LỜI GIỚI THIỆU
Biển giác
lặng
trong, sạch hết thi vi danh tướng. Bởi thức tình
dấy động, tưởng niệm điên đảo, khiến chúng
sanh lưu đãng trong sóng thức, sinh
tử tiếp nối bất tận. Thế nên
biết một niệm quên tánh giác, muôn kiếp trầm trì nơi tăm tối, tới lui
trong dị loại. Khổ thay! Khổ thay!
Chính nơi đây, đấng Đại giác
xuất thế chỉ vì cứu vớt chúng sinh, mở bày diệu chỉ, vạch ra
chỗ vọng nhiễm mê tình. Chư Tổ đến cõi
này chẳng ngại nhổ đinh tháo chốt, cũng vì
muốn dẫn dắt chúng nhân vượt qua bể khổ trầm luân.
Các Ngài gióng lên tiếng chuông đại từ, thức tỉnh
chúng hữu tình, dựng lại những gì mê đảo.
Từ nhân
duyên đó, ngài Vĩnh Minh Diên Thọ là bậc Đạo sư của nhân
thiên, thị hiện ở Trung Hoa vào cuối đời Đường.
Ngài chỉ ra kho diệu kiến vô kiến, phơi bày
bí tạng viên văn bất văn, nêu cao gương sáng Tông Cảnh, khiến người chưa biết, biết rõ
cái chân tri vô tri, người chưa hiểu có thể hiểu ra và thành tựu đại giải vô giải. Đây quả là
một viên
bảo châu
vô giá, đích thân ngài trao tặng đến từng người. Thật là
hân hạnh cho khách hữu duyên!
Nay đây, các
hành giảtrong Tông môn, một bề muốn nêu
cao ngọn đuốc thiền tông, làm sáng rỡ di
huấn một đời của bậc Tông sư, nối nắm luân lưu nguồn mạch Phật Tổ. Bằng tất cả lòng quy ngưỡng. Ni sưTuệ Đăng và Hân Mẫn đã dồn hết tâm lực trí lực vào tác phẩm này, chuyển dịch Việt ngữ, những mong đời đời được kết duyên trong hội Phật, cùng tất cả chúng sanh đồng vào biển giác.
Trân trọng và thành ý, tôi kính cẩn ghi lời giới thiệu.
Thiền viện Thường Chiếu, ngày 24/06/09
Hân Định Sa-môn THÍCH NHẬT
QUANG
TÔNG CẢNH LỤC
QUYỂN 1
LẬP CHÍNH TÔNG
Chư Tổ nêu bày chân lý thiền, truyền
chính tông bằng sự im
lặng khế hội. Đức Phật phô diễn
Giáo môn, lập đại chỉ bằng lời
nói, bậc hiền
Thánh đi trước đều vâng theo, người
sau hướng về. Thế nên, trước
tiên xin nêu ra chương Tông Chỉ. Vì
có nghi nên hỏi và vì giải quyết điều nghi nên đáp. Nhờ có
hỏi mà nghi tình mở ra và nhờ đáp mà diệu giải thầm
phát sinh, chỗ gọi là Viên tông này khó tin, khó hiểu, đây
là lối nói bậc nhất,
dành cho căn cơ tối thượng.
Nếu tạm
dùng lời nói thì không thể làm tiêu tan tình chấp. Nhân ngón tay chỉ được thấy mặt trăng,
không gì chẳng phải là
môn phương tiện, được thỏ quên
bẫy, tự hợp với đạo thiên chân. Kế đến là chương Vấn Đáp. Chỉ vì đương thời mạt pháp hiếm gặp được bậc đại cơ đại dụng, xét thấy đa phần
tri thức cạn cợt, tâm tính thô phù, căn khí kém cỏi,
trí tuệ hạ liệt,
tuy biết có chỗ hướng về tông chỉ, vấn đáp
quyết nghi để tiêu dần hoặc chướng.
Vì muốn cho người vững
tin nên phải nhờ đến sự chứng minh, dẫn chứng rộng
rãi lời thật của Phật Tổ, thầm hợp với đại đạo
viên thường, chúng tôi góp nhặt yếu chỉ trong khắp
các kinh luận, viên thành chân tâm quyết định.
Sau cùng là chương Dẫn Chứng. Đem
ba chương này nhất quán biên soạn tổng quát đầy đủ ở đây.
Hỏi: Tiên đức
nói: “Nếu dạy ta
lập tông, định chỉ cũng như tìm
lông rùa sừng thỏ”.
Bài kệ trong kinh Lăng Già nói:
Tất cả pháp chẳng sinh
Chẳng nên lập tông này.
Vì sao lại nêu tên chương
này?
Đáp: Đây
là lời nói xóa bỏ sự trệ ngại. Nếu là tông của vô
tông thì tông và thuyết đều thông, cổ Phật đều mở cửa phương tiện,
Thiền tông cũng vạch một con đường,
cần yếu là
không nên chấp vào phương tiện mà
mê đại chỉ quan
trọng và cũng không nên phế bỏ phương
tiện mà bặt dứt
nói năng. Nhưng trước căn cơ không
có giáo pháp, sau khi có giáo pháp thì không có cái chân thật. Giả sử có một giải, một ngộ đều là
rơi vào việc về sau,
thuộc đầu thứ hai.
Cho nên luận Đại Trí Độ nói: “Dùng mắt Phật xem khắp tất cả sự vật
trong mười phương tất cả cõi
nước còn chẳng thấy
không hà huống là có pháp, pháp không rốt ráo hay phá điên đảo, khiến
cho Bồ-tát thành Phật. Việc
này còn không thể được huống
chi làphàm phu điên đảo chấp có
pháp”.
Ngày nay y theo lời chư Phật dạy, căn cứ theo
người học
ngày nay, tùy theo chỗ thấy phát minh tâm tính, lập tâm làm tông. Do đó đức Phật Thích-ca ở Ấn Độ nói:“Phật nói tâm là tông, vô môn là pháp môn”.Sơ tổ Bồ-đề-đạt-ma của
Trung Hoa đã nói: “Đem tâm truyền
tâm chẳng lập văn tự”.
Như thế các đức Phật đời đời trao cho nhau yếu chỉ này, chư Tổ sư truyền nhau cái tâm này. Trên đây là căn cứ vào chỗ lập tông chỉ của chư Phật. Lại chư hiền
Thánh lập tông thể, như hòa
thượng Đỗ Thuận1 y
cứ kinh Hoa Nghiêm lập thể tự tính thanh tịnh
viên minh. Đây tức là
thể pháp tính trong Như Lai tạng. Từ xưa
nay tính tự đầy đủ, ở trong ô nhiễm mà
không nhơ, tu sửa mà không sạch
nên gọi là tự tính thanh tịnh.
Tính thể soi chiếu khắp nơi tối tăm không sót nên gọi là
viên minh, lại theo dòng lưu chuyển ở trên nhiễm mà
không nhơ, nghịch
dòng lưu chuyển trừ nhiễm mà không sạch;
cũng có thể ở trong
Thánh thể mà chẳng tăng, ở nơi
thân phàm mà chẳng giảm.
Tuy có ẩn hiển
khác nhau nhưng không khác biệt, phiền
não che lấp thì thể tính này ẩn mất,
trí tuệ khai sáng thì thể tính này hiển hiện. Không phải do
sinh nhân sinh ra, chỉ do liễu nhân sáng tỏ. Đó là thể của tự tâm
của tất cả chúng sinh. Linh tri chẳng mờ, lặng soi chẳng
sót. Không những là tông của kinh Hoa Nghiêm mà cũng là tất cả giáo thể.
Luận Phật Địa lập một
pháp giới thể thanh
tịnh. Luận nói: “Pháp giới
thanh tịnh là tự thể chân
thật của tất cả Như Lai, tự tính
thanh tịnh từ vô
thỉ đến nay đầy đủ tất cả công đức
tính tướng vượt hơn con số cực vi trần mười phương
thế giới. Vô sinh, vô diệt như hư không,
khắp cả hữu tình, bình đẳng đều có như nhau,
cùng với tất cả pháp chẳng
phải một,
chẳng phải
khác, chẳng phải hữu, chẳng
phải vô, lìa tất cả tướng, tất cả phân biệt, tất cả danh
ngôn đều không thể đạt được, chỉ được chứng đắc bởi
Thánh trí thanh tịnh. Hiển bày nhị không
vô ngã, chân như là tự tính, chư Thánh
phần chứng,
chư Phật viên chứng.
Pháp giới thanh tịnh này là diệu
tâm chân như, là nguồn biển quả của chư Phật
là đất thật tế của quần sinh”. Đây
là lập tên khác của tông, chẳng
phải có thể riêng, có người
nói: Tông là tôn. Vì lấy tâm làm tông nên nói
“Trên trời dưới trời chỉ có
ta là tôn quý”. Hoặc có người nói: Thể là
tính - Lấy tâm làm thể nên nói biết tất cả pháp
là tâm tự tính. Hoặc nói: Người
trí cho tâm là trí, tức là cái dụng của bản tính tịch
chiếu - Do đó nói là “Tự giác
thánh trí hay Phổ quang minh trí” v.v…
Nếu căn cứ nghĩa dụng
mà phân tích thì thể, tông, dụng khác nhau, nếu hội quy bình đẳng
thì một đạo không sai biệt.
Vì thế Hoa Nghiêm Ký Vấn nói
hai vị Đẳng giác và Diệu
giác hoàn toàn đồng với Như Lai
phổ quang minh trí, kết thành “nhập thể” cho nên hội
này nói Đẳng giác và Diệu giác đều đồng với Phổ quang minh trí, tức là nghĩa hội quy.
Hỏi: Về lý Đẳng giác đồng với Diệu
giác là đúng rồi.
Ngoài Diệu giác, có gì đồng với Như Lai Phổ Quang
Minh Trí?
Đáp: Nói Đẳng
giác, Diệu giác là nói về ngôi vị, Phổ quang minh trí không thuộc nhân quả,
trùm suốt nhân quả, nó từ tự giác thánh trí siêu tuyệt nhân quả. Thế nên kinh Lăng
Già ngoài vị Diệu giác lại lập thêm vị Tự giác thánh trí. Cũng như Phật tính có nhân có quả, có nhân nhân có quả quả. Do
nhân giữ lấy nhân là nhân Phật
tính, do quả giữ lấy quả là quả Phật tính. Như vậy Phật
tính chẳng phải
nhân, chẳng phải quả, Phổ quang
minh trí cũng như thế. Thể bặt nhân quả, là
chỗ nương của
nhân quả thì quả mới đạt tới cứu cánh, cho nên nói Như Lai phổ quanh
minh trí hoặc có người gọi là
bản vì lấy tâm làm gốc.
Niết-bàn Sớ nói: “Ý chỉ của niết-bàn là các hạnh đều lấy
tâm đại niết-bàn
làm gốc. Gốc lập thì đạo
sinh như không có cương mục
thì không lập được, không có các chi tiết thì không có gì phụ trợ.
Tông là gốc nên tông cần được dựng lập”.
Hỏi: Nếu muốn sáng tỏ tông
chỉ cần thuần
nêu cao ý Tổ sư đâu cần phải dẫn chứng
ngôn giáo của chư Phật và Bồ-tát để làm chỉ nam,
cho nên trong Tông môn nói: Mượn
con cua làm mắt (trường hợp con thủy mẫu) mà chính mình không có phần, chỉ thành
ông thánh chữ nghĩa chứ không
vào được Tổ vị.
Đáp: Từ xưa chẳng
phải là chư Tổ một bề không
cho xem kinh giáo, nhưng chỉ lo người học không hiểu rõ
lời Phật dạy, chạy
theo văn tự sinh
hiểu biết rồi đánh
mất ý Phật. Để giúp
cho sơ tâm hoặc nhờ lời nói mà đạt được ý chỉ không
tạo tác sự đối trị giữa
tâm cảnh, ngay đó liền liễu suốt Phật tâm thì cũng
chẳng có lỗi gì. Như hòa
thượng Dược Sơn2 suốt đời
xem kinh Đại Niết-bàn,
tay không rời quyển
sách kinh. Một hôm đệ tử hỏi ngài:
- Hòa thượng bình thường
không cho người học
xem kinh, tại sao hòa thượng lại
xem?
Sư đáp: Chỉ là để che mắt.
