THƠ ĐÁP
CƯ SĨ ĐẶNG BÁ
THÀNH
I
Từ buổi tương ngộ
đến nay, thấm thoát đã sáu năm, không những tuyết sương thay đổi, mà vận nước
cũng khác xưa. Cảnh đời vô thường, thật nên thương cảm! Tiếp được thơ, biết cư
sĩ không xao lãng Tịnh nghiệp, tôi rất vui mừng! Nhưng trong thơ thấy nói thân
tâm không an vì cảnh nhà thiếu thốn, hay đau yếu dây dưa mà không an chăng...?
Nếu cảnh nhà thiếu
kém, thiết tưởng cư sĩ nên lui một bước. Phải nghĩ rằng: giữa đời, người hơn ta
vẫn nhiều, song kẻ thua ta cũng không ít; chỉ cầu khỏi đói lạnh, mơ chi đến
giàu sang? Thảng như cư sĩ biết vui theo số phận, an với cảnh duyên, hãy còn có
thể chuyển phiền não thành Bồ đề, lo gì không đổi được u buồn thành vui đẹp?
Nếu đau yếu dây dưa, nên thống niệm thân là cội khổ, sanh lòng chán lìa, gắng tu
Tịnh nghiệp để cầu quyết sanh về Cực lạc. Các đức Như Lai đều lấy sự khổ làm
Thầy mới thành đạo Phật, chúng ta cũng phải lấy đau bệnh làm thuốc để cầu giải
thoát khỏi nẻo luân hồi. Nên biết phàm phu đủ nghiệp hoặc ràng buộc, nếu không
có những nỗi khổ cơ cùng tật bệnh... tất sẽ theo đuổi theo trường sắc, thinh,
danh, lợi, khó mà buông bỏ. Trong lúc đắc ý như thế, ai chịu quay đầu nhìn lại,
tưởng đến sự chìm đắm về sau ư? Thầy Mạnh Tử nói: “Người nào sắp lãnh một trọng trách
thiêng liêng, trước tiên phải nhọc thân, khổ trí, hoặc đói khát, khốn cùng,
việc làm thất bại. Có như thế, kẻ ấy mới rèn luyện được ý chí nhẫn nại, vững
bền, tài năng cao siêu xuất chúng”. Thế
thì biết, con người được thành lập, phần nhiều nhờ nghịch cảnh, và trong trường
hợp ấy, ta chỉ nên an lòng thuận chịu mà thôi. Nhưng trọng trách của Thầy Mạnh
nói, chỉ là tước vị ở đời, mà còn phải khổ nhọc như thế mới làm nên; huống nữa
kẻ phàm phu thấp thỏi như chúng ta, muốn gánh vác công việc trên thành đạo
Phật, dưới độ chúng sanh đó ư! Nếu như không bị một chút điên đảo vì nghèo
bệnh, thì tình trần lừng lẫy, Tịnh nghiệp khó thành, gương lòng sẽ bị tối mờ,
nhiều kiếp trôi lăn trong ác đạo, sự giải thoát buổi tương lai chưa biết đâu là
kỳ hạn!
Người xưa đã bảo: “Ví chẳng một phen sương thấm lạnh.
Hoa mai chi dễ thoảng mùi hương!” Lời
này là ý tứ trên đây vậy.
Cư sĩ nên bền chí
niệm Phật để mau tiêu túc nghiệp, chớ sanh lòng phiền não rồi oán trời trách
người, cho nhân quả là hoang đường, chê Phật pháp không linh nghiệm. Nên biết
chúng ta từ vô thỉ đến nay, gây nghiệp ác vô lượng vô biên, như Kinh Hoa Nghiêm
nói: “Giả sử nghiệp ác có hình
tướng, mười phương hư không chẳng thể dung chứa hết”. Thế thì sự tu trì lơ là chút ít, đâu
dễ dứt trừ hoặc chướng hết được. Đức Thích Ca, A Di Đà vì thương xót chúng sanh
không đủ sức dứt nghiệp, riêng mở pháp môn “nương
nhờ Phật lực, đới nghiệp vãng sanh”. Ân
đức ấy thật vô cùng rộng lớn, dù trời đất cha mẹ cũng khó sánh trong muôn một.
Vậy cư sĩ nên hết lòng sám hối, tự có thể nhờ Phật gia bị khiến cho nghiệp tiêu,
thân tâm yên ổn. Như bệnh khổ bức bách không thể nhẫn chịu, thì hôm sớm ngoài
thời niệm Phật, cư sĩ nên chí thành niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm. Vì với bổn
nguyện tầm thinh cứu khổ, Bồ tát hiện thân khắp mười phương quốc độ; chúng sanh
trong lúc nguy biến nếu có thể trì tụng kính lạy, Ngài sẽ tùy cơ cảm mà giúp
đỡ, khiến cho thoát khổ được vui.
