khởi vọng
Biết vọng vốn tự chân
Biết chân
vọng liền dừng
Vọng dừng như chấm dứt
Ngộ rồi vẫn như xưa
Mê ngộ tính
đều không
Tính không chẳng trước sau
Sinh tử do mê
này
Liễu đạt thoát sinh tử.
Lại căn
cứ vào thỉ chung
mà có phân biệt bốn trường hợp: 1-
Hữu thỉ vô
chung (có bắt đầu
không kết thúc) là thỉ giác.
2- Hữu chung vô thỉ (có kết
thúc, không có bắt đầu) là
vô minh. 3- Vô chung vô thỉ
(không kết thúc, không bắt đầu) là
thật tế. 4- Hữu thỉ hữu
chung (có bắt đầu, có
kết thúc) là một giai
đoạn sinh tử.
Giải thích:
Vô thỉ hữu
chung: đối với người mờ mịt,
không rõ cái lý này thường đem các sự việc pháp
tướng kể ra và
thắc mắc. Nay
nói: Có vọng tức chân
thì đồng với
không có thỉ và chung (vô chung thỉ). Nếu phân
biệt nói thì phải có bốn câu:
vọng niệm
không có thỉ mà có chung, chân lý thì không chung và
không thỉ. Chợt khởi vọng niệm là
có chung, có thỉ.Nếu về viên
dung đều không có thỉ và
chung, đã không có thỉ và chung, cũng không có vô chung vô thỉ, chỉ có im
lặng và dứt tưởng mới có
thể hội được chỗ huyền diệu này.
Rõ ràng ý câu đáp trên đây rất hợp với viên
tông, đối với môn
tùy duyên ban đầu tức mê
chân khởi vọng,
sau đó ngộ vọng tức
chân, trong mê ngộ dường như nó phân trước sau.
Căn cứ vào môn bất biến vọng tự vốn
không, ai bảo trước sau, chân tục vô
tính, phàm Thánh chỉ có tên gọi. Ví
như làm sợi dây
là con rắn, nghi ác thú là quỷ, chân
đế phi hữu, thế đế phi
vô. Hai đế làm thành cho nhau, không rơi vào tà kiến. Do
đó tục đế không
thể không có, có mà luôn tự
không; chân đế chẳng thể chẳng
không, không mà hằng suốt có.
Ngày nay phần đông người học đều mê
chấp hai môn không, hữu đều
thành thiên kiến; chỉ chuộng tất cả chẳng lập, phủi bỏ dấu vết trở về
không, trong nghĩa sai biệt trái
nhau hoàn toàn không có mắt tuệ, đã
chẳng rõ được chỗ mê lầm làm
sao giải nghi. Cho nên nói tâm niết-bàn
dễ được, trí sai biệt khó
rõ. Nếu trong hai môn không hữu hay
cùng ngăn cùng soi (song già song chiếu),
không lìa hai đế chân tục mới có
thể hoằng
pháp, vì người nối tiếp Phật chủng.
Hỏi: Hai
tông pháp tướng và
pháp tính làm sao phân biệt?
Đáp: Pháp tướng nói
nhiều đến sự tướng,
pháp tính chỉ nói lý tính. Như tông Pháp Tướng lìa
thức thứ tám
không có các thức: Nhãn thức
v.v...; còn tông Pháp Tính, lìa Như Lai tạng
không có tám thức; nếu chân
như chẳng giữ tự tính
biến thành thức thì
tám thức này là cái nghĩa tùy duyên trên chân
tính, hoặc phân tông, biện tướng sự thì
phân hai. Nếu tính tướng làm
thành cho nhau lý quy về nhất
nghĩa, vì tùy duyên bất biến, bất biến tùy
duyên, như toàn
sóng là nước,
toàn nước là
sóng, động tịnh dường như phân cách nhưng tính ướt
không khác.
Thanh
Lương Ký dẫn bài
kệ trong kinh
Mật Nghiêm:
Như
Lai thanh tịnh tạng
Thế gian a-lại-da
Như
vàng và nhẫn đeo
Chuyển đổi tính không khác.
Thể của a-lại-da
là Như Lai tạng,
cùng với vọng
nhiễm gọi
chung là a-lại-da, không có thể
riêng như vàng ròng và nhẫn
đeo tay đều có “thể”
là chất
vàng. Nhưng sự
khác biệt
trên đây gồm có bốn
trường
hợp:
1- Từ bản
thành mạt,
bản ẩn mạt tồn:
Đây là tồn ẩn
chẳng
khác cho nên nói vì vọng vô thể, vọng
nắm lấy
chân để dấy
khởi thì
chân bị ẩn
chỉ có
vọng
hiện.
2- Nhiếp mạt
quy bản,
mạt tận bản
hiện:
Đây là hiển diệt để rõ
được
cái chẳng
khác, cho nên nói chân thể là thật,
vọng
phải hết
chỉ có
chân hiện.
3- Nhiếp bản
tùng mạt,
mạt tồn
nhiếp bản,
quy bản bản
hiện:
Đây là hai pháp đều tồn tại.
Chỉ
chân vọng
có khác là có chân có vọng, vì rõ được
chân vọng
không khác nên nói vọng vô thể,
cái thể
chân thật
chẳng
khác nên nói không khác.
4- Nhiếp bản tồn mạt bản ẩn,
là cái nghĩa bất không. Nhiếp mạt
quy bản mạt tận,
là cái nghĩa bất hữu.
