TÔNG CNH LC


 

QUYN 3

 

Hi: Kinh giáo thuyết minh muôn pháp chí lý hư huyn; chng phi nói hu vô dt tuyt tính t tha; nếu không có t th ca mt pháp thì làm sao lp tông?

Đáp: Nếu không lp tông thì vic hc hưng v đâu? Nếu nói t tha hu vô đu là thc tâm phân bit ca chúng sinh, đó là môn đi tr t đi đãi mà có. Tâm tht lý trong t th pháp thân há đng huyn có, chng theo huyn không.

Kinh Lăng Già ghi: “Pht bo Đi Hu: Ví như chng phi tính trâu nga, tính trâu nga thc ra chng phi có, chng phi không, nó cũng chng phi là không t tưng”.

C đc gii thích: Trên th ca nga không đưc nói tính ca trâu là có hay là không nhưng chng phi là không có t th ca nga. Dùng ví d này đ nói rng trên pháp thân không th nói tính ca m, gii, nhp là hu là vô, nhưng chng phi là không có t tưng ca pháp thân. Lý pháp không này vưt lên hu vô, tc là tính ca pháp thân, nhưng nếu có thú có hưng, trí trái vi thiên chân, không đưc (vô đc), không v (vô quy) tình sinh đon dit. Ch không tìm cu cái hu thì l tht hin bày rõ ràng, cái không t nhiên đy đ thì diu ch sáng t, lng l tr v đim nhiên không gián đon, vưt lên năng s, chng còn hu vô. Có th nói là chân tht quay v có th thông đưc đo tt cùng.

Hi: Ly tâm làm tông. Thế nào là tưng ca tông thông?

Đáp: Ni chng t tâm đ nht nghĩa lý tr t giác đa nhp Thánh trí môn; do có s tương ưng này đưc gi là tưng tông thông. Đây là lúc khi hnh chng phi là lúc gii; nhân gii thành hnh, hnh thành gii tuyt; như thế thì đưng ngôn ng bt, ch tâm hành dit.

Như kinh Lăng Già nói: “Pht bo Đi Hu: Tông thông nghĩa là do nh t đưc tưng thăng tiến, xa lìa vng tưng văn t, ngôn thuyết, hưng đến t tưng t giác đa vô lu gii, xa lìa tt c giác tưng hư vng, hàng phc tt c chúng ma ngoi đo. T ch t giác quang minh phát huy đây gi là tưng tông thông”. Thế nên “ng tâm thành T” là bí quyết bc Thánh đi trưc đu truyn nhau, do đó đi sư Đt-ma15 nói: “Sáng t Pht tâm tông, rõ sut không chút lm ln, hnh gii tương ưng, gi là T”. Li nói k:

Cũng chng thy ác mà sinh ghét

Cũng chng thy thin mà đua chen

Cũng chng b ngu mà gn hin

Cũng chng b mê mà ly ng

Đt đi đo ch quá lưng

Thông Pht tâm ch xut đ

Không cùng mt ch vi phàm Thánh,

Siêu nhiên gi là T.

Hi: Ng đo minh tông như ngưi ung nưc nóng lnh t biết, làm thế nào nói đưc hành tưng kia?

Đáp: Trưc đã nói phương tin ca chư Pht không dt cho đến nay thm ban b lòng thương sâu xa không n b rơi. Ngưi minh đt trn không nên nói, ch vì nghi nên hi, vì hi nên đáp. Đây là Bn Sư trên hi Lăng Già vì mưi phương B-tát đến cu pháp nên đích thân ngài nói hai th thông này: Mt là tông thông, hai là thuyết thông. Tông thông là vì B-tát, thuyết thông là vì ngưi mi hc đo. Chư Pht nghĩ đến k sơ cơ mi hc đo thương xót ban ít li ch dy, đây là căn c vào thuyết thông, ch theo ngưi khác cu pháp, theo li nói sinh hiu biết. S chp phương tin làm chân tht, mê lm đi vi tông thông cho nên phân tích ý nghĩa hai thông này. Tông thông nghĩa là duyên vào tưng t đc thng tiến, xa lìa vng tưng văn t, ngôn thuyết cho đến duyên t giác hưng v quang minh sáng chói, hoc chính mình đt đến lúc phát t giác đa, cũng có th nói như ngưi ung nưc nóng lnh t biết, như ngưi mù đưc sáng mt nhìn thy cnh vt rõ ràng, nghim biết hình th con voi không cn phi r mó đuôi, ngà. Như thy màu tht ca sa, đâu phi nói sa trng như tuyết, như chim hc; như đang trưc ngưi có mt mà li nói năng, ch dy t hn không đáng đưc gi là đi pháp sư biết thi. Ngưi thy mt trăng đâu cn nhìn ngón tay na, ngưi đến nhà đâu cn hi l trình; ch chng ng lin đưc tương ưng không đi ngôn thuyết; trn không chp ngón tay là mt trăng, cũng không lìa ngón tay thy mt trăng.

Như kinh Đi Niết-bàn nói: “Ví như có vua bo đi thn: Ngươi hãy dn mt con voi ti trưc nhng ngưi mù. Đi thn tuân lnh vua, tp hp nhng ngưi mù ri dn voi đến cho h. Lúc y nhng ngưi mù, mi ngưi đu dùng tay s voi. Đi thn lin tr vào tâu vua: Thn đã đem voi cho h ri, by gi đi thn lin gi nhng ngưi mù và hi tng ngưi:

- Các ông thy con voi không?

Mi ngưi đu đáp: Chúng tôi thy.

Vua hi: Con voi như thế nào?

Ngưi s nhm ngà voi, nói: Hình voi như r cây lư-phc.

Ngưi s nhm tai voi, nói: Voi như cái nia.

Ngưi s nhm đu, nói: Voi như tng đá.

Ngưi s nhm vòi voi, nói: Voi như cái chày.

Ngưi s nhm chân voi, nói: Voi như cái ci g.

Ngưi s nhm lưng voi, nói: Voi như cái giưng.

Ngưi s nhm bng voi, nói: Voi như cái bn.

Ngưi s nhm đuôi voi, nói: Voi như si dây.

Này thin nam, nhng ngưi mù kia không nói đúng hình th ca voi cũng chng phi không nói; nếu các tưng này đu không phi là voi, lìa ngoài các tưng này cũng không riêng có voi. Này thin nam, nhà vua là d cho Như Lai ng cúng chính biến tri, đi thn là d cho kinh Đi Niết-bàn Phương Đng, voi d cho tính Pht, nhng ngưi mù d cho chúng sinh vô minh.

Các chúng sinh nghe Pht nói, hoc cho rng sc là Pht tính. Vì sao? Vì sc này tuy dit, ln lưt tương tc cho nên đt đưc sc thưng hng ba mươi hai tưng Như Lai vô thưng. Vì Như Lai sc thưng hng chng đon nên nói sc là Pht tính. Ví như vàng ròng, cht tuy có biến đi nhưng sc luôn luôn thưng hng không khác, hoc có khi làm thành xuyến, vòng đeo nhưng sc vàng ban đu vn không đi khác. Tính Pht ca chúng sinh cũng vy, cht tuy vô thưng nhưng sc là thưng. Do đó nói sc là Pht tính. Cho đến nói: th, tưng, hành, thc v.v... là Pht tính.