- Đệ tử xem được không?
Sư đáp: Nếu ngươi xem thì da trâu cũng
phải thủng!
Lại như vị Tổ sư thứ nhất ở Ấn Độ là Ngài Ma-ha Ca-diếp được đức Phật Bổn Sư Thích-ca
Mâu-ni truyền tâm ấn đầu
tiên và trở thành Sơ Tổ,
các tổ sư lần lượt truyền
nhau cho đến vị tổ thứ sáu ở Trung Hoa, đều là đệ tử Phật.
Nay dẫn lời dạy của Bổn Sư chỉ dạy đệ tử đểlàm cho mọi người nhân lời
nói được gần đạo, thấy được pháp, biết
tông, không rong ruổi tìm kiếm bên ngoài, chính mình sáng tỏ ý Phật, được yếu chỉ liền
vào Tổ vị. Ai đâu đàm luận về môn đốn tiệm, thấy
tính liền chứng
viên thông còn nêu ra địa vị trước
sau ư! Nếu như thế,
nào có gì trái nhau!
Như từ hai mươi
tám vị Tổ sư Ấn Độ và
Tổ thứ sáu ở Trung
Hoa cho đến đại sư Hồng Châu Mã Tổ3, quốc sư Nam
Dương Tuệ Trung4,
thiền sư Nga
Hồ Đại Nghĩa5,
thiền sư Tư Không Bản Tịnh6 v.v... đều bác thông kinh luận và
viên ngộ tự tâm, khi dạy đồ chúng các vị đều chân thật đem kinh luận dẫn chứng,
hoàn toàn không đem tri kiến riêng chỉ vẽ hư dối. Thế nên đóa hoa chân thật vượt thời
gian, gió mưa không thể làm rơi rụng. Dùng Thánh ngôn làm định lượng,
tà ngụy khó có thể làm dời đổi, dùng chí giáo làm chỉ nam, chỗ nương dựa có
căn cứ.
Do đó hòa thượng Khuê Phong7 nói: “Thỉ tổ của các tông là Phật
Thích-ca, kinh là lời của Phật,
thiền là ý của Phật”.
Tâm và miệng của chư Phật
không hề trái nhau, chư Tổ truyền nhau cội rễ do chính Phật
trao lại, Bồ-tát
tạo luận trước sau chỉ nhằm triển
khai kinh Phật, huống
chi từ ngài Ca-diếp8 đến ngài Cúc-đa9 truyền bá rộng
rãi gồm cả ba
tạng rồi đến các Tổ sư Mã Minh10, Long Thụ11 viết luận giải
thích kinh số đến mười
muôn kệ, theo sự quán sát hoàn cảnh để giáo
hóa chúng sinh không có lề lối cố định. Do đó hễ xưng
là tri thức thì pháp nhĩ cần phải thấu tỏ lời Phật ấn khả tự tâm.
Nếu không tương ưng với viên giáo nhất thừa liễu
nghĩa thì dù chứng Thánh quả cũng chẳng
phải cứu
cánh. Nay xin ghi chép vài điều dẫn chứng.
Đại sư Hồng Châu Mã Tổ nói:
“Đại sư Đạt-ma từ Nam Ấn sang chỉ truyền pháp đại thừa nhất
tâm, dùng kinh Lăng Già để ấn
tâm chúng sinh vì e người ta
không tin pháp nhất tâm này”.
Kinh Lăng Già nói: “Phật
nói tâm là tông, vô môn là pháp môn”.
Vì sao Phật nói tâm là tông? Phật nói tâm là tức
tâm tức Phật.
Nay nói tức là tâm ngữ nên nói Phật
nói tâm là tông.
Vô môn là pháp môn nghĩa là đạt được bản
tính không thì không còn một
pháp, tính tự nó là cửa vào (môn), tính không có tướng nên cũng
không có môn; chonên nói: Vô môn là pháp môn, cũng gọi là
không môn, hoặc sắc
môn. Vì sao? Vì không là pháp tính không, sắc là pháp tính sắc.
Không hình tướng nên gọi là không, tri kiến vô
tận nên gọi là sắc.
Do đó kinh nói: Như Lai sắc vô
tận, trí tuệ Phật cũng thế.
Tùy sinh vào các cõi lại có vô lượng môn tam-muội,
xa lìa tình chấp thấy biết trong ngoài, cũng gọi là môn tổng
trì, hoặc gọi là
Thí môn. Thí môn nghĩa là không nghĩ nhớ các
pháp thiện ác trong ngoài cho đến thảy đều là các môn ba-la-mật. Sắc
thân Phật là cái dụng của thật tướng
Phật.
Kinh nói: “Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp đều từ tâm
tưởng sinh, còn gọi là pháp tính gia diệm (ánh sáng pháp tính) hoặc pháp tính công huân”. Lúc Bồ-tát thực
hành bát-nhã lửa trí đốt cháy mọi vật trong ngoài ba cõi đều sạch hết mà trong ấy
không tổn hoại một cọng cỏ, bởi tướng các pháp là “như”.
Do đó kinh nói: “Chẳng hoại nơi thân mà tùy nhất tướng”. Nay biết tự tính là Phật,
trong tất cả thời đi, đứng, nằm ngồi không có một
pháp có thể được, cho đến
chân như cũng chẳng
thuộc vào tất cả tên
gọi và cũng không vô danh. Vì thế, kinh nói: “Trí chẳng đắc hữu
vô, trong ngoài chẳng tìm cầu, mặc
cho bản tính kia và cũng chẳng
có cái tâm mặc cho tính kia”.
Kinh nói: “Các loại ý sinh thân, ta nói là tâm lượng. Tức là
tâm vô tâm, lượng vô lượng, không tên mới là
tên thật, không cầu mới là
thật cầu”.
Kinh nói: “Cầu pháp nên vô sở cầu, ngoài tâm không riêng có Phật, ngoài Phật
không riêng có tâm, chẳng giữ điều thiện,
chẳng làm điều ác, nhơ sạch cả hai bên đều
không dính dáng, không tự tính,
ba cõi chỉ là tâm”.
Kinh nói: “Sum la vạn tượng
là chỗ ấn của một pháp, thấy sắc đều là
thấy tâm, tâm không tự là tâm, nhân sắc nên nhận ra
tâm; sắc không tự là sắc,
nhân tâm nên có sắc”. Do đó kinh nói: “Thấy sắc tức là
thấy tâm”.
Quốc sư Nam Dương
Tuệ Trung nói: “Pháp thiền tông nên căn cứ lời Phật dạy nhất thừa liễu nghĩa,
phù hợp với bản nguyên tâm địa lần lượt
truyền trao đồng với Phật đạo,
không nên nương vào vọng tình và giáo bất liễu nghĩa
càn bướng lấy
làm kiến giải,
gieo nghi lầm kẻ hậu học
không được lợi
ích gì cả. Dù nương theo bậc thầy lĩnh
thụ tông chỉ nếu
phù hợp với
giáo liễu nghĩa
thì nên theo đó hành trì, nếu phù hợp với giáo bất liễu nghĩa
thì chẳng thể chấp nhận.
Ví như trùng trong thân sư tử tự ăn thịt sư tử, chẳng
phải thiên ma, ngoại đạo có
thể phá diệt Phật
pháp”.
Khi ấy có thiền
khách hỏi: Cái gì là tâm Phật?
Sư đáp: Tường
vách, gạch ngói, các vật vô tình đều là
tâm Phật.
Thiền
khách hỏi: Như vậy là trái với
kinh rồi! Kinh nói: Lìa các vật vô tình như tường vách, gạch
ngói gọi là Phật tính. Nay sư nói:
Tất cả vật vô tình đều là
tâm Phật, chưa biết rõ tâm và tính là khác hay không khác?
Sư đáp: Người mê
thấy khác, người ngộ thấy không khác.
Hỏi: Kinh nói: “Này thiện
nam, tâm chẳng phải Phật tính, Phật
tính là thường, tâm là vô thường”, nay sư nói
không khác, chưa rõ ý này như thế nào?
Sư đáp: Ông tự y
theo lời mà chẳng y theo nghĩa.
Ví như mùa lạnh nước đông lại
thành băng, đến mùa nóng băng
tan thành nước. Lúc chúng sinh mê, kết tính thành tâm, lúc ngộ thì cởi mở tâm thành tính. Ông nhất quyết chấp vật vô
tình không phải là tâm thì lẽ ra kinh điển không nên nói ba cõi chỉ là tâm. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nên
quán pháp giới tính, tất cả chỉ do tâm tạo”.
Nay tôi thử hỏi ông vật vô
tình ở trong hay ở ngoài ba cõi? Lại là tâm hay chẳng
phải tâm. Nếu chẳng
phải tâm thì kinh không nên nói ba cõi duy
tâm. Nếu là tâm lại cũng
không nên nói vô tính. Ông tự trái
với kinh, còn tôi không trái.
Thiền sư Đại
Nghĩa ở Nga Hồ nhân được chiếu chỉ vua mời
vào cung, ngài hỏi các vị đại sư ở kinh
thành: Các đại đức lấy gì
làm đạo?
Có người trả lời: Lấy tri kiến
làm đạo.
Sư bảo: Kinh Duy-ma-cật
nói: “Pháp lìa thấy nghe hiểu biết”,
sao lại lấy
tri kiến làm đạo?
Có người đáp: Vô phân biệt
là đạo.
Sư bảo: Kinh nói: “Khéo hay phân biệt các pháp tướng,
nơi đệ nhất
nghĩa bất động”, tại
sao cho vô phân biệt là đạo?
Hoàng đế lại hỏi: Thế nào
là Phật tính?
Đáp: Chẳng
lìa câu hỏi của bệ hạ.
Hoặc có
người đáp: Chỉ thẳng sáng tỏ tâm,
hoặc phá chấp nhập đạo, dùng nhiều phương cách, chấp định bí mật, vận dụng
trí vô đắc, khuất phục
tâm hữu lượng,
v.v...
Thiền sư Bản Tịnh ở núi
Tư Không bảo các đại đức ở kinh
thành: “Các vị chớ chấp
tâm”. Cái tâm này đều do
tiền trần mà
có, như bóng trong gương không có thực thể. Nếu chấp thật có
thì đánh mất bản nguyên luôn luôn vô tự tính.
Kinh Viên Giác nói: “Lầm nhận bốn đại làm thân tướng của mình, bóng duyên sáu trần làm tướng của tự tâm”.
Kinh Lăng Già nói: “Chẳng
rõ tâm và duyên thì sẽ sinh hai thứ vọng tưởng, rõ được
tâm và cảnh thì vọng tưởng
chẳng sinh”.
Kinh Duy-ma-cật nói:
“Pháp chẳng phải thấy nghe, hiểu biết”.
Xin dẫn ba
kinh để chứng minh cho lẽ chân
thật này.
Đệ tử của Ngũ Tổ là đại sư Trang Nghiêm một đời dạy đồ chúng
chỉ đem bốn
câu cuối của
bài tụng ca ngợi Phật của trưởng
giả Bảo Tích trong kinh Duy-ma:
Chẳng nhiễm thế gian như hoa sen
Thường khéo
nhập vào hạnh không tịch
Đạt các
pháp tướng
không quái ngại
Cúi lạy hư không vô sở y.
Người học hỏi: Đây là lời của Phật nói, tôi muốn được nghe lời của chính hòa thượng.
Sư nói:
Phật nói tức là ta nói, ta nói tức là Phật
nói. Thế nên Sơ Tổ từ phương
tây đến khai mở thiền đạo, muốn
truyền tâm ấn phải nhờ vào kinh Phật, lấy kinh Lăng Già để chứng minh. Nên biết là
phải từ giáo
môn mới ngăn dứt được sự hủy
báng của ngoại đạo và được người sau thừa nhận. Dòng dõi nhà thiền hưng thịnh,
tông phong huyền diệu khắp nơi.