Chẳng
có chẳng
không chứng
tỏ là
chẳng
khác, cũng là hai câu sau cùng. Vì chẳng
khác nên chẳng phải một
bên, chẳng
phải một
bên nên chẳng phải ở giữa,
chẳng
một
bên chẳng ở giữa,
đây là chỗ chứng
pháp giới
diệu
trí trạm
nhiên, thường
trụ,
không nương gá; và lại
chẳng
phải một
chẳng
phải
khác nên luôn ở một
bên mà là giữa, lại
chẳng
một tức
sinh tử,
chẳng
khác tức
niết-bàn.
Vì chẳng
một tức
chẳng
khác nên hằng ở
trong sinh tử tức
là sống
trong niết-bàn,
đấy
cũng vì chúng sinh mê nên thành a-lại-da,
Như Lai ngộ
nên thành Như
Lai tạng.
Như vàng nhờ
tài khéo của thợ
kim hoàn làm thành nhẫn đeo tay, như chiếc
nhẫn đưa vào lò nấu lại
thành vàng. Sự thành hoại
xoay vần
chỉ là
vàng không có gì khác. Như
Lai tạng
tâm cũng như vậy,
chỉ vì
theo duyên nhiễm lúc mê trở
thành a-lại-da, theo duyên tịnh
lúc ngộ là
Như Lai tạng;
trước
sau chuyển đổi
chỉ có
một
tâm hoàn toàn không khác.
Như Vô Sinh Nghĩa nói: “Trong thân chúng
sinh có niết-bàn, tức
là trong ngọn đã bao hàm có gốc.
Chúng sinh là vật dụng
của
nhà niết-bàn,
là trong gốc bao hàm có ngọn.
Tham dục tức
là đạo,
tức
là trong ngọn đã gồm
có gốc;
tham dục
là gia dụng
của đạo,
tức
là trong gốcđã gồm
có ngọn”.
Cho nên kinh nói: “Tất cả
phàm phu thường ở
trong định”.
Hỏi: Thường ở
trong định
nào?
Đáp: Do chẳng
hoại
pháp tính tam-muội nên đây là trong ngọn gồm có
gốc,
trong pháp tính gồm có chúng sinh tức
là trong gốc gồm
có ngọn.
Kinh
Đại Phẩm nói: “Chẳng
lìa hữu
vi nói vô vi, chẳng lìa vô vi nói hữu
vi. Vả lại
nghĩa mạt tức
là bản,
bản tức
là mạt
như nước tức
là sóng, sóng tức là nước”. Như kinh nói: “Sinh tử tức
niết-bàn
vì vô diệt
vô sinh”.
Kinh
Lăng Già nói: “Chân thức và hiện
thức
như khối đất
và hạt bụi.
Này Đại
Tuệ, nếu
khối đất
và hạt bụi
khác nhau thì khối đất
chẳng
phải
do hạt bụi
làm thành nhưng
thật
ra khối đất
do hạt bụi kết
thành, cho nên không khác. Khối đất,
hạt bụi
không có gì khác nhau. Như vậy
chân tướng
của
chuyển
thức
và tạng
thức nếu
khác thì tạng thức
không phải
nhân, nếu
chẳng
khác thì chuyển thức
diệt tạng
thức
cũng phải
diệt
mà tự
chân tướng
thật
chẳng
diệt.
Thế
nên chẳng
phải tự
chân tướng
diệt,
mà chỉ có
nghiệp tướng
diệt”.
Trong đây chân tướng
là Như Lai tạng,
chuyển
thức
là bảy
chuyển
thức,
tạng
thức
là a-lại-da.
Lại nói các thức
có ba tướng:
chuyển tướng,
nghiệp tướng,
chân tướng.
Ba loại tướng
này cùng thông với tám thức
khởi
tâm gọi
là chuyển.
Vì tám thức cùng khởi
nên đều
có sinh diệt, do đó gọi
là chuyển tướng,
động ắt
là nghiệp.
Như đầu
tiên là nghiệp tướng ở
trong tam tế, tám thức đều động,
gọi
là nghiệp tướng.
Chân tính của tám thức
này đều gọi
là chân tướng.
Cho nên kinh nói: “Nói sơ lược
có ba loại
thức,
nói rộng
có tám thứ tướng. Những
gì là ba? Đó là chân thức, hiện
thức,
phân biệt sự thức.
Căn cứ
vào chỗ vọng
không hợp với
Như Lai tạng
tâm cho là chân thức hiện tức
là thức
thứ
tám”. Kinh nói: “Ví như gương sáng giữ lấy
các hình sắc, chỗ hiện
thức
hiện
bày cũng như vậy.
Còn bảy
thức
kia đều gọi
là phân biệt sự thức”.
Kinh nói: “Nếu
khác thì tạng thức
chẳng
phải
nhân, nói là ba”. Nếu khác thì tạng
thức sẽ chẳng
dùng chân tướng
và chuyển tướng
làm nhân. Vì đã do chuyển thức
huân cho nên chân thức tùy duyên mà thành tạng
thức;
do đó biết nếu
không khác (bất dị)
thì không lấy tạng
thức
làm nhân của hai thức
kia. Vì thế kinh nói: “Chẳng
phải tự
chân tướng
diệt
mà chỉ là
nghiệp tướng
diệt”,
đây là ba việc phải
có đủ.
Trong kinh nêu ra ba ví dụ: Hạt bụi,
nước
và khối đất.