Li có thuyết nói: Lìa m có ngã, ngã là Pht tính, như nhng ngưi mù, mi ngưi đu mô t con voi tuy không tht đúng nhưng chng phi không nói v voi; nói v Pht tính cũng như vy, chng phi ngay sáu pháp mà chng lìa sáu pháp.

Này thin nam, thế nên ta nói Pht tính chúng sinh chng phi sc, chng phi lìa sc, cho đến chng phi ngã chng lìa ngã. Này thin nam, có các ngoi đo tuy nói có ngã mà tht là vô ngã. Cái ngã chúng sinh đó là năm m, lìa ngoài m không riêng có ngã. Này thin nam, ví như cng, lá, nhy, đài hp li thành hoa sen, lìa ngoài nhng th này không có hoa. Các ngoi đo này ngu si như tr nít, không có tu phương tin, không hiu rõ thưng và vô thưng, kh và lc, tnh và bt tnh, ngã và vô ngã, th mnh và phi th mnh, chúng sinh và phi chúng sinh; tht và phi tht, hu và phi hu. H nht ly mt chút phn trong Pht pháp vng chp có thưng, lc, ngã, tnh mà thc không biết thưng, lc, ngã, tnh. Như ngưi mù t lúc mi sinh không biết màu sa, hi ngưi khác: Màu sa ging như gì? Ngưi kia đáp: Sa màu trng như v sò. Ngưi mù li hi: Màu sa dày như v sò chăng? Đáp: Không phi. Li hi: Màu v sò tương t như cái gì? Đáp: Như ht tm. Li hi: Màu sa mn như ht tm sao? Ht tm ging như cái gì? Đáp: Cũng ging như tuyết rơi. Ngưi mù li hi: Nhng ht tm có lnh như tuyết không? Và tuyết ging cái gì? Đáp: Cũng như chim hc trng. Ngưi mù tuy nghe bn ví d này vn hoàn toàn không biết gì v màu sc tht ca sa; các ngoi đo cũng như thế, h không th biết gì v thưng, lc, ngã, tnh.

Này thin nam, do nghĩa này nên trong Chính pháp ca ta có chân tht đế ngoi đo không có; chân tht đế là ch Tông Cnh hưng v. Lúc chưa ng chng tin hiu thì s thuyết pháp và t tu hành đu thành môn đi tr sinh dit, chng th nhp đo cu cánh vô sinh”.

Như kinh Am-đ-già N nói: “Văn-thù-sư-li li hi: Có ngưi biết rõ tưng sinh mà chng sinh có b lưu li bi s sinh chăng? Đáp: Có. Tuy t thy rõ nhưng năng lc chưa đy đ nên b sinh lưu li”.

Hi: Có ngưi không biết gì v sinh tính mà rt ráo không b sinh lưu li chăng? Đáp: Không. Vì sao? Vì nếu chng thy sinh tính tuy nh điu phc nên đưc chút an n, tưng bt an ca ngưi này thưng là đi tr. Nếu hay thy sinh tính thì tuy ch bt an mà tưng an n thưng hin tin. Nếu không biết như thế, tuy có tài bin thuyết gii thông sut kinh đin mà nơi tâm sinh dit nói nhng li v mt yếu ca tht tưng cũng như ngưi mù nói v màu sc, theo li nói ca ngưi khác nên nói đưc xanh, vàng, đ, trng, đen mà chính mình không thy màu sc tht. Ngày nay ngưi không th thy các pháp cũng như thế. Ch vì ngày nay b sinh làm cho sinh, b t làm cho t và có nói ra điu gì đi vi ngưi kia v cái nghĩa vô sinh đưc chăng ? Nếu còn b trói buc bi thưng và vô thưng cũng như thế. Nên biết ngưi ng “không” cũng không t đưc “không” nên mi rõ cái nghĩa hu không chăng? Nên biết hay rõ vn pháp tính vn vô sinh, đây là đc do.

Kinh Đi Bát-nhã nói: “Này Thin Hin, tt c pháp không không tht có, đu không t ti, lung di chng bn chc, nên tt c pháp vô sinh, vô khi, vô tri, vô kiến. Li na, Thin Hin, tính ca tt c pháp không nương gá, không h thuc, vì lý do này nên vô sinh, vô khi, vô tri, vô kiến”.

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Pháp n như tht n các nghip môn, đc pháp vô sinh, tr nơi Pht tr, quán tính vô sinh, n các cnh gii; chư Pht h nim, phát tâm hi hưng, cùng các pháp tính tương ưng hi hưng, nhp pháp vô tác thành tu phương tin to tác”.

Đây là do không hiu thu yếu ch duy tâm, ngưi chưa vào Tông Cnh, hưng vào vô sinh khi phin não tham si, trong chân không dính mc duyên ca cnh gii, do di tr nên thành luân chuyn. Nếu hay phn chiếu thì tâm cnh đu lng l.

Như kinh Chư Pháp Vô Hành nói: “Nếu B-tát thy tham dc tế tc là chân tế, thy sân khu tế là chân tế, thy ngu si tế tc là chân tế, thì chc chn có th dt sch tt c ti li nghip chưng cho đến k phàm phu ngu mui không biết tưng dit rt ráo ca các pháp, nên t thy thân mình cũng thy thân ngưi, vì cái thy đó mà khi nghip thân, khu, ý đến ni chng thy Pht, chng thy Pháp, chng thy Tăng, do đó chng thy tt c pháp. Nếu chng thy tt c pháp thì đi vi các pháp chng sinh nghi. Chng sinh nghi nên chng th tt c pháp. Chng th tt c pháp nên t tch dit”.

Kinh Bt Tư Nghì Pht Cnh Gii nói: “By gi, Thế Tôn bo B-tát Văn-thù-sư-li: Này đng t, ông có biết ch Như Lai tr pháp bình đng chăng? B-tát Văn-thù-sư-li thưa: Bch Thế Tôn! Con biết. Pht bo: Đng t, cái gì là Như Lai tr pháp bình đng? B-tát Văn-thù-sư-li thưa: Bch Thế Tôn, ch tt c phàm phu khi tham, sân, si là pháp bình đng Như Lai an tr. Pht dy: Này đng t, ti sao ch tt c phàm phu khi tham, sân, si là pháp bình đng mà Như Lai tr? B-tát Văn-thù-sư-li thưa: Bch Thế Tôn, tt c phàm phu trong pháp không, vô tưng, vô nguyn khi tham, sân, si; thế nên ch tt c phàm phu khi tham, sân, si tc là ch Như Lai tr pháp bình đng. Pht bo: Này đng t, không thì làm sao có pháp mà nói trong y có tham, sân, si? B-tát Văn-thù-sư-li thưa: Bch Thế Tôn, không là có; thế nên tham, sân, si cũng là có. Pht nói: Này đng t, không làm sao có? Tham, sân, si làm sao có? B-tát Văn-thù-sư-li thưa: Bch Thế Tôn, không nh ngôn thuyết nên có, tham, sân, si cũng nh ngôn thuyết nên có. Như Pht nói: Tì-kheo có vô sinh, vô khi, vô tác, vô vi pháp phi phm hnh. Pháp vô sinh, vô khi, vô vi, vô tác, phi phm hnh này chng phi không có; nếu không có thì đi vi sinh khi làm ra pháp ca các hành, lý đáng không có xut ly, nhưng vì có nên nói xut ly. Đây cũng như thế. Nếu không có “không” thì chc chn đi vi tham, sân, si không có s xut ly. Vì có nên nói lìa các phin não tham, sân, si”. Lun Trung Quán có bài k:

T pháp chng sinh pháp,

Cũng chng sinh phi pháp.

