TÔNG CẢNH LỤC
QUYỂN 3
Hỏi: Kinh giáo thuyết minh muôn pháp chí lý hư
huyền; chẳng phải nói hữu vô dứt tuyệt tính tự tha; nếu không có tự thể của một pháp thì làm sao lập tông?
Đáp: Nếu
không lập
tông thì việc
học hướng
về đâu? Nếu nói tự tha hữu vô đều là thức tâm phân biệt của chúng sinh, đó là môn đối trị từ đối đãi mà có. Tâm thật lý trong tự thể pháp thân há đồng huyễn có, chẳng theo huyễn không.
Kinh Lăng Già ghi: “Phật bảo Đại Huệ: Ví như
chẳng phải tính trâu ngựa, tính trâu ngựa thực ra chẳng phải có, chẳng phải không, nó cũng chẳng phải là không tự tướng”.
Cổ
đức giải thích: Trên thể của ngựa không được
nói tính của
trâu là có hay là không nhưng chẳng phải là không có tự thể của ngựa. Dùng ví dụ này để nói rằng trên pháp thân không thể nói tính của ấm, giới, nhập là hữu là vô, nhưng
chẳng phải là không có tự tướng
của pháp thân. Lý pháp không
này vượt lên hữu vô, tức là tính của pháp thân, nhưng
nếu có thú có hướng,
trí trái với
thiên chân, không được (vô đắc), không về (vô quy) tình sinh đoạn diệt. Chỉ không tìm cầu cái hữu thì lẽ thật hiện bày rõ ràng, cái không tự nhiên đầy đủ thì diệu chỉ sáng tỏ, lặng lẽ trở về điềm nhiên không gián đoạn, vượt
lên năng sở,
chẳng còn hữu vô. Có thể nói là chân thật quay về có thể thông được
đạo tột cùng.
Hỏi: Lấy tâm làm tông. Thế nào là tướng
của tông thông?
Đáp: Nội
chứng tự tâm đệ nhất nghĩa lý trụ tự giác địa nhập Thánh trí môn; do có sự tương
ưng
này được gọi là tướng
tông thông. Đây là lúc khởi hạnh
chẳng phải là lúc giải; nhân giải thành hạnh, hạnh thành giải tuyệt; như
thế thì đường
ngôn ngữ
bặt, chỗ tâm hành diệt.
Như kinh Lăng Già nói: “Phật bảo
Đại Huệ: Tông thông nghĩa là do nhờ tự được
tướng thăng tiến, xa lìa vọng tưởng
văn tự, ngôn thuyết, hướng
đến tự tướng
tự giác địa vô lậu giới, xa lìa tất cả giác tưởng
hư vọng, hàng phục tất cả chúng ma ngoại đạo. Từ chỗ tự giác quang minh phát huy
đây gọi là tướng
tông thông”. Thế
nên “ngộ
tâm thành Tổ”
là bí quyết
bậc Thánh đời trước
đều truyền nhau, do đó đại sư
Đạt-ma15 nói: “Sáng tỏ Phật
tâm tông, rõ suốt
không chút lầm
lẫn, hạnh giải tương
ưng,
gọi là Tổ”. Lại nói kệ:
Cũng chẳng thấy ác mà sinh ghét
Cũng chẳng thấy thiện mà đua chen
Cũng chẳng bỏ ngu mà gần hiền
Cũng chẳng bỏ mê mà lấy ngộ
Đạt đại đạo chừ quá lượng
Thông Phật tâm chừ xuất độ
Không cùng một chỗ với phàm Thánh,
Siêu nhiên gọi là Tổ.
Hỏi: Ngộ đạo minh
tông như người uống nước nóng
lạnh tự biết, làm
thế nào nói được hành
tướng
kia?
Đáp: Trước đã
nói phương tiện của chư Phật
không dứt cho đến nay
thầm ban bố lòng
thương sâu
xa không nỡ bỏ rơi. Người minh đạt trọn
không nên nói, chỉ vì nghi nên hỏi, vì
hỏi nên đáp. Đây là Bổn Sư ở trên
hội Lăng Già vì mười phương Bồ-tát đến cầu pháp
nên đích thân ngài nói hai thứ thông
này: Một là tông thông, hai là thuyết
thông. Tông thông là vì Bồ-tát,
thuyết thông là vì người mới học đạo. Chư Phật nghĩ
đến kẻ sơ cơ mới học đạo thương xót ban ít lời chỉ dạy, đây
là căn cứ vào thuyết
thông, chỉ theo người khác
cầu pháp, theo lời nói
sinh hiểu biết. Sợ chấp phương tiện làm
chân thật, mê lầm đối với tông
thông cho nên phân tích ý nghĩa hai thông này. Tông thông nghĩa là duyên vào tướng tự đắc thắng tiến, xa
lìa vọng tưởng văn tự, ngôn
thuyết cho đến
duyên tự giác hướng về quang
minh sáng chói, hoặc chính mình đạt đến lúc
phát tự giác địa,
cũng có thể nói như người uống nước nóng
lạnh tự biết, như người mù được sáng
mắt nhìn thấy cảnh vật rõ
ràng, nghiệm biết hình
thể con voi không cần phải rờ mó
đuôi, ngà. Như thấy màu
thật của sữa, đâu
phải nói sữa trắng như tuyết, như chim hạc; như đang ở trước người có mắt mà lại nói
năng, chỉ dạy ắt hẳn
không đáng được gọi là đại pháp
sư biết thời. Người thấy mặt
trăng đâu cần nhìn ngón tay nữa, người đến nhà
đâu cần hỏi lộ
trình; chỉ chứng ngộ liền được tương ưng không đợi ngôn
thuyết; trọn
không chấp ngón tay là mặt
trăng, cũng không lìa ngón tay thấy mặt
trăng.
Như kinh
Đại Niết-bàn nói:
“Ví như có
vua bảo đại thần: Ngươi hãy dẫn một con
voi tới trước những người mù.
Đại thần tuân
lệnh vua, tập hợp những người mù rồi dẫn voi
đến cho họ. Lúc ấy những người mù,
mỗi người đều dùng
tay sờ voi. Đại thần liền trở vào
tâu vua: Thần đã đem voi cho họ rồi, bấy giờ đại thần liền gọi những người mù
và hỏi từng người:
- Các ông thấy con
voi không?
Mỗi người đều đáp:
Chúng tôi thấy.
Vua hỏi: Con
voi như thế nào?
Người sờ nhằm ngà
voi, nói: Hình voi như rễ cây lư-phục.
Người sờ nhằm tai
voi, nói: Voi như cái
nia.
Người sờ nhằm đầu,
nói: Voi như tảng đá.
Người sờ nhằm vòi
voi, nói: Voi như cái
chày.
Người sờ nhằm chân
voi, nói: Voi như cái cối gỗ.
Người sờ nhằm lưng voi, nói: Voi như cái giường.
Người sờ nhằm bụng
voi, nói: Voi như cái bồn.
Người sờ nhằm đuôi
voi, nói: Voi như sợi dây.
Này thiện nam,
những người mù kia không nói đúng hình thể của voi
cũng chẳng phải
không nói; nếu các tướng này
đều không phải là
voi, lìa ngoài các tướng này cũng không riêng có voi. Này thiện nam,
nhà vua là dụ cho Như Lai ứng
cúng chính biến tri, đại thần là dụ cho kinh
Đại Niết-bàn
Phương Đẳng,
voi dụ cho tính Phật, những người mù dụ cho
chúng sinh vô minh.
Các chúng sinh nghe Phật nói,
hoặc cho rằng sắc là
Phật tính. Vì sao? Vì sắc này
tuy diệt, lần lượt tương tục cho
nên đạt được sắc thường hằng ba
mươi hai
tướng Như Lai vô thượng. Vì
Như Lai sắc thường hằng chẳng đoạn nên
nói sắc là Phật
tính. Ví như vàng
ròng, chất tuy có biến đổi nhưng sắc luôn
luôn thường hằng
không khác, hoặc có khi làm thành xuyến,
vòng đeo nhưng sắc vàng
ban đầu vẫn
không đổi khác. Tính Phật của
chúng sinh cũng vậy, chất tuy
vô thường nhưng sắc là
thường. Do
đó nói sắc là Phật
tính. Cho đến nói: thọ, tưởng,
hành, thức v.v... là Phật
tính.