Dùng nước
hòa với hạt bụi mới
thành khối đất,
do nghiệp
huân chân tướng
nghiệp
thức
liền
sinh. Kinh nói: Nếu từ
chân tướng
diệt
thì tạng
thức sẽ diệt;
trái lại
hiển tạng
thức
do chân vọng hòa hợp
mà thành; chỉ có vọng
diệt,
chứ
chân thể chẳng
không. Lại tự
chân tướng
được
Hiểu
pháp sư35 giải
thích: Tâm bản giác không nương vọng
duyên, tính tự thân giải gọi
là tự
chân tướng.
Căn cứ vào nghĩa chẳng
một
(bất
nhất),
lúc theo gió vô minh tạo ra sinh diệt;
tính thần
giải
và bản
(tính) không khác, cũng gọi là tự
chân tướng.
Đây là căn cứ theo nghĩa bất dị
(chẳng
khác) mà nói.
Lại kinh nói: “Như Lai tạng
huân tập
các tập
khí ác (ác tập) từ vô
thỉ gọi
là tạng
thức...
Đại
Tuệ,
Như Lai tạng
là nhân của thiện
và bất
thiện
khởi
lên tất cả
các loài như diễn
viên biểu
diễn
khắp nơi”.
Các kinh điển đều
cho Như Lai tạng
là thức
thể.
Cho nên biết tâm tính tức
là Như Lai tạng,
ngoài ra không có pháp. Bài kệ trong luận Duy Thức nói:
Lại các pháp thắng
nghĩa
Cũng tức là chân như
Vì thường như
tính kia
Là duy thức thật tính.
Do đó biết rõ
ngài Thiên Thân cũng lấy Như Lai tạng làm
thành thức thể, nhưng người sau giải
thích luận chỉ lập bất biến, đó
là lỗi của họ. Nói
tóm lại, các nghĩa trên đều là chân
vọng hòa hợp phi
nhất phi dị, hay
thành môn nhất tâm nhị đế, chẳng rơi vào đoạn thường ở trong
diệu chỉ trung
đạo, sự lý
xen suốt, tính tướng
dung thông, không pháp nào chẳng
thâu, đều quy về Tông
Cảnh.
Hỏi: Hai
tâm chân vọng hành tướng đều
khác, làm sao dung hội được viên tông của tính
nhân pháp?
Đáp: Chỉ biết vọng niệm vô
sinh tức là chân tâm bất động,
ngoài cái bất động ra
không có một pháp có thể được.
Kinh nói: “Quả Dự lưu, Nhất lai,
Bất hoàn, A-la-hán, các bậc
Thánh nhân này đều nương nơi tâm vọng mà
có”. Kinh Đại Bát-nhã nói: “Này
Thiện Hiện,
Bát-nhã ba-la-mật vô cùng sâu xa, phân tích các pháp hơn cực vi lượng, trọn chẳng thấy một chút
gì là có cho nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Chân vọng vô thể đều có
danh tự, danh tự vô thể, danh
tự đều nương vào ngôn thuyết;
ngôn thuyết tính không, không có chỗ khởi thì
tất cả ngôn
ngữ đều bình
đẳng. Tất cả các
pháp đều chân thật”. Do
đó kinh Thắng Tư Duy
Phạm Thiên Sở Vấn ghi: “Phạm
Thiên hỏi Văn-thù: Lời nhân
giả chân thật
chăng? Văn-thù đáp: Này thiện nam,
tất cả ngôn
thuyết đều là
chân thật.
Hỏi: Lời nói
hư vọng
cũng là chân thật sao? Đáp: Đúng thế. Vì
sao? Bởi vì tất cả ngôn
thuyết đều hư vọng
không nơi chốn.
Pháp hư vọng
không nơi chốn tức là
chân thật, vì nghĩa này nên tất cả ngôn
thuyết đều chân
thật. Này thiện nam,
lời nói của Đề-bà-đạt-đa
và lời Phật
không sai không khác. Vì sao? Tất cả ngôn
thuyết đều là
do Như Lai
nói nên chẳng ra ngoài Như. Những điều được nói
ra bằng ngôn từ tất cả đều vô sở thuyết cho
nên được nói
ra”. Phụ Hành
Ký giải
thích: Một niệm tâm
đã thành quán cảnh. Đây có hai nghĩa:
1- Lấy thiền làm
cảnh, không đồng với tâm
thế gian.
2- Ngay cảnh này
tâm phải lìa dính mắc, còn
tâm thiềnnói một niệm, một nhiều tương tức. Vì
nhất tâm hay đầy đủ các
pháp nên chỉ bày một cách
đơn giản rằng: chẳng nên
theo vọng chấp một niệm, nên
biết rõ vọng niệm
không có một tướng khác. Đạt được vô tướng này
là đầy đủ tất cả tâm.
Tam thiên đầy đủ mới có
thể chiếu soi
nơi nhất đa tương tức. Đây
căn cứ theo tập quán
của người sơ tâm, e rơi vào vọng
tình cảnh quán, vì vậy cần phải chỉ sơ lối vào
cửa. Nếu theo
lý luận, thảy đều là
pháp giới, cũng đâu khác vọng
tình chấp trước. Vì niệm vốn tự
không, vọng không thể được vì
người chấp hữu mà dạy quán
không.
