Sự
Trọng Yếu Của Lòng Tin
Chúng sanh nơi thế giới Ta Bà này, nhân vì ở vào đời ác năm
trược, phiền não nặng nhiều, hoàn cảnh bên ngoài ác liệt, sự tu hành không dễ
gì tiến bộ. Lại mỗi khi chuyển sanh thường bị lạc mê, nên sự chứng đạt rất khó.
Tiên đức hằng than:
"Số
xuất gia nhiều như lông trâu, nhưng người đắc đạo như sừng thỏ"
(Xuất gia như ngưu mao, đắc đạo
như thố giác).
Lời này có thể hình dung cho điều vừa nói trên. Đức Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni là bậc đã kinh nghiệm qua con đường thành Phật, biết rõ lối nào dễ
bước, nẻo nào khó đi. Vì thế Ngài mới vận lòng bi trí, đặc biệt mở ra pháp môn
Niệm Phật. Người tu môn này tuy chưa dứt phiền não, mà có thể đới nghiệp vãng
sanh. Khi về đến Tây Phương rồi, nhờ nhiều thắng duyên của cảnh ấy, sự tiến tu
chứng đạo rất dễ dàng như cầm lấy món đồ trước mắt.
Đức Thế Tôn đã có lòng đại bi như thế, lẽ ra mọi người đều được
đắc độ với pháp môn này, nhưng kẻ vãng sanh lại có phần ít là tại sao? Đó là
bởi chúng sanh trí kém nghiệp nặng, hoặc nghi lời Phật nói không chịu tu, hoặc
tuy tu mà lòng tín nguyện không chí thiết, hoặc tuy niệm Phật mà chỗ dụng công
không đúng với lời Phật dạy. Vì thế tuy có tu hành vẫn không đem đến thành quả.
Đó là lỗi ở người, chớ không phải ở pháp.
Kinh Hoa Nghiêm nói: "Lòng tin là bước đầu vào đạo, là mẹ của của tất cả
công đức. Lòng tin hay nuôi lớn các căn lành. Lòng tin hay tựu quả Bồ Đề của
Phật." Thế nên đối với người tu, đức tin có tính cách rất trọng yếu.
Nếu mất đức tin, chẳng những nền tảng tiến đạo phải bị sụp đổ, mà tất cả công
hạnh giải thoát cũng không thành. Đức tin này không phải mê tín, chính là lòng
tin nương theo trí huệ, là sự đặt trọn vẹn niềm tin vào lời của Phật, Bồ Tát và
chư vị Tổ Sư đã dạy trong kinh điển. Tạo sao đã nương theo trí huệ lại còn phải
đặt trọn vẹn niềm tin vào lời dạy của những bậc ấy? - Bởi môn Tịnh Độ thuộc
pháp Đại Thừa, đã là đại pháp tất nói nhiều cảnh giới siêu việt khác thường,
nên có những điều mà trí huệ phàm phu không thể suy lường nổi.
Khi xưa trên hội Linh Sơn, đức Thế Tôn nói Kinh Pháp Hoa, có năm
ngàn bậc Đại Đức Thanh Văn, đã chứng từ sơ quả Tu Đà Hoàn đến đệ tứ quả A La
Hán, không tin tưởng lui ra khỏi Pháp tịch. Đối với cảnh chính đức Phật còn tại
thế thân nói pháp, với các vị Thanh Văn thánh giả trí huệ đã siêu thường, mà
còn có sự không tin, thì ta thấy pháp Đại Thừa chẳng phải dễ tin hiểu. Cho nên
trong kinh Đại Thừa, có nhiều chỗ đức Phật bảo đừng nói cho kẻ nhiều kiến chấp,
thiếu lòng tin nghe, vì e họ sinh lòng khinh báng mà mang tội. Đến khi Đại Thừa
pháp được lan truyền rộng, các vị cổ đức khuyên người học Phật khi nghiên cứu
về loại kinh này, chỗ nào dùng trí huệ hiểu được cố nhiên là tốt, chỗ nào suy
gẫm không thấu triệt vẫn đặt trọn vẹn niềm tin nơi lời của đức Thế Tôn. Như thế
mới tránh khỏi tội lỗi khinh báng đại pháp, và không mất phần lợi ích.