Phi pháp chng sinh pháp,

Cũng chng sinh phi pháp.

Xin gii thích ý bài k:

Pháp tc là có (hu)

Như sc và tâm

Phi pháp là không (vô)

Như là sng th.

T pháp sinh pháp như m sinh con. Pháp sinh phi pháp như ngưi sinh ra con gái đá, t phi pháp sinh pháp như sng th sinh ngưi; t phi pháp sinh phi pháp như lông rùa sinh sng th. Nên lun Bát-nhã Gi Danh nói: “Li có ngưi nghĩ rng: Nếu Như Lai ch chng vô s  đc thì Pht pháp ch là mt ch chng phi vô biên, thế nên kinh nói: Như Lai nói tt c pháp đu là Pht pháp. Pht pháp nghĩa là gì? Tc là vô s đc, chưa tng có mt pháp có tính kh đc, cho nên tt c không gì không là Pht pháp. Vì sao tt c đu vô s đc?” Kinh nói: “Tt c pháp là chng phi tt c pháp. Thế nào là chng phi? Vì tính vô sinh”. Vô sinh thì tc là vô tính. Ti sao nói tt c pháp trong vô tính nên tm mưn ngôn thuyết? Tt c pháp không có tính là Như Lai tng tính ca chúng sinh.”

Bàng cư sĩ nói k:

Kiếp la đt tri tri chng cháy

Gió núi thi đng chng nghe tiếng

Trăm sông tranh rót bin chng đy

Năm núi lng danh chng thy hình

Lng trong tnh l không du vết

Nghìn li thy đu vào vô sinh

Nên biết pháp do ý thành hình

Nghìn li nhân tâm có hình tưng

Mt nim vng lng muôn cnh không

Vn là đng mt ca bt nh

Thy đu vào ý ch vô sinh.

Do đó, trong bài Hành L Nan, Phó đi sĩ16 nói:

Anh thy chăng

Các pháp không, ch tm lp bày

Tch tnh vô môn là pháp môn

Trong tt c pháp, tâm là ch

Tôi nay li chngđưc ngun tâm

Xét k ngun tâm đã chng đưc

Nên biết các pháp chng ci ngun

Li vô sinh có hai: Như lun Thông Tâm nói: “Mt là pháp tính vô sinh, diu lý gi là pháp, rng rang gi là tính, t xưa nay t như thế, gi là vô sinh. Hai là duyên khi vô sinh, phàm cnh là do tâm hin nên không t cáigì khác sinh ra, tâm nương theo cnh khi nên không t sinh, tâm cnh mi th khác nhau nên không cùng sinh, cái này nhân cái kia mà có cho nên không phi là không có nhân sinh khi. Cũng có th nói: Mt là lý vô sinh vì là tính viên thành tht vn bt sinh; hai là s vô sinh vì tưng ca duyên sinh tc là vô sinh”.

Ch Quán nói: “Nếu hiu rõ kinh Kim Cang tc là chuyên ý vô sinh đưa vào trong môn chng tr, chng tr các th như: chng tr sc b thí, chng tr thinh, hương b thí v.v... Tuy các pháp chng tr, đem phápvô tr vào bát-nhã tc là nhp “Không”, đem pháp vô tr tr thế đế tc là nhp “Gi”, đem pháp vô tr tr tht tưng tc là nhp “Trung”. Vô tr tu này tc là Kim cang tam-mui hay phá tr tn gc mi th nham thch,cát si phin não. Như đc Thích-ca Mâu-ni nhp Đi Kim cang tam-mui, ngài Thiên Thân17, Vô Trưc lun ngh qung bác đâu chng t ý ch vô sinh vô tr. Nếu đt đưc ý ch này thì nghìn kinh muôn lun tt nhiên chng còn nghi. Đây là phn đu ca vic hc quán, là nn tng ca s tư nghì, là diu tu khéo bin bit, là ch quy nhp đo, thành lp s lý rng ln mt cách đy đ, rõ đưc mt thì theo đó nghìn th pháp môn đu t ti.Cho nên biết tt c các pháp đu t tính vô sinh “không” mà “có”, có mà chng phi có, chng lìa tc mà thưng chân, chng phi có mà có, chng lìa chân mà hng tc, thì huyn hu lp mà vô sinh hin. Không hu rõ ràng, c hai cùng mt mà c hai vic còn là chân tc đành rành. Đây là vô sinh mà vô bt sinh vì chng tr nh biên vy”.

Như bài tng ca C đc nói:

Vô sinh trn bt tr

Vn tưng lung phô bày

Nếu c hiu vô sinh

Li b vô sinh buc.

Hi: Ly tâm làm tông, lý phi tuyt đi, căn c vào cõi hu tình chân vng t như có phân, không th theo s phân chia đó mà cho là viên giác; như vàng, thau đem nu chung thì th tht, gi biết ra ngay; cát go nu chung thì sng, chín khác nhau, chưa biết ly tâm nào làm tông?

Đáp: Đúng như câu hi, cn phi biết rõ tâm. S kỳ diu này tht khó biết, ch có Pht mi biết rõ. Ch vì hàng tam tha m đo thy có sai khác, ch tâm vng tâm cho đó là chân tht, nhn k gic gian trá làm con rut ca mình, nó cưp đot hết c ca báu trong nhà, ly mt cá cho đó là ht châu ly long, ung mê trí nhãn.Ri li khiến cho ngưi ngu si b giam hãm trong tng tng lao ngc. K tà đo chìm đm trong sóng to s hãi ca dòng sông kiến chp, đùa gin vi la d trong căn nhà mc nát, quên kh, quên mt mi, nm ng vi gic mng ln sut đêm dài. Mê tâm mê tính, đu vì chp cái duyên l kia là chính mình, b quên chân tâm này nhn thinh sc bên ngoài. Đây là nhng điu sai lm ca k tu hành ngoi đo và ngưi thế gian, cho đến k hc pháp tam tha m đo. Thin tông cũng mê tâm này, chp phương tin ca Pht đến ni khiến cho giáo nghĩa m ra tám mi18 và các tha lp cho bn cơ19, vưt lên mt nim mà thoát xa ba tăng-kỳ, công lung tri đi kiếp, lìa bo sn náu lâu trong hóa thành, chùn chân trên đưng dài, đây là s sai lm ca tiu qu quyn cơ cho đến k chng đưc ý ch thin.