Tiên đức nói:
Lúc chưa nghĩ
thì niệm chưa sinh, chưa sinh thì không có. Pháp không có này cũng
không có tự tướng. Niệm hiện tại theo
duyên sinh, niệm nếu tự có lý
đáng chẳng phải đợi
duyên, đợi duyên mới sinh
cho nên là vô tự thể. Do
đó biết tâm vô tự tính,
duyên khởi tức
không. Như muốn ngăn
dòng nước cần bít
nguồn, muốn cây
khô héo chỉ cần cắt đứt rễ,
không cần phải ra
nhiều công sức, thật vô
cùng đơn giản. Do
đó luận
Thông Tâm nói: “Trói buộc là từ tâm
trói buộc, cởi mở là từ tâm cởi mở; trói
buộc, cởi mở đều từ tâm,
không do cái gì khác. Phương cách để giải
thoát chỉ có quán tâm. Quán tâm đến ngộ được thì
tất cả đều thấu suốt. Vì
thế người trí trước tiên
nên quán tâm. Quán tâm được an tịnh, trở lại quán
sát tự tâm hư dối, chẳng thật, như huyễn như hóa, lăng xăng chẳng ngừng, nhảy nhót
như khỉ vượn, lồng lộn như ngựa
hoang, vô thỉ vô minh từ nhiều kiếp trôi
nổi chẳng biết làm
sao được
thoát ra. Nếu hay quán sát những lầm lỗi ấy của tâm
mình rồi lại suy
xét các cảnh, cảnh
không có tự tính, do thấy cảnh mới có,
không thấy cảnh liền
không. Lại xét đến chỗ thấy, cái
thấy không có tự tính;
do tâm có động, chẳng động thì
không. Lại xét đến động
tâm, động vô tự tính,
chỉ do bất
giác, giác thì chẳng động. Lại suy
xét về bất
giác, bất giác chẳng có
cội rễ, ngay
đó là tập khí hư vọng từ vô thỉ, niệm niệm tự mê,
chân tâm vô niệm chẳng có
một niệm”.
Luận nói:
“Như người mê
cho đông là tây chớ phương hướng thật
không đổi dời,
chúng sinh cũng như vậy. Vì vô minh mê mờ nên
cho rằng tâm là động mà
tâm thật chẳng động. Nếu hay
quán tâm, biết tâm chẳng khởi, liền được tùy
thuận thể nhập chân
như môn.
Chúng ta nên biết những gì
hiện hữu đều là
do tâm niệm hư vọng
sinh. Tâm có thì có; tâm không liền
không, có không đều từ tâm.
Chỉ cần tự tỉnh
giác, chớ nên không tỉnh
giác để bị tâm tự dối
mình. Đã biết tâm giả dối thì
chớ nên lưu tâm; phải
trái, tốt xấu thảy đều dẹp sạch thì
tâm sẽ không có chỗ trụ, tâm
không có chỗ trụ hẳn là
không có tâm, đã không có tâm thì cũng không không tâm; có không đều
không, thân tâm đều bặt hết,
thân tâm đều hết sạch cho
nên bặt hết muôn
cảnh. Muôn cảnh vô
tướng hợp với cội gốc sâu
kín. Âm thầm huyền chiếu, chiếu mà vẫn tịch, lấy tịch làm
thể, thể ấy rỗng
rang, hư tịch vô
cùng thông cả pháp giới.
Pháp giới duyên khởi một cách
tự nhiên, chẳng từ đâu đến, chẳng đi
về đâu. Lại nữa,
pháp không có tướng cố định.
Chân, vọng do tâm dấy khởi và
chấm dứt đồng nguồn,
không còn có ý chỉ nào khác”. Do đó chư sư thời xưa đã giải
thích rộng về cái
nghĩa chân vọng giao triệt như sau: Về chân
vọng, nếu căn
cứ vào tam tính thì viên thành là chân, biến kế là vọng,
tính y tha khởi vừa chân
vừa vọng. Phần tịnh là
chân, phần nhiễm là vọng.
Căn cứ biến kế là vọng thì
tình hữu, tức là
lý vô, là vọng triệt
chân; lý vô tức là tình hữu, là
chân triệt vọng. Nếu y
tha phần nhiễm là vọng,
duyên sinh vô tính, đó là vọng triệt
chân. Vô tính duyên thành, là chân triệt vọng. Nếu căn
cứ theo tục nói
chân vọng thì chân vọng vốn hư dối, đương nhiên nó phải triệt
nhau. Chân vọng đều chân
thì bản lai một vị, cho
nên biết chân vọng
luôn luôn triệt nhau cũng chẳng hoại tướng
chân vọng thì chân bao trùm vọng,
chân phi chân mà trạm tịch. Vọng triệt
chân, vọng phi vọng mà
lăng xăng dấy khởi như nước gồm có
sóng mà chẳng phải tính
ướt của nước.
Dù sóng lặng hay
cuồn cuộn ba
đào thì tính tướng nước vẫn rõ
ràng, mỗi mỗi đều dung
thông, lớp lớp giao
xen không chướng ngại, thể, tướng, dụng gồm thâu
vào trong Tông Cảnh pháp nhĩ tự
nhiên. Cho nên Tiên đức nói: Sở dĩ
chân vọng giao triệt là
vì chẳng lìa nhất tâm.
Do đó Thiền
Nguyên Tập nói: “Tất cả phàm Thánh
căn bản đều là
nhất pháp giới tâm.
