TƯỞNG NIỆM CỐ HÒA THƯỢNG THIỀN TÂM
(21-11-92 ÂL), LẦN THỨ 32 (21-12-2024 DL.)
Nhất tâm kính lễ Thập Phương Pháp Giới Thường Trụ Tam Bảo (3 lễ)
Nhất tâm kính lễ Tu Di Đăng Vương Phật (1 lễ)
Nhất tâm kính lễ Bảo Vương Phật (1 lễ)
Nhất tâm kính lễ Bảo Thắng Phật (1 lễ)
Nhất tâm kính lễ A Di Đà Phật (1 lễ)
Nhất tâm kính lễ Tỳ Bà Thi Phật (1 lễ)
Nhất tâm kính lễ Đa Bảo Phật (1 lễ)
Nhất tâm kính lễ Thích Ca Mâu Ni Phật (1 lễ)
Nhất tâm kính lễ Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật cập Thập Nhị Bộ Tôn Kinh. (1 lễ)
Nhất tâm kính lễ Thập Phương Chư Đại Bồ Tát Ma-ha tát. (1 lễ)
NGHI THỨC TRÌ TỤNG
Nam mô Đại Thông Phương Quảng Hội Thượng Phật Bồ Tát. ( 3 lần )
Lò trầm vừa nóng
Pháp giới hương xông
Mười phương hải hội Phật xa thông
Tùy chỗ kết mây lành
Lòng thành khẩn mong
Chư Phật hiện hư không
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần )
Vô Thượng cao siêu pháp rộng sâu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay Con nghe thấy xin trì tụng
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. ( 3 lần )
KINH ĐẠI THÔNG PHƯƠNG QUẢNG SÁM HỐI
DIỆT TỘI TRANG NGHIÊM THÀNH PHẬT
QUYỂN HẠ
Bấy giờ trong Pháp hội, Tín tướng Bồ Tát vì tất cả chúng sanh và chính mình, hỏi danh hiệu chư Phật. Do nhân duyên đó, sau khi Đức Thích Ca Mâu ni tuyên xướng hồng danh chư Phật trong mười phương ba đời cùng mười hai phần Kinh và Đại Bồ Tát Tăng xong, lại muốn nói tiếng pháp đại Sư Tử Hống. Sư Tử Hống gọi là quyết định thuyết. Quyết định thuyết tức là nói rõ Như Lai thường trú không diệt, nói tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh, Thiên ma nghe nói sợ hãi, ngoại đạo đều quy phục.
Khi ấy Như Lai phóng ánh sáng lớn, hiện tướng lưỡi rộng dài trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới. Tất cả các cõi đều rúng động sáu cách. Sáu cách chấn động ấy là : phương Đông nổi phương Tây chìm, phương Tây nổi phương Đông chìm, phương Nam nổi phương Bắc chìm, phương Bắc nổi phương Nam chìm, chính giữa nổi bốn bên chìm, bốn bên nổi chính giữa chìm. Đó gọi là sáu cách rung động của các thê giới. Từ nơi lưỡi Đức Thế Tôn phóng đại quang minh, ánh sáng rộng lớn soi khắp mọi nơi. Ánh sáng rộng lớn soi khắp ấy nêu ý : chuyển vô thường thành chân thường, chuyển bất tịnh thành chân tịnh, chuyển khổ trở thành vui, chuyển vô minh trở thành minh giác.
Bấy giờ hào quang của Phật soi tới đâu, tất cả núi rừng, đất đai, sông ngòi, biển cả, núi Thiết Vi, địa ngục, chỗ cao chỗ thấp đều trở nên bằng phẳng tinh sạch, dứt hết mọi sự nhơ ác, cũng như thế giới Thanh Tịnh Trang Nghiêm Mãn Nguyệt ở phương Đông.
Khi ấy chư Phật phân thân của Đức Thích Ca từ hư không xuất hiện bay xuống như mưa hoa, từ đất vượt lên như cây mọc, đầy khắp hư không chẳng nơi nào trống hở. Lúc đó các Đức Phật phân thân đồng thanh nói : “ Như Lai thường còn chẳng diệt. Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh. Tất cả các pháp đều quy chân không. Muôn hạnh đều về Nhứt Thừa !” Tất cả chúng hội đều nghe thấy việc đó. Chư Phật nói xong, bổng đều ẩn mất chỉ thấy Đức Thích Ca ngồi nơi bản tòa.
Lúc ấy tất cả đại chúng đều được thấy chư phân thân Phật. Sở dĩ được thấy là do sự oai thần của Đức Thích Ca Mâu Ni. Khi Đức Thế Tôn hiện sức thần thông oai đức, trong chúng có bốn mươi hằng hà sa Bồ Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Tám mươi muôn Thanh Văn phát tâm Đại Thừa. Mười ngàn Tỳ Kheo Ni đắc quả A Na Hàm. Bốn ức Ưu Bà Tắc chứng quả Tư Đà Hàm. Mười ức Ưu Bà Di đắc quả Tu Đà Hoàn. Vô lượng trời người được Pháp Nhãn Tịnh, tự biết đời trước của mình và biết tất cả các pháp hữu vi thảy đều vô thường.
Bấy giờ Sư Tử Hống Bồ Tát Ma Ha Tát ở trong đại chúng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, lễ kính nơi chân Phật và thưa rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn ! Như trước Thế Tôn đã nói : Nghe danh hiệu Phật được diệt tội, nghe danh hiệu Pháp được diệt tội, nghe danh hiệu Tăng cũng được diệt tội. Đó là do sức công đức của Phật, của Pháp và của Tăng. Vì Phật lực nên cầu Phật, vì Pháp lực nên cầu Pháp, vì Tăng lực nên cầu Tăng. Thế Tôn trước nói chỉ có Nhứt Thừa, nay sao lại phải cầu đến ba ? Chúng sanh thấy có ba, Phật còn tự nói có ba ngôi huống chi là chúng sanh.”
Đức Phật bảo Sư Tử Hống Bồ Tát Ma Ha Tát rằng : “ Lành thay ! Lành thay ! Ông hỏi ngĩa ấy rất có lợi ích cho chúng sanh. Vậy hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông mà giải nói rành rẽ.
Nầy thiện nam tử ! chẳng những Phật lực mà Pháp lực và Tăng lực đều là chúng lực. Phật là chỗ chúng sanh quy y, như nương về cha mẹ. Bồ Tát Tăng là những bậc tri thức chứng minh. Đức con mê chúng sanh, nếu tỉnh ngộ, sẽ tự sanh chán lìa, niệm cầu Tam Bảo. Sức niệm lâu ngày càng nhiều, cầu ra khỏi biển cả phiền não của ba cõi. Kinh Phương Quảng là chiếc thuyền lớn để đưa chúng sanh vượt qua biển ấy.
Thiện nam tử ! Phật tức là Pháp, Pháp tức là Tăng, Tăng tức là vô vi, vô vi tức là không, vô vi không tức là chân không. Trong không, ngoài không, lớn không, nhỏ không, đều về nơi Nhứt Không, chẳng có cái không nào khác biệt.
Thiện nam tử ! Như lời ông đã hỏi, nên cầu một, cần gì phải cầu ba ? Này thiện nam tử ! Ví như có một người sợ hãi hư không, đi khắp các nơi tìm chỗ ẩn thân, vẫn chẳng thoát khỏi hư không. Thiện nam tử ! Chư Phật mười phương và Ta tuy nói nhân duyên muôn pháp lành, cho đến Tam Bảo cùng Tam Thừa, thật ra vẫn chỉ có một ! Lời thuyết giáo trước, giữ và sau đều thiện, vì tất cả chúng sanh mà tùy cơ phương tiện, phân biệt nói thành ba. Thế cho nên gọi là Nhứt Tướng Tam Bảo !”
Sư Tử Hống Bồ Tát thưa rằng : “ Hay thật ! Hay thật ! Đúng như lời Đức Thế Tôn chỉ dạy, con đã biết từ lâu, nhưng vì chúng sanh mới hỏi việc như thế.
Bạch Đức Thế Tôn ! Thật đúng như Thánh Giáo, các pháp về một, không hai không ba. Thế nên Kinh Phương Quảng là mẹ chư Phật, là đạo lớn của Bồ Tát, là mắt sáng của chúng sanh, dẫn dắt người tà kiến, cứu hộ kẻ mất tâm, dứt ba đường ác, mở cửa Vô Thượng Bồ Đề, đưa các hàng Thanh Văn đến ngôi Đại Thừa cực quả. Nay con xin nói môn Đại Đà Ra Ni, để cho hành giả được sự thủ hộ, tịnh trì giới hạnh, tu học kinh nầy. Nếu kẻ nào tin ưa kính trọng Kinh Đại Thông Phương Quảng, lập nguyện tu hành bảy ngày, như ác ma muốn đến làm não loạn, con sẽ khiến cho chúng không được tùy tâm tự tiện. Bạch Đức Thế Tôn ! Con xin hộ trì Kinh nầy khiến trụ lâu nơi đời, cho đến khi hành giả chứng tận Bồ Đề Tánh!”
Phật dạy : “ Thiện nam tử ! Ông hộ trì kinh này tức là hộ trì Tam Bảo, cũng ủng hộ cho người hành giáo.”
Khi đó Sư Tử Hống Bồ Tát liền ở trước Phật nói chân ngôn nầy :
“ Nam mô Buýt đà, nam mô Đạt ma, nam mô Săng già. A đàn địa, đà ra ni, đá đà ha. A già sà ni bà, tỳ tát bà đạt ma. Ni bà tỳ y xá na, đa tỳ bà xá na. Tỳ ma la, tu bát ly đạt ma ni, dà na bà lâu ni. Xoa dạ đa, ma lệ, giá lệ. Hu lu, hu lu, sư bệ đế. Mạn đá la, mạn đá la. Sóa ha.”
Chân ngôn nên mỗi lần nên tụng một trăm biến và nhiễu bảy vòng. Hành trị bảy ngày như thế, mỗi ngày ba thời. Trong bảy ngày không niệm kinh nào khác, duy để tâm nơi Phương Quảng, và không nghĩ đến cảnh chi khác.
Bạch Đức Thế Tôn ! Đà Ra Ni này tám trăm muôn ức chư Phật đã nói, nay con trùng tuyên lại, nếu kẻ nào phỉ báng chân ngôn này tức là phỉ báng chư Phật Như Lai. Đã phỉ báng chân ngôn này, thì đời đời không thành đạo, không ra khỏi ba cõi. Tại sao thế ? Vì chân ngôn này hay khiến cho kẻ mất tâm được hoàn lại bổn tâm. Kẻ nào được nghe Đà Ra Ni nầy qua một lần, hãy nên biên chép, tự giữ các giới, không uống rượu ăn thịt, xa lìa sự đùa cợt, không vào quán chợ, thường hành tâm đại từ, và quý việc tọa thiền. Kẻ đó từ vô lượng kiếp cho đến nay, dù có ba chướng tội nặng, khi nghe chân ngôn này rồi chí tâm thọ trì, hằng ngày đọc tụng không quên và giữ giới hạnh như thế, sẽ mau chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, không còn bị đọa Tam Đồ nữa !
Đức Phật bảo Sư Tử Hống Bồ Tát : “ Lành thay ! Thiện nam tử ! Ông hay hộ trì ngôi Tam Bảo, thương nghĩ đến tất cả chúng sanh, muốn khiến cho thoát ly ba cõi, nên nói ra chân ngôn như thế. Ông thuyết chú này làm lợi ích lớn cho vô lượng học nhơn, phá trừ tà kiến, mở mang chánh đạo. Thiện nam tử ! Tất cả chúng sanh nếu kẻ nào nghe thấy danh hiệu ông và âm thanh của chân ngôn nầy, kính tin chẳng khinh hủy, sẽ được nhiều lợi ích. Người ấy hiện đời an ổn, đến khi mạng chung thường thấy chư Phật, cũng được thấy Ta, thấy thân ông cùng chư Bồ Tát. Kẻ đó tự biết mình sẽ được thành Phật, quyết định không còn nghi. Tất cả nhân duyên thấy Phật Tánh, trước tiên đều do lòng tin thanh tịnh, kế đó trừ bỏ hết điều ác, tu tập muôn hạnh lành, và cuối cùng sẽ thành Phật đạo !”
Đức Phật lại bảo : “ Sau khi Ta diệt độ, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nào, hoặc một ngày, hoặc một đêm, hoặc một thời, hoặc một niệm, lễ bái chư Phật mười phương ba đời, mười hai phần kinh, chư Đại Bồ Tát, tâm niệm Đại Thừa, suy nghĩ Đệ Nhứt Nghĩa. Người đó trong một niệm bằng khoảng khảy ngón tay, tất cả Thập Ác, Ngũ Nghịch, và báng Kinh Phương Đằng đều được tiêu trừ. Nếu có hàng Bồ Tát, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, hoặc mất bổn tâm, hoặc phạm tội Tứ Trọng, Bát Cấm, Lục Trọng, Thập Ác, Ngũ Nghịch, như sanh lòng tin lễ bái danh hiệu chư Phật mười phương ba đời, thì những nghiệp ấc ấy được tiêu diệt hết, không còn mảy may.”
Đức Thế Tôn vừa nói xong, khi ấy có Thiện Kiến Vương Tử cùng với đồng bạn ba ngàn vị, từ cõi Phật Định Quang trong giây phút bổng hiện đến trước Như Lai, kính lễ nơi chân, đồng thanh thưa rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn ! Chúng con từ vô lượng kiếp tới nay, tạo nhiều nghiệp ác, nói không thể xiết ! Hoặc phạm Thập ác, Ngũ nghịch, hoặc báng Kinh Phương Đẳng, hoặc tạo vô lượng a tăng kỳ tội. Nguyện xin nương nhờ sức oai đức của Như Lai, mười hai phần kinh, cùng chư Bồ Tát, tỏ bày cầu sám hối. Ngưỡng mong Đức Thế Tôn hứa nhận cho chúng con !”
Phật dạy : “ Lành thay ! Lành thay ! Tâm sợ khó sanh, lòng thành khó phát. Muốn sám hối tội Thập ác, tội Ngũ nghịch, cho đến kẻ Xiển Đề muốn thấy Phật Tánh, đều phải nên như thế. Vậy các ông hãy tùy ý nói ra !”
Lúc đó Thiện Kiến Vương Tử cùng đồng bạn ba ngàn vị, nghe từ âm của Phật, chỉnh y phục, trệch áo vai bên mặt, gối hữu quì xuống đất, chắp tay thưa rằng :
Quỳ Gối Chắp Tay
Bạch Đức Thế Tôn ! Chúng con hôm nay quy mạng mười phương Phật, quy mạng mười phương Pháp, quy mạng mười phương Tăng. Sau xin cúi đầu quy mạng Đông phương A Súc Bệ Như Lai. Quy mạng Nam phương Bảo Tướng Như Lai. Quy mạng Tây phương A Di Đà Như Lai. Quy mạng Bắc phương Diệu Thắng Như Lai. Quy mạng Thượng phương Hương Tích Như Lai. Quy mạng Hạ phương Ức Tượng Như Lai. Quy mạng Đông phương Phổ Hiền Đại Sĩ. Quy mạng Nam phương Trì Thế Đại Sĩ. Quy mạng Tây phương Quán Âm Đại Sĩ. Quy mạng Bắc phương Mãn Nguyệt Đại Sĩ. Quy mạng Thượng phương Hư Không Đại Sĩ. Quy mạng Hạ phương Kiên Đức Đại Sĩ.
Lại xin cúi đầu quy mạng Bổn Sư Định Quang Như Lai. Quy mạng đương hội Đạo Tràng Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Quy mạng chư phân thân Hóa Phật ở khắp mười phương. Quy mạng bậc chứng Phật Tánh đời vị lai. Quy mạng Duy Ma Cật Đại Sĩ, Mạn Thù Thất Lỵ Đại Sĩ. Quy mạng A Nan Đà tôn giả, Ma ha Ca Diếp tôn giả. Quy mạng chư tôn đức xuất hiện từ đạo Thánh Nhơn. Quy mạng chư hữu giáo sơ tâm. Quy mạng Đại Tạng Thập Nhị Bộ Kinh. Quy mạng Đại Thừa Phương Đẳng Thánh Điển. Quy mạng chư dư kinh pháp. Quy mạng bát phần Phật Xá Lợi cập hình tượng. Quy mạng hiện hữu Phật sự.