Do đó kinh Th Lăng Nghiêm nói: “Pht bo A-nan: Tt c chúng sinh t vô th đến nay tt c nghip chng điên đo t nhiên như chùm ác-xoa, nhng ngưi tu hành không th thành tu đưc vô thưng b- đ, cho đến riêng thành Thanh văn, Duyên giác, hoc thành ngoi đo, chư thiên, ma vương và quyến thuc ca ma, đu là do không biết hai th căn bn, tu tp sai lm cũng như nu cát mà mun thành cơm, gi s tri qua nhiêu kiếp trn chng th đưc.

Thế nào là hai th căn bn? A-nan, mt là căn bn sinh t vô th, như ngày nay ông cùng vi các chúng sinh ly cái tâm phan duyên này làm t tính, hai là niết-bàn b vô th vn là th thanh tnh, như hin ti thc tinh nguyên minh hay sinh các duyên, là ch nương gá ca các duyên. Do vì chúng sinh quên đi cái bn minh này, tuy sut ngày vn hành mà không t biết,ung vào trong các cõi”.

Gii thích: hai th căn bn này tc là hai tâm chân vng: Mt là căn bn sinh t vô th tc là căn bn vô minh, đây là vng tâm, đu tiên mê nht pháp gii bt giác cht khi mà có nim, cht khi tc là vô th, như con mt nhm thì thy hoa đm hin, ng say hay sinh mng m, vn không có lý do ca s khi đu, chng có ch sinh khi nht đnh, đu là t vng nim, chng phi do duyên gì khác. T đây tr thành nghip thc vi tế, tkhi chuyn thc, chuyn làm tâm năng tri, sau đó khi hin thc, hin ra cnh gii bên ngoài. Tt c chúng sinh đu dùng ba th thc: nghip, chuyn và hin này; khi s phan duyên trong ngoài là tâm t tính, do đây sinh t tương tc ly đó làm ci gc. Hai là niết-bàn b vô th vn là th thanh tnh, đây là chân tâm, cũng gi là t tính thanh tnh tâm, cũng gi là bn giác thanh tnh, vì không khi không sinh t th bt đng, sinh t chng làm ô nhim, niết-bàn chng làm thanh tnh, nên nói là thanhtnh.Cái th thanh tnh này là tinh nguyên ca tám thc vn t viên minh, vì theo nhim bt giác chng gi tính, như hang rng mc cho âm vang theo duyên phát ra tiếng, đây cũng như thế. Vì nó hay sinh ra các pháp nên lp ra hai th kiến phn và tưng phn, tâm cnh sinh ln nhau. Ch theo các duyên nhim tnh, đánh mt tính viên thưng này, như nưc theo gió mà gn sóng lăn tăn. Do chúng sinh này b gc chy theo ngn, mt b chìm đm mà không h hay biết, ung chu kh hư vng. Tuy chu cái kh hư vng mà s an lc chân tht hng còn. Dù qua li thăng trm nhưng bn giác bt đng, như nưc gn sóng vn không mt tính ưt, ch biết biến đi tâm làm cnh, ly ng làm mê, t mê chng cht mê, tri qua s kiếp nhiu như cát bi trong hư không, nhân mng sinh mng, mù mt trong đêm dài tăm ti.

Thế nên kinh nói: “Nên biết tt c chúng sinh t vô th đến nay sinh t tương tc đu là do không biết cái th tính tnh minh ca chân tâm thưng tr mà ch dùng các vng tưng”. Cái tưng này chng “chân” cho nên có luân chuyn. Do không rõ đưc chân tâm bt đng mà theo vng thc luân hi. Cái thc này vô th, chng lìa chân tâm, vn nơi cái chân nguyên vô tưng chuyn thành vng tưng ca hu tình, như gió làm dy sóng trên h lng, sóng tuy đng nhưng luôn luôn trong ngun bt đng. Như mt nhm sinh hoa đm trong hư không, hoa tuy hin nhưng chng lìa cái tính hư không, bnh mt hết, hư không trong sáng; sóng dng, h trong lng. Ch có mt chân tâm trùm khp pháp gii. Tâm này chng phi t mé trưc sinh, chng phi khong gia tr, chng phi v mé sau dit, lên xung chng đng, tính tưng nht như. Vì thế t xưa Tiên đc đã ly chân tâm này làm tông, lìa tâm này tu hành trn rơi vào lưi ma, riêng có s đc đu kt vào rng tà. Bi đng mi t tâm sâu xa càng thy đau xót nên Nh T Hu Kh20 truy tìm vng tâm này không th đưc, Sơ T ngay đó truyn y. A-nan chp cái vng tâm này nên b Như Lai qu trách. Như kinh nói: “Pht bo A-nan: Nay ông mun biết đưng tu xa-ma-tha mong ra khi sinh t, ta li hi ông. Khi y Như Lai giơ cánh tay sc vàng, co năm ngón tay ri bo A-nan: Ông có thy không? A-nan đáp: Thy. Pht bo: Ông thy cái gì? A-nan đáp:Con thy Như Lai giơ cánh tay, co ngón tay làm thành nm tay sáng ngi, chói tâm và con mt ca con. Pht bo: Ông dùng cái gì đ thy? A-nan đáp: Con và đi chúng dùng mt thy. Pht bo A-nan: Ông tr li vi ta: Như Lai co ngón tay thành nm tay sáng ngi, chói tâm và con mt ca ông; con mt ông thy đưc, còn ông ly gì làm tâm đ đi vi cái nm tay chói sáng ca ta.A-nan nói: Hin nay Như Lai gn hi tâm ch nào, con đem tâm suy nghĩ tìm kiếm, chính cái hay suy nghĩ tìm kiếm con cho là tâm. Pht bo: Sai ri, A-nan! Đó không phi là tâm ca ông. A-nan git mình, ri ch ngi chp tay đng dy bch Pht: Nếu không phi là tâm ca con thì gi đó là gì? Pht đáp: Cái y là cái tưng tưng nhng tưng gi di tin trn, nó làm mê m chân tính ca ông. Do t vô th đến đi nay nhn gic làm con, đánh mt cái tính bn lai thưng tr nênphi chu luân hi. A-nan bch Pht: Bch Thế Tôn, con là đa em thương yêu ca Pht, vì tâm yêu Pht nên con xut gia. Tâm con không phi riêng cúng dưng Như Lai mà mun phng s chư Pht và chư thin tri thc tri qua khp c Hng sa cõi nưc, con phát tâm đi dũng mãnh thc hành tt c pháp s khó làm đu dùng cái tâm này. Dù cho hy báng chính pháp, lui st thin căn cũng do cái tâm này. Nay Pht phát minh cái y không phi là tâm thì con thành không có tâm, như cây, như đt, vì ngoài cái hay biết này ra, con li không còn gì na. Ti sao Như Lai nói đây không phi là tâm, con tht s hãivà c đi chúng thy đu nghi hoc, xin Như Lai thương xót khai th cho k chưa ng.

