LAM
Niệm Phật Thập Yếu
ĐỆ
THẬP YẾU
NIỆM PHẬT
PHẢI
DỰ BỊ LÚC LÂM CHUNG
Dự Bị
Về Ngoại-Duyên
Cổ thi nói:
"Ta thấy người khác chết.
Trong lòng nóng xót xa!
Chẳng phải xót kẻ mất.
Vì sẽ đến phiên ta!"
Giữa đời, việc buồn thảm
lớn lao không chi hơn tử biệt. Nhưng sự chết, người đời lại chẳng ai tránh
khỏi. Cho nên những kẻ có lòng muốn lợi mình lợi người, không thể không sớm dự
bị lo toan. Thật ra, chữ “CHẾT” nguyên là giả danh, vì đó
chẳng qua là sự kết liễu của một thời quả báo, do nghiệp cảm liên chuyền giữa
mỗi đời, khi xả thân này, lại thọ thân khác mà thôi.
Kẻ không biết Phật pháp
vẫn đành để cho tùy nghiệp xoay vần. Người đã nghe pháp môn Tịnh Độ của Như
Lai, phải tín nguyện niệm Phật dự bị tư lương, để khi lâm chung được vãng sanh
an thuận. Như thế mới mong sớm thoát nỗi huyễn khổ của sống chết luân hồi, chứng
vào cảnh chân lạc của Niết Bàn thường trú.
Lại người đã tu Tịnh Độ,
chẳng những chỉ lo riêng vì mình, mà đối với cha mẹ quyến thuộc cùng những thân
bằng quen biết, nên phát lòng hiếu thuận từ bi, khuyên cho đồng niệm Phật, và
trợ niệm cho khi bịnh nặng, lúc lâm chung.
Đó là công hạnh lợi tha,
cũng là việc gây phước báo duyên lành cho mình đời sau vậy.
Nhưng dự bị cho lúc lâm
chung có nhiều chi tiết, nay trước tiên xin nói về ngoại duyên.
Người tu Tịnh Độ khi còn
khoẻ mạnh, phải dự trước tìm kết những đồng bạn, nhứt là kẻ ở gần mình, để trợ
niệm cho nhau khi bịnh nặng và lúc lâm chung. Bởi
chúng ta phần nhiều nghiệp nặng, tuy đã gắng hết sức mình, song những lúc ấy e
khi túc chướng phát hiện, thân lực yếu kém, tâm thức hôn mê, khó giữ vững được
chánh niệm. Nếu không nhờ người hộ trợ, tất dễ bị tùy nghiệp lưu chuyển, công
tu một đời chẳng cũng uổng lắm ư? Đây là điểm cần yếu thứ nhứt.
Điểm thứ hai là
người niệm Phật khi thấy mình suy yếu, nên đem hậu sự sắp đặt dặn dò trước, để
khi lâm chung khỏi bận tâm. Nếu là người xuất gia thì phải đem việc
chùa chiền phó chúc đệ tử, chỉ định kẻ thay thế mình điều hành Phật sự. Như
người tại gia thì đem tài sản ruộng vườn tương phân cho con cháu, sắp đặt trước
mọi duyên. Lại phải dặn trước người quyến thuộc, khi mình đau nặng hoặc
lâm chung, không được khóc lóc hoặc lộ nét bi sầu. Nếu có thương thì nên bình
tĩnh, vì mình niệm Phật cầu nguyện, hoặc hộ trợ cho sự vãng sanh, đó mới là
tình thương chân thật.
Dự Bị
Về Tinh-Thần
Về ngoại duyên như trên
đã nói, người niệm Phật lại còn phải dự bị về tinh thần cho chính mình. Cách dự
bị ấy như thế nào? - Trên đường tu, hành giả phải có tinh thần giải
thoát, xem từ tiền của ruộng vườn cho đến thân tình quyến thuộc đều là duyên
giả tạm, sống tùy cảnh huyễn, chết rũ sạch không. Nếu chẳng hiểu lẽ
này, tất nó sẽ ngăn trở sự giải thoát, có khi phải đọa làm loài bàng sanh như
chó hoặc rắn để giữ nhà giữ cửa. Đã có nhiều người vì nắm níu tiền của hoặc
thân nhơn, mà khi sắp chết phải khó khăn, không yên tâm nhắm mắt được.
Hồi bút giả còn làm đạo
hầu, trong lúc dâng trà khuya, có nghe một vị Giáo thọ thuật lại câu chuyện,
bao hàm ý nghĩa giác tỉnh. Cốt truyện đại khái như sau:
Khi xưa có hai bạn đồng
tu, một ông thích ở cảnh non cao, một vị cất am dựa khu rừng bên bờ suối. Thời
gian sau, tăng sĩ ở cạnh suối tịch trước, vị sư trên núi hay được xuống viếng
thăm. Sau khi tụng kinh cầu nguyện, sư liền ngồi yên nhập định coi bạn mình
sanh về cõi nào? Nhưng tìm kiếm quan sát khắp các nơi, từ cõi trời đến địa
ngục, ông không thấy người bạn ở đâu cả. Xuất định ra, sư hỏi thị giả của ông
bạn: "Hằng ngày thầy mi làm những việc chi?" Đạo đồng đáp:
"Bạch, mấy lúc sau này vì thấy bụi mía trước am mập tốt, thầy con thường
ra vun phân, tỉa lá, săm soi mãi, ra chiều thích thú lắm!" Vị sư
nghe nói nhập định lại, quán thấy ông bạn hóa ra làm con sâu trong thân cây
mía. Sư liền đốn cây mía ấy, chẻ bắt lấy con sâu ra, thuyết pháp chú nguyện cho
nó siêu thoát.
Câu chuyện trên chỉ là
truyền khẩu, bút giả chưa tìm thấy trong kinh sách. Nhưng cứ theo lý mà đoán,
thì sự kiện ấy vẫn chẳng phải hư huyền. Nơi điển tích nhà Phật cũng có
mấy việc tương tợ. Chẳng hạn như: - Chuyện ông sa di vì tham ăn sữa tô
lạc, nên khi chết đọa làm con giòi trong bình sữa. - Chuyện vị ưu bà tắc tuy có
công giữ giới tu hành, nhưng bởi quá quyến luyến vợ, nên khi chết thần thức hóa
sanh làm con giòi trong mũi vợ. Lúc cô vợ thương khóc, sì mũi, con giòi văng
ra, cô cả thẹn, đưa chân muốn chà đạp, may nhờ một vị A La Hán can ngăn, nói rõ
nguyên do, thuyết pháp siêu độ cho con giòi ấy. - Chuyện vợ một khách thương
đường biển, bởi luyến tiếc nhan sắc xinh đẹp của mình, nên lúc chết liền hóa
thành con giòi từ trong mũi bò ra đi quanh trên mặt, như Kinh Hiền Ngu đã
nói. Cho nên người tu Tịnh Độ hằng ngày phải tỉnh tâm quán xét, dứt trừ
lòng tham gốc ái, quyết chí hướng về cõi Phật, để khi lâm chung không bị sức
nghiệp ngăn trở cuốn lôi.
Từ Chiếu đại
sư nói: "Người tu Tịnh Độ khi lâm chung thường có ba điều nghi,
bốn cửa ải, hay làm chướng ngại cho sự vãng sanh, phải dự bị suy nghĩ trước để
phá trừ ba điều nghi là:
1- Nghi mình túc nghiệp
sâu nặng, thời gian công phu tu hành ít, e không được vãng sanh.
2- Nghi mình bản nguyện
chưa trả xong, tham sân si chưa dứt, e không được vãng sanh.
3- Nghi mình niệm Phật,
Phật không đến rước, e không được vãng sanh.
Bốn cửa ải là:
1- Hoặc nhân bị bịnh khổ
mà trở lại hủy báng Phật không linh.
2- Hoặc nhân tham sống
mà giết vật mạng cúng tế.
3- Hoặc nhân uống thuốc
mà dùng rượu cùng chất máu tanh hôi.
4- Hoặc nhân ái luyến mà
tự ràng buộc với gia đình."
Đại sư nêu ra
thuyết Tam Nghi Tứ Quan ở trên, bậc trí huệ có thể suy nghĩ
tìm phương pháp giải quyết. Nay bút giả xin mạn phép nói lược qua cách phá trừ
để góp ý, và các bạn đồng tu với sự hiểu biết của mình, có thể suy diễn hiểu
rộng thêm ra.
1. Phá mối nghi
túc nghiệp nặng, công tu ít: - Phật A Di Đà từng có lời thệ nguyện:
"Chúng sanh nào chí tâm muốn về Cực Lạc, niệm danh hiệu Ngài cho đến mười
niệm, nếu không được vãng sanh, Ngài thề không thành Phật." Phật không khi
nào nói dối, vậy hành giả phải tin nơi đức Từ Tôn. Mười niệm là thời gian công
phu tu hành rất ít mà còn được vãng sanh, huống chi ta niệm nhiều hơn số đó.