Về môn Niệm Phật,
tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì
đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật. Nếu bê trễ
biếng lười, không chút chi kính sợ, tuy cũng gieo nhân giải thoát về sau, nhưng
quả báo của tội khinh lờn thật không thể tưởng nghĩ! Dù có chút ít phước dư
khỏi đọa vào ác đạo, được sanh về cõi Trời, Người, cũng quyết khó dự nơi Liên
Trì hải hội.
Đến như tượng Phật,
phải tôn kính như Phật sống không nên xem là đất, gỗ, giấy, đồng. Kinh điển là
Thầy của chư Phật ba đời, là pháp thân Xá Lợi của Như Lai, cũng phải kính như
Phật, không nên xem là loại giấy mực. Khi đối trước kinh tượng, phải như tôi
trung thờ chúa Thánh, con thảo đọc di ngôn. Được như thế tội nghiệp nào không
tiêu, phước huệ nào chẳng đủ? Hiện nay hàng sĩ phu học Phật vẫn nhiều, song hầu
hết đều đọc văn giải nghĩa để cung cấp cho nguồn biện luận, tỏ ra mình là một
nhà thông hiểu giáo lý; xét về chỗ chí thành cung kính, y giáo tu trì, thật là
ít có người! Tôi thường cho rằng: Muốn được sự thật ích của Phật pháp, phải tìm
nơi lòng cung kính. Có một phần cung kính thì tiêu một phần tội nghiệp, thêm
một phần phước huệ, hai ba phần cho đến mười phần cung kính cũng như vậy. Trái
lại, nếu càng khinh thường thì tội chướng càng thêm, phước huệ càng suy giảm.
Như thế chẳng đáng kinh sợ đau tiếc lắm ư? Khi gặp bè bạn, cư sĩ nên đem ý này
khuyên bảo nhau, đó là một món pháp thí rất lớn. Pháp môn Tịnh độ, như thông
hiểu được, vẫn là điều rất quí, bằng có chỗ chưa rõ, cũng cứ tin chắc lời của
Phật, Tổ chớ nghi ngờ, nghi thì cùng với Phật cách xa, khi lâm chung quyết khó
được tiếp dẫn. Cổ đức cho rằng: “Pháp
môn Tịnh độ chỉ có Phật với Phật mới rõ cùng tận, bậc đăng địa Bồ tát cũng
không thể thấu hiểu hết”. Như
bậc đăng địa Đại sĩ còn không thể thấu hiểu hết, ta đâu nên đem tâm lượng phàm
phu mà ức đoán sai lầm ư? Nếu muốn nghiên cứu, nên xem Tịnh Độ Thập Yếu; quyển
này do Ngài Ngẫu Ích Đại sư rút những tinh hoa trong các kinh sách Tịnh độ soạn
ra, rất hợp thời cơ, đáng liệt vào bậc nhất. Mở đầu quyển là tập Di Đà Yếu
Giải, từ trước đến giờ về Kinh A Di Đà, chỉ có những lời chú thích này là siêu
tuyệt, phải tuân giữ không nên khinh thường. Người thông minh đời nay, tuy học
Phật pháp nhưng vì chưa gần gũi với bậc cụ nhãn tri thức, nên hầu hết đều
chuyên trọng lý tánh, bác bỏ sự tu và nhân quả. Họ đâu biết, nếu sự tu nhân quả
đã mất, lý tánh cũng không còn. Lại có những kẻ tài cao, văn từ quỉ thần kinh động
mà xét đến hành vi thì không khác chi hạng vô trí thức, truy nguyên đều do bác
bỏ sự tu nhân quả mà ra. Mối tệ ấy khiến cho nhiều người lầm lạc noi theo, đó
là dùng thân báng pháp, tội lỗi không ngằn! Bậc thượng trí thấy thế càng thêm
xót thương đau đớn! Bộ Pháp Uyển Châu Lâm nói rõ nhân quả, sự lý đều đầy đủ,
những tích báo ứng cũng tinh tường, có thể khiến cho người xem kinh sợ, dù ở
nơi nhà tối cũng như đối trước Phật, trời, không dám khởi niệm ác. Với bộ này,
bậc thượng, trung, hạ đều được lợi ích, chắc không đến nỗi lầm đường, chấp lý
bỏ sự mà theo thói tà vạy, ngông cuồng. Ngài Mộng Đông đã bảo: “Người khéo nói tâm tánh, quyết
không bỏ nhân quả; kẻ tin sâu nhân quả tất rõ suốt tâm tánh, đó là lẽ đương
nhiên”. Lời của Ngài là một
chí luận ngàn đời, cũng là mũi kim đâm trên đỉnh đầu những kẻ cuồng huệ.