By gi, Thế Tôn khai th cho A-nan và đi chúng mun cho h đưc th nhp vô sinh pháp nhn. Nơi tòa sư t Pht xoa đu A-nan và bo: Như Lai thưng nói s sinh khi ca các pháp ch là do tâm hin, tt c nhân qu thế gii, vi trn do tâm thành có th tính. Này A-nan, như trong các thế gii, hết thy s vt hin có, c đến ngn c, lá cây, si dây, ht nút, tra hi căn nguyên, đu có th tính, dù là hư không cũng có tên, có tưng; hung chi cái tâm sáng sut thanh tnh nhim mu, làm cho hết thy s vt có th tính mà t mình li không có th tính. Nếu lm chp cái tính hiu biết phân bit là tâm ca ông thìcái tâm này lý đáng phi lìa tt c s nghip ca các trnnhư sc, thinh, hương, v, xúc riêng có toàn tính. Như hin gi ông nghe pháp ca ta, đây là nhân âm thinh mà có phân bit; dù dit hết tt c thy, nghe, hiu biết, bên trong gi cái u nhàn, không biết, không nghĩ thì đó cũng còn là s phân bit bóng dáng pháp trn mà thôi.

Ta không bo ông chp đây không phi là tâm, nhưng ông hãy ngay nơi tâm suy xét chín chn, nếu lìa tin trn có tính phân bit, đó là chân tâm ca ông. Nếu tính phân bit lìa trn mà không có t th thì nó ch là s phân bit bóng dáng tin trn. Tin trn chng phi thưng tr, khi thay đi dit mt ri thì cái tâm nương vào tin trn y đng vi lông rùa, sng th và pháp thânca ông cũng thành đon dit, còn gì mà tu chng vô sinhphápnhn”.

Ngưi xưa gii thích: Cái hay tìm cu suy nghĩ tc là vng tâm đu có tác dng duyên l, cũng đưc gi là tâm nhưng không phi chân tâm.Vng tâm là bóng dáng trên chân tâm cho nên nói rng thân ông, tâm ông đu là vt hin ra trong diu tâm chân tinh diu minh. Nếu chp bóng dáng này là tht thì lúc bóng dáng này dit thì cái tâm này lin mt, cho nên nói nếu chp duyên trn tc thành đon dit. Đem vng tâm bám lytrn thành th; như bóng trong gương, như bt nưc: mê nưc chp sóng, sóng lng tâm dit; mê gương chp bóng, bóng dit tâm mt. Nếu tâm dit, thành ra đon kiến; nếu biết tính ưt không hoi, th gương thưng sáng thì sóng mòi vn không, nh tưng vn lng. Vìthế mi biết cnh trí ca chư Pht khp c hư không, thân tâm ca phàm phu như nh như tưng. Nếu chp ngn làm gc, ly vng làm chân thì lúc sinh t hin mi nghim biết chng tht. Vì vy c Thánh nói: Thy qung chng biết vàng, vào lò mi biết lm”.

Hi: Hai tâm chân vng, mi th có nghĩa gì mà gi là tâm? Ly gì làm th? Ly gì làm tưng?

Đáp: Chân tâm ly linh tri tch chiếu làm tâm, bt không vô tr làm th, tht tưng làm tưng. Vng tâm ly cái bóng duyên sáu trn làm tâm, vô tính làm th, phan duyên tư l làm tưng. Cái vng tâm duyên l hay hiu biết, phân bit này không có t th, ch là tin trn theo cnh có không, cnh đến lin sinh, cnh đi lin dit. Nhân cnh mà khi, toàn cnh là tâm; li nhân tâm soi rõ cnh, toàn tâm là cnh, đu không có t tính, ch là nhân duyên nên kinh Pháp Cú nói: “Ánh sáng không cónưc ch có hơi nóng mt tri, trong “m” không có sc ch có duyên khí thôi. Vì tri nóng bc, khí nóng do ánhsáng mt tri chiếu vào sáng lp lánh, xa trông thy như nưc, nhưng t tưng tưng sinh ra, ch là sóng nng thôi! sc tâm hư vng này cũng thế, ly t nghip làm nhân, ngoi trn cha m làm duyên, hòa hp dưng như hin sc tâm,nhưng ch là duyên khí”.

Cho nên kinh Viên Giác nói: “Vng nhn bóng dáng duyên sáu trn làm tâm tính ca mình”, thế nên biết tâm hay suy nghĩ này nếu không có nhân duyên thì không sinh khi, ch t duyên sinh. Pháp duyên sinh đu là vô thưng, như bóng trong gương vô th mà toàn do cnh bên ngoài, như trăng trong nưc không có tht, di hin vng tròn, nhn đó là tht. Tht quá ngu si!

Vì vy A-nan chp lm không căn c, đi vi by ch trưng tâm đu m mt chng rõ. Nh T liu ng mà chng tht mt li lin ng đo, t hn vì Nh T tìm cái tâm duyên l bt an này chng đưc lin ng chân tâm trùm khp mi nơi. Ng đây là tông, ngài lin tr thành ngưi kế tha T v đu tiên. A-nan nh Như Lai truy tìm phá v vng tâm cho đến đi vi tính cangũ m, lc nhp,thp nh x, thp bát gii, tht đi, mi mi đu tra hi tinh vi trit đ, ch là không, đu không có t tính; đã không phi nhân duyên t tha hòa hp mà có. Li không phi t nhiên vô nhân mà sinh, đu là ý ngôn thc tưng phân bit. Nhân đây cht ng chân tâm diu minh rng ln trùm khp, lin cùng vi đi chúng đu đt đưc tâm này, đng thinh tán thán Pht.

Do đó kinh nói: “Lúc y A-nan cùng vi đi chúng đưc Như Lai vi diu khai th, thân tâm thanh thn t ti. Đi chúng mi ngưi đu t biết tâm trùm khp mưi phương, xem mưi phương hư không như thy rõ vt trong lòng bàn tay. Tt c s vt trong thế gian đu là b diu minh nguyên tâm, tâm tính trùm khp mưiphương, tr li xem thy thân do cha m sinh ch như ht bi li ti bay trong mưi phương hư không kia, hoc còn hoc mt như bt nưc trong bin c có không t đâu chng rõ. A-nan đt đưc bn diu tâm thưng tr bt dit, chp tay l Pht vì đưc vic chưa tng có, A-nan trưc Như Lai nói k tán thán Pht:

Đc Thế Tôn bt đng, tng trì tính diu trm,

Nói pháp Th Lăng nghiêm tht hy hu trong đi,

Khiến chúng tôi tiêu dit vng tưng trong c kiếp,

Không tri qua tăng-kỳ mà chng đưc pháp thân.

Đây là ging như Sơ T “Trc ch nhân tâm, kiến tính thành Pht”.

Hi: Có văn kinh gì chng minh hành tưng ca chân tâm?

Đáp: Kinh Trì Thế nói: “B-tát quán tâm, trong tâm không có tưng tâm. Tâm này xưa nay vn chng sinh chng khi, tính thưng thanh tnh, khách trn phin não làm nhim nên có phân bit. Tâm không biết tâm, cũng chng thy tâm. Vì sao? Vì tâm này không, tính t không; cho nên ci ngun không có. Tâm này không có mt pháp c đnh, vì pháp c đnh không th có đưc nên tâm này vô pháp hoc hp hoc tan, tâm này mé trưc mé sau không tht có. Tâm này vô hình không th thy đưc là tâm chng t thy, chng biết t tính cho đến ngưi y by gi chng phân bit là tâm hay chng phi tâm, ch khéo biết tâm không có tưng sinh, thông đt tâm này tính vô sinh. Vì sao? Vì tâm không có tính quyết đnh, cũng không có tưng quyết đnh cho đếnchng có đưc tưng tâmcu, chng đưc tưng tâmtnh; ch biết tâm này tưng thưng thanh tnh”.

