S Trì, Lý Trì

 

Nim Pht có s S trì và Lý trì. Theo Ngu Ích đại sư:


"S trì là tin có cõi Cc Lc và Pht A Di Đà, mà chưa đạt lý tâm này làm Pht, tâm này là Pht, ch quyết định cu sanh, tha thiết thì nim như con nh m không lúc nào tm quên.

Lý trì là tin hiu Pht A Di Đà Tây Phương, do tâm ta sn đủ, tâm ta to nên; đem câu hng danh sn đủ và to nên ca tâm mình làm cnh buc nim, chng giây phút nào xao lãng."

 

Nói gin lược, S trì là cách trì nim ca k không biết chi v nghĩa lý, ch tin có cõi Cc Lc và Pht A Di Đà, ri chí thành tha thiết nim Pht để cu tiếp dn vãng sanh. Lý trì là li trì nim ca người cũng tht hành đồng như cách S trì trên, nhưng gii ng cnh Tnh Độ cùng Pht A Di Đà đều trong chân tâm, do công đức thanh tnh ca chân tâm hin thành.

 

Như thế, S trì vi Lý trì có gì sai bit? - Tt nhiên là có. Bi k tu theo S trì thy Pht ngoài tâm, thành ra có tướng năng s đối đãi, chưa được dung thông. Người tht hành theo Lý trì, do gii ng chân tâm, nên tuyt được tướng năng s, tc nim là Pht, tc nim là tâm, dung hòa cùng tâm cnh. Xin thut mt câu chuyn:

 

Ông bn xut gia đồng tu ca bút gi mt đêm nm mơ, thy v sư áo vàng đến hi: "Người nim Pht, mà Pht là chi?" - Đáp: "Pht là tâm". V sư hi tiếp: "Ngươi th gii thích thế nào Pht là tâm cho ta nghe?" Trong gic mơ ông bn bèn ng khu đọc:

Mi câu tràng ht Pht là tâm
Ph
t rõ là tâm, ung chy tìm!
B
Pht dung hòa tâm vi cnh
Tr
i tâm bình đẳng Pht cùng sanh
B
tâm theo Pht còn mơ mng
Ch
p Pht là tâm chng trn lành.
T
âm, Pht nguyên lai đều gi huyn
Ph
t, tâm đồng dit đến viên thành.

Ông bn trên đây đã hiu cách Lý trì, dung hòa được câu nim Pht vào tâm cnh.

 

Có mt li nhn định sai lm, mà nhng k thiên v huyn lun t cho là hành trì theo lý, cũng cn nên bin minh. Nhiu người trng lý khinh s, thường chp nê theo lý lun: "T tánh Di Đà, duy tâm Tnh Độ," ri ph nhn cõi Cc Lc và s tiếp dn vãng sanh. Nhng người này lý thuyết hóa các kinh nói v Tnh Độ và bo: "Di Đà tc là bn tánh Pht ca mình; cõi Tnh Độ là cnh tnh trong tâm, sao li tìm bên ngoài?" Đây là đim sai lm rt ln ca thiên lý lun. H chp lý b s, chung tánh quên tướng, đem chân đế mà bác hin tượng ca tc đế, chng biết rng song phương không th ri nhau.

Theo Đại Tha Khi Tín Lun, chân tâm có hai phn: tánh và tướng. Phn tánh gi là Chân Như môn, phn tướng là Sanh Dit môn; Chân Như không ri sanh dit, sanh dit tc là Chân Như. Bi thế Mã Minh B Tát gi phn Chân Như là Tng Như Tht Không, phn sanh dit là Tng Như Tht Bt Không; c hai đồng chung mt th tánh như tht. Ví như mt bin to rng, không th ch chp nhn phn nước mà b phn sóng bt; vì chp như thế tc đã sai lc vi hin tượng ca bin, mà cũng chng biết bin là gì? Cho nên, b s tc lý không thành, bác tướng thì tánh không đứng vng. Rt nhiu k có chút hc thc thế gian, khi nghiên cu các kinh Đại Tha nói v lý Bát Nhã, bi không hiu thu đáo, nên thường mang chng bnh chp "lý không" này. Do đó, h đem các kinh nói v s tướng, như các kinh Tnh Độ hoc Kinh Địa Tng, mà lý thuyết hóa tt c. H cho nhng kinh thuyết v s tướng này là phương tin để dn dt hng ngu thp, nhng người tin có Tnh Độ hoc địa ngc, đều mê tín; nhưng tht ra, chính h mi là k lc lm! Nhân tin, xin dn vài đon kinh ra bin minh, để phá li chp không y.

