Những Mối Nghi Căn Cứ Theo Kinh Điển

 

Ngoài những điều trên, lại có nhiều người học Phật, căn cứ các lý thuyết thế giới kinh văn, mà đặt các nghi vấn về môn Tịnh Độ. Nhân tiện, cũng xin tiếp theo thể vấn đáp để giải quyết các mối nghi ấy.

 

1) Hỏi: Kinh Kim Cang nói: "Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bóng, bọt". Thế thì cảnh Ta Bà đã huyễn, mà cõi Cực Lạc cũng là huyễn. Sao không đi ngay vào bản tâm chân thật, còn cầu về cảnh huyễn làm chi?

 

- Đáp: Thật ra các cõi Uế Độ và Tịnh Độ trong mười phương đều dường mộng huyễn; nhưng khi nào chứng được Như Huyễn Tam Muội, mới thấy đó là hư giả. Bằng chưa được như thế, vẫn thấy nó là thật, vẫn bị nó chi phối, vẫn còn biết khổ vui, vào mùa nắng vẫn khó chịu về sự nóng bức, cho đến việc rất nhỏ như con kiến, con muỗi cắn đốt cũng vẫn còn bị đớn đau. Như vậy sao được gọi là Huyễn? Nên biết môn Tịnh Độ là phương tiện nhiệm mầu của Phật, mượn cảnh như huyễn an vui, để đưa chúng sanh thoát khỏi cảnh như huyễn thống khổ dẫy đầy chướng duyên và hiểm nạn. Rồi từ cảnh an vui như huyễn đó tiến tu dễ dàng, để mau chứng vào cõi chân tâm thường tịch.

Lấy một thí dụ như tại cõi Ta Bà này, cảnh gia đình hay nơi thị tứ ồn ào là huyễn, cảnh chùa am hoặc chốn núi non vắng vẻ cũng là huyễn. Nhưng tại sao người tu giải thoát, lại bỏ cảnh gia đình thị tứ tìm nơi chùa am thanh vắng ở núi non? Có phải tại chốn gia đình nhiều bận buộc, cảnh huyên náo khó nhiếp tâm, mà nơi chùa am hay chỗ núi non thanh vắng dễ tu chăng? Cho nên cảnh phàm tình cùng cảnh thánh chứng khác nhau, phàm tình mà đặt mình vào cảnh thánh chứng là điều xa vời trái với thật tế. Ta còn phàm phu hãy cứ theo phận phàm phu mà tuần tự tiến tu, đừng vội đem con mắt thánh nhìn nói quá cao xa, thành ra vọng ngữ và có hại.

Khi xưa cũng có một Thiền giả cho cõi Cực Lạc là huyễn mộng, niệm Phật cầu vãng sanh vô ích. Triệt Ngộ đại sư nghe lời này, liền bảo: "Không phải thế đâu! Từ bậc Thất Địa Bồ Tát trở về trước, đều tu hành ở trong mộng. Đến như đối với mộng lớn vô minh, thì bậc Đẳng Giác vẫn còn say ngủ. Duy riêng chư Phật mới có thể tôn xưng Đại Giác, là những bậc hoàn toàn thức tỉnh mà thôi. Khi tự thân đã ở trong mộng, thì sự vui khổ vẫn uyển nhiên, vui cũng thấy vui, khổ còn biết khổ, sao được gọi mình là người tỉnh mơ, cảnh là huyễn mộng? Thế thì thay vì ở trong cảnh mộng khổ của Ta Bà, sao bằng về cảnh mộng vui nơi Cực Lạc! Huống chi mộng ở Ta Bà là từ mộng vào mộng, bị cảnh duyên nghiệp lực lôi cuốn, mãi luân hồi sống chết chìm mê. Còn cảnh mộng ở Cực Lạc là từ mộng đến giác, lần lượt sẽ thức tỉnh hoàn toàn chứng lên quả Phật. Cho nên mộng huyễn vẫn đồng, mà duyên cảnh mộng ở hai nơi thật chẳng đồng vậy. Thế thì sự niệm Phật cầu vãng sanh chẳng là cần thiết lắm ư!"

 

Lời cổ đức giải thích như thế, thì sự cầu sanh đã được hiển minh. Tuy nhiên, bài kệ trong Kinh Kim Cang nói đó, vẫn còn là lời phương tiện để cho chúng sanh lìa quan niệm chấp có theo phàm tình. Tiến một bước cao hơn, như Kinh Đại Phẩm Bát Nhã nói: "Như Lai vì hạng người căn tánh tối, mà nói các pháp như huyễn vắng lặng, vì e họ sanh chấp kiến; vì hạng người căn tánh sáng, nói tướng hảo của chư Phật, bởi họ như hoa sen chẳng nhiễm trần."