Lại dù kẻ nghiệp nặng đến đâu, như phạm trai phá giới, tạo đủ nghiệp ác, nếu
chí tâm sám hối nương về Phật A Di Đà, Ngài đều tiếp dẫn. Kinh Quán Vô Lượng
Thọ đã chẳng nói kẻ tạo tội nặng ngũ nghịch thập ác, khi lâm chung chí tâm niệm
mười niệm đều được vãng sanh đó ư? Trong truyện Vãng Sanh, như Trương Thiện
Hòa, Hùng Tuấn, Duy Cung, trọn đời giết trâu bò, phá giới, làm ác, khi lâm
chung tướng địa ngục hiện, sợ hãi niệm Phật, liền thấy Phật đến rước. Cho đến
loài chim sáo, két niệm Phật , còn được vãng sanh, huống chi ta chưa phải là tệ
đến mức đó?
2. Phá mối nghi
bản nguyện chưa trả, tham sân si chưa dứt: - Bản nguyện của hành giả
đại khái có hai: đạo và đời. Về đạo, có người nguyện cất chùa bố thí hay nguyện
tụng số kinh chú bao nhiêu, làm chưa tròn đã đến giờ chết. Phải nghĩ rằng: chỉ
tín tâm niệm Phật, khi được vãng sanh sẽ làm vô lượng vô biên công đức, còn bản
nguyện chỉ là việc nhỏ, làm xong hay chưa không mấy quan hệ, và chẳng có hại
chi cả. Về đời, hoặc có người vì nhiệm vụ gia đình chưa tròn, như cha mẹ suy
già không ai săn sóc, vợ con thơ dại thiếu chỗ tựa nương, hoặc có kẻ thiếu nợ
người chưa kịp trả, tâm nguyện chưa vẹn nên lòng chẳng yên. Phải nghĩ rằng: lúc
ta sắp chết, dù có lo hay không cũng chẳng làm sao được. Chi bằng chuyên tâm
niệm Phật, khi đã được vãng sanh Tây Phương chứng đạo quả, thì tất cả bản
nguyện trái duyên đều có thể trả xong, tất cả kẻ oán người thân đều có thể cứu
độ.
Lại Kinh Na Tiên nói:
"Ví như hột cát nhẹ, bỏ xuống nước liền chìm. Trái lại tảng đá dù nặng to,
nếu được thuyền chở, có thể đem từ chỗ này sang chỗ khác. Người niệm Phật cũng
thế, nghiệp tuy nhẹ nếu không được Phật cứu độ, tất bị luân hồi, tội chướng dù
nặng bao nhiêu, được Phật tiếp dẫn sẽ sanh về Cực Lạc." Theo đoạn kinh
đây, ta thấy môn Niệm Phật là pháp có thể đới nghiệp vãng sanh, vì nhờ tha lực.
Tảng đá lớn ví cho sức nghiệp nặng to, thuyền chở ví cho nguyện lực của Phật.
Vậy người tu đừng nghĩ rằng mình còn tham, sân, si, e không được vãng sanh. Thí
dụ trên có thể phá luôn điểm nghi về nghiệp nặng ở điều thứ nhứt.
3. Phá mối nghi
niệm Phật, e Phật không đến rước: - Người niệm Phật tùy theo công đức
mình, khi lâm chung thấy Phật, hoặc Bồ Tát, hay Thánh chúng đến rước. Có khi
không thấy chi, mà nhờ sức nguyện của mình và Phật lực thầm nhiếp thọ, thần
thức tự bay về Tây Phương. Đây là bởi công hạnh của mình có cao thấp, sâu cạn.
Chỉ cần yếu lúc ấy ta phải chí tâm niệm Phật, đừng nghĩ chi sai khác. Nếu nghi
ngờ sẽ tự sanh ra chướng ngại. Tóm lại, khi lâm chung dù thấy tướng tốt hay
không cũng đừng quản đến, chỉ hết lòng niệm Phật cho đến giây phút cuối cùng mà
thôi.
Phá chung bốn cửa ải: -
nhân bịnh khổ hủy báng Phật - tham sống sát sanh cúng tế - cầu lành bịnh uống
ruợu, hoặc dùng thuốc có chất huyết tanh - vì ái luyến nên tâm niệm ràng buộc
với gia đình.
Người niệm Phật mà bị
tai nạn bịnh khổ, đó là do nhờ công đức tu hành, nên chuyển quả nặng thành quả
nhẹ, chuyển hậu báo thành hiện báo, trả cho hết để được sanh về Tây Phương. Nếu
trở lại nghi ngờ hủy báng, là người kém tin hiểu, phụ ơn Phật, tự gây tội
chướng cho mình. Trong sự tích Tịnh Độ có thuật chuyện ông Ngô Mao cùng rất
nhiều Phật tử khác, nhờ dồn nghiệp mà sớm được vãng sanh. Vậy khi gặp cảnh này,
người niệm Phật nên ý thức để hiểu rõ.
Lại thân này giả tạm,
tùy theo tội nghiệp mà kiếp sống có vui khổ lâu mau. Nếu giết sanh mạng để nuôi
dưỡng sanh mạng, hoặc cúng tế, thì tội khổ càng thêm nặng, phải triệt để nương
theo Phật và tin chắc lý nhân quả.
Khi đau yếu chỉ cầu
Phật, không nên cầu phù phép tà sư, hoặc nghe lời kẻ chưa hiểu đạo, trở lại ăn
mặn, uống rượu, hay dùng thuốc bằng chất máu huyết tanh hôi. Thân này nhơ nhớp,
được về cõi Phật sớm chừng nào hay chừng ấy, như bỏ chiếc áo hôi rách mặc sắc
phục đẹp thơm, đáng chi phải bận lòng?
Đến như mối hại về ái
luyến khi lâm chung, thì như đoạn trên đã nói. Phải nghĩ: trong gia đình từ cha
mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, đều do đời trước có nợ nần ân oán, nên mới tạm
hội ngộ nhau. Khi nhân duyên đã hết thì mỗi người đi mỗi ngả. Nếu có
lòng thương, tốt hơn ta nên gát bỏ tình trần cầu sanh Tây Phương, để độ tất cả
kẻ oan thân. Khi cái chết sắp đến, dù có quyến luyến cũng không thể đem theo,
không làm chi được, bởi chính sắc thân của ta còn phải tan về cát bụi. Nếu ái
luyến thì đã không được vãng sanh, lại bị khổ luân hồi vô cùng vô tận.
Những điểm về “Tam Nghi
Tứ Quan” trên đây, hành giả phải suy nghiệm ghi nhớ kỹ, để dự bị trước cho tinh
thần được yên ổn trong lúc lâm chung.
Thỉnh
Bậc-Tri-Thức Khai Thị
Người tu Tịnh Độ, khi
bịnh chưa nặng cũng nên uống thuốc, nhưng vẫn tinh tấn niệm Phật, chớ tưởng
nghĩ rằng: uống thuốc rồi sẽ lành bịnh. Lúc bịnh đã nặng,
có thể không cần dùng thuốc. Hoằng Nhứt đại sư khi đau nặng, có kẻ
thưa để xin rước thầy hốt thuốc. Ngài liền từ tạ và nói kệ rằng:
Đức Phật A Di Đà.
Là vô thượng y vương.
Nếu bỏ đây không cầu
Ấy là kẻ si cuồng!
Một câu hồng danh Phật.
Là thuốc diệu Dà Đà.
Nếu bỏ đây không uống.
Thật lầm to lắm mà!
Rồi Ngài chỉ chuyên tâm
niệm Phật. Quả nhiên bịnh cũng lần lần thuyên giảm.
Nên nhớ khi bịnh đã
nặng, hành giả phải buông bỏ tất cả mọi việc xung quanh, cho đến chính thân tâm
của mình, chỉ chuyên nhứt niệm Phật, một lòng mong cầu vãng sanh Tây Phương.
Làm như thế, nếu thọ mạng đã hết, quyết được vãng sanh. Như thọ mạng chưa dứt, tuy
cầu vãng sanh mà trở lại mau lành bịnh, do vì lòng mình chuyên thành, nên
có thể diệt trừ nghiệp ác đời trước. Trái lại, nếu chẳng buông bỏ mọi duyên
nhứt tâm niệm Phật, như thọ mạng đã hết quyết không được vãng sanh, vì
mình chỉ chuyên cầu lành bịnh chớ không cầu vãng sanh, nên không do
đâu được về Cực Lạc. Nếu thọ mạng chưa dứt, chẳng những không được mau thuyên
giảm, mà bịnh lại tăng thêm, vì mình nhân cầu lành bịnh, vọng sanh lòng buồn lo
sợ hãi.
Có nhiều người tu Tịnh
Độ, trong lúc đau nặng, thân nhơn vì kém hiểu đạo, chẳng lo khuyến tấn sự niệm
Phật, trở lại không tiếc tiền rước nhiều đông, tây y hoặc thầy phù thủy, đến
cầu điều trị hoặc cúng tế cho mau lành bịnh. Làm như thế, khiến cho
người bịnh đã không được sự trợ niệm, lại bị rộn ràng phân tâm, nên không được
vãng sanh. Đó là lấy tiền mua hiếu hoặc mua danh, để cho người ngoài thấy
mình là kẻ ân hậu, tận tâm lo lắng. Họ đâu hiểu rằng, có lòng hay không Phật
Thánh đều chứng biết, chớ nào phải hình thức bên ngoài! Hành động ấy khiến cho
người sáng suốt chỉ mỉm cười thương xót!
