LI GII THIU

 

Bin giác lng trong, sch hết thi vi danh tướng. Bi thc tình dđộng, tưởng niđiên đảo, khiến chúng sanh lưđãng trong sóng thc, sinh t tiếp ni bt tn. Thế nên biết mt nim quên tánh giác, muôn kiếp trm trì nơi tăm ti, ti lui trong d loi. Kh thay! Kh thay!

Chính nơđây, đấng Đại giác xut thế ch vì cu vt chúng sinh, m bày diu ch, vch ra ch vng nhim mê tình. Chư T đến cõi này chng ngi nh đinh tháo cht, cũng vì mun dn dt chúng nhân vượt qua b kh trm luân. Các Ngài gióng lên tiếng chuông đại t, thc tnh chúng hu tình, dng li nhng gì mê đảo.

T nhân duyên đó, ngài Vĩnh Minh Diên Th là bĐạo sư ca nhân thiên, th hi Trung Hoa vào cuđờĐường. Ngài ch ra kho diu kiến vô kiến, phơi bày bí tng viên văn bt văn, nêu cao gương sáng Tông Cnh, khiến người chưa biết, biết rõ cái chân tri vô tri, người chưa hiu có th hiu ra và thành tđại gii vô gii. Đây qu là mt viên bo châu vô giá, đích thân ngài trao tng đến tng người. Tht là hân hnh cho khách hu duyên!

Nay đây, các hành gitrong Tông môn, mt b mun nêu cao ngđuc thin tông, làm sáng r di hun mđời ca bc Tông sư, ni nm luân lưu ngun mch Pht T. Bng tt c lòng quy ngưỡng. Ni sưTu Đăng và Hân Mđã dn hết tâm lc trí lc vào tác phm này, chuyn dch Vit ng, nhng mong đờđờđược kết duyên trong hi Pht, cùng tt c chúng sanh đồng vào bin giác.

Trân trng và thành ý, tôi kính cn ghi li gii thiu.

 

Thin vin Thường Chiếu, ngày 24/06/09

Hân Định Sa-môn THÍCH NHT QUANG

 

 

TÔNG CNH LC

 

 

QUYN 1

 

LP CHÍNH TÔNG

 

 

Chư T nêu bày chân lý thin, truyn chính tông bng s im lng khế hi. Đức Pht phô din Giáo môn, lđại ch bng li nói, bc hin Thánh đi trướđều vâng theo, người sau hướng v. Thế nên, trước tiên xin nêu ra chương Tông Ch. Vì có nghi nên hi và vì gii quyếđiu nghi nên đáp. Nh có hi mà nghi tình m ra và nh đáp mà diu gii thm phát sinh, ch gi là Viên tông này khó tin, khó hiu, đây là li nói bc nht, dành cho căn cơ ti thượng. Nếu tm dùng li nói thì không th làm tiêu tan tình chp. Nhân ngón tay ch được thy mt trăng, không gì chng phi là môn phương tin, được th quên by, t hp vđạo thiên chân. Kế đến là chương VĐáp. Ch vì đương thi mt pháp hiếm gđược bđại cơ đại dng, xét thđa phn tri thc cn ct, tâm tính thô phù, căn khí kém ci, trí tu h lit, tuy biết có ch hướng v tông ch, vđáp quyết nghi để tiêu dn hoc chướng. Vì mun cho người vng tin nên phi nh đến s chng minh, dn chng rng rãi li tht ca Pht T, thm hp vđạđạo viên thường, chúng tôi góp nht yếu ch trong khp các kinh lun, viên thành chân tâm quyếđịnh. Sau cùng là chương DChngĐem ba chương này nht quán biên son tng quát đầđủ  đây.

Hi: Tiên đức nói: “Nếu dy ta lp tông, định ch cũng như tìm lông rùa sng th”. Bài k trong kinh Lăng Già nói:

Tt c pháp chng sinh

Chng nên lp tông này.

Vì sao li nêu tên chương này?

Đáp: Đây là li nói xóa b s tr ngi. Nếu là tông ca vô tông thì tông và thuyếđều thông, c Phđều m ca phương tin, Thin tông cũng vch mt con đường, cn yếu là không nên chp vào phương tin mà mê đại ch quan trng và cũng không nên phế b phương tin mà bt dt nói năng. Nhưng trước căn cơ không có giáo pháp, sau khi có giáo pháp thì không có cái chân tht. Gi s có mt gii, mt ng đều là rơi vào vic v sau, thuđầu th hai. Cho nên luĐại Trí Độ nói: “Dùng mt Pht xem khp tt c s vt trong mười phương tt c cõi nước còn chng thy không hà hung là có pháp, pháp không rt ráo hay phá điên đảo, khiến cho B-tát thành Pht. Vic này còn không th được hung chi làphàm phu điên đảo chp có pháp”.

Ngày nay y theo li chư Pht dy, căn c theo người hc ngày nay, tùy theo ch thy phát minh tâm tính, lp tâm làm tông. Do đó đức Pht Thích-ca  Độ nói:“Pht nói tâm là tông, vô môn là pháp môn”.Sơ t B-đề-đạt-ma ca Trung Hoa đã nói: “Đem tâm truyn tâm chng lp văn t”. Như thế các đức Phđờđời trao cho nhau yếu ch này, chư T sư truyn nhau cái tâm này. Trên đây là căn c vào ch lp tông ch ca chư Pht. Li chư hin Thánh lp tông th, như hòa thượng Đỗ Thun1 y c kinh Hoa Nghiêm lp th t tính thanh tnh viên minh. Đây tc là th pháp tính trong Như Lai tng. T xưa nay tính t đầđủ trong ô nhim mà không nhơ, tu sa mà không sch nên gi là t tính thanh tnh. Tính th soi chiếu khp nơi ti tăm không sót nên gi là viên minh, li theo dòng lưu chuy trên nhim mà không nhơ, nghch dòng lưu chuyn tr nhim mà không sch; cũng có th  trong Thánh th mà chng tăng,  nơi thân phàm mà chng gim. Tuy có n hin khác nhau nhưng không khác bit, phin não che lp thì th tính này n mt, trí tu khai sáng thì th tính này hin hin. Không phi do sinh nhân sinh ra, ch do liu nhân sáng tĐó là th ca t tâm ca tt c chúng sinh. Linh tri chng m, lng soi chng sót. Không nhng là tông ca kinh Hoa Nghiêm mà cũng là tt c giáo th.

Lun PhĐịa lp mt pháp gii th thanh tnh. Lun nói: “Pháp gii thanh tnh là t th chân tht ca tt c Như Lai, t tính thanh tnh t vô th đến nay đầđủ tt c công đức tính tướng vượt hơn con s cc vi trn mười phương thế gii. Vô sinh, vô dit như hư không, khp c hu tình, bình đẳng đều có như nhau, cùng vi tt c pháp chng phi mt, chng phi khác, chng phi hu, chng phi vô, lìa tt c tướng, tt c phân bit, tt c danh ngôn đều không th đạđược, ch được chng đắc bi Thánh trí thanh tnh. Hin bày nh không vô ngã, chân như là t tính, chư Thánh phn chng, chư Pht viên chng. Pháp gii thanh tnh này là diu tâm chân như, là ngun bin qu ca chư Pht là đất tht tế ca qun sinh”. Đây là lp tên khác ca tông, chng phi có th riêng, có người nói: Tông là tôn. Vì ly tâm làm tông nên nói “Trên tri dưới tri ch có ta là tôn quý”. Hoc có người nói: Th là tính - Ly tâm làm th nên nói biết tt c pháp là tâm t tính. Hoc nói: Người trí cho tâm là trí, tc là cái dng ca bn tính tch chiếu - Do đó nói là “T giác thánh trí hay Ph quang minh trí” v.v…

Nếu căn c nghĩa dng mà phân tích thì th, tông, dng khác nhau, nếu hi quy bình đẳng thì mđạo không sai bit. Vì thế Hoa Nghiêm Ký Vn nói hai v Đẳng giác và Diu giác hoàn toàn đồng vi Như Lai ph quang minh trí, kết thành “nhp th” cho nên hi này nói Đẳng giác và Diu giác đềđồng vi Ph quang minh trí, tc là nghĩa hi quy.

Hi: V lý Đẳng giác đồng vi Diu giác là đúng ri. Ngoài Diu giác, có gì đồng vi Như Lai Ph Quang Minh Trí?

Đáp: Nói Đẳng giác, Diu giác là nói v ngôi v, Ph quang minh trí không thuc nhân qu, trùm sut nhân qu, nó t t giác thánh trí siêu tuyt nhân qu. Thế nên kinh Lăng Già ngoài v Diu giác li lp thêm v T giác thánh trí. Cũng như Pht tính có nhân có qu, có nhân nhân có qu qu. Do nhân gi ly nhân là nhân Pht tính, do qu gi ly qu là qu Pht tính. Như vy Pht tính chng phi nhân, chng phi qu, Ph quang minh trí cũng như thế. Th bt nhân qu, là ch nương ca nhân qu thì qu mđạt ti cu cánh, cho nên nói Như Lai ph quanh minh trí hoc có người gi là bn vì ly tâm làm gc.

Niết-bàn S nói: “Ý ch ca niết-bàn là các hnh đều ly tâm đại niết-bàn làm gc. Gc lp thì đạo sinh như không có cương mc thì không lđược, không có các chi tiết thì không có gì ph tr. Tông là gc nên tông cđược dng lp”.

Hi: Nếu mun sáng t tông ch cn thun nêu cao ý T sư đâu cn phi dn chng ngôn giáo ca chư Pht và B-tát để làm ch nam, cho nên trong Tông môn nói: Mượn con cua làm mt (trường hp con thy mu) mà chính mình không có phn, ch thành ông thánh ch nghĩa ch không vào được T v.

Đáp: T xưa chng phi là chư T mt b không cho xem kinh giáo, nhưng ch lo người hc không hiu rõ li Pht dy, chy theo văn t sinh hiu biết rđánh mt ý Pht. Để giúp cho sơ tâm hoc nh li nói mà đạđược ý ch không to tác s đối tr gia tâm cnh, ngay đó lin liu sut Pht tâm thì cũng chng có li gì. Như hòa thượng Dược Sơn2 suđời xem kinh Đại Niết-bàn, tay không ri quyn sách kinh. Mt hôm đệ t hi ngài:

- Hòa thượng bình thường không cho người hc xem kinh, ti sao hòa thượng li xem?

Sư đáp: Ch là để che mt.

Đệ t xem được không?