 

Cho nên Tu Bồ Đề là bậc giải ngộ lý Không bậc nhứt, tuyệt không danh tướng, mà đức Thế Tôn lại thọ ký cho ông về sau thành Phật, hiệu là Danh Tướng Như Lai. Thế thì lý mầu không danh tướng chẳng ngoài danh tướng, tất cả pháp mộng huyễn đều là Phật pháp chân thường. Và đi sâu đến chỗ viên dung, như đức Lục Tổ nói, thì phàm phu nguyên là Phật, phiền não tức Bồ Đề, tất cả vô minh huyễn vọng đều là thể viên minh chân giác của Như Lai tạng.

 

2) Hỏi: Kinh Pháp Bảo Đàn nói: "Không niệm, niệm mới chánh. Có niệm, niệm thành tà." Như vậy, niệm Phật có phải là tà vọng chăng?

 

 

- Đáp: Về đạo lý vô sanh vô niệm, đoạn trước đã có nói. Nơi đây xin đáp một cách thẳng tắt: - Chẳng phải không niệm Phật, không tụng kinh, gọi là vô niệm. Mà thường hằng niệm Phật tụng kinh, nhưng tâm địa rỗng không, chẳng chấp thấy mình có niệm tụng, mới gọi là vô niệm. Trái lại, dù ngồi an tĩnh lòng không suy nghĩ chi cả, mà còn cảm thấy biết cho mình, có sự ngồi thiền, vẫn gọi là "có niệm". Nếu nghĩ rằng "không niệm" là chẳng niệm Phật, tụng kinh, thuyết pháp, không có sự suy tư, thì thành ra gỗ đá; muốn tránh lỗi “chấp Có”, lại lạc vào lỗi “chấp Không”. Thế thì đã trái với ý kinh chỉ dạy. Cho nên đức Lục Tổ mới nói tiếp: "Có, Không đều chẳng tưởng. Ngồi được bạch ngưu xa". Bậc cao đức bên Tịnh Độ khi xưa, tuy hằng niệm Phật cầu vãng sanh, song chẳng chấp tướng niệm Phật cầu sanh, nên đã có lời kệ:

Có niệm đồng không niệm,
Không sanh tức là sanh,
Chẳng phiền dời nửa bước.
Thân đến Giác Vương thành

 

Nhưng, trên đây là nói tác phong tu niệm của bậc thượng căn. Với hàng căn cơ trung, hạ, cứ nên gắng công niệm Phật cho nhiều, dù còn chấp thấy mình có niệm có tha thiết cầu sanh, cũng là điều tốt. Bởi nếu được như thế, khi mạng chung tất vãng sanh về Tây Phương, chừng ấy kết cuộc cũng sẽ chứng vào cảnh giới vô niệm vô sanh, đâu có điều đáng lo ngại! Bằng chẳng lượng sức mình, ưa cầu cao thắng, nê chấp theo kinh văn trên, đối với đạo lý vô niệm chưa thể làm nổi, với sự thấy có niệm Phật có cầu sanh lại không muốn thật hành, kết cuộc cả hai đều hỏng, vẫn chỉ là phàm phu trong vòng luân hồi thống khổ mà thôi!

 

3) Hỏi: Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, đức Lục Tổ bảo: "Người phương Đông tạo tội, niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Người Tây Phương tạo tội, niệm Phật cầu sanh về cõi nào?" Như thế thì chỉ cốt làm sao diệt được tội, cần gì niệm Phật cầu vãng sanh?