Thế nên người sơ tâm
mới học chưa tự tỉnh phát, nếu chẳng nhờ chính
tông của Thánh giáo thì nhờ vào đâu
tu hành tiến đạo, giả sử không tự sinh
vọng kiến
thì cũng là gặp toàn tà sư,
cho nên nói mắt ta vốn chính, do ông thầy mà
trở nên tà. Chín mươi sáu phái ngoại đạo Ấn Độ đều
thuộc loại
này. Vì thế ta nên biết nếu
không có dây mực của thợ mộc
thì không thể ngay thẳng lý không có giáo thì không thể trọn vẹn. Những điều đã dẫn
trên đều là đại thiện
tri thức, bậc
tông sư tự tại,
hàng cự phách trong vườn thiền,là
gương sáng của cửa Tổ, dạy một lời mà
gió bay chớp nhoáng, nói một tiếng
mà núi nghiêng biển cạn, khiến cho vua chúa sớm
chiều hết
lòng kính ngưỡng, tùng lâm giữ lấy
làm qui tắc để người
sau vâng theo, hoàn toàn không phải
phát xuất từ tâm
mình, trái với lời Phật.
Như có
giải thích những điều nghi, loại bỏ hư ngụy với mục đích
là hiển bày tính và làm sáng tỏ tông, mỗi mỗi đều dẫn kinh văn,
trình bày ý Phật đầy đủ. Như thế để cho sự lưu truyền được nối tiếp mãi mãi cho đếnsau
này, gia phong không đi xuống. Nếu
không như thế thì đâu
thể tiếp tục hưng thịnh
cho đến ngày nay, như thế pháp
lực đã chứng
nghiệm không dối. Nếu muốn nghiên cứu Phật thừa,
truy tìm bảo tạng,
nhất nhất đều nên trở về chính mình, mỗi mỗi lời
khiến thầm hợp chântâm. Chỉ đừng nên trên nghĩa chấp văn,
theo lời nói sinh (hiểu biết)
kiến chấp,
ngay đó tìm tòi ý chỉ qua lời
nói khế hợp với bản tông, thì trí vô sư sẽ hiện tiền, đạo thiên chân không mờ mịt.
Như kinh
Hoa Nghiêm nói: “Biết tất cả pháp
tức là tâm tự tính, thành tựu tuệ thân, được
giác ngộ không nhờ người
khác”.
Chúng ta nên biết giáo pháp có công năng trợ đạo, sơ tâm đâu có thể tạm quên vì biết rõ
ràng về sự lợi
ích vô biên của giáo pháp nên xin sưu tầm
ghi chép. Khi nói đến
tông chỉ chỉ phù hợp với căn cơ đốn ngộ như mặt trời
chiếu sáng núi cao, như con ngựa giỏi trông thấy
bóng roi. Vì thế hòa thượng Đơn Hà
nói: “Gặp nhau không trình ra, nêu ý liền biết
có”.
Ngày nay Tông Cảnh còn chẳng đợi nêu ra ý chỉ liền tự biết có (tri hữu).
Do đó kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Rõ biết
sáng suốt hoàn toàn không do tâm niệm”. Nhướng
mày, chớp mắt đã là ngăn
che.
Tiên đức có bài tụng:
Vẫn là thêm một câu,
Chớp mắt liền sai trái
Nếu hỏi ý chỉ Tào Khê12
Lại chẳng đợi nhướng mày
Hôm nay vì người ưa
thích Phật thừa
song thực sự chưa lãnh ngộ nên
tạm dùng Tông Cảnh trợ giúp
hiển bày chân tâm. Tuy mang văn ngôn diệu chỉ vào đây
nhưng cũng
giúp cho cả sáu căn cơ trung
hạ, tùy theo đương nhân mỗi người đều được lợi
ích. Trăm sông tuy thấm nhuần đâu ngại sự hàm chứa
bao la của biển lớn, năm
núi dù cao vót chẳng ngăn mặt trời
chiếu soi khắp. Vì căn cơ khác nhau nên sự ưa
thích chẳng đồng, nơi bốn cửa
vào tuy khác nhưng khi thấy cái nhất
chân thì không khác. Cũng như việc bắt chim, một mắt lưới
không thể cho đó là cái lưới;
việc trị quốc gia, công lao ở một người nhưng
không thể cho rằng một người là một quốc gia.
Như luận Nội Đức ghi:
“Một giọt nước không thể nấu thành canh, một mảnh gỗ không
thể làm nên nhà, một cái áo không thể gọi là các thứ hình
thể, một thứ thuốc
không thể trị các bệnh
khác nhau, một màu không thể dùng làm lụa
thêu ngũ sắc, một âm
thinh không thể hòa âm tiếng đàn cầm sắt, một lời
nói không thể khuyên nhiều điều lành, một giới không thể ngăn nhiều tội lỗi”.
Đâu nên lấy
làm lạ về sự khác
biệt giữa đốn tiệm và
muốn khiến
cho chỉ chuyên một pháp môn.Cho nên nói vì một người,
nhiều người cũng như vậy, như vì
nhiều người, một người cũng vậy
thôi, nào có như sự hiểu biết kém cỏi,
tình thức phàm phu mà sinh kiến chấp cục bộ. Ở đây
tôi không ngại pháp môn rộng lớn như hư không,
chẳng phải tướng, chẳng
chống đối các tướng
mà phát huy, tợ như pháp tính vô thân chẳng ngại
các thứ thân liền hiện.
Nên đem nghĩa lục tướng để bao
quát cái kiến chấp đoạn thường mới
tiêu tan, dùng thập huyền
môn dung thông tình chấp thủ xả mới dứt bặt. Vả lại, nếu thật được một nghe nghìn ngộ, được đại tổng trì thì đâu
phải mượn lời nói và nhọc
công giải thích, như con thuyền đưa người
qua bến mê, người hướngđạo dẫn dắt kẻ lạc lối. Hễ còn quan hệ đến ngữ ngôn, đối với chỗ khai thị của viên tông đều là
chưa rõ văn tự tính
ly tức là giải thoát, mê tính chân thật của tất cả pháp,
hướng tâm ra ngoài nắm bắt
pháp và khởi kiến chấp trên văn tự. Nay tôi trở lại dùng văn tự để đối trị, chỉ ra cái chân thật. Nếu ngộ bản
nguyên của các pháp thì chẳng thấy có
văn tự và
cũng chẳng
thấy một mảy may, mới biết tất cả pháp là tâm tự tính;
như thế cảnh
trí dung thông, sắc không đều tiêu mất,
ngay lúc ấy tự chứng mé viên minh. Lúc thể nhập một pháp bình đẳng,
lại còn có pháp gì là giáo mà phải lìa, pháp gì là Tổ mà đáng quí trọng,
pháp gì là đốn mà phải giữ lấy, phápgì là tiệm mà
xả bỏ, nếu thế thì đều biết là thức
tâm ngang trái sinh phân biệt.
Do đó chư Phật khéo lập
bày quyền môn, các phương tiện
giáo thừa đầy đủ phù
hợp các căn cơ, mới được kiến tính liền được vô tâm. Đó là
lúc bệnh hết
thuốc cũng
chẳng dùng đến nữa,
giáo quán đều bặt.
Như bài
kệ trong kinh Lăng Già:
Chư thiên và Phạm thừa (Thiên thừa)
Thanh văn, Duyên giác thừa
Chư Phật Như Lai thừa
Ta nói các thừa này
Cho đến có tâm chuyển
Các thừa chẳng cứu cánh
Nếu tâm kia diệt tận
Không thừa và kẻ thừa
Không có thừa kiến lập
Ta nói là Nhất thừa
Vì dìu dắt chúng sanh
Phân biệt nói các thừa.
Cho nên Cổ đức
nói: Một khi mắt nhặm
thì thấy nghìn hoa bay loạn xạ trong
hư không, một niệm vọng trong tâm sẽ có
Hằng sa sự sinh diệt. Bệnh nhậm trừ, hoa đốm
tan hết, cái vọng dứt liền chứng
chân thật. Bệnh bớt thuốc giảm, băng
tan còn nước. Thuốc thần
chín lần chuyển, điểm sắt
thành vàng. Một lời
nói chí lýchuyển phàm thành Thánh. Tâm cuồng loạn
không hết, tâm cuồng loạn hết là bồ-đề, gương
tâm sáng sạch xưa
nay là Phật.
Hỏi: Qua những điều trình bày trên biết được đại ý,sao lại
còn giải thích rộng thêm ở phía
dưới?
Đáp: Bậc thượng căn
trí tuệ bén nhạy do túc nghiệp đời trước vừa thấy một chữ của đề mục là đã
vào biển trí của Phật,
hoàn toàn dứt sạch
hoài nghi, chợt sáng tỏ đại chỉ.Như vậy một lời nói không gì chẳng
tóm lược hết nhưng thu nhiếp
không sót. Nếu xem hết một trăm quyển
cho đến nghĩa
thú Hằng sa như bảo tạng ở Long
cung hoặc kim văn ở Linh
Thứu thì tuy nói cách khác nhưng đường lối không khác, mở ra
trùm khắp cả pháp
giới.
Trước
tiên nói sơ lược, sau đó
nói rộng chỉ là
nhất tâm, trước sau đều là
nhất tế, trọn không khác ý chỉ, nhưng khác với
tông trước, vì tông ấy nói là do mê tình vọng khởi thủ xả. Người chỉ thấy giấy mực, văn tự đâm
ra ngán quyển sách dày cộm, chỉ chấp lặng lẽ vô ngôn, ưa thích tỉnh yếu, đều là
mê tâm chạy theo cảnh, trái giác hợp trần, chẳng
thấu suốt bản nguyên của động tịnh,
chẳng đạt được chỗ khởi của một
(nhất) và nhiều (đa).
Thiên lệch sinh khởi kiến chấp cục bộ chỉ sợ đa văn, như Tiểu thừa sợ pháp không, tợ như Ba Tuần e
ngại các pháp lành. Vì không đạt được
tính chân thật của
các pháp cho nên theo các tướng
chuyển rơi
vào hữu vô.Như kinh Đại Niết-bàn nói: “Nếu người nghe nói một chữ một
câu trong kinh Đại Niết-bàn, không tác tướng văn tự,
không tác tướng ngôn cú, không tác tướng nghe, không tác tướng Phật,
không tác tướng nói. Nghĩa như vậy gọi là
tướng vô tướng”.
Giải
thích: Nếu nói tức văn tự vô tướng
là thường kiến, nếu nói ly văn tự vô tướng
là đoạn kiến. Nếu chấp tướng hữu, tướng cũng là thường
kiến; nếu chấp tướng
vô, tướng cũng
là đoạn kiến. Chỉ cần mất đi tất cả mọi kiến chấp
thuộc tứ cú
bách phi tức, ly, đoạn, thường, yếu chỉ liền tự hiện
bày. Ngay lúc thể nhập vào Tông Cảnh
làm sao văn ngôn, thức trí có thể tuyên
nói ư?
Do đó Tiên đức
nói: Nếu tìm kinh chân như liễu
tính không thể nghe; nếu tìm pháp thì vào trong núi hỏi Ca-diếp, đại sĩ lĩnh y tại
núi Kê Túc, vô tình chẳng cần cầu áo
giáp chuyên môn, đây há có thể vận dụng tâm thấy
nghe hiểu biết để tìm hiểu cú
nghĩa văn tự? Nếu người tỏ được tông, đạt được tính tuy có nghiên cứu rộng cũng chẳng
thấy tướng của một chữ, không hề khởi sự hiểu biết
trên ngôn từ. Vì người mê tâm làm vật
nên mới sinh ra cái thấy trên giấy mực này.
Cho nên Tín Tâm Minh nói:
Sáu trần chẳng xấu
Lại đồng Chính giác
Người trí vô vi
Kẻ ngu tự trói.
Nếu thấu suốt điều này chắc chắn
sáu trần đều là chân tông, muôn pháp thảy đều là
diệu lý, đâu còn hạn cuộc nơi kiến giải hẹp hòi mà mê mờ đại chỉ! Há
chẳng biết cảnh giới
bao la của chư Phật và môn tác dụng của Bồ-tát ư ? Vì thế,
nên Long Vương ở biển lớn đặt ra
mười nghìn câu hỏi, Phật
Thích-ca mở ra tám muôn cửa độ sinh,
Bồ-tát Phổ Tuệ trình
hai trăm điều nghi, Bồ-tát Phổ Hiền giải đáp hai nghìn luận đề hùng biện.
Như pháp môn Phổ Nhãn của
kinh Hoa Nghiêm, giả sử có người
dùng lượng mực như biển lớn và số bút
như núi Tu-di viết một
câu trong một nghĩa, một nghĩa
trong một pháp, một pháp trong một
môn, một môn trong một phẩm của pháp môn Phổ Hiền này cũng
chẳng được chút phần huống chi có thể hết được.
