Tánh Cách Trọng Yếu Của Sự Phát Nguyện


 

Như trên đã nói, yếu chỉ của môn Tịnh Độ là Tín, Nguyện, Hạnh. Muốn vào cửa pháp này, trước tiên hành giả phải tin cõi Cực Lạc có thật, và đức A Di Đà luôn luôn hộ niệm, sẵn sàng tiếp dẫn chúng sanh nào quy kính, niệm sáu chữ hồng danh kêu gọi đến Ngài. Lòng tin như thế gọi là Tín.

Sau khi đã có lòng tin, hành giả phải phát tâm chơn thiết cầu thoát ly cõi Ta Bà đầy khổ lụy chướng duyên, mong muốn sanh về miền Cực Lạc an vui, sự thanh tịnh trang nghiêm vô lượng, để tu tiến hoàn thành mục đích tự độ độ tha. Đó gọi là Nguyện.

Và khi đã phát nguyện như thế, lại cần phải thiết thật xưng niệm danh hiệu đức A Di Đà cho đến trình độ tâm Phật tương ưng, để được tiếp dẫn. Đây gọi là Hạnh.

 

Chương trước nói "Niệm Phật phải dứt trừ lòng nghi" là thuyết minh về Tín. Chương này giảng luận về Nguyện. Chương kế sau tiếp tục đề cập đến phần hành trì, tức là Hạnh. Tín, Nguyện, Hạnh còn gọi là ba món tư lương của môn Tịnh Độ. Ví như người đi xa phải cụ bị chăn mùng thuốc men, thức ăn mặc, và tiền bạc, để có đủ sự cần dùng khi lên đường. Người tu Tịnh Độ cũng thế, thiếu lòng tin không thể phát Nguyện. Có Tín, Nguyện mà chẳng thật hành, tức tu phần Hạnh, chỉ là Tín, Nguyện suông. Và nếu Hạnh đầy đủ mà thiếu sót Tín, Nguyện thì sự thật hành đó lạc lõng, không có tiêu chuẩn, đường lối. Cho nên Tín, Nguyện, Hạnh là tư lương của kẻ đi đường xa về Cực Lạc. Đối với sự vãng sanh, ba điều này có tánh cách liên đới nhau, thiếu một, tất không thành tựu.

 

Ngẫu Ích đại sư, một bậc tôn túc về Tịnh Độ đã dạy: "Được vãng sanh cùng chăng toàn do Tín, Nguyện có hay không, phẩm vị thấp cao, đều bởi hành trì sâu hoặc cạn." Ngài lại bảo: "Nếu không Tín, Nguyện, dù trì niệm câu hồng danh cho đến gió thổi không vào, mưa sa chẳng lọt, vững chắc như tường đồng vách sắt, cũng không được vãng sanh." Người niệm Phật tinh chuyên mà thiếu Tín, Nguyện, tùy công phu sâu cạn kết quả chỉ được hưởng phước báo nhơn thiên, khi hết phước vẫn phải bị luân hồi như cũ. Như tại Việt Nam ta, vào đời Hậu Lê, có một vị sư ở chùa Quang Minh, công hạnh niệm Phật tuy sâu mà vì nguyện tâm không chí thiết, nên khi mãn phần chuyển sanh làm một vị đế vương triều nhà Thanh bên Trung Hoa. Về sau nhà vua nhân dùng nước giếng của chùa ấy để rửa vết chữ son ghi tiền kiếp của mình trên vai, mới cảm khái làm mấy bài thi. Trong ấy có hai câu:

 

Ngã bản Tây Phương nhứt Phật tử,
Vân hà lạc tại đế vương gia?

 

Ý nói: Ta vốn là con của Phật A Di Đà ở Tây Phương, cớ sao lại lạc vào nhà đế vương như thế này? Tuy vua biết kiếp trước mình là vị sa môn niệm Phật ở chùa Quang Minh, nhưng vì trong ngôi vị đế vương, cảnh phước lạc quá nhiều, nên cũng không tu hành được. Niệm Phật mà thiếu Tín, Nguyện kết quả là như thế! Cho nên, xét kỹ lại lời của Ngẫu Ích đại sư, ta thấy phẩm vị cao thấp không phải là vấn đề, mà vấn đề chính là: "Ðược vãng sanh cùng chăng." Mà muốn được vãng sanh, Tín Nguyện là điều kiện phải có, và điểm cần yếu nhất lại là chữ “NGUYỆN”. Đại sư lại nhấn mạnh: "Nếu Tín-Nguyện bền chắc, khi lâm chung, chỉ xưng danh hiệu mười niệm hay một niệm, cũng quyết được vãng sanh. Trái lại, công hành trì tuy vững như vách sắt tường đồng, mà Tín Nguyện yếu, kết quả chỉ hưởng được phước báo nhơn thiên mà thôi." Lời này chỉ rõ: thà Tín, Nguyện bền chắc, dù phần Hạnh kém ít cũng được vãng sanh giải thoát.