Sư đáp: Nếu ngươi xem thì da trâu cũng phi thng!

Li như v T sư th nh Độ là Ngài Ma-ha Ca-diếđượđức Pht Bn Sư Thích-ca Mâu-ni truyn tâm đầu tiên và tr thành Sơ T, các t sư ln lượt truyn nhau cho đến v t th sáu  Trung Hoa, đều là đệ t Pht. Nay dn li dy ca Bn Sư ch dđệ t đểlàm cho mi người nhân li nói được gđạo, thđược pháp, biết tông, không rong rui tìm kiếm bên ngoài, chính mình sáng t ý Pht, được yếu ch lin vào T v. Ai đâu đàm lun v môn đốn tim, thy tính lin chng viên thông còn nêu ra địa v trước sau ư! Nếu như thế, nào có gì trái nhau!

Như t hai mươi tám v T sư Độ và T th sáu  Trung Hoa cho đếđại sư Hng Châu Mã T3, quc sư Nam Dương Tu Trung4, thin sư Nga H Đại Nghĩa5, thin sư Tư Không Bn Tnh6 v.v... đều bác thông kinh lun và viên ng t tâm, khi dđồ chúng các v đều chân thđem kinh lun dn chng, hoàn toàn không đem tri kiến riêng ch v hư di. Thế nên đóa hoa chân tht vượt thi gian, gió mưa không th làm rơi rng. Dùng Thánh ngôn làm định lượng, tà ngy khó có th làm dđổi, dùng chí giáo làm ch nam, ch nương da có căn c. Do đó hòa thượng Khuê Phong7 nói: “Th t ca các tông là Pht Thích-ca, kinh là li ca Pht, thin là ý ca Pht”. Tâm và ming ca chư Pht không h trái nhau, chư T truyn nhau ci r do chính Pht trao li, B-tát to lun trước sau ch nhm trin khai kinh Pht, hung chi t ngài Ca-diếp8 đến ngài Cúc-đa9 truyn bá rng rãi gm c ba tng rđến các T sư Mã Minh10, Long Th11 viết lun gii thích kinh s đến mười muôn k, theo s quán sát hoàn cnh để giáo hóa chúng sinh không có l li c định. Do đó h xưng là tri thc thì pháp nhĩ cn phi thu t li Phn kh t tâm. Nếu không tương ưng vi viên giáo nht tha liu nghĩa thì dù chng Thánh qu cũng chng phi cu cánh. Nay xin ghi chép vài điu dn chng.

Đại sư Hng Châu Mã T nói: “Đại sư Đạt-ma t Nam n sang ch truyn pháp đại tha nht tâm, dùng kinh Lăng Già để n tâm chúng sinh vì e người ta không tin pháp nht tâm này”.

Kinh Lăng Già nói: “Pht nói tâm là tông, vô môn là pháp môn”.

Vì sao Pht nói tâm là tông? Pht nói tâm là tc tâm tc Pht. Nay nói tc là tâm ng nên nói Pht nói tâm là tông.

Vô môn là pháp môn nghĩa là đạđược bn tính không thì không còn mt pháp, tính t nó là ca vào (môn), tính không có tướng nên cũng không có môn; chonên nói: Vô môn là pháp môn, cũng gi là không môn, hoc sc môn. Vì sao? Vì không là pháp tính không, sc là pháp tính sc. Không hình tướng nên gi là không, tri kiến vô tn nên gi là sc. Do đó kinh nói: Như Lai sc vô tn, trí tu Pht cũng thế. Tùy sinh vào các cõi li có vô lượng môn tam-mui, xa lìa tình chp thy biết trong ngoài, cũng gi là môn tng trì, hoc gi là Thí môn. Thí môn nghĩa là không nghĩ nh các pháp thin ác trong ngoài cho đến thđều là các môn ba-la-mt. Sc thân Pht là cái dng ca tht tướng Pht.

Kinh nói: “Ba mươi hai tướng tt, tám mươi v đẹđều t tâm tưởng sinh, còn gi là pháp tính gia dim (ánh sáng pháp tính) hoc pháp tính công huân”. Lúc B-tát thc hành bát-nhã la trí đốt cháy mi vt trong ngoài ba cõi đều sch hết mà trong y không tn hoi mt cng c, bi tướng các pháp là “như”. Do đó kinh nói: “Chng hoi nơi thân mà tùy nht tướng”. Nay biết t tính là Pht, trong tt c thđi, đứng, nm ngi không có mt pháp có th được, cho đến chân như cũng chng thuc vào tt c tên gi và cũng không vô danh. Vì thế, kinh nói: “Trí chng đắc hu vô, trong ngoài chng tìm cu, mc cho bn tính kia và cũng chng có cái tâm mc cho tính kia”.

Kinh nói: “Các loi ý sinh thân, ta nói là tâm lượng. Tc là tâm vô tâm, lượng vô lượng, không tên mi là tên tht, không cu mi là tht cu”.

Kinh nói: “Cu pháp nên vô s cu, ngoài tâm không riêng có Pht, ngoài Pht không riêng có tâm, chng gi điu thin, chng làm điu ác, nhơ sch c hai bên đều không dính dáng, không t tính, ba cõi ch là tâm”.

Kinh nói: “Sum la vn tượng là ch n ca mt pháp, thy sđều là thy tâm, tâm không t là tâm, nhân sc nên nhn ra tâm; sc không t là sc, nhân tâm nên có sc”. Do đó kinh nói: “Thy sc tc là thy tâm”.

Quc sư Nam Dương Tu Trung nói: “Pháp thin tông nên căn c li Pht dy nht tha liu nghĩa, phù hp vi bn nguyên tâm địa ln lượt truyn trao đồng vi Phđạo, không nên nương vào vng tình và giáo bt liu nghĩa càn bướng ly làm kiến gii, gieo nghi lm k hu hc không được li ích gì c. Dù nương theo bc thy lĩnh th tông ch nếu phù hp vi giáo liu nghĩa thì nên theo đó hành trì, nếu phù hp vi giáo bt liu nghĩa thì chng th chp nhn. Ví như trùng trong thân sư t t ăn tht sư t, chng phi thiên ma, ngođạo có th phá dit Pht pháp”.

Khi y có thin khách hi: Cái gì là tâm Pht?

Sư đáp: Tường vách, gch ngói, các vt vô tình đều là tâm Pht.

Thin khách hi: Như vy là trái vi kinh ri! Kinh nói: Lìa các vt vô tình như tường vách, gch ngói gi là Pht tính. Nay sư nói: Tt c vt vô tình đều là tâm Pht, chưa biết rõ tâm và tính là khác hay không khác?

Sư đáp: Người mê thy khác, người ng thy không khác.

Hi: Kinh nói: “Này thin nam, tâm chng phi Pht tính, Pht tính là thường, tâm là vô thường”, nay sư nói không khác, chưa rõ ý này như thế nào?

Sư đáp: Ông t y theo li mà chng y theo nghĩa. Ví như mùa lnh nướđông li thành băng, đến mùa nóng băng tan thành nước. Lúc chúng sinh mê, kết tính thành tâm, lúc ng thì ci m tâm thành tính. Ông nht quyết chp vt vô tình không phi là tâm thì l ra kinh đin không nên nói ba cõi ch là tâm. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nên quán pháp gii tính, tt c ch do tâm to”. Nay tôi th hi ông vt vô tình  trong hay  ngoài ba cõi? Li là tâm hay chng phi tâm. Nếu chng phi tâm thì kinh không nên nói ba cõi duy tâm. Nếu là tâm li cũng không nên nói vô tính. Ông t trái vi kinh, còn tôi không trái.

Thin sư Đại Nghĩ Nga H nhân được chiếu ch vua mi vào cung, ngài hi các v đại sư  kinh thành: Các đạđức ly gì làm đạo?

Có người tr li: Ly tri kiến làm đạo.

Sư bo: Kinh Duy-ma-ct nói: “Pháp lìa thy nghe hiu biết”, sao li ly tri kiến làm đạo?

Có ngườđáp: Vô phân bit là đạo.

Sư bo: Kinh nói: “Khéo hay phân bit các pháp tướng, nơđệ nht nghĩa bđộng”, ti sao cho vô phân bit là đạo?

Hoàng đế lhi: Thế nào là Pht tính?

Đáp: Chng lìa câu hi ca b h.

Hoc có ngườđáp: Ch thng sáng t tâm, hoc phá chp nhđạo, dùng nhiu phương cách, chđịnh bí mt, vn dng trí vô đắc, khut phc tâm hu lượng, v.v...

Thin sư Bn Tnh  núi Tư Không bo các đạđứ kinh thành: “Các v ch chp tâm”. Cái tâm này đều do tin trn mà có, như bóng trong gương không có thc th. Nếu chp tht có thì đánh mt bn nguyên luôn luôn vô t tính.

Kinh Viên Giác nói: “Lm nhn bđại làm thân tướng ca mình, bóng duyên sáu trn làm tướng ca t tâm”.

Kinh Lăng Già nói: “Chng rõ tâm và duyên thì s sinh hai th vng tưởng, rõ được tâm và cnh thì vng tưởng chng sinh”.

Kinh Duy-ma-ct nói: “Pháp chng phi thy nghe, hiu biết”.

Xin dn ba kinh để chng minh cho l chân tht này.

Đệ t ca Ngũ T là đại sư Trang Nghiêm mđời dđồ chúng ch đem bn câu cui ca bài tng ca ngi Pht ca trưởng gi Bo Tích trong kinh Duy-ma:

Chng nhim thế gian như hoa sen

Thường khéo nhp vào hnh không tch

Đạt các pháp tướng không quái ngi

Cúi ly hư không vô s y.

Người hhi: Đây là li ca Pht nói, tôi muđược nghe li ca chính hòa thượng.

Sư nói: Pht nói tc là ta nói, ta nói tc là Pht nói. Thế nên Sơ T t phương tây đến khai m thiđạo, mun truyn tâm n phi nh vào kinh Pht, lkinh Lăng Già để chng minh. Nên biết là phi t giáo môn mi ngăn dđược s hy báng ca ngođạo và được người sau tha nhn. Dòng dõi nhà thin hưng thnh, tông phong huyn diu khp nơi. Thế nên người sơ tâm mi hc chưa t tnh phát, nếu chng nh chính tông ca Thánh giáo thì nh vào đâu tu hành tiếđạo, gi s không t sinh vng kiến thì cũng là gp toàn tà sư, cho nên nói mt ta vn chính, do ông thy mà tr nên tà. Chín mươi sáu phái ngođạĐộ đều thuc loi này. Vì thế ta nên biết nếu không có dây mc ca th mc thì không th ngay thng lý không có giáo thì không th trn vn. Nhng điđã dn trên đều là đại thin tri thc, bc tông sư t ti, hàng c phách trong vườn thin,là gương sáng ca ca T, dy mt li mà gió bay chp nhoáng, nói mt tiếng mà núi nghiêng bin cn, khiến cho vua chúa sm chiu hết lòng kính ngưỡng, tùng lâm gi ly làm qui tđể người sau vâng theo, hoàn toàn không phi phát xut t tâm mình, trái vi li Pht.