Kinh Đi Bát-nhã nói : “Đi vi tt c pháp tuy không có ch chp th nhưng hay to thành tt c s nghip”.

Gii thích: Nếu thu rõ t tâm thì vic gì cũng xong.

Hoc có k làm bám ly cnh gii trưc mt ri cho rng bên trong chng đ. Cho nên kinh Kim Cang Tam-mui nói: “B-tát quán bn tính tưng t cho là đy đ,nhiu tư l chng ích gì đi vi đo lý, lung làm lon đng b mt bn tâm vương”.

Lun Thích ghi: Vô lưng công đc chính là nht tâm. Nht tâm là ch nên gi là tâm vương; sinh dit đng lon trái vi tâm vương này không th quay tr li nên nói là b mt. Tâm là thng nhiếp tt c ti thng ca các pháp, không mt pháp nào tâm chng thng nhiếp, thng ng bn phương tám hưng, tt c đu tuân phc. Vì thế kinh Như Huyn Tam-mui nói: “Chng tìm cu các pháp, đây gi là thân mình”. Kinh Tiến Th Đi Tha Phương Tin nói: “Ngưi tht quán chân như tư duy tâm tính chng sinh chng dit, chng tr thy nghe, hiu biết, trn lìa lt c tưng phân bit”.

Hi: Tâm có th làm Pht, tâm có th làm chúng sinh, do thu rõ chân tâm nên thành Pht, vì chp vng tâm nên thành chúng sinh. Nếu thành Pht đu đy đ ngũ nhãn viên thông, ngũ m vô lu, cho nên kinh nói:Dit vô thưng sc s đưc “thưng sc”. Li nói: Diu sc trm nhiên thưng an tr. Li nói: Khéo hay phân bit các pháp tưng,chng tr thy nghe, hiu biết, xa lìa tt c tưng phân bit làm sao thuyết chân tâm?

Đáp: Nếu là vng tâm thì thy nghe cn phi nh nhân duyên mi có th sinh khi, như nói mt có đ chín duyên mi sinh... Nếu không có duyên sc không hòa hp, s kiến tính không do đâu đưc phát. Năm căn cũng như thế đu nương vào duyên khi, đây là duyên hp thì sinh, duyên tan thì dit, không có ch t ca chính nó, rt ráo tính không. Như bài k trong kinh Lăng Già nói:

Tâm là din viên gii

Ý như k ph ha

Năm thc là bè bn

Vng tưng là ngưi xem

Như ngưi đang múa hát

Theo tiếng ngưi v tay

V chm bưc đi chm

V nhanh bưc đi nhanh

Năm căn cũng như thế

Ch tùy theo ý chuyn.

Như nói: Thân chng phi nim luân tùy nim mà chuyn. Vì sao ý đa nếu sinh thì thân chuyn đng tác. Ý đa nếu dng bt thì căn cnh đu lng l; chân tâm thì không như vy, thưng chiếu, thưng hin, Thiết-vi không th che lp ánh sáng kia; khp c hư không, tri xanh không th che đưc th kia; chng thun chng tp, vn pháp không th n cái chân kia, chng tr, chng nương, trn lao không th làm biến đi tính kia, đâu nh đến tin trn phát huy đi cnh sinh hiu biết. T nhiên tch chiếu, linh tri trm nhiên không b mé. Thế nên kinh Th Lăng Nghiêm ghi: “Tht bo A-nan: Sáu căn như vy do tính giác minh kia chuyn thành minh giác mt tính sáng sut, dính vi cái vng mà phát ra hay biết. Do đó ngày nay ông nên lìa ti lìa sáng thì không có cái thy; lìa đng lìa tnh thì không có cái nghe; không thôngkhông bít thì cái ngi chng sinh;chng v chng nht thì cái nếm chng có ch phát; chng lìa chng hp thì cái biết xúc vn không; chng dit chng sinh thì cái hiu biết không gá vào đâu.

Ông ch đng theo mưi hai tưng hu vi đng tnh, hp ly, có v không v, thông bít, sinh dit, sáng ti, tùy nh đưc mt căn thoát niêm, tr vào bên trong, quay v tính bn chân, phát ra tính sáng sut bn lai; diu tính đã phát minh thì năm ch dính mc cũng đu đưc gii thoát.

Chng do tin trn mà khi tri kiến thì cái sáng sut chng đi theo căn, ch gi nơi căn mà phát ra; nhân đó sáu căn có th dùng thay ln nhau.

Này A-nan! Ông đâu chng biết, hin nay trong hi này A-nan-lut-đà mt mù mà thy, rng Bt-nan-đà không tai mà nghe, thn n Căng-già không mũi mà biết mùi, Kiu-phm-bát-đ lưi khác mà biết v; thn Thun-nhã-đa không thân mà biết xúc, do hào quang Như Lai ánh ra khiến cho ông y tm thi hin ra có thân, ch bn cht ca ông là gió thì thân th vn không có; các v Thanh văn đc dit tn đnh trong hi này, như ngài Ma-ha Ca-diếp, ý căn đã dit t lâu mà vn rõ biết cùng khp không do tâm nim.

Này A-nan, hin nay các căn ca ông nếu đã đưc gii thoát hoàn toàn, cái sáng sut trong tâm tính phát ra. Như thế thì các phù trn và các tưng biến hóa trongthế gian s vt đu tiêu mt, như nưc sôi làm tan băng, ngay đó lin hóa thành vô thưng tri giác.

A-nan, như ngưi thế gian đu gom cái thy nơi con mt, nếu bo nhm kín thì tưng ti hin ra, c sáu căn đu ti, đu và chân như nhau. Ngưi kia ly tay s khp ngoài thân, dù chng thy đu, chân nhưng biết rõ tng phn, cái hay biết vn đng như trưc kia.

Nhân sáng mà thy, nên khi ti thành không thy, ch không có sáng mà t phát cái thy thì nhng tưng ti hn không th làm m đưc. Căn trn đã sch làm sao tính giác minh li không thành nhim mu cùng khp”.

Gii thích: Như ngưi thế gian gom cái thy nơi con mt, trưc tiên nói v ngưi thế gian cho rng không có mt thì không thy. Nếu bo vi vàng nhm mt li thì không thy gì và năm căn như tai v.v... cũng tương t. Ngưi y dùng tay r trên thân, tuy chng nh đến mt mà cũng t biết, đây ging như chân kiến không nh ngoi cnh. Nói nh sáng mi thy, ti thành không thy, đây là lp li mt ngưi thế gian trông thy phi nh nhân duyên sáng ti, căn trn hòa hp mi thy đưc. Nói “khi ti thành ra không thy, ch không có sáng mà t phát ra cái thy”, đây là nói v lúc chân kiến, tính thy không phi là mt. Đã không l thuc mt sao li nh s sáng ti ca căn trn đ phát thì chng rõ mà rõ, chng thy mà thy, t nhiên tch chiếu linh tri đâu tng gián đon. V li các tưng thế gian sáng ti hư huyn n hin đâu th che lp đưc, do đó sáng cũng không hn là sáng và ti cũngkhông hn là ti. Cho nên nói các tưng ti trn không th làm m đưc, làm sao tính giác minh li không thành nhim mu cùng khp ?Vì vy, có hc nhân hi bc Tiên đc: Thế nào là đng Đi bi nghìn tay nghìn mt ? Đáp: Như ngưi trong đêm mò đưc chiếc gi.