Ánh sáng báu giác tính nơi mỗi người đều tròn
đầy, vốn chẳng có
tên là chư Phật,
cũng chẳng có tên là chúng sinh. Chỉ vì
tâm linh diệu này tự tại chẳng giữ tự tính
theo duyên mê ngộ thành ra phàm Thánh. Lại tùy
duyên nhưng chẳng mất tự tính,
thường chẳng hư vọng, thường
không đổi khác, không thể phá
hoại, chỉ là nhất tâm
gọi là chân như, cho nên nhất tâm
này thường có
hai môn, chưa từng khiếm khuyết chỉ vì
trong môn tùy duyên phàm Thánh không nhất định
nghĩa là xưa nay
chưa từng
giác ngộ nên nói phiền não
vô thỉ. Nếu tu
chứng thì phiền não
dứt sạch nên
nói phiền não có kết
thúc, nhưng thật ra
không có thỉ giác nào khác cũng không có bất
giác, tuyệt đối bình
đẳng, cho nên nhất tâm
này luôn luôn đầy đủ hai
môn chân như và
sinh diệt. Chân vọng đều có
hai nghĩa: 1- Chân có hai nghĩa bất biến tùy
duyên. 2- Vọng có hai nghĩa thể không
thành sự. Nghĩa là do chân bất biến cho
nên vọng thể không
là chân như môn.
Do chân tùy duyên nên vọng thức
thành sự là sinh diệt môn.
Vì sinh diệt tức là
chân như cho
nên các kinh điển nói không có Phật,
không có chúng sinh, xưa nay vốn là tướng niết-bàn
thường tịch. Vì
chân như tức là
sinh diệt nên kinh nói: Pháp thân lưu chuyển
trong năm đường gọi là
chúng sinh. Đã biết mê ngộ, phàm
Thánh ở môn sinh diệt, hiện nay ở môn
này có đủ hai tướng
phàm Thánh, tức là chân vọng hòa
hợp phi nhất phi
dị, gọi là
thức a-lại-da.
Thức này ở phàm
vốn có hai nghĩa giác và bất
giác. Giác là cội gốc của hiền Thánh
ba thừa, bất giác
là gốc của phàm
phu trong lục đạo. Xét
về cái tâm bất giác
này vô thể thì ắt hẳn tính
chân giác hiện tiền”. Kinh Bảo Tích ghi: “Phật dạy: Bồ-tát
tìm tâm như thế nào?
Cái gì là tâm? Có phải tham dục là
tâm không? Hay sân giận? Hay ngu si? Hoặc quá
khứ, vị lai,
hiện tại? Tâm
quá khứ đã diệt rồi, tâm
vị lai chưa đến, tâm
hiện tại chắc chắn
không có chỗ trụ, tâm
này không trong, không ngoài, không khoảng giữa, tâm
này không sắc, không hình, không đối đãi,
không hay, không biết, không dừng ở,
không nơi chốn. Tâm
này mười phương ba đời tất cả chư Phật đã
chẳng thấy, hiện chẳng thấy, sẽ chẳng thấy. Nếu tất cả chư Phật quá
khứ, hiện tại, vị lai đều
không thấy thì làm sao tâm này có được? Chỉ vì
cái tưởng
điên đảo nên tâm sinh ra các pháp sai biệt. Tâm
này như huyễn vì
do ức tưởng phân biệt nên
khởi ra các thứ nghiệp, nhận lấy các
loại thân”. Ngài Ca-diếp
không tìm được tướng của tâm
này; nếu không tìm được thì
tâm chẳng thuộc quá
khứ, hiện tại, vị lai;
nếu chẳng thuộc quá
khứ, vị lai,
hiện tại, thì
tâm vượt qua
thời gian; nếu vượt qua
thời gian thì tâm phi hữu phi
vô; nếu tâm phi hữu phi
vô thì hẳn chẳng khởi ;
nếu tâm chẳng khởi tức là
tâm vô tính; tâm vô tính tức là
vô sinh; nếu tâm vô sinh tức là vô
diệt; nếu tâm
vô diệt thì tâm không chỗ lìa;
nếu tâm không có chỗ lìa
thì tâm không đến không đi, không diệt,
không sinh; nếu không đến,
không đi, không diệt, không sinh thì tâm không có hành nghiệp; nếu
không có hành nghiệp thì tâm vô vi; nếu vô
vi thì đó là cội gốc của các
bậc Thánh.
Kinh
Trì Thế nói: “Lúc
ấy Bồ-tát
nghĩ thế gian hết sức cuồng si,
cho nói rằng từ ức tưởng, hiểu biết phân
biệt khởi ra
thế gian, cùng với tâm
ý thức hợp. Ba
cõi đều là thức. Tâm
ý thức này cũng không có hình tướng,
không có nơi chốn,
không ở trong pháp, không ở ngoài
pháp. Phàm phu bị hư vọng
trói buộc, ở trong
thức ấm tham
chấp ngã và ngã sở”. Kinh Kim Cang Tam-muội nói: “Biết các
danh sắc chỉ là
tâm si mê phân biệt, tâm si mê phân biệt các
pháp không còn việc gì khác ra ngoài danh sắc, biết rõ
pháp như vậy
không theo lời văn, lưu tâm đến
nghĩa lý chẳng phân biệt
ngã”.
Luận
thích: Đoạn này nói rõ phương tiện quán
có hai:
1-Trình bày duy thức tầm tư không có gì ngoài danh sắc.
Danh là bốn uẩn (thụ, tưởng,
hành, thức), sắc là sắc uẩn, những
pháp bất tương ưng đều giả kiến lập, lìa
danh sắc không có thể
riêng, cho nên các việc hữu vi đều thuộc danh
sắc. Như vậy các
pháp do tâm tạo tác, lìa tâm không có cảnh,
lìa cảnh không có tâm, đây gọi là
duy thức tầm tư.