Lại có
thuyết nói: Lìa ấm có
ngã, ngã là Phật tính, như những người mù,
mỗi người đều mô tả con
voi tuy không thật đúng nhưng chẳng phải
không nói về voi; nói về Phật tính
cũng như vậy, chẳng phải ngay
sáu pháp mà chẳng lìa sáu pháp.
Này thiện nam,
thế nên ta nói Phật tính
chúng sinh chẳng phải sắc, chẳng phải lìa
sắc, cho đến chẳng phải ngã
chẳng lìa ngã. Này thiện nam,
có các ngoại đạo tuy
nói có ngã mà thật là vô ngã. Cái ngã chúng sinh đó là năm ấm, lìa
ngoài ấm không riêng có ngã. Này thiện nam,
ví như cọng,
lá, nhụy, đài họp lại
thành hoa sen, lìa ngoài những thứ này
không có hoa. Các ngoại đạo này
ngu si như trẻ nít,
không có tuệ phương tiện,
không hiểu rõ thường và
vô thường, khổ và lạc, tịnh và
bất tịnh, ngã
và vô ngã, thọ mệnh và
phi thọ mệnh,
chúng sinh và phi chúng sinh; thật và
phi thật, hữu và
phi hữu. Họ nhặt lấy một chút
phần ở trong
Phật pháp vọng chấp có
thường, lạc,
ngã, tịnh mà thực
không biết thường, lạc,
ngã, tịnh. Như người mù từ lúc mới sinh
không biết màu sữa, hỏi người
khác: Màu sữa giống như gì? Người kia
đáp: Sữa màu trắng như vỏ sò. Người mù lại hỏi: Màu
sữa dày như vỏ sò
chăng? Đáp: Không phải. Lại hỏi: Màu
vỏ sò tương tợ như cái gì? Đáp: Như hạt tấm. Lại hỏi: Màu
sữa mịn như hạt tấm sao?
Hạt tấm giống như cái gì? Đáp: Cũng giống như tuyết rơi. Người mù lại hỏi: Những hạt tấm có lạnh như tuyết
không? Và tuyết giống cái
gì? Đáp: Cũng như chim
hạc trắng. Người mù
tuy nghe bốn ví dụ này vẫn hoàn
toàn không biết gì về màu sắc thật của sữa; các
ngoại đạo cũng
như thế, họ không
thể biết gì về thường, lạc,
ngã, tịnh.
Này thiện nam,
do nghĩa này nên ở trong Chính pháp của ta
có chân thật đế mà ở ngoại đạo
không có; chân thật đế là chỗ Tông
Cảnh hướng về. Lúc
chưa ngộ chẳng tin
hiểu thì sự thuyết pháp
và tự tu hành đều
thành môn đối trị sinh
diệt, chẳng thể nhập đạo cứu cánh
vô sinh”.
Như kinh
Am-đề-già Nữ nói: “Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: Có
người biết rõ tướng
sinh mà chẳng sinh có bị lưu lại bởi sự sinh
chăng? Đáp: Có. Tuy tự thấy rõ
nhưng
năng lực chưa đầy đủ nên bị sinh
lưu lại”.
Hỏi: Có người
không biết gì về sinh
tính mà rốt ráo không bị sinh
lưu lại
chăng? Đáp: Không. Vì sao? Vì nếu chẳng thấy sinh
tính tuy nhờ điều phục nên
được chút
an ổn, tướng bất an của người này
thường là
đối trị. Nếu hay
thấy sinh tính thì tuy ở chỗ bất an
mà tướng an ổn thường hiện tiền. Nếu
không biết như thế, tuy
có tài biện thuyết giỏi
thông suốt kinh điển mà nơi tâm sinh diệt nói
những lời về mật yếu của thật tướng
cũng như người mù
nói về màu sắc,
theo lời nói của người khác
nên nói được
xanh, vàng, đỏ, trắng,
đen mà chính mình không thấy màu
sắc thật.
Ngày nay người
không thể thấy các
pháp cũng như thế. Chỉ vì
ngày nay bị sinh làm cho sinh, bị tử làm
cho tử và có nói ra điều gì đối với người kia
về cái nghĩa vô sinh được
chăng ? Nếu còn bị trói
buộc bởi thường và
vô thường
cũng như thế. Nên
biết người ngộ
“không” cũng không tự được “không” nên mới rõ
cái nghĩa hữu không chăng? Nên biết hay
rõ vạn pháp tính vốn vô
sinh, đây là đắc dạo.
Kinh Đại Bát-nhã nói:
“Này Thiện Hiện, tất cả pháp
không không thật có, đều
không tự tại, luống dối chẳng bền chắc, nên
tất cả pháp
vô sinh, vô khởi, vô tri, vô kiến. Lại nữa, Thiện Hiện,
tính của tất cả pháp
không nương gá,
không hệ thuộc, vì
lý do này nên vô sinh, vô khởi, vô
tri, vô kiến”.
Kinh
Hoa Nghiêm nói: “Pháp ấn như thật ấn các
nghiệp môn, đắc pháp
vô sinh, trụ nơi Phật trụ, quán
tính vô sinh, ấn các cảnh giới; chư Phật hộ niệm,
phát tâm hồi hướng, cùng các pháp tính tương ưng hồi hướng, nhập pháp
vô tác thành tựu phương tiện tạo
tác”.
Đây là do không hiểu thấu yếu chỉ duy
tâm, người chưa vào Tông Cảnh, hướng vào
vô sinh khởi phiền não
tham si, ở trong chân không dính mắc
duyên của cảnh giới, do
dối trị nên
thành luân chuyển. Nếu hay
phản chiếu thì
tâm cảnh đều lặng lẽ.
Như kinh
Chư Pháp Vô Hành nói: “Nếu Bồ-tát
thấy tham dục tế tức là
chân tế, thấy sân
khuể tế là
chân tế, thấy ngu
si tế tức là
chân tế, thì chắc chắn có
thể dứt sạch tất cả tội lỗi nghiệp chướng cho
đến kẻ phàm
phu ngu muội không biết tướng diệt rốt ráo
của các pháp, nên tự thấy thân
mình cũng thấy thân người, vì
cái thấy đó mà khởi nghiệp
thân, khẩu, ý đến nỗi chẳng thấy Phật, chẳng thấy
Pháp, chẳng thấy
Tăng, do đó chẳng thấy tất cả pháp.
Nếu chẳng thấy tất cả pháp
thì đối với các
pháp chẳng sinh nghi. Chẳng
sinh nghi nên chẳng thụ tất cả pháp.
Chẳng thụ tất cả pháp
nên tự tịch diệt”.
Kinh Bất Tư Nghì Phật Cảnh Giới nói:
“Bấy giờ, Thế Tôn bảo Bồ-tát
Văn-thù-sư-lợi: Này
đồng tử, ông
có biết chỗ Như Lai trụ pháp
bình đẳng chăng? Bồ-tát
Văn-thù-sư-lợi thưa: Bạch Thế Tôn!
Con biết. Phật bảo: Đồng tử, cái
gì là Như Lai
trụ pháp bình đẳng? Bồ-tát
Văn-thù-sư-lợi thưa: Bạch Thế Tôn,
chỗ tất cả phàm
phu khởi tham, sân, si là pháp bình đẳng Như Lai an trụ. Phật dạy: Này
đồng tử, tại sao
chỗ tất cả phàm
phu khởi tham, sân, si là pháp bình đẳng mà
Như Lai
trụ? Bồ-tát
Văn-thù-sư-lợi thưa: Bạch Thế Tôn,
tất cả phàm
phu ở trong pháp không, vô tướng, vô
nguyện khởi
tham, sân, si; thế nên chỗ tất cả phàm
phu khởi tham, sân, si tức là
chỗ Như Lai trụ pháp
bình đẳng. Phật bảo: Này
đồng tử,
không thì làm sao có pháp mà nói trong ấy có
tham, sân, si? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa: Bạch Thế Tôn,
không là có; thế nên tham, sân, si cũng là có. Phật nói:
Này đồng tử,
không làm sao có? Tham, sân, si làm sao có? Bồ-tát
Văn-thù-sư-lợi thưa: Bạch Thế Tôn,
không nhờ ngôn thuyết nên
có, tham, sân, si cũng nhờ ngôn
thuyết nên có. Như Phật nói:
Tì-kheo có vô sinh, vô khởi, vô
tác, vô vi pháp phi phạm hạnh.