Xin khể thủ Phậm, Thích Tôn Thiên. Khể thủ Đao Lợi tam thập tam thiên tôn Thiên. Khể thủ tứ phương Hộ Thế Tứ Vương Tôn Thiên. Khể thủ Hư không, Thiên thượng, Địa thượng, Địa hạ, Sơn lâm, Giang hải, Đại thọ, nhứt thiết thần tiên. Khể thủ chư hữu thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng, cập đại thần thông. Nguyện xin nghe biết và tác chứng minh. Nguyện tất cả chúng sanh nếu chưa sám hối đều được diệt tội. Nguyện tất cả chúng sanh cùng quì cúi đầu chắp tay, đồng thanh chí tâm sám hối :
Chúng con từ kiếp vô thỉ cho đến ngày nay, vì một niệm mê chân tánh, nên lạc theo dòng vô minh, trong nẻo luân hồi, cuồng dại loại tâm, khởi vô lượng đảo kiến cùng phiền não ác nghiệp, tạo vô biên tội không thể kể xiết ! Những tội ấy hoặc từ ba nghiệp sáu căn gây nên, hoặc tự mình làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy kẻ khác làm sanh lòng vui theo. Hoặc có tội biết, tội không tự biết. Hoặc có tội nhớ, tội không nhớ. Hoặc có tội nghi, tội không nghi. Hoặc có tội phát lồ, tội che dấu. Chúng con gây vô số tội như thế, phần nhiều mình chẳng tự hiểu, ác tâm càng thạnh, chỉ thấy hiện tại, không rõ qủ báo đời sau, xa lìa căn lành, gần thầy bạn xấu, bị ác nghiệp ngăn che, trôi theo tập quán phiền não. Ngày nay xin chí thành phát lồ sám hối.
Bạch Đức Thế Tôn ! Chúng con từ vô lượng kiếp cho đến nay vì cuồng dại si mê, đã gây tội hủy báng Tam Bảo, chúng con hoặc làm cho thân danh Như Lai bị tổn thương. Hoặc hủy phá thiêu đốt hình tượng Phật. Hoặc để lộ tượng Phật ngoài sương gió nắng mưa không che đậy. Hoặc để tượng Phật nơi phòng thấp, mình ở phòng cao. Hoặc để tượng Phật xung quanh, mình ở chính giữa. Hoặc dùng tay chân hay đồ vật chẳng sạch xúc chạm tượng Phật. Hoặc để hơi hôi nhơ xông vào chổ thờ Phật. Hoặc để thân mình lõa lồ trước hình tượng Phật. Cho đến tạo tất cả tội từ nghiệp thân, nghiệp miệng, nghiệp ý, hủy phạm Phật Bảo.
Đối với Pháp Bảo, chúng con hoặc phỉ báng Kinh Phương Đẳng Đại Thừa. Hoặc phỉ báng Kinh Điển Tam Thừa. Hoặc phỉ báng bậc pháp sư thuyết pháp. Hoặc chánh pháp nói phi pháp, phi pháp bảo là chánh pháp. Hoặc phá hoại thiêu hủy Tam Tạng Kinh Điển. Hoặc để Kinh Điển nơi chổ mưa dột nắng soi. Hoặc để Kinh Điển nơi chỗ không tôn kính. Hoặc dùng tay chân đồ vật không sạch xúc chạm, cùng để hơi hôi xông vào làm ô uế kinh Điển. Cho đến tạo tất cả tội từ nghiệp thân, nghiệp miệng, nghiệp ý, hủy phạm Pháp Bảo.
Đối với Tăng Bảo, chúng con hoặc hủy báng bậc Bồ Tát Thánh Tăng. Hoặc hủy báng bậc Duyên Giác Thánh Tăng. Hoặc hủy báng hàng Thanh Văn hữu học, vô học. Hoặc dùng lời thô ác phỉ báng Năm Bộ Tăng. Hoặc sai khiến, đày đọa, giam cầm, trói buôc Năm Chúng xuất gia. Cho đến tạo tất cả tội từ nghiệp thân, nghiệp miệng, nghiệp ý, hủy phạm Tăng Bảo.
Do những tội ác đã tạo như thế, ngày nay chúng con vô lượng hổ thẹn và sợ hải ! Nguyện xin quy y ngôi Tam Bảo : chư Phật từ bi, kinh Phương Đẳng Đại Thừa, chư Đại Bồ Tát cùng hàng Thiện Tri Thức, bậc cha mẹ. Xin nhận cho chúng con tỏ bày sám hối. Nguyện các tội nặng từ vô lượng kiếp sanh tử cho đến ngày nay thảy đều tiêu trừ. Nguyện từ đây về sau không còn dám tái phạm.
Bạch Đức Thế Tôn ! Chúng con từ vô lượng kiếp đến nay, cuồng dại si mê, đã tạo tội Tứ trọng. Về nghiệp dâm dật, chúng con hoặc làm việc phi pháp phạm hạnh không thanh tịnh đối với hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni. Hoặc phạm hạnh không thanh tịnh đối với năm chúng xuất gia cùng hai chúng tại gia. Hoặc phạm hạnh không thanh tịnh đối với cha mẹ, anh chị em, con cái, cùng hàng lục thân quyến thuộc. Hoặc phạm hạnh không thanh tịnh đối với các nam nữ trong loài người, hàng chư Thiên, quỷ thần, cho đến loài súc sanh. Hoặc phạm về các tội : nhân duyên, nghề nghiệp, cách thức dâm dật.
Về nghiệp sát hại, chúng con hoặc đã bậc Thánh Nhơn, sư tăng, cha mẹ, lục thân quyến thuộc. Hoặc giết hại từ loài người, các quỷ thần, hàng súc sanh, cho đến loài côn trùng lớn nhỏ. Hoặc tự sát, hay vì bảo vệ mình mà phạm nghiệp sát. Hoặc vì thù oán, ân ái mà phạm nghiệp sát. Hoặc giết những chúng sanh phát căn lành Bồ Đề. Hoặc vì giữ gìn quốc giới, hay tham chiếm đất đai, đem binh giết hại vô lượng chúng sanh. Hoặc săn bắn, chài lưới, bẫy rập, giết hại vô lượng chúng sanh. Hoặc đốt phá núi rừng giết hại vô lượng chúng sanh. Hoặc vì tham sự ăn uống mà giết hại vô lượng chúng sanh. Hoặc cày cuốc, nuôi tằm, ép dâu, làm những nghề nghiệp tổn hại đến các loài chúng sanh. Hoặc dùng dao gậy, thuốc độc, bùa chú, trù ếm, dùng các nhân duyên, các cách thức giết hại chúng sanh. Hoặc không có lòng từ bi, không để ý hộ mạng, làm tổn thương chết chóc những loài ruồi muỗi trùng kiến, cùng các sanh vật vi tế.
Vì nghiệp thâu đạo, chúng con hoặc trộm của Chiêu đề Tăng. Hoặc trộm của thập phương Tăng. Hoặc trộm của hiện tiền Tăng. Hoặc trộm của Ngũ bộ Tăng. Hoặc xâm tổn tài vật của một vị xuất gia, cho đến của tất cả đàn việt. Hoặc xâm phạm tài vật của loài người, hàng quỷ thần, kẻ giặc cướp, loại bàng sanh. Hoặc nghề trộm cướp, dùng các nhân duyên, cách thức để trộm cướp.
Về nghiệp đại vọng ngữ, chúng con vốn là phàm phu, chưa chứng chưa đắc, mà tự xưng mình đã chứng đắc. Hoặc tự xưng đắc pháp Thượng Nhân, đắc pháp Thánh Trí Thắng Pháp. Hoặc tự xưng mình chứng Tứ Thiền, Tứ Đạo Quả. Hoặc tự xưng chứng từ ngôi Sơ Địa cho đến quả vị Phật.
Trong bốn trọng tội trên, chúng con hoặc từ nghiệp thân, nghiệp miệng, nghiệp ý tạo ra sâu rộng vô biên. Cho nên ngày nay chúng con vô lượng hổ thiện và sợ hãi. Nguyện xin quy y ngôi Tam Bảo chư Phật, Kinh Phương Đẳng Đại Thừa, chư Đại Bồ Tát, cùng hàng Thiện tri thức, bậc cha mẹ. Xin nhận cho chúng con tỏ bày sám hối. Nguyện các tội nặng từ vô lượng kiếp sanh tử cho đến ngày nay thảy đều tiêu trừ. Nguyện từ đây về sau không còn dám tái phạm.
Bạch Đức Thế Tôn ! Lại nữa, chúng con từ vô lượng kiếp đến nay, vì cuồng dại si mê, đã tạo từ tội Ngũ nghịch cho đến tội Thất nghịch như : Ác tâm làm cho thân Phật ra huyết, giết hại bậc Thánh Nhơn, giết cha, giết mẹ, giết Hòa Thượng, giết A Xà Lê, phá hòa hợp tăng và chuyển luân tăng. Chúng con lại si cuồng gây ra tội Thập Ác, trong ấy về nghiệp thân chúng con đã tạo những tội : sát, đạo, dâm. Hoặc lại phạm các oai nghi lúc đi đứng nằm ngồi, khi hành động đối xử. Về nghiệp miệng, chúng con đã tạo các tội : nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói lời thô ác. Hoặc thật lời của Phật cho là lời ma, thật lời của ma cho là lời Phật. Hoặc tự khen ngợi khoe mình, chê bai phô bài tội lỗi của người. Hoặc nói những lời đùa cợt, lời vô nghĩa, vô ích. Hoặc thốt lời thị phi, luận bàn vô lượng ác nghiệp của thế gian. Về nghiệp ý, chúng con đã tạo những tội : tham dục, giận hờn, si mê. Hoặc hằng khởi tâm niệm : bỏn sẻn, ganh ghét, khinh mạn, tà kiến. Hoặc quý trọng sách vở thế gian, chẳng kính tin Tam Tạng Kinh Điển. Hoặc tin nhận thuyết của Lục sư. Hoặc chẳng ưa thích pháp Lục Độ từ bố thí cho đến trí huệ, chỉ tin theo pháp tà ngoại.
Do những tội đã tạo như thế, ngày nay chúng con vô lượng hổ thẹn và sợ hãi. Nguyện quy y ngôi Tam Bảo chư Phật từ bi, Kinh Phương Đẳng Đại Thừa, chư Đại Bồ Tát cùng hàng Thiện Tri Thức, bậc cha mẹ. Xin nhận cho chúng con tỏ bày sám hối. Nguyện các tội nặng từ vô lượng kiếp sanh tử cho đến ngày nay thảy đều tiêu trừ. Nguyện từ đây về sau không còn dám tái phạm.
Bạch Đức Thế Tôn ! Lại nữa, chúng con từ vô lượng kiếp đến nay, vì cuồng dại si mê, đã tạo nghiệp Xiển Đề thốt lời thô ác có tánh cách hủy diệt chánh pháp. Hoặc bảo Như Lai ngày nay vào Niết Bàn là mất hẳn. Hoặc bảo chư Phật vô thường, chánh Pháp vô thường, Tăng chúng vô thường. Hoặc nói không có Phật, không có Pháp, không có Tăng. Hoặc bảo tất cả chúng sanh không có Phật Tánh.
Chúng con lại si cuồng tạo nghiệp phá giới. Hoặc phá giới cấm của Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Hay phạm mười giới trọng cho đến bốn mươi tám giới khinh của Bồ Tát. Hoặc phạm các giới Thanh Văn như : Tứ Trọng, Bát Cấm, Lục Trọng, Mười ba Tăng Tàn, Hai Pháp Bất Định, Ba Mươi Xả Đọa, Chín Mươi Tội Đọa, Bốn Pháp Hướng Bỉ Hối, Một Trăm Học Pháp, Bảy Pháp Diệt Tránh. Hoặc phạm các giới của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na, Sa di, Sa di ni. Hoặc phạm Thập thiện giới, Bát quan trai giới, Ngũ giới. Trong những giới pháp nói trên, hoặc phạm mỗi mỗi tội từ giới trọng cho đến giới khinh. Hoặc phạm từ thiểu phần, đa phần, cho đến toàn phần các giới. Hoặc sanh niệm tham nhiễm chứa tám món bất tịnh. Hoặc sanh bốn đảo kiến như : Pháp Tứ Trọng nói là Du Lan Giới, pháp Du Lan Giới nói là Tứ Trọng, phạm nói chẳng phạm, chẳng phạm nói phạm, tội nhẹ nói tội nặng, tội nặng nói tội nhẹ, tịnh nói chẳng tịnh, chẳng tịnh nói tịnh, và trong các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác, phá giới, chúng con tự biết mình định tâm hủy phạm, mà lòng không có chút gì hổ thẹn sợ hãi. Chúng con lại chưa từng phát lộ, lặng yên nhận người lễ bái, nhận của cúng dường. Đối với sự tự tu, nơi miệng thì nói lời cao siêu vô trước vô ngại, nhưng thật hạnh lại ô nhiễm biếng trễ si mê. Đối với chánh pháp, lại không có tâm kiến lập hộ trì. Đối với sự tạo ác thì che đậy chẳng sám hối, ngày đêm tội càng tăng trưởng.
Chúng con từng nghe Phật nói : Nếu phạm Tứ trọng cho đến Ngũ nghịch, hoặc báng chánh pháp, như không tỏ bày sám hối, quyết định phải đọa địa ngục. Chư Phật Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, cho đến hàng sư tăng, cha mẹ, chư Thiên, thế nhơn, cũng không thể cứu vớt hộ trì. Vì thế ngày nay chúng con vô lượng hổ thẹn và sợ hãi ! Nguyện xin quy y ngôi Tam Bảo. Quy y Phật Đa Bảo đời quá khứ, ngàn vị Phật đời hiện tại, ngàn đức Phật đời vị lai. Quy y Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn cùng chư phân thân Hóa Phật vân tập lại nơi đây. Quy y chư Phật từ bi, Kinh Phương Đẳng Đại Thừa, Chư Đại Bồ Tát cùng hàng Thiện tri thức, bậc cha mẹ. Xin nhận cho chúng con tỏ bày sám hối. Nguyện các phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng, các nghiệp Tứ trọng, Vô gián, Thập ác, cùng các tội nặng từ vô lượng kiếp sanh tử cho đến ngày nay thảy đều tiêu trừ. Nguyện từ đây về sau không còn dám tái phạm.
Bạch Đức Thế Tôn ! Lại nữa, chúng con hôm nay vì tất cả loài hàm thức và chính thân mình, đối trước mười phương chư Phật cúi đầu sám hối. Tất cả chúng sanh và con từ vô lượng kiếp cho đến ngày nay, chẳng biết ân chư Phật, ân cha mẹ, ân bậc sư trưởng tri thức, ân các đàn tín chúng sanh, chẳng hiểu rõ pháp lành, làm mọi điều ác. Đã thế, lại còn ỷ mình hoặc dòng họ sang, hoặc nhiều tài bảo, hoặc sắc đẹp tuổi trẻ, buông lung làm nhiều nghiệp dữ, tùy ý tạo không biết tội lỗi. Hàng phạm phu mê tối, không có trí huệ, làm hạnh ngu si, gần gũi bạn ác, phiền não loạn tâm. Do duyên năm dục sanh lòng tham đắm giận hờn tạo nhiều tội lỗi, chẳng biết chán đủ. Lại bởi gần kẻ bất chánh cho nên tăng nghiệp tham lam, bỏ sẻn, ganh ghét. Lại vì nghèo thiếu khốn cùng, nên tạo nhiều điều ác, lấy nữ sắc và sự gian dối gây ác nghiệp, bị hệ thuộc nơi người, lòng thường sợ hãi, không được an vui. Do đó các phiền não tham sân si kết đọng làm nóng loại thân tâm, niệm khát ái thúc dục gây nhiều tội nơi thân miệng ý, ác nghiệp chồng chất. Những tội như thế, nay xin sám hối tất cả. Hoặc chẳng cung kính Phật, Pháp, Thánh Tăng, những tội như thế , nay xin sám hối tất cả. Bởi vô trí cho nên phỉ báng Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, phỉ báng chánh pháp chẳng biết cung kính cha mẹ sư trưởng, những tội như thế nay xin sám hối tất cả. Vì ngu mê che lấp nên kiêu mạn, buông lung, do tham sân si nên gây tạo ác nghiệp, những tội như thế nay xin sám hối tất cả.