2- Hiển như thật trí,
biết pháp như thế chẳng
theo văn tự, đây gọi là
suy xét về điều đưa đến thật trí,
luôn luôn đối với
nghĩa không phân biệt ngã, vì tầm tư nghĩa dẫn đến như thật trí
nên hai thứ ngã là nhân, pháp đều vô
nghĩa, do đó trong ấy không có sự phân
biệt, do không phân biệt nên
hai tâm chân vọng, về mặt tình
phân làm hai thứ mà trí hiểu biết chỉ là một. Khi
một và hai đều mất thì
mới vào được Tông
Cảnh. Do đó kinh Duy-ma ghi: “Bồ-tát
Diệu Tý nói: Tâm Bồ-tát,
tâm Thanh văn là hai. Quán tướng tâm là không, như huyễn, như hóa, thì không tâm Bồ-tát,
không tâm Thanh văn đây là nhập pháp
môn bất nhị”.
Chúng ta nên biết đã không do vô tâm hiện tâm
thì ắt hẳn
không có pháp hiện pháp làm sao do tất cả cảnh giới tùy
theo niệm mà sinh ? Niệm vốn đã
không, pháp sao lại có?
Như Kinh
Đại Pháp Cự Đà-la-ni nói: “Này
Kiều-thi-ca! Nếu có
người đến hỏi đại
chúng đây được sự thụ dụng đầy đủ phải gắng
công thế nào? Nếu có
người hỏi như vậy thì
ngươi trả lời sao?
Đế Thích đáp: Bạch Thế Tôn,
con không đáp được. Vì
sao? Bạch Thế Tôn,
hiện nay con đang sống ở cõi
Tam thập tam thiên này, tất cả mọi nhu
cầu đều tùy
theo tâm niệm hiện ra,
không phải tạo tác.
Phật bảo: Này
Kiều-thi-ca, tất cả các
pháp cũng như vậy, thảy đều ở trong
tâm tùy theo lúc nghĩ liền có.
Kiều-thi-ca, như các chúng sinh thuộc noãn
sinh chỉ do tâm niệm liền thụ thân,
nhận lấy sinh
mạng, tất cả các
pháp cũng như vậy đều từ tâm
niệm pháp liền hiện tiền. Này
Kiều-thi-ca, tất cả loài
thấp sinh như cá, rồng,
rùa, v.v... cũng thuộc noãn sinh. Những
loài này chỉ đi được một do-tuần, hoặc hai,
hoặc ba, bốn hoặc hơn bảy do
tuần, đến chỗ đất của nó
liền đặt trứng
trên ấy, chẳng phải nhọc nhằn cho
đến khi trứng nở. Kiều-thi-ca!
Tam tạng giáo điển này
cũng như vậy, tùy
lúc nghĩ nhớ nghiệp kia
liền hiện ra
ngay một cách tuần tự nối tiếp
không ngừng, việc này
cùng với ý nghĩa kia phù hợp nhau”.
Luận Phật Địa nói: “Cõi Tam thập tam
thiên có một khu rừng tên
Tạp Lâm, nơi này do phúc lực của chư thiên hòa hợp nên
chiêu cảm được các cung điện, mọi thứ đều tốt đẹp, tất cả chư thiên cùng hưởng thụ khoái
lạc tuy nhiên sự hơn kém cũng có sai khác. Có ngã và ngã sở thì sự thụ dụng
khác nhau. Hoặc ở trong
rừng này hoặc có
các thứ, hoặc sự thụ dụng đều
không hơn kém
đều là tuyệt diệu bậc nhất. Nếu
không có ngã và ngã sở hòa hợp thụ dụng hay
khiến cho sự thụ dụng
bình đẳng, hòa hợp nên
gọi là Tạp Lâm”.
Đây là nhờ chư thiên nỗ lực tu
phúc nghiệp bình đẳng hòa
hợp nên khiến cho
thức A-lại-da của chư thiên biến hiện khu
rừng này cùng một nơi, cùng một lúc,
cùng một tướng trạng. Do
sự ưu việt của rừng này
làm cho chuyển thức của chư thiên cũng đồng biến hiện, tuy
mỗi người thụ dụng nhưng không khác. Vì thế, nếu liễu đạt các
pháp đều do tâm tưởng
sinh thì từ thế tục môn
bước vào
hành xứ của bậc
Thánh.
Như kinh
Vô Tận Ý Bồ-tát nói: “Bấy giờ tôn
giả Xá-lợi-phất hỏi Vô Tận Ý:
Thiện nam! Ông từ đâu đến?
Danh hiệu Phật là
gì? Thế giới tên
chi? Cách đây xa gần? Vô Tận Ý
đáp: Xá-lợi-phất, có
cái tưởng đi
đến chăng? Xá-lợi-phất nói:
Thiện nam, ta biết tưởng rồi. Vô
Tận Ý: Nếu biết tưởng thì
có hai tướng, vì
sao lại hỏi từ đâu đến?
Xá-lợi-phất, có
đến đi là nghĩa hòa hợp, như tướng hòa hợp là
vô hợp bất hợp, vô
hợp bất hợp tức là
chẳng có đến đi,
chẳng đến chẳng đi
là hành xứ của chư Thánh”.
Trong kinh
Phật Tạng, Phật bảo: “Xá-lợi-phất,
theo sự nghĩ nhớ khởi ra tất cả tưởng đều là
tà kiến. Xá-lợi-phất, rỗng
rang, không giác, không quán, không sinh, không diệt, người
thông đạt như vậy gọi là
niệm Phật”.