 

Như Bát Nhã Tâm Kinh nói: "... Không trí cũng không đắc, vì không s đắc, nên B Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mt Đa, tâm không quái ngi. Chư Pht ba đời y Bát Nhã Ba La Mt Đa, nên đắc qu A Nu Đa La Tam Miu Tam B Đề." Trước y theo chân đế nói "không đắc", tiếp đó y theo tc đế li nói "đắc". Thy "đắc" là chp có, thy "không đắc" lc vào chp không, nên người hc Pht phi khéo hiu ý kinh để đi vào trung đạo.

 

Trong Kinh Kim Cang, đức Pht bo: "K nào dùng sc tướng âm thanh thy và tìm cu ta, là hành theo tà đạo." Nhưng tiếp đó Ngài li bo: "Tu B Đề! Ông đừng nghĩ rng Như Lai không dùng tướng C Túc đắc qu A Nu Đa La Tam Miu Tam B Đề. Tu B Đề! Nếu ông suy nghĩ: phát tâm A Nu Đa La Tam Miu Tam B Đề là nói các pháp đon dit. Đừng nghĩ như thế! Ti sao? Vì phát tâm A Nu Đa La Tam Miu Tam B Đề, đối vi các pháp không nói tướng đon dit." Trước tiên, Pht dy đừng theo âm thanh sc tướng mà tìm đạo; nhưng kế tiếp Ngài li nhc nh; cũng như đừng ri b âm thanh sc tướng hoc dit hết các pháp để phát tâm cu đạo. Như thế, ta thy "đạo" chng phi thuc v "sc", cũng chng phi thuc v "không"; tìm chp mt bên đều sai lm. Ngài Thanh Nguyên Duy Tín thin sư nói: "Ba mươi năm trước, khi lão tăng chưa vào đạo, thì thy sông là sông, núi là núi. Đến khi gp thin tri thc ch dy cho đường li tu hành, thy sông không phi là sông, núi không phi là núi. Ngày nay ng đạo, vào nơi tch tĩnh, thy sông vn là sông, núi vn là núi." Mt v thin sư khác cũng din t:

Tiếng gà tc tiếng qung trường thit.
S
c núi nguyên là tnh pháp thân!

Đây là ý ch: sc tướng âm thanh vn tht đại đạo, ta nên đem tâm vô phân bit mà th nhn, đừng chp ly cũng đừng bác b ri tìm đạo nơi ch không không. Cho nên câu "T tánh Di Đà, duy tâm Tnh Độ," không phi ph nhn cõi Tnh Độ và đức A Di Đà, mà chính là li nói: nhiếp tướng v tánh, đem dng v th, để hin bày lý Đệ Nht Nghĩa Không. Trong Đệ Nht Nghĩa Không, Pht còn chng lp, hung chi là các pháp khác.

Tiên đức bo: "Lý tuy đốn ng, S phi ln lượt tu hành." Cho nên Thin Tông tuy nói là môn tu trc ch, nhưng khi còn ngi thin, còn nhiếp tâm, còn tham thoi đầu, còn nhp định xut định, đều còn trong vòng phương tin. Và tht ra cnh ni chng còn bước nhng nc thang t thp đến cao. Chng nào đến bc vô tu, mi không còn dùng phương tin, mi có th nói các pháp đều không. Nếu chưa được như thế, thì mt pháp nh như my bi cũng đều có tht; vì gn la còn thy nóng, gia sương tuyết còn thy lnh, mt mũi gai nh đâm vào tht còn biết đau, đâu có cái gì là không? Cho nên nhng k thích đề xướng cao diu "T tánh Di Đà, duy tâm Tnh Độ," ri bác b hình thc nim Pht cu vãng sanh thuc v "S tu", s lâm vào cnh: "Chưa bước lên b đã vi phá b chiếc bè," tt không khi b chết chìm dưới nước. Xưa nay nhng bc hiu sâu v Lý li còn chú trng đến S, vì S tiêu biu cho Lý.