Trong Kinh Phật Thuyết A
Di Đà, đức Bổn Sư đã đôi ba phen nhắc nhở về lòng tin, như các đoạn: "Cho nên
Xá Lợi Phất! Các ông phải nên tin nhận lời ta và lời nói của chư Phật!... Xá
Lợi Phất! Như ta hôm nay khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật.
Các đức Phật kia cũng khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của ta, mà nói lời
như sau: 'Phật Thích Ca Mâu Ni hay làm được việc rất khó khăn ít có! Ngài đã có
thể ở trong đời ác năm trược là: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng
sanh trược, mạng trược của quốc độ Ta Bà, chứng quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề, vì các chúng sanh nói ra pháp môn mà tất cả thế gian đều khó tin ấy.' - Xá
Lợi Phất! Nên biết ta ở trong đời ác năm trược làm việc khó khăn sau đây, là
đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vì tất cả thế gian nói ra pháp khó tin
này, thật là điều rất khó!"
Đức Thế Tôn trí huệ nhiệm mầu, mà đã nói những lời ấy, thì biết
pháp Tịnh Độ thật khó tin, và lòng tin là điều rất quan hệ! Nhiều vị cổ đức
cũng bảo: "Pháp
môn Tịnh Độ rất khó thâm tín, duy hạng phàm phu đã gieo căn lành niệm Phật và
bậc Đăng Địa Bồ Tát mới tin nhận được mà thôi. Ngoài ra những chúng sanh khác
cho đến hàng Nhị Thừa hoặc quyền vị Bồ Tát đôi khi cũng không tin nhận pháp môn
này." Khi xem những lời như trên, ban sơ bút giả cũng lấy làm lạ tự
hỏi: "Tại sao đệ tử Phật lại không tin lời của Phật? Hàng Nhị Thừa và
quyền vị Bồ Tát trí huệ siêu việt, chỗ tu chứng đã cao, sao lại không tin pháp
môn Tịnh Độ?"
Nhưng về sau, khi thấy trong hàng xuất gia có những vị giảng
giáo lý tinh thông, song lại không tin có cõi Cực Lạc và bài bác sự Niệm Phật
Vãng Sanh, chừng đó mới công nhận lời kia là đúng. Nhân đây lại tìm trong kinh,
thấy nói đạo nhãn của bậc A La Hán và Bích Chi Phật chỉ ở trong phạm vi tam
thiên đại thiên thế giới, gồm một ngàn triệu thái dương hệ. Mà môn Tịnh Độ
thuộc về giới ngoại đại pháp, cõi Cực Lạc ở ngoài đại thiên thế giới, như vậy
làm sao hàng cực quả Nhị Thừa có thể thấy biết tin nhận được? Còn hàng quyền vị
Bồ Tát chưa chứng vào cảnh giới Ðại Phương Ðẳng, chưa thấy được mười phương
Tịnh Độ, nên có vị không tin nhận lẽ dĩ nhiên.
Điểm căn yếu của môn Niệm Phật là: Tín, Nguyện, Hạnh. Ba điều
này tương quan với nhau như cái đảnh có ba chân, thiếu một tất phải sụp đổ.
Trong đây tín lại là nền tảng, nếu thiếu nhu yếu này, thì không thể khởi sanh
Nguyện và phát động Hạnh tu trì cho thiết thật. Riêng về điểm Tín, đại khái có
ba điều:
Trước
tiên, phải tin lời đức Thế Tôn nói, nhận chắc cõi Cực Lạc từ nhơn vật đến cảnh
giới đều có thật.
Kế đó,
phải tin đức A Di Đà không có lời nguyện dối, chúng sanh dù nghiệp nặng, nếu
niệm đến danh hiệu Ngài, quyết định sẽ được tiếp dẫn vãng sanh.
Thứ
ba, phải tin ta niệm Phật, nguyện về cõi Phật, quyết sẽ được thấy Phật được
vãng sanh, nhân nào quả ấy không thể sai lạc.