Lúc bịnh nhơn đau nhiều,
như thần thức còn thanh tỉnh, người nhà nên thỉnh bậc tri thức đến thuyết pháp
khai ngộ cho. Nếu không có bậc tri thức, nên mời một vị đồng tu đến an
ủi khai thị. Vị này nên khuyên nhắc thân nhơn kẻ bịnh, dùng lòng từ bi
cố chủ trương điều hành cho mọi việc hợp với đạo, để cho người sắp mãn phần
được sự lợi ích vãng sanh. Đại khái vị khai thị nên y theo mấy chi tiết sau
đây:
1. Nói cảnh khổ Ta Bà,
cảnh vui Cực Lạc, nhắc cho bịnh nhơn phát lòng hâm mộ. Lại nên đem việc lành,
công tu của bịnh nhơn kể rõ ra và khen ngợi, khiến cho người bịnh sanh lòng vui
mừng không còn nghi ngại, tự biết khi mình chết sẽ nương nơi nghiệp lành ấy
sanh về Tây Phương.
2. Nếu bịnh nhơn có điều
nghi ngờ gì, nên tùy cơ giải thích như thuyết Tam Nghi Tứ Quan ở đoạn trên đã
nói. Trong đây điểm cần yếu là khuyên phải dứt trừ tâm tham tiếc tài sản và
niệm ái luyến gia đình.
3. Nếu người sắp chết có
di chúc trước thì thôi, bằng không, vị khai đạo phải can ngăn, khuyên thân nhơn
không nên hỏi han về di chúc. Lại cũng khuyên đừng nói chuyện tạp vô ích khiến
cho bịnh nhơn động tâm niệm tình ái, quyến luyến thế gian, có ngại cho sự vãng
sanh.
4. Khi có bà con hay
thân hữu của kẻ bịnh đến thăm nên ngăn không cho đến trước bịnh nhơn tỏ vẻ buồn
thảm hỏi han. Nếu đã vì cảm tình đến viếng thăm, chỉ nên đứng gần bên chắp tay
niệm Phật ra tiếng một hồi, đó mới thật là có lòng thương mến. Như kém hiểu
biết chỉ dùng theo tục tình, đó chính là xô người xuống biển khổ, tình tuy đáng
cảm, mà sự lại di hại đáng thương.
5. Nên khuyên bịnh nhơn
đem những y phục vật dụng của mình thí cho kẻ khác. Hoặc y theo phẩm Như Lai
Tán Thán trong Kinh Địa Tạng, đem vật liệu ấy cúng dường kinh tượng lại càng
hay. Điều này cũng giúp cho người bịnh thêm phước tiêu tội, được dễ dàng trong
sự vãng sanh.
Những điều đại khái như
trên, vị khai thị phải lưu ý. Ngoài ra có thể tùy cơ ứng biến, ở
đây không thể nói hết được.
Cách
Thức Trợ-Niệm
Người bịnh từ khi đau
nặng cho đến lúc sắp tắt hơi, thân nhơn quyến thuộc phải bình tĩnh đừng khóc
lóc. Có kẻ tuy không khóc nhưng lại lộ nét bi thương sầu thảm, đó cũng là điều
không nên. Bởi lúc bấy giờ, bịnh nhơn đã đi đến ngã rẽ phân chia giữa quỷ,
người, phàm, Thánh, sự khẩn yếu nguy hiểu khác thường, như ngàn cân treo dưới
sợi tóc. Khi ấy duy nhứt tâm trợ niệm Phật hiệu là điều thiết yếu. Người
dù có chí nguyện vãng sanh, mà bị quyến thuộc thương khóc làm cho khơi động
niệm tình ái, tất phải bị đọa lạc luân hồi, công tu cũng đành luống uổng!
Lại khi bịnh nhơn gần
qua đời, tự họ muốn tắm gội, thay y phục hay đổi chỗ nằm, thì có thể thuận
theo, song phải nhẹ nhàng cẩn thận mà làm. Như họ không chịu, hoặc á khẩu không
nói được, rất không nên miễn cưỡng mà làm. Bởi người sắp chết thân thể thường
đau nhức, nếu ép di động, đổi chỗ nằm hoặc tắm rửa, thay y phục, thì bịnh nhơn
càng đau đớn thêm. Nhiều người tu hành phát nguyện cầu về Cực Lạc, nhưng khi
lâm chung vì bị quyến thuộc di động nhiễu loạn, phá hoại chánh niệm, nên không
được vãng sanh, việc này xảy ra rất thường. Hoặc kẻ mạng chung có thể sanh về
cõi lành, nhưng bị người khác không biết, xúc chạm thân thể, sửa đổi tay chân
làm cho đau đớn, nên sanh lòng giận tức. Do một niệm đó, liền đọa vào đường ác,
làm rồng, rắn, cọp, beo, hoặc các loài độc khác. Như vua A Xà Thế tu
nhiều phước lành, khi lâm chung bị người hầu cận ngủ gục làm rớt cây quạt trên
mặt, nên giận chết đọa làm rắn mãng xà. Gương này không nên răn sợ ư!
Người bịnh khi lâm chung
hoặc ngồi, hoặc nằm, đều tùy tiện, chớ nên gắng gượng. Nếu cảm thấy suy nhược
chỉ có thể nằm, mà muốn xem cho ra vẻ, gắng gượng ngồi dậy, là điều nguy hại
không nên. Hoặc theo lẽ, phải nằm nghiêng bên mặt hướng về Tây, nhưng vì thân
thể đau nhức phải nằm ngửa, hay nằm nghiêng bên trái hướng về Ðông, cũng cứ để
tự nhiên chớ nên gắng gượng. Đây là chính bịnh nhơn phải hiểu như thế mà tự xử
sự. Còn người thân thuộc cũng phải hiểu lẽ này, chẳng nên cầu danh, bắt người
bịnh nằm nghiêng bên mặt hướng về Tây, hay đỡ dậy, mặc áo tràng, sửa ngồi kiết
dà. Đâu biết rằng chỉ vì cầu chút hư danh, mà khiến cho người chết phải
đọa tam đồ, chịu vô lượng sự khổ!
Lúc bịnh nhơn sắp mãn
phần, sự trợ niệm là điều rất cần thiết. Bởi khi ấy, người bịnh từ tinh thần
đến thể chất đều yếu kém mê mờ, khó bề tự chủ. Đừng nói kẻ bình nhựt
chưa tu không giữ nổi câu niệm Phật được lâu bền; mà người bình nhựt lấy câu
niệm Phật làm thường khóa, nếu không nhờ sức trợ niệm cũng khó mong đắc lực. Cách
thức trợ niệm phải y theo những điều kiện như ở dưới đây:
1. Thỉnh
tượng Phật Di Đà tiếp dẫn để trước bịnh nhơn khiến cho họ trông thấy. Cắm
một bình hoa tươi và đốt lò hương nhẹ, khói thơm vừa thoảng để dẫn khởi chánh
niệm cho bịnh nhơn. Nên nhớ khói chỉ nhẹ thôi, đừng để nhiều vì e ngột ngạt khó
thở.
2. Người trợ niệm tùy
theo nhiều ít nên luân phiên mà niệm. Ít thì mỗi lần một hoặc hai người, chia
thành ba phiên. Nhiều thì mỗi phiên có thể độ sáu hay tám người. Nên nhớ lúc ấy
bịnh nhơn sức yếu rất cần thanh khí, nếu để cho người ta vào đông, hoặc kẻ trợ
niệm quá nhiều, tất làm cho người bịnh ngột ngạt xao động, có hại hơn là có
lợi. Lại, các phiên phải canh theo đồng hồ mà im lặng luân chuyển nhau, để cho
câu niệm Phật tiếp tục không gián đoạn, đừng kêu gọi. Mỗi
phiên niệm lâu ước độ một giờ.
3. Theo ngài Ấn Quang,
nên niệm bốn chữ để cho bịnh nhơn dễ thâu nhận trong khi tinh thần thể chất quá
suy yếu. Nhưng ý kiến của Hoằng Nhứt đại sư, thì muốn niệm bốn chữ hay sáu chữ,
tốt hơn nên hỏi bịnh nhơn, để thuận với tập quán ưa thích thuở bình nhựt của
người bịnh, khiến cho họ có thể niệm thầm theo. Nếu
trái với tập quán ưa thích, tức là phá hoại chánh niệm của người bịnh, tất mình
cũng có tội. Lại cách trợ niệm, không nên niệm to tiếng quá, vì mình
sẽ tổn hơi khó bền; không nên niệm nhỏ quá, vì e người bịnh tinh thần lờ lạc,
khó thâu nhận. Cũng chẳng nên niệm quá mau, bởi làm cho bịnh nhơn đã không nghe
nhận được rõ ràng, lại không thể theo kịp; chẳng nên niệm quá chậm, bởi có lỗi
tiếng niệm rời rạc khiến người bịnh khó liên tục nhiếp tâm. Đại khái tiếng niệm
phải không cao không thấp, chẳng chậm chẳng mau, mỗi chữ mỗi câu đều rành rẽ rõ
ràng, khiến cho câu niệm trải qua tai đi sâu vào tâm thức của người bịnh, như
thế mới đắc lực. Lại có điều nên chú ý, khi bịnh nhơn tâm thức quá hôn trầm,
niệm ở ngoài tất họ nghe không rõ. Trong trường hợp ấy, phải kê miệng sát vào
tai họ mà niệm, mới có thể khiến cho người bịnh được minh tâm.
