Vài
Nguyên Nhân Của Các Chướng Duyên
Các bậc tiền bối trong làng tu thường bảo:
"Khi phát nguyện làm những công đức rộng lớn, hay tu
hành, thường gặp nhiều chướng duyên khảo đảo thử thách."
Người xuất gia có bốn giai đoạn mà chướng duyên thường phát hiện
là: khi cạo tóc vào chùa, lúc thọ giới, khi học kinh điển nhứt là kinh Đại
Thừa, và lúc gác bỏ mọi việc để tịnh tu. Có nhiều vị đã gieo sẵn duyên lành,
hoặc do sức cố gắng tinh tấn nên dễ dàng vượt qua ba giai đoạn trước, bước sang
mức thứ tư. Nhưng đến khi tu hành tiến lên trình độ khá cao, tất khó tránh khỏi
chướng duyên phát hiện.
Như Hư
Vân thượng nhơn, một cao tăng cận đại, trong khi tinh tấn dụng công tham
thiền, nghiệp chướng bỗng phát hiện làm cho ngài bị đui, điếc và câm trong ba
tuần nhựt.
Duyệt qua truyện cũ, bút giả nhớ một vị họ Tô, cất am riêng ở chỗ thanh vắng tham thiền, đem một
người theo giúp việc. Ban sơ ông tập ngồi từ một, hai giờ rồi lần lần tăng tiến
có thể ba ngày đêm ở luôn trong định. Một độ nọ, Tô cư sĩ thiền định luôn hai
mươi mốt ngày không ăn uống. Người tùy cận thấy ông ngồi quá lâu, đến gần dò
xem thì hơi thở ra vào đã tuyệt, không còn thoi thóp như mấy lần trước. Y không biết đó
là trạng thái sâu mầu của thiền định, lầm tưởng cư sĩ đã chết, liền đem ông đi
chôn sống luôn.
Lại có một vị tăng tu Tịnh Độ, niệm Phật mỗi ngày đêm đến mười
muôn câu. Do công đức niệm Phật, chỗ đất của sư đi đều hóa ra sắc vàng ròng.
Một hôm có người nạn dân đến xin tá túc. Sư nhìn người ấy rồi nói riêng với thị
giả: "Gã này có tướng đạo tặc, ngươi nên cho y ăn no rồi hãy bảo ra khỏi
nơi đây." Ông đạo nhỏ vì lòng thương xót, thấy người kia nài nỉ
mãi, lưu luyến chưa nỡ đuổi. Quả nhiên ít hôm sau, người ấy nửa đêm lén vào
phòng sư, bẻ gãy chân tay giết ông chết, trộm một ít đồ trong am rồi bỏ đi
luôn.
Hai trường hợp trên cổ đức bình luận cho là sức định nghiệp
không thể tránh khỏi. Người tu có ba chướng là: phiền não chướng, nghiệp chướng
và báo chướng, mà sức nghiệp chướng lại
nặng nề nguy hiểm hơn hai thứ kia. Nhưng tại sao khi chưa tu thì chẳng có
chi, đến lúc tu hành càng cao lại thường gặp nhiều chướng nạn? - Đó cũng bởi
chúng ta là phàm phu thời mạt pháp, cố nhiên phần đông chướng duyên đều nặng.
Nếu chúng ta nghiệp nhẹ, tất đã sanh vào thời tượng pháp hoặc chánh pháp rồi. Nhưng không phải do tu hành nên phát sanh
chướng nạn, mà đó là sức chuyển nghiệp, chuyển quả báo nặng thành quả báo nhẹ,
chuyển quả báo đời sau thành quả báo hiện tại. Giả sử ta có mười phần
nghiệp chướng, do công đức tu nên tiêu trừ được bảy phần, còn phát hiện ra ba
phần. Và đáng lẽ quả báo ấy đến sau mới trả, nhưng nhờ sức tu niệm, nên chỉ
chịu quả nhẹ trong kiếp này để mau được giải thoát.