C đức đã bo: "Vi môn Tnh Độ, duy bc trí hu mi dung thông tánh tướng hiu đến ch tn cùng. Bng không, thà chp tướng tu hành, càng chp li càng mu nhim!" Bi càng chp tướng, chí nguyn cu sanh li càng thiết tha, khi đã sanh v Tây Phương lo gì không chng ng được tht tướng? Vn đề s lý tánh tướng, nói ra vn không cùng, nhưng nếu hiu được mt s hiu tt c. Mong các đồng nhơn khéo suy nghĩ, để tránh khi s sai lc trên bước đường tu.

Viết đến đây, có mt Pht t nhân khi li thăm chơi, hi: - "Thưa thy, con nghe vài v tu thin khá cao, bo: Cõi Cc Lc là quyn thuyết, là mt o tượng ca Pht phương tin nói ra, để cho nhng k thp kém nương vào đó tin tưởng hâm m, phát lòng chuyên nht nim Pht đặng để đi đến cnh gii nht tâm. Ví như người cha có hai đứa con, mt đứa thông minh biết lo hc không cn phi nhc nh; mt đứa ti tăm biếng tr, nên cha phi dn d, bo nếu c gng siêng hc khi thi đỗ s cho mt chiếc xe đẹp. Chiếc xe đẹp là mt o tượng hay phương tin, s hc gii thi đỗ mi là chân mc đích hay cu cánh. Bi thế cho nên Tnh Độ là li tu ca hng thường dân ti dt, còn hng trí thc đều ưa thích v môn Thin. Nếu hiu được l này thì người sáng sut ch nên nhiếp tâm tnh nim, không cn phi theo o tượng nim Pht làm chi cho lao hơi nhc sc. Hãy để chiếc xe trng không chy đi mi nh nhàng, không nên chuyên ch thêm cho nng! Con nghe như thế song chưa biết tr li làm sao, mong nh Thy gii thích."

 

Bút gi đáp: - Trong li điu trn trên, có ba ch đim:

1. Cho Cc Lc là o tưởng, quyn thuyết.

2. Bo Tnh Độ là li tu thuc hng thp kém thường dân.

3. Đưa ra mc đích tr vng nht tâm, cho rng phương tin nim Pht làm tn hơi nhc sc như chiếc xe ch nng, không được nh nhàng thanh thoát như li tu Thin.

 

V đim th nht, Cc Lc không phi là cnh o tượng hay quyn thuyết, mà là thế gii có tht như cõi Ta Bà này; vì Pht không khi nào nói di, và có rt nhiu người nim Pht được vãng sanh, hin tin hoc lúc lâm chung đã mc kích cnh gii y, như trong Vãng Sanh Truyn và Tnh Độ Thánh Hin Lc đã có chép. Trong tp này nơi đon trước đã dn minh v ba lượng để gii thích, xem qua s t rõ, không cn phi bin lun thêm nhiu.