Như có gii thích nhng điu nghi, loi b hư ngy vi mđích là hin bày tính và làm sáng t tông, mi mđều dn kinh văn, trình bày ý Phđầđủ. Như thế để cho s lưu truyđược ni tiếp mãi mãi cho đếnsau này, gia phong không đi xung. Nếu không như thế thì đâu th tiếp tc hưng thnh cho đến ngày nay, như thế pháp lđã chng nghim không di. Nếu mun nghiên cu Pht tha, truy tìm bo tng, nht nhđều nên tr v chính mình, mi mi li khiến thm hp chântâm. Ch đừng nên trên nghĩa chp văn, theo li nói sinh (hiu biết) kiến chp, ngay đó tìm tòi ý ch qua li nói khế hp vi bn tông, thì trí vô sư s hin tin, đạo thiên chân không m mt.

Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Biết tt c pháp tc là tâm t tính, thành tu tu thân, được giác ng không nh người khác”.

Chúng ta nên biết giáo pháp có công năng tr đạo, sơ tâm đâu có th tm quên vì biết rõ ràng v s li ích vô biên ca giáo pháp nên xin sưu tm ghi chép. Khi nói đến tông ch ch phù hp vi căn cơ đốn ng như mt tri chiếu sáng núi cao, như con nga gii trông thy bóng roi. Vì thế hòa thượng Đơn Hà nói: “Gp nhau không trình ra, nêu ý lin biết có”.

Ngày nay Tông Cnh còn chng đợi nêu ra ý ch lin t biết có (tri hu). Do đó kinh Th Lăng Nghiêm nói: “Rõ biết sáng sut hoàn toàn không do tâm nim”. Nhướng mày, chp mđã là ngăn che.

Tiên đức có bài tng:

Vn là thêm mt câu,

Chp mt lin sai trái

Nếu hi ý ch Tào Khê12

Li chng đợi nhướng mày

Hôm nay vì ngườưa thích Pht tha song thc s chưa lãnh ng nên tm dùng Tông Cnh tr giúp hin bày chân tâm. Tuy mang văn ngôn diu ch vào đây nhưng cũng giúp cho c sáu căn cơ trung h, tùy theo đương nhân mi ngườđềđược li ích. Trăm sông tuy thm nhuđâu ngi s hàm cha bao la ca bin ln, năm núi dù cao vót chng ngăn mt tri chiếu soi khp. Vì căn cơ khác nhau nên s ưa thích chng đồng, nơi bn ca vào tuy khác nhưng khi thy cái nht chân thì không khác. Cũng như vic bt chim, mt mt lưới không th cho đó là cái lưới; vic tr quc gia, công lao  mt người nhưng không th cho rng mt người là mt quc gia.

Như lun NĐức ghi: “Mt git nước không th nu thành canh, mt mnh g không th làm nên nhà, mt cái áo không th gi là các th hình th, mt th thuc không th tr các bnh khác nhau, mt màu không th dùng làm la thêu ngũ sc, mt âm thinh không th hòa âm tiếng đàn cm st, mt li nói không th khuyên nhiđiu lành, mt gii không th ngăn nhiu ti li”.

Đâu nên ly làm l v s khác bit giđốn tim và mun khiến cho ch chuyên mt pháp môn.Cho nên nói vì mt người, nhiu người cũng như vy, như vì nhiu người, mt người cũng vy thôi, nào có như s hiu biết kém ci, tình thc phàm phu mà sinh kiến chp cc b đây tôi không ngi pháp môn rng ln như hư không, chng phi tướng, chng chng đối các tướng mà phát huy, t như pháp tính vô thân chng ngi các th thân lin hin. Nên đem nghĩa lc tướng để bao quát cái kiến chđon thường mi tiêu tan, dùng thp huyn môn dung thông tình chp th x mi dt bt. V li, nếu thđược mt nghe nghìn ngđượđại tng trì thì đâu phi mượn li nói và nhc công gii thích, như con thuyđưa người qua bến mê, người hướngđạo dn dt k lc li. H còn quan h đến ng ngôn, đối vi ch khai th ca viên tông đều là chưa rõ văn t tính ly tc là gii thoát, mê tính chân tht ca tt c pháp, hướng tâm ra ngoài nm bt pháp và khi kiến chp trên văn t. Nay tôi tr li dùng văn t để đối tr, ch ra cái chân tht. Nếu ng bn nguyên ca các pháp thì chng thy có văn t và cũng chng thy mt my may, mi biết tt c pháp là tâm t tính; như thế cnh trí dung thông, sc không đều tiêu mt, ngay lúc y t chng mé viên minh. Lúc th nhp mt pháp bình đẳng, li còn có pháp gì là giáo mà phi lìa, pháp gì là T mà đáng quí trng, pháp gì là đốn mà phi gi ly, phápgì là tim mà x b, nếu thế thì đều biết là thc tâm ngang trái sinh phân bit. Do đó chư Pht khéo lp bày quyn môn, các phương tin giáo thđầđủ phù hp các căn cơ, mđược kiến tính liđược vô tâm. Đó là lúc bnh hết thuc cũng chng dùng đến na, giáo quán đều bt.

Như bài k trong kinh Lăng Già:

Chư thiên và Phm tha (Thiên tha)

Thanh văn, Duyên giác tha

Chư Pht Như Lai tha

Ta nói các tha này

Cho đến có tâm chuyn

Các tha chng cu cánh

Nếu tâm kia dit tn

Không tha và k tha

Không có tha kiến lp

Ta nói là Nht tha

Vì dìu dt chúng sanh

Phân bit nói các tha.

Cho nên C đức nói: Mt khi mt nhm thì thy nghìn hoa bay lon x trong hư không, mt nim vng trong tâm s có Hng sa s sinh dit. Bnh nhm tr, hoa đốm tan hết, cái vng dt lin chng chân tht. Bnh bt thuc gim, băng tan còn nước. Thuc thn chín ln chuyn, đim st thành vàng. Mt li nói chí lýchuyn phàm thành Thánh. Tâm cung lon không hết, tâm cung lon hết là b-đề, gương tâm sáng sch xưa nay là Pht.

Hi: Qua nhng điu trình bày trên biếđượđại ý,sao li còn gii thích rng thêm  phía dưới?

Đáp: Bc thượng căn trí tu bén nhy do túc nghiđời trước va thy mt ch cđề mc là đã vào bin trí ca Pht, hoàn toàn dt sch hoài nghi, cht sáng t đại ch.Như vy mt li nói không gì chng tóm lược hết nhưng thu nhiếp không sót. Nếu xem hết mt trăm quyn cho đến nghĩa thú Hng sa như bo tng  Long cung hoc kim vă Linh Thu thì tuy nói cách khác nhưng đường li không khác, m ra trùm khp c pháp gii.

Trước tiên nói sơ lược, sau đó nói rng ch là nht tâm, trước sau đều là nht tế, trn không khác ý ch, nhưng khác vi tông trước, vì tông y nói là do mê tình vng khi th x. Người ch thy giy mc, văn t đâm ra ngán quyn sách dày cm, ch chp lng l vô ngôn, ưa thích tnh yếu, đều là mê tâm chy theo cnh, trái giác hp trn, chng thu sut bn nguyên cđộng tnh, chng đạđược ch khi ca mt (nht) và nhiu (đa). Thiên lch sinh khi kiến chp cc b ch s đa văn, như Tiu tha s pháp không, t như Ba Tun e ngi các pháp lành. Vì không đạđược tính chân tht ca các pháp cho nên theo các tướng chuyn rơi vào hu vô.Như kinh Đại Niết-bàn nói: “Nếu người nghe nói mt ch mt câu trong kinh Đại Niết-bàn, không tác tướng văn t, không tác tướng ngôn cú, không tác tướng nghe, không tác tướng Pht, không tác tướng nói. Nghĩa như vy gi là tướng vô tướng”.

Gii thích: Nếu nói tc văn t vô tướng là thường kiến, nếu nói ly văn t vô tướng là đon kiến. Nếu chp tướng hu, tướng cũng là thường kiến; nếu chp tướng vô, tướng cũng là đon kiến. Ch cn mđi tt c mi kiến chp thuc t cú bách phi tc, ly, đon, thường, yếu ch lin t hin bày. Ngay lúc th nhp vào Tông Cnh làm sao văn ngôn, thc trí có th tuyên nói ư?

Do đó Tiên đức nói: Nếu tìm kinh chân như liu tính không th nghe; nếu tìm pháp thì vào trong núi hi Ca-diếp, đại sĩ lĩnh y ti núi Kê Túc, vô tình chng cn cu áo giáp chuyên môn, đây há có th vn dng tâm thy nghe hiu biếđể tìm hiu cú nghĩa văn t? Nếu người t được tông, đạđược tính tuy có nghiên cu rng cũng chng thy tướng ca mt ch, không h khi s hiu biết trên ngôn t. Vì người mê tâm làm vt nên mi sinh ra cái thy trên giy mc này.

Cho nên Tín Tâm Minh nói:

Sáu trn chng xu

Lđồng Chính giác

Người trí vô vi

K ngu t trói.

Nếu thu suđiu này chc chn sáu trđều là chân tông, muôn pháp thđều là diu lý, đâu còn hn cuc nơi kiến gii hp hòi mà mê m đại ch! Há chng biết cnh gii bao la ca chư Pht và môn tác dng ca B-tát ư ? Vì thế, nên Long Vương  bin lđặt ra mười nghìn câu hi, Pht Thích-ca m ra tám muôn cđộ sinh, B-tát Ph Tu trình hai trăđiu nghi, B-tát Ph Hin giđáp hai nghìn luđề hùng bin. Như pháp môn Ph Nhãn ca kinh Hoa Nghiêm, gi s có người dùng lượng mc như bin ln và s bút như núi Tu-di viết mt câu trong mt nghĩa, mt nghĩa trong mt pháp, mt pháp trong mt môn, mt môn trong mt phm ca pháp môn Ph Hin này cũng chng được chút phn hung chi có th hếđược.