Như Giới Hiền luận sư
tiền kiếp là một vị quốc vương đem binh đi đánh dẹp các nơi, tạo nghiệp sát quá
nhiều, đáng
lẽ đến đời này sau khi hưởng phước thừa rồi chết, sẽ phải bị đọa vào địa ngục. Nhưng
nhờ Luận Sư chí tâm tu hành và hoằng dương Phật pháp, nên mỗi ngày ông bị một
cơn bịnh trạng như có nhiều lưỡi gươm vô hình đâm chém trong thân. Như thế trải qua hai năm bịnh mới dứt. Do duyên đó mà
luận sư tiêu được nghiệp địa ngục, sanh lên cõi Đâu Suất Đà Thiên.
Lại như ông Ngô Mao
tiền nhân cũng tạo nghiệp sát, đáng lẽ phải đọa làm heo bảy kiếp cho người giết. Nhưng
nhờ ông trường trai niệm Phật, nên khi thọ số mãn, bị giặc đâm bảy dao trả nghiệp xong một lần, rồi được vãng sanh về Cực
Lạc. Nói tóm lại, lời tục gọi đó là trạng thái “dồn nghiệp”.
Tuy nhiên, không phải mỗi người tu đều bị trả quả. Có người càng
tu càng có điểm tốt, càng được an thuận, không bị trở ngại chi. Đó là do vị ấy những kiếp về trước không
tạo nghiệp chi quá nặng, hoặc đã từng tu niệm và có nhiều căn lành. Nhưng
luận theo phần đông, đại khái nếu không gặp những chướng ngại lớn, cũng vấp
phải những chướng ngại nhỏ. Ngoài những trở ngại của ngoại duyên, lại còn có ba
nguyên nhân phát sanh chướng nghiệp:
1. Cứ theo tông Pháp
Tướng, trong tạng thức của ta có chứa lẫn lộn những nghiệp chủng lành dữ.
Khi niệm Phật hay tham thiền, ta huân tập hạt giống công đức vô lậu vào, tất
các nghiệp chủng kia phải phát hiện. Ví như một khu rừng rậm nhiều thú, nếu có
dân cư đến khai hoang, tất cây cối bị đốn, các loài thú đều chạy ra. Cảnh tướng
và phiền não chướng duyên do nghiệp chủng phát hiện cũng thế. Đây gọi là sức
phản ứng của chủng tử nghiệp.
2. Có những vị tu hành chẳng am tường giáo lý, không hiểu những
tướng của nội tâm và ngoại cảnh đều như huyễn, chưa phát minh thế nào là chân và vọng, nên nhận định sai lầm. Do
đó đối với cảnh duyên trong ngoài sanh niệm tham chấp, vui mừng, thương lo, sợ
hãi, mà tự gây chướng nạn cho mình.
3. Lại ví như người theo họa đồ đi tìm mỏ vàng, đường sá phải
trải qua non cao, vực thẳm, đồng vắng, rừng sâu, bước hành trình tất phải nhiều
công phu và gian lao khổ nhọc. Nếu người ấy không vững lòng, không biết tùy sức
tùy hoàn cảnh mà nhẫn nại uyển chuyển, tất phải thối lui. Hoặc có khi bỏ cuộc
ghé vào một cảnh tạm nào đó, hay chết giữa đường. Lộ trình tu tập cũng thế,
hành giả tuy y theo kinh giáo mà thật hành, song nếu không biết tùy sức tùy hoàn cảnh nhẫn nại uyển chuyển, sự
lập chí không bền lâu, tất sẽ thất bại. Chướng nạn đó cũng do chính mình gây
ra.
Trên đây là đại lược một ít nguyên nhân của các điều chướng
ngại.
Causes of Adversity
Elder
Masters of the past have made this observation:
When vowing to
perform lofty, virtuous deeds or to begin cultivation, the practitioner usually
encounters many obstacles that test his will and challenge his endurance.