Như trong Kinh Đại Niết-bàn, Phật
nói: “Sự giác ngộ của ta
về tất cả pháp
như mặt đất
sinh cây cỏ, còn những điều ta dạy
chúng sinh như lá cây trong tay, như ta thuyết
pháp giáo hóa ở Long cung Bồ-tát Long Thụ tạm thấy có
một trăm mười vạn xuất hiện ở thế gian, ở bốn
cõi trời còn chưa được một phần trăm”.
Giáo pháp ấy truyền đến Đông độ (Trung Hoa), do đó nói là không đầy đủ hết được huống chi có những điều Phật chưa
thuyết pháp? Đó là vô tận ý
chỉ vi diệu, trí thức
nông cạn không thể biết được. Pháp môn tính khởi,
tri giải kém cỏi làm sao xem thấu như chim én, se sẻ đâu lường được chí của
chim hồng, chim hộc; chú ếchtrong
giếng đâu biết đáy biển
xanh sâu thẳm; như sư tử rống to còn chồn
cáo không thể rống được;
như hương tượng
có sức chuyên chở mà lừa
không thể kham; như bảo vật của Tỳ-sa-môn kẻ nghèo
làm sao bằng được; như kim
xí điểu
bay xa chim thường không sánh kịp! Chỉ theo
tình thức khởi kiến chấp,
chỉ chạy theo vật
mà đổi dời ý,
hoặc nói hữu nhưng
không rõ không, hoặc nói không mà không chấp nhận hữu, hoặc
nói đơn giản là
cái một (nhất)
ngoài cái nhiều (đa),
hoặc nói rộng là cái nhiều
ngoài cái một; hoặc
lìa im lặng mà chấp ngôn ngữ, hoặc lìa ngôn ngữ mà
tìm im lặng; hoặc căn cứ vào lý ở ngoài
sự, hoặc
dính mắc vào sự ở ngoài
lý, trọn không có thể ngộ viên
tông tự tại này. Nói rộng
chẳng phải
nhiều; đây là cái nhiều
trong cái một; nêu ra sơlược chẳng phải là
một; đây là cái một
trong cái nhiều. Nói không chẳng đoạn, đây
là cái không của hữu
nói hữu chẳng
thường, đây là cái hữu của không. Hoặc có
nói cũng được, đây
là nói trong im lặng; hoặc không nói cũng được, đây
là im lặng trong nói năng; hoặc lý
sự tương tức cũng được,
lý này là lý thành sự, sự này là sự hiển bày lý; hoặc lý
lý tương tức cũng được vì
nhất như không
hai, chân tính thường dung hội; hoặc sự sự tương tức cũng được, đây là sự của toàn lý mỗi mỗi vô ngại;
hoặc lý sự bất tức cũng được vì lý của
toàn sự chẳng phải sự sở y
chẳng phải năng y nên chẳng ẩn chân đế; do
sự của toàn lý chẳng
phải lý năng y chẳng
phải sở y
nên không hoại tục đế, đây
là một biên tế còn mất, đồng thời ẩn hiện.
Như khai mở pháp môn Phổ Nhãn đều là nghĩa ở trong lý, như mở ra quyển
kinh đại thiên, chẳng phải
phô bày văn tự ở ngoài tâm, cho nên kinh nói: “Một pháp hay sinh vô lượng nghĩa,
chẳng phải chỗ biết của Thanh văn,
Duyên giác, chẳng đồng với
cái kiến chấp
quyết định thiên khô đơn điệu, thiên lệch đản
không”.
Ngày nay diệu chỉ vô
tận này đưa ra một
pháp mà những pháp có liên hệ theo đó
sinh; tính tông viên mãn nêu ra một
môn mà các môn đều gặp nhau cả, chẳng thuần,
chẳng tạp,
chẳng một,
chẳng nhiều, như ngũ vị làm
thành canh, nhiều màu sắc làm thành lụa
thêu, các của báu làm thành kho tàng, trăm thứ thuốc làm thành viên thuốc. Bên ngoài dung thông thì nghĩa vị đầy đủ.
Tìm tòi chọn lọc sự vi diệu khắp trong Tông Cảnh gồm có y chính đầy đủ nhân quả vô
ngại, nhân pháp không hai, trước sau đồng
thời. Phàm nêu lên một môn đều có
thể thu trọn vẹn vô
tận pháp giới; chẳng
ngoài, chẳng trong, chẳng một,
chẳng nhiều, buông ra thì đi vào trùng trùng, thu vào thì chân môn tịch tịch.
Như trong kinh Hoa Nghiêm, nơi vật
trang nghiêm trong tòa sư tử đều xuất hiện
thân Bồ-tát số nhiều như vi trần một cõi Phật. Đây là y chính, nhân pháp vô ngại. Lại như giữa chặn mày của Phật xuất hiện các Bồ-tát
nhiều như vi
trần trong thế giới của Phật như PhậtThắng Âm v.v... Đây
là nhân quả trước sau vô ngại
cho đến cõi nước vi trần, mỗi mỗi đều đầy đủ trí đức vô
biên. Mỗi lỗ lông
trên thân, mỗi mỗi đều thu nhiếp
pháp môn rộng lớn.
Vì sao có điều kỳ lạ,
khó nghĩ như thế? Vì
là nhất tâm dung chứa nên được như vậy.
Nói tóm lại chỉ tất cả vô
biên Phật sự sai
biệt đều không lìa chân tâm vô tướng mà có, như bài
tụng trong kinh Hoa Nghiêm nói:
Phật trụ sâu xa chân pháp tính
Tịch diệt vô tướng đồng hư không
Nhưng ở trọng đệ nhất thật nghĩa
Thị hiện tất cả mọi việc làm
Những điều lợi ích cho chủng sinh
Đều nương pháp tính mà có được
Tướng và
vô tướng
không sai biệt
Nhập vào cứu cánh đều vô tướng.
Bài tụng trong luận Nhiếp Đại Thừa nói:
Chính các tam-ma-địa,
Phật nói đó là tâm
Do tâm vẽ màu sắc
Như sự nghiệp đã tạo.
Thế nên
biết phàm Thánh là do sự tạo
tác các nhânduyên chân tục, một niệm
tâm này sinh khởi trong một sát-na có đầy đủ sáu nghĩa
tam tính tam vô tính. Nghĩa
làmột niệm của tâm là pháp duyên khởi, là y tha khởi;
tình chấp hữu thực là biến kế sở chấp; thể vốn không tịch
là viên thành. Tức căn cứ tam tính nói tam vô tính nên đầy đủ sáu
nghĩa vậy. Nếu một niệm tâm khởi đầy đủ sáu
nghĩa này tức là đầy đủ tất cả pháp, bởi vì
tất cả chân
tục vạn
pháp không ra khỏi tam tính tam vô tính.
Do đó luận Pháp Tính nói:
“Hễ có khởi diệt đều chẳng
phải là tính. Vì khởi không có tính khởi
nên tuy khởi mà không thường; diệt
không có tính diệt nên tuy diệt mà không đoạn. Nếu có
tính thì chắc chắn sẽ kẹt
vào trong lưới bốn thứ kiến chấp.
Lại
nói: “Tìm tướng để biết
tính,thấy các pháp vô tính, tìm tính để cầu tướng, thấy
các pháp vô tướng, thế nên tính tướng
suy xét lẫn nhau, thảy đều là
vô tính. Do đó nếu chấp tính có thì rơi
vào rừng tà của bốn loại kiến chấp, nếu thấu suốt
tính không thì quy về chính đạo nhất
tâm”.
Thế nên kinh
Hoa Nghiêm nói: “Tự mình
thể nhập sâu pháp chân thật vô
tự tính cũng khiến
cho người vào được pháp chân thật vô
tự tính thì tâm được an ổn”. Đạt được sự vi diệu như thế mới vào được
tông này, ắt hẳn vật vật đều ngầm biểu hiện
cái chân thật, lời lời thảy khế hợp với tông chỉ. Nếu chính mình chưa tỉnh giác chẳng
phát huy được viên cơ thì nói ra ắt trái tông, im lặng e
càng lầm lỗi, đâu có thể dùng
tứ cú để nắmlấy sự hiểu biết của lục
tình. Nhưng Tổ giáo
cùng bày ra định tuệ song
chiếu để tự lợi và lợi
tha nào có lỗi gì! Giả sử có
kẻ chấp chặt kiến giải của mình và không tin, Phật bảo là
tự khởi chướng
tâm, làm bặt đường học hỏi của người khác.
Nay có mười câu hỏi để định kỹ cương:
1-Được rõ
ràng kiến tính như ban ngày nhìn thấy màu sắc tựa như Văn-thù chăng?
2-Lại gặp duyên đối cảnh thấy sắc nghe tiếng dở chân hạ chân,
nhắm mắt, mở mắt đều được
sáng tỏ tông, cùng với đạo tương ưng
chăng?
3-Khi đọc lại
giáo pháp của một đời Phật và
nghe sâu ngôn cú của Tổ sư từ xưa chẳng sợ hãi, đều được biết như thật không nghi chăng?
4-Vì những thắc mắc khác nhau được đem ra cật vấn ngài có thể đầy đủ tứ biện để giải
quyết tất cả những điều nghi ấy chăng?
5-Mọi
lúc mọi nơi
trí chiếu soi không trệ ngại,
niệm niệm
viên thông, không thấy có một pháp hay gây chướng
ngại, trong khoảng một
sát-na chưa từng bị gián đoạn chăng?
6-Đối với tất cả cảnh
giới thuận
nghịch tốt xấu trước mắt vẫn
không bị gián cách đều biết rõ
và phá vỡ được chăng?
7-Trong tâm cảnh của Bách
Pháp Minh Mônmỗimỗi đều
trình bày vi tế chỗ khởi căn nguyên của thể tính chẳng
phải là chỗ hoặc loạn của căn trần
sinh tử chăng?
8-Hướng
trong bốn oai nghi đi, đứng,
nằm, ngồi thừa nhận
hay chỉ lúc mặc áo, ăn cơm, làm việc mỗi mỗi đều rõ được
cái chân thật chăng?
9-Nghe nói có Phật không Phật,
có chúng sinh không chúng sinh, hoặc
khen ngợi, hoặc phỉ báng, hoặc phải hoặc
trái, được nhất
tâm bất động chăng?
10-Nghe nói về trí sai biệt đều có thể minh đạt tính tướng
và thông suốt lý sự không trệ,
không có một pháp chẳng rõ nguyên ủy của nó cho đến
nghìn Thánh xuất hiện ở thế gian, được không nghi chăng?
Nếu thật chưa được công phu như thế, không nên khởi
tâm dối trá (qua đầu) qua mặt,
hoặc sinh ý tưởng tự cho
là đủ, nên cần phải
phô bày giáo pháp và rộng hỏi người đi trước,
thấu triệt
cái nguồn tự tính
của chư Phật, đạt đến chỗ tuyệt học
không nghi. Lúc ấy mới có thể dứt học,
tàn lạnh tâm rong ruổi. Hoặc tự biện
thì thiền quán tương ưng,hoặc vì người
thì phương tiện
khai thị. Dù không thể tham cứu khắp pháp giới
nghiên tầm rộng
rãi kinh điển,
chỉ xem kỹ trong Tông Cảnh tự nhiên cũng được thể nhập. Đây
là cửa hướng đạo chính yếu của các pháp, như giữ người mẹ để biết đứa
con, được gốc mà
biết ngọn,
giăng lưới mỗi lỗ lưới đều
ngay thẳng, kéo vải mỗi mỗi sợi chỉ đều đến, như lấy gân sư tử làm dâyđàn,
vừa khảy
lên một tiếng tất cả dây đàn khác đều bặt dứt. Năng lực của Tông Cảnh cũng như thế. Đưa
Tông Cảnh lên muôn loài đều mất
ánh sáng, phô bày Tông Cảnh
thì các cửa bặt dấu. Đem một vấn đề này thì phá vỡ nghìn
con đường, đâu cần phải khổ nhọc vượt ải qua bến tạo riêng lối tẻ.
Vì thế Chí
Công Ca :
Sáu giặc hòa quang đồng trần
Vô lực rất khó gởi gắm
Nội phát giải không vô tướng
Đại thừa lực hay lật nhào.