V đim th hai, nếu cho rng Tnh Độ không phi li tu ca hàng trí thc, ch s e trí "trí thc" ca nhng v y chưa đủ sc thu hiu Tnh Độ mà thôi. Như khi xưa Pht nói Kinh Pháp Hoa, có đến năm ngàn bc Đại Đức Thanh Văn chng t Sơ Qu đến T Qu, vì chưa tin hiu ni nên lui ra khi pháp hi. Nhng v y đã vào hàng Thánh, đâu phi tm thường, nhưng trước diu lý quá cao, h đành thi bi. Nếu bo rng hàng trí thc sáng sut đều phi tu Thin, nim Pht để cho hng dt nát tm thường, ti sao v T th mười bn bên Thin Tông là Long Th B Tát sau khi chng ngôi Sơ Hoan H Địa ri, li nim Pht "cu sanh Cc Lc?" Và ti sao có rt nhiu bc thc đức bên Thin Tông, như các ngài Vĩnh Minh, Trit Ng, Liên Trì, sau khi tham thin ng đạo, li chuyn hướng cu v Tnh Độ? Phi biết Nim Pht là pháp môn cao siêu mu nhim, gm nhiếp ba căn, t đức Thích Tôn cho đến các bc đại B Tát như Văn Thù, Ph Hin, Mã Minh, Long Th đều tuyên dương. Cho nên khi đức Thích Ca nói Kinh A Di Đà, hng hà sa chư Pht sáu phương đều hin tướng lưỡi rng dài mà khen ngi. Và trong Kinh Hoa Nghiêm, sau khi đức Ph Hin nói mười đại nguyn vương ri, lin khuyến tn các bc B Tát nhng ngôi Thp Tín, Thp Tr, Thp Hnh, Thp Hướng, Thp Địa, Đẳng Giác, đều nên phát nguyn cu sanh v Cc Lc? Nếu cnh Cc Lc là o tượng không phi tht có, và môn Tnh Độ là tm thường, ti sao các v y li cu sanh? Cho nên n Quang đại sư đã bo: "S cao siêu mu nhim ca pháp môn Nim Pht, chư T bo là ch có Pht vi Pht mi hiu biết hết được. Nhng k khinh chê Nim Pht, không phi ch khinh chê hng ông già bà c tu Tnh Độ đâu, mà chính là khinh chê luôn c chư Pht và các bc Đại B Tát như Văn Thù, Ph Hin, Mã Minh, Long Th đó!"

V đim th ba, xin gii thích rõ hơn. Ch cu cánh ca Thin là Chân Như Tam Mui. Đim cu cánh ca Tnh Độ là Nim Pht Tam Mui. Chân Như Tam Mui như vàng khi, Nim Pht Tam Mui như vòng, xuyến và các món trang đim chm tr xinh đẹp, mà trong vòng xuyến nguyên đã có vàng. Cho nên khi chng Nim Pht Tam Mui, tc đã bao gm c Chân Như Tam Mui. Chân Như Tam Mui ch thun v mt trí hu, Nim Pht Tam Mui đã có trí hu còn gm thêm phn phước đức; bi người tu Tnh Độ cũng ly nht tâm thanh tnh làm căn bn, trên ch nht tâm y li có thêm công đức nim Pht. Nhưng Chân Như Tam Mui vi Nim Pht Tam Mui không phi tu mt đời mà chng được, cn phi liên tc tu trong nhiu kiếp; nht là chúng sanh thi mt pháp này khó mà hy vng. Vì thế Nim Pht Tam Mui tuy là ch cu cánh ca môn Nim Pht, nhưng ch đứng v hàng th yếu, mà s cu vãng sanh Tnh Độ trong mt đời để được Bt Thi Chuyn, mi là tông ch chánh yếu cn thiết ca tông này. Do đó pháp môn Nim Pht mi có tên là tông Tnh Độ. Cho nên s dĩ các bc tu Thin sau khi ng đạo, t biết con đường chng đạo còn xa, s e kiếp người ngn ngi, khi luân hi sang đời khác phi b mê lc, nên mi chuyn hướng Nim Pht cu vãng sanh là thế. Nim Pht, l Pht dù rng nhc, nhưng được thêm công đức phước báo do công năng tu trì ca hai nghip thân và khu. Như chiếc xe t Đà Lt v Saigon, chy xe không tt nhiên nh nhàng, nhưng nếu chuyên ch thêm bông hoa rau ci, thì đã v đến Th Đô mà còn được có thêm phn hàng hóa. Đem công năng siêng nhc nim Pht để được thêm nhiu phước báo, đó chính là phn công và thưởng đương nhiên theo lut nhân qu, đâu có chi phi thit thòi? Song mi nhc nếu có, ch là lúc mi tu. Khi nim Pht thun thc đến ch vô tâm, nào có chi là mi nhc!