Pháp vô sinh, vô khởi, vô vi, vô tác, phi phạm hạnh này
chẳng phải
không có; nếu không có thì đối với sinh
khởi làm ra pháp của các
hành, lý đáng không có xuất ly,
nhưng vì
có nên nói xuất ly. Đây cũng như thế. Nếu
không có “không” thì chắc chắn đối với
tham, sân, si không có sự xuất ly.
Vì có nên nói lìa các phiền não
tham, sân, si”. Luận Trung Quán có
bài kệ:
Từ pháp
chẳng sinh pháp,
Cũng chẳng sinh phi pháp.
Phi pháp chẳng
sinh pháp,
Cũng chẳng sinh phi pháp.
Xin giải thích ý bài kệ:
Pháp tức là
có (hữu)
Như sắc và
tâm
Phi pháp là không (vô)
Như là sừng thỏ.
Từ pháp
sinh pháp như mẹ sinh
con. Pháp sinh phi pháp như người sinh ra con gái đá, từ phi
pháp sinh pháp như sừng thỏ sinh
người; từ phi
pháp sinh phi pháp như lông rùa sinh sừng thỏ. Nên luận Bát-nhã
Giả Danh nói:
“Lại có người nghĩ
rằng: Nếu Như Lai chỉ chứng vô
sở đắc thì
Phật pháp chỉ là một chớ chẳng phải vô
biên, thế nên kinh nói: Như Lai nói tất cả pháp
đều là Phật
pháp. Phật pháp nghĩa là gì? Tức là
vô sở đắc, chưa từng có
một pháp có tính khả đắc, cho
nên tất cả không
gì không là Phật pháp. Vì sao tất cả đều vô sở đắc?”
Kinh nói: “Tất cả pháp
là chẳng phải tất cả pháp.
Thế nào là chẳng phải? Vì
tính vô sinh”. Vô sinh thì tức là
vô tính. Tại sao nói tất cả pháp ở trong
vô tính nên tạm mượn ngôn thuyết? Tất cả pháp
không có tính là Như Lai tạng tính của
chúng sinh.”
Bàng cư sĩ nói kệ:
Kiếp lửa đốt trời trời chẳng cháy
Gió núi thổi động chẳng
nghe tiếng
Trăm sông tranh rót biển chẳng đầy
Năm núi lừng
danh chẳng thấy hình
Lặng
trong tịnh lự không
dấu vết
Nghìn lối thảy đều vào
vô sinh
Nên biết pháp
do ý thành hình
Nghìn lối nhân
tâm có hình tượng
Một niệm vắng lặng muôn cảnh
không
Vốn là đồng một cửa bất nhị
Thảy đều vào ý chỉ vô
sinh.
Do đó, trong bài Hành Lộ Nan, Phó
đại sĩ16
nói:
Anh thấy
chăng
Các pháp không, chỉ tạm lập bày
Tịch tịnh vô môn là pháp môn
Trong tất cả pháp, tâm là chủ
Tôi nay lại chẳngđược nguồn tâm
Xét kỷ nguồn tâm đã chẳng được
Nên biết các
pháp chẳng cội nguồn
Lại vô
sinh có hai: Như luận
Thông Tâm nói: “Một là
pháp tính vô sinh, diệu lý gọi là
pháp, rỗng rang gọi là
tính, từ xưa nay tự như thế, gọi là vô
sinh. Hai là duyên khởi vô sinh, phàm cảnh là
do tâm hiện nên không từ cáigì
khác sinh ra, tâm nương theo cảnh khởi nên
không tự sinh, tâm cảnh mỗi thứ khác
nhau nên không cùng sinh, cái này nhân cái kia mà có cho nên không phải là
không có nhân sinh khởi. Cũng có thể nói:
Một là lý vô sinh vì là tính viên thành thật vốn bất
sinh; hai là sự vô sinh vì tướng của
duyên sinh tức là vô sinh”.
Chỉ Quán nói: “Nếu hiểu rõ
kinh Kim Cang tức là chuyên ý vô sinh đưa vào trong môn chẳng trụ, chẳng trụ các
thứ như: chẳng trụ sắc bố thí,
chẳng trụ
thinh, hương bố thí
v.v... Tuy các pháp chẳng trụ, đem
phápvô trụ vào bát-nhã tức là
nhập “Không”, đem pháp vô trụ trụ thế đế tức là
nhập “Giả”, đem
pháp vô trụ trụ thật tướng tức là
nhập “Trung”. Vô trụ tuệ này tức là
Kim cang tam-muội hay phá trừ tận gốc mọi thứ nham
thạch,cát sỏi phiền não.
Như đức
Thích-ca Mâu-ni nhập Đại Kim
cang tam-muội, ngài Thiên Thân17, Vô Trước luận nghị quảng bác
đâu chẳng từ ý chỉ vô
sinh vô trụ. Nếu đạt được ý chỉ này
thì nghìn kinh muôn luận tất
nhiên chẳng còn nghi. Đây là phần đầu của việc học
quán, là nền tảng của sự tư nghì, là diệu tuệ khéo
biện biệt, là
chỉ quy nhập đạo,
thành lập sự lý rộng lớn một cách
đầy đủ, rõ được một thì
theo đó nghìn thứ pháp môn đều tự tại.Cho
nên biết tất cả các
pháp đều từ tính
vô sinh “không” mà “có”, có mà chẳng phải có,
chẳng lìa tục mà
thường
chân, chẳng phải có
mà có, chẳng lìa chân mà hằng tục, thì
huyễn hữu lập mà
vô sinh hiển. Không hữu rõ
ràng, cả hai cùng mất mà cả hai
việc còn là chân tục đành
rành. Đây là vô sinh mà vô bất sinh
vì chẳng trụ ở nhị biên
vậy”.
Như bài tụng của Cổ đức nói:
Vô sinh trọn bất trụ
Vạn tượng luống phô
bày
Nếu cố hiểu vô
sinh
Lại bị vô sinh buộc.
Hỏi: Lấy tâm
làm tông, lý phải tuyệt đối, căn
cứ vào cõi hữu tình
chân vọng tợ như có phân, không thể theo
sự phân chia đó mà cho là viên giác; như vàng, thau đem nấu
chung thì thứ thật, giả biết ra
ngay; cát gạo nấu
chung thì sống, chín khác nhau, chưa biết lấy tâm
nào làm tông?
Đáp: Đúng như câu hỏi, cần phải biết rõ
tâm. Sự kỳ diệu này
thật khó biết, chỉ có Phật mới biết rõ.
Chỉ vì hàng tam thừa mộ đạo thấy có
sai khác, chỉ tâm vọng tâm
cho đó là chân thật, nhận kẻ giặc gian
trá làm con ruột của
mình, nó cướp đoạt hết cả của báu
trong nhà, lấy mắt cá
cho đó là hạt châu ly long, uổng mê
trí nhãn.Rồi lại khiến cho
người ngu
si bị giam hãm trong tầng tầng lao
ngục. Kẻ tà đạo chìm
đắm trong sóng to sợ hãi của dòng
sông kiến chấp, đùa
giỡn với lửa dữ trong
căn nhà mục nát, quên khổ, quên
mệt mỏi, nằm ngủ với giấc mộng lớn suốt đêm
dài. Mê tâm mê tính, đều vì chấp cái
duyên lự kia là chính mình, bỏ quên
chân tâm này nhận thinh sắc bên
ngoài. Đây là những điều sai
lầm của kẻ tu
hành ngoại đạo và
người thế gian,
cho đến kẻ học pháp
tam thừa mộ đạo. Thiền tông
cũng mê tâm này, chấp phương tiện của Phật đến nỗi khiến cho
giáo nghĩa mở ra tám mối18 và các thừa lập cho
bốn cơ19, vượt lên
một niệm mà
thoát xa ba tăng-kỳ, công luống trải đại kiếp, lìa
bảo sở mà ẩn náu
lâu trong hóa thành, chùn chân trên đường dài, đây là sự sai lầm của tiểu quả quyền cơ cho đến kẻ chẳng được ý chỉ thiền.
Do đó kinh
Thủ Lăng Nghiêm nói:
“Phật bảo
A-nan: Tất cả chúng
sinh từ vô thỉ đến nay
tất cả nghiệp chủng
điên đảo tự nhiên
như chùm
ác-xoa, những người tu hành không thể thành
tựu được vô thượng bồ- đề, cho
đến riêng thành Thanh văn, Duyên giác, hoặc
thành ngoại đạo, chư thiên, ma vương và quyến thuộc của ma,
đều là do không biết hai
thứ căn bản, tu
tập sai lầm cũng
như nấu cát
mà muốn thành cơm, giả sử trải qua
nhiêu kiếp trọn chẳng thể được.