- Đáp: Đức Lục Tổ và các vị cao đức bên Thiền Tông đứng trên cương vị truyền bá tông chỉ Duy Tâm, nên mỗi lời nói phải căn cứ theo chỗ lập pháp của mình, đều chỉ ngay vào bản tánh, và đều lấy tâm làm chủ. Ý Ngài muốn bảo: nếu tâm được thanh tịnh, thì tuy ở Ta Bà cũng tự tại giải thoát; tâm không thanh tịnh dù ở Tây Phương vẫn bị khổ não luân hồi. Thật ra, đối với người tu Tịnh Độ hiểu đạo lý, lời nói của Tổ chỉ có tác dụng khuyến tấn, bảo phải niệm Phật đến chỗ tịnh tâm không còn chấp tướng; chớ không phải bác sự niệm Phật cầu vãng sanh. Đức Thích Tôn, chư Phật khắp mười phương, chư Đại Bồ Tát và chư vị Tổ Sư đều khuyên niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Hai vị Tổ bên Thiền Tông ở Thiên Trúc là Mã Minh, Long Thọ đều khuyên niệm Phật; và chính ngài Long Thọ đã chứng ngôi Sơ Hoan Hỷ Địa, vãng sanh về Cực Lạc. Nếu đức Lục Tổ quả thật có ý bài bác sự Niệm Phật, thì chẳng hóa ra bài bác đức Thích Ca Mâu Ni, chư Phật, chư Bồ Tát, Tổ Sư, và cả hai vị tiền bối trong tông của mình là Mã Minh, Long Thọ hay sao? Cho nên, nếu hiểu lầm rồi đem lời này chê bai niệm Phật, chính là bài xích và gieo mối oan cho đức Lục Tổ vậy.

 

Lại, hành môn nào cũng có lý và sự. Lời của đức Lục Tổ là nói về lý, ngoài ra còn có sự tướng của đường tu, cần phải nghĩ đến. Ta thử đặt lại câu hỏi: "Người ở ngoài đời tạo tội, vào chùa am xuống tóc, ăn chay, giữ giới tìm nơi thanh vắng tu hành. Người ở chùa am tạo tội tìm nơi nào để tu?" Nếu chỉ y theo lý mà bác như vậy, thì việc xuất gia đến chùa am, ăn chay giữ giới, cho đến tụng kinh, niệm Phật, trì chú, tham thiền, đều là lỗi lầm hết cả hay sao? Pháp tu Tịnh Độ cũng thế, thật ra chẳng phải người Đông Phương do tạo tội mới niệm Phật cầu sanh Tây Phương, mà niệm Phật cầu về Tây Phương chính là muốn mượn thắng duyên tu hành, để mau chứng lên quả Vô Sanh giải thoát. Dù người đã tạo nhiều tội, biết hồi tâm sám hối niệm Phật cầu vãng sanh, cũng là vì muốn sớm thoát sanh tử, vẫn không ngoài mục đích này. Còn người ở Tây Phương Cực Lạc cũng không tạo tội, bởi khi đã về cõi ấy, trên có Phật Bồ Tát, dưới có các bậc thượng thiện nhơn, xung quanh mình tiếng chim nói pháp, tiếng nhạc giảng kinh, không còn nhọc lòng lo đến vấn đề ăn mặc ở và các sự đau bịnh, tai nạn, oán thù, đường đạo chỉ thêm tiến lên, đâu còn có duyên gì để tạo tội?

Kết lại, câu nói của đức Lục Tổ nên hiểu chỉ là lời khai thị về lý tánh thanh tịnh để khuyến tấn mà thôi, không nên nghĩ lầm đem nó để bác sự tướng. Người niệm Phật nghe lời này, càng nên cố gắng niệm cho đến trình độ tâm không, mới hợp với ý của Tổ.

 

Doubts Based on Misreading the Sutras

 

Apart from the above, there are numerous students of the Dharma who raise a number of issues based on the teachings in the sutras. I will follow the question and answer formula to reply to them.

Question 1

The Diamond Sutra states:

All mundane dharmas are like dreams, illusions' shadows and bubbles.

Therefore, the Saha World being illusory, so is the Land of Ultimate Bliss. Why not enter directly into the True Original Mind instead of seeking rebirth in an illusory world?

Answer

In truth, all the pure and impure lands in the ten directions are like dreams and illusions; however, only when we have attained the "Illusion-like Samadhi" can we see them as illusory and false. If we have not yet reached that stage, we still see them as real, we are still subject to their sway, we still know sorrow and happiness, we still feel uncomfortable during the summer heat and are even bothered by such small things as mosquito bites. Thus, how can we speak about things being illusory?

We should realize that the Pure Land method is a wonderful expedient of the Buddhas -- borrowing an illusory realm of happiness to help sentient beings escape from an illusory realm of great suffering, full of obstructing conditions and dangers. Then, in that happy, peaceful, illusory realm, cultivation progresses easily, and the ever-silent realm of the True Mind is swiftly attained.