Hi: V hành tưng ca vng tâm, có kinh văn nào làm chng?

Đáp: Theo kinh Thng Thiên Vương Bát-nhã Ba-la-mt, Pht dy: “B-tát thc hành Bát-nhã ba-la-mt tâm nim nên tư duy như sau tâm này vô thưng mà cho là thưng tr, nơi kh cho là vui, vô ngã cho là ngã, bt tnh cho là tnh, giao đng chng dng, biến đi nhanh chóng, kết s là ci gc đưa đến no ác, nhân duyên phin não làm hoi dit đưng lành. Cái không th tin này là ông ch ca tham, sân, si; trong tt c pháp, tâm là thưng th.Nếu khéo biết tâm chc chn hiu rõ tt c pháp, mi thứở thế gian đu do tâm to. Tâm không t thy, hoc thin hoc ác đu do tâm khi. Tâm tính xoay chuyn như cái vòng la, d chuyn như nga, hay thiêu đt như la, bc khi như nưc lũ. Quán sát như thế tâm nim chng đng, chng theo tâm vn hành, khiến tâm theo mình. Nếu hay điu phc tâm thì điu phc đưc các pháp”.

Kinh Đi Niết-bàn ghi: “Pht nói: Lành thay! Thin nam, tâm nếu thưng thì không th phân bit các sc xanh, vàng, đ, trng, tím v.v... Này thin nam, nếu tâm là thưng thì các điu nghĩ nh l ra khôngquên mt. Này thin nam, nếu tâm là thưng thì s đc tng l ra không tăng thêm. Li na, này thin nam, nếu tâm là thưng thì cũng không th nói đã làm, đang làm, s làm; nếu có đã làm, đang làm và s làm nên biết tâm này chc chn là vô thưng. Này thin nam, nếu tâm là thưng thì không có oán, thân, cũng chng oán, chng thân; nếu tâm là thưng thì không nên nói vt ca tôi, vt ca ngưi khác, hoc chết hoc sng; nêu tâm là thưng thì tuy có làm ra lý đáng chng tăng trưng. Này thin nam, vì nghĩa này nên biết tâm tính mi mi đu riêng khác nên biết vô thưng”.

Li hi: Ví d c th như thế nào?

Như trong kinh nói: “Tâm tính chúng sinh như kh vưn, tính kh vưn lao chao buông cái này bt cái kia. Tâm tính chúng sinh cũng thế, không ngng bám ly sc, thinh, hương, v, xúc, pháp”. Đây là ví d c th tđó suy nghim tâm chúng sinh như khi vưn leo trèo câycao lăng xăng lên xung, như bùn non theo dòng ra vào không ngi, nhưtrò chơi ca nhà o thut bày các th danh tưng đu hư di, như din viên xut hin trên sân khu trưc sau đu không tht.

Vì vy kinh Chính Pháp Nim X nói: “Tì-kheo kia li quán sát cái tâm kh vưn.Nhìn thy bn kh vưn nhy nhót không ngng, khp nơi kh vưn đu đi ti như trong rng cây, trên cành nhánh có hoa qu, trong hang hc quanh co, ch nào kh vưn cũng xôngti chng ngi. Tâm kh vưn cũng như thế. Năm no sai bit như các th rng, các đưng đa ngc, súc sinh, ng qu cũng như cây kia. Chúng sinh nhiu vô lưng như các cành cây, ái như hoa lá, phân bit ưa thích thinh, hương, v, xúc v.v... cho là trái cây. Hành là núi ba cõi, thân như hang hc, hành không chưng ngi, đó là tâm kh vưn. Tâm kh vưn này thưng đi khp cõi sinh t như đa ngc, ng qu, súc sinh. Tì-kheo kia nương theo thin đnh quán sát tâm din viên. Như xem ngưi din viên, ngưi này cm các nhc khí trình din đ trò trên sân khu; tâm din viên này cũng như thế, các th nghip hóa làm y phc, sân khu là năm no luân hi, các món trang sc là các th nhân duyên, các th nhc khí là trò trình din, vai trò ca ngưi din viên chính là trò đùa sinh t. Tâm là din viên bày ra đ trò, đó làsinh t dài dng dc, vô th vô chung. Tì-kheo li nương thin đnh quán sát tâm như con cá mc cn. Như con cá trong sông mc cn bùn, nếu như nưc sông chy gp sóng lon, sâu sông dòng nưc cun cun chy nhanh cá không th li đưc, nưc cun phăng lt c cây c, thế nưc mnh m không có gì ngăn chn khe nưc t trên núi và nưc sông cùng đ xung tht nhanh và mnh, con cá đy bùn kia có th bơi ra bơi vào, có th đi hay . Tâm ô nhim cũng như vy. trong con sông Dc gii chy nhanh sóng lon thưng có th ra vào, có th đi ”.

Lun Đi Trí Đ ghi: “Như Pht nói: K phàm phuthưng biết thân vô thưng nhưng không biết tâm vô thưng. Nếu phàm phu nói thân là thưng vn là sai lmmà cho tâm này là thưng, qu tht quá mê lm! Vì sao? Thân sng còn trong mưi năm, hoc hai mươi năm, còntâm này hng ngày đi qua sinh dit mi lúc mt khác, nim nim không dng. H tham dc sinh thì các loài sinh, tham dc dit thì các loài dit. Như vic huyn hóa không th có tht tưng. Vì vô lưng nhân duyên như thế nên biết tâm vô thưng. Đây gi là tâm nim x. Hành gi tư duy tâm này thuc v ai, ai sai khiến tâm này, quán sát ri không thy có ch, vì do nhân duyên tt c pháp hòa hp nên chng t ti, vì không t ti nên không t tính, không t tính nên vô ngã. Nếu vô ngã thì ai sai s tâm này”.