4. Về pháp khí để dùng
trong khi trợ niệm, thông thường nên đánh khánh. Bởi tiếng mõ âm thanh đục,
không bằng tiếng khánh trong trẻo, dễ khiến cho bịnh nhơn tâm thần thanh tỉnh.
Nhưng vấn đề đó cũng tùy, vì theo kinh nghiệm riêng, Hoằng Nhứt đại sư đã dạy:
"Những kẻ suy yếu thần kinh, rất sợ nghe tiếng khánh và mõ nhỏ. Bởi âm
thanh của mấy thứ này chát chúa đinh tai, kích thích thần kinh khiến cho người
bịnh tâm thần không an. Theo thiển ý, chỉ nên
niệm suông là thỏa đáng hơn hết. Hoặc nếu có, thì
chỉ nên đánh thứ chuông mõ lớn. Những món này âm thanh hùng tráng, khiến cho
người bịnh sanh niệm nghiêm kính, thật hơn đánh khánh và mõ nhỏ nhiều. Thứ mõ
âm thanh đục cũng không nên đánh, vì làm cho bịnh nhơn tâm thần hôn trược. Tuy
nhiên, sở thích của mỗi người không đồng, tốt hơn là nên hỏi trước bịnh
nhơn. Nếu có chỗ nào không hợp, phải tùy cơ cải biến, chớ nên cố
chấp."
Trên đây là mấy điểm nên
lưu ý về cách thức trợ niệm.
Khi
Tắt-Hơi Cho Đến Lúc Truy-Tiến
Người mới tắt hơi, điều
thiết yếu là không nên vội di động. Hoặc kẻ chết thân
mình dính chất dơ cũng không nên gấp lau rửa, phải đợi qua tám tiếng đồng hồ,
hay ít nhứt cũng ba giờ, mới được tắm rửa thay đổi y phục. Trước và sau khi
chết, người thân không được khóc lóc. Bởi khóc là vô ích mà lại có hại, vì làm
cho kẻ mạng chung sanh niệm quyến luyến, không được giải thoát. Chỉ nên gắng
sức niệm Phật mới thật có ích cho vong nhơn. Nếu muốn khóc lóc, phải đợi tám
giờ sau. Tại sao thế? Vì bịnh nhơn tuy tắt hơi nhưng thức A Lại Da còn chưa đi.
Nếu khi ấy lay động, tắm rửa thay y phục, hoặc kêu khóc, họ vẫn còn cảm giác
đau đớn hoặc sanh buồn giận bi thương mà phải sa đọa. Điều này rất quan hệ, rất
cần yếu, nên để ý ghi nhớ kỹ.
Thuyết thăm dò hơi nóng
để nghiệm xem sanh về đâu, tuy có chứng cớ, song cũng không nên câu chấp. Nếu
bịnh nhơn bình thời tín nguyện chân thiết, khi lâm chung chánh niệm rõ ràng, có
thể chứng nghiệm là vãng sanh. Nhiều người không kỹ, cứ mãi thăm dò, rờ
chỗ này chỗ kia, làm động niệm kẻ mạng chung, cũng có hại rất lớn.
Sau khi bịnh nhơn tắt
hơi, người trợ niệm vẫn phải tiếp tục niệm Phật cho đến “ba giờ đồng hồ” sau,
để cho sự vãng sanh được bảo đảm. Trợ niệm xong,
liền đóng cửa phòng lại canh chừng cho kỹ, kẻo loài mèo chó hoặc kẻ không am
hiểu đổ xô vào xúc chạm, đợi mãn tám giờ sẽ tắm rửa thay đổi y phục. Nếu luôn
trong tám giờ, có người ở gần bên niệm Phật, là điều rất tốt. Ngoài ra cấm
tuyệt không nên làm điều chi khác. Xin nhắc lại trong khoảng thời gian này,
người chết vẫn còn cảm giác.
Sau tám giờ nếu tay chân
người chết đã cứng không thể chuyển động, nên dùng vải thấm nước nóng đắp bao
quanh khớp xương. Làm như thế giây lâu, có thể sửa tay chân co duỗi như thường.
Trong đám tang của người
quá cố, thân nhơn nên làm đơn giản, đừng quá rườm rà mà tốn vô ích. Điều cần
thiết là phải nên dùng đồ chay, chớ có sát sanh để đãi đằng cúng tế. Bất đắc dĩ
cần có chút ít đồ mặn, thì nên mua thịt cá chết, hoặc người ta đã làm sẵn bán
ngoài chợ. Nếu sát sanh để cúng tế đãi đằng, tất người mãn phần bị oan
đối không được giải thoát. Dù kẻ mạng chung đã được vãng sanh, phẩm sen cũng vì
đó mà bị giảm thấp.
Trong thời gian trước,
bút giả cùng chư tăng có đi tụng kinh siêu độ cho bà kế mẫu người bạn là thượng
tọa Bảo Huệ ở xã Tân Hội tỉnh Long An. Nơi đám tang, bút giả thấy dùng toàn đồ
chay, có khen ngợi và hỏi thăm, thì thượng tọa đáp: "Sự cúng đãi đồ chay
thật ra có do tôi khuyến hóa, nhưng phần lớn cũng nhờ động lực bởi một chuyện
đã xảy ra ở xóm trên. Nguyên trên ấy có một nhà khá giàu, gia chủ mãn phần,
người con cho giết nhiều bò heo gà vịt để tiếp đãi họ hàng thân thuộc và kẻ
quen biết gần xa, suốt cả mấy ngày. Lúc sanh tiền gia chủ là người hiền lành
phúc hậu thường ăn chay tụng niệm, lại có giao du rộng. Sau đám tang ấy, vào
buổi chiều hồn ông nhập vào đứa cháu nội, mặt đỏ rần, nhảy lên ván ngồi, vỗ
bàn, kêu gọi ngay tên đứa con lại, và quát bảo: "Một đời tao tu hành làm
phước, không tội lỗi chi nặng, đáng lẽ được sanh đến chỗ giàu sang. Nay bị mày
sát sanh quá nhiều để cúng đãi, nên tao bị oan đối không được giải thoát. Hiện
thời tao bị quản thúc phạt vạ, phải chăn giữ một bầy bò heo gà vịt, chạy trong
bùn lầy gai góc, thật khổ sở vô cùng!" Thuật xong câu chuyện, Thượng Tọa
cười bảo: "Chính nhờ việc đó đồn vang ai cũng đều biết, lại mới xảy ra
cách đây ít tháng, người nhà đã tin tưởng kinh sợ, nên tôi mới vừa đề nghị là
được chấp thuận liền." Việc sát sanh đãi đằng cúng tế trong đám
tang, Kinh Địa Tạng cũng đã có nói rõ sự nguy hại, vậy hàng Phật tử nên để tâm
ghi nhớ.
Khi làm Phật sự truy
tiễn cho người quá vãng, thân nhơn nên đem công đức ấy hồi hướng khắp chúng
sanh trong pháp giới. Như thế, công đức sẽ càng thêm lớn, mà sự phước lợi của
vong nhơn cũng nhân đó được tăng thêm nhiều.
Những điểm dự bị về lúc
lâm chung trên đây, phần lớn bút giả rút lấy ý kiến của các bậc danh đức như
ngài Ấn Quang và Hoằng Nhứt đại sư mà dung
hội lại. Bởi buổi lâm chung chính là lúc quan yếu nhứt trong cuộc đời người.
Nếu trước chưa dự bị tư lương vãng sanh cho đầy đủ, đến chừng ấy khó
khỏi kinh hoàng bối rối, kêu cầu không kịp, nghiệp ác trong nhiều kiếp đồng
thời hiện ra, làm sao giải thoát?
Cho nên khi lâm chung
tuy nhờ người y theo phương pháp mà trợ niệm, nhưng chính mình lúc bình nhựt
phải cố gắng tu trì chừng ấy mới được tự tại.
Xin các bạn tu tịnh
nghiệp sớm lưu tâm dự bị, để đồng được dự phẩm sen nơi hải hội Liên Trì.
Những
Gương Đắc Thất Về Sự Trợ Niệm
1. Sự tích cư sĩ Lưu
Cảnh Liệt
Cư sĩ Lưu Cảnh Liệt,
người tỉnh Giang Tây ở Trung Hoa, buổi thiếu thời có sang lưu học Nhựt Bản. Sau
khi quang phục, ông từng làm nghị viên ở quốc hội và ty trưởng nhiệm chức
phương ty. Anh của cư sĩ là Cảnh Hy, vốn hàng quan thân, từ lâu đã mến chuộng
Phật học, nên đối với cửa đạo, cư sĩ cũng khẳng khái hộ trì. Ông đã làm nhiều
điều công đức, như việc trùng tu ngôi Thọ Lượng cổ sát, xuất tư sản mua chuộc
ruộng hương hỏa cho chùa, lại thỉnh Đại Xuân hòa thượng về trụ trì. Khi Đức Sum
pháp sư đề xướng việc đúc pho tượng Quán Âm Đại Sĩ bằng đồng, cao hai mươi tám
thước, cư sĩ cũng bôn tẩu góp quyên cho đến khi hoàn thành Phật sự.