Chúng con sám hối rồi, xin kính lễ cúng dường mười phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng. Nguyện tất cả chúng sanh trụ ngôi Thập Địa, đầy đủ chánh giác của Như Lai !
Đứng Lên Lễ 1 Lạy
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Thiện Kiến Vương Tử cùng đồng bạn rằng : “ Lành thay ! Lành thay ! Đại Sĩ ! Đại Sĩ ! Các ông xét nghĩ thân mình chẳng lành, đã gây nghiệp ác, mà sanh lòng sợ hãi, lại vì chúng sanh sám hối các lỗi lầm. Như thế mới đáng gọi là bậc Đại Sĩ. Các ông tự mình xa lìa nghiệp ác, lại khiến cho chúng sanh xa lìa nghiệp ác, vì thế cho nên đáng gọi là những bậc chân Đại Sĩ. Chẳng nguyện cho mình trước, lại nguyện cho chúng sanh được thành Chánh giác trước, vì thế đáng gọi các ông là những bậc chân Đại Sĩ, chân Đại Sĩ !”
Khi đó Thiện Kiến Vương Tử cùng với đồng bạn sám hối xong đồng thanh đọc bài kệ khen Phật rằng :
Duy Phật một ngôi, bậc Đệ Nhứt
Cha mẹ ba cõi, Nhứt Thiết Trí
Thế, xuất thế gian không ai bằng
Kính lạy Thế Tôn, bậc khó sánh
Phạm phu ra ơn vì lợi mình
Cầu phước đem của ra bố thí
Phật đại từ bi, không việc ấy
Oan, thân, lành, dữ, lợi đồng đều
Đại Tinh Tấn Tôn, con quy mạng
Phật lưỡng túc tôn, ngôi tối thượng
Trí huệ nhãn tôn, thấy biết khắp
Chư Thiên chẳng hiểu trí huệ nầy
Quá hiện vị lai, mười phương Phật
Tát cả con đều cung kính lễ
Như vậy chúng con quy kính Phật
Cũng như quy kính hai Thế Tôn !
Bấy giờ mười phương chư Phật, liền vì Thiện Kiến Vương Tử và đồng bạn ba ngàn vị, nói kệ khuyên dạy rằng :
Nếu muốn cầu Phật đạo
Thường theo người đa văn
Như thờ thiện tướng sư
Chẳng bao lâu thành Phật.
Nếu giữ giói thanh tịnh
Mới thật là Tỳ Kheo
Nếu người hay quán không
Gọi là đắc Tam Muội
Nếu như hay tinh tấn
Mới gọi người hành đạo
Nếu chứng được Niết Bàn
Mới là vui chân thật
Đại Sa Môn giữ giới
Đại giới thanh tịnh Ni
Nửa thánh thường Bồ Tát
Kết tịnh hạnh khất thực
Khoác áo Tăng Già Lê
Y bát mang theo mình
Chư Thiên đều hoan hỷ
Chắp tay cung kính lễ
Ta khiến chư Thiên, nhơn
Thường làm người hầu hạ
Cũng như chư Thiên nhỏ
Kính thờ Thiên Đế Thích
Ngày nay được hiện báo
Tương lai chẳng thể lường
Xuất gia giữ cấm giới
Ấy là báo ân Phật.
Lại nữa Thiện Kiến Vương
Trừ Ta và Bồ Tát
Tất cả người thế gian
Nếu lòng tin thanh tịnh
Biết rõ mười phương Phật
Thường trú chẳng Niết Bàn
Pháp, Tăng cũng như vậy
Những người được như thế
Ấy là báo ân Phật.
Lại nữa Thiện Kiến Vương
Tâm không tướng phân biệt
Biết suốt đạo Nhứt Thừa
Mười phương và ba đời
Chỉ có một Phật Thừa
Không hai cũng không ba
Nếu hay phát ý đó
Chính là báo ân Phật.
Lại nữa Thiện Kiến Vương
Sau khi Ta diệt độ
Nếu như có kẻ nào
Thường sanh lòng tin hiểu
Bảo rằng các chúng sanh
Đều có Như Lai Tánh
Những người như thế đó
Cũng là báo ân Phật
Nếu tu một niệm lành
Chẳng cầu phước báo trời
Hướng thẳng đạo Vô Thượng
Cũng là báo ân Phật.
Lại nữa Thiện Kiến Vương
Sau khi Ta diệt độ
Nếu như có kẻ nào
Giây phúc đọc kinh nầy
Kính trọng Phật, Pháp, Tăng
Hiếu thuận cùng Sư trưởng
Những người như thế đó
Cũng là báo ân Phật.
Nếu người xả tiền của
Thức uống ăn áo mặc
Thí dâng khắp đại chúng
Cũng là báo ân Phật
Lại nữa Thiện Kiến Vương
Trong đời mạt pháp Ta
Nếu khuyên được một người
Giây phút nghe kinh nầy
Còn hơn phước cúng dường
Trăm ức Bồ Tát chúng.
Thế nên Kinh Đại Thừa
Là mẹ Phật, Bồ Tát
Niệm Phật quý kinh nầy
Tôn trọng chư Bồ Tát
Bình tâm không kia đây
Cũng là báo ân Phật.
Lại nữa Thiện Kiến Vương
Đời mạt pháp kẻ nào
Nếu muốn báo ân Phật
Giữ một niệm trong định
Hơn bố thí chúng sanh
Đầy khắp ba ngàn cõi.
Trái lại nếu kẻ nào
Báng thiền phá tối chúng
Tội đồng giết chúng sanh
Đầy khắp tam thiên giới.
Nếu thấy người tu thiện
Phỉ báng không chịu tin
Lìa dứt giống Tam Bảo
Chẳng gọi báo ân Phật !
Khi ấy Thiện Kiến Vương Tử cùng đồng bạn ba ngàn vị mong ân Phật dạy bảo xong, vui mừng kính lễ, lại thuyết kệ rằng :
Chúng con ngày hôm nay
Cúi đầu lễ quá khứ
Hiện tại và vị lai
Phật mười phương ba đời.
Lại cũng xin quy mạng
Thích Ca Mâu Ni Phật
Và kính lễ tám muôn
Bốn ngàn Bảo Pháp Tạng.
Lại cũng xin quy mạng
Tất cả kinh pháp khác.
Kính lễ thời quá khứ
Đức Duy Ma, Mạn Thù
Lại cũng xin quy mạng
Bậc đa văn, đại trí
A Nan, Xá Lợi Phật
Cùng các đại Thanh Văn.
Kính lễ bậc vô học
Chứng năm phần Pháp Thân.
Lại cũng xin quy mạng
Bậc sơ tâm mới học.
Chúng con kính lễ xong
Lại xin nói kệ tụng :
Phật bảo điều chi thật ?
Điều chi là chẳng thật ?
Thật cùng với chẳng thật
Cả hai không thể đắc.
Tướng chân thật như thế
Các pháp chẳng hý luận
Vì thương xót chúng sanh
Phương tiện chuyển pháp luân
Các thánh khắp nơi lại
Phật cũng bảo như thế
Thật tướng không khứ lai
Phật cũng thế chẳng khác
Chư Thánh nói như thật
Phật cũng nói như thật
Bởi thế gọi Phật là
Đa Đà A Già Độ.
Giáp nhẫn nhục bền chắc
Cung tinh tấn cứng mạnh
Tên trí huệ bén nhọn
Phá các giặc kiêu mạn
Đáng nhận nơi trời người
Tất cả sự cúng dường
Vì thế nên gọi Phật
Là A Ra Ha Đế.
Biết rõ thật tướng khổ
Cũng biết rõ nhân khổ
Biết rõ tướng khổ hết
Cũng biết đạo dứt khổ
Chân chánh hiểu bốn đế
Xác thật chẳng sai lầm
Cho nên trong mười phương
Hiệu Tam Miệu Tam Phật
Được Tam Minh mầu nhiệm
Hạnh thanh tịnh cũng đủ
Cho nên Thế Tôn hiệu
Bệ Sà Giá La Na
Hiểu biết tất cả pháp
Tự được đạo pháp mầu
Tùy thời phương tiện nói
Lòng nghĩ thương tất cả
Dứt trừ già, bệnh, chết
Khiến đến chỗ an ổn
Bởi thế nên gọi Phật
Hiệu là Tu Già Đà.
Biết đời từ đâu lại
Cũng biết đạo thế tận
Vì thế nên gọi Phật
Là lộ Ca Bệ Đà
Tất cả thiền, giới, trí
Vô tỷ còn vượt hơn
Vì thế nên gọi Phật
Là A Nậu Đa La.
Đại bi độ chúng sanh
Hòa lành khéo điều phục
Vì thế gọi Phật là
Phú Lâu Sa Đàm Điểu.
Trí huệ không phiền não
Nói tối thượng giải thoát
Vì thế gọi Phật là
Đề Bà Ma Nâu Sá.
Ba đời động, chẳng động
Pháp tận và bất tận
Dưới đạo thọ biết hết
Cho nên gọi Giác Vương !
Bấy giờ mười phương chư Phật vào pháp thần thông Tam Ma Địa, tự cất mình vượt lên hư không, miệng khác đồng lời xướng rằng : “ Thiện Kiến Đại Sĩ và đồng bạn ba ngàn vị, các ông nên biết : Tánh tội chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chính giữa. Tâm chân thật cho nên sức lành chân thật. Tâm giải thoát cho nên tội tánh giải thoát. Trí huệ không cho nên tội tánh không. Tín lực mạnh cho nên phước lực nhiều. Nếu có thể như vậy mà sám hối thì sẽ thấy Ta, thấy Đức Đa Bảo và chư phân thân Phật. Bởi thường thấy Ta nên sám hối diệt được tội. Ngày nay Ta giáo hóa chư Bồ Tát phương thức sám hối như thế. Sám hối như thế khiến cho Ta, chư phân thân Phật , Đức Đa Bảo Như Lai đã diệt độ, thảy đều vui mừng ! Cho đến tất cả chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai ở mười phương, hành giả cũng thấy cũng cúng dường, và cũng khiến cho đều được hoan hỷ ! Nếu thuận theo kinh Đại Thừa nầy, sẽ được vào Bồ Đề môn !”
Phật bảo các đại chúng : “ Có tội muốn sám hối, phải nên như Thiện Kiến Vương, lễ chư Phật trong ba đời, mười hai phần Tôn Kinh, và các vị đại Bồ Tát Tăng. Nên mỗi mỗi tâm lễ, cũng như gặp thân tướng Ta, thấy thân tướng Ta. Lại như thấy tướng một đức Phật, tướng hai đức Phật, tướng bảy đức Phật, tướng trăm đức Phật, tướng ngàn đức Phật, tướng muôn đức Phật, cho đến thấy tướng vô lượng chư Phật. Thế nên phải mỗi mỗi tâm lễ, người ấy sẽ được vô lượng phước đức, diệt trừ tội nặng trong a tăng kỳ kiếp sanh tử, không đọa ba đường ác, an trụ nơi Phật đạo, quyết định không còn nghi. Vì thế khi sám hối phải chí tâm tin cho vững, chắc chắn sẽ diệt được tội nặng”.
Khi ấy Thiện Kiến Vương Tử cùng với pháp thuộc đồng thanh đọc tụng bài kệ khen Phật rằng :
Thế Tôn đại từ bi
Dòng Thích Ca Pháp Vương
Sư Tử Hống trong chúng
Nhiếp khắp hết hàm linh
Đồng xem như con một
Không phân biệt kia đây
Được thấy Vô Thượng Tôn
Cho nên nay kính lễ
Khi đó Phật bảo Thiện Kiến Vương Tử và đồng bạn ba ngàn vị rằng : “ Nếu có thể tỏ bày tội lỗi sám hối không che dấu như thế, mới là chân Bồ Tát. Trong đời tương lai, các ông quyết định sẽ được thành Phật. Lại nữa, Thiện nam tử ! Khi ta diệt độ, ở đời sau kẻ nào có thể trực tâm lễ kính mười phương chư Phật, mười hai phần kinh, cùng chư Bồ Tát Tăng, đó là báo ân Tam Bảo. Kẻ ấy sẽ được diệt ngay các tội Thập Ác, Ngũ nghịch và báng Kinh Phương Đẳng. Diệt tội xong, nếu hợp cơ Tu Đà Hoàn mà được độ, thì thọ cho quả Tu Đà Hoàn. Nếu hợp cơ Tư Đà Hàm mà được độ, thì thọ cho quả Tư Đà Hàm. Nếu hợp cơ A Na Hàm mà được độ, thì thọ cho quả A Na Hàm. Nếu hợp cơ A La Hán mà được độ, thì thọ cho quả A La Hán. Nếu hợp cơ Bích Chi Phật mà được độ, thì thọ cho quả Bích Chi Phật. Nếu hợp cơ Bồ Tát mà được độ, thì thọ cho quả Bồ Tát. Trong kinh này, các vị Bồ Tát Ma Ha Tát được Nhứt Sanh Thật Tướng, đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát được Nhị Sanh Pháp Giới, đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát được Tất Cánh Trí, đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát được ngộ Đệ Nhứt Nghĩa Đế, đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát được Hư Không Tam Muội, Trí Ấn Tam Muội, đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát được Bất Thối Nhẫn, Như Pháp Nhẫn, Như Pháp Giới, đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát được Đà Ra Ni, Đại Niệm Tâm, Vô Ngại Trí, đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát được Sư Tử Hống Tam Muội, Kim Cang Tam Muội, Ngũ Trí Ấn Tam Muội, đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát được Bình Đẳng Tam Muội, đại từ đại bi, A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Phật hạnh, đều do lễ mười phương vô lượng tam thế chư Phật ”.
Khi ấy Mạn Thù Thất Lỵ Pháp Vương Tử Bồ Tát Ma Ha Tát thưa rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn ! Những chúng sanh cuồng dại loại tâm, tạo tội Ngũ nghịch, Thập ác, làm sao biết mình được diệt tội ?”