Nghi vn trên thy cũng cn thiết, nên dù không phi đon quyết nghi, cũng xin ghi tiếp vào đây. Nhng đim hiu lm chưa thu trit v Tnh Độ hãy còn nhiu, vì e tâm nim phm li đấu tranh, nên đối vi các s bin minh tm xin ngng bút.

 

Buddha Recitation -- Essence and Practice

 

There are two aspects to Buddha Recitation -- essence and practice. According to Elder Master Ou-I:

"Buddha Recitation-practice" means believing that there is a Western Pure Land and a Lord Buddha named Amitabha, but not yet realizing that "this Mind makes Buddha, this Mind is Buddha." It consists of resolutely seeking rebirth in the Pure Land and reciting as earnestly as a lost child longing for his mother, never forgetting her for a single moment.

"Buddha Recitation-essence," on the other hand, means believing and understanding that Lord Amitabha Buddha of the West inherently exists in full within our mind, is created by our mind, and making this sacred name -- inherently existing in full within our mind and created by our mind -- the focus of our recitation, without a moment of neglect."

In other words, "Buddha Recitation-practice" is the method of those who do not understand anything about meaning or essence, who just believe that there is a Land of Ultimate Bliss and a Buddha named Amitabha, and who fervently and earnestly recite the Buddha's name seeking rebirth there.

"Buddha Recitation-essence" is the method of those who practice in an identical manner, but who also deeply realize that the Pure Land and Lord Amitabha Buddha are all in the True Mind, manifested by the pure virtues of the True Mind.

This being so, is there a difference between Buddha Recitation-practice and Buddha Recitation-essence? Of course there is. Those who follow Buddha Recitation-practice see Amitabha Buddha as outside the Mind; therefore, opposing marks of subject-object still exist. Thus, such practice is not yet all-encompassing and complete. Those who practice Buddha Recitation-essence thoroughly understand the True Mind and therefore sever all marks of subject-object -- to recite is Buddha, to recite is Mind, reconciling Mind and Realm.

 

Let me relate an anecdote. One night, a Master who is a friend of this author dreamed that a yellow-robed monk came to ask him, "You practice Buddha Recitation, but what is Buddha?" Answer "Buddha is Mind." The monk continued, "How about explaining to me what you mean by Buddha is Mind?" In his dream, the author's friend improvised the following stanzas:

Each utterance of the Buddha's name following the rosary is Mind, 
Buddha is clearly Mind, why waste time searching for Him? 
The Buddha's sea of wisdom reconciles Mind and Realm! 
Mind and Buddha are born equal.

To abandon Mind and follow the Buddha is to be still in a dream, 
To be attached to the Buddha as Mind is not yet perfect comprehension; 
Mind and Buddha are both originally illusory and dreamlike, 
To transcend both Buddha and Mind is to arrive at the perfect City of Lights.

The Master understood the essence of Buddha Recitation, reconciling the Buddha's name with the realm of the Mind.

 

There is one erroneous idea, prevalent among those who lean toward the subtle and the mysterious, which requires clarification. Many of them, emphasizing theory over practice, tend to be attached to the concept of "Amitabha as the Self-Nature, Pure Land as Mind-Only," and reject the existence of the Western Pure Land or rebirth there. These individuals explain the sutra teachings on Pure Land from the viewpoint of principle or essence, saying "Amitabha is our Buddha Nature, the Pure Land is the pure realm of the Mind, why seek it on the outside?" This is the great mistake of those who emphasize mundane, conventional reasoning.

They cling to theory while neglecting practice, prefer essence to marks, and rely on Ultimate Truth to reject the manifestations of mundane truth -- failing to realize that the two are inseparable.

According to the Treatise on the Awakening of the Faith, the True Mind has two aspects: essence and marks. The aspect of essence is called the Door of True Thusness, the aspect of marks is the Door of Birth and Death. True Thusness is inseparable from Birth and Death; Birth and Death are True Thusness. This is why the Patriarch Asvaghosha called True Thusness the "truth-like Emptiness treasury" and Birth and Death the "truth-like Non-Emptiness treasury." True Thusness and Birth and death have the same truth-like nature.