To take an example, in this Saha World of ours, the scenes of stifling family life and noisy downtown business districts are illusory, and so are the scenes of temples and pagodas or mountain wildernesses. However, why is it that cultivators leave the noisy environment of the cities to seek the quiet, sparsely populated landscapes of temples and pagodas hidden in the mountains? Is it not because family life creates many binding ties and bustling urban intersections are not conducive to concentration, while temples, pagodas and mountain wildernesses facilitate cultivation? For this reason, the circumstances of ordinary people are different from those of the saints. For common mortals to put themselves in the place of the saints is far-fetched and unrealistic. We who are still common mortals should follow the path of ordinary people, and cultivate gradually. We should not look with the eyes of saints and comment too far above our level, to avoid the transgression of false speech.

There was once a Zen Master who thought that the Pure Land was illusory and that reciting the Buddha's name seeking rebirth there was useless. Upon hearing this, Elder Master Ch'e Wu said immediately:

This is a mistake. Bodhisattvas of the Seventh Stage and below are all cultivating in a dream. Even those Bodhisattvas who have reached the level of Equal Enlightenment are still fast asleep within the great dream of delusion. Only the Buddhas can be honored with the designation Great Enlightened, i.e., those who have completely awakened. When our own body is in a dream, happiness and suffering are to be expected; we still experience happiness and still know suffering. How can we consider ourselves awakened from a dream and our environment dreamlike?

This being the case, how can remaining in the suffering dream of the Saha World compare with returning to the blissful dream of the Pure Land? Moreover, the Saha World dream goes from dream to dream, subject to the laws of karma, eternally revolving in the cycle of Birth and Death. The Pure Land dream on the other hand, is from dream to Enlightenment and gradual awakening to the ultimate stage of Buddhahood. Although the illusory dreams are the same, the conditions of the dreaming state in the two instances are really different. Thus, it is truly necessary to recite the Buddha's name seeking rebirth in the Pure Land!

These explanations have clearly demonstrated the need to seek rebirth in the Pure Land. However, the stanza from the Diamond Sutra quoted above is still an expedient explanation to help sentient beings abandon the common mortal's concept of attachment. Going one step further, as stated in the Great Prajna Paramita Sutra:

Buddha Sakyamuni explained to those of dull capacities that all dharmas are dreamlike, silent, and still, lest they develop view-attachment. To those of sharp capacities He spoke of the embellishments of the Buddhas, because they are like lotus blossoms, untouched by worldly dusts.

For this reason, Subhuti, who of all the Arhat disciples of Buddha Sakyamuni was foremost in the realization of the Truth of Emptiness, characteristically received a prediction that he would attain Buddhahood in the future under the title of "Name and Mark Buddha." Thus, the sublime truth of no name or mark is inseparable from name and mark -- all illusory dharmas are the Buddhas' dharmas, true and unchanging.

Going still deeper, to the ultimate and perfect stage, as the Sixth Patriarch has said:

Sentient beings are originally Buddhas, afflictions are Bodhi, all delusions are the perfect and illuminating state, truly enlightened, of the womb of the Tathagatas.

Question 2

The Platform Sutra states:

Recitation with no thought of recitation is true; recitation while recitation is wrong.

Thus, is not Buddha Recitation deviant and false?

Answer

The meaning of No-Birth, No-Thought of Recitation has been discussed earlier, but I will give a direct explanation here. "No-Thought of Recitation" does not mean no Buddha or Sutra Recitation, but rather habitual recitation of the Buddha's name and the sutras with a completely empty mind, neither seeing nor grasping at the thought that we are the ones doing the reciting. This is called No-Thought of Recitation. On the other hand, though we may sit still and at peace, our minds completely empty, if we are still aware that we are sitting in meditation, this is still grasping at the thought of recitation.

If we think that No-Thought of Recitation is not to recite the Buddha's name or the sutras, not to lecture on the Dharma and not to reflect or meditate, then we have turned into wood and stone. While avoiding the error of grasping at forms, we have fallen into the error of grasping at emptiness -- thus going against the very meaning of the Platform Sutra. For this reason, the Sixth Patriarch continued:

He who is above "affirmative" and "negative" 
Rides permanently in the white bullock cart.

 

High-ranking monks of old often practiced Buddha Recitation seeking rebirth in the Pure Land, but they were not attached to the mark of Buddha Recitation or seeking rebirth. Therefore, they left behind this stanza:

To recite is the same as not to recite, 
No-Birth is precisely birth, 
Not bothering to move even half a step 
The body has reached the city of Great Enlightenment.

