Cần
Giải Thoát Ngay Trong Hiện Kiếp
Trong thời mạt pháp, nếu chỉ tu môn
khác không kiêm cầu Tịnh Độ, tất khó giải thoát ngay trong một đời. Nếu đời này không được giải thoát bị mê
trong nẻo luân hồi, thì tất cả tâm nguyện sẽ thành hư tưởng. Đây là sự kiện
thiết yếu thứ hai, mà hành giả cần lưu ý.
Các hành giả tu theo những pháp môn
khác, duy trọng về tự lực, lập tâm trường cửu, quan niệm mỗi đời cứ tiến tu, dù
đời này không được giải thoát, trong những kiếp sau cũng sẽ thành đạo. Nhưng có
một điều cần để ý, là liệu đời sau sẽ được bảo đảm chắc chắn cho ta tiếp tục tu
nữa chăng? Bởi khi chưa là bậc đắc đạo, lúc chuyển sanh tất phải hôn mê, dễ
quên tâm nguyện tu hành kiếp trước. Nơi cảnh trần duyên tiến đạo thì ít, duyên
thối đạo lại nhiều. Biết bao vị xuất gia lúc chuyển sanh không thể tiến tu, như
các sự tích đã lược trần trong chương thứ nhứt.
Kinh nói:
"Bồ
Tát còn mê khi cách ấm,
Thanh
Văn còn muội lúc ra thai."
"Cách
ấm" là trải cách từ ấm thân này sang ấm
thân khác. Như thân hiện tại là tiền ấm, chuyển sanh thân kiếp sau gọi là hậu
ấm; trải qua sự xen cách từ thân trước đến thân sau như thế, bậc Bồ Tát chưa
đắc đạo phải bị hôn mê.
Trong kinh, có nơi khác lại nói:
"Hạng phàm thường khi nhập thai, trụ thai và xuất thai đều hôn mê. Bậc
Chuyển Luân Thánh Vương do phước báo, lúc nhập thai thì biết, khi trụ thai,
xuất thai phải bị hôn mê. Hàng Thanh Văn lúc nhập thai, trụ thai đều có thể
tỉnh biết, song khi xuất thai lại hôn mê.
Duy có bậc Bồ Tát chứng Vô Sanh Nhẫn, lúc nhập thai, trụ thai và xuất thai đều
tỉnh giác."
Đôi khi hạng phàm phu do nghiệp duyên
đặc biệt cũng nhớ được kiếp trước, nhưng đây chỉ là trường hợp ít có trong muôn
một. Hoặc đó là Bồ Tát thị hiện để cho chúng sanh biết có luân hồi, ngoài ra
tất cả khi chuyển sanh đều bị mê muội. Khi đã hôn mê, thì bao nhiêu sự hiểu
biết về đạo lý và những tâm nguyện nơi kiếp trước, đều vì vô minh che lấp khiến
cho lãng quên.
Duyệt qua chỗ kiến văn, bút giả từng
nghe có vị thuật lại, lúc trẻ tuổi mỗi khi nằm mơ thấy mình bay tự do cao vút
đi khắp mọi nơi; tuổi càng lớn lại thấy bay thấp lần lần, sau không còn bay
được nữa. Trong quyển Phật
Học Chỉ Nam, có kể chuyện ông Viên Thủ Đồng, người
ở đất Trường Sơn bên Trung Hoa, lúc bốn, năm tuổi, trong đêm tối thấy rõ rệt
các vật như ban ngày. Mấy năm kế, sự thấy mờ giảm lần. Từ mười tuổi trở lên,
ông không còn thấy nữa, chỉ đôi khi nửa đêm thức dậy ngẫu nhiên thấy rõ được
trong giây lát. Khoảng mười bảy tuổi về sau, hai ba năm mới thấy một lần, nhưng
chỉ lóe sáng lên rồi liền tắt mất.