Ba điều này chỉ là khái yếu, nếu suy diễn ra rộng, trong ấy gồm
có sáu phần: tin mình, tin Phật, tin nhân, tin quả, tin sự, tin lý. Điều
thứ nhất bao gồm tin lời Phật và tin sự, lý Tịnh Độ đều có thật.
Điều thứ hai bao gồm tin đại nguyện của Phật A Di Đà và tha lực
tiếp dẫn của Ngài.
Điều thứ ba bao gồm tin bản tâm mình, nguyện lực mình, và nhân
cùng quả của công hạnh niệm Phật.
Nhân chắc ba điều vừa nói, mới gọi là tin sâu. Lại
tin sâu không phải thuộc lời nói bên ngoài hay ý nghĩa phân biệt mà là sự thể
nhận, là tâm trong sạch không còn một điểm nghi ngờ. Cho nên khi xưa ông Vương
Trọng Hồi hỏi một vị thiện trí thức: "Làm
sao quyết chắc được sanh về Cực Lạc?" Vị ấy đáp: "Chỉ tin nhận sâu, là chắc chắn được vãng sanh." Ông ghi
nhận và ngộ giải lời nói ấy, quả nhiên về sau được toại thành như ý nguyện.
Sự tin sâu có ích lợi là như thế.
The Importance of Faith
It is not
easy for sentient beings in this Saha World to progress in their cultivation,
living as they are in the realm of the Five Turbidities, subject to heavy
afflictions and surrounded by violence. Moreover, they usually go astray and
become deluded each time they die and are reborn, so that it is very difficult
for them to attain Enlightenment. As the ancients often noted:
Those who enter the clergy are as numerous
as hairs on a water buffalo, but those who attain the Way are as scarce as
rabbits' horns.
Our
Master, Buddha Sakyamuni, experienced the Way to Buddhahood first hand, and
knew full well which path was easy to tread and which was difficult. Therefore,
with his compassionate, enlightened mind, he purposely taught the special
method of Buddha Recitation. Followers of this method, even while not entirely
rid of afflictions, may "bring their residual karma along" to the
Pure Land. Once reborn there, thanks to the highly favorable conditions of that
Land, progress in cultivation and attainment of the Way are as easy as holding
an object before one's eyes.
Since
Buddha Sakyamuni has such great compassion, one would think that all sentient
beings would attain the Way through this method. Nevertheless, relatively few
are reborn in the Pure Land. Why is this so? It is because sentient beings have
little wisdom and heavy karma, or they doubt the Buddha's words and refuse to
cultivate. Or else, they may cultivate but their Faith and Vows are not strong
and earnest, or they may recite the Buddha's name but their practice is not in
accord with Buddhist teachings. For these reasons, though they may cultivate,
their practice will not lead to Enlightenment. The fault lies with the
practitioner, not the method.
The
Avatamsaka Sutra teaches:
Faith is the
basis of the Path, the mother of virtues Nourishing and growing all good
ways... Faith can assure arrival at enlightenment.
Therefore,
Faith is of great importance to the cultivator. If we lose Faith, not only will
our base for progress in the Way crumble, but none of our liberating deeds will
succeed. This Faith is not blind faith, but is Faith grounded in wisdom, based
entirely on the words of the Buddhas, Bodhisattvas and Patriarchs, as taught in
the sutras.
Why is it
that after relying on wisdom, we should still put our complete Faith in the
teachings of the sages? It is because the Pure Land method, belonging as it
does to the Mahayana tradition, is concerned with many transcendental realms
beyond human knowledge or wisdom. Therefore, there are many realities that
ordinary sentient beings cannot readily understand.
Once,
when Buddha Sakyamuni was lecturing on the Lotus Sutra at the Vulture Peak Assembly, five thousand great
Sravakas, many of whom were Arhats, did not believe His words and left the
Assembly. Even these venerable Sravakas endowed with transcendental wisdom had
doubts about the Dharma preached by Buddha Sakyamuni Himself. We can see, then,
that Mahayana teachings are not easy to understand and believe.