Thế nào
là hai thứ căn bản?
A-nan, một là căn bản sinh
tử vô thỉ, như ngày nay ông cùng với các
chúng sinh lấy cái tâm phan duyên này làm tự tính,
hai là niết-bàn bồ-đề vô thỉ vốn là thể thanh
tịnh, như hiện tại thức tinh
nguyên minh hay sinh các duyên, là chỗ nương gá của các
duyên. Do vì chúng sinh quên đi cái bản minh
này, tuy suốt ngày vận hành
mà không tự biết,uổng vào
trong các cõi”.
Giải
thích: hai thứ căn bản này
tức là hai tâm chân vọng: Một là
căn bản sinh tử vô thỉ tức là căn
bản vô minh, đây là vọng
tâm, đầu tiên mê nhất pháp
giới bất giác
chợt khởi mà
có niệm, chợt khởi tức là
vô thỉ, như con mắt nhặm thì
thấy hoa đốm hiện, ngủ say
hay sinh mộng mị, vốn
không có lý do của sự khởi đầu, chẳng có
chỗ sinh khởi nhất định, đều là từ vọng niệm, chẳng phải do
duyên gì khác. Từ đây trở thành
nghiệp thức vi tế, ắtkhởi chuyển thức,
chuyển làm tâm năng tri, sau đó khởi hiện thức, hiện ra cảnh giới bên
ngoài. Tất cả chúng
sinh đều dùng ba thứ thức:
nghiệp, chuyển và
hiện này; khởi sự phan
duyên trong ngoài là tâm tự tính,
do đây sinh tử tương tục lấy đó
làm cội gốc. Hai
là niết-bàn bồ-đề vô thỉ vốn là thể thanh
tịnh, đây là chân tâm, cũng gọi là tự tính
thanh tịnh tâm, cũng gọi là bản giác
thanh tịnh, vì không khởi
không sinh tự thể bất động,
sinh tử chẳng làm
ô nhiễm, niết-bàn
chẳng làm thanh tịnh,
nên nói là thanhtịnh.Cái thể thanh
tịnh này là tinh nguyên của tám
thức vốn tự viên
minh, vì theo nhiễm bất giác
chẳng giữ tính,
như hang
rỗng mặc cho
âm vang theo duyên phát ra tiếng,
đây cũng như thế. Vì
nó hay sinh ra các pháp nên lập ra
hai thứ kiến phần và tướng phần, tâm
cảnh sinh lẫn nhau.
Chỉ theo các duyên nhiễm tịnh,
đánh mất tính viên thường
này, như nước theo
gió mà gợn sóng lăn tăn. Do chúng sinh này bỏ gốc chạy theo
ngọn, một bề chìm
đắm mà không hề hay
biết, uổng chịu khổ hư vọng.
Tuy chịu cái khổ hư vọng mà
sự an lạc chân
thật hằng
còn. Dù qua lại thăng trầm nhưng bản giác
bất động, như nước gợn sóng
vẫn không mất tính
ướt, chỉ biết biến đổi tâm
làm cảnh, lấy ngộ làm
mê, từ mê chồng chất mê,
trải qua số kiếp nhiều như cát bụi
trong hư
không, nhân mộng sinh mộng, mù
mịt trong đêm dài tăm tối.
Thế nên
kinh nói: “Nên biết tất cả chúng
sinh từ vô thỉ đến nay
sinh tử tương tục đều là
do không biết cái thể tính
tịnh minh của chân
tâm thường trụ mà chỉ dùng
các vọng tưởng”. Cái tưởng này
chẳng “chân” cho nên có luân chuyển. Do
không rõ được chân
tâm bất động mà
theo vọng thức luân
hồi. Cái thức này
vô thể, chẳng lìa
chân tâm, vốn nơi cái chân nguyên vô tướng
chuyển thành vọng tưởng của hữu
tình, như gió
làm dậy sóng trên hồ lặng,
sóng tuy động nhưng luôn luôn ở trong
nguồn bất động. Như mắt nhặm sinh
hoa đốm trong hư không, hoa tuy hiện nhưng chẳng lìa
cái tính hư không,
bệnh mắt hết, hư không trong sáng; sóng dừng, hồ trong
lặng. Chỉ có một chân
tâm trùm khắp pháp giới. Tâm
này chẳng phải từ mé trước
sinh, chẳng phải ở khoảng giữa trụ, chẳng phải về mé
sau diệt, lên xuống chẳng động,
tính tướng nhất như. Vì thế từ xưa Tiên đức đã lấy chân
tâm này làm tông, lìa tâm này tu hành trọn rơi vào lưới ma,
riêng có sở đắc đều kẹt vào
rừng tà. Bởi động mối từ tâm
sâu xa càng thấy đau xót nên Nhị Tổ Huệ Khả20 truy
tìm vọng tâm này không thể được, Sơ Tổ ngay
đó truyền y. A-nan chấp cái
vọng tâm này nên bị Như Lai quở
trách. Như kinh
nói: “Phật bảo
A-nan: Nay ông muốn biết đường tu
xa-ma-tha mong ra khỏi sinh tử, ta lại hỏi ông.
Khi ấy Như Lai giơ cánh tay sắc vàng,
co năm ngón tay rồi bảo
A-nan: Ông có thấy không? A-nan đáp: Thấy. Phật bảo: Ông
thấy cái gì? A-nan đáp:Con thấy Như Lai giơ cánh tay, co ngón tay làm thành nắm tay
sáng ngời, chói tâm và con mắt của con.
Phật bảo: Ông
dùng cái gì để thấy?
A-nan đáp: Con và đại chúng dùng mắt thấy. Phật bảo
A-nan: Ông trả lời với ta:
Như Lai
co ngón tay thành nắm tay sáng ngời,
chói tâm và con mắt của ông;
con mắt ông thấy được, còn
ông lấy gì làm tâm để đối với cái
nắm tay chói sáng của ta.A-nan
nói: Hiện nay Như Lai gạn hỏi tâm ở chỗ nào,
con đem tâm suy nghĩ tìm kiếm,
chính cái hay suy nghĩ tìm kiếm con
cho là tâm. Phật bảo: Sai
rồi, A-nan! Đó không phải là
tâm của ông. A-nan giật mình,
rời chỗ ngồi chắp tay
đứng dậy bạch Phật: Nếu
không phải là tâm của con
thì gọi đó là gì? Phật đáp:
Cái ấy là cái tưởng tướng những tướng giả dối tiền trần, nó
làm mê mờ chân tính của ông.
Do từ vô thỉ đến đời nay
nhận giặc làm
con, đánh mất cái tính bản lai
thường trụ nênphải chịu luân
hồi. A-nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn,
con là đứa em thương yêu của Phật, vì
tâm yêu Phật nên con xuất gia.
Tâm con không phải riêng cúng dường Như Lai mà muốn phụng sự chư Phật và
chư thiện tri
thức trải qua
khắp cả Hằng sa
cõi nước, con
phát tâm đại dũng mãnh thực hành
tất cả pháp
sự khó làm đều dùng
cái tâm này. Dù cho hủy báng chính pháp, lui sụt thiện căn
cũng do cái tâm này. Nay Phật phát
minh cái ấy không phải là tâm
thì con thành không có tâm, như cây, như đất, vì
ngoài cái hay biết này ra, con lại
không còn gì nữa. Tại sao
Như Lai
nói đây không phải là tâm, con thật sợ hãivà
cả đại
chúng thảy đều nghi
hoặc, xin Như Lai thương xót khai thị cho kẻ chưa ngộ.
Bấy giờ, Thế Tôn
khai thị cho A-nan và đại
chúng muốn cho họ được thể nhập vô
sinh pháp nhẫn. Nơi tòa sư tử Phật xoa
đầu A-nan và bảo: Như Lai thường nói
sự sinh khởi của các
pháp chỉ là do tâm hiện, tất cả nhân
quả thế giới, vi
trần do tâm thành có thể tính.
Này A-nan, như trong
các thế giới, hết thảy sự vật hiện có,
cả đến ngọn cỏ, lá
cây, sợi dây, hột nút,
tra hỏi căn nguyên, đều có
thể tính, dù là hư không cũng có tên, có tướng; huống chi
cái tâm sáng suốt thanh tịnh nhiệm mầu, làm
cho hết thảy sự vật có
thể tính mà tự mình
lại không có thể tính.
