Phương
Diện Khai Tâm
Đã là phàm phu, tất còn ở trong vòng phiền não, bị nó mê hoặc
sai khiến, lắm lúc không tự chủ được. Phiền não có nghĩa: "khuấy động, thiêu đốt" làm cho tâm niệm không yên, ngăn
trở bước tu hành, nên gọi nó là phiền não chướng. Pháp thân huệ mạng ta bị phiền
não phá hại, nên cũng gọi nó là phiền não ma.
Có những Phật tử tuy ăn chay, bố thí, tụng kinh, niệm Phật,
nhưng chỉ chú ý về hình thức, không quan tâm đến việc dứt trừ phiền não vọng
duyên. Nên biết, nếu phiền vọng tăng một phần, tất đạo tâm phải thối một phần,
dù có tụng kinh, niệm Phật cũng không được thanh tịnh. Cho nên trong Kinh Pháp
Bảo Đàn, đức Lục Tổ đã bảo:
Người
mê tu phước chẳng tu đạo
Bảo rằng tu phước ấy là đạo
Bố thí cúng dường phước không lường
Nơi lòng ba ác vẫn còn tạo.
Chữ “Đạo” của đức Lục
Tổ nói, chỉ cho chân tâm thanh tịnh. Tất cả đường lối tu hành đều là phương
tiện trở về chân tâm ấy. Chứng được chân tâm mới hoàn phục tánh bản giác, thoát
nỗi khổ luân hồi, mà điểm căn bản để tu chứng, là phải dứt trừ phiền não vọng
niệm.
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật cũng dạy:
"Bậc sa môn hành đạo đừng giống như con trâu kéo
chiếc cối xay, thân tuy hành đạo mà tâm đạo chẳng hành. Nếu tâm đạo được hành,
cần gì dùng thân hành đạo?"
Niệm Phật, sám hối, ngồi thiền, lễ bái, kinh hành, đều là phương
tiện phá trừ vọng nghiệp, mở rộng chân tâm. Nếu thân, miệng áp dụng hình thức
ấy, mà lòng còn dẫy đầy nghiệp chướng tham, sân, si, thì đâu gọi là hành đạo?
Trái lại, tuy không dùng hình thức đó, nhưng tâm vẫn luôn luôn trong sáng như
gương nguyệt hồ thu, mới thật là người hành đạo. Khi xưa vua Hương Chí hỏi Tổ
Bát Nhã Đa La rằng: "Các vị tu hành khác đều tụng kinh, sao Ngài lại không
tụng?"
Tổ đáp:
"Bần tăng hơi thở ra không tiếp xúc các duyên, hơi
thở vào không ở trong ấm giới, thường chuyển thứ kinh ấy đã ngàn muôn ức quyển
rồi!"
Tổ muốn nói rằng mình hằng tụng vô tự tâm kinh, tâm kinh ấy là
chẳng trụ trước muôn duyên bên ngoài, và bên trong hằng vắng lặng không thấy có
năm ấm mười tám giới, cả tướng trong, ngoài, chính giữa cũng đều dứt tuyệt. Đây
là ý nghĩa "tâm hành đạo".
Tuy nhiên, cũng đừng chấp theo điều nói trên, mà bác bỏ ăn chay,
bố thí, sám hối, niệm Phật, tụng kinh. Bởi các sự kiện ấy về mặt huệ nó giúp
cho hành giả mau tiêu nghiệp chướng, sớm ngộ bản tâm; về mặt phước nó lại khiến
cho người tu được quả báo đẹp vui, sanh về các cõi lành, hoặc miền Tịnh Độ để
tiếp tục đường tu không còn thối chuyển. Mà phước huệ lưỡng toàn mới thành Phật
được. Cho nên các bậc đại Bồ Tát tuy đã ngộ suốt nguồn tâm, nhưng vẫn tu muôn
phước để trang nghiêm Phật độ. Như đức Di Lặc Bồ Tát tuy đã lên ngôi Nhất Sanh
Bổ Xứ, xong mỗi ngày vẫn sám hối sáu thời để cầu tiêu trừ tế chướng, mau chứng
quả Diệu Giác của Phật Đà.
Nên biết lời dạy trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương và lời của
Tổ Bát Nhã Đa La ở trên, chỉ có tánh cách phiến diện hoặc bán dụ, để phá trừ
lối tu chấp tướng quên tâm mà thôi.
Để kết lại vấn đề, người tu tịnh nghiệp ngoài phương diện niệm
Phật, trì chú, tụng kinh, sám hối, còn phải chú trọng về phương diện "khai tâm". Muốn cho tâm mở
mang sáng suốt, để giúp kết quả niệm Phật mau thành tựu được sanh về Tây
Phương, phải dứt trừ phiền não. Nếu nhận thức sâu thêm, câu niệm Phật tuy là
tướng mà cũng chính là tánh, bởi lý không ngoài sự, tức niệm là Phật, tức niệm
là tâm. Cho nên trong sáu chữ hồng danh, phước huệ gồm đủ, sự lý viên dung, vừa
đưa người tu mau đến thể viên giác diệu tâm, vừa khiến hành giả được tịnh báo
vãng sanh cõi Phật.