There are
four stages in the lives of monks and nuns when they can usually expect to face
obstacles: when cutting their hair and entering the monastery, when receiving
the precepts, when studying the sutras, particularly Mahayana sutras, and when
setting everything aside to devote themselves to cultivation. Some, because
they have created good conditions in the past or are especially diligent and
persevering, may easily pass through the first three stages to reach the
fourth. However,
it is difficult to avoid obstructing conditions when cultivation reaches a
fairly high level.
For
example, while an Elder Master of
the recent past was diligently engaged in meditation, his evil karma suddenly
manifested itself, making him blind, deaf and mute for three long weeks.
Reviewing
accounts of the past, this author recalls the
story of a layman who built a hut in a quiet, out of the way place to
practice meditation. He brought along a helper to relieve him of daily chores.
At the beginning, he sat in meditation for periods of one to two hours. Then he
progressively increased the time, until toward the end, he could sit up to
three full days and nights, remaining all the while in deep concentration. At
one point, he was in samadhi for twenty-one days without food or water. The
helper, noticing that the layman had been seated for such a long time,
approached him and saw that his breathing had "stopped." His chest,
moreover, showed no sign of movement, as it had on previous occasions. Not realizing that this was
the state of profound samadhi and thinking that the layman was dead, he buried
him alive.
Another
case: there was a Pure Land Master
who practiced assiduously, reciting the Buddha's name up to one hundred
thousand times each day. Thanks to such diligence, auspicious signs would
appear wherever he went. One day, a vagrant appeared, requesting permission to
stay overnight at the temple. The monk glanced at the man and told his young
assistant, "This man has the features of a criminal; let him eat his fill
and tell him to go elsewhere." However, the novice, being compassionate, was swayed by the man's
repeated supplications and did not have the heart to follow his Master's
instructions. Sure enough, a few days later, the man slipped furtively into the
master's room in the middle of the night, broke his arms and legs and killed
him. He then stole a few things from the temple and disappeared.
The
ancients have commented that such occurrences are the result of "fixed karma" and are
virtually unavoidable. Cultivators usually face three types of obstacles -- the
Obstacle of Afflictions, the Obstacle of Karma and the Obstacle of Retribution -with the Obstacle of Karma being the most
dangerous. Yet, nothing usually happens when the practitioner first begins
to cultivate, while the deeper his cultivation, the more obstacles he is bound
to encounter.
Why is
this so?
It is
because as common people living in the Dharma-Ending Age, most of us,
naturally, have heavy obstructing conditions. If not, we would have been reborn
in the Dharma Semblance Age or the Perfect Dharma Age. However, it is not
cultivation that gives rise to obstacles but rather a phenomenon known as
"reshuffling of karma." Heavy karma is commuted into light karma, future karma is
"reshuffled" into current karma. Let us suppose that we have ten
parts of bad karma but that through cultivation we manage to eradicate seven
parts, so that only three parts remain. Instead of having to repay that karma
in the future, thanks to our cultivation we may only have to endure light
retribution in this very life, and thus be free to attain liberation swiftly.
For
example, in one of his previous lives, an Elder
Precept Master had been a monarch, who had waged many wars to conquer
neighboring kingdoms. Having committed such great karma of killing, he was
destined to descend into the hells once his residual merits were exhausted.
However, thanks to the Master's earnest cultivation and propagation of the
Dharma, his evil karma was commuted into daily bouts of seizures, which made
him feel as though many invisible swords were stabbing and slashing his body. This went on for two years
before the disease disappeared.
Buddhist
treatises also mention the case of a layman
who had also committed the karma of killing and was due to suffer rebirth
as a hog for seven lifetimes. However, thanks to the fact that he was a
vegetarian diligently practicing Buddha Recitation, he was, in his old age,
stabbed seven times and killed by marauding soldiers. Thus he repaid his evil
karma all at once. In summary, these occurrences are commonly referred to as the state of
"bunching together of karma."