Những vị này kiếp trước đều có tu
nhưng khi chuyển thế bị mê đi, kế đó trần nhiễm càng sâu, thần minh càng tiêu
giảm. Có những vị như vị Thiên Đại Hạc Tử ở Nhựt Bản, Ngụy Tịch Phủ ở Trung
Hoa, ngồi một nơi thấy rõ những vật xung quanh cách xa đến mấy mươi dặm. Có
nhiều người thấy được vật dưới đất, sự việc cách tường vách, hoặc đồ để trong
túi của quần chúng, mà thế gian gọi là “thiên
nhãn”, nhưng họ không chịu tu. Bởi thế lần lần sự thấy suy giảm, kết cuộc
cũng như thường nhơn.
Lại có những vị xem sách một lần rồi
gấp lại đọc thuộc lòng không sai một chữ, hoặc văn tài mau lẹ xuống bút thành
phú, mở miệng thành thi, nhưng không chịu tu hành, đôi khi trở lại bài bác đạo
Phật. Cổ đức bình luận những người sau này, kiếp trước tu Thiền định đến trình
độ khá cao, đã có chỗ sở đắc. Nhưng bởi
những vị hành trì theo Tông môn chỉ nhận ngay tự tâm, phá trừ Phật kiến,
Pháp kiến, nghĩa là để tâm rỗng không chẳng thấy có Phật và Pháp; nên khi chưa
chứng đạo phải chuyển sanh trở lại, duy bằng cứ vào sự thông minh của mình,
không ưa thích đạo Phật. Các bậc xưa còn như thế, người tu hiện tại sở đắc
phỏng có là bao?
Như lời Phật huyền ký: "Đời mạt pháp người tu thì nhiều
nhưng khó có ai đắc đạo." Mà khi chưa chứng đạo, nếu còn nghiệp
lực nhỏ như sợi tơ cũng bị luân hồi. Dù có một vài vị ngộ đạo, nhưng ngộ chưa
phải là chứng, chỉ do sức Ðịnh chế phục nghiệp thức khiến cho lắng đọng lại,
nên tạm được khai tâm, lúc chuyển sanh vẫn còn bị hôn mê không được tự tại. Đến
kiếp sau, duyên tiến đạo thì ít cảnh thối đạo lại nhiều, nguyện giải thoát đã
thấy khó bảo toàn chắc chắn. Về sự ngộ đạo còn bị thối thất, cổ đức đã có ba
điều thí dụ:
Điều
thứ nhất: như dùng tảng đá đè lên cỏ dại, cỏ
tuy không mọc được nhưng củ nó chưa hư thúi, nếu gặp duyên khác tảng đá bị lật
lên, cỏ vẫn mọc lại như cũ.
Điều
thứ hai: như lóng nước trong chum, bùn tuy
lắng xuống nằm yên tận đáy, nhưng khi chưa gạn lọc ra được, gặp duyên khuấy
động, bùn lại nổi lên.
Điều
thứ ba: như đồ gốm tuy nắn thành hình, nhưng
chưa trải qua một phen nung lại cho chắc, gặp mưa xuống tất phải bị tan rã.
Trạng huống ngộ đạo khi chuyển sanh dễ bị thối thất, cũng lại như thế.
Đời mạt pháp, người tu có mấy ai ngộ
đạo? Ngộ đạo không phải là dễ. Như thuở xưa, Hương Lâm thiền sư dụng tử công
phu trong bốn mươi năm mới dung luyện thành một khối. Ngài Trường Khánh Nhàn ngồi
rách mười mấy chiếc bồ đoàn mới được thấy tánh bản lai. Người đời nay, trừ một
vài vị Thánh Nhơn ứng thân thị hiện để làm mô phạm cho quần chúng, ngoài ra các
vị khác tu Thiền, chỉ tạm được thân tâm an tĩnh hoặc thấy thiện cảnh giới là
cùng! Dù đã ngộ đạo, khi chuyển sanh vẫn còn có thể bị chướng nạn như những
điều đã kể trên. Đường sanh tử có nhiều nguy hiểm đáng e ngại với kẻ chưa đắc
đạo là thế. Cho nên nếu bảo không sợ sanh tử, đó là chỉ lối suy tư của người
thiển cận mà thôi.