Năm Dân Quốc 22, Cảnh
Liệt nhân tỵ nạn chiến tranh đến Tô Châu, quy y với Ấn Quang đại sư, được pháp
danh là Đức Thành. Từ đó ông giữ lục trai và chuyên tu tịnh nghiệp. Khi chưa
vào đạo, Cảnh Liệt thích đánh cá, lưới chim, tạo nghiệp sát cũng nhiều. Do nhân
ác đó về sau cư sĩ mang chứng ghẻ Đối Khẩu Sang rất nguy kịch, ngày đêm đau
nhức rên la. Trong cảnh khổ, ông phát nguyện dứt trừ nghiệp ác, chuyên niệm
danh hiệu đức Quán Thế Âm bỗng nghe mùi hương lạ bay ngào ngạt, bịnh lần lần
thuyên giảm.
Đến năm Dân Quốc 25, cư
sĩ mới trở lại quê hương. Tuy lòng tin đã phát, nhưng vì việc đời việc đạo bận
rộn quá nhiều, nên về phần thật hành, ông chưa được chuyên thuần, mỗi ngày chỉ
tùy duyên niệm Phật chút ít mà thôi. Sang năm Dân Quốc 27, do nghiệp sát đời
này và đời trước, cư sĩ lại phát sanh bịnh nặng. Lâu ngày triền miên trong cơn
bịnh khổ, ông khó kham nhẫn, liền bảo con là Lưu Phát Trang xuất tiền gởi Đức
Sum pháp sư nhờ cúng dường ngài Ấn Quang và làm các việc công đức để cầu mau
tiêu tội. Pháp sư viết thơ trả lời khuyên cư sĩ nên trường trai, nhưng dây dưa
mãi đến cuối năm ông mới thật hành được.
Qua năm Dân Quốc 28 bịnh
thế của cư sĩ càng thêm nặng. Vợ con ông đều là đệ tử quy y của ngài Ấn Quang,
đã biết sự khẩn yếu lúc lâm chung, vội thỉnh chư tăng ở chùa Thọ Lượng đến trợ
niệm. Ngày mười chín tháng Giêng năm ấy, cư sĩ biết mình sẽ từ trần, bảo người
nhà đem ghế đỡ ra trước sân ngồi để thay đổi thanh khí. Sau khi gọi anh em dặn
dò hậu sự và bảo con là Phát Trang quì nghe di chúc xong, thần sắc ông bỗng đổi
khác. Vợ con thấy thế liền đỡ vào nhà, đem tượng Di Đà tiếp dẫn đến để trước
mặt cư sĩ, rồi cùng chư tăng lớn tiếng trợ niệm danh hiệu Phật. Đã vài tháng cư
sĩ bị bịnh xuội hết một cánh tay trái, nhưng khi thấy tượng Phật, ông bỗng hoạt
động được như thường, hai tay chắp lại, miệng niệm Phật, mặt lộ vẻ hớn hở vui
mừng. Lúc đó, dường như ông không còn cảm thấy thống khổ, tùy theo mọi người
niệm Phật giây lâu, rồi an lành thoát hóa.
Cư sĩ vãng sanh vào lúc
được sáu mươi mốt tuổi. Mấy tháng ông bị bịnh khổ là do nghiệp sát sanh chuyển
thành khinh báo trong hiện tại. Đến khi lâm chung nhờ sức trợ niệm nên
hiện ra điềm tốt, có thể gọi là: các căn vui đẹp, chánh niệm phân minh, xả báo
an lành, như vào thiền định. Như thế sự vãng sanh Tây Phương đã chắc
không còn nghi ngờ nữa. Lúc tang tế đãi khách, cả nhà tuân theo lời ngài Ấn
Quang, dùng toàn đồ chay, ai nấy đều khen ngợi.
Sự việc cư sĩ được vãng
sanh, tuy do căn lành đã thành thục, mà cũng nhờ sức trợ niệm lúc lâm chung.
Vậy đối với điểm khẩn yếu rốt sau, chư liên hữu cần để tâm chú ý.
2. Sự tích nữ cư sĩ Đức
Hoằng
Nữ cư sĩ Đức Hoằng, là
vợ của một người họ Lý ở Dương Châu. Nhân vì chồng có vợ bé mà mình lại không
sanh dục, cô khó nỗi yên thân nơi nhà, nên đến nương ngụ với kế mẫu là nữ cư sĩ
Đinh Đức Nguyên. Bà Đức Nguyên cũng thương cô như con đẻ, đôi bên nương nhau
tình thân thiết hai mươi năm như một ngày.
Đức Hoằng cư sĩ trường
trai tu tịnh nghiệp, hôm sớm rất chuyên cần. Cô và kế mẫu vì nghĩ duyên đời
phước bạc, quyến thuộc điêu linh, nên nương tựa nhau cùng làm bạn pháp trên
đường đạo. Luận về sự tín hướng và công hạnh tu trì lúc bình nhựt, thì mỗi mỗi
cô đều vượt xa hơn Lưu Cảnh Liệt cư sĩ. Chỉ tiếc vì túc nghiệp cuốn lôi, nhân
duyên khiếm khuyết, nên cô hằng gặp cảnh chướng nạn không mấy lúc được yên
thân.
Năm Dân Quốc 27, nhân
thấy miền Vũ Hán sắp chìm trong cuộc chiến, hai mẹ con liền từ Hương Cảng đến
thị xã Hộ tạm lánh nạn. Bấy giờ vì vật giá lên cao, mướn nhà rất khó, mà ở lâu
nơi khách sạn tổn phí nhiều lại càng bất tiện. Duyên may nhờ Diệu Chân hòa
thượng xót thương, mở một gian tịnh thất nơi chùa Thái Bình để cho mẹ con cô và
ba người Phật tử tản cư nữa cùng ở.
Năm Dân Quốc 28, vào
khoảng tháng ba, Đức Hoằng cư sĩ bỗng cảm chứng thương hàn. Dây dưa qua đến
tháng Tư, thuốc thang đều vô hiệu. Bịnh thế mỗi ngày càng thêm nặng. Lúc ấy
trong chùa Phật sự nhiều, phòng xá lại ít, nếu để chết tại đó thấy có điều bất
tiện, nên bất đắc dĩ bà kế mẫu phải đưa cô vào y viện. Chương trình nơi đây đều
theo cách thức Tây Phương, muốn được tự do trợ niệm trong lúc lâm chung, thật
khó toàn vẹn. Đức Hoằng cư sĩ vào y viện được hai ba ngày, người biết Phật pháp
không thể tới lui hộ trợ, nên buổi sáng ngày mười tám tháng Tư, cô mãn phần một
cách hồ đồ trong y viện. Lúc ấy nữ cư sĩ được năm mươi mốt tuổi.
Như Đức Hoằng cư sĩ xác
thực là người có tín tâm tu trì. Nếu khi lâm chung được sự trợ niệm đúng pháp,
tất điềm lành tướng tốt vãng sanh không ở sau Lưu cư sĩ. Cũng
bởi cơ duyên trở ngại, nên đời này cô không thọ dụng được công hạnh tu niệm lúc
bình thời, chỉ gây nhân đắc độ về sau mà thôi. Việc xảy ra thật đáng
tiếc cho cô, song cũng cho ta thấy sự trợ niệm lúc lâm chung quả là trọng yếu.
3. Sự tích cư sĩ Dương
Liên Hàng
Cư sĩ Dương Liên Hàng,
người thời Trung Hoa Dân Quốc, quê ở huyện Dư Diêu tỉnh Triết Giang. Ông nhà
nghèo từ nhỏ theo nghề buôn bán, tánh lịch thiệp quán xuyến hơn người.
Năm Dân Quốc thứ mười
một, Liên Hàng được biết người bạn cùng xóm là Đồng Giác Hàng tu tịnh nghiệp,
trong lòng ưa thích hằng qua lại để nghe lời chỉ giáo. Sau đó, ông thọ quy giới
làm hàng Phật tử tu tại gia. Phần văn học tuy cư sĩ còn yếu kém, song về nghĩa
lý kinh Phật, sự giải ngộ lại hơn người. Tháng chín năm Quý Hợi, các bạn ở Liên
Xã ước hẹn cùng nhau thệ nguyện phát lòng Bồ Đề, Liên Hàng cũng có dự trong
cuộc lễ ấy.