Phật Mạn Thù Thất Lỵ Tử Bồ Tát rằng : “ Như trước đã nói nếu người nào nghe được Kinh Phương Quảng, lại được nghe danh hiệu chư Phật mười phương ba đời, mười hai phần kinh, các Đại Bồ Tát, sanh tâm vui mừng vô lượng, tin kính biên chép, thọ trì đọc tụng thông suốt, y theo lễ sám, sẽ được diệt tội. Kẻ đó nên ở nơi chỗ vắng lặng sạch sẽ, sửa sang một phòng thất, rưới nước thơm trên mặt đất, dùng phướng lọng đẹp trang nghiêm bên trong. Lúc hành đạo, trước đốt hương thơm, sau mới lễ thỉnh Phật. Lại trước khi sám hối đọc tụng, nên tùy phần tắm rửa bằng nước thơm, thay y phục mới sạch. Mỗi lần đi nhà xí, lại một phen tắm gội. Muốn hành trì theo kinh này trong thời gian lâu dài, nên sắm một tòa báu để cúng dường kinh. Lại phải biết suốt pháp tướng, dứt ngã kiến, nhơn kiến, lễ thỉnh dâng cúng, đốt hương tốt quý, xưng danh hiệu rành rẽ. Hành giả nên nhứt tâm trừ loại, nhớ chánh, niệm chánh, một lòng xưng niệm. Khi có các hành nhơn đồng lễ sám thọ trì, nên lấy sự hòa hợp làm điều thiết yếu. Nếu không hòa hợp mà tức giận tranh cãi nhau, chẳng gọi là sám hối. Nếu còn niệm giận tức nơi lòng, là trái với đạo pháp. Phải tưởng niệm Đại Thừa nghiêm tầm Đệ Nhứt Nghĩa Đế. Trong bảy ngày đêm, không được nằm ngủ. Mỗi ngày ba thời đọc tụng kinh này. Ngày đêm sáu thời đốt hương cúng dường, y theo trong kinh lễ bái sám hối. Hành giả phải thành khẩn xưng danh hiệu chư Phật Bồ Tát, mười hai phần kinh, tâm tâm không loại, tâm tâm không lầm, tâm tâm không khác, tâm tâm tinh tấn từng giờ, tâm tâm tinh tấn từng ngày, tâm tâm sanh lòng tin, tâm tâm đều hoan hỷ, tâm tâm thuận theo thứ lớp, tâm tâm nối liền nhau, tâm tâm sâu tôn trọng, tâm tâm không rời, tâm tâm nghĩ tội, tâm tâm niệm Phật, tâm tâm niệm Pháp, tâm tâm niệm Tăng, tâm tâm niệm xả, tâm tâm niệm giới, tâm tâm niệm thiện. Người ấy đọc tụng như thế, chí tâm như thế, lễ bái như thế, sám hối như thế, từ ngày đầu cho đến ngày thứ sáu, lại đem nước thơm rưới nơi đất, dùng nước thơm tắm gội, đốt các thứ hương thâm tâm cúng dường. Do niệm chí tâm sám hối của người đó khiến có sự sơ cảm chấn động đến mười phương. Bấy giờ Ta cùng với vô lượng vô biên hằng hà sa chư Phật, vô lượng vô biên hằng hà sa Bồ Tát, tùy theo âm thanh vào trong thất đồng làm chứng minh. Sám hối như thế trong bảy ngày, quyết định được diệt tội. Tại sao biết được ? Bởi kẻ phàm phu chưa hợp với chân đế, phải lấy tướng trong mộng mà làm chứng nghiệm. Nếu mộng thấy một tướng, tức là diệt được một tội. Thấy năm tướng, tức là đã diệt được Ngũ Nghịch. Hành giả thấy mình vượt qua sông lớn, hoặc đi trên chiếc cầy to, nên biết người đó quyết định được độ thoát. Hành giả khi mộng thấy mình cùng người tắm gội hoặc được trời mưa rưới xuống mình, nên biết đó quyết định được thanh tịnh. Hành giả khi mộng thấy mình vào trong đại hội, cùng các vị Sa môn ngồi theo thứ tự, nên biết người đó là chân Phật tử. Hành giả khi mộng thấy mình vào trong chùa tháp, nhìn thấy tượng Phật và Bồ Tát cao lớn nghiêm đẹp, nên biết người đó đã được vào chánh môn. Hành giả khi mộng thấy mình được quả rồi tự ăn, nên biết người đó được quả lành tốt.”
Đức Phật lại bảo Mạn Thù Thất Lỵ Bồ Tát rằng : “ Nếu hàng Bồ Tát, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, mất tâm rối loạn, phạm mỗi mỗi giới cấm nên sám hối như trên. Người ấy như chẳng được diệt tội, thì không có lý, trừ ra chẳng chí tâm !”
Mạn Thù Thất Lỵ Bồ Tát thưa thỉnh rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn ! Khi hành trì pháp này, có thể được nhiều người chăng ?”
Đức Phật dạy : “ Có thể từ một người trở lên, hai mươi người trở xuống. Khi hành pháp này không được niệm các kinh nào khác. Thực hành pháp sám hối này xong, về sau chẳng được tái phạm, đó mới gọi là sám hối pháp. Nên khởi niệm như vầy : “ Ta ngày nay như chết đi được sống lại. Vậy ta phải nghiêm giử giới, phải gắng tinh tấn, phải đọc tụng kinh Đại Thừa Phương Đẳng.” Lại nên nghĩ như vầy : “ Từ hôm nay, ta nguyện giữ gìn giới cấm bền chắc như Kim Cang.” Khi hành giả nghĩ như thế, thì Duy Ma Đại Sĩ cùng vô lượng Bồ Tát liền hiện thân đứng ở trước mặt, vì làm Hòa Thượng chứng minh. Đại đức Ca Diếp vì làm thầy Giáo Thọ Y Chỉ.”
Phật bảo ngài Mạn Thù rằng : “ Các hiện tượng đó là chứng nghiệm được diệt tội, là chứng nghiệm được giải thoát, là chứng nghiệm được cụ giới, là chứng nghiệm được an trụ nơi chánh pháp.”
Đức Thế Tôn lại bảo Màn Thù Thất Lỵ Bồ Tát rằng : “ Kẻ nào phạm các tội như : Tứ trọng, Bát cấm, Lục trọng, Thập giới, Bát giới, Ngũ giới, Thập thiện, Tam quy, mỗi mỗi giới cấm cho đến tội Ngũ nghịch và báng kinh Đại Thừa Phương Đẳng, trừ hạng Xiển đề, nếu không phát lồ sám hối, người đó khi mạng chung, quyết định phải đọa địa ngục A Tỳ !”
Ngài Mạn Thù thưa rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn ! Thế nào gọi là A Tỳ địa ngục ? Cúi xin Như Lai vì tất cả chúng sanh nói nhân duyên, ý nghĩa, hình trạng, sự khổ vui, cảnh thọ báo, và kiếp số nhiều ít của địa ngục ấy.”
Đức Phật bảo Mạn Thù Thất Lỵ Bồ Tát : “ Lành thay ! Nên thay ! Ông đã khéo hỏi các điều ấy. Vậy hãy lắng nghe chớ sơ sót. Và đạu chúng hãy nhớ nghĩ cho kỹ ! Ta nay vì các ông mà nói rộng và rành rẽ. Thế nào gọi là A Tỳ địa ngục ? Chữ A là vô, chữ Tỳ là gián, hoặc Tam Lạc, có nghĩa : không một chút xen hở tạm vui. Vì thế nên gọi là Vô Gián địa ngục. Lại nữa, chữ A là vô, chữ Tỳ là cứu; chữ A là vô, chữ Tỳ là giá; chữ A là vô, chữ Tỳ là bất đồng; có nghĩa : sự khổ không ai cứu vớt; sự khổ không ngăn ngại, mỗi tội nhơn đều thấy thân mình đầy cả địa ngục; và trời, người, quỷ, súc khi đọa vào đó đều thọ khổ đồng như nhau, không có ai là chẳng đồng. Lại nữa, chữ A là cực nhiệt, chữ Tỳ là cực não; chữ A là bất nhàn, chữ Tỳ là bất trụ; có nghĩa là : lửa ở đó rất nóng, não thống não cùng cực; sự thọ khổ liên tục, không lúc nào rãnh rỗi tạm dừng. Lại nữa, chữ A là đại hỏa, chữ Tỳ là mãnh nhiệt; lửa to rộng mạnh dữ nhập vào tâm, nên gọi là A Tỳ địa ngục !”
Phật lại bảo Mạn Thù Thất Lỵ Bồ Tát rằng : “ Này thiện nam tử ! Địa ngục A Tỳ ngang dọc rộng tám vạn do tuần, bảy lớp thành sắt, dưới có mười tám ngục ngăn cách nhau. Vòng quanh bao lớp đều là rừng đao bén, bảy lớp thành ấy lại có rừng kiếm nhọn. Nơi mười tám ngục ngăn cách, mỗi ngục lại chia ra tám muôn bốn ngàn lớp ngục nhỏ khác nhau. Ở bốn gốc thành có bốn con chó đồng lớn, mình dài bốn mươi do tuần, mắt như điện chớp, nanh như gươm bén, răng như núi dao, lưỡi như câu sắt, móng như thiết xoa, đuôi như thiết mãng. Tất cả lỗ chân lông nơi mình nó, đều phun ra lửa dữ dội, cổ họng rất hôi thối, không thể đem vật hôi thối của thế gian mà thí dụ được. Nơi bốn cửa ngục, mỗi ngục có mười tám học tốt, đầu và miệng như quỷ La Sát, trên đầu có mười rám sừng, chân tay xòe ra như chỉa sắt. Bảy lớp trong thành có vô số phướng sắt, đầu phướng lửa phụt lên như suối vọt, nước sắt chảy tràn lan trong thành A Tỳ. Nơi bốn cửa thành ngục Vô Gián, trên mỗi cửa có mười tám cái vạc bằng đồng, trong vạc nấu sắt, nước sôi sùng sục, trào lên chảy lai láng khắp bốn cửa, tràn lan vào thành A Tỳ. Mỗi ngục ngăn cách có tám muôn bốn ngàn con mãng xà sắt lớn, nhã độc phun lửa, thân to dài khắp trong thành, kêu rống vang như tiếng sấm sét khi trời mưa. Trong thành đầy những viên sắt lớn, và có tám muôn ức ngàn việc khổ. Thật là khổ trong sự khổ, não trong sự não ! Tất cả mọi nỗi khổ đều tập họp nơi đây. Địa ngục A Tỳ bốn phương đều có cửa ra vào, ngoài mỗi cửa đều có lửa cháy dữ dội, đông tây nam bắc thông suốt nhau trải qua tám muôn do tuần. Toàn cảnh tường sắt vây quanh, lưới sắt che khắp, lửa ở trên táp xuống, lửa ở dưới bốc lên bốn bên trên dưới, sự khổ đồng thời bộc khởi !
Như trên đã nói : các tội Tứ trọng, Bát cấm, Phạm giới, Ngũ nghịch, báng kinh Phương Đẳng, nếu chẳng y theo kinh này mà sám hối, người đó khi mạng chung phải đọa vào ngục A Tỳ nhanh như vị đại lực sĩ giở tay. Kẻ ấy tự thấy mình thân chật trong ngục, bị sự nóng bức cấp bách, thống khổ không nói được, chỉ có giương mắt ngậm miệng, ngậm miệng giương mắt. Tội nhơn bị muôn ức đao luân quay tròn như vòng xoáy ở hư không bay đến chém sả vào đầu suốt tới chân. Ngoài ra, tất cả sự đau khổ còn hơn lời nói trên đây gấp trăm ngàn muôn lần. Nếu phạm đủ tội Tứ trọng, phải chịu khổ não lớn đủ năm Đại kiếp. Phậm đủ Bát trọng, lại hơn gấp bội. Phạm tội Ngũ nghịch lại gấp bội hơn. Tội báng kinh Phương Đẳng lại gấp bội hơn nữa. Nếu kẻ nào phỉ báng ngôi Tam Bảo, trộm lấy của Thường trụ, làm nhơ phẩm hạnh Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, báng Thầy, hại Thầy, hoặc can phạm với mẹ những người như thế, chịu khổ lại gấp bội hơn lên. Còn kẻ Xiển đề đoạn diệt căn lành, nếu chẳng hối lỗi, không biết bao giờ mới thoát khỏi A Tỳ địa ngục ! Những tội nhơn ấy trong khi chịu khổ, lửa dữ nhập tâm, ngất đi rồi chết. Lúc đó ngục tốt và quỷ La Sát cầm gậy sắt đánh xuống đất, quát to lên rằng : ‘ Sống dậy ! Sống dậy !’ Do sức nghiệp, tức khắc tội nhơn sống lại liền. Trong một ngày một đêm, muôn lần chết đi sống lại, chịu sự khổ não cùng cực như trên đã nói.
Khi tội nhơn từ ngục A Tỳ được thoát ra, bởi còn nghiệp phá giới, ăn không của tín thí, lại phải vào mười tám địa ngục nhỏ, tức là : địa ngục Hàn Băng, địa ngục Hắc Ám, địa ngục Tieu Nhiệt, địa ngục Đao Luân, địa ngục Kiếm Luân, địa ngục Hỏa Xa, địa ngục Phẩn Niếu, địa ngục Phất Thang, địa ngục Khôi Hà, địa ngục Kiếm Lâm, địa ngục Thiết Sàng, địa ngục Đồng Trụ, địa ngục Thiết Cô, địa ngục Thiết Luân, địa ngục Thiết Khốt, địa ngục Thiết Hoàn, địa ngục Tiêm Thạch, địa ngục Ẩm Đồng. Trong mỗi địa ngục, tội nhơn phải chịu khổ tám trăm năm mới ra khỏi. Khi được làm người, lại thường sanh nơi nghèo nàn hèn hạ, trong năm trăm đời không biết ngôi Tam Bảo. Nếu may gặp bậc Thiện tri thức, mới được phát tâm Bồ Đề tu hành. Nếu như không gặp Thiện tri thức, lại phải đọa địa ngục nữa.
Kẻ phạm lỗi đột kiết la, nếu không sám hối, phải chịu tội khổ nơi địa ngục tám trăm muôn năm, kể theo ngày tháng ở cõi trời Tứ Thiên Vương. Phạm tội Ba đật đề, thọ khổ gấp hai. Phạm tội Tăng tàn, lại gấp bội hơn nữa. Tội nhơn trong khi thọ khổ không còn sức nói chi khác, như ở ngục Hàn Băng, chỉ kêu thành tiếng : A ba ba, a tra tra, a la la, hoặc a bà bà. Vì thế nếu có tội, phải hổ thẹn sợ hãi, mau mau sám hối, chí tâm quy y ngôi Tam Bảo.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lỵ ! Nếu muốn được diệt tội mau chóng, phải y theo kinh này mà phát lồ sám hối. Nên hành trì liên tục trong bảy ngày, mỗi ngày chỉ ăn một bửa. Lại phải chánh quán tưởng niệm Như Lai khi thành Phật có đủ các tướng như : Đại Nhơn tướng, Giác Nhơn tướng, Bất Động Nhơn tướng, Mãn Trí Huệ Nhơn tướng, Cụ Túc Chư Ba La Mật tướng, Thủ Lăng Nghiêm đẳng chư Tam Muội Hải tướng.
Lại tưởng niệm khi ngồi nơi cội Bồ Đề sắp thành Chánh Giác, Bồ Tát Ma Ha Tát từ nơi Thắng Ý Từ Tam Muội xuất định, lại vào Diệt Ý Tam Muội. Từ Diệt Ý Tam Muội xuất định, lại vào Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Từ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội xuất định, lại vào Huệ Cự Tam Muội. Từ Huệ Cự Tam Muội xuất định, lại vào Chư Pháp Tướng Tam Muội. Từ Chư Pháp Tướng Tam Muội xuất định, lại vào Quang Minh Tướng Tam Muội. Từ Quang Minh Tướng Tam Muội xuất định, lại vào Sư Tử Âm Thanh Tam Muội. Từ Sư Tử Âm Thanh Tam Muội xuất định, lại vào Sư Tử Phấn Tấn Tam Muội. Từ Sư Tử Phấn Tấn Tam Muội xuất định, lại vào Hải Ý Tam Muội. Từ Hải Ý Tam Muội xuất định, lại vào Phổ Trí Tam Muội. Từ Phổ Trí Tam Muội xuất định, lại vào Đà Ra Ni Ấn Tam Muội. Từ Đà Ra Ni Ấn Tam Muội xuất định, lại vào Phổ Hiện Sắc Thân Tam Muội. Từ Phổ Hiện Sắc Thân Tam Muội xuất định, lại vào Pháp Giới Tánh Tam Muội. Từ Pháp Giới Tánh Tam Muội xuất định, lại vào Sư Tử Vương Tam Muội. Từ Sư Tử Vương Tam Muội xuất định, lại vào Diệt Chư Ma Tướng Tam Muội. Từ Diệt Chư Ma Tướng Tam Muội xuất định, lại vào Không Huệ Tam Muội. Từ Không Huệ Tam Muội xuất định, lại vào Giải Không Tướng Tam Muội. Từ Giải Không Tướng Tam Muội xuất định, lại vào Đại Không Trí Tam Muội. Từ Đại Không Trí Tam Muội xuất định, lại vào Biến Nhất Thiết Xứ Sắc Thân Tam Muội. Từ Biến Nhất Thiết Xứ Sắc Thân Tam Muội xuất định, lại vào Quán Tâm Tướng Tam Muội. Từ Quán Tâm Tướng Tam Muội xuất định, lại vào Bồ Tát Ma Ha Tát Kim Cang Tam Muội. Từ Bồ Tát Ma Ha Tát Kim Cang Tam Muội xuất định, lại vào Kim Cang Đảnh Tam Muội. Từ Kim Cang Đảnh Tam Muội xuất định, lại vào Nhất Thiết Hải Tam Muội. Từ Nhất Thiết Hải Tam Muội xuất định, lại vào Nhứt Thiết Đà Ra Ni Hải Tam Muội. Từ Nhứt Thiết Đà Ra Ni Hải Tam Muội xuất định, lại vào Nhứt Thiết Phật Cảnh Giới Hải Tam Muội. Từ Nhứt Thiết Phật Cảnh Giới Hải Tam Muội xuất định, lại vào Nhứt Thiết Chư Phật Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến Hải Tam Muội. Từ Nhứt Thiết Chư Phật Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến Hải Tam Muội xuất định, lại vào Vô Lượng Vô Biên Chư Tam Muội Hải Môn. Từ Vô Lượng Vô Biên Chư Tam Muội Hải Môn xuất định lại vào Tịch Ý Diệt Ý Tam Muội. Từ Tịch Ý Diệt Ý Tam Muội xuất định, mới vào Kim Cang Tịch Định Đại Giải Thoát Tam Muội Môn, và thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác.”