Bộ Pháp Uyển, các
nơi lưu thông Phật pháp đều có bán. Về sự lợi ích, khi đọc xong sẽ tự rõ, cư sĩ
nên khuyên tất cả bạn tri giao mua xem. Mùa thu rồi, lệnh đệ lên viếng Phổ Đà,
tôi có đem những điều thành kỉnh để khuyên nhau, nhưng không biết y có cho lời
tôi là thiết thực chăng?
II
Được thơ, xem qua
dễ khiến cho người vui đẹp! Thuở xưa Cừ Bá Ngọc đến năm mươi tuổi, nhìn lại năm
bốn mươi chín, thấy mình còn sai lầm. Đức Khổng Tử lúc gần bảy mươi, ước được
sống thêm lâu để học tinh tường bộ Kinh Dịch, cho khỏi điều lỗi lớn. Sự học của
Thánh hiền thật đã đi cùng đến chỗ khởi tâm động niệm! Học giả đời nay ưa theo
từ chương, ít ai nghĩ đến điểm chánh tâm, thành ý. Bởi thế, tuy trọn ngày đọc
sách mà không rõ ý chỉ của Thánh hiền, ngôn ngữ hành vi so với chỗ học trái rất
xa, như sáng, tối, vuông, tròn không thể cùng dung hợp. Ấy là chưa nói đến lỗi
lầm của tâm niệm, nếu kể ra được thì biết bao nhiêu!
Kinh Phật dạy người
thường tu phép sám hối, để kỳ cho dứt hết vô minh, thành đạo Bồ đề. Cho nên,
đức Di Lặc tuy đến ngôi Đẳng giác, còn phải ngày đêm sáu thời lễ mười phương
Phật, để cầu vô minh hết sạch, tròn chứng pháp thân, huống nữa là hạng phàm phu
nghiệp lực sâu nặng ư? Nếu không biết hổ thẹn, sám hối, tuy bản tánh đồng với
chư Phật, nhưng bị hoặc nghiệp che lấp, không thể hiển hiện, ví như tấm gương
báu lâu đời, chẳng những không ánh sáng mà thể gương cũng bị khuất mất. Nếu
biết gương sẵn tánh sáng, gia công lau chùi mãi, ánh sáng lần phát cho đến khi
rực rỡ cùng cực, thành ra một vật rất quí trong đời. Nên biết ánh sáng ấy sẵn
có, không phải lau chùi mà được, nếu được thì lau đá gạch cũng ưng chói sáng.
Lại phải biết gương tuy sẵn đủ ánh sáng, nhưng nếu không lau chùi thì cũng
không thể chói sáng được. Tâm tánh chúng sanh cũng thế, tuy đồng với Phật,
nhưng nếu chẳng đổi dữ làm lành, bỏ trần hiệp giác, thì tánh đức sẵn đủ đó
không thể lộ bày. Đem tâm thức sẵn đủ tánh Phật đó tạo nên nghiệp khổ nhiều
kiếp đắm chìm, cũng như nhà tối có chứa của báu, đã không dùng được lại bị tổn
thương, há chẳng đau tiếc lắm ư? Pháp môn Niệm Phật chính là phép mầu bỏ trần
hiệp giác trở lại cội nguồn vậy. Người tại gia vì bị việc đời ràng buộc, khó
nỗi ở trong tịnh thất tham thiền tụng kinh, với pháp môn này rất là tiện lợi.
Mỗi người đều có thể tùy sức tùy phần lễ tụng trì niệm để hồi hướng vãng sanh.
Ngoài giờ khóa tụng chánh thức, khi đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh,
ăn cơm, mặc áo, tất cả thời, tất cả chỗ, đều nên niệm Phật. Nhưng, ở nơi sạch
sẽ, khi nghiêm kính, niệm thầm hay ra tiếng đều được. Nếu ở chỗ không sạch sẽ
(như nơi đại tiểu tiện), hoặc khi không nghiêm kính (như lúc ngủ nghỉ, tắm
gội), chỉ nên niệm thầm. Khi nằm nghỉ, nếu niệm ra tiếng, đã không cung kính
lại lao hơi, lâu ngày thành bịnh. Niệm thầm công đức đồng như niệm ra tiếng,
nhưng cần phải rõ ràng, tha thiết và đừng xao lãng.