Cuối mùa Xuân năm Giáp
Tý, vì đau bịnh, cư sĩ lén phá giới sát sanh, nhân đó lần lần xa cách với các
liên hữu. Đến tháng bảy, bịnh ông càng thêm nặng, bạn đồng tu đến thăm, ai cũng
bảo rằng tất sẽ chết. Liên Hàng cũng xét biết mình khó sống, tự cảnh giác ăn
năn việc đã làm. Đầu tháng tám, ông gượng đau đến trước bàn Phật, hết lòng phát
lộ chí thành sám hối, nguyện giữ lại năm giới, thề không tái phạm. Từ đó cư sĩ
buông bỏ muôn duyên, dứt trừ ái dục, một lòng thầm niệm hồng danh Phật, chờ đến
lúc mạng chung. Các liên hữu biết công phu trì niệm của cư sĩ còn cạn, nên
trước khi ông lâm chung sáu ngày, thỉnh người đến trợ niệm. Mấy hôm rốt sau,
những bạn đồng tu cũng tự mình đến niệm Phật giúp duyên.
Cuộc trợ niệm khởi đầu
từ ngày mười hai tháng tám. Qua ngày rằm, Liên Hàng bỗng tự cảm thấy thần khí
thanh nhẹ tươi tỉnh. Đến ngày mười bảy, cư sĩ bảo trong giấc mơ thấy một vầng
ánh sáng như năm sáu ngọn đèn điện chói lòa. Vào chiều tối, xem thần sắc ông
cũng như thường, các liên hữu cho là chưa đến giờ, tiếp tục niệm Phật tới sang
canh hai, rồi sắp sửa muốn ra về. Các vị ấy không ngờ rằng, lúc đó sự trợ niệm
đã đến hồi tinh thuần đắc lực.
Liên Hàng nghe tiếng
niệm Phật bỗng ngưng bặt, liền nói: "Tôi hãy còn chưa đến Tây Phương, mong
nhờ chư liên hữu trợ niệm cho suốt đêm nay." Chúng nghe lời nói có vẻ khác
lạ, lại cao tiếng niệm Phật. Không đầy nửa giờ sau, cư sĩ bỗng cười bảo:
"Tôi đã đến Tây Phương. Ôi! Ao thất bảo to rộng quá! Kìa! Hoa sen thật là
đẹp! Ánh quang minh cũng sáng đẹp vô cùng!" Rồi ông lại dặn đại chúng cao
tiếng trợ niệm đừng nghỉ. Từ trước Liên Hàng vẫn lặng lẽ nằm yên. Đến lúc bây
giờ tay và đầu ông đều hoạt động, miệng liên tiếp nói to: "Ôi! Hoa sen
thật tươi xinh! Ao báu thật sáng đẹp!" Lúc ấy mặt của cư sĩ tươi cười hớn
hở, trông như người bất chợt có việc vui mừng vượt quá hy vọng. Như thế qua một
giờ sau, ông trở lại lặng yên không nói, tay chân cũng không động, chỉ nằm ngửa
mắt chăm chú nhìn tượng Phật trước giường. Kế tiếp đôi tròng lần lần lờ lạc,
hơi thở cũng lần yếu mòn. Đến năm giờ sáng ngày mười tám, cư sĩ mới tắt hơi.
Đêm ấy liên hữu chỉ có
bốn người, mà vừa thay phiên nhau lớn tiếng trợ niệm suốt đêm, vừa thỉnh thoảng
lại xen đôi lời sách tấn. Như thế cứ tiếp tục niệm cho đến sau khi cư sĩ tắt
hơi một giờ rưỡi, mới đổi phiên cho những vị khác vừa đến. Sự trợ niệm vẫn tiếp
tục cho tới lúc thân thể kẻ mãn phần lạnh hẳn, người nhà đều bị ngăn không được
khóc thương. Đến mười giờ trưa, một liên hữu thăm dò thử, thì các nơi
khác đều lạnh, duy đảnh đầu còn nóng như nước sôi.
Trong kinh, có bài kệ
nói:
Đảnh Thánh, mắt sanh
trời.
Người tim, ngạ quỷ bụng.
Bàng sanh ra đầu gối.
Địa ngục lòng bàn chân.
Khi người chết các nơi
khác đều lạnh, duy đảnh đầu nóng sau rốt, là kẻ ấy đã sanh về cõi Thánh, cõi
Phật; mắt nóng sau rốt là sanh lên cõi trời; chỗ tim ngực nóng sau rốt là sanh
lại cõi người. Còn nếu ở bụng thì kẻ đó sanh về cõi ngạ quỷ, ở đầu gối đầu thai
vào loài bàng sanh; ở lòng bàn chân, tất đọa xuống địa ngục. Thần thức thoát ly
từ nơi nào, thì chỗ đó nóng sau cùng. Cư sĩ đảnh đầu nóng sau rốt, chứng tỏ ông
đã vãng sanh về Cực Lạc vậy.
Như Liên Hàng cư sĩ,
giới phẩm không tròn, công hạnh tu trì lại còn non kém. Nhưng không được vãng
sanh, xét ra toàn nhờ sức trợ niệm của các bạn đồng tu. Xem đây, ta thấy sự trợ
niệm rất thiết yếu cho hành giả lúc lâm chung. Bấy giờ nhằm ngày 18 tháng bảy,
năm Dân Quốc thứ 13 (1924), cư sĩ được ba mươi tuổi.
Lời
Sau Cùng
Người xưa bảo: "Trứ
thơ nghi tại vãn niên." Đây là ý nói: Viết sách nên đợi
lúc tuổi già, vì tuổi càng lớn càng đầy đủ hiểu biết kinh nghiệm, quyển sách
viết ra giá trị mới có thể được thành toàn. Bút giả chưa phải tuổi già muộn,
chỗ kinh nghiệm cùng sự hiểu biết tất còn nhiều thiếu sót, song vì cấp thiết
trong sự lợi tha, lại chẳng biết vô thường sẽ đến ngày nào, nên gắng gượng xin
đem chút ngu thành hiến dâng hàng thức giả. Đây tuy nói là trứ tác song hầu hết
phần lớn đều rút lời trong kinh Phật, ý kiến của chư cổ đức cùng các bậc thiện
tri thức mà góp thành. Nên thiết tưởng cũng có thể đem lại lợi ích phần nào cho
bạn đọc.
Khi xưa Sở Thạch đại sư
có hai câu thơ:
Nhơn sanh bá tuế thất
tuần hy.
Vãng sự hồi quan tận giác phi!
Lời này thốt ra trong
lúc Ngài đã thất tuần, ý than: kiếp người tuy nói trăm năm, nhưng sống được bảy
mươi tuổi cũng rất ít có, và tuổi đã bảy mươi như Ngài khi quay nhìn việc cũ,
thấy mình đều lỗi lầm. Một bậc cao tăng mà còn tự phê kiểm dường ấy, thì hạng
người phàm thường sự lầm lỗi biết là bao nhiêu? Cho nên khi bút giả nghĩ mình
tội chướng còn dẫy đầy, tự độ chưa xong mà mạo muội nói đến chuyện khuyên nhắc
người, đôi lúc cũng hổ thẹn bàng hoàng ngập ngừng không muốn viết. Nhưng nghĩ
lại danh từ khuyến hóa thật ra mình chẳng dám đương, nhưng lấy tánh cách người
trong biển khổ gắng kêu nhắc đồng bạn cùng vượt qua biển khổ, để mong cho mình
nhờ chút ảnh hưởng đó tiêu bớt phần nào tội chướng nên mới không ngần ngại.
Nhớ lại thuở đời nhà
Minh bên Trung Hoa, ông La Điện có soạn bài thi "Tỉnh thế" như sau:
Vội vội vàng vàng khổ
nhọc cầu,
Mưa mưa nắng nắng trải xuân thu.
Hôm hôm sớm sớm lo sinh kế,
Lãng lãng quên quên thấy bạch đầu.
Thị thị phi phi không kết liễu,
Phiền phiền não não những bi ưu.
Rành rành rõ rõ một đường đạo,
Vạn vạn ngàn ngàn chẳng chịu tu!
Lời văn trên tuy thô sơ,
dường như không có đạo lý chi sâu sắc, nhưng đã đem tất cả hành vi và chướng
nghiệp trong đời sống của kiếp người mô tả ra rất rõ ràng. Ai có thể tránh khỏi
khuôn khổ của bài thi trên đây, và cố gắng tu hành, mới gọi là người đi trên
đường giải thoát.
Ông La Điện sở dĩ có lời
than trên đây, bởi thấy biển tục dễ chìm, đường tu khó bước. Trong Kinh Tứ Thập
Nhị Chương, đức Phật dạy:
Nhơn sanh có hai mươi
việc khó:
- Nghèo khổ, bố thí là
khó
- Giàu sang, học đạo là khó
- Xả thân, quyết chết là khó
- Xem được kinh Phật là khó
- Nhịn sắc lìa dục là khó
- Sanh gặp đời Phật là khó
- Thấy tốt không cầu là khó
- Bị nhục chẳng giận là khó
- Có thế không ỷ là khó
- Gặp việc vô tâm là khó
- Học rộng nghiên tầm nhiều là khó
- Trừ bỏ ngã mạn là khó
- Không khinh kẻ chưa học là khó
- Tâm hành bình đẳng là khó
- Chẳng nói việc thị phi là khó
- Được gặp thiện tri thức là khó
- Thấy tánh học đạo là khó
- Tùy duyên độ người là khó
- Thấy cảnh không động là khó
- Khéo biết dùng phương tiện là khó.