Take the great ocean as an example. We cannot accept sea water but not waves. If we were to do so, we would be wrong about the manifestations of the ocean and fail to understand truly what the ocean is. Therefore, when we abandon phenomena, noumenon cannot stand by itself; when we reject marks, essence cannot remain stable.

A great many individuals, educated in mundane ways, become afflicted with the disease of grasping at the "Truth of Emptiness" when they study Mahayana sutras, particularly those that expound the Prajna Paramita truth, which they do not fully understand. Thus, they explain sutras which elucidate phenomena and marks, such as the Pure Land Sutras or the  Earth Store Bodhisattva Sutra, from the viewpoint of noumenon and principle. They mistake these "marks" sutras as expedients to guide those of limited capacities. However, in truth, they are the mistaken ones! In this connection, I will quote a few passages from the sutras, to destroy this attachment to Emptiness.

 

As stated in the Heart Sutra:

There is no wisdom, and there is no attainment whatsoever. Because there is nothing to be attained, a Bodhisattva relying on Prajnaparamita has no obstruction in his mind. Because there is no obstruction he has no fear, and he passes far beyond all confused imaginations and reaches ultimate Nirvana. The Buddhas in the past, present and future, also, by relying on the Prajnaparamita, "have" attained Supreme Enlightenment.

At first, Buddha Sakyamuni, in accord with Ultimate Truth, said "there is no attainment whatsoever." Then, in accord with conventional truth, He said "the Buddhas in the past, present and future have attained Supreme Enlightenment." Seeing "attainment" is attachment to existence. Seeing "non-attainment" is to err in the direction of attachment to emptiness. Therefore, cultivators should thoroughly understand the deep meaning behind the sutras and enter the Middle Way.

 

In the Diamond SutraSakyamuni Buddha stated:

Who sees Me by form, 
Who seeks Me in sound, 
Perverted are his footsteps upon the Way; 
For he cannot perceive the Tathagata


However, the Lord Buddha then continued:

Subhuti, do not think the opposite either that when the Tathagata attained Supreme Enlightenment it was not by means of his possession of the thirty-two marks of physical excellence. Do not think that. Should you think that, then when you begin the practice of seeking to attain supreme enlightenment you would think that all systems of phenomena and all conceptions about phenomena are to be cut off and rejected. Do not think that. And why? Because when a disciple practices seeking to attain supreme enlightenment, he should neither grasp after such arbitrary conceptions of phenomena nor reject them.

First, Buddha Sakyamuni taught that we should not follow sounds, forms and marks in seeking the Way. After that, he reminded us that at the same time, we should not abandon sounds, forms and marks, nor should we destroy all dharmas. Thus, we can see that the Way belongs neither to "forms" nor to "emptiness." Clinging to either aspect is misguided. A famous Zen monk once said:

Thirty years ago, when this old monk had not yet entered the Order, he perceived rivers as rivers and mountains as mountains. After meeting good spiritual advisors who taught him how to cultivate, he saw rivers as not-rivers and mountains as not-mountains. Now that he has seen the Way and reached the state of still emptiness, he realizes that rivers have always been rivers and mountains have always been mountains.

 

A Zen poet, Su Tung P'o, expressed the same idea:

The sound of the stream is the Buddhas' vast long tongue, 
The shape of the mountain is intrinsically the pure Dharma body.

The meaning of the poem is that forms, marks and sounds are intrinsically the Great Way. We should understand them with a non-discriminating mind, neither clinging to them nor rejecting them to seek Enlightenment in the realm of hollow emptiness. Therefore, the phrase, "Self-Nature Amitabha, Mind-Only Pure Land" is not a denial of the Pure Land or Amitabha Buddha, but is rather an expression that gathers marks toward essence, brings "function" toward nature, to manifest the ultimate truth of the Void. In this ultimate truth, even Buddhas do not exist, let alone other dharmas.

 

The ancients have said:

Although theory can be understood in a flash, practice should be carried out step by step.