Phật bảo ngài Mạn Thù rằng : “ Sau khi Ta diệt độ, nếu có Thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào, sanh một lòng tin nghĩ, hoặc có thể biên chép đọc tụng một bài kệ trong kinh này, niệm tướng ấy, quán tướng ấy, lòng tin thành tựu. Người đó trong khoảng một niệm, sẽ trừ được tội nặng sanh tử trong chín mươi ức na do tha hằng hà sa vi trần số kiếp, vĩnh viễn xa lìa nghiệp chướng tối tăm, biết rõ Như Lai thường trụ bất diệt”.
Bấy giờ Đức Thế Tôn lại vì tất cả đại chúng nói kệ rằng :
Lực sĩ, các quỷ thần
Súc sanh, Tượng Vương ác
Dâm nữ và Ác Long
Vô lượng kẻ ác nhơn
Bà Tẩu, A Xà Thế
Đề Bà, Ương Quật Ma
Thân tâm khởi tội nghịch
Phải đọa ngục A Tỳ
Nếu muốn được giải thoát
Phải chí tâm sám hối
Kính tin lễ ba đời
Mười phương vô lượng Phật.
Nay Ta sắp Niết Bàn
Vì muốn cho Tam Bảo
Trụ lâu vô lượng kiếp
Nên nói ra kinh nầy
Người nước Ma Gia Đà
Phát khởi Bồ Đề tâm
Đều do cung kính lễ
Thập phương Tam thế Phật
A Nhã Kiều Trần Như
Và đồng bạn năm người
Cùng năm trăm Thanh Văn
Đời sau thành Phật đạo
Đều do cung kính lễ
Thập phương Tam thế Phật
Ngoại đạo Bà La Môn
Thập tiên Đại Phạm Chí
Nay được A La Hán
Vì thời quá khứ xưa
Đã từng kính lễ
Thập phương Tam thế Phật
Trong mười phương quốc độ
Tất cả chúng Bồ Tát
Ngộ sâu nghĩa Đệ Nhứt
Vãng sanh cõi Cực Lạc
Đều do cung kính lễ
Thập phương Tam thế Phật
Lại nữa nầy Thiện Kiến
Xưa Ta làm quốc vương
Tên là Đại Tiên Dự
Phật Nhựt khi chưa hiện
Cúng dường người xuất gia
Năm trăm Bà La môn
Thức uống ăn y phục
Đồ nằm và phòng nhà
Đầy đủ hai mươi năm
Khí đó Ta khuyến tấn
Các Thầy Bà La Môn
Nên phát tâm Bồ Đề
Các Bà La Môn ấy
Tuy nhận sự cúng dường
Thật chẳng tin Tam Bảo
Nên đáp lời Ta rằng :
Thế gian không Bồ Đề
Cũng không pháp Giải Thoát
Ta nghe lời nói ấy
Vì hộ Kinh Phương Quảng
Liền tiêu diệt mạng căn
Năm trăm Bà La Môn
Khi chúng mạng chung rồi
Liền đọa A Tỳ ngục
Vừa khi đọa địa ngục
Tức thời phát ba niệm :
Lễ kính Tam Thế Phật
Kính tin Kinh Phương Đẳng
Và lễ Bồ Tát Tăng
Khi phát ba niệm xong
Thoát địa ngục sanh về
Cõi Phật Cam Lồ Cổ
Sống lâu mười tiểu kiếp
Việc ấy đều do tin
Lễ kính mười phương Phật
Các Bà La Môn kia
Vừa báng đọa địa ngục
Sau tin liền được ra
Huống Bồ Tát các ông
Đầy đủ lòng hổ thẹn
Mình vốn thật không tội
Nhưng vì các chúng sanh
Sám hối tội Tứ trọng
Vô gián, Nhứt Xiển Đề
Nếu kẻ phàm phu nào
Đã phạm tội như thế
Mà sám hối theo đây
Sẽ tiêu tội Tứ trọng
Ngũ nghịch, Nhứt Xiển Đề
Và được thành Phật đạo
Chỉ trừ kẻ không tin
Ngoài ra như tin hiểu
Cung kính lễ chư Phật
Chẳng thành, không có lý !
Khi đó Thiện Kiến Vương
Cùng với ba ngàn vị
Đồng thanh khải bạch rằng :
Nếu chúng con thành Phật
Nguyện độ dòng sanh tử
Cúi xin Thiên Nhơn Tôn
Vì con phân biệt nói
Nếu có người thọ trì
Biên chép và đọc tụng
Công đức như thế nào ?
Phật bảo : Thiện Kiến Vương
Nay hãy nghe nhớ kỷ
Sẽ vì các ông nói :
Nếu ai đem bảy báu
Bố thí tất cả người
Khắp trong ngàn thế giới !
Lại khéo hay thuyết pháp
Khiến đều thành La Hán
Không bằng có một người
Nghe danh hiệu chư Phật
Sanh một niệm tin kính
Cho đến lễ một thời
Phước đó còn hơn trên
Huống biên chép đọc tụng
Kính tin và lễ bái
Công đức không thể lường!
Nếu ai hay biên chép
Thọ trì và đọc tụng
Phát tâm tùy thời lễ
Còn hơn xây chùa tháp
Khắp trong ngàn thế giới
Khi đó Đại Ca Diếp
Xá Lợi Phất, A Nan
Hộ Pháp, Kim Cang Sĩ
Chư Phạm Vương, Đế Thích
Tứ Thiên Vương, Chuyễn Luân
Cúi đầu lễ chân Phật
Đồng thanh khải bạch rằng :
Thế Tôn ! Qua đời sau
Chúng con truyền kinh nầy
Giáo hóa các chúng sanh
Hộ niệm người lễ kính
Khiến tâm thường an ổn
Kẻ phạm trọng, phá giới
Ngũ nghịch, báng Phương Đẳng
Khiến được nghe kinh nầy
Ở yên nơi thanh tịnh
Sám hối, tội tiêu trừ
Đều như Thiện Kiến Vương
Đời sau thấy Phật Tánh.
Khi ấy Đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo đại chúng rằng : “ Chúng hội hãy nghe cho kỹ ! Ta sẽ vì trong đây nói rõ nguồn gốc nhân duyên mình được nghe danh hiệu Phật. Thời quá khứ trải qua vô lượng kiếp, Ta ở nơi pháp hội Đức Diệu Quang Như Lai được nghe danh hiệu chư Thế Tôn trong mười phương ba đời, sanh lòng vui mừng chắp tay cúi đầu tin nhận. Từ đó khắp mọi nơi chốn, Ta giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh được nghe danh hiệu Phật. Lúc ấy trong chúng hội chỉ có ba ngàn người cùng với Ta một lòng nghe Pháp, sanh niềm tin vô lượng, y theo Ta lễ niệm hồng danh chư Phật. Hiện nay Ta thấy các vị ấy đều đã được thành Chánh Giác ở khắp mười phương.”
Đức Phật lại bảo : “ Đại chúng hãy lắng nghe : Muốn diệt trừ tội Tú trọng, tội Ngũ Nghịch, tội báng kinh Đại Thừa Phương Đẳng, tội Nhứt Xiển Đề, đều do lòng tin mà thành tựu. Nếu kẻ nào không tin lại khinh rẻ, chê bai, chẳng cung kính, đó là phỉ báng mười hai phần kinh, phỉ báng Kim Cang sắc thân, phỉ báng Đại Sĩ Mạn Thù và phỉ báng mười phương chư Phật. Kẻ đó quyết định phải bị đọa địa ngục không còn nghi. Tại sao thế ? Vì bởi không tin cho nên mới báng chánh pháp, báng bậc Thượng Nhơn, báng tất cả chư Phật trong mười phương ba đời., tất nhiên phải đọa địa ngục. Tin công đức Hồng danh chư Phật trong đây mà chí tâm lễ bái, nếu chẳng trừ được tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác và tội báng kinh Phương Đẳng, thì không có lý. Chỉ trừ kẻ Xiển Đề, dứt mất căn lành, không còn lòng tin. Chư đại chúng ! Có trăm ức Thích Ca phân thân trong mỗi mỗi quốc độ giáo hóa chúng sanh, Phật Thích Ca sau cùng là thân Ta vậy.
Ba ngàn người thưở ấy, hiện nay đều thành Phật. Một ngàn vị trước, Hoa Quang Như Lai đứng đầu. Một ngàn vị giữa, Câu Lưu Tôn Như Lai đứng đầu. Một ngàn vị sau, Nhựt Quang Như Lai đứng đầu. Vì thế đại chúng phải nên kính lễ danh hiệu chư Phật trong mười phương ba đời. Trong tương lai, các ông nên vì chúng sanh mở dạy chánh giáo, cứu vớt khắp hàng mê, khiến cho đều được thoát ly ba cõi, ở chỗ an nhàn, và được ngồi nơi Bồ Đề Đạo Tràng như Ta không khác”.
Bấy giờ Đà Ra Ni Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng lên, chỉnh y phục, chắp tay cung kính thưa rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn ! Kinh nầy tên gọi là chi ? Phải nên thọ trì và tu hành như thế nào ?”
Phật bảo Đà Ra Ni Bồ Tát : “ Thiện nam tử ! Kinh nầy tên là Đại Thông Phương Quảng, cũng gọi là Sám Hối Diệt Tội Đắc Phước, cũng gọi là Tam Thiên Nhơn Trang Nghiêm Thành Phật. Phải nên thọ trì như thế. Rộng lớn không ngại thọ trì như thế. Nhiếp khắp tất cả, thọ trì như thế. Kim Cang Bảo Tạng, thọ trì như thế. Các giới khinh trọng, thọ trì như thế !”
Đà Ra Ni Bồ Tát thưa rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn, theo như lời Phật dạy, kinh nầy có thể làm lợi ích lớn cho vô lượng chúng sanh, khiến được diệt tội, mau thành Phật. Thế thì kinh nầy chính là mẹ của chư Phật, đạo của Bồ Tát, mắt của Thanh Văn, nhà của trời người, nên nói có những việc không thể nghĩ bàn như thế. Chúng con xin thọ trì, và trên trời dưới trời, nơi nơi chốn chốn tuyên dương lưu truyền rộng rãi, khiến cho kinh nầy được trụ lâu nơi đời không dứt mất !”
Phật dạy : “ Lành thay ! Đại Sĩ. Ông tổng trì vô lượng tất cả Đại Tạng như thế, trong tương lai sẽ ngồi chỗ ngồi của Ta, đi lối đi của Ta !”
Khi Phật nói kinh nầy vừa hoàn mãn, có vô lượng Bồ Tát trụ ngôi Bất Thối, Bất Động. Tám muôn Thanh Văn phát tâm Đại Thừa. Mười ngàn Tỳ Kheo đắc quả A La Hán. Tám muôn bốn ngàn trời người được Pháp Nhãn Tịnh, trăm ngàn chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.
Đức Phật nói kinh xong, Kim Hoa Bảo Trì bổng nhiên chẳng hiện. Như Lai thâu quang minh lại, thế giới Ta Bà nơi cao chốn thấp trở thành không bằng, nhơ ác như cũ. Kẻ tội ác và cõi địa ngục vẫn hiện ra như trước. Thuyết kinh xong Đức Thế Tôn thản nhiên an lành đi về rừng Sa La.
Tất cả đại chúng nghe xong đều vui mừng tín nhận phụng hành.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
(KINH: Lúc xướng chữ A, thời nhập bát nhã ba la mật môn tên là Bồ Tát oai lực nhập vô sai biệt cảnh giới.)
( Chuyên tụng Ðại-Bi-Tâm Ðà-Ra-Ni ... cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.
2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.
4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ: Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
Hộ-Pháp Vi- Đà Tôn-Thiên Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
CHUNG
KINH ĐẠI THÔNG PHƯƠNG QUẢNG SÁM HỐI
DIỆT TỘI TRANG NGHIÊM THÀNH PHẬT
PHỤ LỤC :
Ngũ thiên: Thiên có nghĩa: quả tội đã ít thành. Bộ loại, dùng trong trường hợp cấp thiết.
-Ba-la-di <Parajika>: Cực ác, Đoạn- đầu, Bất-cộng Trụ Tỳ-kheo có 4 giới. Tỳ- kheo-ni có 8 giới.
-Tăng-già-bà-thi-sa <Samghavasesa>: Tăng tàn, Hữu dư Tỳ-kheo có 13 giới, Tỳ- kheo-ni có 17 giới.
-Ba-dật-đề <Payattika>: Đọa. Trong dây có hai thứ: Đọa và Xả dọa hợp lại. Kế chung Tỳ-kheo có 120 giới (90 Đọa, 30 Xả- đọa). Tỳ-kheo-ni có 208 giới (178 Đọa, 30 Xả-đọa).
-Ba-la-đề, đề-xá-ni <Prati désániya>: Hướng-bi-hối Tỳ-kheo có 4 giới, Tỳ-kheo-ni có 8 giới.
-Đột-kiết-la <Duskrta>: Ác-tác. Gồm có 3 thứ : Hai pháp Bất định, Trăm pháp Chúng-học, Bảy pháp Diệt-tránh. Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đồng nhau, có tất cả 109 giới.
Thất-tụ. Tụ có nghĩa Chủng- loại, nói về tội nhân. Tức là trong Ngũ- thiên chia ra thêm 2: Du-lan-giá và Ác- thuyết.
Du-lan-giá < Sthùlàtyaya >: Đại- chướng-thiện dạo. Bất-định. Tội nầy ở giữa tội Cực ác và Hữu-dư, hoặc giữa Hữu dư và Đọa. Chẳng hạn như : Nam nữ ở chỗ khuất, chỗ trống nói lời thô ác. Hoặc hành dâm với tử thi, trộm chưa tới 5 đồng tiền.
Thất-tụ gồm:
1. Ba-la-di.
2. Tăng-già-bà-thi-sa.
3. Du-lan-giá.
4. Ba-dật-đề.
5. Ba-la-đề-để-xá-ni.
6. Đột-kiết-la (Chỉ gồm 100 Học pháp)
7. Ác-thuyết (Thất-diệt-tránh pháp).
Ngưng Nhiên luật sự lại chia ra Bát-tụ. Tức là Ma-Ba-dật-đề phân làm hai: Ni-tát-kỳ-ba-đật-đề (Xả-đọa) và Ba-đặt-đề (đọa).