Hơn nữa, hiện tại chánh pháp đã lần
lần ẩn diệt, trên thế giới, nơi nào ảnh hưởng duy vật tràn đến là đạo Phật
không còn. Đã có nhiều nơi chùa chiền bị hủy phá, kinh sách bị thiêu đốt, tăng
ni phải hoàn tục, hàng thiện tín không được tu. Dù cho ngày kia có được phục
hồi, cũng phải bị biến thể và tiêu hao một phần lớn. Mong chuyển sanh để tiếp
tục tu hành với một nền đạo suy tàn, thiếu bậc cao tăng dìu dắt, lấy đâu làm
duyên tốt tiến đạo để giải thoát trong tương lai? Cho nên muốn bảo đảm tâm Bồ
Đề không bị thối thất, phải tu Tịnh Độ. Dù tu các môn khác cũng nên kiêm niệm
Phật phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc.
Đây là
lời khuyến tấn chung của các bậc tiên đức, như các ngài: Liên Trì, Ngẫu Ích,
Kiên Mật, Ấn Quang.
The Need to Seek Liberation in this
Very Life
In this Dharma-Ending
Age, if we practice other methods without following Pure Land at the same time,
it is difficult to attain emancipation in this very lifetime. If emancipation is not achieved in this
lifetime, deluded as we are on the path of Birth and Death, all of our crucial
vows will become empty thoughts. This is the second cardinal point which
the cultivator should keep in mind.
Those
practitioners who follow other schools, stressing only self-help and a firm,
never-changing mind, believe that we should just pursue our cultivation life
after life. Even if we do not achieve emancipation in this life, we shall
certainly do so in a future lifetime. However, there is one thing we should
consider: Do we have any firm assurances that in the next lifetime, we will
continue cultivating? For, if we have not yet attained Enlightenment, we are
bound to be deluded upon rebirth, easily forgetting the vow to cultivate which
we made in our previous lifetimes. Moreover, in this world conditions favoring
progress in the Way are few, while the opportunities for retrogression are
many. How many monks and nuns have failed to pursue their cultivation upon
rebirth, as in the examples summarized in the first chapter?
The sutras state:
Even Bodhisattvas are deluded in the bardo
stage,
Even Sravakas are deluded at birth.
Bardo is the
intermediate stage between death and rebirth ... In the interval between the
end of this current life and the beginning of the next life, even Bodhisattvas
are subject to delusion, if they have not yet attained Enlightenment.
Another passage in
the sutras states:
“Common mortals
are confused and deluded when they enter the womb, reside in the womb, and exit
from the womb. Celestial kings, thanks to their merits, are awake upon entering
the womb, but are confused and deluded when residing in or exiting from the
womb. Sravakas are awake when they enter and reside in the womb; however, they
are confused and deluded when they exit from the womb. Only those Bodhisattvas who have attained the Tolerance of Non-Birth
are always awake -- entering, residing in, and exiting from the womb”.
In a few
instances, ordinary people, because of special karmic conditions, are able to
remember their previous lives, but these are very rare occurrences. Or else,
they could be Bodhisattvas who took human form in order to demonstrate the
existence of transmigration to sentient beings. Otherwise, all sentient beings
are deluded when they pass from one life to another. When they are in such a
state, all their knowledge of the Dharma and their great vows from previous
lives are hidden by delusion and often forgotten.
This author
recalls the story of a Dharma colleague. In his youth, each time he happened to
be dreaming, he would see himself floating freely, high up in the air, traveling
everywhere. As he grew older, he could only float lower and lower, until he
could no longer float at all. In the commentary Guide to
Buddhism, there is the story of a layman who, at the age of four or
five, could see everything by night as clearly as in the daytime. As the years
went by, this faculty diminished. From the age of ten onward, he could no
longer see in the dark, except that from time to time, if he happened to wake
up in the middle of the night, he might see clearly for a few seconds. After
his seventeenth birthday, he could experience this special faculty only once
every two or three years; however, his special sight would be merely a flash
before dying out. Such persons had cultivated in their previous lives. However,
when they were reborn on this earth they became deluded, and then, as their
attachments grew deeper, their special faculties diminished.