 

Even in Zen, which is said to be a "direct method," as long as we have to sit in meditation, or gather our mind, or meditate on a koan or enter and exit samadhi, we are still within the sphere of expedients. Moreover, in the metaphysical realm, there are many levels of attainment. Not until we have reached the stage of non-cultivation can we dispense with expedients and really proclaim that all dharmas are empty. If we have not reached that stage, even a small thing like a mote of dust is real; we still feel warm near a fire or cold in the midst of frost and we still feel pain when a small thorn pricks our body -- how, then, can we say that all dharmas are non-existent and void?

Therefore, those who like to advance lofty and wonderful propositions, such as "Amitabha is the Self-Nature, the Pure Land is Mind Only," and go on to reject the actual practice of Buddha Recitation will find themselves in the predicament of "destroying the boat before stepping ashore." There is no way such persons can avoid drowning. On the contrary, since ancient times, those who have thoroughly understood essence have always paid particular attention to practice -- because practice symbolizes essence.

The ancients have said:

Only those endowed with wisdom can reconcile the essence and marks of Buddha Recitation and truly understand it in an exhaustive manner. Otherwise, we had better grasp at marks in our cultivation; the more we do so, the more effective our practice will be.

 

This is because the more we cling to forms, the more earnest is our determination to achieve rebirth in the Pure Land. Once reborn there, we will surely be awakened to the True Mark. The subject of phenomena and noumenon, essence and marks can be discussed ad infinitum . However, if we can understand it, we understand everything. I sincerely hope that fellow cultivators will skillfully reflect on this question to avoid being misled while treading the Way.

When the author had reached this point in the manuscript, a visiting lay Buddhist asked, "I have heard a number of fairly accomplished Zen Masters say, 'The intelligent should just concentrate their minds and have pure thoughts, without wasting their time and effort to follow the illusion of Buddha Recitation. Let us leave the vehicle empty so that it can run light, not weigh it down with excess baggage!' I have heard such reasoning but do not know how to reply. I wish you could elucidate the matter."

Answer: The aim of Zen is True Thusness Samadhi. The goal of Pure Land is the Buddha Recitation Samadhi. True Thusness Samadhi is like gold bullion, while Buddha Recitation Samadhi is similar to gold necklaces, bracelets, and other pieces of jewelry. All contain the basic metal gold. Therefore, when we have attained Buddha Recitation Samadhi, we have attained True Thusness Samadhi as well. True Thusness Samadhi centers on wisdom; Buddha Recitation Samadhi encompasses not only wisdom but merit and virtue as well. This is because the Pure Land practitioner not only bases himself on pure one-pointedness of mind, he receives the virtues derived from reciting the Buddha's name in addition. However, neither True Thusness Samadhi nor Buddha Recitation Samadhi can be attained in one lifetime; they are the results of many eons of continuous practice. This is particularly true in this Dharma-Ending Age.

Thus, while Buddha Recitation Samadhi is the aim of the Pure Land method, it is not the primary one. The principal and essential goal is to achieve rebirth in the Pure Land within one lifetime so as to reach the stage of non-retrogression. This is what sets Pure Land apart from other schools and gives it its name.

This is precisely why many Zen Masters, having awakened to the Way but realizing that Supreme Enlightenment is still far away, change direction and adopt Buddha Recitation seeking rebirth in the Pure Land. Although painstaking, reciting the Buddha's name and bowing to images of the Buddhas bring additional merits and virtues, a result of the cultivation of the two karmas of body and speech.

Take the example of a truck returning to the capital from the mountain town of ĐÀ LẠT. If, after discharging its cargo, the truck returns empty, it will, of course, be lighter. However, if it can load up with vegetables and other produce, the truck will not only be back in the capital, its owners will, in addition, have a cargo of produce. Earning additional merits and blessings through the diligent and painstaking efforts of Buddha Recitation is a natural cause and effect occurrence -- where is the loss? However, any hardship, if it does occur, will only be felt in the beginning stages of Buddha Recitation.

When recitation has become second nature, reaching the level of No-Mind, all hardship will have vanished!

Comments

Popular posts from this blog