Kinh Hải Long Vương ghi :
“Phật bảo: Đại vương, tất cả pháp
đều từ niệm dấy khởi, tùy
theo sự tạo tác
mỗi mỗi đều
thành hình. Các pháp vô trụ và
cũng không có nơi chốn”.
Luận Đại Trí
Độ nói: “Bồ-tát
quán tâm niệm xứ như thế nào?
Bồ-tát quán nội ngoại tâm.
Nội tâm này có ba tướng là
sinh, trụ, diệt. Bồ-tát
nghĩ tâm này chẳng từ đâu đến và
cũng không có chỗ đi, chỉ nhờ nhân
duyên bên trong bên ngoài hòa hợp mà
sinh. Tâm này không có thật tướng cố định,
cũng không thật có sinh, trụ, diệt,
cũng không ở trong ba thời quá
khứ, vị lai,
hiện tại; tâm
này không ở trong, không ở
ngoài, không ở khoảng giữa, tâm
này cũng vô tính vô tướng, cũng vô sinh, không làm sinh, ngoài có
sáu thứ nhân duyên tạp,
trong có tâm tưởng
điên đảo sinh diệt tương tục nên
tạm gọi là
tâm. Như thế, nội tâm,
tướng của tâm
thực không tìm thấy. Tâm
tính này chẳng sinh chẳng diệt, thường là
tịnh tướng vì bị tướng của
khách phiền não dính mắc nên
gọi là tâm bất tịnh.
Tâm chẳng tự biết, vì
sao? Vì tâm tướng của tâm
là không. Tâm này trước sau không có pháp thật. Tâm
này cùng với các pháp chẳng hợp chẳng tan,
cũng không có ranh giới trước, sau, khoảng giữa,
không sắc, không hình, không đối đãi,
chỉ điên đảo hư dối
sinh. Tâm nầy không, vô ngã, vô ngã sở, vô
thường, vô
thật. Đây gọi là
tùy thuận tâm, quán biết tâm
tướng vô
sinh, thể nhập pháp
vô sinh. Vì sao? Vì tâm này vô sinh, vô tính, vô tướng, bậc trí
biết được. Người trí tuy quán tướng
sinh diệt của tâm
này cũng không được pháp
thật sinh diệt, chẳng
phân biệt cấu tịnh mà
được tâm
thanh tịnh. Vì tâm này thanh tịnh
không bị khách trần phiền não
làm ô nhiễm. Quán nội tâm
như thế, quán
ngoại tâm, nội ngoại tâm
cũng như vậy. Do
đó chúng ta biết pháp vốn chẳng có,
do tâm nên sinh, lìa ức tưởng thì không có pháp nào thành lập được, bỏ đi
phân biệt thì không có trần có
thể hiện được. Rồi quán
trở lại ức tưởng,
phân biệt rốt cùng
là vô sinh. Trải suốt ba
thời tìm kiếm, tìm
mãi chẳng thấy, khắp cả mười phương tìm dấu vết cũng
chẳng ra, đã không có cái tâm làm sinh khởi cũng
không có dấu tích bị diệt đi.
Khởi diệt đều lìa,
sự lìa này cũng không. Tâm cảnh rỗng lặng gọi là
kiến đạo. Lúc
kiến đạo, sự đối đãi
giữa chân vọng tự tiêu
dung, sự đối đãi
giữa năng sở đều dứt bặt, đến chỗ hết sạch
năng sở tự nhiên
thành Phật”.
Như Hoa
Nghiêm Luận ghi: “Kinh nói: Dùng chút phương tiện
chóng đắc Bồ-đề không
giống như quyền giáo
Bồ-tát vì hữu vi
nên lập năng chứng sở chứng.
Trong một niệm
không có năng sở, đến chỗ hết năng
sở gọi là
Chính giác, nhưng
cũng không giống với Tiểu thừa dứt năng
sở, vì thấu rõ vốn vô động, ở đây
là hồn nhiên theo pháp tính, động, tịch đều như nhau; vì bản trí
chẳng động tịch, lầm cho
là động. Người ngu
chẳng rõ, bỏ động cầu tịch,
đây là nỗi khổ lớn”. Vì
thế kinh
Duy-ma nói: “Biết suốt năm
thụ ấm
không là nghĩa khổ, vì Tiểu thừa có ưa và chán nên khổ
sinh”.
Hỏi: Đây
nói về hai tâm chân vọng là
pháp tướng
tông hay là pháp tính tông?