Trong hai mươi điều
trên, nơi đây chỉ xin nói lược qua ít chi tiết. Như nghèo khổ bố thí là
khó, bởi nghèo khổ dù muốn bố thí, nhưng ngặt vì có lòng mà thiếu sức, nếu
gắng gượng bố thí tất ảnh hưởng đến sự sống của mình, nên mới thành khó. Hoặc
như giàu sang học đạo khó, bởi giàu sang tuy có sức bố thí, song
lại bị cảnh dục lạc lôi cuốn, khó buông bỏ thân tâm để tu hành.
Sanh gặp đời Phật là
khó, như Luận Trí Độ nói: Ở thành Xá Vệ gồm chín ức dân mà chỉ có ba ức người
được gặp thấy Phật, ba ức người tuy nghe danh tin tưởng nhưng không thấy gặp,
và ba ức người hoàn toàn không được nghe biết cũng không được thấy. Đức Phật ở
tại xứ này giáo hóa trước sau hai mươi lăm năm, mà còn có ba ức người không
thấy gặp nghe biết, thì những kẻ sanh nhằm đời Phật nhưng ở cách xa, hoặc sanh
trước hay sau khi Phật ra đời, tất cơ duyên gặp Phật hoặc nghe Phật pháp là
điều không phải dễ. Nhưng tuy không gặp Phật mà y theo Phật pháp tu
hành, thì cũng như gặp Phật.
Nếu không theo lời Phật
dạy, dù ở gần Phật, vẫn là cách xa. Như khi xưa Đề Bà Đạt Đa là em họ của Phật,
Tỳ Khưu Thiện Tinh làm thị giả cho Phật hai mươi năm, vì không giữ đúng theo
đường đạo, nên kết cuộc đều bị đọa địa ngục. Và bà lão ở phía Ðông thành Xá Vệ,
sanh đồng năm tháng ngày giờ với Phật, nhưng vì vô duyên nên không muốn thấy
gặp Phật. Cho nên được thấy Phật nghe pháp, y theo lời dạy phụng hành, phải là
người có nhiều căn lành phước đức nhân duyên. Nay Như Lai đã nhập diệt, các bậc
thiện tri thức thay thế Phật ra hoằng dương đạo pháp, nếu thân cận nghe theo
lời khuyên dạy tu hành, tất cũng được giải thoát. Nhưng kẻ căn lành sơ bạc, gặp
thiện tri thức cũng khó. Dù có duyên được thấy mặt nghe pháp, song nếu không
hiểu nghĩa lý, hoặc chấp hình thức bên ngoài mà chẳng chịu tin theo, thì cũng
đều vô ích.
Theo Kinh Phạm
Võng và Hoa Nghiêm, muốn tìm cầu thiện tri thức,
đừng câu nệ theo hình thức bên ngoài; như chớ chấp kẻ đó trẻ tuổi, nghèo nàn,
địa vị thấp, hoặc dòng dõi hạ tiện, tướng mạo xấu xa, các căn chẳng đủ, mà chỉ
cầu người thông hiểu Phật pháp, có thể làm lợi ích cho mình. Lại đối với bậc
thiện tri thức chớ nên tìm cầu sự lỗi lầm, bởi vị đó có khi vì mật hạnh tu
hành, vì phương tiện hóa độ, hoặc đạo lực tuy cao song tập khí còn chưa dứt,
nên mới có hành động như vậy. Nếu chấp nê hình thức, tìm cầu lỗi lầm, tất không
được lợi ích trên đường đạo.
Khi Phật còn tại thế,
ngài Ca Lưu Đà Di có thói quen miệng nhơi qua, nhơi lại như trâu; Tỳ Khưu Ni
Liên Hoa Sắc tánh ưa soi gương trang điểm; một vị Tỳ Khưu thích leo lên cây nhảy
chuyền; một vị Tỳ Khưu khác nói với ai, ưa lên giọng xưng mi tao lớn lối. Nhưng
sự thật bốn vị này đều đã chứng quả A La Hán cả. Bởi kiếp trước một vị làm thân
trâu, một vị là kỹ nữ, một vị làm thân khỉ, một vị là dòng quý tộc Bà La Môn,
nhiều đời ở trong hoàn cảnh đó, đến nay tuy đắc quả, song tập quán dư thừa hãy
còn.
Lại như đức Lục
Tổ vì thấy người học Phật thời ấy ưa chấp nói theo kinh văn, không
nhận ngay Phật tánh, nên mới thị hiện làm kẻ dốt, không biết chữ. Ngọc
Lam thiền sư vì muốn tránh duyên để tu hành, nên mới giả làm người
điên cuồng, quần áo lôi thôi, ăn nói không chừng độ. Hư Vân hòa thượng vì
thấy người thời mạt pháp, phần nhiều thân xuất gia, mà tâm không xuất gia nên
tuy đã ngộ đạo mà thường để râu tóc, mật ý chỉ cho "đạo" không phải ở
nơi đầu tròn áo vuông. Nhưng đương thời của các vị ấy, cũng có nhiều kẻ chê bai
chỉ trích đức Lục Tổ là dốt nát, ngài Ngọc Lam là điên khùng, Hư Vân thượng
nhơn là người phạm quy luật Thiền môn. Cho nên nhìn tìm bậc thiện tri
thức khó là như thế. Mấy điều này người học Phật cũng nên hiểu, để bớt sự cố
chấp và tránh lỗi khinh báng Tăng, Ni. Còn các việc khó kia, có thể suy ra để
hiểu.
Tuy nhiên, khó và dễ là
pháp đối đãi, trong khó có dễ, trong dễ có khó. Nếu nhận hiểu và quyết
tâm thì các việc khó chẳng phải không thể làm được. Như thuở đời Phật
Tỳ Bà Thi, có hai vợ chồng ông Kế La Di, nghèo đến đỗi mặc chung một chiếc khố,
khi chồng đi làm vợ phải lõa thể đóng cửa ở nhà, vợ thay phiên đi làm thì chồng
cũng y như vậy. Nhưng khi nghe chư tăng đi khuyến hóa, bảo bố thí sẽ có phước
tránh cảnh nghèo khổ, hai vợ chồng bàn luận nhau đem chiếc khố duy nhứt ấy trao
qua cửa sổ bố thí, đành cam cùng chịu lõa thể đóng cửa nằm chết trong nhà. Do
sự quyết tâm làm lành đó, khiến cho vị quốc vương hay được, đem y phục tiền của
giúp đỡ. Từ đó về sau, mỗi đời sanh ra, hai vợ chồng đều có y phục tùy thân, và
sau cùng đều chứng đạo quả. Cho nên tuy nghèo khổ, bố thí là khó, nhưng
nếu hiểu cái nhân nghèo nàn do bởi không bố thí, rồi quyết tâm cam chịu thiếu
kém khổ cực đem của riêng để tu phước, tất việc bố thí cũng có thể làm.
Lại như vua
Thuận Trị nhà Thanh, lên ngôi hồi sáu tuổi, hai mươi bốn tuổi từ bỏ
vương vị, theo Ngọc Lâm quốc sư đầu Phật xuất gia. Làm một vị hoàng đế giàu
sang tột bực, ở lầu rồng, gác phượng ăn hải vị, sơn hào, phi tần có cả hàng
ngàn trang tuyệt sắc giai nhơn, quyền lực nắm cả thần dân trong một nước, sự
phú quý còn chi hơn? Nhưng nếu nhận rõ sự phước lạc thế gian vô thường như mộng
huyễn, cảnh chân như thường tịch mới thật là vui, thì tuy nói giàu sang học đạo
là khó, song đã quyết tâm tất cũng có thể thật hành.
Ngoài ra, nghèo khổ quá
tu hành vẫn thật khó, nhưng nếu có chí cũng chẳng phải không làm được. Như
thuở Phật Thích Ca còn ở đời, có một bà lão rất nghèo khổ, ở mướn cho người từ
hồi mười ba tuổi, đến tám mươi tuổi cũng còn vất vả, ban ngày làm việc không
ngơi nghỉ, đêm nào cũng phải giã gạo đến canh hai, gà gáy sáng đã thức dậy quây
quần bên cối xay bột. Hoàn cảnh cực nhọc không rảnh rỗi như thế, muốn tu hành
là một sự vạn nan. Nhưng nhờ tôn giả Ca Chiên Diên khuyến hóa,
nên mỗi buổi tối sau khi giã gạo xong, bà tắm rửa thay đổi y phục, ngồi tu niệm
đến quá nửa đêm mới đi nghỉ. Nhờ sự quyết tâm cố gắng đó, mà sau khi
chết bà được sanh lên làm vị thiên tử ở cung trời Dạ Ma.
Kính thưa quý vị! Thân
người khó được, pháp Phật khó nghe. Nay quý vị đã được thân người,
và có duyên xem đến quyển này, tức là đã gặp được pháp môn thành Phật mầu
nhiệm. Dù gặp phải hoàn cảnh khó khăn, xin quý vị nhận rõ duyên đời khổ mộng,
quyết chí tu hành, để hoa sen báu bên trời tây được nở thêm những hàng thượng
thiện.
Ngày Phật Đản 2515
THÍCH THIỀN-TÂM
kính phụng
BÀI SỐ 98
Ẩn tu phương tiện mượn thi ngâm
Thức ngộ mình người khởi đạo tâm
Đâu nghỉ hoa đào ra động bích
Mà mong Lưu Nguyễn ghé vào thăm?