Chỉ ngay
lúc tham khảo sâu xa đạt được yếu chỉ có
thể chứng nghiệm cứu cánh chân thật của bản văn này.
VỀ TÁC GIẢ
Thiền sư Diên Thọ (904-975)
sống vào thời Ngũ Đại cuối đời Đường,
là tổ thứ ba của
tông Pháp Nhãn, tổ thứ sáu của
tông Tịnh Độ, Sư họ Vương,
tự Trọng Huyên, hiệu Bảo Nhất Tử, quê ở đất Dư Hàng,
phủ Lâm An, huyện Hàng, tỉnh
Chiết Giang, Trung Quốc.
Lúc đầu, Sư làm
quan, năm 30 tuổi Sư theo
thiền sư Thúy
Nham Lệnh Tham ở chùa Long Sách xuất gia. Sau, Sư đến núi Thiên Thai tham kiến Quốc sư Đức
Thiều, tu tập thiền định đạt được ý chỉ huyền diệu.
Trong thời gian ở chùa Quốc
Thanh, Sư hành Pháp Hoa Sám; buổi sáng Sư phóng
sinh các loài, buổi chiều
cúng thí quỉ thần, đọc tụng kinh Pháp Hoa, chuyên tu tịnh nghiệp. Sư hoằng
pháp rất thịnh ở núi Tuyết Đậu tại
Minh Châu và phục hưng
chùa Linh Ẩn ở Hàng Châu.
Năm
961, nhận lời mời của
Ngô Việt Vương
Tiền Thục, Sư về đạo tràng Vĩnh
Minh chuyên lo tiếp tăng độ chúng, cho nên người đời gọi Sư là
Vĩnh Minh Đại Sư. Sư đề xướng Thiền Tịnh Song Tu, lấy
tâm làm tông. Sư trụ trì chùa Vĩnh
Minh suốt 15 năm, mọi người kính phục và
tôn Sư là Di-lặc hạ sinh.
Sư triệu tập
các vị cao tăng của ba
tông Từ Ân, Hiền Thủ và
Thiên Thai để nghiên cứu và thảo luận tất cả những
tác phẩm nổi tiếng của hơn 200 vị Thánh
hiền Ấn Độ và
Trung Quốc rồi soạn thành bộ Tông
Cảnh Lục
(100 quyển). Đối với
tôn chỉ khác nhau giữa các tông phái, Sư luôn
có thái độ ôn hòa.
Vua Cao Ly xem xong bộ Tông Cảnh Lục này, liền
sai sứ đến đảnh lễ xin làm đệ tử Sư và
phái 36 vị tăng trong nước đến cầu
pháp. Từ đó thiền
phong của tông Pháp Nhãn rất thịnh
hành ở Hải Đông.
Sư thị tịch
vào năm 975, hưởng thọ 72
tuổi, được vua ban hiệu
Trí Giác Thiền Sư.
Ngoài Tông Cảnh Lục
(100 quyển), Sư còn
trứ tác Vạn Thiện Đồng Qui Tập (7
quyển), Thần Thê An Dưỡng
Phú (1 quyển), Duy Tâm Quyết (1 quyển)...
(Theo Phật
Quang Đại Từ Điển)
VỀ TÁC PHẨM
Tông Cảnh Lục (100 quyển)
do thiền sư Diên
Thọ (904-975) thuộc tông Pháp Nhãn biên tập. Trong Tông Môn Thập Qui Luận của Tổ Pháp
Nhãn Văn Ích có khuyên người tham thiền
hãy nghiên cứu giáo điển như sau: “Người hiện nay xem giáo lý chẳng khỏi
trong tâm không loạn động, muốn
tâm khỏi loạn động cần phải biết
cách xem giáo lý”. Đây
là lời nói nhắm vào các thiền sư đương
thời xem thường nghĩa học, động cơ thiền sư Diên Thọ biên
tập Tông Cảnh Lục cũng bắt
nguồn từ đây.
Tông Cảnh Lục 61 ghi: “Người học ngày nay không học rộng nghe nhiều, tự ỷ lại kiến giải riêng của
mình, không chịu gần gũi bậc
minh sư, chấp kiến giải của mình mà không đọc kinh điển, cho nên tôi soạn bộ Tông Cảnh Lục này
cốt chỉ dạy người
sau, đừng noi theo bước lầm của người đi trước, để khỏi ân
hận”. Qua đoạn văn trên đủ thấy thiền sư Diên Thọ phát
huy quan điểm của Tổ Pháp
Nhãn và nói rõ được
nguyên nhân biên tập Tông Cảnh Lục.
Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục 26 và Tịnh Từ Tự Chí 5, Diên Thọ sau
khi đắc pháp nơi thiền sư Đức
Thiều (đại đệ tử của Tổ Pháp
Nhãn), Ngài trụ trì chùa Tuyết Đậu ở Phụng
Hóa vào năm 925. Lúc ấy người
theo Ngài tu học rất đông, do đó
trong Tuyết Đậu Tự Chí có
truyền thuyết cho rằng
tác phẩm Tông Cảnh Lục được biên soạn ở đây.
Năm 960, Trung Ý Vương của nước Ngô Việt thỉnh Ngài trụ trì
chùa Linh Ẩn ở Hàng Châu; năm
sau (961), thỉnh Ngài trụ trì chùa Vĩnh
Minh (tức chùa Tịnh Từ),
người đến tham học đông hơn
hai nghìn.
Trong Lâm Gian Lục quyển hạ, Huệ Hồng
(1071-1128) ghi: “Tôi đã từng du phương đến Đông
Ngô, ngụ ở chùa Tịnh Từ tại
Tây Hồ. Hai bên pháp đường của
chùa đều có kiến trúc hai dãy lầu
các rất nguy nga tráng lệ. Có một vị lão nạp
trong chùa nói với tôi: Hòa thượng Vĩnh
Minh thấy ba tông Hiền Thủ, Từ Ân, Thiên Thai mâu thuẫn nhau, không đạt đến mức độ hoàn bị,
cho nên khuyến khích các vị đệ tử tinh thông pháp nghĩa ở hai
dãy lầu các, xem rộng giáo nghĩa và
chất vấn lẫn nhau, rồi
Hòa thượng đem tâm tông để bình
luận. Ngoài ra, Ngài còn tập hợp hơn 60 bộ kinh Đại thừa, lời dạy của các bậc Hiền Thánh Ấn -
Hoa hơn 300 nhà để chứng
minh yếu chỉ duy
tâm, rồi biên tập thành một bộ sách đồ sộ 100 quyển gọi là Tông Cảnh Lục lưu truyền hậu thế”.
Sau khi biên tập xong Tông Cảnh Lục,
theo bài tựa Tông Cảnh Lục của Dương
Kiệt viết
vào khoảng năm
1086-1093: “Ngô Việt Trung Ý Vương rất
quý, cất giấu
trong kho kinh sách”. Trong “Nhân Thiên Bảo
Giám của Đàm Tú (khắc bản khoảng năm 1228-1233) ghi: “Thiền sư đã thị tịch, trong tòng lâm không biết đến
sách Tông Cảnh Lục, đến khoảng năm 1068-1077, thiền sư Viên Chiếu mới công bố …Từ đó nạp tử mới đua
nhau tìm đọc”. Do sự đề xướng của
Viên Chiếu, sách này mới được xã
hội chú ý. Khoảng năm
1078-1085, hoàng đệ Ngụy Đoan
Hiền Vương mới khắc bản ấn tống và gửi tặng các tòng lâm danh tiếng đương
thời. Nhưng
sau này, khoảng năm
1086-1093, Tông Cảnh Lục đã qua tay các ngài Pháp Dũng, Vĩnh Lạc, Pháp Chân “hiệu độc” và khắc bản mới lưu hành, diện mục có lẽ không
hoàn toàn giống với
nguyên bản của Ngụy Đoan
Hiền Vương
khắc trước đó. Đến đời Minh, trong bài bạt hiệu đính Tông
Cảnh Lục của ngài Ngẫu
Ích (1599-1655) ghi: “Đại sư Vĩnh
Minh biên tập Tông Cảnh Lục (100
quyển) không khác sự tập đại thành của Khổng Tử. Chưa đầy
100 năm sau, các ông Pháp Dũng v.v … tự ý
thêm vào tạp thuyết khiến
cho gai mắt người
xem, đến nỗi
Viên Trung Lang trở lại nghi đạo
nhãn của Vĩnh
Minh chưa hoàn toàn sáng suốt, cũng đáng buồn
thay! Tôi đọc bản Lục này ba bận,
thấy không ổn, biết là
lỗi do Pháp Dũng chứ không
tại Vĩnh
Minh. Đầu mùa thu năm Quí Tỵ tôi
cắt bỏ những điều kém cỏi,
giữ lại điều quý báu, sách vẫn
dày 100 quyển, vấn đáp vẫn hơn 340 đoạn, mỗi đoạn nghĩa lý đầy đủ, người học xem qua không còn than thở là mênh mông quá, hay phân vân không biết quy hướng nẻo nào”.
Bài tựa Tông
Cảnh Lục của Dương
Kiệt trong bản do Ngụy Đoan Hiền Vương khắc
ghi: “Người học khắp nơi rất ít được thấy bản
này”, đủ thấy bản
này đã thất
truyền và bản của
ngài Ngẫu Ích hiệu đính
chính là căn cứ vào
bản mới của ngài Pháp Dũng,
vì thế bản đang
lưu hành hiện nay là bản do
các ông Pháp Dũng v.v... tự ý thêm các tạp
thuyết vào, mà chẳng phải là
bản gốc của thiền sư Diên Thọ. Nhưng các ông Pháp Dũng
v.v... cũng không sửa đổi hết diện mục của
nguyên tác Tông Cảnh Lục,
ngài Ngẫu Ích nói: “Tuy bị Pháp Dũng
thêm vào tạp thuyết, nhưng với người
có đôi mắt trạch pháp thì có thể lập tức
phân biệt được vàng thau”.
Toàn bộ Tông Cảnh Lục hơn 800.000 chữ,
chia làm ba chương, nửa phần đầu
quyển một là
chương nêu tông chỉ từ nửa phần
sau quyển 1 đến quyển 93
là chương vấn đáp, từ quyển 94 đến
quyển 100 là chương dẫn chứng. Chương
nêu tông chỉ “lấy chánh tông làm chỗ hướng về”,
chương vấn đáp “dùng hỏi đáp để trừ bỏ nghi
ngờ”, chương dẫn chứng
“dẫn kinh điển để gây niềm
tin trọn vẹn”,
Chánh tông tức là “lấy nhất
tâm làm Tông”; nhất tâm tông này “chiếu soi muôn pháp như Cảnh (gương)”;
biên tập nghĩa lý
của Thánh hiền, toát yếu
các lời trong kinh điển gọi là Lục.
Qua ý nghĩa của
nhan đề Tông Cảnh Lục như thế, người đọc có
thể hiểu được phần nào nội
dung.
Quyển 1,
thiền sư Diên
Thọ trình bày mục đích
biên tập Tông Cảnh Lục:
“Chọn cốt tủy Thiền
tông, nêu kỉ cương giáo võng khiến những phiền
não, lỗi lầm vi
tế hoàn toàn sạch hết,
tông chỉ nhiệm mầu,
khởi ý đều thông. Có khả năng phá tan núi thất mạn, lấp
bít con đường lục
suy, trần lao ngoại đạo đều bị điểm mặt, quân ma sinh tử không
còn bóng dáng”. “Cốt tủy Thiền
tông”, “kỉ cương giáo võng” theo quyển 34, Giáo là Hoa Nghiêm, Tông tức Đạt-ma,
nhân vì Hoa Nghiêm là kinh khai thị sự rộng lớn của
“nhất tâm”, Đạt-ma hiển
tông chỉ tâm tánh chúng sinh, kỳ thật vẫn không ra ngoài quan điểm của tông Pháp Nhãn, ngài Pháp Nhãn lúc tham vấn thiền sư Quế Sâm ở viện Địa Tạng
khởi nghi tình: “Tam giới duy tâm, vạn
pháp duy thức” được thiền sư Quế Sâm
khai thị: “Nếu luận về Phật pháp thì tất cả đều sẵn có” mà đại
triệt đại ngộ. Hiện nay trong ngữ lục của Tổ Pháp Nhãn còn có: Tam Giới Duy Tâm Tụng và Hoa Nghiêm Lục Tướng Nghĩa Tụng. Bộ Tông
Cảnh Lục dẫn dụng
kinh Hoa Nghiêm và lý luận của tông Hiền Thủ rất
nhiều để giải
thích “Nhất tâm”, đặc biệt tại quyển 46
ghi: “Nếu muốn
thoát khỏi hai kiến chấp đoạn thường cần phải thấu rõ
lục tướng
nghĩa môn của Hoa Nghiêm, thì có thể tự tại đối với pháp tự quên
năng sở,
tùy duyên động tịnh,
không hoại hữu
vô, đủ đại tổng
trì,cứu cánh không lầm lỗi”.