Đáp: Theo Hoa Nghiêm Diễn Nghĩa: “Luận nói:
Tam giới hư vọng chỉ là nhất
tâm”. Nếu chấp lấy tam
giới hư vọng là
sở tác liền thuộc thế đế, nếu theo
năng tác là đệ nhất
nghĩa. Luận giải
thích chỉ là năng tác. Nay kinh nói: Ba cõi chỉ do
tâm chuyển thì thông cả năng
sở. Nhưng năng sở là có
hai. Nếu trong pháp tính tông từ đệ nhất
nghĩa tùy duyên thành hữu (có) tức là
năng tác, có tâm cảnh đều
thông sở tác vì bất tư nghì huân, bất tư nghì biến là
nhân của hiện thức. Nếu pháp
tướng tông,
đệ nhất
nghĩa tâm chỉ là cái bị mê (sở mê)
chẳng phải là
năng tác, có ba thứ năng biến như thức thứ tám
v.v...Luận Duy
thức nói: “Kinh Đại thừa lại còn
nói cái nghĩa tam giới duy tâm. Chỉ tâm
là chỉ có nội tâm,
không có các cảnh giới bên
ngoài như sắc, hương v.v... điều này
làm sao biết ?” Như kinh
Thập Địa nói: “Tam
giới hư vọng chỉ là do
nhất tâm làm ra”, cho nên tâm, ý, thức và
liễu biệt, bốn pháp
này có tên gọi khác nhau nhưng cùng một
nghĩa đây là căn cứ tâm tương ưng nói, chẳng nói
theo tâm bất tương ưng. Tâm có hai loại: Tâm
tương ưng và tâm bất tương ưng. Tâm tương ưng nghĩa là tất cả phiền não
kết sử như thụ, tưởng,
hành v.v... vì thế nên nói tâm ý cùng với thức và
liễu biệt có
cùng một nghĩa mà tên gọi khác
nhau. Tâm bất tương ưng là đệ nhất
nghĩa đế, tự tính
tâm thanh tịnh thường trụ bất biến cho
nên nói tam giới hư vọng chỉ nhất tâm
làm ra, đây là tâm tương ưng.
Nay nương vào
pháp tính nên nói đệ nhất
nghĩa tâm được xem
là năng tác, nói chuyển là nghĩa khởi tác
cũng có nghĩa chuyển biến.
Hỏi: Như trên nói về hai
tâm chân vọng, chỉ là
văn lý hội quy, môn phương tiện nào
giúp được kiến
tính?
Đáp: Vọng bặt hết, tâm
không, chân tri tự hiện. Nếu khởi suy
tính lại càng thêm tâm vọng, chỉ lúc được diệu ngộ thì
các duyên tự dứt. Như bài tụng cổ Phật ngộ đạo
nói :
Thấy sao Mai
chợt ngộ
Ngộ rồi chẳng phải sao
Chẳng chạy đuổi theo
vật
Chẳng phải là vô tình.
Luận Bảo Tạng nói: “Tông
của muôn vật chẳng phải có
chẳng phải
không, mẹ của vạn vật chẳng phải có
chẳng phải
không, không có chỗ thoát khỏi nó cũng
không có chỗ vào đó, trùm khắp vạn hữu mà
không là gì cả, ứng hóa
vô cùng mà chẳng làm chủ. Đạo tính
như thế, đâu
có thể suy lường,
lúc kiến tính tự nhiên
phơi
bày”. Có bài tụng xưa:
Vọng dừng ắt lặng sinh
Lặng
sinh cái biết hiện
Biết sinh
lặng liền
buông
Rõ ràng chỉ “chân
kiến”.
Tín
Tâm Minh nói:
Tiền tế biết
không
Chỗ biết đều (là)
tông
Chiếu cảnh rõ ràng
Theo chiếu mù mờ
Một tâm
trệ ngại
Muôn pháp chẳng
thông
Đến đi từ đó
Chẳng dụng suy cùng.
Như có người học hỏi hòa
thượng
Hoàng Bá36 :
- Như hư không trước mắt chẳng phải là cảnh
sao? Đâu không chỉ cảnh thấy
tâm ?.
Đáp: Cái tâm nào hướng
trên cảnh thấy? Giả sử được thấy như vậy vốn chỉ là
tâm chiếu cảnh như ngươi dùng gương soi mặt, dù
thấy rõ ràng mi mắt nhưng chỉ là
bóng mà thôi, nào có dính dáng gì đến việc của ông.
Hỏi: Nếu
không nhờ soi chiếu làm
sao thấy đươc?
Đáp: Nếu có
nhân phải nhờ đến vật thì
đến khi nào mới liễu đạt? Ông
chẳng nghe nói buông thõng tay dường như ông không có một vật, thật uổng
công nói bàn đủ điều.
Hỏi: Lúc biết soi
chiếu cũng không một vật sao?
Đáp: Nếu
không vật thì chỗ nào được chiếu soi?
Ông chớ nên mở mắt nói
mớ.
Sư nói: Biết trăm
thứ chẳng bằng bậc đạo nhân
vô cầu, đó là bậc nhất.
31Triệu pháp sư (Tăng Triệu 384-414) Cao tăng Trung-quốc, sống vào thời
Đông Tấn, người Trường An, họ Trương.
32Viễn pháp sư (Huệ Viễn 334-416) cao tăng Trung-quốc, sống vào thời
Đông tấn, người Nhạn môn, họ Giả là sơ Tổ tông Tịnh độ.
33Phục Lễ: Danh tăng
Trung-quốc đời Đường, người Thiểm Tây, họ Hoàng Phủ.
34Trừng Quán: (738-839): Cao tăng Trung-quốc, sống vào đời Đường, tổ
thứ 4 tông Hoa Nghiêm, người Chiết Giang, họ Hạ Hầu, tự Đại Hưu, hiệu Thanh
Lương quốc sư, Hoa Nghiêm Bồ-tát.
35Hiểu pháp sư (Nguyên Hiểu 617-?) Cao tăng Triều Tiên, thuộc tông Hoa
Nghiêm, họ Tiết.
36Hoàng Bá Hy Vận (765-850) Thiền tăng đời Đường, họ Vương, người xứ Mân, Trung-quốc, nối pháp thiền sư Bách Trượng Hoài Hải. Sư trụ núi Hoàng Bá phát huy tâm yếu trực chỉ đơn truyền nên được gọi là Hoàng Bá Hy Vận.
Comments
Post a Comment