Mười Hai Phần Giáo
Ba tạng Kinh-điển của đạo Phật, y theo thể tài, được phân chia thành mười hai bộ loại. Người học Phật thường gọi những bộ loại nầy là “mười hai phần giáo”:
1. Tu-Đa-La (Sùtra): Danh từ nầy có một lối gọi là Tô-Ðát-Lãm, Trung-Hoa dịch là Kinh hay Khế-Kinh. Chữ “Khế” có nghĩa là “hợp”, chữ “Kinh” có nghĩa là “thường”. Pháp giải thoát là pháp chư Phật trong ba đời vẫn thường nói, và pháp ấy hợp với chân lý, hoặc với nhân duyên thời tiết cùng căn cơ của chúng-sanh, nên gọi là Khế-Kinh. Kinh cũng gọi là Trường-Hàng (tản văn, văn xuôi), một lối văn chỉ nói ngay ý nghĩ của mình, tùy theo nghĩa lý mà đọc ra câu văn dài hay ngắn. Lối văn nầy không cần sửa soạn lắm như lối văn từ phú.
Luận Du-Già nói: “Kinh là những danh, cú, văn thân, phát huy nghĩa nhiệm mầu, chân thật, thuần thiện. Kinh hay khiến cho chúng-sanh được điều lợi ích của giáo nghĩa và dẫn khởi sự tu tập phạm hạnh”.
Kinh Đại-Niết-Bàn nói: “Thiện-nam-tử! Sao gọi là Khế-Kinh? Ấy là giáo thuyết của Phật từ câu “Như thế, tôi nghe” cho đến câu, “vui mừng phụng hành”.
2. Kỳ-Dạ (Geya): Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Ứng-Tụng hay Trùng-Tụng. Đây là lối kệ văn thuật lại những ý nghĩa của đoạn văn Trường-Hàng nói trên, có khi nói thêm cho ý nghĩa ấy được đầy đủ. Lối văn nầy thường lấy bốn, năm hoặc bảy, tám chữ làm một câu, bốn câu làm một bài. Lại có khi một bài gồm nhiều câu, tùy theo sự diễn ý rộng hay hẹp. Trong pháp hội, Ðức Thế-Tôn thường nói văn Trùng-Tụng, với dụng ý làm cho thính giả ghi nhớ và có thể tóm tắt lại giáo nghĩa mà Ngài vừa tuyên thuyết.
3. Thọ-Ký: Thọ-ký cũng gọi là Ký-Biệt. Đây là những đoạn văn mà Đức Phật ghi nhận cho đệ-tử sau sẽ sanh về đâu, hoặc chừng nào sẽ chứng đạo quả, hoặc tương lai sẽ xảy ra sự gì tốt hay xấu. Như Đức Phật nói: “A-Dật-Đa! Đời vị lai có vị quốc-vương tên là Nhương-Khê. Ông sẽ ở nơi thời ấy mà thành Phật, hiệu là Di-Lặc”.
4. Dà-Đà (Gàthà): Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Phúng-Tụng hoặc Cô-Khởi. Phúng-Tụng là làm những bài kệ hoặc hai ba bốn, năm, sáu câu. Nói Cô-Khởi, là lối văn nầy không thuật lại ý nghĩa đoạn văn Trường-Hàng trên, mà chỉ làm riêng từng bài kệ thôi.
5. Ưu-Đà-Na (Udàna): Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Tự-Thuyết. Đây là những kinh do Phật dùng trí huệ xem xét căn cơ chúng-sanh, rồi Ngài tự nói pháp, không đợi phải có người thưa thỉnh yêu cầu.
6. Ni-Đà-Na (Nidàna): Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Nhân-Duyên. Đây là những kinh nhân có người thỉnh, hay nhân có duyên chi Phật mới nói ra, hoặc nói về nhân duyên gặp Phật nghe pháp, những chỗ có nhân duyên hóa độ, hay nói về duyên khởi của vũ trụ. Thí dụ như thuở xưa ở nước Xá-Vệ có người dùng lưới bắt chim để chơi. Khi bắt được, anh đem nó nhốt vào lòng cho ăn lúa uống nước xem cho chán rồi thả. Phật thấy thế, biết rõ nhân duyên trước sau, khuyên rằng: “Chớ khinh tội nhỏ. Cho là không sao. Giọt nước tuy ít. Lần đầy chum lớn”.
7. A-Ba-Đà-Na (Avadàna): Danh từ nầy có nghĩa là Thí-Dụ. Pháp của Phật nói ra rất mầu nhiệm, người căn trí tối chậm khó mà hiểu thấu. Vì thế, khi giảng dạy Ðức Như-Lai phải dùng những thí dụ cho thính chúng dễ hiểu. Đại khái như những lời thí dụ trong các Kinh-điển.
8. Y-Đế-Mục-Đa-Dà (Itivrttaka): Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Bản-Sự. Đây là những kinh văn Phật nói chỗ tu nhân của các vị Bồ-Tát, đệ-tử về đời quá khứ, hoặc những ngôn giáo, sự nghĩa liên quan với đời trước. Thí dụ như đoạn: “Nầy các Tỷ-khưu! Pháp của ta nói hôm nay gọi là Giới-kinh, đời Phật Câu-Lưu-Tôn gọi là Cam-Lồ-Cổ, đời Phật Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni gọi là Pháp-Cảnh, đời Phật Ca-Diếp gọi là Biệt-Không”.
9. Xa-Đà-Dà (Jàtaka): Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Bản-Sanh. Đây là những kinh Phật nói về nhân duyên thọ sanh của chính Ngài hoặc các đệ-tử trong nhiều đời trước. Như đoạn: “Các ông nên biết, đời quá khứ khi hành đạo Bồ-Tát, ta đã từng thọ thân hươu, nai, thỏ, gấu, rồng, Kim-súy-điểu, Túc-tán-vương, Chuyển-luân-vương”.
10. Tỳ-Phật-Lược (Vaipulya): Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Phương-Quảng. Đây là những kinh Đại-thừa Phương-Đẳng, nội dung hàm nghĩa lý cao siêu, rộng rãi như mười phương hư không.
11. A-Tỳ-Đạt-Ma (Adbhuta Dharma): Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Vị-Tằng-Hữu hoặc Hy-pháp. Đây là kinh văn nói về những thần lực, những nghiệp duyên, những công đức tối thắng, lạ lùng, ít có, mà trí phàm-phu khó tin hiểu. Như kinh Đại-Niết-Bàn nói: “Thế nào là pháp Vị-Tằng-Hữu? Như Bồ-Tát khi mới sanh ra, không người nâng đỡ mà tự đi bảy bước, phóng đại quang minh, nhìn khắp mười phương. Như con vượn tay bưng bát mật cúng dường Như-Lai. Như con chó cổ trắng theo bên Phật nghe thuyết pháp. Như Thiên-ma Ba-Tuần biến làm con thanh ngưu đi trên những bát bằng sành, khiến cho các bát va chạm nhau mà không sứt bể. Và cũng như Bồ-Tát khi mới sanh được đưa vào miếu thờ thiên thần, các thiên tượng đều đứng lên lễ kỉnh”.
12. Ưu-Bà-Đề-Xá (Upadesa): Danh từ nầy có nghĩa Luận-Nghị. Đây là lối kinh văn có tính cách vấn đáp biện luận, hoặc phân biệt các tướng mạo, các lẽ chánh tà. Luận Du-Già nói: “Thế nào là Luận-Nghị? Đây là tất cả đối pháp luận, nghiên cứu nghĩa rộng sâu của Tô-Đát-Lãm, tuyên dương tông yếu của các kinh”.
Trong mười hai bộ loại trên, chỉ có Tu-Đa-La, Kỳ-Dạ và Dà-Đà là thể tài chính thức của kinh giáo. Còn chín loại kia, chẳng qua là y theo các sự kiện sai biệt của pháp điển mà lập ra vậy thôi.
Và mười hai phần giáo nầy, không phải trong kinh nào cũng có đủ cả. Có thứ kinh chỉ được một hai phần, có thứ kinh gồm đến năm sáu phần chẳng hạn. Ấy là tùy theo thời tiết, cơ duyên riêng biệt của mỗi thứ kinh, mà có những sự sai khác hoặc ít hoặc nhiều.
NHỨT THIẾT NHƯ LAI DANH HIỆU ĐÀ RA NI
(Trước hết hành giả nên xướng lễ hồng danh chư Phật sau đây và sám hối):
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
1. Bảo Sư Tử Tự Tại Như Lai.
2. Bảo Vân Như Lai.
3. Bảo Trang Nghiêm Tạng Như Lai.
4. Bảo Sư Tử Đại Vân Như Lai.
5. Vân Sư Tử Như Lai
6. Tu Di Như Lai
7. Sư Tử Hống Như Lai
8. Sư Tử Lợi Như Lai
9. Phạm Âm Như Lai
10. Thiện Ái Như Lai
11. Liên Hoa Thượng Như Lai
12. Nhiên Đăng Như Lai
13. Liên Hoa Sanh Như Lai
14. Tốn Na Ra Như Lai
15. Trì Hoa Như Lai
16. Trì Bảo Như Lai
17. Pháp Sanh Như Lai
18. Nhựt Quang Như Lai
19. Nhựt Chiếu Như Lai
20. Nguyệt Quang Như Lai
21. Vô Lượng Tạng Như Lai
22. Vô Lượng Trang Nghiêm Tạng Như Lai
23. Vô Lượng Quang Như Lai
24. Liên Hoa Tạng Nhu Lai.
25. Thiên Diệu Âm Như Lai.
26. Câu Chi La Đẳng Như Lai.
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tận Hư Không biến pháp giới thập phương tam thiết chư Phật, tôn Pháp, Hiền, Thánh, Tăng, Thường trụ Tam bảo.
Đệ tử...... CHÍ THÀNH sám hối.
" Về trước con tạo những nghiệp ác,
Đều do vô thỉ tham, sân, si.
Từ thân, khẩu, ý, phát sanh ra.
Nay con xin sám hối tất cả… "
Nam mô cầu sám hối Bồ tát Ma-Ha-Tát.
( 3 lần xướng 3 lần lạy )
NHỨT THIẾT NHƯ LAI DANH HIỆU ĐÀ RA NI
Um! Tát dá tha! Sát tua ra, Sít tê, Du rát ta, Suýt đa, Sa hạ, Sá ra ni. Rát ta, Va ra, Ma kuýt ta, Lanh khất ri ta, Đà ra ni Sóa-ha. Sạt rít va, Tát tha ga tá, Muýt trê ta, Đà ra ni Sóa-ha. A va lô kít tê, Soa va ray da Sóa ha. Sạt rít va, Tát tha ga tô, U sắc ni sá, Đà ra ni Sóa-ha.
Sạt rít va, Tát tha ga ta, Vạ sít ta, Đạt mạ, Sấc cơ rít ta, Đà ra ni Sóa-ha. Sạt rít va, Tát tha ga tá, Vạ sít ta, Sá bát ta, Đà ra ni Sóa-ha. Bát đơ ma, A vạ ni Kay da Sóa ha. A sấc tra, Mạ hạ, Bay da, Đà ra ni Sóa-ha.
Suýt đa, Vạ răng, Nay da Sóa ha Sạt rít va, Tát tha ga tá, Na ma, Đà ra ni Sóa-ha. A sít tê, Bát đơ ma, Suýt đê, Kay da, Tát tha ga tá, Đà ra ni Sóa-ha. Bát đơ ma, Hạ sít tay da Sóa ha. Sạt rít va, Manh tra, Đà ra ni Sóa-ha. UM! BÚT RUM! HÙM!
(108 biến trở lên)
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát nói: "Nếu có người nghe được danh hiệu của chư Như lai nói trên và vì kẻ khác tuyên dương, kẻ đó trong sáu mươi ngàn kiếp còn không nghe tên ác đạo nữa, huống là đọa vào ác đạo. Nếu có người thọ trì Đà ra ni nầy, vì kẻ khác truyền nói, người ấy đã có nghiệp Ngũ-Vô-Gián thảy đều tiêu trừ. Sau khi mạng chung, kẻ đó được sanh lên làm Vua chư Thiên sống lâu tám mươi bốn trăm ngàn Cu chi số kiếp; kế tiếp được làm Chuyển Luân Thánh Vương sống sáu mươi Trung kiếp. Qua kiếp đó rồi, người ấy sẽ được thành Phật, hiệu Liên Hoa Tạng Như Lai.
PHÁP YẾU TU HÀNH
Hòa-Thượng Thích-Thiền-Tâm
Yếu điểm của đường tu
Gồm hai phần Sự, Lý.
LÝ tu là sửa tâm
Cho hợp với chân lý
Sự tu chỉnh ba nghiệp
Giúp chứng cảnh chân như
Sửa tâm là dứt trừ
Nghiệp tham, ái, nóng, giận
Si mê cùng tật đố
Ngã mạn với kiêu căng
Chớ chạy theo hình thức
Say đắm nẻo lợi danh
Chuộng địa vị, quyền hành
Khoe thông minh, tài giỏi
Phải sanh lòng giác ngộ
Niệm thanh tịnh từ bi
Dõng tiến mà kiên trì
Sáng suốt mà khiêm hạ
Tự nghĩ mình xưa nay
Ðã tạo nhiều tội chướng
Chịu nhẫn nhục, sám hối
Biết an phận, tùy duyên
Duyên tốt chẳng kiêu khoe
Duyên xấu không thối não
Bình tỉnh mãi tiến tu
Như bơi thuyền ngược nước
Về biển Tát Bà Nhã
Ðến Bảo Sở an vui
Ðó là phần tu tâm
Hợp với lý giải thoát.
SỰ tu là thân nghiệp
Lễ kính Phật sám hối
Khẩu nghiệp trì chú kinh
Hoặc niệm Phật khen ngợi
Ý nghiệp giữ thanh tịnh
Mật tu môn Lục Niệm
Nguyện đền đáp bốn ân
Nguyện mình cùng chúng sanh
Sanh cõi vui thành Phật
Ðời đời gặp chánh Pháp
Tu sáu độ muôn hạnh
Tâm Bồ Ðề độ sanh
Trần kiếp không thối chuyển
Tu Sự mà bỏ Lý
Làm sao mở chân tâm?
Tu Lý mà phế Sự
Cũng không thể thành Phật !
Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG
Thì tức SẮC là KHÔNG
Tu Lý không bỏ Sự
Ðó tức KHÔNG là SẮC
Lý chính thật Chân-Không
Sự là phần Diệu-Hữu
Chân-Không tức Diệu-Hữu
Diệu-Hữu tức Chân-Không
Nếu chưa đạt lẽ nầy
Thà tu hành chấp CÓ
Ðừng cầu cao bác tướng
Mà lạc vào Ngoan-Không
Ðây chính hầm khổ đọa
Kẻ thông minh đời nay
Ða số mắc lỗi nầy.
Xưa có sư TÔNG THẮNG
Tài huệ biện cao siêu
Vì ỷ giỏi kiêu căng
Nên bị nhục chiết phục
Hỗ thẹn muốn tự tận
Thọ thần hiện thân khuyên
“ Sư nay đã trăm tuổi
Tám mươi năm lầm lạc
May nhờ gặp Thánh nhân
Huân tu mà học đạo
Tuy có chút công đức
Mà lòng hay bỉ ngã
Ỷ thông minh biện bác
Lấn người không khiêm hạ
Lời cao hạnh chưa cao
Nên phải bị quả báo
Từ đây nên tự kiểm
Ít lâu thành trí lạ.
Các THÁNH đều tồn tâm
NHƯ LAI cũng như vậy ”
Lại có kẻ đua tướng
Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư
Mượn thuyết pháp, tụng kinh
Ðể mưu cầu lợi dưỡng
Dành đệ tử, chùa chiền
Lập bè đảng, quyến thuộc
Thấy có ai hơn mình
Liền thị phi tật đố
Hại Thầy Bạn, phản Ðạo
Lừa dối hàng tín tâm
Lời nói thật rất cao
Việc làm thật rất thấp
Lý Sự đều sai trái
Hạng ấy hiện rất nhiều
Tạo biển khổ thêm sâu
Khiến đau lòng tri-thức
Lý, Sự đại lược thế.
CÔNG ĐỨC làm sao được?