Opening up the Mind
As common
mortals, by necessity we remain within the cycle of afflictions, subject to its
delusive imperatives. Many times we cannot control ourselves.
"Afflictions" means "being
stirred up and burning," which is unsettling to mind and thought, an
obstacle to the practice of the Way. For this reason, afflictions are
considered obstructive. Moreover, as our Wisdom-Life Dharma-Body is disturbed
by afflictions, they are also termed "demonic."
Some
Buddhists keep the precepts against killing, practice charity, and recite the
sutras and the Buddha's name; however, they concentrate mainly on the external
aspects of worship and do not pay attention to eliminating delusive
conditioning and afflictions. We should realize that if afflictions increase by
one notch, the Bodhi Mind retrogresses by one notch; therefore, although we may
recite the sutras and the Buddha's name, we cannot achieve calmness and purity.
For this reason, the Sixth Patriarch, Hui Neng, stated in the Platform Sutra:
The deluded
cultivate merit and forget about the Way,
Thinking that cultivating merit is the Way;
They practice charity and make offerings, gathering immense merit,
While continually creating greed, anger and delusion.
The word
"Way," as used by the
Sixth Patriarch, represents the pure True Mind. All methods of practice are
expedients to return to that TrueMind. To attain the True Mind is to recover
the Self-Nature and escape the sufferings of Birth and Death. The basic criterion
for practice and attainment of the Way is to get rid of delusive thoughts and
afflictions.
In
the Sutra in Forty-Two
Sections, Buddha
Sakyamuni also taught:
A novice who
practices the way should not be like a buffalo pulling a rotating grain mill;
he should practice the Way not with his body, but with his mind. If the Way of
the mind is cultivated, where is the need to cultivate the body?
Reciting
the Buddha's name, engaging in acts of repentance, sitting in meditation
worshipping and circumambulating are all expedients to eliminate delusive karma
and open up the True Mind. If the body and mouth practice these external forms
of cultivation but the mind is still full of the karma of greed, hatred and
delusion, how can this be called practicing the Way?
On the
other hand, even if a person does not engage in these external forms, as long
as his mind is always clear and bright, "like the moon reflected in a lake
in summertime,' this is true practice.
A king
once asked the twenty-seventh Indian Patriarch of Zen, "Other cultivators
all recite the sutras; why is it that you do not?"
The
Patriarch replied, "This humble monk, when exhaling, is not in contact with mundane
conditions, and when inhaling, does not dwell in the 'conditioned world' of the
Five Skandas. He has recited that sutra over and over millions of times."
The
Patriarch meant that he habitually recited the "Wordless Sutra of the
Mind." This "sutra" means, externally not relying on or clinging to the
multitude of conditions and,internally, remaining silent and still, unperturbed by the Five
Skandas (Aggregates) and the Eighteen Elements. Even all marks, internal, external
and in-between, are eliminated forever. This is the meaning of "mind cultivation."
Nevertheless,
we should not be so attached to the above that we reject vegetarianism,
charity, repentance, Buddha and sutra recitation. This is because all of these
practices, from the standpoint of wisdom, help the practitioner swiftly
eliminate karmic obstacles and become enlightened to his Self-Nature; from the
standpoint of blessings and merit, they enable him to attain favorable karma
and rebirth in auspicious lands or the Western Pure Land, where he may pursue
his practice without retrogression. Only when he has perfected both merit and
wisdom can he achieve Buddhahood.
For this
reason, the great Bodhisattvas, completely enlightened as they are to the
source of the mind, still practice the ten thousand merits to adorn the pure
lands. For example, even though the Bodhisattva Maitreya is in his last rebirth
before Buddhahood, he still practices repentance continually to rid himself of
subtle obstacles and swiftly achieve Supreme Enlightenment.
We should realize
that the teaching in the Sutra in Forty-Two Sections and the words of the
twenty-seventh Zen Patriarch are deliberately one-sided in character, partial
examples designed to eliminate attachment to form -- that is, cultivation
bereft of the mind.
In
summary, in addition to reciting the Buddha's name, mantras and sutras and
conducting repentance ceremonies, the Pure Land cultivator should also devote
attention to "opening up the
mind." For the mind to be awakened, so that Buddha Recitation can lead
to swift rebirth in the Pure Land, he must rid himself of afflictions.
Going
deeper, while uttering the Buddha's name is "form," it is also
"essence," because noumenon does not exist outside of phenomena
-- to recite is Buddha, to recite is
Mind.That
is why merit and wisdom are fully encompassed in the sacred words
"Amitabha Buddha," perfectly fusing noumenon and phenomena, and
swiftly leading the practitioner both to the state of Perfectly Enlightened
Wondrous Mind and to the pure karma of rebirth in the realm of Amitabha Buddha.
Comments
Post a Comment