Nếu lầm chấp cái
tính hiểu biết phân
biệt là tâm của ông
thìcái tâm này lý đáng phải lìa
tất cả sự nghiệp của các
trầnnhư sắc, thinh,
hương, vị, xúc
riêng có toàn tính. Như hiện giờ ông
nghe pháp của ta, đây là nhân âm thinh mà có phân biệt; dù
diệt hết tất cả thấy,
nghe, hiểu biết, bên
trong giữ cái u nhàn, không biết,
không nghĩ thì đó cũng còn là sự phân
biệt bóng dáng pháp trần mà
thôi.
Ta không bảo ông
chấp đây không phải là
tâm, nhưng ông
hãy ngay nơi tâm
suy xét chín chắn, nếu lìa
tiền trần có
tính phân biệt, đó là chân tâm của ông.
Nếu tính phân biệt lìa
trần mà không có tự thể thì
nó chỉ là sự phân
biệt bóng dáng tiền trần. Tiền trần chẳng phải thường trụ, khi
thay đổi diệt mất rồi thì
cái tâm nương vào
tiền trần ấy đồng với lông
rùa, sừng thỏ và
pháp thâncủa ông cũng thành đoạn diệt, còn
gì mà tu chứng vô sinhphápnhẫn”.
Người xưa giải thích:
Cái hay tìm cầu suy nghĩ tức là vọng tâm
đều có tác dụng
duyên lự, cũng được gọi là
tâm nhưng
không phải chân tâm.Vọng tâm
là bóng dáng trên chân tâm cho nên nói rằng
thân ông, tâm ông đều là vật hiện ra
trong diệu tâm chân tinh diệu
minh. Nếu chấp bóng
dáng này là thật thì lúc bóng dáng này diệt thì
cái tâm này liền mất, cho
nên nói nếu chấp
duyên trần tức
thành đoạn diệt. Đem
vọng tâm bám lấytrần
thành thể; như bóng trong gương, như bọt nước: mê
nước chấp
sóng, sóng lặng tâm diệt; mê
gương chấp
bóng, bóng diệt tâm mất. Nếu tâm
diệt, thành ra đoạn kiến; nếu biết tính
ướt
không hoại, thể gương thường sáng thì sóng mòi vốn
không, ảnh tượng vốn lặng.
Vìthế mới biết cảnh trí
của chư Phật khắp cả hư không, thân tâm của phàm
phu như ảnh như tượng. Nếu chấp ngọn làm
gốc, lấy vọng làm
chân thì lúc sinh tử hiện mới nghiệm biết chẳng thật. Vì
vậy cổ Thánh
nói: Thấy quặng chẳng biết
vàng, vào lò mới biết lầm”.
Hỏi: Hai
tâm chân vọng, mỗi thứ có
nghĩa gì mà gọi là tâm? Lấy gì
làm thể? Lấy gì
làm tướng?
Đáp: Chân tâm lấy linh
tri tịch chiếu làm
tâm, bất không vô trụ làm thể, thật tướng làm
tướng. Vọng tâm
lấy cái bóng duyên sáu trần làm
tâm, vô tính làm thể, phan duyên tư lự làm tướng.
Cái vọng tâm duyên lự hay hiểu biết,
phân biệt này không có tự thể, chỉ là tiền trần theo
cảnh có không, cảnh đến liền
sinh, cảnh đi liền diệt.
Nhân cảnh mà khởi,
toàn cảnh là tâm; lại nhân
tâm soi rõ cảnh, toàn tâm là cảnh, đều
không có tự tính, chỉ là
nhân duyên nên kinh Pháp Cú nói: “Ánh
sáng không cónước chỉ có hơi nóng mặt trời,
trong “ấm” không có sắc chỉ có
duyên khí thôi. Vì trời nóng bức, khí
nóng do ánhsáng mặt trời chiếu vào
sáng lấp lánh, ở xa
trông thấy như nước, nhưng từ tưởng tượng
sinh ra, chỉ là sóng nắng
thôi! sắc tâm hư vọng này
cũng thế, lấy từ nghiệp làm
nhân, ngoại trần cha mẹ làm
duyên, hòa hợp dường như hiện sắc tâm,nhưng chỉ là
duyên khí”.
Cho nên kinh
Viên Giác nói: “Vọng nhận bóng
dáng duyên sáu trần làm tâm tính của mình”,
thế nên biết tâm
hay suy nghĩ này nếu không có nhân duyên thì không sinh khởi, chỉ từ duyên
sinh. Pháp duyên sinh đều là vô thường, như bóng trong gương vô thể mà
toàn do cảnh bên ngoài, như trăng trong nước
không có thật, dối hiện vầng
tròn, nhận đó là thật. Thật quá
ngu si!
Vì vậy
A-nan chấp lầm
không căn cứ, đối với bảy chỗ trưng tâm đều mờ mịt chẳng rõ.
Nhị Tổ liễu ngộ mà chẳng thốt một lời liền ngộ đạo, ắt hẳn vì
Nhị Tổ tìm
cái tâm duyên lự bất an
này chẳng được liền ngộ chân
tâm trùm khắp mọi nơi. Ngộ đây
là tông, ngài liền trở thành
người kế thừa Tổ vị đầu
tiên. A-nan nhờ Như Lai truy tìm phá vỡ vọng tâm
cho đến đối với tính
củangũ ấm, lục nhập,thập nhị xứ, thập bát
giới, thất đại, mỗi mỗi đều tra
hỏi tinh vi triệt để, chỉ là không,
đều không có tự tính;
đã không phải nhân duyên tự tha
hòa hợp mà có. Lại
không phải tự nhiên
vô nhân mà sinh, đều là ý ngôn thức tưởng
phân biệt. Nhân đây chợt ngộ chân
tâm diệu minh rộng lớn trùm
khắp, liền cùng
với đại
chúng đều đạt được tâm
này, đồng thinh tán thán Phật.
Do đó kinh nói: “Lúc ấy
A-nan cùng với đại chúng
được Như Lai vi diệu khai
thị, thân tâm thanh thản tự tại. Đại
chúng mỗi người đều tự biết tâm
trùm khắp mười phương, xem mười phương hư không như thấy rõ vật
trong lòng bàn tay. Tất cả sự vật
trong thế gian đều là bồ-đề diệu minh
nguyên tâm, tâm tính trùm khắp mườiphương, trở lại xem
thấy thân do cha mẹ sinh
chỉ như hạt bụi li
ti bay trong mười phương hư không kia, hoặc còn
hoặc mất như bọt nước
trong biển cả có
không từ đâu chẳng rõ.
A-nan đạt được bản diệu tâm
thường trụ bất diệt, chắp tay
lễ Phật vì được việc chưa từng có,
A-nan ở trước Như Lai nói kệ tán
thán Phật:
Đức Thế Tôn bất động, tổng trì
tính diệu trạm,
Nói pháp Thủ Lăng
nghiêm thật hy hữu
trong đời,
Khiến
chúng tôi tiêu diệt vọng tưởng trong ức kiếp,
Không trải qua
tăng-kỳ mà chứng được pháp thân.
Đây là giống như Sơ Tổ “Trực chỉ nhân tâm,
kiến tính thành Phật”.
Hỏi: Có văn
kinh gì chứng minh hành tướng của chân
tâm?
Đáp: Kinh
Trì Thế nói: “Bồ-tát
quán tâm, trong tâm không có tướng tâm. Tâm này xưa nay vốn chẳng
sinh chẳng khởi,
tính thường
thanh tịnh, khách trần phiền não
làm nhiễm nên có phân biệt. Tâm
không biết tâm, cũng chẳng thấy tâm.
Vì sao? Vì tâm này không, tính tự
không; cho nên cội nguồn
không có. Tâm này không có một pháp
cố định, vì
pháp cố định
không thể có được nên tâm này vô pháp hoặc họp hoặc tan,
tâm này mé trước mé
sau không thật có. Tâm này vô hình không thể thấy được là
tâm chẳng tự thấy, chẳng biết tự tính
cho đến người ấy bấy giờ chẳng
phân biệt là tâm hay chẳng phải tâm,
chỉ khéo biết tâm
không có tướng
sinh, thông đạt tâm này tính vô sinh. Vì sao? Vì tâm
không có tính quyết định,
cũng không có tướng quyết định cho
đếnchẳng có
được tướng
tâmcấu, chẳng được tướng
tâmtịnh; chỉ biết tâm
này tướng thường
thanh tịnh”.