Phật là ÐẠI Y VƯƠNG
Pháp là DIỆU TIÊN DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma , quỷ mị
Nạn động đất, xe, thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải thoát.
CHUYÊN TỤNG một phẩm Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các nguyện
Thỏa mãn các mong cầu
Chỉ sợ người không tin
Hoặc tin mà không sâu
Lại ngại không thực hành
Hoặc hành không bền lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu
Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người, cảnh
Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
Không hành như trên đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là PHÀM TĂNG
Giúp ích được gì đâu
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng THÀNH KÍNH
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
LẮNG LÒNG suy gẫm sâu.
Trời xanh tươi biếc một mầu
Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay
Mà sao đời đạo đổi thay
Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ
“THUYẾT PHÁP bất đậu cơ
Chúng sanh một khổ hải ”
Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương
Sóng dồn bọt biển tà dương
Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên
Bụi hồng tung gió đảo điên
Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.
Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.
VỀ TÂY-PHƯƠNG
Hòa-Thượng Thích-Thiền-Tâm
Cơn Pháp-nhược ma cường Tan-tác,
Làng tu chân ngơ ngác đôi nơi.
Tây-Nguyên cũng một góc trời,
Lọ là đua bước vào nơi thị thành.
Đêm Tịnh-Viện chuông thanh Ngân-ngợi,
Sông Phương-Liên trăng rọi tỉnh mê.
Nẻo trần Phiền-lụy Ủ-ê,
Lưới trần thoát tục mọi bề nơi tiên.
Đạo huyền, huyền lại Hư-huyền,
Cơ thiền, thiền lại sanh thiền biết đâu?
Gắng công bền chí lâu lâu,
Khơi trong gạn đục, thấy mầu Chân-nguyên.
Phải Căn-duyên Bồ-Đề giống trước,
Vẹn Tu-trì tỏ được tiền thân,
Máy thiền rộng thẳm Khôn-phân,
Lắng tâm lãnh ngộ, thì gần chẳng xa.
Lướt Phong-ba mấy người chí cả,
Khỏi Ái-hà cũng họa Tiền-duyên!
Bướm Loan vượt bể Vô-biên,
Gió day mặc gió, vững thuyền thì xong.
Dốc một lòng lên non đào giếng,
Mặc lời phàm đem tiếng thị phi,
Cam lồ rửa sạch tánh mê,
Nước trong tỏ hiện, trăng kia Sáng-ngời.
Quyết một đời nương theo dấu Phật.
Lạc ở mình ấy thật bởi đâu?
Màu thiền đắc ý cũng mầu,
Còn hơn Chen-chúc Vương-hầu Công-khanh.
Chớ Đua-tranh trong vòng Ngũ-dục.
Tắt lửa lòng gắng học Ma-ha,
Cảnh nào cảnh chẳng có hoa,
Non nào non chẳng có tòa Thiên-Thai.
Khách trần ai Khôn-ngoan chèo lấy,
Tới Bảo-trì tất thấy hoa Sen,
Bỏ công Kinh-kệ hương đèn,
Tây phương về đến, một phen an nhàn!
AI VỀ CỰC LẠC ?
"Ai về Cục-lạc mau về,
Đừng mê trần cảnh, mà Thê-thảm sầu!"
Cực-Lạc Câu-lơn giáp bảy vòng,
Lâu-đài Ẩn-hiện sáng Mênh-mông!
Mưa hoa Lác-đác trời Quang-thoại,
Nhạc ngọc Thâm-trầm khoảng bích không.
Cục-Lạc mành châu lưới bảy từng,
Đẹp màu Liên-Hải, vẻ Trường-xuân.
Hoa Sen ánh sáng hòa trăm sắc,
Rộng tỏa hương thanh chiếu Rạng-hừng!
Cực-Lạc cây Quỳnh bảy lớp quanh,
Trân-cầm đua hót giọng kêu thanh.
Đường vàng Rộng-rãi, theo Giây-báu!
Lá bích reo vang, tiếng pháp lành.
Cực-Lạc Như-Lai đức vẹn tuyền.
Quán-Âm, Thế-Chí, sắc Vô-biên!
Hằng-sa Bồ-tát, mây lành hội,
Nghe học mầu sâu, đạo Pháp-huyền!
Cực-Lạc thiên nhơn đức hạnh thanh,
Khi ngồi Nhập-định lúc Kinh-hành.
Ba mươi hai tướng Kim-thân đẹp,
Sống mãi Vô-ưu bạn đạo lành.
Cực-Lạc ban mai chúng thiện nhơn.
Mang hoa, kỷ-nhạc, dạo mười phương.
Cúng-dường chư Phật, rồi nghe pháp,
Thiền-duyệt thanh trai, lúc phản hườn.
Cực-Lạc trời vui sáng một miền,
Đẹp mầu vượt hẳn, cảnh thần tiên.
Di-Đà sẵn trãi lòng Bi-nguyện?
Chưa biết ai là kẻ hữu duyên?
AI HỮU DUYÊN?
Đức Quán-Thế-Âm Bồ-tát nói : "Trong lúc cuối thời Mạt-pháp nầy, nếu người nào mỗi ngày đều niệm đủ một muôn câu (10,000) Phật hiệu cầu nguyện Vãng-sanh. Đó là kẻ Hữu-duyên, Quyết-định khi Mạng-chung sẽ được sanh về Cực-Lạc."
Nam-mô Tây-Phương Vô-Lượng Công-Đức-Tạng Thế-giới, Thánh-Vô-Lượng-Thọ, Quyết-Định Quang-Minh-Vương Phật.
Nam-mô Tây-phương An-Lạc Thế-Giới, Vån-Ức-Tử Kim-Thân, Tầm-Thinh Cứn Khổ, Quảng-Đại Linh-Cảm, Quán-Thế -Âm Tự-Tại, Bồ-Tát ma-ha-tát.
Nam-mô Tây-Phương An-Lạc Thế-Giới, Vô-Biên Quang-Xí-Thân, Đại-Lực Đại-Thế-Chí Bồ-tát ma-ha-tát.
Nam-mô Tây-Phương An-Lạc Thế-Giới, Phước-Trí Nhị- Nghiêm-Thân, Thanh-Tịnh-Đại-Hải-Chúng, Bồ-Tát ma-ha-tát.
Nam-mô Phương-Liên-Tịnh-Xứ Mật-Tịnh Đạo-Tràng Trúc Liên bồn thất cố Hòa-Thượng Tôn-Sư, Liên Đài Tọa hạ nhứt vị Giác-linh, Thùy-từ chứng-giám.
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-DI.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Kính thưa đại chúng,
Tôi bẩm chất gầy yếu, trong vài năm trở lại đây, tinh thần cùng sức khỏe thật ra đều suy kém. Vì ngại cơn vô thường chợt đến, nên nguyện an thất tịnh dưỡng, trì niệm cho mãn kiếp gởi tạm sống thừa! Trước kỳ tự tứ vừa qua, vào ngày 12 tháng 7 Âl năm Nhâm Thân 1992, Tôi có viết thư cho thầy Minh Tánh và Toại Châu nhờ thầy thay lời, xin đại chúng gồm chư Đại Đức Tăng ni và Phật tử, vui lòng thứ miễn cho việc tiếp xúc cùng làm lễ khánh tuế sau khi mãn hạ. Nhưng khi hỏi lại, thì thầy Toại Châu nói đã đánh mất bức thư ấy, nên chẳng tuyên bố. Do đó mà nhiều người đến thăm không được gặp, nên sanh lòng phiền muộn.
Kỳ Bồ Tát vừa rồi Sư Cô Phương Liên (Thích nữ Thanh Nguyệt) có nhắc qua việc ấy (2-8-1992) nhờ thầy Toại Châu trùng tuyên lại những lời của tôi, mà thầy cũng quên luôn. Trong ngày giỗ Tổ này e đại chúng trách rằng: Tôi bỏ quên, không để tâm nhắc nhở, nên xin có ít lời khuyên tấn, tạm gọi là giữ cho xong phần nào vai trò của người lớn trong đạo. Nhưng vì còn lo thầy Toại Châu đau yếu, rồi quên trước quên sau, nên nhân tiện nhờ Sư Cô Phương Liên (Thích nữ THANH NGUYỆT) là người thân cận (Trưởng tử tôi) thay nhọc chư tăng ni, đọc qua mấy lời phụng khuyến cho đại chúng được rõ:
Thưa chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni :
Trước tiên, tôi kính thăm tất cả đều được an lành và siêng năng tiến đạo. Thứ đến, xin có đôi lời phụng khuyến.
Từ xưa đến nay, trong nhà chùa vào trong những ngày vía Tổ chư Tăng Ni thường có lời phục nguyện:
“Tông phong vĩnh chấn,
Tổ ấn trùng quang”.
Nói riêng theo pháp môn “NIỆM PHẬT” tức là nguyện cho tông “TỊNH ĐỘ” do chư Tổ tuyên dương, được chấn chỉnh và hưng thạnh phải như thế nào? Tôi xin nêu ra mấy chi tiết. Như trong “Bồ Tát Giới Kinh” đã dạy: “Già chết gần kề. Phật, pháp sắp diệt. Các Phật tử vì muốn đắc đạo phải nên nhứt tâm cần cầu tinh tiến”. Câu kinh này đưa ra ba điều kiện:
1.- Phải nghĩ đến sự già chết gần kề.
2.- Phải thương lo cho Phật pháp suy vong sắp diệt.
3.- Phải siêng năng tinh tiến tu hành.
Giữ được ba điều kiện ấy, tức có thể làm cho: “Tông phong vĩnh chấn – Tổ ấn trùng quang”.
Về điều thứ nhất: Phải nghĩ đến sự già chết gần kề.
– Kiếp người giả tạm, nào có bao lâu? Trong ấy biết bao nhiêu sự vui buồn, nhục, vinh, lo phiền, nhọc nhằn, già yếu, đau bịnh! Nếu ta không nghĩ đến thân người mong manh nhiều khổ lụy, mà cố gắng tu thiện, cứ mãi tạo nghiệp, để rồi bị chìm đắm, có phải là hờ hững mê lầm chăng?
Về điều thứ hai: Phải thương lo cho Phật pháp suy vong sắp diệt.
– Đức Phật ra đời và chánh Pháp của ngài rất khó gặp, như hoa “Ưu Đàm Bát La” trong thời kiếp lâu xa, mới nở một lần. Nay đã đi sâu vào buổi mạt pháp, đạo Phật sắp suy tàn rồi ẩn một. Chúng ta là hàng con Phật, phải kính mến thương lo, hộ trì mối đạo và muốn cho đạo pháp trường tồn, phải thương xót nâng đỡ nhau, đừng vì lợi quyền danh vọng, hoặc tài, sắc, mà bôi nhơ, tàn hại lẫn nhau.
Kinh Phạm Võng nói:
“Phật pháp không phải thiên ma, ngoại đạo có thể hủy phá, chỉ có người con Phật, mới phá hoại được mà thôi!”
Đau buồn thay!!
Điều này hiện nay, khắp nơi đã nhan nhãn thấy xuất hiện. Các bậc hữu tâm trong đạo thấy thế chỉ còn biết yên lặng ngậm ngùi!
Nhớ lại thời cận đại ở nước Việt Nam ta, có hai bậc túc nho vừa có tài danh, lẫn đức hạnh. Vì thấy luân thường đảo lộn, nho giáo suy đồi, hai vị ấy, đành cam bề ẩn dật. Nhưng đã có danh đức, tất có nhiều người tìm đến, nên cũng vì thế mà bị người ganh ghét bôi nhơ! Những kẻ làm việc đó, là người trong đạo KHỔNG mà mỉa mai thay! phần đông lại là hàng mô đệ của hai bậc tôn túc nho kia! Sau khi được người thuật lại đầy đủ về việc hủy báng ấy, trong hai bậc lão nho, một vị mĩm cười khẳng khái nói:
“Rắn rết gớm ai lòng độc kia!
Rồng mây phó mặc chuyện huyên thiên”
Còn một vị kia chỉ rơi lệ bảo:
“Việc đời thà khuất đôi con mắt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”.
Nơi đây, ta nhìn xét thấy hai trạng thái:
“Một nụ cười can đảm, an nhẫn, bất chấp, gác qua mọi chuyện thị phi …
“Và một nét khóc, thương xót ai mê lầm gây tội lỗi mà mình bất lực không thể can ngăn, khuyên bảo, cứu vãn được, chỉ còn biết tự tỉnh, bền giữ đạo tâm, như gương tròn sáng.
Nụ cười cùng tiếng khóc, của hai bậc lão nho xưa, đã hàm ẩn đầy đủ tinh thần BI – TRÍ – DŨNG của đạo Phật, thật đáng cho hàng Phật tử, chúng ta phải suy gẫm.
Còn về điều thứ ba: Phải siêng năng tinh tiến tu hành.
Thì ý kinh, khuyên ta phải siêng tu. Siêng tu đây, không phải chỉ tụng kinh, niệm Phật, để khoe số nhiều, mà tụng niệm với tâm thanh tịnh, an lành, với lòng chí thành trong sáng, mới được diệt tội sanh phước.
Lại chẳng phải chỉ có tụng niệm suông, mà phải giữ tâm niệm, lời nói và hành động, theo điều giới thiện Như thế, mới xứng hợp là người tu Phật. Và tu như thế mới mong có ngày được lên bờ giải thoát.
Trước khi dứt lời, để tóm lược, tôi xin trân trọng nhắc lại cùng đại chúng ba điều trên là:
1.- Phải nghĩ đến sự già, chết, vô thường.
2.- Phải thương mến đạo, biết nâng đỡ nhau.
3.- Và phải biết siêng năng tu tập.
Nếu trái với lời kinh dạy, thì ngôi nhà Phật, Pháp sẽ bị sụp đổ, bởi sự hủy phá của những người mang danh nghĩa là hàng “CON PHẬT”. Những vị chân tu, tự nhiên phải thật hành theo ba điều kiện trên.
Còn trái lại, những kẻ giả tu, muốn nhận diện cũng không khó, quý vị chớ vội nghe lời trau chuốc bên ngoài, hãy xét kỹ, nơi ngôn ngữ… cùng hành động của họ, tự khắc sẽ biết.
Xin Kính chúc chư Thượng Tọa, Đại đức Tăng Ni, chư quý Phật tử, một mùa kỷ niệm Tổ, đầy tình thương và đạo hạnh.
THÍCH THIỀN TÂM
TB: Bức thư này nên tùy phương tiện đọc cho những vị hữu duyên nghe mà thôi!
Những kẻ vô duyên, chắc họ không tỉnh ngộ, trước lời thiết tha khuyên nhắc!!!
Các vị Lão thành xưa thức lượng sâu xa, cũng đều phải cam bề ẩn mình giữ đạo, trước tình thế không thể khuyên ngăn được.
Thầy cũng không hơn nổi những bậc tiền bối ấy đâu.
THÍCH VÔ-NHẤT
(Lấy ý câu: Nhất sự vô thành thân tiệm lão)
LỜI DI CHÚC TẠM
Đề bút:
Tuyền nhiễu sơn hoa thào mộ nhàn,
Huyễn thân hà sự hựu đa đoan?
Ưng tri vô tận trầm luân hải,
Vị xuất luân hồi khổ diệu mang!
Tôi tăng sĩ Thích Thiền Tâm, pháp hiệu Vô Nhất, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, hiện cư ngụ tại tịnh thất Phương Liên I, thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.
Nay tuy tôi thường đau yếu, nhưng tâm não còn minh mẫn sáng suốt, xin viết di chúc tạm gồm mấy điểm để phú chúc lại cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia.
Nói di chúc tạm, vì thấy một số tăng ni cho đến cư sĩ: Kẻ đã có chùa, thất vì uy tín không bằng, nên ganh tỵ cố ý phá hoại dìm xuống cho bản thân được nổi lên, dù đối tượng là bậc Thầy Tổ đã từng dạy dỗ mình. Hoặc người chưa đủ tư cách để làm đệ tử cầu pháp hay xuất gia, vì bị phủ nhận nên cũng sanh tật đố ganh đua. Họ liên kết nhau, tìm đủ cách tố cáo hủy phá, tung ra nhiều tin thất thiệt như: Phá trai, phạm giới, liên hệ với các hàng ngũ chánh trị khác, tuyên truyền mê tín dị đoan, trị bịnh, soi căn, đoán kiếp, nói quá khứ vị lai, thốt ra những lời phá chánh quyền, xúi giục làm loạn.