However, we have spoken so far of the practice of exceptional individuals. Persons of limited or moderate capacities should strive to repeat the Buddha's name as many times as possible. While they may still have attachments and see themselves as reciting the Buddha's name earnestly seeking rebirth in the Pure Land, it is still a good thing. This is because by so doing, they will assuredly achieve rebirth in the Pure Land at the time of death and ultimately enter the realm of No-Recitation, No-Birth. Where is the worry? Otherwise, seeking a direct and lofty way without gauging their own limitations and grasping at the teachings of Emptiness while incapable of following the truth of No-Recitation -- yet unwilling to practice at the level of seeking rebirth in the Pure Land through Buddha Recitation -- in the end they achieve nothing. They just remain common mortals in the painful cycle of Birth and Death!

 

Question 3

In The Platform Sutra, the Sixth Patriarch stated:

Those living in the East who commit transgressions recite the Buddha's name seeking rebirth in the West. Where do those transgressors living in the West seek rebirth when they recite?

Thus, we should only aim at eliminating transgressions. What need is there to recite the Buddha's name seeking rebirth in the Pure Land?

Answer

The Sixth Patriarch and high-ranking Zen Masters were intent on teaching the doctrine of Mind. Thus, all of their words were based on these tenets, pointing directly to the Self-Nature, with the mind as the center. What the Patriarch really meant was that if the mind is pure, even though we may be in the Saha World, we are emancipated and free. If the mind is impure, even though we may be in the Pure Land, we are still subject to the sufferings of Birth and Death.

In truth, for the Pure Land cultivator who understands the Dharma, the Patriarch's words serve only to urge him on, encouraging him to recite the Buddha's name to the level of purity of mind, devoid of all attachment to forms. The Patriarch certainly did not reject the act of reciting the Buddha's name seeking rebirth in the Pure Land as Buddha Sakyamuni, the Buddhas of the ten directions, the great Bodhisattvas and the Patriarchs all recommended seeking rebirth there. In fact, the two foremost Indian Zen Patriarchs, Asvaghosha and Nagarjuna, both recommended the Pure Land method. Nagarjuna himself, according to the Lankavatara Sutra, was enlightened to the preliminary Bodhisattva ground of "extreme Joy," and was reborn in the Pure Land.

If the Sixth Patriarch had truly intended to reject Buddha Recitation, he would have been criticizing and rejecting Buddha Sakyamuni, the Buddhas of the ten directions, the Bodhisattvas and the Patriarchs, including the very precursors who established his own Zen School, the Patriarchs Asvaghosha and Nagarjuna. How could that be?

Therefore, if we were to misunderstand the Sixth Patriarch's words and use those very words to deprecate Buddha Recitation, we would be slandering and sowing the seeds of injustice toward him.

Moreover, every method has two aspects noumenon and phenomena. The quotation from the Sixth Patriarch is at the level of principle. We must also consider the phenomenal aspect of the path to liberation.

Let us restate the question. "Those who commit transgressions in the secular world seek refuge in temples and pagodas, where they cut their hair, become vegetarians, and keep the precepts, looking for a place of purity and tranquility in order to cultivate. Where do those living in temples and pagodas who transgress go to cultivate?" If we base ourselves only at the level of noumenon and follow the above reasoning, then can such actions as entering the monastic life, being vegetarian, and keeping the precepts, including Buddha, Sutra and Mantra Recitation as well as meditation, all be mistakes?

The Pure Land method is similar. In truth, people in the East do not recite the Buddha's name seeking rebirth in the West merely because they have committed transgressions; rather, they do so precisely to take advantage of the excellent conditions of that Land to cultivate and swiftly attain the level of No-Birth and liberation. This is also the goal pursued by those who have committed evil deeds but who now repent and recite the Buddha's name.

Moreover, the inhabitants of the Western Pure Land cannot commit transgressions because once reborn there, they are surrounded by Buddha Amitabha, Bodhisattvas and "morally superior beings." Around them are "birds singing the Dharma and music expounding the sutras," while they are free from such daily worries as food, clothing, disease, calamities, hatred and resentment. Thus, they can only progress along the path of cultivation. Where are the causes and conditions for creating bad karma?

In conclusion, we should understand the Sixth Patriarch's words as an explanation and exhortation based exclusively on pure noumenon or essence. We should not misunderstand them and use them to reject phenomena and marks. This being the case, Pure Land cultivators should redouble their efforts and practice to the point of emptiness of mind. Only then will they be in accord with the intent of the Patriarch.

Comments

Popular posts from this blog