Như trong Kinh Đại Niết-bàn, Pht nói: “S giác ng ca ta v tt c pháp như mđất sinh cây c, còn nhng điu ta dy chúng sinh như lá cây trong tay, như ta thuyết pháp giáo hóa  Long cung B-tát Long Th tm thy có mt trăm mười vn xut hi thế gian,  bn cõi tri còn chưđược mt phn trăm”.

Giáo pháp y truyđếĐông độ (Trung Hoa), do đó nói là không đầđủ hếđược hung chi có nhng điu Pht chưa thuyết pháp? Đó là vô tn ý ch vi diu, trí thc nông cn không th biếđược. Pháp môn tính khi, tri gii kém ci làm sao xem thu như chim én, se s đâu lường được chí ca chim hng, chim hc; chú ếchtrong giếng đâu biếđáy bin xanh sâu thm; như sư t rng to còn chn cáo không th rng được; như hương tượng có sc chuyên ch mà la không th kham; như bo vt ca T-sa-môn k nghèo làm sao bng được; như kim xí điu bay xa chim thường không sánh kp! Ch theo tình thc khi kiến chp, ch chy theo vt mà đổi di ý, hoc nói hu nhưng không rõ không, hoc nói không mà không chp nhn hu, hoc nói đơn gin là cái mt (nht) ngoài cái nhiu (đa), hoc nói rng là cái nhiu ngoài cái mt; hoc lìa im lng mà chp ngôn ng, hoc lìa ngôn ng mà tìm im lng; hoc căn c vào lý  ngoài s, hoc dính mc vào s  ngoài lý, trn không có th ng viên tông t ti này. Nói rng chng phi nhiu; đây là cái nhiu trong cái mt; nêu ra sơlược chng phi là mt; đây là cái mt trong cái nhiu. Nói không chng đon, đây là cái không ca hu nói hu chng thường, đây là cái hu ca không. Hoc có nói cũng được, đây là nói trong im lng; hoc không nói cũng được, đây là im lng trong nói năng; hoc lý s tương tc cũng được, lý này là lý thành s, s này là s hin bày lý; hoc lý lý tương tc cũng được vì nht như không hai, chân tính thường dung hi; hoc s s tương tc cũng được, đây là s ca toàn lý mi mi vô ngi; hoc lý s bt tc cũng được vì lý ca toàn s chng phi s s y chng phi năng y nên chng n chân đế; do s ca toàn lý chng phi lý năng y chng phi s y nên không hoi tđếđây là mt biên tế còn mt, đồng thn hin. Như khai m pháp môn Ph Nhãn đều là nghĩ trong lý, như m ra quyn kinh đại thiên, chng phi phô bày văn t  ngoài tâm, cho nên kinh nói: “Mt pháp hay sinh vô lượng nghĩa, chng phi ch biết ca Thanh văn, Duyên giác, chng đồng vi cái kiến chp quyếđịnh thiên khô đơđiu, thiên lch đản không”.

Ngày nay diu ch vô tn này đưa ra mt pháp mà nhng pháp có liên h theo đó sinh; tính tông viên mãn nêu ra mt môn mà các môn đều gp nhau c, chng thun, chng tp, chng mt, chng nhiu, như ngũ v làm thành canh, nhiu màu sc làm thành la thêu, các ca báu làm thành kho tàng, trăm th thuc làm thành viên thuc. Bên ngoài dung thông thì nghĩa v đầđủ. Tìm tòi chn lc s vi diu khp trong Tông Cnh gm có y chính đầđủ nhân qu vô ngi, nhân pháp không hai, trước sau đồng thi. Phàm nêu lên mt môn đều có th thu trn vn vô tn pháp gii; chng ngoài, chng trong, chng mt, chng nhiu, buông ra thì đi vào trùng trùng, thu vào thì chân môn tch tch. Như trong kinh Hoa Nghiêm, nơi vt trang nghiêm trong tòa sư t đều xut hin thân B-tát s nhiu như vi trn mt cõi Pht. Đây là y chính, nhân pháp vô ngi. Li như gia chn mày ca Pht xut hin các B-tát nhiu như vi trn trong thế gii ca Pht như PhtThng Âm v.v... Đây là nhân qu trước sau vô ngi cho đến cõi nước vi trn, mi mđềđầđủ trí đức vô biên. Mi l lông trên thân, mi mđều thu nhiếp pháp môn rng ln. Vì sao có điu k l, khó nghĩ như thế? Vì là nht tâm dung cha nên được như vy. Nói tóm li ch tt c vô biên Pht s sai biđều không lìa chân tâm vô tướng mà có, như bài tng trong kinh Hoa Nghiêm nói:

Pht tr sâu xa chân pháp tính

Tch dit vô tướng đồng hư không

Nhưng  trng đệ nht tht nghĩa

Th hin tt c mi vic làm

Nhng điu li ích cho chng sinh

Đều nương pháp tính mà có được

Tướng và vô tướng không sai bit

Nhp vào cu cánh đều vô tướng.

Bài tng trong lun NhiếĐại Tha nói:

Chính các tam-ma-địa,

Pht nói đó là tâm

Do tâm v màu sc

Như s nghiđã to.

Thế nên biết phàm Thánh là do s to tác các nhânduyên chân tc, mt nim tâm này sinh khi trong mt sát-na có đầđủ sáu nghĩa tam tính tam vô tính. Nghĩa làmt nim ca tâm là pháp duyên khi, là y tha khi; tình chp hu thc là biến kế s chp; th vn không tch là viên thành. Tc căn c tam tính nói tam vô tính nên đầđủ sáu nghĩa vy. Nếu mt nim tâm khđầđủ sáu nghĩa này tc là đầđủ tt c pháp, bi vì tt c chân tc vn pháp không ra khi tam tính tam vô tính.

Do đó lun Pháp Tính nói: “H có khi diđều chng phi là tính. Vì khi không có tính khi nên tuy khi mà không thường; dit không có tính dit nên tuy dit mà không đon. Nếu có tính thì chc chn s kt vào trong lưới bn th kiến chp.

Li nói: “Tìm tướng để biết tính,thy các pháp vô tính, tìm tính để cu tướng, thy các pháp vô tướng, thế nên tính tướng suy xét ln nhau, thđều là vô tính. Do đó nếu chp tính có thì rơi vào rng tà ca bn loi kiến chp, nếu thu sut tính không thì quy v chính đạo nht tâm”.

Thế nên kinh Hoa Nghiêm nói: “T mình th nhp sâu pháp chân tht vô t tính cũng khiến cho người vào được pháp chân tht vô t tính thì tâm được an n”. Đạđược s vi diu như thế mi vào được tông này, t hn vt vđều ngm biu hin cái chân tht, li li thy khế hp vi tông ch. Nếu chính mình chưa tnh giác chng phát huy được viên cơ thì nói ra t trái tông, im lng e càng lm li, đâu có th dùng t cú để nmly s hiu biết ca lc tình. Nhưng T giáo cùng bày ra định tu song chiếđể t li và li tha nào có li gì! Gi s có k chp cht kiến gii ca mình và không tin, Pht bo là t khi chướng tâm, làm bđường hc hi ca người khác.

Nay có mười câu hđể định k cương:

1-Được rõ ràng kiến tính như ban ngày nhìn thy màu sc ta như Văn-thù chăng?

2-Li gp duyên đối cnh thy sc nghe tiếng d chân h chân, nhm mt, m mđềđược sáng t tông, cùng vđạo tương ưng chăng?

3-Khi đọc li giáo pháp ca mđời Pht và nghe sâu ngôn cú ca T sư t xưa chng s hãi, đềđược biết như tht không nghi chăng?

4-Vì nhng thc mc khác nhau đượđem ra ct vn ngài có th đầđủ t biđể gii quyết tt c nhng điu nghi y chăng?

5-Mi lúc mi nơi trí chiếu soi không tr ngi, nim nim viên thông, không thy có mt pháp hay gây chướng ngi, trong khong mt sát-na chưa tng b gián đon chăng?

6-Đối vi tt c cnh gii thun nghch tt xu trước mt vn không b gián cách đều biết rõ và phá v được chăng?

7-Trong tâm cnh cBách Pháp Minh Mônmimđều trình bày vi tế ch khi căn nguyên ca th tính chng phi là ch hoc lon ca căn trn sinh t chăng?

8-Hướng trong bn oai nghi đi, đứng, nm, ngi tha nhn hay ch lúc mc áo, ăn cơm, làm vic mi mđều rõ được cái chân tht chăng?

9-Nghe nói có Pht không Pht, có chúng sinh không chúng sinh, hoc khen ngi, hoc ph báng, hoc phi hoc trái, được nht tâm bđộng chăng?

10-Nghe nói v trí sai biđều có th minh đạt tính tướng và thông sut lý s không tr, không có mt pháp chng rõ nguyên y ca nó cho đến nghìn Thánh xut hi thế gian, được không nghi chăng?

Nếu tht chưđược công phu như thế, không nên khi tâm di trá (qua đầu) qua mt, hoc sinh ý tưởng t cho là đủ, nên cn phi phô bày giáo pháp và rng hi ngườđi trước, thu trit cái ngun t tính ca chư Pht, đạđến ch tuyt hc không nghi. Lúc y mi có th dt hc, tàn lnh tâm rong rui. Hoc t bin thì thin quán tương ưng,hoc vì người thì phương tin khai th. Dù không th tham cu khp pháp gii nghiên tm rng rãi kinh đin, ch xem k trong Tông Cnh t nhiên cũng được th nhp. Đây là ca hướng đạo chính yếu ca các pháp, như gi người m để biếđứa con, được gc mà biết ngn, giăng lưới mi l lướđều ngay thng, kéo vi mi mi si ch đềđến, như ly gân sư t làm dâyđàn, va khy lên mt tiếng tt c dây đàn khác đều bt dt. Năng lc ca Tông Cnh cũng như thếĐưa Tông Cnh lên muôn loài đều mt ánh sáng, phô bày Tông Cnh thì các ca bt du. Đem mt vđề này thì phá v nghìn con đường, đâu cn phi kh nhc vượi qua bến to riêng li t.

Vì thế Chí Công Ca :

Sáu gic hòa quang đồng trn

Vô lc rt khó gi gm

Ni phát gii không vô tướng

Đại tha lc hay lt nhào.

Ch ngay lúc tham kho sâu xa đạđược yếu ch có th chng nghim cu cánh chân tht ca bn văn này.