Tóm lại họ kết họp nhau, tìm đủ cách gài bẩy dìm che sự thật. Nếu không bắt làm bình phong được để thủ lợi họ sẽ liên tục tố cáo nhờ cháh quyền bắt, hoặc có thể ám sát. Vì thế nên mới có mấy lời di chúc bất thường nầy.
Nay tôi xin tỏ bày tâm nguyện, gồm mấy điều đại khái như sau:
I. Trọn đời tu, nguyện không dính dáng đến chánh trị, không để ai lôi cuốn vào chánh trị, bởi sức khỏe suy kém, và đó không phải là khả năng của mình.
II. Chỉ mong được yên ổn tu hành để cầu giải thoát, ai gọi là Hòa thượng cũng được, ai kêu ông đạo cũng xong.
III. Không mượn danh Tam Bảo để tổ chức làm tiền, hoặc quyên tỏi đóng góp, mỗi ngày được ăn rau luộc cơm thì là đủ.
IV. Dứt cả sắc, tài, danh, lợi, thị phi, mặc ai dèm siễm, đàm tiếu, chê bai, vì những điều đó không liên hệ gì đến sự giải thoát.
V. Không ra làm Phật sự với giáo hội nào nữa, vì mình bẩm sinh gầy yếu, nay đau mai bịnh, không còn đủ sức hoạt động. Vả lại trước kia đã có thời gian dạy dỗ chư tăng, ni diễn dịch kinh sách, khuyên tu để đền đáp sự cúng dường của hàng tín chúng tự nghĩ đã làm Phận sự báo ân tam Bảo rồi.
VI. Sau khi tôi mãn phần, mọi việc hậu sự đều do trưởng tử của tôi là Ni sư Thanh Nguyệt sắp đặt. Chư tăng ni khác hoặc thuộc tịnh viện Hương Nghiêm không được quyền can dự vào lấy cớ đem về tịnh viện xây thất thờ cúng để làm bình phong cầu danh lợi. Bởi họ chỉ: học chúng tạm nương nhờ, không phải là đệ tử thế tôn xuất gia, cũng không phải là đệ tử cầu pháp, vì nếu đệ tử cầu pháp, phải có pháp phái do tôi ký tên chứng nhận. Tôi cất chùa cho họ ở, họ lại nhờ uy tín của tôi mới được sự cúng dường để tu học nên không có quyền mượn danh nghĩa của tôi để bành trướng rồi lần lần chiếm luôn Tịnh viện. Việc xây cất tu viện cả Hòa thượng Bửu Huệ và Bửu Lai chỉ là người hỗ trợ trên danh nghĩa, bởi mỗi vị đã có chùa chiền đệ tử riêng, sau đều xin rút lui giao lại cho tôi, vả lại hai ngài cũng đã viên tịch rồi.
VII. Khi tôi viên tịch, bởi nghĩ mình kiếp trước đã tạo lắm nghiệp duyên, nên nay mới bẩm sanh suy yếu, ý chí muốn theo gương điểu táng ở Tây Tạng.
Tôi xin chia làm tam sách như sau:
1. Thượng sách là đem xác thân để tựa cách rừng hoang bố thí cho loài chim, thú, hoặc treo đá dìm xuống vực sâu bố thí cho loài thủy tộc, để đền trả nghiệp đời trước.
2. Trung sách là bó chiếu chôn sâu, khỏa bằng để chỗ trồng thơm, chuối cũng có lợi cho người.
3. Hạ sách, nếu hàng đệ tử không nỡ làm như vậy, nên đóng sơ mấy tấm gỗ thông, bên trong độn lá chuối, trên để tấm pháp y, xây ngôi mồ cỏ đơn sơ. Trước mộ dựng tấm bia ghi câu lưu niệm:
“Bất huệ nạp tăng, Thích Thiền Tâm hiệu Vô Nhất mai cốt xứ”.
Lời di chúc này phó cho trưởng tử Thanh Nguyệt và các đệ-tử tại-gia thâm tín chấp hành, được toàn quyền quyết định.
Ngày 12-10-1992
Người di chúc: (Ký tên) Thích Thiền Tâm
NGƯỜI DI CHÚC
Trưởng Giáo kiêm Giám Đốc Phật học viện Huệ Nghiêm (Trước và sau trong thời gian làm việc), Giảng sư Phật học Ni trưởng Dược sư.
Giáo sư về Duy thức học trong đại học Vạn Hạnh.
Phiên dịch viên trong ban Phiên dịch Tam tạng Kinh điển. Viện chủ Hương Nghiêm tu viện.
Thích Thiền Tâm hiệu Vô nhất
Thế danh Nguyễn Nhựt Thăng
(Ký tên)
Thích Thiền Tâm
Thích nữ Thanh Nguyệt hiệu Phương Liên là đệ tử trưởng do tôi làm lễ xuất gia và thế độ.
Tôi cho y chí với ba vị Ni Trưởng:
Ni trưởng Diệu Ngộ chùa Phổ Đức.
Ni trưởng Đạt Đạo chùa Pháp Quang.
Ni trưởng Huyền Học. Tổng vụ Ni bộ Bắc tông.
NGƯỜI LÃNH NHẬN LỜI PHÚ CHÚC
Thích nữ Thanh Nguyệt hiệu Phương Liên (Theo tên Giáo hội Ni bộ, gọi là Tâm Nguyệt, theo thứ tự sau khi thọ đại giới, lại gọi là Như Nguyệt – chữ Tâm là lấy tên sau của thầy thế độ – chữ Như là thứ tự chung của người sau khi thọ Tỳ kheo ni Bồ tát giới).
Trưởng tử Thích nữ Thanh Nguyệt được toàn quyền quyết định về Am tự, Pháp bảo, đất đai và mọi tài bảo pháp khí của tu viện.
Người lãnh nhận di chúc.
Xin nguyện chấp hành trước Tam Bảo
(Ký tên)
Thích nữ Thanh Nguyệt
Lược dịch chức vụ của đương sự trong Ni bộ.
1.- Hiệu trưởng trường Bồ đề Văn Lang.
2.- Tổng thơ ký Tổng vụ Ni bộ Bắc tông. Giáo sư về thế pháp hai trường Ni bộ Từ Nghiêm và Dược sư.
3.- Y tá trưởng chùa Ni bộ Từ Nghiêm.
HƯƠNG NGHIÊM TỊNH XỨ MẬT TỊNH ĐẠO TRÀNG
PHƯƠNG LIÊN TỊNH XỨ MẬT TỊNH ĐẠO TRÀNG
MỤC LỤC
1.- Ẩn tu nào phải cố xa đời !
6.- Ẩn tu bền chí giữ công phu
11.- Ẩn tu cửa đạo trải bao năm
16.- Ẩn tu nghĩ muốn thoát dòng mê !
21.-Ẩn tu Không có, Có mà Không !
26.-Ẩn tu được biết kiếp lâu xa
31.-Ẩn tu niệm dứt tướng vào ra
41.-Ẩn tu chợt nhớ Hổ Khê xưa !
46.-Ẩn tu lòng đạo sáng gương rằm
51.-Ẩn tu ngẫm diệu đạo Liên trì
61.-Ẩn tu tục lụy thấy muôn mầu
66.-Ẩn tu quyết chí gạt trần tình
71.-Ẩn tu tìm hỏi truyện Tây Thi
81.-Ẩn tu đàn suối cạnh triền non
86.-Ẩn tu xót cảnh đạo đời suy
91.-Ẩn tu khuyên khắp sớm hồi đầu
96.-Ẩn tu tâm PHẬT hội Tào Khê
BÀI SỐ 100
Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu
Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu
THANH TỊNH, CHÍ THÀNH trong mấy điểm
LỰC HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN SÂU.
NHƯ Ý : 3 Điểm TÍN-NGUYỆN-HẠNH với sự CHÍ-THÀNH tu trì là yếu ước của môn Tịnh-Độ, Tuy nói ít song nếu dẫn ra, thì Rộng-rãi Mầu-nhiệm Vô-cùng.
Đạo NHO bảo:
“Phóng Chi Tắc Di Ư Lục Hiệp,
Quyện Chi Tắc Thoái Tàng Ư Mật.”
(Buông ra thì Đầy-cả Đất-trời,
Thâu lại mất Không-còn Hình-tướng.)
Ý nầy đâu khác chi với Đạo-Phật.
Thưa các Vị,
Tám bài cuối xin miễn giảng giải, càng nói lại càng Sai lầm, SAI VỚI ĐẠO, bởi vì đây cũng là Ý sau rốt của người TU, Bút-giả hiện chưa đi đến Địa-vị nầy như Chư Tăng Ni khác, vẫn mong sẽ đắc Ý trước khi VIÊN TỊCH.
BÀI KỆ THỨ 101
Ẩn tu niệm niệm bút sanh hoa
Thi-tứ nguồn tâm một mạch ra
Danh-tự vị nguyên là Phật-nhãn
Non Tây rực rỡ dệt hồng hà.
BÀI KỆ THỨ 102
Ẩn tu trắc trắc, lại bình bình
Niệm đạt vô-tình lẫn hữu tình
Lầu tuyết rã tan ngàn thế giới
Chân trời pháp nhãn lộ bình-minh.
BÀI KỆ THỨ 103
Ẩn tu niệm vỡ chụp pha-lê
Muôn ổn ngàn yên lặng khắp bề !
Riêng một bóng Tăng ngồi tĩnh-tọa
Lâm-viên vừa bặt tiếng sơn khê.
BÀI KỆ THỨ 104
Ẩn tu sừng-sửng cội cây khô
Một ngón Thiên Long, dứt ý-đồ
Phật tử đến thăm như hỏi đạo
A Di Đà Phật lại NAM MÔ.
BÀI KỆ THỨ 105
Ẩn tu nhơn cảnh chợt đều quên
Sáng-rỡ vầng-nga rọi trước thềm
Mùi đạo Lan-thanh riêng tự biết
Kêu mưa đã vắng giọng cưu đêm.
BÀI KỆ THỨ 105
Ẩn tu suối lặng bóng chim qua
Chim nước đều như tự tại hoà
Di Lặc trao cho xem túi vải
Dưới trên đều rỗng, giọng kha kha !!!
BÀI KỆ THỨ 107
Ẩn tu bên viện tiếng chuông dồn!
Sấm nổ Oai âm tỉnh mộng hồn
Chồn nhảy vào hang Sư tử chúa
Sư-Vương lại dạo dã hồ thôn.
BÀI KỆ THỨ 108
Ẩn tu trì niệm tháng năm qua
Đạp lối Sen thanh trở lại NHÀ
Tin-tức ngày nay vừa thấy được
Tiếng chuông Sơn tự bóng trăng tà !
TỰ CẢM
Sáu tám nhọc-nhằn kể xiết chi,
Thăng trầm nhiều nổi chí không di.
Mài giũa cho thành ra ngọc quý,
Mới hay châu nọ thiệt “Ma-ni”.
Một niệm công-thuần hai bốn chẵn,
Cõi tạm khứ-hồi mấy kẻ tri!
Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,
Trần-duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.
Sáu tám năm qua việc đáng kinh,
Thăng-trầm vùi-dập, lắm tai-tinh.
Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
Mà kiếp phù-sinh tạm múa hình.
Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT NIỆM,
DI-ĐÀ sáu chữ phóng quang-minh.
Hôm qua tin-tức trời TÂY báo,
GIỜ MẸO MAI ĐÂY TẠ THẾ TÌNH.
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
TA ĐI ĐÂY – ĐẠI CHÚNG NÊN BẢO TRỌNG
Ðại-sư hưởng thọ tuổi đời 68, tăng-lạp 48.
ẨN TU NGẪU VỊNH
TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,
GIÓ LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.
Nương mình tựa án xem NGƯỜI CỔ,
ẨN BÓNG trong gương ngẫm chuyện đời.
Vào đêm RẰM, ngày 15/5/1989 Âm lịch (nhằm ngày KỶ DẬU, tháng CANH NGỌ, năm KỶ TỴ), sau thời khóa, HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM bỗng ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là ẨN TU NGẪU VỊNH.
HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Kính thưa Quý-vị !
Cách đây ít lâu, một hôm tôi sang vấn an sức khỏe thầy tôi bảo, đêm RẰM vừa rồi sau thời khóa, THẦY bỗng ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là ẨN TU.
Sau đó, thầy có chỉnh đốn lại đôi chút, nay nhân tiện đọc cho con nghe. Sau khi nghe xong, tôi xin phép ghi lại và muốn chuyển đọc cho các phật tử đến thăm nghe biết.
Thầy dạy: “ Điều ấy không nên vì người tu trong một lúc nào đó Tâm Thanh tịnh, bỗng nảy ra nhiều ý kiến cao siêu mới lạ nhưng phải liền gạt bỏ qua, nếu cứ ghi nhớ ý kiến hay ấy, tất Thành ra SỞ TRI CHƯỚNG, bởi Chân-Tâm là thể VÔ TRI LINH TRI, tuy không biết mà biết tất cả hoặc ngay khi trong lúc tâm thanh tịnh đó, hành giả có thể viết ra cả ngàn bài tụng một cách dễ dàng, song nếu chấp lấy danh từ cứ ưa viết mãi trong TÔNG MÔN gọi là thiền bịnh, giả lại cảnh giới người tu chỉ có người tu mới thấu đáo.”
Nên Thiền Quyển có câu:
“Gặp hàng kiếm khách nên trình kiếm,
chẳng phải thi nhân chứ nói thi.”
Nếu con đọc ra, sợ e kẻ nói một đằng người nghĩ một nẻo, rồi thành ra việc thị phi mà thôi. Tôi thưa, con thấy trong QUY NGUYÊN TRỰC CHỈ ngài TÔNG BẢN khi ẩn trong núi có vịnh 100 bài thi gọi là “SƠN CƯ BÁCH VỊNH” việc ấy như thế nào?”
Thầy tôi đáp: So sánh sao được với TÔNG BẢN ĐẠI SƯ, ngài là một bậc đại ngộ đã vượt con đường muôn dặm về đến quê nhà, còn thầy thì chỉ mới tập tễnh đi một vài bước. Ngài ví như người sáng mắt thấy toàn thể con HƯƠNG TƯỢNG, còn thầy ví như người mù rờ VOI, nói ra dẽ lạc lầm.
Câu chuyện đến đó rồi cũng tạm trôi qua, tuy nhiên có 5 , 3 PHẬT TỬ đến viếng thăm Than Thở Đã lâu lắm rồi không gặp mặt HÒA THƯỢNG, lại không nghe được lời nhắc nhở, trong tình thế đáng thương ấy, tôi có lén thầy trích đọc ra một vài đoạn, để an ủi họ.
Nay gần tới ngày CHUNG THẤT của THÂN MẪU bổn sư, tôi lại cố gắng một lần thứ ba xin thưa thêm. Bạch thầy: Thầy nói cuộc đời của thầy là ẨN TU, ít hôm nữa là đến ngày chung thất cũng là ngày cuối cùng làm LỄ TRUY TIẾN bà về cõi Phật, con xin phép đọc mấy bài hôm trước cũng như thay lời tâm sự để GIÁC LINH bà thông cảm cảnh đời ẨN TU của thầy.
Thầy im lặng ý không muốn chấp nhận, nhưng cũng không nỡ Phủ Nhận lời xin của hàng đệ tử đã vì thân mẫu mình.
Tôi nghĩ thầy im lặng tức là tùy ý tùy duyên, nên hôm nay là cơ cảm để thầy có dịp tâm sự với Mẫu-Thân một lần sau rốt. Và đây xin đọc bài thứ nhất.
Tỳ-kheo-ni thích nữ PHƯƠNG LIÊN
Comments
Post a Comment