Cư sĩ biết phát lộ
sám hối điều ấy rất hợp với pháp môn Tịnh độ, vì lẽ tâm tịnh thì cõi Phật mới
thanh tịnh. Nhưng đã sám hối, tất cả phải sửa lỗi làm lành, nếu không thì thành
ra nói suông chẳng được thật ích. Đến như muốn không tham luyến cảnh ngoài,
chuyên niệm Phật, được nhất tâm, cũng chẳng có pháp chi kỳ lạ, chỉ đem một chữ
chết dán nơi đầu, treo nơi lông mày, thường nghĩ rằng: “Ta từ vô thỉ đến nay, gây nghiệp
ác không lường, không ngăn,
giả sử nghiệp ấy có hình tướng, mười phương hư không, chẳng thể dung chứa.
Duyên đâu may mắn, nay được thân người lại nghe Phật pháp, nếu không một lòng
niệm Phật cầu sanh Tây phương, khi hơi thở dứt rồi, do nghiệp ác cũ chắc khó
khỏi sa đọa vào Địa ngục. Chừng ấy phải chịu những sự khổ cùng cực, như vạc dầu
lò lửa, rừng kiếm non đao, không biết trải bao nhiêu kiếp mới xong. Khi ra khỏi
Địa ngục, bởi nghiệp chưa dứt, lại đọa vào loài Ngạ quỷ, bụng rất to lớn, cổ
họng nhỏ như cây kim, trong miệng thường tuôn ra lửa, nhiều kiếp đói khát,
không nghe được tên nước uống, cùng không có lúc tạm no lòng. Hết kiếp Ngạ quỷ,
lại đọa vào nẻo Súc sanh, hoặc để cho người dùng cỡi chở, hoặc bị bán vào lò
thịt. Khi được làm người thì ngu si không trí, dễ bề tạo nghiệp, khó nỗi làm
lành, chẳng mấy lúc lại bị đọa nữa. Nghiệp cũ trả chưa xong đã tạo nghiệp mới,
cứ mãi luân hồi trong sáu đường trải qua kiếp số nhiều như bụi nhỏ, mênh mang
biển khổ không biết đâu là bến bờ”. Nếu
thường xét nghĩ như thế, sự tu hành sẽ được chuyên nhất. Thuở xưa Trương Thiện
Hòa, Trương Chung Quì lúc sắp chết, tướng Địa ngục hiện, niệm Phật vài tiếng,
liền thấy Phật đến tiếp dẫn vãng sanh. Sự lợi ích như thế, trọn một đời giáo
hóa của Phật, trong trăm ngàn muôn ức pháp môn, chỉ thấy ở môn Niệm Phật. Tôi
thường cho rằng: “Chín cõi
chúng sanh rời pháp này, trên khó nỗi viên thành quả giác. Mười phương chư Phật
bỏ pháp môn này, dưới không thể độ khắp quần mê”. Nếu cư sĩ lòng tin thấu đáo, tha
thiết vì sự sanh tử không móng một niệm nghi hoặc, thì tuy chưa ra khỏi đời ác
trược, đã chẳng phải là người ở lâu trong cõi Ta bà, tuy chưa đến Liên bang,
nhưng sẽ là khách mới của miền Cực lạc. Từ đây, khi thấy người hiền phải gắng
làm cho bằng, gặp việc nhơn đừng nên thua nhượng, đâu nỡ dần dà trễ nải để lầm
một lúc, lỡ muôn đời hay sao? Người có huyết tánh, chắc không chịu sống làm
thây đi thịt chạy, chết đồng mục nát với cỏ cây. Vậy cư sĩ phải nên cố gắng.
Lại, niệm Phật tuy quí ở chuyên nhất, nhưng cư sĩ trên còn cha mẹ, dưới có vợ con, đành rằng không nên quá vọng cầu sự giàu sang, song bổn phận trong gia đình cũng lo sao cho tròn, không phải tu hành là bỏ tất cả. Nếu bỏ tất cả mà cha mẹ vợ con không thiếu thốn thì được, bằng chẳng thế, đã trái với đời lại trái với đạo, điều ấy cũng nên biết qua. Phận làm con, phải đem sự tu hành khuyên cha mẹ, nếu song thân biết niệm Phật, được sanh về Tây phương thoát nẻo luân hồi, thì đạo hiếu ở đời không sao sánh kịp. Như có kẻ nào đem pháp môn Tịnh độ khuyên nhiều người tu niệm thì công đức giáo hóa sẽ về phần mình, sen vàng buổi tương lai chắc ở nơi Thượng phẩm.
Comments
Post a Comment