 

 

V TÁC GI

 

Thin sư Diên Th (904-975) sng vào thi Ngũ Đại cuđờĐường, là t th ba ca tông Pháp Nhãn, t th sáu ca tông Tnh Độ, Sư h Vương, t Trng Huyên, hiu Bo Nht T, quê  đất Dư Hàng, ph Lâm An, huyn Hàng, tnh Chiết Giang, Trung Quc.

Lúc đầu, Sư làm quan, năm 30 tui Sư theo thin sư Thúy Nham Lnh Tham  chùa Long Sách xut gia. Sau, Sư đến núi Thiên Thai tham kiến Quc sư Đức Thiu, tu tp thiđịnh đạđược ý ch huyn diu. Trong thi gian  chùa Quc Thanh, Sư hành Pháp Hoa Sám; bui sáng Sư phóng sinh các loài, bui chiu cúng thí qu thn, đọc tng kinh Pháp Hoa, chuyên tu tnh nghip. Sư hong pháp rt thnh  núi TuyếĐậu ti Minh Châu và phc hưng chùa Linh  Hàng Châu.

Năm 961, nhn li mi ca Ngô Vit Vương Tin Thc, Sư v đạo tràng Vĩnh Minh chuyên lo tiếp tăng độ chúng, cho nên ngườđời gi Sư là Vĩnh Minh Đại Sư. Sư đề xướng Thin Tnh Song Tu, ly tâm làm tông. Sư tr trì chùa Vĩnh Minh sut 15 năm, mi người kính phc và tôn Sư là Di-lc h sinh. Sư triu tp các v cao tăng ca ba tông T Ân, Hin Th và Thiên Thai để nghiên cu và tho lun tt c nhng tác phm ni tiếng ca hơn 200 v Thánh hiĐộ và Trung Quc ri son thành b Tông Cnh Lc (100 quyn). Đối vi tôn ch khác nhau gia các tông phái, Sư luôn có thái độ ôn hòa.

Vua Cao Ly xem xong b Tông Cnh Lc này, lin sai s đếđảnh l xin làm đệ t Sư và phái 36 v tăng trong nướđến cu pháp. T đó thin phong ca tông Pháp Nhãn rt thnh hành  HĐông.

Sư th tch vào năm 975, hưởng th 72 tui, được vua ban hiu Trí Giác Thin Sư.

Ngoài Tông Cnh Lc (100 quyn), Sư còn tr tác Vn ThiĐồng Qui Tp (7 quyn), Thn Thê An Dưỡng Phú (1 quyn), Duy Tâm Quyết (1 quyn)...

(Theo Pht Quang Đại T Đin)

 

 

V TÁC PHM

 

 

Tông Cnh Lc (100 quyn) do thin sư Diên Th (904-975) thuc tông Pháp Nhãn biên tp. Trong Tông Môn Thp Qui Lun ca T Pháp Nhãn Văn Ích có khuyên người tham thin hãy nghiên cu giáo đin như sau: “Người hin nay xem giáo lý chng khi trong tâm không lođộng, mun tâm khi lođộng cn phi biết cách xem giáo lý”. Đây là li nói nhm vào các thin sư đương thi xem thường nghĩa hc, động cơ thin sư Diên Th biên tTông Cnh Lc cũng bt ngun t đây.

Tông Cnh Lc 61 ghi: “Người hc ngày nay không hc rng nghe nhiu, t  li kiến gii riêng ca mình, không chu gn gũi bc minh sư, chp kiến gii ca mình mà không đọc kinh đin, cho nên tôi son b Tông Cnh Lc này ct ch dy người sau, đừng noi theo bước lm ca ngườđi trước, để khi ân hn”. Qua đon văn trên đủ thy thin sư Diên Th phát huy quan đim ca T Pháp Nhãn và nói rõ được nguyên nhân biên tTông Cnh Lc.

Theo Cnh Đức TruyĐăng Lc 26 và Tnh T T Chí 5, Diên Th sau khi đắc pháp nơi thin sư Đức Thiu (đạđệ t ca T Pháp Nhãn), Ngài tr trì chùa TuyếĐậ Phng Hóa vào năm 925. Lúc y người theo Ngài tu hc rđông, do đó trong TuyếĐậu T Chí có truyn thuyết cho rng tác phTông Cnh Lc được biên so đây. Năm 960, Trung Ý Vương ca nước Ngô Vit thnh Ngài tr trì chùa Linh  Hàng Châu; năm sau (961), thnh Ngài tr trì chùa Vĩnh Minh (tc chùa Tnh T), ngườđến tham hđông hơn hai nghìn.

Trong Lâm Gian Lc quyn h, Hu Hng (1071-1128) ghi: “Tôi đã tng du phương đếĐông Ngô, ng  chùa Tnh T ti Tây H. Hai bên pháp đường ca chùa đều có kiến trúc hai dãy lu các rt nguy nga tráng l. Có mt v lão np trong chùa nói vi tôi: Hòa thượng Vĩnh Minh thy ba tông Hin Th, T Ân, Thiên Thai mâu thun nhau, không đạđến mđộ hoàn b, cho nên khuyến khích các v đệ t tinh thông pháp nghĩ hai dãy lu các, xem rng giáo nghĩa và cht vn ln nhau, ri Hòa thượng đem tâm tông để bình lun. Ngoài ra, Ngài còn tp hp hơn 60 b kinh Đại tha, li dy ca các bc Hin Thánh n - Hoa hơn 300 nhà để chng minh yếu ch duy tâm, ri biên tp thành mt b sách đồ s 100 quyn gi là Tông Cnh Lc lưu truyn hu thế”.

Sau khi biên tp xong Tông Cnh Lc, theo bài tTông Cnh Lc ca Dương Kit viết vào khong năm 1086-1093: “Ngô Vit Trung Ý Vương rt quý, ct giu trong kho kinh sách”. Trong “Nhân Thiên Bo Giám cĐàm Tú (khc bn khong năm 1228-1233) ghi: “Thin sư đã th tch, trong tòng lâm không biếđến sách Tông Cnh Lc, đến khong năm 1068-1077, thin sư Viên Chiếu mi công b …T đó np t mđua nhau tìm đọc”. Do s đề xướng ca Viên Chiếu, sách này mđược xã hi chú ý. Khong năm 1078-1085, hoàng đệ NgĐoan Hin Vương mi khc bn tng và gi tng các tòng lâm danh tiếng đương thi. Nhưng sau này, khong năm 1086-1093, Tông Cnh Lc đã qua tay các ngài Pháp Dũng, Vĩnh Lc, Pháp Chân “hiđộc” và khc bn mi lưu hành, din mc có l không hoàn toàn ging vi nguyên bn ca NgĐoan Hin Vương khc trướđó. Đếđời Minh, trong bài bt hiđính Tông Cnh Lc ca ngài Ngu Ích (1599-1655) ghi: “Đại sư Vĩnh Minh biên tTông Cnh Lc (100 quyn) không khác s tđại thành ca Khng T. Chưđầy 100 năm sau, các ông Pháp Dũng v.v … t ý thêm vào tp thuyết khiến cho gai mt người xem, đến ni Viên Trung Lang tr li nghi đạo nhãn ca Vĩnh Minh chưa hoàn toàn sáng sut, cũng đáng bun thay! Tôi đọc bn Lc này ba bn, thy không n, biết là li do Pháp Dũng ch không ti Vĩnh Minh. Đầu mùa thu năm Quí T tôi ct b nhng điu kém ci, gi lđiu quý báu, sách vn dày 100 quyn, vđáp vn hơn 340 đon, mđon nghĩa lý đầđủ, người hc xem qua không còn than th là mênh mông quá, hay phân vân không biết quy hướng no nào”.

Bài tTông Cnh Lc ca Dương Kit trong bn do NgĐoan Hin Vương khc ghi: “Người hc khp nơi rt ít được thy bn này”, đủ thy bn này đã tht truyn và bn ca ngài Ngu Ích hiđính chính là căn c vào bn mi ca ngài Pháp Dũng, vì thế bđang lưu hành hin nay là bn do các ông Pháp Dũng v.v... t ý thêm các tp thuyết vào, mà chng phi là bn gc ca thin sư Diên Th. Nhưng các ông Pháp Dũng v.v... cũng không sđổi hết din mc ca nguyên tác Tông Cnh Lc, ngài Ngu Ích nói: “Tuy b Pháp Dũng thêm vào tp thuyết, nhưng vi người có đôi mt trch pháp thì có th lp tc phân biđược vàng thau”.

Toàn b Tông Cnh Lc hơn 800.000 ch, chia làm ba chương, na phđầu quyn mt là chương nêu tông ch t na phn sau quyn 1 đến quyn 93 là chương vđáp, t quyn 94 đến quyn 100 là chương dn chng. Chương nêu tông ch “ly chánh tông làm ch hướng v”, chương vđáp “dùng hđáp để tr b nghi ng”, chương dn chng “dn kinh điđể gây nim tin trn vn”, Chánh tông tc là “ly nht tâm làm Tông”; nht tâm tông này “chiếu soi muôn pháp như Cnh (gương)”; biên tp nghĩa lý ca Thánh hin, toát yếu các li trong kinh đin gi là Lc. Qua ý nghĩa ca nhan đề Tông Cnh Lc như thế, ngườđọc có th hiđược phn nào ni dung.

Quyn 1, thin sư Diên Th trình bày mđích biên tTông Cnh Lc: “Chn ct ty Thin tông, nêu k cương giáo võng khiến nhng phin não, li lm vi tế hoàn toàn sch hết, tông ch nhim mu, khi ý đều thông. Có kh năng phá tan núi tht mn, lp bít con đường lc suy, trn lao ngođạđều b đim mt, quân ma sinh t không còn bóng dáng”. “Ct ty Thin tông”, “k cương giáo võng” theo quyn 34, Giáo là Hoa Nghiêm, Tông tĐạt-ma, nhân vì Hoa Nghiêm là kinh khai th s rng ln ca “nht tâm”, Đạt-ma hin tông ch tâm tánh chúng sinh, k tht vn không ra ngoài quan đim ca tông Pháp Nhãn, ngài Pháp Nhãn lúc tham vn thin sư Quế Sâm  viĐịa Tng khi nghi tình: “Tam gii duy tâm, vn pháp duy thc” được thin sư Quế Sâm khai th: “Nếu lun v Pht pháp thì tt c đều sn có” mà đại triđại ng. Hin nay trong ng lc ca T Pháp Nhãn còn có: Tam Gii Duy Tâm Tng và Hoa Nghiêm Lc Tướng Nghĩa Tng. B Tông Cnh Lc dn dng kinh Hoa Nghiêm và lý lun ca tông Hin Th rt nhiđể gii thích “Nht tâm”, đặc bit ti quyn 46 ghi: “Nếu mun thoát khi hai kiến chđon thường cn phi thu rõ lc tướng nghĩa môn ca Hoa Nghiêm, thì có th t tđối vi pháp t quên năng s, tùy duyên động tnh, không hoi hu vô, đủ đại tng trì,cu cánh không lm li”. Hin nhiên là phát trin quan đim ca T Pháp Nhãn.