NHƯ Ý : Nếu Hoa-đào có rơi nhẹ trôi theo vòng suối ra ngoài ĐỘNG BÍCH, đó cũng là một sự Ngẫu-nhiên, không phải do ý Chư-tiên mượn nó để dời chân LƯU NGUYỄN , cũng như thế Bút-giả không có ý mượn những lời Thi trong đây để Thả cánh Hoa-đào, mà chỉ muốn ngõ riêng với một ít vì Thông Cảm, Hữu Duyên.
Bởi Mình đã có DUYÊN để đáng tỏ BÀY công bố.
Niệm Phật Thập Yếu
10
NIỆM PHẬT
PHẢ
DỰ BỊ LÚC LÂM CHUNG
Bên đường xe tang buồn đi qua
Chiều hôm mồ hoang sương trăng tà
Vô-thường đời trần thương ôi mau!
Người đi rồi lần sang phiên ta.
Nghìn xưa xa vời trong mông lung
Tài hoa tan về nơi vô cùng!
Luân-hồi không cầu đường siêu thăng
Dù cho hiền minh sao anh hùng?
Hoàng hôn mây hồng in non xa
Dung hoa thầm khô theo suy già
Di-Đà chuyên tu phòng lâm chung
Tương tư mơ về trời Liên-Hoa.
Từ Chiếu đại
sư nói: "Người tu Tịnh Độ khi LÂM CHUNG thường có ba điều nghi, bốn cửa
ải, hay làm chướng ngại cho sự vãng sanh, phải dự bị suy nghĩ trước để phá
trừ BA ĐIỀU NGHI là:
1- Nghi mình túc
nghiệp sâu nặng, thời gian công phu tu hành ít, e không được vãng sanh.
2- Nghi mình bản
nguyện chưa trả xong, tham sân si chưa dứt, e không được vãng sanh.
3- Nghi mình
niệm Phật, Phật không đến rước, e không được vãng sanh.
BỐN CỦA ẢI là:
1- Hoặc nhân bị bịnh khổ
mà trở lại hủy báng Phật không linh.
2- Hoặc nhân tham sống
mà giết vật mạng cúng tế.
3- Hoặc nhân uống thuốc
mà dùng rượu cùng chất máu tanh hôi.
4- Hoặc nhân ái luyến
mà tự ràng buộc với gia đình.
Đại sư nêu ra thuyết Tam
Nghi Tứ Quan ở trên, bậc trí huệ có thể suy nghĩ tìm phương pháp giải
quyết.
23. Ngũ-Sắc-Vân Thủ Nhãn Ấn Pháp
Vị đạo cầu tiên nguyện trường sinh
Thọ dữ thiên tề bất giảm tăng
Toại tâm như ý thông biến hóa
Ngũ sắc tường vân túc hạ đăng.
Ma Hê Ma Hê [26]
Án-- phạ nhựt-ra, ca rị ra tra hàm tra.
UM! BÚT RUM! HÙM!
BÀI KỆ
THỨ 4
Một câu A Di Đà
Phương tiện cực mầu lạ
Nhiếp khắp hết căn cơ
Rẽ thông vào Bát nhã.
Nhứt cú Di Đà
Danh dị phương tiện
Phổ nhiếp quần cơ
Bàng thông nhất tuyến.
LƯỢC GIẢI
Ấn Quang Đại sư nói: “Tu các môn khác phải nhiều đời mới thoát luân
hồi, và theo như Khởi Tín Luận thì phải trải qua một muôn đại kiếp tu hành liên
tục mới vượt lên ngôi Bất thối chuyển. Ví như quan chức phải từ phẩm bậc nhỏ
lần lượt thăng đến ngôi Tể tướng.
Riêng môn Niệm Phật
là phương tiệm mầu lạ để mau thành Phật một đời được đới
nghiệp vãng sanh thoát khỏi luân hồi, một kiếp đã bước lên ngôi Bất thối
chuyển. Ví như Thái tử khi mới sanh ra, đã tôn qúi vượt hẳn quần thần”.
Môn Niệm Phật lại nhiếp
tất cả căn cơ, dưới từ loài qủy súc, hạng ngu tốt dốt nát tật nguyền, trên đến
bậc Đẳng giác Bồ Tát như Văn Thù Phổ Hiền cũng có lời nguyện cầu sanh Tịnh độ.
Chữ “Nhất tuyến” đây là
chỉ cho môn thiền Trực chỉ, tức đường lối thẳng vào Bát nhã chân tâm. Ngài
Triệt Ngộ dùng từ ngữ này, bởi ngài là một “đại thiền sư”.
Lại “Nhất tuyến” cũng
hàm chỉ cho đường lối đặc sắc nhiệm mầu của môn Tịnh Độ.
TRƯƠNG
THỦ ƯỚC
Cư sĩ Trương Thủ Ước,
người đời Minh, ở huyện Tú Thủy, tỉnh Triết Giang. Ông nhà nghèo mà ưa bố
thí, hằng dùng trăm ngàn phương tiện khuyên gọi các vị đạo tâm rộng làm
việc lợi ích.
Lúc lớn tuổi, ông tạ
tuyệt duyên đời, bữa cháo bữa rau, mỗi ngày thường chuyên niệm Phật. Cư
sĩ thường phỏng theo ngài Hàn Sơn, làm ba trăm bài thi, khuyến tấn mọi
người quy hướng về Tịnh độ. Xin lược trích mấy bài như sau:
Cao cả nguyện Di Đà
Rộng mầu môn Niệm Phật.
Muôn kiếp khổ luân hồi
Đời nay mới tường tất.
Nên sanh tưởng khó gặp
Dè chớ mê lạc mất.
Niệm niệm cầu vãng sanh
Tâm tâm quý chuyên nhất.
Hôm qua đến nhà Phật
Niệm niệm lòng sâu thiết!
Ngày nay ở nhà lửa
Tâm phiền rối bận việc
Nếu chẳng vững đạo căn
Khó khỏi chìm mê kiếp
Cho nên bậc hiền xưa
Ở non tu tịnh nghiệp.
Cõi tạm gởi huyễn thản
Tùy duyên mọi việc tất
Không vương nửa điểm trần
Chỉ niệm một câu Phật
Tánh mềm dịu tợ bông
Nguyện cứng bền như sắt
Nếu theo việc vẩn vơ
Đáy nước tìm trăng thật.
Thượng phẩm thấy Phật
sớm
Hạ phẩm thấy Phật chầy.
Sớm chầy tuy sai khác
Duyên trần đã thoát ly.
Tham thiền ngại chấp tướng
Niệm Phật quý dứt nghi
Xác thật có Tịnh độ
Xác thật có Liên trì!
Bảy chục xưa nay ít
Trước mắt chẳng nhiều ngày!
Phải mau cầu giải thoát
Tìm gởi chất liên thai.
Ngang trái cho ngang trái
Vạy ngay mặc vạy ngay.
Đâu rảnh đối kẻ xấu
Phân biệt phải cùng sai.
Vợ Thủ ước là Đào thị,
từ khi về nhà chồng, mỗi ngày cũng tụng kinh niệm Phật. Khi ông đến non Phổ Đà
lễ Quán Âm đại sĩ, Đào thị bảo hai con rằng: “Mẹ bình nhựt tu trì đã tỏ ngộ
tông chỉ :
“Tâm nầy làm Phật,
Tâm nầy tức Phật”.
Ngày nay, Ta Bà duyên
mãn, mẹ sắp về cảnh Tịnh độ an vui!” Nói xong, ngồi niệm Phật mà hóa. Hôm sau
Thủ Ước về đến nhà thì việc tẩn liệm đã xong. Bỗng trên nắp hòm của Đào
thị mọc lên năm cánh sen màu xanh. Mọi người đều khen ngợi kinh lạ.
Về
sau, Thủ Ước cùng được thoại ứng khi lâm chung.
BÀI SỐ 100
Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu
Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi
cầu
Thanh tịnh chí thành trong
mấy điểm
LỰC, HÀNH, NGUYỆN THIẾT với
TIN sâu.
NHƯ Ý : 3
Điểm TÍN NGUYỆN HẠNH với sự CHÍ THÀNH tu trì là yếu ước của môn Tịnh-Độ, Tuy
nói ít song nếu dẫn ra, thì Rộng-rãi Mầu-nhiệm Vô-cùng.
Đạo NHO bảo:
“Phóng
Chi Tắc Di Ư Lục Hiệp,
Quyện
Chi Tắc Thoái Tàng Ư Mật.”
(Buông
ra thì Đầy-cả Đất-trời,
Thâu
lại mất Không-còn Hình-tướng.)
Ý nầy đâu khác chi với
Đạo-Phật.
Thưa các Vị,
Tám bài cuối xin miễn
giảng giải, càng nói lại càng Sai lầm, SAI VỚI ĐẠO, bởi vì đây cũng là Ý
sau rốt của người TU, Bút-giả hiện chưa đi đến Địa-vị nầy như Chư Tăng Ni
khác, vẫn mong sẽ đắc Ý trước khi VIÊN TỊCH.
Comments
Post a Comment