For this
reason, there are many passages in the Mahayana sutras in which Buddha
Sakyamuni requested that such and such a teaching not be preached
indiscriminately to those without Faith and with too many view-attachments,
lest they develop slanderous thoughts and reap evil karma. When the Mahayana
doctrine began to spread widely, the ancient sages, too, admonished Buddhist
followers to adopt the following approach to studying Mahayana sutras:
Understand with
your mind those passages that you can. As for those passages which you cannot
fully comprehend through reflection, just put your Faith entirely in the words
of the Buddhas. That is the only way to avoid the offense of vilifying the
great Dharma and losing merits and virtues thereby.
In
the Amitabha
Sutra, Buddha Sakyamuni reminded us about Faith several times,
as in the following passage:
Sariputra, all of
you should believe and accept my words and those of all Buddhas... Sariputra,
just as I now praise the inconceivable merits and virtues of all Buddhas, all
those Buddhas equally praise my inconceivable merits and virtues with the words
"Sakyamuni Buddha can accomplish extremely rare and difficult deeds! In
the Saha World, in the evil time of the Five Turbidities... he can attain
Buddhahood for the sake of all living beings and preach this Pure Land method,
which people the world over are inclined to doubt."
If
Sakyamuni Buddha, in his wisdom, has spoken these words, we can see that the
Pure Land Dharma door is indeed difficult to grasp, and that Faith is very
important! The ancients have likewise stated:
It is very
difficult to believe deeply in the Pure Land method. Only sentient beings who
have planted the good roots of Buddha Recitation or Bodhisattvas at the Equal
Enlightenment stage can truly believe and accept it. Other sentient beings,
including even Arhats, Pratyeka Buddhas, and Bodhisattvas at the Expedient
Stage, sometimes do not believe in or accept this method.
Reading
such remarks, this writer was surprised at first and asked himself why Buddhist
disciples did not believe Buddha Sakyamuni's words. The sages of the Two
Vehicles (Sravakas and Pratyeka Buddhas) and Bodhisattvas at the Expedient
Stage have transcendental wisdom and their attainments are already high; why is
it that they do not believe in the Pure Land method? Later on, however, upon
observing that there are monks and nuns who can explain the Dharma in a thorough
manner but do not believe in the Land of Ultimate Bliss and reject the idea of
seeking rebirth there, he conceded that this observation was indeed true.
Looking for an explanation, he found it written in the sutras that... the
perception of the Arhats, Pratyeka Buddhas and beginning Bodhisattvas is
limited; they cannot fully participate in what the Buddhas perceive and
understand.
The
critical elements of the Pure Land method are Faith, Vows and Practice. These
three conditions interact like the three legs of an incense burner; if one is
lacking or broken, the incense burner cannot stand. Among these conditions,
Faith is fundamental. If this critical condition is missing, the mind of Vows
and sincere Practice cannot truly develop.
This
element of Faith consists, in general, of three factors.
First, we should believe
in the words of the Buddhas, truly acknowledging that the Pure Land, from its
inhabitants to the environment itself, does "exist."
Next, we should believe
that the Lord Amitabha Buddha is always true to his Vows, and that however deep
the evil karma of sentient beings may be, if they earnestly recite His name,
they will be reborn in the Pure Land.
Finally, we should believe
that if we recite Amitabha Buddha's name and vow to be reborn in the Pure Land,
we will certainly see the Buddha and be reborn there, as cause and effect
cannot diverge. These three factors are, of course, only generalities.
The first
factor encompasses faith in the words of the Buddhas and in the noumenal and
phenomenal aspects of the Pure Land.
The
second encompasses faith in the great Vows of Amitabha Buddha and in his
"other-power" to rescue us and lead us to rebirth in His Land.
The third
factor encompasses faith in our own Self-Nature, our own vows, and the cause
and effect of the practice of Buddha Recitation. To recognize these three factors fully is to have
deep Faith.
Moreover,
deep Faith is not a question of words or discriminating thought; it is a profound
realization, it is the Pure Mind without a trace of doubt. In this regard, a
layman of old once asked a wise monk: "How can we fully ensure rebirth in
the Pure Land?" The monk replied, "You need only have a mind of deep
and true Faith for rebirth in the Pure Land to be assured." Having been
enlightened by this answer, the layman acted accordingly and later on did in
fact achieve his aspiration.
Deep Faith is,
therefore, of great benefit indeed.
Comments
Post a Comment