Tông Hin Th hưng khi sau tông Thiên Thai và tông T Ân (tông Pháp Tướng). Các ngài Pháp Tng, Trng Quán hc rng v giáo nghĩa và hc thuyết viên giáo trùng trùng vô tn, viên dung vô ngi, rt tương hp vi ch trương ca Thin tông “Pht nói tâm là tông, ca không là ca pháp”, có lúc tông ch Thin tông được dn chng nghĩa lý Hoa Nghiêm để càng thêm sáng t, vì thế T khai sáng ca tông Pháp Nhãn trong ngũ gia tông phái Thin tông xem trng Hoa Nghiêm, là mt hin tượng tt nhiên xut hin trên lch s phát trin Pht giáo.

Tông Cnh Lc quyn 2 ghi: “Nht tâm là gì? Tánh không hai ca tt c các pháp chân vng nhim tnh gi là Nht. Ch không hai này là s tht trong các pháp, không đồng như hư không mà có tánh hiu biết linh diu, gi là Tâm”.

Quyn 45 đề xut: “Nht tâm là tánh ca muôn pháp, muôn pháp là tướng ca Nht tâm”, “cn phi tánh và tướng đều thông, mđược mình và ngườđều li ích”.

Quyn 28 ghi: “Vn là lý diu tánh vô tn nht tâm chân như, do vì th dng khép m, tánh tướng tương nhp, lý s trùm khp, duyên tánh y trì, nghĩa chia nhiu th, nói hp là lc tướng, nói rng là thp huyn... thđềđượđưa vào trong Tông Cnh”.

Đây là dùng giáo nghĩa Hoa Nghiêm gii thích v “tâm tánh” ca thin gia, nhân đó mà nhn mnh đến tác dng t ti viên dung và đốn ng Nht tâm. Như quyn 38 ghi: “Tông ch sâu xa ca b Tông Cnh này là t ti viên dung, nghĩa là mun mt thì mt, mun khác thì khác, mun còn thì còn, mun mt thì mt. Khác chngngi mt, mt chng ngi còn, mi là t ti. Thường mt thường khác, thường còn thường mt, gi là viên dung”. Quyn 26 ghi: “B Tông Cnh Lc này không phân bit nđạo, ngođạo, li căn, độn căn, h người nào thy nghe mà tín nhđược thì đềđốn ng Nht tâm, lý s đầđủ”. Quyn 27 ghi: “Nếu chưđạt Nht tâm thì khi tiếp xúc vi mi s viđều thành hư ngy, chánh hnh cũng thành tà hnh, ca Pht biến thành ca ma. Nếu vào trong Tông Cnh này thì không ai qua mà không được li lc, kh hnh cũng thành diu hnh, tà tông tc là chánh tông”, cho đến nói: “Trong Tông Cnh này, không có mt pháp nào không phi là Pht s”(quyn 24). “Trong sinh lão bnh t đều có th giác ng, trong đđứng nm ngđều có th chng chân” (quyn 66). Nhưng, làm sao mđạđến trình độ này? Quyn 3 ghi: “Mt nim lóng lng, muôn cnh mênh mông sáng sa, vđồng mt môn bt nhđều vào yếu ch vô sinh”. Quyn 6 ghi: “Nếu vào thng Tông Cnh muôn viđều thôi, tình chp phàm Thánh hết sch an lc diu thường, lìa Tông Cnh này mà khi tâm động niđều thành lao nhc”. “Mt nim lóng lng, muôn viđều thôi” là trng thái gì? Quyn 49 ghi: “Tánh chân như linh thông t ti chiếu dng vô cùng không đồng vi vt vô tình. Pht tánh là vt sng động không phi vô tri, nhưng không có tâm suy lường. Các th to tác như huyn như hóa, như hình nm, rt cuc không có tâm suy lường.  tt c ch không b trói buc, không tr trước, không s cu, trong tt c thi, không có mt pháp kh đắc”. Đon này tương đồng vi Lc T Hu Năng nói: “Trong mi nim, đối vi tt c pháp không tr, mt nim nếu tr, nim nim lin tr, gi là trói buc”, Mã T Đạo Nht nói: “Nếu mun th hi ngayđạo này, thì tâm bình thường là đạo. Cái gì là tâm bình thường? Không to tác, không th phi, không th x, không đon thường, không phàm, không Thánh. Ch như hin tđđứng năm ngng cơ tiếp vđều là đạo”, Quy Sơn Linh Hu nói: “Trong tt c thi, thy nghe bình thường, không có tà vy, cũng không nhm mt bt tai, ch cn tình không chy theo vt là được”. Thin sư tuy có nói: “Ch quý con mt ông chánh, không quýhành vi ca ông” nhưng đặc bit chú trng mt nim tâm hành “tình không chy theo vt” này, có th nói là điđặc sc ca Thin tông cũng là tâm ty hành trì ca các thin sư tri qua mi thđại. Mt nim tâm hành này t s trit ng đối vi s lý mà ra, có lúc tr li dn phát s trit ng đối vi s lý. Các thin sư ni tiếng thường có phong cách siêu phàm, đạo hnh đáng làm mu mc, t ti gii thoát ngi tch đứng chết, đều là t cái này hàm dưỡng mà ra. Toàn b Tông Cnh Lc tuy hđáp liên miên, dn chng phong phú mà cũng đều ch xoay quanh mt vđề này, vì thế Tông Cnh Lc chính là mt tr tác theo hướng mượn Giáo để chng minh Tông, mà không làm ln ln Tông vào Giáo. Do đó trong chương vđáp chiếm 99 quyn tuy bày ra la lit giáo nghĩa Thiên Thai, Hin Th, T Ân mà đều hi thông v mt mi là dùng Giáo để chng minh s nhim mu sâu xa ca Tâm tông, hoàn toàn không có phân bit d đồng khi gii quyết vđề trên mt giáo lý, đây là mđặđim ln cTông Cnh Lc.

Theo nghiên cu cĐại sư Ngu Ích, chương vđáp ca sách này chia làm hơn 340 đon, mđon bao quát nhiu vđề. T quyn 46 tr v trước, phn nhiu hi v pháp tánh. T quyn 47 v sau phn nhiu bàn v pháp tướng. Nhưng s phân chia này ch tương đối, vì trong lúc bàn v vđề pháp tánh cũng có nói đến pháp tướng và ngược li.

Trong lúc bàn bc dn chng v các vđề tánh tướng thì văn nghĩa có rt nhiu ch trùng phc, quyn 100 ghi: “Tuy trước dn sau chng, văn rng nghĩa nhiu, nhưng li nào cũng vì li ích căn cơ, mi ln nghe qua đều mi m, cho nên đâu chán lp li, xin ch sinh tâm khinh thường”. Còn ghi: “Nay nghe trong mi quyn cTông Cnh Lc, trong mi li văn, lp lp trình bày đạo lý, mi mđều giương cao tông ch, ct nuôi ln gc b-đề, thành tu nim vui Chánh pháp. Xin đừng xao lãng mà chán nghe nói đi nói li nhiu ln”. Đủ biết, thin sư Diên Th biên tTông Cnh Lc ch là mượn Giáo để chng minh Tông, để ngườđọc có nim tin trn vđối vi Tông, ch hoàn toàn không có ý gii quyết các s phân tranh ca giáo tha.

Chương dn chng, Ngài dn chng 120 b kinh Đại tha, 120 b ng lc ca T sư, 60 tp ca Hin Thánh, cng chung 300 b. Trong Tông Cnh Lc bo tđược mt s văn hiến quý báu, ví d như hai đon pháp ng ca ngài Nam Nhc Hoài Nhượng và Thanh Nguyên Hành Tư đều chưa thy ghi trong các sách Cnh Đức TruyĐăng Lc, C Tôn Túc Ng Lc... Ngoài ra, trong chương vđáp dn dng các sách Trung Lun Huyn Xu, Duy Thc Nghĩa Cnh... hin nay đã tht truyn, may nh Tông Cnh Lc bo tđược mt ít tài liu mà chúng ta biếđượđại khái ni dung ca các sách y.

Tông Cnh Lc được biên tp vào thi k s tai hđang phát trin khá nghiêm trng do các thin sư xem thường nghĩa hc, có ý nghĩa rt lđối vi vic giáo dc trong gii Pht giáo. Vì thế, thin sư Bo Giác (1025-1100) nói: “Tôi hn gp sách này quá tr, văn nghĩa cao sâu chưa tng th đâu khác, đềđầđủ trong b sách này” (Nhân Thiên Bo Giám). Ngài chng nhng tay không ri quyn, chăm chăm nghiên cu, mà còn toát yếu li thành Minh Xu Hi Yếu (3 quyn) khc bn lưu thông v sau, Ngài li còn soTông Cnh Qung Xu (10 quyn) (theo Tnh T T Ch). B Tông Cnh Lc quá đồ s nên rt bt tiđối vi người tham kho; vì thế vua Thế Tông (Ung Chính) đời Thanh viết trong bài Hu T Tông Cnh Lc: “Sách này tri qua các đời t Tng, Nguyên, Minh đến nay, các bc c đức ca Tông môn, không thiếu người sáng sut mà chưa tng thy có ai khen ngi là hy hđệ nht, cũng có th nói là l!”. Nói Tông Cnh Lc sau khi hoàn thành mà không được ai khen ngi là không đúng s tht, nhưng nói không có nhiu ngườđọc tác phm này thì có tht. Ngay như vua Ung Chính cũng xem trng Tông Cnh Lc: “Trm cho rng t khi T Đạt-ma t Độ sang đây, các sách v trong Tông môn bàn v diu tâm Pht, ni hu mng Pht, rng độ chúng sinh, li ích vô tn, chưa có sách nào bng sách này”. Chính ngài còn ghi li phn ct ty mang tính khái quát và ch ly hai phn mười ca bTông Cnh Lc biên thành mt quyTông Cnh Đại Cương, dùng thế lc ca nhà vua truyn bá rng rãi nhưng cũng không đạđếđược mđích “h là người có tâm đều vào tông này”, vì hai nguyên nhân:

1. Thin tông phát triđếđầu nhà Thanh đã quá suy vi.

2. Chính bn thân cTông Cnh Lc đồ s quá, bt tin cho người tham kho.

Pht T Lch Đại Thông Ti 18 ghi: “Vua nước Cao Ly đọc ngôn giáo ca Sư (Diên Th), sai s mang thư đến xin được nhn làm đệ t, dâng ca-sa kim lũ, chui thy tinh, tnh bình bng vàng... Ba mươi sáu v tăng Cao Ly được Sư n chng, tr v nước mi v hong hóa mt phương”. Qua các s kin k trên đủ cho chúng ta thđược tài đức ca tác gi và giá tr ca b Tông Cnh Lc này.