Hiển nhiên là phát triển quan điểm của Tổ Pháp Nhãn.
Tông Hiền Thủ hưng khởi
sau tông Thiên Thai và tông Từ Ân
(tông Pháp Tướng). Các ngài Pháp Tạng, Trừng
Quán học rộng về giáo nghĩa và
học thuyết viên giáo trùng trùng vô tận, viên dung vô ngại, rất tương hợp với chủ trương của Thiền
tông “Phật nói tâm là tông, cửa không là cửa
pháp”, có lúc tông chỉ Thiền tông được dẫn chứng
nghĩa lý Hoa Nghiêm để càng thêm sáng tỏ, vì thế Tổ khai sáng của
tông Pháp Nhãn trong ngũ gia tông phái Thiền tông xem trọng
Hoa Nghiêm, là một hiện tượng tất
nhiên xuất hiện
trên lịch sử phát
triển Phật
giáo.
Tông Cảnh Lục quyển 2 ghi: “Nhất
tâm là gì? Tánh không hai của tất cả các
pháp chân vọng nhiễm tịnh gọi là Nhất.
Chỗ không hai này là sự thật
trong các pháp, không đồng
như hư không mà có tánh hiểu biết
linh diệu, gọi là
Tâm”.
Quyển
45 đề xuất: “Nhất
tâm là tánh của muôn pháp, muôn pháp là tướng của Nhất tâm”, “cần phải tánh và tướng đều thông, mới được mình và người đều lợi
ích”.
Quyển 28
ghi: “Vốn là lý diệu tánh vô tận nhất tâm chân như, do
vì thể dụng khép mở,
tánh tướng tương
nhập, lý sự trùm khắp,
duyên tánh y trì, nghĩa chia nhiều thứ,
nói hẹp là lục tướng,
nói rộng là thập huyền...
thảy đều được đưa vào trong Tông Cảnh”.
Đây là dùng giáo nghĩa
Hoa Nghiêm giải thích về “tâm tánh” của
thiền gia, nhân đó mà nhấn mạnh đến
tác dụng tự tại viên dung và đốn ngộ Nhất tâm. Như quyển 38 ghi: “Tông chỉ sâu
xa của bộ Tông
Cảnh này là tự tại
viên dung, nghĩa là muốn một
thì một, muốn
khác thì khác, muốn còn thì còn, muốn mất
thì mất. Khác chẳngngại một, mất chẳng ngại
còn, mới là tự tại.
Thường một thường khác, thường
còn thường mất, gọi là viên dung”. Quyển 26 ghi: “Bộ Tông
Cảnh Lục
này không phân biệt nội đạo, ngoại đạo, lợi căn, độn căn, hễ người nào thấy
nghe mà tín nhập được thì đều đốn ngộ Nhất tâm, lý sự đầy đủ”.
Quyển 27 ghi: “Nếu chưa đạt Nhất
tâm thì khi tiếp xúc với mọi sự việc đều thành hư ngụy, chánh hạnh cũng thành tà hạnh,
cửa Phật biến thành cửa
ma. Nếu vào trong Tông Cảnh này thì không ai qua mà không được lợi lạc, khổ hạnh cũng
thành diệu hạnh,
tà tông tức là chánh tông”, cho đến nói: “Trong Tông Cảnh này, không có một
pháp nào không phải là Phật sự”(quyển 24). “Trong sinh lão bệnh tử đều có thể giác
ngộ, trong đi đứng nằm ngồi đều có thể chứng chân” (quyển
66). Nhưng, làm sao mới đạt đến trình độ này?
Quyển 3 ghi: “Một niệm
lóng lặng, muôn cảnh mênh mông sáng sủa, vốn đồng một môn bất nhị, đều
vào yếu chỉ vô
sinh”. Quyển 6 ghi: “Nếu vào thẳng
Tông Cảnh muôn việc đều
thôi, tình chấp phàm Thánh hết sạch
an lạc diệu thường, lìa Tông Cảnh
này mà khởi tâm động niệm đều thành lao nhọc”.
“Một niệm
lóng lặng, muôn việc đều
thôi” là trạng thái gì? Quyển 49 ghi: “Tánh chân như linh thông tự tại chiếu dụng vô cùng không đồng với vật vô tình. Phật
tánh là vật sống động không phải vô
tri, nhưng không có tâm suy lường. Các thứ tạo tác như huyễn như hóa,
như hình nộm, rốt cuộc không có tâm suy lường. Ở tất cả chỗ không bị trói
buộc, không trụ trước,
không sở cầu, trong tất cả thời,
không có một pháp khả đắc”. Đoạn này tương đồng với Lục Tổ Huệ Năng nói: “Trong mỗi niệm, đối với tất cả pháp không trụ, một niệm nếu trụ, niệm niệm liền trụ, gọi là trói buộc”,
Mã Tổ Đạo Nhất
nói: “Nếu muốn thể hội
ngayđạo này, thì tâm bình thường là đạo.
Cái gì là tâm bình thường?
Không tạo tác, không thị phi, không thủ xả, không đoạn thường,
không phàm, không Thánh. Chỉ như hiện tại đi đứng năm ngồi ứng cơ tiếp vật đều
là đạo”, Quy Sơn Linh Hựu
nói: “Trong tất cả thời, thấy
nghe bình thường, không có tà vạy, cũng
không nhắm mắt bịt tai, chỉ cần tình không chạy
theo vật là được”. Thiền sư tuy có nói: “Chỉ quý con mắt
ông chánh, không quýhành vi của
ông” nhưng đặc biệt
chú trọng một niệm tâm hành “tình không chạy theo vật”
này, có thể nói là điểm đặc sắc của Thiền
tông cũng là tâm tủy hành trì của
các thiền sư trải qua mọi thời đại. Một niệm
tâm hành này từ sự triệt ngộ đối với sự lý
mà ra, có lúc trở lại dẫn
phát sự triệt ngộ đối với sự lý. Các thiền sư nổi tiếng thường
có phong cách siêu phàm, đạo hạnh đáng
làm mẫu mực, tự tại giải thoát ngồi tịch đứng
chết, đều là từ cái
này hàm dưỡng mà ra. Toàn bộ Tông Cảnh Lục tuy
hỏi đáp liên miên, dẫn chứng phong phú mà cũng đều chỉ xoay
quanh một vấn đề này, vì thế Tông
Cảnh Lục chính
là một trứ tác
theo hướng mượn
Giáo để chứng minh Tông, mà không làm lẫn lộn
Tông vào Giáo. Do đó trong chương vấn đáp chiếm 99
quyển tuy bày ra la liệt giáo nghĩa
Thiên Thai, Hiền Thủ, Từ Ân mà đều hội thông về một mối là
dùng Giáo để chứng minh sự nhiệm mầu
sâu xa của Tâm tông, hoàn toàn không có phân biệt dị đồng khi giải
quyết vấn đề trên mặt
giáo lý, đây là một đặc điểm lớn của Tông
Cảnh Lục.
Theo nghiên cứu của Đại sư Ngẫu Ích, chương vấn đáp của sách này chia làm hơn 340 đoạn, mỗi đoạn bao quát nhiều vấn đề. Từ quyển 46 trở về trước,
phần nhiều hỏi về pháp
tánh. Từ quyển 47 về sau
phần nhiều
bàn về pháp tướng. Nhưng sự phân chia này chỉ tương đối, vì trong lúc bàn về vấn đề pháp tánh cũng
có nói đến pháp tướng và ngược lại.
Trong lúc bàn bạc dẫn chứng về các
vấn đề tánh tướng
thì văn nghĩa có
rất nhiều chỗ trùng phức,
quyển 100 ghi: “Tuy trước dẫn
sau chứng, văn rộng nghĩa
nhiều, nhưng lời nào cũng
vì lợi ích căn cơ, mỗi lần
nghe qua đều mới mẻ, cho nên đâu
chán lặp lại,
xin chớ sinh tâm khinh thường”. Còn ghi: “Nay nghe trong mỗi quyển của Tông Cảnh Lục,
trong mỗi lời văn, lớp lớp trình bày đạo
lý, mỗi mỗi đều giương
cao tông chỉ, cốt
nuôi lớn gốc bồ-đề,
thành tựu niềm
vui Chánh pháp. Xin đừng
xao lãng mà chán nghe nói đi
nói lại nhiều lần”. Đủ biết, thiền sư Diên Thọ biên
tập Tông Cảnh Lục chỉ là mượn
Giáo để chứng minh Tông, để người đọc có
niềm tin trọn vẹn đối với
Tông, chứ hoàn toàn không có ý giải quyết
các sự phân tranh của giáo thừa.
Chương dẫn chứng, Ngài dẫn chứng 120 bộ kinh Đại thừa,
120 bộ ngữ lục của Tổ sư, 60 tập của Hiền
Thánh, cộng chung 300 bộ. Trong Tông Cảnh Lục bảo tồn được một số văn hiến quý báu, ví dụ như hai đoạn pháp ngữ của ngài Nam Nhạc
Hoài Nhượng và Thanh Nguyên Hành Tư đều chưa thấy
ghi trong các sách Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Cổ Tôn Túc Ngữ Lục...
Ngoài ra, trong chương vấn đáp dẫn dụng
các sách Trung Luận Huyền Xu, Duy Thức Nghĩa Cảnh...
hiện nay đã thất
truyền, may nhờ Tông Cảnh Lục bảo tồn được một ít
tài liệu mà chúng ta biết được đại khái nội
dung của các sách ấy.
Tông Cảnh Lục được biên tập
vào thời kỳ sự tai hại đang phát triển
khá nghiêm trọng do các thiền sư xem
thường nghĩa học,
có ý nghĩa rất lớn đối với việc
giáo dục trong giới Phật
giáo. Vì thế, thiền sư Bảo
Giác (1025-1100) nói: “Tôi hận gặp sách này quá trễ, văn nghĩa
cao sâu chưa từng
thấy ở đâu
khác, đều đầy đủ trong
bộ sách này” (Nhân Thiên Bảo Giám). Ngài chẳng
những tay không rời quyển,
chăm chăm
nghiên cứu, mà còn toát yếu lại
thành Minh Xu Hội Yếu (3
quyển) khắc bản lưu
thông về sau, Ngài lại còn soạn Tông
Cảnh Quảng Xu (10 quyển)
(theo Tịnh Từ Tự Chỉ). Bộ Tông
Cảnh Lục quá đồ sộ nên
rất bất tiện đối với người
tham khảo; vì thế vua Thế Tông
(Ung Chính) đời Thanh viết trong bài Hậu Tự Tông Cảnh Lục:
“Sách này trải qua các đời từ Tống, Nguyên, Minh đến nay, các bậc cổ đức của Tông môn, không thiếu người
sáng suốt mà chưa từng
thấy có ai khen ngợi là hy hữu đệ nhất, cũng có thể nói
là lạ!”. Nói Tông Cảnh Lục sau
khi hoàn thành mà không được ai
khen ngợi là không đúng sự thật, nhưng
nói không có nhiều người đọc tác phẩm
này thì có thật. Ngay như vua Ung Chính cũng xem trọng Tông
Cảnh Lục:
“Trẫm cho rằng từ khi
Tổ Đạt-ma từ Ấn Độ sang đây, các sách vở trong
Tông môn bàn về diệu tâm Phật, nối huệ mạng Phật, rộng độ chúng
sinh, lợi ích vô tận, chưa có
sách nào bằng sách này”. Chính ngài còn ghi lại phần cốt tủy
mang tính khái quát và chỉ lấy hai phần mười của bộTông Cảnh Lục biên
thành một quyển Tông
Cảnh Đại Cương, dùng thế lực của
nhà vua truyền bá rộng rãi nhưng cũng không đạt đến được mục đích
“hễ là người có tâm đều
vào tông này”, vì hai nguyên nhân:
1. Thiền tông phát triển đến đầu
nhà Thanh đã quá suy vi.