Xem đây ta thấy, đối với người tu Tịnh Độ, tâm Nguyện chơn thiết có tánh cách trọng yếu là dường bao!

 

The Importance of Vows



As indicated earlier, the essential elements of the Pure Land method are Faith, Vows and Practice.

To practice this method, the cultivator should first believe that the Land of Ultimate Bliss does exist and that Amitabha Buddha always extends his protection, ready to welcome and guide all sentient beings who earnestly seek his help. Such belief is called Faith.

Having developed a mind of Faith, the practitioner should eagerly seek escape from this Saha World full of suffering and obstructions, and rebirth in the peaceful Land of Ultimate Bliss, filled with countless pure adornments. Once there, he can progress in his Practice and achieve the goal of rescuing both himself and others. This is called Vows.

Having made such Vows, he should earnestly recite the Buddha's name to the point where his mind and that of Amitabha Buddha are in unison -- thus achieving rebirth in the Pure Land. This is called Practice. The previous chapter dealt with Faith. This chapter covers Vows, while the following chapter will explain Practice.

Faith, Vows and Practice are called the "three provisions" of the Pure Land method. Just as travelers embarking on a distant journey must make provisions for medicine, food, clothing and funds sufficient to cover their needs en route, so, too, Pure Land practitioners require Faith to make firm Vows. However, Faith and Vows are hollow without Practice. Likewise, even if Practice is adequate, without Faith and Vows, that Practice will go astray, lacking criteria and direction. Therefore, Faith, Vows and Practice are the "provisions" of those returning to the Pure Land from afar.

 

 The eminent Pure Land master Ou-I once said:

To be reborn in the Pure Land or not depends entirely upon Faith and Vows; the grade of rebirth depends on whether one's Practice is deep or shallow.

 

He further added:

Without Faith and Vows, you cannot be reborn in the Pure Land, even if you recite the Buddha's name to the point where neither the blowing wind nor the falling rain can penetrate and your recitation is as solid as a bronze wall or an iron gate.

Those who practice Buddha Recitation assiduously but lack Faith and Vows will merely obtain the merits and blessings of the human and celestial realms, according to their level of cultivation. When their blessings are exhausted, they are once again subject to Birth and Death, as exemplified in the following account.

During the Later Lê dynasty in Vietnam, there was a certain monk at the Temple of Light who diligently practiced Buddha Recitation, but had not vowed in earnest to achieve rebirth in the Pure Land. After his death, so the story goes, he was reborn as a prince in Ch'ing dynasty China. At his birth, he had certain red spots on his shoulders pointing to his previous incarnation. A hermit summoned to the palace prophesied that these spots would disappear only if they were washed away with water taken from a well at the Temple. Years later, while scrubbing the red spots with water taken from the well, the prince was moved to compose a poem with the following lines:

I was originally a disciple of Amitabha Buddha in the West, 
Why have I now strayed into a royal household? 


Although the prince was aware of his previous life as a novice practicing Buddha Recitation at the Temple of Light, in his high royal position, enjoying countless blessings and pleasures, he could not, in the end, pursue his cultivation. Such are the unhappy results of reciting the Buddha's name while lacking Faith and Vows!

Thus, carefully re-examining the words of Elder Master Ou-I, we can see that the real issue is not the grade at which we will be reborn, but rather, whether we will be reborn in the Pure Land or not. To achieve rebirth there, both Faith and Vows are required, with Vows being the crucial factor. The Master insisted further:

If Faith and Vows are strong and firm, uttering the Buddha's name just ten times, or even only once, at the time of death, will ensure rebirth in the Pure Land. On the other hand, though our Practice may be as solid as walls of bronze or gates of iron, if our Faith and Vows are weak, we will merely succeed in obtaining the merits and blessings of the human and celestial realms.

This discussion makes it quite clear: it is preferable to have firm Faith and Vows, for even though our Practice may be deficient, we will still achieve rebirth in the Pure Land and emancipation.

From this we can see how important true and firm Vows are!

Comments

Popular posts from this blog