 

(Định Hu lược dch t Độc Tông Cnh Lc ca Dc Chi)

 

 

BÀI TA

 

ĐờĐại Tng, nước Ngô Vit, ta ch chùa Tu Nht,

thin sư Vĩnh Minh, Diên Th biên tp.

 

Ngun chân lng l, bin giác trong lng, dt bt danh tướng, tuyt du năng s. Ban sơ bt giác cht khi tâm động nim thành nguyên do ca nghip thc là li ca giác minh. Nhân “minh”khi “chiếu”, kiến phn bng khi, tùy chiếu lp trn, tướng phn bày ra. Như gương hin hình tượng cht khi thân căn, kế đến tùy tưởng mà thế gii thành sai bit, sau đó nhân trí mà có s yêu ghét chng đồng. T đây quên chân, mt tính, chp tướng, theo danh, tình trn tr trước, kết sóng thc tương tc, khóa kín chân giác vào đêm mng, trm mê trong ba cõi, mù lòa trí nhãn nơđường tăm ti, lăn lóc ti lui  trong chín no, b kh não vì nghip ràng buc, mt ca gii thoát. Trong không thân li th thân, trong không cõi mà lp cõi. Căn c y x thì phân ra hai mươi lăm cõi, nói v chính báo thì có đủ mười hai loài, đều t tình tưởng mà ra y chính sai bit, trên cnh chng dđổi, ung chu luân hi, không có li thoát nên t sinh trói buc. Như tm làm kén, t bướm lao vào đèn; đem si tơ vng tưởng nh kiến qun cht cht nghip ca kh t; dùng đôi cánh vô minh, tham ái qut vòng la sinh t; dùng li nói như tiếng vang trong hang động lun bàn v đẹp, xu ca bn loài chúng sinh; ly gương tâm vng tưởng bày ra hình nghi ca ba cõi. Sau đó, gió tưởng trái thun xao động bin giác, nước tham si ái rưới nhun mm kh, mt b dong rui theo trn, chng biết tr v ci gc. Phát tri kiến cung lon, che m t tâm, lp sc thinh huyn hóa ri nhn là pháp khác. T đây mt khi chm cnh dn dn thành đỉnh cao trc tr. Git nước làm gn sóng lăn tăn cui cùng dy sóng to nut chng con thuyn. Sau này li mun quay v ngun ci, căn c vào căn tính lđộn không đồng nên trong pháp gii chân như nht chân m ra ba tha, năm tính. Hoc có người thy không mà chng qu; hoc có người liu duyên mà th nhp chân; hoc có người tri qua ba a-tăng-k huân tu dn dđầđủ các hnh môn; hoc có người ch mt nim viên tu chóng thành Phđạo. V s khc chng thì có khác nhau, nhưng mt tính không khác. Vì thành lp cái tên phàm Thánh nên t như phân ra tướng chân tc. Nếu mun thu sut sâu xa tn ci r, thông đạt tt cùng tông ch thì căn bn tính lìa, tt cánh tch dit, dt s sai khác ca lên xung (thăng trm), không có s sai khác ca trói m (phược thoát), đã không có ngườ thế gian, cũng không có người diđộ, hai mé (thế gian và xut thế gian) bình đẳng, mđạo thanh hư, thc trí đều không, danh th đều lng. Không có gì c ch mt chân tâm. Đạđược tâm này gi là người thđạo, mê tâm này gi là khđầu cho sinh t. Li có nhng k tà, ngođạo, trí kém, căn tính hp hòi khôngbiết rõ gc bnh sinh t, cũng chng hiu rành gc kiến chp ta người (ngã, nhân), ch mun chán n náo, chê bai động, phá hoi tướng, chia ch trn. Tuy nói rng nếđược cái không tĩnh lng m ti nhưng h không biếđã vùi lp chân như, trái nghch tính giác.Như không biết bnh nhm mt mà ch lo dit nhng vòng ánh sáng trên đèn. Không xét k thân huy trong thc tình, lung tránh bóng nng gia trưa, điy ch làm nhc hình th, mt tâm trí, mt sc, tn công chng khác nào đã đủ nước li thêm băng, ném ci vào la cháy. Đâu biết nhng vòng ánh sáng theo mình là bóng gi t mt bnh, tr bnh mt ri các đốm sáng t biến mt, dt cái huyn cht thì bóng nng gi di s không còn. Nếu hay xoay ánh sáng tr v chính mình, nơi cnh phn tnh quán tâm, Pht nhãn sáng thì bóng nghip không, Pháp thân hin thì du trn bt. Dùng gươm trí t giác m ly ht tâm châu trong trin phược, đem kiếm tu nht nim chém phăng lưới vng kiến chn trn lao. Đây là ý ch tt cùng ngun tâm này, li nói thđạt thc tính; li gin d, nghĩa phong phú, văn thun phác đếđược lý. Dng ca nghi  ngôi nhà chính trí, phát c vng nơi cánh đồng chân giác. Bnh lâu càng thâm nhp vào xương ty, nếu chđứt dây mơ r má c chp chng cht thì vt ngã gp nhm ngn la trí bng cháy s tiêu dung trong lò duy tâm; danh tướng chm phi ánh sáng ca mt tri trí tu s b xoá tan trong bin nht chân. Đây là pháp ni chng, đâu ph nơi li nói, tri gii không th cùng tn, thy nghe cũng không đếđược. Nay vì người chưa thy mà trình bày diu kiến vô kiến (cái thy mu nhim không th thy bng mt) vì người chưa nghe mà th nhp viên văn bt văn (cái nghe mu nhim không th nghe bng tai), vì người chưa biết mà nói cái chân tri vô tri, vì người chưa hiu mà thành tđại gii vô gii, vi hy vng là nhân ngón tay thy mt trăng, được th quên by. Gi gìn mt tông sâu kín, b li, xét lý, biết rõ muôn vt t ta, sáng t diu giác ti thân. Có th bo là moi tìm ci r bí n, dò xét hang lý thm sâu. Chn ly ct ty ca thin tông, nêu ra ging mi ca lưới giáo, còn chút xíu t vết mê lm cũng lin hoàn toàn sch trong (viên tnh). Huyn tông, diu chđại ý phơ bày có kh năng phá dp núi tht mn (by th kiêu mn) trn ngăn bít no lc suy (lc trn cũng gi lc tc), ngođạo trn lao thđều té nga kêu la, quân ma sinh t hoàn toàn lng bóng im hơi. Hin t ti lc, bày đại uy quang, ch ra ht trân châu, s dng li ích vô tn, nghiêng tng bí mt, cu giúp khp c không cùng. Có th nói trong các th hương xông là hương ngưđầu, trong nhng vt báu tìm hàm con ly long, trong các loài hoa hái hoa linh thoi, trong các ánh sáng chiếu rc thn quang, trong các thăn nếm v nhũ mi, trong nhng th nước ung git cam-l, trong các th thuc dùng thuc cu chuyn (chín vòng, ý nói nu luyn kim đan nhiu ln); trong các ch nhân gđược Thánh vương... Thế nên được lên đỉnh núi cao pháp tính, bng lc vào nhng ngn chót vót; biđề-h bao la nut trn sóng nước các dòng, ta như đim sáng ca hn phách trong đêm vút bay, làm m ánh sao Tiu tha, như vng hng ca bình minh phá tan bóng ti ngođạo. Cũng như k nghèo pháp tài cht gp mt khi báu ln, như người khát được gp ao nước trong mát, như làm v Trđược chúng sinh kính ngưỡng,như làm đấng cha lành B-tát, như người mang bnh nng may mn gđược Dược Vương cha tr, như k không biếđường him nn cht gp người hướng dn tt, sáng sut, như người lâu ngày  trong nhà ti bng gp ánh sáng ca ngđuc báu, như người thường sng lõa hình bng nhđược áo tri tuyt diu, chng tìm cu mà t được, không gng công mà chóng thành. Cho nên biết trong vô lượng cõi nước khó được nghe danh t, trong kiếp s trn sa ít được truyn trao. Do nhng nhân duyên trên, đây gi là gương tâm (tâm cnh), bày hin nhđạo mà rng sáng chiếu soi. Soi rõ bn tà mà mt my may chng cha. Diu th không riêng, viên quang chng ngoài, bin giáo nghĩa vô biên thđều tr v trong s xoay đầu nhìn li, hình dung ca muôn vt hết thy cùng đi vào trong s chiếu soi. Đây là ý ch ca nht v Tào Khê, chư v T sư đều truyn, là tông bt nh nơi Rng Hc (Hc lâm) mà kinh điđều nói nên có th bo là ch vô cùng sâu xa ca muôn điu thin, là ngun huyn ca mi th lun triết, là bo vương ca mt ch, là nguyên t ca mi loài, bèn khiến lìa tâm cnh, văn lý đều rng, lin biếđó là trn. Li nói ra có chng c, hn nht tâm giai định viên tông, đèn trí ca tám thc chiếu phá tà ám. Nói tht ra là đền thiêng ca hàm linh, nghĩa tông ca vn pháp chuyn biến vô cùng, vn dng linh hot, t ti, tùy duyên bày du, theo vt thành danh. Chư Pht th chng gđó là tam-b-đề, B-tát tu hành gđó là lđộ vn hnh. Hi Tu biếđó thành nước, Long N dâng đó là ht châu, Thiên N ri cúng đó là hoa vô trước, Thin Hu tìm kiếđó là báu như ý, Duyên giác ng đó là thp nh duyên khi, Thanh văn chng đó là t đế nhân không, ngođạo gi chđó là sông tà kiến, chúng sinh chđó là bin sinh t. Lun v th thì khéo hp chí lý mt cách vi diu, lun v s thì khế hp chính duyên mt cách xâu xa. Tuy trình bày tng môn ca pháp gii, song cn phi nói rõ yếu ch riêng ca Nht tha và nghĩa ca các th tính tướng. BĐại giác do viên thông lp lp lin ca vào, ch có bc chng trí được diđạt. Ch vì người căn cơ yếu kém, ít hc không th thu sut, không biết hai môn tính tướng, chính là th dng ca t tâm. Nếu có đầđủ dng mà đánh mt th thường hng cũng như không có nước mà có sóng. Nếđược th nhưng li thiếđi môn diu dng cũng như không có sóng mà có nước. Thc ra, chưa tng có nước không sóng và cũng không tng có sóng mà không cótính ướt. Nh sóng biếđược ngun nước, ngun nước và ngn sóng như tính tt cùng và tướng biu hin cùng đạđến ngun tính. Chúng ta nên biết th dng làm thành cho nhau, tính tướng hin bày cho nhau.