Kinh Đại Bát-nhã nói :
“Đối với tất cả pháp
tuy không có chỗ chấp thủ nhưng hay tạo
thành tất cả sự nghiệp”.
Giải
thích: Nếu thấu rõ tự tâm
thì việc gì cũng xong.
Hoặc có kẻ làm
bám lấy cảnh giới trước mắt rồi cho
rằng bên trong chẳng đủ. Cho
nên kinh Kim Cang Tam-muội nói: “Bồ-tát
quán bản tính tướng tự cho
là đầy đủ,nhiều tư lự chẳng ích
gì đối với đạo lý,
luống làm loạn động bỏ mất bản tâm
vương”.
Luận Thích ghi:
Vô lượng
công đức chính là nhất tâm.
Nhất tâm là chủ nên gọi là
tâm vương;
sinh diệt động loạn trái
với tâm vương này không thể quay
trở lại nên
nói là bỏ mất. Tâm
là thống nhiếp tất cả tối thắng của các
pháp, không một pháp nào tâm chẳng thống nhiếp, thống ngự bốn phương tám hướng, tất cả đều tuân
phục. Vì thế kinh Như Huyễn
Tam-muội nói: “Chẳng tìm
cầu các pháp, đây gọi là
thân mình”. Kinh Tiến Thủ Đại Thừa Phương Tiện nói: “Người thật quán
chân như tư duy tâm tính chẳng
sinh chẳng diệt, chẳng trụ thấy
nghe, hiểu biết, trọn lìa
lất cả tưởng
phân biệt”.
Hỏi: Tâm có
thể làm Phật, tâm
có thể làm chúng sinh, do thấu rõ
chân tâm nên thành Phật, vì chấp vọng tâm
nên thành chúng sinh. Nếu thành Phật đều đầy đủ ngũ
nhãn viên thông, ngũ ấm vô lậu, cho
nên kinh nói:Diệt vô thường sắc sẽ được “thường sắc”. Lại nói:
Diệu sắc trạm
nhiên thường an
trụ. Lại nói:
Khéo hay phân biệt các pháp tướng,chẳng trụ thấy
nghe, hiểu biết, xa
lìa tất cả tưởng
phân biệt làm sao thuyết chân
tâm?
Đáp: Nếu là vọng tâm
thì thấy nghe cần phải nhờ nhân
duyên mới có thể sinh
khởi, như nói mắt có đủ chín
duyên mới sinh... Nếu
không có duyên sắc không hòa hợp, sự kiến tính
không do đâu được
phát. Năm căn cũng như thế đều nương vào duyên khởi, đây
là duyên họp thì sinh, duyên tan thì diệt,
không có chủ tể của
chính nó, rốt ráo tính không. Như bài kệ trong
kinh Lăng Già nói:
Tâm là diễn viên
giỏi
Ý như kẻ phụ họa
Năm thức là
bè bạn
Vọng tưởng là người xem
Như người đang múa hát
Theo tiếng người vỗ tay
Vỗ chậm bước đi chậm
Vỗ nhanh
bước đi
nhanh
Năm căn cũng như thế
Chỉ tùy theo ý chuyển.
Như
nói: Thân chẳng phải
niệm
luân tùy niệm mà chuyển.
Vì sao ý địa nếu
sinh thì thân chuyển động
tác. Ý địa nếu dừng
bặt
thì căn cảnh đều lặng
lẽ;
chân tâm thì không như vậy,
thường
chiếu,
thường
hiện,
Thiết-vi
không thể
che lấp
ánh sáng kia; khắp cả hư không, trời
xanh không thể che được thể
kia; chẳng
thuần
chẳng
tạp,
vạn
pháp không thể ẩn
cái chân kia, chẳng trụ,
chẳng
nương, trần
lao không thể làm biến đổi
tính kia, đâu nhờ đến
tiền
trần
phát huy đối cảnh
sinh hiểu
biết. Tự
nhiên tịch
chiếu,
linh tri trạm nhiên không bờ
mé. Thế nên
kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi:
“Thật bảo
A-nan: Sáu căn như vậy
do tính giác minh kia chuyển thành minh giác mất
tính sáng suốt, dính với
cái vọng
mà phát ra hay biết. Do đó ngày nay ông nên lìa tối
lìa sáng thì không có cái thấy; lìa động
lìa tịnh
thì không có cái nghe; không thôngkhông bít thì cái ngửi
chẳng
sinh;chẳng
vị chẳng
nhạt
thì cái nếm chẳng
có chỗ
phát; chẳng
lìa chẳng
họp
thì cái biết xúc vốn
không; chẳng diệt
chẳng
sinh thì cái hiểu biết
không gá vào đâu.
Ông chỉ đừng
theo mười
hai tướng
hữu
vi động
tịnh,
họp
ly, có vị không
vị,
thông bít, sinh diệt, sáng tối,
tùy nhổ được một
căn thoát niêm, trở vào bên trong, quay về
tính bản
chân, phát ra tính sáng suốt bản
lai; diệu
tính đã phát minh thì năm chỗ dính mắc
cũng đều được
giải
thoát.
Chẳng do tiền trần
mà khởi tri
kiến thì
cái sáng suốt chẳng
đi theo căn, chỉ gởi nơi căn mà phát ra; nhân đó sáu căn có thể
dùng thay lẫn nhau.
Này A-nan! Ông đâu chẳng
biết,
hiện
nay trong hội này A-nan-luật-đà
mắt
mù mà thấy,
rồng
Bạt-nan-đà
không tai mà nghe, thần nữ
Căng-già không mũi mà biết mùi, Kiều-phạm-bát-đề lưỡi
khác mà biết vị;
thần
Thuấn-nhã-đa
không thân mà biết xúc, do hào quang Như Lai ánh ra khiến
cho ông ấy tạm
thời
hiện
ra có thân, chứ bản
chất của
ông là gió thì thân thể vốn không
có; các vị Thanh văn đắc
diệt tận định ở trong
hội
này, như ngài Ma-ha Ca-diếp,
ý căn đã diệt từ
lâu mà vẫn
rõ biết
cùng khắp
không do tâm niệm.
Này A-nan, hiện
nay các căn của ông nếu
đã được
giải
thoát hoàn toàn, cái sáng suốt trong tâm tính phát ra. Như thế
thì các phù trần và các tướng biến
hóa trongthế gian sự vật đều
tiêu mất,
như nước sôi làm tan băng, ngay đó liền
hóa thành vô thượng
tri giác.
A-nan, như người thế
gian đều
gom cái thấy nơi con mắt,
nếu bảo
nhắm
kín thì tướng
tối
hiện
ra, cả
sáu căn đều tối,
đầu
và chân như
nhau. Người
kia lấy
tay sờ khắp
ngoài thân, dù chẳng thấy đầu,
chân nhưng biết
rõ từng
phần,
cái hay biết vẫn đồng
như trước kia.
Nhân sáng mà thấy,
nên khi tối thành không thấy,
chứ không
có sáng mà tự phát cái thấy
thì những
tướng
tối hẳn
không thể
làm mờ được.
Căn trần đã
sạch
làm sao tính giác minh lại không thành nhiệm mầu
cùng khắp”.
Giải thích: Như người thế
gian gom cái thấy nơi con mắt,
trước
tiên nói về người thế
gian cho rằng không có mắt thì
không thấy.
Nếu bảo vội
vàng nhắm mắt lại
thì không thấy gì và năm căn như tai v.v... cũng tương tợ.
Người ấy
dùng tay rờ trên thân, tuy chẳng
nhờ đến mắt
mà cũng tự biết,
đây giống
như chân kiến
không nhờ
ngoại cảnh.
Nói nhờ
sáng mới thấy,
tối thành
không thấy,
đây là lặp lại mắt
người
thế
gian trông thấy phải
nhờ
nhân duyên sáng tối, căn trần
hòa hợp mới
thấy được.
Nói “khi tối thành ra không thấy,
chứ
không có sáng mà tự phát ra cái thấy”,
đây là nói về lúc chân kiến,
tính thấy
không phải
là mắt.
Đã không lệ thuộc mắt
sao lại
nhờ ở sự
sáng tối của
căn trần để
phát thì chẳng rõ mà rõ, chẳng
thấy
mà thấy,
tự
nhiên tịch
chiếu
linh tri đâu từng gián đoạn.