However,
this does not mean that all cultivators have to suffer retribution for their
past karma. In some cases, the more they practice, the more they witness
auspicious signs and the more they are at peace and in harmony, with no
obstacles in their way. This is because
these practitioners did not commit very heavy transgressions in their past
lives, or else they have already cultivated for some time and possess many good
roots. The majority of practitioners, however, are likely to stumble over
some obstacles, major or minor.
Apart
from the obstacles caused by external factors, there are three other causes of
karmic obstructions:
According
to the Mind-Only School, various
evil and wholesome karmic seeds are stored randomly in our Alaya consciousness.
When we recite the Buddha's name or meditate, we accumulate the seeds of
transcendental virtue, and therefore, evil karmic seeds have to emerge. For
example, if a dense forest full of wild beasts is cleared for habitation, trees
and shrubs are cut down, causing these beasts to flee out of the forest. The
development of afflictions and obstacles from evil karmic seeds is similar. This is called "the
reaction of evil karmic seeds."
There are
cultivators who practice without fully understanding the Dharma, not realizing
that the manifestations of the mind and the environment are illusory nor
discovering what is true and what is false. They therefore have wrong views. Because of this, they develop thoughts of
attachment, happiness, love, worry and fear, creating obstacles for themselves
when they are faced with objects and conditions within themselves or in the
outside world.
Take the case of a man who follows a map hoping to find a gold mine. The path that he takes crosses high mountains, deep ravines, empty open stretches and dense forests, an itinerary naturally requiring much labor, hardship and adversity. If his mind is not steady, and he does not adapt himself to the circumstances and his own strength, he is bound to retrogress. Alternatively, he may abandon his search, stop at some temporary location, or even lose his life an route. The path of cultivation is the same.
Although
the practitioner may follow the sutras, if he is not flexible and patient,
ready to change according to his own strength and circumstances, and if his
determination is weak, he will certainly fail. This obstacle, in the end, is
created by himself alone.
The above
summarizes some of the causes of the obstructions faced by cultivators.
The Sutra says: “For getting rid of evil obstacles and difficulties, use the White Whisk
Hand.”
The Mantra: Mwo mwo.
The True Words: Nan. Bwo now mi ning. Pe ye wa di
Mwo he ye re. Ye mwo he ning. Sa wa he.
The verse:
With karma of past killing heavy as a mountain,
You wish to practice the Sagely Way, but obstacles are unbounded.
How fortunate to have the Great compassion White Whisk Hand.
Again sweep lightly, and again so that piled-up hardships vanish.
Kinh nói rằng: “Nếu muốn trừ những chướng nạn ác bên thân, nên cầu nơi Tay cầm cây
Phất-Trần.”
Thần-chú rằng: Mạ Mạ [34]
Chơn-ngôn rằng: Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dã nhá,
nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Túc thế sát nghiệp trọng như sơn
Dục tu thánh đạo chướng vô biên
Hạnh hữu đại bi bạch phất thủ
Khinh tảo số số chúng nan quyên
[
]
Theo kinh “NHÂN-QỦA BA ĐỜI” thì nghiệp chướng chồng chất lên nhau thay đổi theo từng sát na sinh diệt, theo tâm niệm và hành vi “TRONG NHIỀU KIẾP TRƯỚC” và “HIỆN TẠI” của mỗi người. Nhân nào mạnh hơn hết thì qủa đến trước, cứ thế mà nhân-qủa từng tự nói tiếp nhau liên tục không dừng.
Nếu nghiệp chướng là “NHÂN QỦA” cố định, thì tại sao Vua Ca-Lợi cắt đứt tay chân của Đức Phật, mà được đức Phật độ cho giải thoát trước tiên? Vậy có phải là do NGUYỆN-LỰC của đức phật, đã làm tiêu nghiệp chướng cho Vua Ca-Lợi rồi sao?