Bây gi xin nói rõ v môn tng và bit; nói rng v s đồng và d, xét v căn nguyên ca mt pháp, tìm tòi gc ngn ca các duyên thì có th gi là “Tông Cnh” vì soi chiếu u vi, không sót mt pháp nên nghìn th sai khác cùng gp g, mi dt thành nghĩa rng rãi, tóm lược yếu văn, trình bày trong mt trăm quyn, thđều thu v nht tâm, có th khiến cho bin giáo pháp sâu nhiđược nhn biết rõ ràng, nim nim sáng t hoàn toàn, vô tn chân tông, chính mt thy rõ và tâm tâm khế hp. Như thn châu  trong tay, trn không còn tìm cu, cũng như cây giác ng râm mát hoàn toàn tiêu mt du bóng, như nhđược ngc tht trong ao mùa xuân có ln vi sđá, như nhn ra cái đầu ca mình trước gương, cung tâm chóng hết, có th nh sch gai tà kiến, cht phăng gc r nghi, không cn dùng đến mt xíu công phu mà m toang kho tng báu, chng phí mt chút sc lc mà nhanh chóng được ht châu nhim mu. Đây gi là Nht thđại tch dit tràng, thđúng là nơi tu hành thanh tnh, đây là cnh gii Như Lai đã đạđến, là pháp môn bn tr ca chư Pht. Vi tinh thn khuyến khích tt c người sau nên ch rõ tính giác huyn diđể được trí tu tt cùng bin tính, hc suđến ngun chân. Ch có thc này, tâm này là tôn thng. Thc này là ch chng ca mười phương chư Pht. Tâm này được nói trong sut mđời giáo hóa ca Pht. “Duy tôn” (cái đáng tôn kính hơn hết) là vì nó là ch quy v ca giáo lý hnh qu. “Duy thng” (cái siêu vit hơn c) vì đó là cho hướng đến ca tín, gii chng, nhp; chư Hin nương vào đây mà gii thích viết lun nghìn chương, các Thánh th theo đó tuyên thuyết rng thành t bin. Thế nên chn lc nhng điu k đặc, nghiên cu tinh vi rõ ràng.

Riêng nêu bày cương tông, giăng rng lưới Chính pháp, mò bt cơ địa năm tha, nhy vt lên tng trđệ nht nghĩa, chng đắc mt cách rng rãi tông này. Li ích vô tn thì Chính pháp được an tr lâu dài, dp tan rng tà ca ngođạo, có kh năng cu giúp muôn loài, lp bít du xe lon ca Tiu tha, như thế thì không tà, không chính, hu ngđều không. Vì t li cho nên phát ra gc trí đức, vì li tha cho nên lp ra vic ân đức, do thành tu trí đức nên khi lòng t vô duyên giáo hóa, do thành tu ân đức nên đem tâm bi đồng th cđộ. Vđồng th thì tâm khi vô tâm, vi vô duyên thì giáo (hóa) thành đại hóa (giáo hóa rng rãi). Vì tâm khi vô tâm nên chng có (nim vui) hnh phúc nào mà chng ban cho; vì hóa thành đại hóa nên chng có kh đau nào mà chng dp b. Không có hnh phúc nào mà không ban cho thì k trí, người ngu đều xem như nhau, chng có kh đau nào mà chng dp b thì k oán, người thân không khác. Như thế là khiến cho ba th c hai loi cây đềđược tươi tt trên mt mnh đất. Ht ging tà, mm mng cháy đềđượđều thm nhun mt trn mưa. Tht là vô cùng tđẹp, không gì sánh bng, có th nói là bao quát hết ca nhân, tìm suđến bin qu, cho nên ngườđược khai phát b-đề, người mi câu bát-nhã, biết rõ manh mi thành Pht, viên đốn không tr ngi, biết rõ con đường tr v nhà, tiến thng ti không nghi. Nếu người lìa con đường này tu hành khác tùy theo ch hiu sai lm ca mình thì ging như gõ sng ly sa, vin cây tìm cá dù tri qua ba a-tăng-k trn chng được gì. Nếu y theo tông ch này tin nhn, gìn gi và phát huy như con thuyn lướt nhanh theo dòng nước không chút tr ngi li gp gió thun và thêm sc mái chèo thì s chóng đến Bo s, bng chc ti b giác. Có th nói là tư lương sđặt sn, đạo qu thành tu trước, mc y thượng hnh ca ngài Ca-diếp, ngi tòa pháp không ca Pht Thích-ca, lên lu T-lô ca Di-lc, vào thân pháp gii ca Ph Hin, hay khiến người khách làm k tôi t để được lãnh tt c gia nghip ca Trưởng gi; cht làm cho hàng Tiu qu chìm trong không tch chóng được Như Lai th ký. Chưa có mt môn chng thông đạo này thì chc chn không mt pháp chng khế hp tông này. Bc giác vương thi quá kh nhân đây thành Pht, hàng Đại sĩ v lai nh đây chng chân thì pháp môn nào mà không m bày, nghĩa lý nào mà chng biu hin, không mt sc nào chng phi là tam-ma-bát-địa, không mt thinh nào chng phi là môn đà-la-ni, nếm mt v mà biến khp thành đề-h, ngi mt hương mà đều vào trong Pháp gii. Cây gió, bãi trăng đều có th truyn tâm, cn khói rng mây đều bày diu ch, mi bước dm trên cõi kim sc, mi nim ngi mùi hương chiêm-bc; vc nước bin mà được trăm sông, đến tu-di đềđồng mt sc. Rc r ch! M mt xem vn tượng, thđều tr v t tông, lng l dn tâm tìm châu đều quay v bn pháp, khiến cho núi tà rơi mũi nhn, bin kh thu cun sóng, dùng mái chèo trí an n lướt trên dòng để vượt lên đỉnh biếc vút cao. Ngày nay biết rõ chính tông ca kinh lun, đại ý ca Pht T, ta bt văn t rườm rà, ch tìm ly yếu ch, tm mượn s vđáp để dn gii, chng minh rng rãi. Nêu ra nht tâm làm tông soi chiếu muôn pháp như gương và ghi chép ý nghĩa sâu xa t các trước tác ca C đức, tóm lược giáo lý viên đốn trong bo tng nên gi là “Lc”, phân làm mt trăm quyn, có ba chương: đầu tiên là lp chính tông để làm nơi hướng v; kế là vđáp để loi b nghi tình; sau là dn li chân tht ca kinh điđể thành tđức tin trn vn và đem pháp lành vi diu này ban ri khp mi loài, đồng báo ân Pht, cùng truyn tông ch này.


 

1Đỗ Thuận (557-640): Sơ tổ tông Hoa Nghiêm, sống vào đời Đường Trung Quốc, họ Đỗ quê ở Thiểm Tây.

2Dược Sơn (751-834):  Nói đủ là Dược Sơn Duy Nghiễm, thiền tăng đời Đường, họ Hàn, tỉnh Sơn Tây, nối pháp thiền sư Thạch Đầu Hi Thiên.

3Hồng Châu Mã Tổ (709-788): Thiền tăng nổi tiếng đời Đường, họ Mã tên Đạo Nhất, được gọi là Mã Tổ Đạo Nhất, người Tứ Xuyên, Trung Quốc.

4Nam Dương Tuệ Trung (690-775): Thiền tăng đời Đường, họ Nhiễm, người Chiết Giang, Trung Quốc, nối pháp Lục Tổ Huệ Năng, là một trong năm bậc tông tượng sau Lục Tổ. Ngài được gọi là Nam Dương Quốc sư.

5Nga Hồ Đại Nghĩa (746-818): Thiền tăng đời Đường, họ Từ, người Chiết Giang, Trung Quốc, nối pháp thiền Sư Mã Tổ Đạo Nhất. Sư trụ núi Nga Hồ.

6Tư Không Bản Tịnh (676-761): Thiền tăng đời Đường, họ Trương, người Sơn Tây, Trung Quốc, đắc pháp nơi Lục Tổ Huệ Năng, sư trụ chùa Vô Tướng núi Tư Không.

7Khuê Phong Tông Mật (780-841): Thiền tăng đời Đường họ Hà. người Tứ Xuyên, Trung Quốc, ngoài việc tuyên giảng giáo nghĩa Hoa Nghiêm sư còn giảng về thiên tông cùng các tông phái khác nỗ lực dung hợp các phái. Sư trụ thảo đường Khuê Phong núi Chung Nam, nên được gọi là Khuê Phong Tông Mật đại sư.

8Ca-diếp: (S: Maha-kasyapa; Hán dịch (Hd.) Ẩm Quang còn gọi (Cg) Đại Ca-diếp) vị đệ tử xuất sắc của Đức Phật, nổi liếng đầu-đà bậc nhất trong hàng đệ tử Phật. Trên hội niêm hoa vi tiếu, Ca-diếp được Đức Phật Thích-ca truyền tâm ấn. Từ đó ngài trở thành sơ tổ của thiền tông Ấn Độ.

9Ưu-ba-cúc-đa (S: Upagupla) Tổ thứ tư trong 28 vị tổ ở Ấn Độ được phó pháp tạng.

10Mã Minh (S: Asvaghosa 100-160) Tổ thứ 12 được phó pháp tạng, cũng là một đại luân sư, một thi nhân Phật giáo.

11Long Thụ (S: Nagarjuna) Tổ phái Trung Quán và tổ thứ 13 được phó pháp tạng tại Ấn Độ.

12Tào Khê: Chỉ cho yếu chỉ thiền của Lục Tổ Huệ Năng, ngài Huệ Năng lấy chùa Bảo Lâm ở Tào Khê làm trung tâm giáo hóa.

Comments

Popular posts from this blog