2. Chính bản thân của Tông
Cảnh Lục đồ sộ quá,
bất tiện
cho người tham khảo.
Phật Tổ Lịch Đại Thông Tải 18 ghi: “Vua nước
Cao Ly đọc ngôn giáo của Sư (Diên
Thọ), sai sứ mang thư đến xin được nhận làm đệ tử, dâng ca-sa kim lũ,
chuỗi thủy
tinh, tịnh bình bằng vàng... Ba mươi
sáu vị tăng Cao Ly được Sư ấn chứng, trở về nước mỗi vị hoằng hóa một phương”. Qua các sự kiện kể trên đủ cho chúng ta thấy được
tài đức của
tác giả và giá trị của bộ Tông Cảnh Lục này.
(Định
Huệ lược dịch từ Độc Tông Cảnh Lục của Dục
Chi)
BÀI TỰA
Đời Đại Tống, nước Ngô Việt, tọa chủ chùa Tuệ Nhật,
thiền sư Vĩnh Minh, Diên Thọ biên tập.
Nguồn
chân lặng lẽ, biển giác trong lặng,
dứt bặt
danh tướng, tuyệt dấu năng sở.
Ban sơ bất giác chợt khởi tâm động
niệm thành nguyên do của nghiệp thức là lỗi của giác minh. Nhân “minh”khởi “chiếu”,
kiến phần bỗng khởi,
tùy chiếu lập trần, tướng
phần bày ra. Như gương
hiện hình tượng chợt khởi thân căn, kế đến
tùy tưởng mà thế giới
thành sai biệt, sau đó nhân trí mà có sự yêu
ghét chẳng đồng. Từ đây quên chân, mất
tính, chấp tướng,
theo danh, tình trần trệ trước, kết sóng thức tương tục,
khóa kín chân giác vào đêm mộng, trầm mê
trong ba cõi, mù lòa trí nhãn nơi đường tăm tối, lăn
lóc tới lui ở trong chín nẻo, bị khổ não
vì nghiệp ràng buộc, mất cửa giải
thoát. Trong không thân lại thụ thân, trong không cõi mà lập cõi. Căn cứ y xứ thì
phân ra hai mươi lăm
cõi, nói về chính báo thì có đủ mười
hai loài, đều từ tình
tưởng mà ra y chính sai biệt, trên cảnh
chẳng dời đổi, uổng
chịu luân hồi, không có lối
thoát nên tự sinh trói buộc. Như tằm làm kén, tợ bướm lao vào đèn; đem sợi tơ vọng tưởng nhị kiến quấn chặt chất
nghiệp của khổ tụ;
dùng đôi cánh vô minh, tham ái quạt vòng lửa
sinh tử; dùng lời nói như tiếng vang trong hang động luận
bàn vẻ đẹp, xấu của bốn
loài chúng sinh; lấy gương tâm vọng tưởng bày ra hình nghi của ba cõi. Sau đó,
gió tưởng trái thuận xao động
biển giác, nước tham si ái rưới
nhuần mầm khổ, một bề dong ruổi
theo trần, chẳng
biết trở về cội gốc. Phát tri kiến cuồng loạn,
che mờ tự tâm, lập sắc thinh huyễn
hóa rồi nhận là
pháp khác. Từ đây một
khi chạm cảnh dần dần
thành đỉnh cao trắc trở. Giọt nước
làm gợn sóng lăn tăn cuối cùng dậy
sóng to nuốt chửng
con thuyền. Sau này lại muốn
quay về nguồn cội, căn cứ vào
căn tính lợi độn
không đồng nên trong pháp giới chân như nhất chân mở ra
ba thừa, năm
tính. Hoặc có người thấy
không mà chứng quả; hoặc có người liễu duyên mà thể nhập chân; hoặc có
người trải
qua ba a-tăng-kỳ huân
tu dần dần đầy đủ các
hạnh môn; hoặc có người chỉ một niệm viên tu chóng thành Phật đạo. Về sự khắc chứng
thì có khác nhau, nhưng một tính không khác. Vì thành lập cái tên phàm Thánh nên tợ như phân
ra tướng chân tục. Nếu muốn thấu suốt sâu xa tận cội rễ,
thông đạt tột
cùng tông chỉ thì căn bản
tính lìa, tất cánh tịch diệt, dứt sự sai
khác của lên xuống (thăng
trầm), không có sự sai khác của
trói mở (phược thoát), đã
không có người ở thế gian,
cũng không có người diệt độ, hai mé (thế gian
và xuất thế gian)
bình đẳng, một đạo thanh hư, thức trí đều
không, danh thể đều lặng.
Không có gì cả chỉ một
chân tâm. Đạt được tâm này gọi là
người thấy đạo, mê tâm này gọi là
khởi đầu cho sinh tử. Lại có những kẻ tà, ngoại đạo, trí kém, căn
tính hẹp hòi khôngbiết rõ gốc bệnh sinh tử, cũng chẳng
hiểu rành gốc kiến chấp ta người
(ngã, nhân), chỉ muốn chán ồn
náo, chê bai động,
phá hoại tướng,
chia chẽ trần. Tuy nói rằng nếm được
cái không tĩnh lặng mờ tối nhưng họ không
biết đã vùi lấp
chân như, trái nghịch tính giác.Như không
biết bệnh
nhặm mắt mà
chỉ lo diệt những
vòng ánh sáng trên đèn.
Không xét kỹ thân huyễn ở trong
thức tình, luống tránh bóng nắng
giữa trưa, điều ấy chỉ làm
nhọc hình thể, mệt
tâm trí, mất sức, tốn công chẳng
khác nào đã đủ nước lại thêm băng,
ném củi vào lửa cháy. Đâu
biết những
vòng ánh sáng theo mình là bóng giả từ mắt bệnh, trừ bệnh mắt rồi các đốm
sáng tự biến mất, dứt cái huyễn chất thì bóng nắng
giả dối sẽ không
còn. Nếu hay xoay ánh sáng trở về chính
mình, nơi cảnh
phản tỉnh
quán tâm, Phật nhãn sáng thì bóng nghiệp không, Pháp thân hiện thì dấu trần bặt.
Dùng gươm trí tự giác mổ lấy hạt
tâm châu trong triền phược, đem
kiếm tuệ nhất niệm
chém phăng lưới vọng kiến chốn trần
lao. Đây là ý chỉ tột
cùng nguồn tâm này, lời nói thấu đạt thức
tính; lời giản dị, nghĩa
phong phú, văn thuần
phác đến được lý. Dựng cửa nghi ở ngôi
nhà chính trí, phát cỏ vọng nơi
cánh đồng chân giác. Bệnh lâu càng thâm nhập
vào xương tủy, nếu chặt đứt dây mơ rễ má cố chấp chằng
chịt thì vật ngã gặp nhằm ngọn lửa trí bừng
cháy sẽ tiêu dung trong lò duy tâm; danh tướng chạm phải ánh sáng của mặt trời
trí tuệ sẽ bị xoá
tan trong biển nhất
chân. Đây là pháp nội chứng, đâu phải ở nơi lời nói, tri giải
không thể cùng tận, thấy
nghe cũng không đến được.
Nay vì người chưa thấy mà trình bày diệu kiến vô kiến
(cái thấy mầu
nhiệm không thể thấy bằng mắt)
vì người chưa
nghe mà thể nhập viên văn bất văn
(cái nghe mầu nhiệm
không thể nghe bằng tai), vì người chưa biết mà
nói cái chân tri vô tri, vì người chưa hiểu mà
thành tựu đại giải vô
giải, với hy
vọng là nhân ngón tay thấy mặt trăng, được thỏ quên bẫy.
Giữ gìn một tông sâu kín, bỏ lời, xét lý, biết rõ
muôn vật từ ta,
sáng tỏ diệu giác tại
thân. Có thể bảo là moi tìm cội rễ bí ẩn,
dò xét hang lý thẳm sâu. Chọn lấy cốt tủy của thiền
tông, nêu ra giềng mối của lưới
giáo, còn chút xíu tỳ vết mê lầm cũng liền
hoàn toàn sạch trong (viên tịnh). Huyền
tông, diệu chỉ, đại ý phơ bày
có khả năng phá dẹp
núi thất mạn (bảy thứ kiêu
mạn) trọn ngăn bít nẻo lục suy (lục trần cũng gọi lục tặc), ngoại đạo trần
lao thảy đều té ngửa
kêu la, quân ma sinh tử hoàn toàn lặng bóng im hơi.
Hiện tự tại lực,
bày đại uy quang, chỉ ra hạt
trân châu, sử dụng lợi
ích vô tận, nghiêng tạng bí mật, cứu giúp khắp cả không cùng. Có thể nói trong các thứ hương
xông là hương ngưu đầu, trong những vật báu tìm hàm con ly long, trong các loài hoa hái hoa
linh thoại, trong các ánh sáng chiếu rực thần quang, trong các thức ăn nếm vị nhũ mi, trong những
thứ nước uống
giọt cam-lộ, trong các thứ thuốc dùng thuốc cửu chuyển
(chín vòng, ý nói nấu luyện kim đan
nhiều lần);
trong các chủ nhân gặp được
Thánh vương... Thế nên được
lên đỉnh núi cao pháp tính, bỗng lạc
vào những ngọn
chót vót; biển đề-hồ bao
la nuốt trọn
sóng nước các dòng, tựa như điểm sáng của hồn
phách trong đêm vút bay, làm mờ ánh sao Tiểu thừa, như vầng hồng của bình minh phá tan bóng tối ngoại đạo. Cũng
như kẻ nghèo pháp tài chợt gặp một khối
báu lớn, như người khát được gặp ao nước
trong mát, như làm vị Trời được chúng sinh kính ngưỡng,như làm đấng cha lành Bồ-tát,
như người mang bệnh nặng may mắn gặp được Dược Vương
chữa trị, như kẻ không
biết đường hiểm nạn chợt gặp người hướng dẫn tốt, sáng suốt,
như người lâu ngày ở trong
nhà tối bỗng gặp ánh sáng của ngọn đuốc báu, như người thường sống lõa hình bỗng
nhận được áo trời
tuyệt diệu,
chẳng tìm cầu mà tự được, không gắng
công mà chóng thành. Cho nên biết
trong vô lượng cõi nước khó được
nghe danh tự, trong kiếp số trần sa ít được truyền trao. Do những
nhân duyên trên, đây gọi là gương
tâm (tâm cảnh), bày hiện nhất đạo mà rỗng
sáng chiếu soi. Soi rõ bọn tà mà một mảy may chẳng
chứa. Diệu thể không riêng, viên quang chẳng ngoài, biển
giáo nghĩa vô biên thảy đều trở về trong
sự xoay đầu nhìn lại,
hình dung của muôn vật hết thảy cùng đi
vào trong sự chiếu soi. Đây
là ý chỉ của nhất vị Tào Khê, chư vị Tổ sư đều
truyền, là tông bất nhị nơi Rừng Hạc (Hạc
lâm) mà kinh điển đều
nói nên có thể bảo là chỗ vô
cùng sâu xa của muôn điều thiện, là nguồn
huyền của mọi thứ luận triết,
là bảo vương của một chữ, là nguyên tổ của mọi
loài, bèn khiến lìa tâm cảnh, văn
lý đều rỗng,
liền biết đó là trần. Lời nói ra có chứng cứ, hải ấn nhất
tâm giai định viên tông, đèn trí của
tám thức chiếu
phá tà ám. Nói thật ra là đền thiêng của
hàm linh, nghĩa tông của vạn
pháp chuyển biến vô
cùng, vận dụng
linh hoạt, tự tại, tùy duyên bày dấu,
theo vật thành danh. Chư Phật thể chứng gọi đó là
tam-bồ-đề, Bồ-tát tu hành gọi đó là lục độ vạn hạnh. Hải Tuệ biến đó thành nước,
Long Nữ dâng đó là hạt
châu, Thiên Nữ rải cúng đó là
hoa vô trước, Thiện Hữu
tìm kiếm đó là báu như ý,
Duyên giác ngộ đó là thập nhị duyên khởi,
Thanh văn chứng đó là tứ đế nhân không, ngoại đạo giữ chặt đó là sông tà kiến,
chúng sinh chấp đó là biển
sinh tử. Luận về thể thì
khéo hợp chí lý một cách vi diệu,
luận về sự thì khế hợp chính duyên một
cách xâu xa. Tuy trình bày tổng
môn của pháp giới, song cần phải nói rõ yếu chỉ riêng của Nhất thừa và
nghĩa của
các thứ tính tướng. Bậc Đại giác do viên thông lớp lớp liền cửa
vào, chỉ có bậc chủng
trí được diệu đạt. Chỉ vì
người căn cơ yếu
kém, ít học không thể thấu suốt, không biết
hai môn tính tướng, chính là thể dụng của tự tâm.