There are similar
cases of persons who can see everything clearly for a few dozen miles around
them. Others can see things underground, through walls, or in people's pockets.
However, if they do not pursue cultivation, their special faculties diminish
with time and, in the end, they become just like everyone else. Some persons,
having read a book once, can close it and recite every line without a single
mistake. Others have a special gift for poetry, so that whatever they say or
write turns poetic. However, if they do not pursue cultivation, they sometimes
end by rejecting the Dharma.
An eminent Master
once commented that such persons had practiced meditation in their previous
lives to a rather high level and reached a certain degree of attainment. However, following the Zen tradition, they
sought only immediate awakening to the True Nature, severing attachment to the
concepts of Buddha and Dharma (i.e., letting the mind be empty, recognizing
no Buddha and no Dharma). Therefore, those who failed to attain Enlightenment were
bound to undergo rebirth in the Triple Realm, whereupon, relying on their
mundane intelligence, they sometimes became critical of Buddhism. Even true
cultivators in the past were thus; how would today's practitioners fare
compared to them?
As Buddha
Sakyamuni predicted, "In the
Dharma-Ending Age, cultivators are numerous, but those who can achieve Supreme
Enlightenment are few." And, not having achieved it, even with bad karma as light as a fine
silk thread, they are subject to Birth and Death. Although there may be a few
cultivators who have awakened to the Way, being awakened is different from
attaining Supreme Enlightenment. During rebirth, they are bound to be deluded
and unfree. In subsequent lifetimes, there may be few conditions for progress
and many opportunities for retrogression, making it difficult to preserve the
vow of liberation intact.
Concerning the
retrogression of practitioners who have merely experienced Awakening, the
ancients have provided three analogies:
1) When we crush prairie grass with a stone block, though the grass cannot
grow, its roots are not yet rotten or destroyed. If conditions arise that cause
the stone to be overturned, the grass will continue to grow as before.
2) When we pour water into a jar, though the impurities are deposited at
the very bottom, they are not yet filtered out. If conditions change and the
water is stirred up, the impurities will rise.
3) Take the case of clay which is molded into earthenware but not yet
fired in a kiln. If it should rain, the earthenware would certainly
disintegrate.
The strong
probability that those who have merely experienced an Awakening will retrogress
during transmigration is similar to the above examples.
Furthermore, in
the Dharma-Ending Age, how many cultivators can claim to be awakened to the
Way? Awakening to the Way is not easy. There was once a Zen Master who
practiced with all his might for forty years before he succeeded. Another Great
Master sat for so long that he wore out more than a dozen meditation cushions
before he saw his Original Nature. As far as today's Zen practitioners are
concerned (with the exception of a few saints who have taken human form to
teach sentient beings), the majority only manage to achieve a temporary calming
of the mind and body; at most they may witness a few auspicious realms! Even if
they have awakened to the Way, they can still encounter dangerous obstacles during
transmigration, as previously described. The path of Birth and Death, filled
with fearful dangers for those who have not attained Enlightenment, is the
same. Therefore, to claim that we should not fear Birth and Death is a
superficial point of view.
Furthermore, over
the centuries, the Dharma has met with difficulties in some parts of the world.
Wherever materialism has spread, Buddhism has come under criticism. There are
places where temples and pagodas have been destroyed, sutras and commentaries burned,
monks and nuns forcibly returned to lay life, and common citizens barred from
practicing their faith.
Even if Buddhism
is revived later on, it will have undergone changes and possibly lost some of
its vitality ... For this reason, we should follow the Pure Land School, to
ensure non-retrogression of the Bodhi Mind. Even if we follow other schools we
should, at the same time, practice Buddha Recitation seeking rebirth in the
Land of Ultimate Bliss.
This is the common
exhortation of such eminent sages as Masters Lien Ch'ih, Ou I, Chien Mi and Yin
Kuang.
Comments
Post a Comment