Ch Quán nói: “Tâm khi mt nim suy nghĩ tùy theo thin ác mà sinh ra thp đo. Mt là nếu tâm kia nim nim chuyên tham, sân, si, chng th đem tâm này thu nhiếp tr v, nh cũng chng ra.Ngày tháng chng cht càng nhiu mưi điu ác cc đ như Phiến-đ-la đây là khi tâm đa ngc đi vào ha đ. Hai là nếu tâm kia nim nim ưa thích nhiu quyến thuc như bin c nut các dòng nưc, như la đt cháy ci. Tâm khi mưi điu ác bc trung như Đ-bà-đt-đa d d đ chúng, đây là khi tâm súc sinh đi vào trong huyết đ. Ba là nếu tâm kia nim nim mun đưc danh tiếng lng ly khp nơi, ngưi ngưi ca ngi mà bên trong không có tht đc, gi b như hin Thánh, khi mưi điu ác bc thưng như Ma-kin-đ. Khi tâm qu như vy nênđi vào trong đao đ. Bn là nếu tâm kia nim nim luôn luôn mun hơn ngưi, không chu nhún mình, khinh ngưi, trng mình như chim bay cao nhìn xung và bên ngoài t ra có nhân, nghĩa, l, trí, tín, khi thin tâm bc thưng s đi vào A-tu-la đo. Năm là nếu tâm kia nim nim ưa thích dc lc thế gian, mun thân thi tha này sung sưng, mun tâm ngu si này tha thích. Đây là khi nim tâm cp trung bình, s đi vào nhân đo. Sáu là nếu tâm kia nim nim biết cái kh ca ba điu ác, kh vui ca thế gian ni tiếp nhau, cõi tri mi thun vui. Đem cái vui cõi tri đ chiết phc s thô ác. Thin tâm cp cao này đưa đến thiên đo. By là nếu tâm kia nim nim mun đưc uy thế ln, thân ming ý đu khéo điu phc, phát tâm làm ch dc gii s dn đến Ma-la đo. Tám là nếu tâm kia mun đưc trí tu sáng sut, bin tài, qung bác, phát tâm thế trí như vy s đivào Ni-càn đo. Chín là nếu tâm kia vưt ngoài s che lp ca ngũ trn và lc dc, cái vui ca tam thin như sui mát, nim vui này tràn ngp trong lòng. S phát tâm thanh tnh này s dn đến sc, vô sc đo. Mưi là nếu tâm kia biết thin ác xoay vòng, k phàm phu đam mê điu mà hin Thánh qu trách, phá điu ác nh tnh tu, tnh tu là do tnh thin, tnh thin là do tnh gii, đi vi ba pháp này vn luôn khao khát. S phát tâm gii thoát này đưa đến Nh tha đo. Mưi th tâm trên hoc trưc khi tâm sai quy, hoc trưc khi tâm chính đáng hoc tâm sai, tâm đúng cùng khi, ví như voi, cá,gió làm đc nưc h. Voi ví cho các điu quy t bên ngoài mà khi. Cá ví cho s ni quán yếu kém b kiến chp nh biên làm xao đng. Gió là ví cho bên trong và bên ngoài hp vi tp uế cùng làm vn đc. Chín loi tâm trưc là sinh t, như con tm t trói; mt tâm sau cùng đó là niết-bàn, như con nai chy mt mình, tuy đưc gii thoát nhưng chưa đy đ Pht pháp, biết rõ tam gii không có lý khác ch do vng tâm sinh, vng tâm là ci gc ca tám th điên đo21 làm ngun ci ca bn lưu22, nhanh như đin chp, mnh như cung phong cht dy trn lao, tuôn chy nhanh và mnh như dòng nưc,nung nu phát sinh năm dc, gp hơn vòng la xoay. Đây là do kết cu bn ma23, chy theo mưi s24, chìm đm dưi đáy sông nh t25, lao vào la đ bát kh26, say sưa không biết gì đến ht châu trong áo, lung chu gian kh tìm kiếm ht châu lún trong trán, ri t mình bun bã th than mt cách vô ích... Tt c đu là do vng tâm, mê cái chân giác này ch rt cuc nào có mt mát gì đâu?”

Phn văn kinh đưc dn chng trên đây, như kinh giáo nói v hai tâm chân vng, v nghĩa thì dưng như có phân ra hai th, nhưng tr v tông thì không khác. Sao thế? Chân tâm là đng trên mt lý th, vng tâm là căn c trên tưng dng. Nay do lý hng là tâm nên không th đưc tâm tưng, tâm hng là lý nên chng đng tâm tưng như nưc là sóng, chng phi tưng sóng; sóng là nưc chng hoi tưng sóng. Đây là vì đng tnh chng có b mé, tính tưng mt ngun. Ngay tâm phàm mà là tâm Pht, quán thế đế mà thành chân đế. Do đó kinh Hoa Nghiêm nói: “B-tát ma-ha-tát quán tt c pháp, đu ly tâm làm t tính, như thế mà tr”. Nếu nhiếp cnh là tâm, đây là thng nghĩa thế tc. T tính ca tâm là chân như, đây là thng nghĩa ca thng nghĩa. Như thế mà tr, ly vô s đc làm phương tin nên song chiếu chân tc vô tr tr.

 


15Đạt-ma: (?-528/536) Tổ thứ 28 của Ấn Độ, là Sơ tổ thiền tông Trung-quốc.

16Phó đại sĩ (497-569) là ngài Thiện Huệ Phó Hấp, cư sĩ Trung-quốc, sống vào đời Lương thuộc Nam triều, người Chiết giang, ngài cùng Bảo chí (Chí công) được tôn xưng là hai đại sĩ đời Lương.

17Thiên Thân, còn gọi Thế Thân (S: Vasubandhu) Đại luận sư Ấn Độ, sống khoảng thế kỷ thứ 4-5, người nước Kiện-đà-la thuộc bắc Ấn Độ, là em của ngài Vô Trước (Asanga) Sư soạn nhiều luận và sách chú thích đặt nền tảng cho phái Du-già thuộc Phật giáo Đại thừa.

18Tám mối (bát giáo) là bốn giáo hóa nghi: Đốn, tiệm, bí mật, bất định và bốn giáo hóa pháp: tạng, thông, biệt, viên.

19Bốn cơ: Bốn căn cơ có thể nhận được giáo pháp. Đó là nhân thiên cơ, nhị thừa cơ, bồ-tát cơ, Phật cơ.

20Huệ Khả: (487-593) Tổ thứ hai của thiền tông Trung-quốc, sống vào thời Nam Bắc Triều, người Lạc Dương, Hà Nam, họ Cơ, tự Thần Quang, hiệu Tăng Khả.

21Bát đảo: Tám thứ điên đảo mà phàm phu và hàng nhị thừa mê chấp, Phàm phu chấp pháp hữu vi sinh diệt là thường, lạc, ngã, tịnh; nhị thừa chấp pháp vô vi niết-bàn là phi thường, phi lạc, phi ngã, phi tịnh. Gọi chung là tám thứ điên đảo.

22Bốn lưu (Cg Tứ bộc lưu, S: Catvara Oghah): Bốn thứ phiền não mạnh như dòng thác lũ cuốn trôi các thiện căn của loài hữu tình. Đó là dục lưu, hữu lưu, kiến lưu, vô mimh lưu.

23Bốn ma: Bốn thứ ma cướp đi sinh mạng và huệ mạng của con người. Đó là ngũ ấm ma, phiền não ma, tử ma, thiên ma.

24Mười sử (mười triền): Mười món phiền não do nương vào tham sân si mà khởi, tương ưng với tâm nhiễm ô tạo thành các ác hạnh, trói buộc chúng sinh trong sinh lử. Đó là vô tàm, vô quý, tật, xan, hối, miên, điệu cử, hôn trầm, phẫn, phú.

25Nhị tử: Phần đoạn sinh tử, biến dịch sinh tử.

26Bát khổ: Tám thứ khổ: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, cầu bất đắc khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, ngủ ấm xí thạnh khổ.

Comments

Popular posts from this blog