Nếu có đầy đủ dụng mà đánh
mất thể thường hằng cũng như không
có nước mà có sóng. Nếu được thể nhưng lại thiếu đi môn diệu dụng cũng
như không có sóng mà có nước. Thực
ra, chưa từng
có nước không sóng và cũng không từng
có sóng mà không cótính ướt.
Nhờ sóng biết được
nguồn nước,
nguồn nước và
ngọn sóng như tính tột
cùng và tướng biểu hiện cùng đạt đến nguồn
tính. Chúng ta nên biết thể dụng
làm thành cho nhau, tính tướng
hiển bày cho nhau.
Bây giờ xin nói rõ về môn
tổng và biệt; nói rộng về sự đồng và dị,
xét về căn nguyên của một pháp, tìm tòi gốc ngọn của
các duyên thì có thể gọi là “Tông Cảnh”
vì soi chiếu u vi, không sót một pháp nên nghìn thứ sai
khác cùng gặp gỡ, mới dệt
thành nghĩa rộng
rãi, tóm lược yếu văn, trình bày trong một trăm
quyển, thảy đều thu về nhất tâm, có thể khiến cho biển
giáo pháp sâu nhiệm được nhận biết rõ ràng, niệm niệm sáng tỏ hoàn
toàn, vô tận chân tông, chính mắt thấy rõ
và tâm tâm khế hợp. Như thần châu ở trong
tay, trọn không còn tìm cầu, cũng
như cây giác ngộ râm mát hoàn toàn tiêu mất dấu
bóng, như nhặt được ngọc thật
trong ao mùa xuân có lẫn với sỏi đá, như nhận ra cái đầu của mình trước gương, cuồng
tâm chóng hết, có thể nhổ sạch gai tà kiến,
chặt phăng gốc rễ nghi,
không cần dùng đến một
xíu công phu mà mở toang kho tạng báu, chẳng
phí một chút sức lực mà
nhanh chóng được hạt
châu nhiệm mầu. Đây gọi là
Nhất thừa đại tịch
diệt tràng, thật đúng
là nơi tu hành thanh tịnh, đây
là cảnh giới Như Lai đã đạt đến,
là pháp môn bản trụ của chư Phật. Với
tinh thần khuyến khích tất cả người
sau nên chỉ rõ tính giác huyền diệu để được
trí tuệ tột cùng biển
tính, học suốt đến nguồn
chân. Chỉ có thức này, tâm này là tôn thắng. Thức
này là chỗ chứng của mười phương
chư Phật. Tâm này được
nói trong suốt một đời giáo hóa của Phật. “Duy tôn” (cái đáng tôn kính hơn hết) là vì nó là chỗ quy
về của giáo lý hạnh
quả. “Duy thắng” (cái siêu việt hơn cả)
vì đó là cho hướng đến của tín, giải chứng, nhập;
chư Hiền nương
vào đây mà giải thích viết luận nghìn chương,
các Thánh thể theo đó tuyên thuyết rộng thành tứ biện. Thế nên
chọn lọc những điều kỳ đặc, nghiên cứu
tinh vi rõ ràng.
Riêng
nêu bày cương tông, giăng rộng lưới Chính pháp, mò bắt cơ địa năm thừa,
nhảy vọt
lên tầng trời đệ nhất
nghĩa, chứng đắc một
cách rộng rãi tông này. Lợi ích vô tận
thì Chính pháp được an
trụ lâu dài, dẹp tan rừng
tà của ngoại đạo, có khả năng cứu
giúp muôn loài, lấp bít dấu xe loạn của Tiểu thừa, như thế thì không tà, không chính, hữu ngụy đều không. Vì tự lợi cho nên phát ra gốc
trí đức, vì lợi tha cho nên lập ra
việc ân đức, do thành tựu
trí đức nên khởi lòng từ vô
duyên giáo hóa, do thành tựu
ân đức nên đem tâm bi đồng
thể cứu độ. Với đồng
thể thì tâm khởi vô tâm, với vô
duyên thì giáo (hóa) thành đại
hóa (giáo hóa rộng rãi). Vì tâm khởi vô tâm nên chẳng
có (niềm vui) hạnh phúc nào mà chẳng
ban cho; vì hóa thành đại
hóa nên chẳng có khổ đau
nào mà chẳng dẹp bỏ. Không có hạnh
phúc nào mà không ban cho thì kẻ trí,
người ngu đều xem như nhau,
chẳng có khổ đau
nào mà chẳng dẹp bỏ thì kẻ oán,
người thân không khác. Như thế là
khiến cho ba thứ cỏ hai
loại cây đều được tươi tốt
trên một mảnh đất. Hạt giống tà, mầm mộng cháy đều được đều thấm nhuần một trận mưa. Thật là
vô cùng tốt đẹp, không gì sánh bằng,
có thể nói là bao quát hết cửa
nhân, tìm suốt đến biển quả, cho nên người được khai phát bồ-đề, người mới câu bát-nhã, biết rõ
manh mối thành Phật, viên đốn
không trệ ngại, biết rõ
con đường trở về nhà, tiến thẳng tới
không nghi. Nếu người
lìa con đường này tu hành khác tùy theo chỗ hiểu
sai lầm của
mình thì giống như gõ
sừng lấy sữa, vin cây tìm cá dù trải qua ba a-tăng-kỳ trọn chẳng được
gì. Nếu y theo tông chỉ này tin nhận,
gìn giữ và phát huy như con thuyền lướt nhanh theo dòng nước
không chút trệ ngại lại gặp gió thuận và
thêm sức mái chèo thì sẽ chóng đến Bảo sở, bỗng chốc tới bờ giác.
Có thể nói là tư lương sắp đặt sẵn, đạo quả thành tựu trước, mặc y
thượng hạnh của ngài Ca-diếp,
ngồi tòa pháp không của Phật
Thích-ca, lên lầu Tỳ-lô
của Di-lặc, vào thân pháp giới của Phổ Hiền, hay khiến người khách làm kẻ tôi
tớ để được
lãnh tất cả gia
nghiệp của Trưởng giả; chợt làm cho hàng Tiểu quả chìm trong không tịch chóng được Như Lai thụ ký.
Chưa có một môn chẳng
thông đạo này thì chắc chắn
không một pháp chẳng khế hợp tông này. Bậc
giác vương thời
quá khứ nhân đây thành Phật,
hàng Đại sĩ vị lai nhờ đây chứng
chân thì pháp môn nào mà không mở bày,
nghĩa lý nào mà chẳng biểu hiện, không một sắc nào chẳng
phải là tam-ma-bát-địa, không một
thinh nào chẳng phải là
môn đà-la-ni, nếm một vị mà biến khắp thành đề-hồ, ngửi một hương
mà đều vào trong Pháp giới. Cây gió, bãi trăng đều có thể truyền tâm, cồn
khói rừng mây đều bày diệu chỉ, mỗi bước dẫm
trên cõi kim sắc, mỗi niệm ngửi
mùi hương chiêm-bặc; vốc nước biển
mà được trăm
sông, đến tu-di đều đồng một sắc. Rực rỡ chừ! Mở mắt xem vạn tượng, thảy đều trở về tự tông,
lặng lẽ dẫn tâm tìm châu đều quay về bản pháp, khiến
cho núi tà rơi mũi nhọn, biển khổ thu cuộn
sóng, dùng mái chèo trí an ổn lướt trên dòng để vượt lên đỉnh
biếc vút cao. Ngày nay biết rõ chính tông của
kinh luận, đại ý của Phật Tổ, tỉa bớt văn tự rườm rà, chỉ tìm
lấy yếu chỉ, tạm mượn sự vấn đáp để dẫn giải, chứng
minh rộng rãi. Nêu ra nhất tâm làm tông soi chiếu muôn pháp như gương và ghi chép ý nghĩa sâu xa từ các
trước tác của Cổ đức, tóm lược
giáo lý viên đốn
trong bảo tạng
nên gọi là “Lục”, phân làm một trăm quyển,
có ba chương: đầu tiên là lập chính tông để làm
nơi hướng về; kế là
vấn đáp để loại bỏ nghi
tình; sau là dẫn lời
chân thật của
kinh điển để thành tựu đức tin trọn vẹn và đem
pháp lành vi diệu này ban rải khắp mọi loài, đồng
báo ân Phật, cùng truyền tông chỉ này.
1Đỗ Thuận (557-640):
Sơ tổ tông Hoa Nghiêm, sống vào đời Đường Trung Quốc,
họ Đỗ quê ở Thiểm Tây.
2Dược
Sơn (751-834):
Nói đủ là Dược Sơn Duy Nghiễm, thiền tăng đời Đường,
họ Hàn, tỉnh Sơn Tây, nối pháp thiền sư Thạch Đầu Hi Thiên.
3Hồng
Châu Mã Tổ (709-788): Thiền tăng nổi
tiếng đời Đường, họ Mã tên Đạo Nhất, được gọi là Mã
Tổ Đạo Nhất, người Tứ Xuyên, Trung Quốc.
4Nam
Dương Tuệ Trung (690-775): Thiền
tăng đời Đường, họ Nhiễm, người Chiết Giang, Trung Quốc, nối
pháp Lục Tổ Huệ Năng, là một trong năm bậc tông tượng sau Lục Tổ.
Ngài được gọi là Nam Dương Quốc sư.
5Nga
Hồ Đại Nghĩa (746-818): Thiền tăng đời Đường,
họ Từ, người Chiết Giang, Trung Quốc, nối pháp thiền Sư Mã
Tổ Đạo Nhất. Sư trụ núi Nga Hồ.
6Tư Không
Bản Tịnh (676-761): Thiền
tăng đời Đường, họ Trương, người Sơn Tây, Trung Quốc, đắc
pháp nơi Lục Tổ Huệ Năng, sư trụ chùa Vô Tướng núi
Tư Không.
7Khuê
Phong Tông Mật (780-841): Thiền
tăng đời Đường họ Hà. người Tứ Xuyên, Trung Quốc, ngoài
việc tuyên giảng giáo nghĩa Hoa Nghiêm sư còn giảng về thiên tông
cùng các tông phái khác nỗ lực dung hợp các phái. Sư trụ thảo đường
Khuê Phong núi Chung Nam, nên được gọi là Khuê Phong Tông Mật đại sư.
8Ca-diếp:
(S: Maha-kasyapa; Hán dịch (Hd.) Ẩm Quang còn gọi (Cg) Đại Ca-diếp)
vị đệ tử xuất sắc của Đức Phật, nổi liếng đầu-đà bậc
nhất trong hàng đệ tử Phật. Trên hội niêm hoa vi tiếu,
Ca-diếp được Đức Phật Thích-ca truyền tâm ấn. Từ đó ngài
trở thành sơ tổ của thiền tông Ấn Độ.
9Ưu-ba-cúc-đa (S:
Upagupla) Tổ thứ tư trong 28
vị tổ ở Ấn Độ được phó pháp tạng.
10Mã
Minh (S:
Asvaghosa 100-160) Tổ thứ 12 được phó pháp tạng, cũng là
một đại luân sư, một thi nhân Phật giáo.
11Long
Thụ (S:
Nagarjuna) Tổ phái Trung Quán và tổ thứ 13 được phó pháp
tạng tại Ấn Độ.
12Tào Khê: Chỉ cho yếu chỉ thiền của Lục Tổ Huệ Năng, ngài Huệ Năng lấy chùa Bảo Lâm ở Tào Khê làm trung tâm giáo hóa.
Comments
Post a Comment