Cho nên, nếu qúi vị “TỤNG” thủ nhãn này là “NHÂN”, thì bồ tát sẽ dùng cây phất trần “Quét sạch nghiệp chướng khó trừ trong vô số kiếp trước” của qúi vị là “QỦA”. Vì “TÂM LỰC CỦA MÌNH”, và “PHÁP LỰC , NGUYỆN LỰC” đại từ đại bi của CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI, TỨC LÀ BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM TRONG ĐỜI HIỆN TẠI thật sự là không thể nghĩ bàn.
“NHÂN QỦA” cố định ( là nghiệp đã tạo “cực thiện” hay “cực ác” thì gọi là “định-báo” vì qủa phải trả trước hết, tức là rất mạnh, rất nhanh. CỰC-THIỆN như người vãng sanh CỰC-LẠC trong khải móng tay và CỰC-ÁC như VUA LƯU-LY ĐƯƠNG SỐNG MÀ BỊ ĐỌA VÀO ĐỊA-NGỤC A-TỲ.)
Vua Ca-Lợi trong kiếp trước, kiếp này là KIỀU-TRẦN-NHƯ
Đức Phật trong kiếp này, kiếp trước là một vị tiên tu hạnh nhẫn nhục bị Vua Ca-Lợi cắt đứt tay chân .
( Là quả báo nhất định phải chịu, không thể chuyển biến được, bởi sức nghiệp đã quá thuần thục, trong mười phần thành tựu cả mười )
Thuở xưa vua Lưu-Ly cử binh đến đánh dòng họ Thích, Ðức Thế-Tôn can ngăn ba lần mà không được. Tôn-giả Mục-Kiền-Liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì ngài bảo đó là định nghiệp.
Tôn-giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm người họ Thích trên cung trời. Nhưng khi Lưu-Ly-Vương dẹp xong hàng Thích-Chủng, thì năm trăm người ấy cũng đều thành huyết mà chết. Ðây là một sự kiện chứng minh sức định nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ.
Cho nên, chư Phật có “Tam năng” (ba việc làm được) và “tam bất năng” (ba việc không làm được).
Có ba việc làm được là :
Ba việc làm không được là :
Bởi thế, "SỨC NGƯỜI" cố nhiên là hữu hạn, nhưng "SỨC PHẬT" cũng không phải là TOÀN NĂNG.
Nếu chúng-sanh không tín hướng Ðức Như-Lai, không thực hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng không thể hóa độ được.
Nếu chúng-sanh tín hướng Ðức Như-Lai, thực hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng có thể hóa độ được.
NHƯ VUA LƯU-LY, NẾU NGHE THEO LỜI CAN NGĂN CỦA ĐỨC PHẬT, THÌ ĐƯƠNG SỐNG KHÔNG BỊ ĐỌA VÀO ĐỊA-NGỤC A-TỲ ( LÀ SỰ ĐAU KHỔ KHÔNG HỀ ĐƯỢC GIÁN-ĐOẠN).
Tóm lại, nếu qúi vị tu “Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp” thì chuyển “ĐỊNH-NGHIỆP” thành “BẤT ĐỊNH NGHIỆP”; chuyển “VÔ DUYÊN” thành “HỮU DUYÊN” ; chuyển “CHÚNG SANH KHÔNG ĐỘ ĐƯỢC” thành “CHÚNG SANH ĐỘ ĐƯỢC” phải không ?
“Quét sạch tất cả nghiệp chướng khó trừ trong vô số kiếp trước của qúi vị đã tạo.”
KINH LĂNG NGHIÊM
CHÚ ĐẠI-BI GIẢNG GIẢI (HT. THÍCH TUYÊN HÓA)
PHẬT HỌC TINH YẾU (HT. THÍCH THIỀN TÂM)
Chấn động tam thiên thế giới thì
Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa
Từ bi phổ độ Diêm-phù-đề
Comments
Post a Comment