Vả lại
các tướng
thế
gian sáng tối hư huyễn ẩn
hiện
đâu thể
che lấp được,
do đó sáng cũng không hẳn là sáng và tối
cũngkhông hẳn là tối.
Cho nên nói các tướng
tối trọn
không thể
làm mờ được,
làm sao tính giác minh lại không thành nhiệm mầu
cùng khắp ?Vì
vậy,
có học
nhân hỏi bậc
Tiên đức:
Thế
nào là đấng
Đại
bi nghìn tay nghìn mắt ? Đáp: Như người trong đêm mò được
chiếc gối.
Hỏi: Về
hành tướng
của vọng
tâm, có kinh văn nào làm chứng?
Đáp: Theo kinh Thắng
Thiên Vương
Bát-nhã Ba-la-mật, Phật dạy: “Bồ-tát
thực
hành Bát-nhã ba-la-mật tâm niệm
nên tư duy như sau tâm này vô thường
mà cho là thường
trụ, nơi khổ
cho là vui, vô ngã cho là ngã, bất tịnh
cho là tịnh,
giao động
chẳng
dừng,
biến đổi
nhanh chóng, kết sử là
cội gốc đưa đến nẻo
ác, nhân duyên phiền não làm hoại
diệt đường
lành. Cái không thể tin này là ông chủ của
tham, sân, si; trong tất cả
pháp, tâm là thượng
thủ.Nếu
khéo biết
tâm chắc
chắn
hiểu
rõ tất cả
pháp, mọi
thứở thế
gian đều
do tâm tạo.
Tâm không tự thấy,
hoặc
thiện
hoặc
ác đều
do tâm khởi. Tâm tính xoay chuyển
như cái vòng lửa,
dễ
chuyển
như ngựa,
hay thiêu đốt như lửa,
bộc
khởi
như nước lũ. Quán sát như thế
tâm niệm
chẳng
động,
chẳng
theo tâm vận hành, khiến
tâm theo mình. Nếu hay điều
phục
tâm thì điều phục được
các pháp”.
Kinh
Đại Niết-bàn ghi: “Phật
nói: Lành thay! Thiện nam, tâm nếu
thường
thì không thể phân biệt
các sắc
xanh, vàng, đỏ, trắng,
tím v.v... Này thiện nam, nếu
tâm là thường
thì các điều nghĩ nhớ lẽ ra
khôngquên mất. Này thiện
nam, nếu
tâm là thường
thì sự đọc tụng
lẽ ra
không tăng thêm. Lại nữa,
này thiện
nam, nếu
tâm là thường
thì cũng không thể nói đã làm, đang làm, sẽ
làm; nếu
có đã làm, đang làm và sẽ làm nên biết
tâm này chắc chắn
là vô thường.
Này thiện
nam, nếu
tâm là thường
thì không có oán, thân, cũng chẳng oán, chẳng
thân; nếu
tâm là thường
thì không nên nói vật của
tôi, vật của
người
khác, hoặc
chết
hoặc sống;
nêu tâm là thường
thì tuy có làm ra lý đáng chẳng tăng trưởng. Này thiện
nam, vì nghĩa này nên biết tâm tính mỗi mỗi đều
riêng khác nên biết vô thường”.
Lại hỏi:
Ví dụ cụ thể như thế
nào?
Như
trong kinh nói: “Tâm tính chúng sinh như khỉ vượn,
tính khỉ vượn
lao chao buông cái này bắt cái kia. Tâm tính chúng sinh cũng thế,
không ngừng
bám lấy sắc,
thinh, hương, vị,
xúc, pháp”. Đây là ví dụ cụ thể từđó
suy nghiệm
tâm chúng sinh như
khi vượn
leo trèo câycao lăng xăng lên xuống,
như bùn non theo dòng ra vào không ngại,
nhưtrò chơi của
nhà ảo
thuật
bày các thứ danh tướng đều hư dối,
như diễn
viên xuất
hiện
trên sân khấu trước sau đều
không thật.
Vì vậy kinh
Chính Pháp Niệm Xứ
nói: “Tì-kheo kia lại quán sát cái tâm khỉ vượn.Nhìn
thấy bọn
khỉ vượn
nhảy
nhót không ngừng, khắp nơi khỉ vượn đều
đi tới
như trong rừng
cây, trên cành nhánh có hoa quả, trong hang hốc
quanh co, chỗ nào khỉ vượn
cũng xôngtới chẳng
ngại.
Tâm khỉ vượn
cũng như thế.
Năm nẻo
sai biệt
như các thứ rừng,
các đường
địa
ngục,
súc sinh, ngạ quỷ
cũng như cây kia. Chúng sinh nhiều
vô lượng
như các cành cây, ái như hoa lá, phân biệt ưa thích thinh, hương, vị,
xúc v.v... cho là trái cây. Hành là núi ba cõi, thân như hang hốc,
hành không chướng
ngại,
đó là tâm khỉ vượn. Tâm khỉ vượn
này thường
đi khắp
cõi sinh tử như địa
ngục,
ngạ quỷ,
súc sinh. Tì-kheo kia nương
theo thiền định
quán sát tâm diễn viên. Như xem người diễn
viên, người
này cầm
các nhạc
khí trình diễn đủ
trò trên sân khấu; tâm diễn
viên này cũng như thế,
các thứ
nghiệp
hóa làm y phục, sân khấu
là năm nẻo
luân hồi,
các món trang sức là các thứ
nhân duyên, các thứ nhạc
khí là trò trình diễn, vai trò của
người
diễn
viên chính là trò đùa sinh tử. Tâm là diễn
viên bày ra đủ trò, đó làsinh tử
dài dằng
dặc,
vô thỉ vô
chung. Tì-kheo lại nương thiền định
quán sát tâm như
con cá mắc cạn.
Như con cá ở
trong sông mắc cạn
bùn, nếu
như nước sông chảy gấp
sóng loạn,
sâu sông dòng nước
cuồn
cuộn
chảy
nhanh cá không thể lội được,
nước
cuốn
phăng lất cả
cây cỏ,
thế nước mạnh
mẽ
không có gì ngăn chặn khe nước từ
trên núi và nước
sông cùng đổ xuống
thật
nhanh và mạnh, con cá đầy
bùn kia có thể bơi ra bơi vào, có thể đi
hay ở. Tâm
ô nhiễm
cũng như vậy. Ở
trong con sông Dục giới
chảy
nhanh sóng loạn thường có thể ra
vào, có thể đi ở”.
Luận Đại
Trí Độ
ghi: “Như Phật
nói: Kẻ
phàm phuthường
biết
thân vô thường
nhưng không biết tâm
vô thường.
Nếu
phàm phu nói thân là thường
vẫn
là sai lầmmà
cho tâm này là thường,
quả thật
quá mê lầm!
Vì sao? Thân sống còn trong mười
năm, hoặc
hai mươi năm, còntâm này hằng
ngày đi qua sinh diệt mỗi
lúc một
khác, niệm
niệm
không dừng.
Hễ tham
dục
sinh thì các loài sinh, tham dục diệt
thì các loài diệt. Như việc
huyễn
hóa không thể có thật tướng.
Vì vô lượng
nhân duyên như thế
nên biết
tâm vô thường.
Đây gọi
là tâm niệm xứ.
Hành giả tư duy tâm này thuộc về
ai, ai sai khiến tâm này, quán sát rồi
không thấy
có chủ,
vì do nhân duyên tất cả
pháp hòa hợp nên chẳng
tự tại,
vì không tự tại
nên không tự tính, không tự
tính nên vô ngã. Nếu vô ngã thì ai sai sử tâm
này”.
Chỉ
Quán
nói: “Tâm khởi một
niệm
suy nghĩ tùy theo thiện ác mà sinh ra thập đạo.
Một
là nếu
tâm kia niệm niệm
chuyên tham, sân, si, chẳng thể
đem tâm này thu nhiếp trở về,
nhổ
cũng chẳng
ra.Ngày tháng chồng chất
càng nhiều mười
điều
ác cực độ như Phiến-đề-la
đây là khởi tâm địa
ngục
đi vào hỏa đồ.
Hai là nếu tâm
kia niệm
niệm ưa thích nhiều
quyến
thuộc
như biển cả nuốt
các dòng nước,
như lửa đốt
cháy củi.
Tâm khởi mười
điều
ác bậc
trung như Đề-bà-đạt-đa
dụ dỗ đồ
chúng, đây là khởi tâm súc sinh đi vào trong huyết đồ.
Ba là nếu
tâm kia niệm niệm
muốn được
danh tiếng
lừng
lẫy
khắp nơi, người người ca ngợi
mà bên trong không có thật đức,
giả bộ như hiền Thánh,
khởi mười
điều
ác bậc
thường như Ma-kiện-đề.
Khởi
tâm quỉ như vậy nênđi
vào trong đao đồ. Bốn
là nếu
tâm kia niệm niệm
luôn luôn muốn hơn người, không chịu
nhún mình, khinh người,
trọng
mình như chim bay cao nhìn xuống
và bên ngoài tỏ ra có nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín, khởi thiện
tâm ở bậc
thường
sẽ đi
vào A-tu-la đạo. Năm là nếu
tâm kia niệm niệm ưa thích dục lạc
thế
gian, muốn
thân thối
tha này sung sướng,
muốn
tâm ngu si này thỏa thích. Đây là khởi
niệm
tâm ở cấp
trung bình, sẽ đi vào nhân đạo.
Sáu là nếu
tâm kia niệm niệm
biết
cái khổ của
ba điều
ác, khổ
vui của
thế
gian nối
tiếp
nhau, ở
cõi trời mới
thuần
vui. Đem cái vui ở cõi trời để
chiết
phục sự
thô ác. Thiện tâm ở cấp
cao này đưa đến
thiên đạo.
Bảy
là nếu
tâm kia niệm niệm
muốn được
uy thế lớn,
thân miệng
ý đều
khéo điều
phục,
phát tâm làm chủ dục
giới sẽ dần đến
Ma-la đạo.
Tám là nếu
tâm kia muốn được trí tuệ
sáng suốt,
biện
tài, quảng
bác, phát tâm thế trí như vậy sẽ
đivào Ni-càn đạo. Chín là nếu
tâm kia vượt
ngoài sự che
lấp của
ngũ trần
và lục dục,
cái vui của tam thiền như suối
mát, niềm
vui này tràn ngập trong lòng. Sự
phát tâm thanh tịnh này sẽ dần đến sắc,
vô sắc đạo.
Mười
là nếu tâm
kia biết
thiện
ác xoay vòng, kẻ phàm phu đam mê điều mà
hiền Thánh
quở
trách, phá điều ác nhờ tịnh
tuệ, tịnh
tuệ là
do tịnh
thiền,
tịnh
thiền
là do tịnh
giới,
đối với
ba pháp này vẫn luôn khao khát. Sự
phát tâm giải thoát này đưa đến
Nhị thừa đạo.
Mười
thứ
tâm trên hoặc trước khởi
tâm sai quấy, hoặc
trước
khởi
tâm chính đáng hoặc tâm sai, tâm đúng cùng khởi,
ví như voi, cá,gió làm đục nước hồ.
Voi ví cho các điều quấy từ bên
ngoài mà khởi. Cá ví cho sự nội
quán yếu
kém bị kiến
chấp
nhị
biên làm xao động. Gió là ví cho bên trong và bên ngoài
hợp với tạp uế
cùng làm vẩn đục.
Chín loại
tâm trước
là sinh tử, như con tằm tự
trói; một
tâm sau cùng đó là niết-bàn, như con nai chạy một
mình, tuy được
giải
thoát nhưng chưa đầy đủ Phật
pháp, biết
rõ tam giới không có lý khác chỉ do
vọng
tâm sinh, vọng tâm là cội gốc của
tám thứ
điên đảo21 làm nguồn cội của bốn lưu22,
nhanh như điện
chớp,
mạnh
như cuồng
phong chợt dấy
trần
lao, tuôn chảy nhanh và mạnh
như dòng nước,nung nấu
phát sinh năm dục, gấp hơn vòng lửa
xoay. Đây là do kết cấu bốn
ma23, chạy
theo mười sử24,
chìm đắm dưới
đáy sông nhị tử25,
lao vào lửa đỏ bát
khổ26,
say sưa không biết
gì đến hạt
châu trong áo, luống chịu
gian khổ
tìm kiếm hạt
châu lún trong trán, rồi tự mình
buồn
bã thở
than một
cách vô ích... Tất cả đều
là do vọng
tâm, mê cái chân giác này chớ rốt
cuộc nào
có mất
mát gì đâu?”
Phần văn kinh được dẫn
chứng
trên đây, như
kinh giáo nói về hai tâm chân vọng,
về
nghĩa thì dường
như có phân ra hai thứ,
nhưng trở về
tông thì không khác. Sao thế? Chân tâm là đứng
trên mặt
lý thể, vọng
tâm là căn cứ trên tướng dụng.
Nay do lý hằng là tâm nên không thể được
tâm tướng,
tâm hằng
là lý nên chẳng động
tâm tướng
như nước là sóng, chẳng
phải tướng
sóng; sóng là nước
chẳng
hoại tướng
sóng. Đây là vì động tịnh
chẳng
có bờ
mé, tính tướng
một
nguồn.
Ngay tâm phàm mà là tâm Phật, quán thế đế mà
thành chân đế. Do đó kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ-tát
ma-ha-tát quán tất cả
pháp, đều lấy
tâm làm tự tính, như thế mà
trụ”.
Nếu
nhiếp cảnh
là tâm, đây là thắng nghĩa thế tục.
Tự
tính của
tâm là chân như,
đây là thắng nghĩa của
thắng
nghĩa. Như thế mà
trụ, lấy
vô sở đắc
làm phương tiện
nên song chiếu chân tục vô
trụ trụ.
15Đạt-ma: (?-528/536) Tổ thứ 28 của Ấn Độ, là Sơ tổ thiền tông Trung-quốc.
16Phó đại sĩ (497-569) là ngài Thiện Huệ Phó Hấp, cư sĩ Trung-quốc, sống vào đời
Lương thuộc Nam triều, người Chiết giang, ngài cùng Bảo chí (Chí công) được tôn
xưng là hai đại sĩ đời Lương.
17Thiên Thân, còn gọi Thế Thân (S: Vasubandhu) Đại luận sư Ấn Độ, sống khoảng thế kỷ
thứ 4-5, người nước Kiện-đà-la thuộc bắc Ấn Độ, là em của ngài Vô Trước
(Asanga) Sư soạn nhiều luận và sách chú thích đặt nền tảng cho phái Du-già thuộc
Phật giáo Đại thừa.
18Tám mối (bát giáo) là bốn giáo hóa nghi: Đốn, tiệm, bí mật, bất định và bốn
giáo hóa pháp: tạng, thông, biệt, viên.
19Bốn cơ: Bốn căn cơ có thể nhận được giáo pháp. Đó là nhân thiên cơ, nhị thừa
cơ, bồ-tát cơ, Phật cơ.
20Huệ Khả: (487-593) Tổ thứ hai của thiền tông Trung-quốc, sống vào thời Nam Bắc
Triều, người Lạc Dương, Hà Nam, họ Cơ, tự Thần Quang, hiệu Tăng Khả.
21Bát đảo: Tám thứ điên đảo mà phàm phu và hàng nhị thừa mê chấp, Phàm phu chấp
pháp hữu vi sinh diệt là thường, lạc, ngã, tịnh; nhị thừa chấp pháp vô vi niết-bàn
là phi thường, phi lạc, phi ngã, phi tịnh. Gọi chung là tám thứ điên đảo.
22Bốn lưu (Cg Tứ bộc lưu, S: Catvara Oghah): Bốn thứ phiền não mạnh như dòng thác
lũ cuốn trôi các thiện căn của loài hữu tình. Đó là dục lưu, hữu lưu, kiến lưu,
vô mimh lưu.
23Bốn ma: Bốn thứ ma cướp đi sinh mạng và huệ mạng của con người. Đó là ngũ ấm ma, phiền não ma, tử ma, thiên ma.
24Mười sử (mười triền):
Mười món phiền não do nương vào tham sân si mà khởi, tương ưng với tâm nhiễm ô
tạo thành các ác hạnh, trói buộc chúng sinh trong sinh lử. Đó là vô tàm, vô
quý, tật, xan, hối, miên, điệu cử, hôn trầm, phẫn, phú.
25Nhị tử: Phần đoạn
sinh tử, biến dịch sinh tử.
26Bát khổ: Tám thứ khổ: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, cầu bất đắc khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, ngủ ấm xí thạnh khổ.
Comments
Post a Comment