CỰC-LẠC DU LÃM KÝ
Từ-quang Phật thánh chiếu Ta-Bà,
Hóa hiện Kim-Kiều nối cõi hoa.
Thanh sắc cảnh mầu Kỳ đẹp diệu,
Thiên-cung lạc khúc quản huyền ca!
DẪN NGÔN
Có người cho thế-giới Cực-Lạc là huyễn dụ, để dẫn người ưa thích cảnh đẹp vui, tiến bước vào cửa Phật pháp. Hoặc có kẻ tuy tin cõi Tịnh Độ là hiện hữu nhưng diễn đạt một cách sai lầm, nhóm tu học trên đại khái gồm 3 dạng:
1. Các ngoại phái
cho Tịnh Độ là cảnh thiên tiên có lầu các, ao sen, cây báu hoặc Tịnh Độ Cực Lạc là một thế giới ở bầu Kim tinh thuộc phương Tây, cho nên những vị ấy đã đề vịnh:
Trong động bích
sa trời đất khác,
Bên cành hồng thọ tháng ngày dài.
Hay
Đạo đức từ bi những bấy chầy,
Thanh nhàn Cực Lạc ở phương Tây.
Nhưng cõi
Tây Phương Tịnh Độ cách thế giới ta bà này mười muôn ức Phật sát, số ức ở ấn độ thời xưa trung bình là một triệu, tức một trăm tỉ cõi Phật. Đức Thích-ca mâu ni lấy một tỉ thái dương hệ thuộc cõi ta bà này làm một Phật sát để phân thân hóa độ gọi là đại thiên thế giới, một Phật sát có thể rộng từ một cõi đại thiên. Như trong Kinh Pháp Hoa Đức Thế Tôn thọ ký cho Ngài Phú Lâu Na về sau thành Phật lấy hằng hà sa cõi đại thiên làm một Phật độ, cho nên Kim tinh hay cảnh giới của thiên
tiên chỉ là ở trong phạm vi một thái dương hệ, không phải là cõi Cực Lạc.
2. Hàng Thanh Văn không tin có cõi Cực Lạc hoặc chư Bồ-tát nào khác, ngoại trừ Đức Thích-ca và Di Lặc, điều ấy không chi lạ bởi cực quả của Thanh Văn thừa là ngôi A La Hán, đạo nhãn[tầm nhìn] của A La Hán chỉ thấy suốt trong phạm vi một đại thiên thế giới, không thấy được cõi Cực Lạc ngoài mười muôn ức Phật độ, nên họ không tin.
3. Hàng tu học đại thừa nhưng không có căn lành về Tịnh Độ, chưa tham cứu sâu về hoa tạng thế giới, chưa có kiến thức rộng về các kinh điển đại thừa, không tin có cõi Cực Lạc. Các vị ấy lý thuyết hóa cảnh địa ngục, thiên đường, Tịnh Độ, cho đến chư Phật Bồ-tát đều do tâm thức. Đại khái họ bảo tâm tham sân si, khổ não là địa ngục, tâm sáng suốt, lành vui là thiên
đường, tâm
thanh tịnh là Tịnh Độ, A Di Đà là thể tánh vô lượng quang thọ sáng suốt thường hằng, địa tạng là tâm địa, tánh tạng, chứ không có Đức A Di Đà và địa tạng nào khác. Đồ hoạ cảnh địa ngục có quỷ ngưu đầu, mã diện, lò lửa, vạt dầu là để răn người làm ác, đồ hoạ cõi Cực Lạc có ao sen, cây báu, lầu ngọc, đất vàng là để khuyến tấn dẫn dụ người làm lành. Lối lý thuyết ấy chỉ đưa người học Phật vào cái chấp thiên không tà kiến, bác phá nhân quả, khiến cho hành Phật tử mê mờ lầm lạc, thậm chí họ thấy ai niệm Phật, niệm Quán Âm, tụng kinh điển đại thừa đều dẫn lời chư Tổ xưa tìm cách bác phá. Tổ nói với một ý khác họ lại vin vào đó dẫn giải theo thiên kiến của mình với một ý khác, thật đáng buồn cười thương xót.
Các vị đó đâu
biết rằng, Trí Giả Đại sư là bậc khai sáng tông Thiên Thai[Cũng gọi là Pháp Hoa tông, thế kỉ thứ 6.] khi
lâm chung niệm Phật và bảo chúng rằng: “Tây Phương Tam Thánh và các đồng bạn đã vãng sanh của ta đã đến, đứng chờ giữa hư không để tiếp dẫn”, vĩnh Minh Đại sư đời nhà Tống, một bậc long tượng bên Thiền tông, mỗi ngày đều niệm mười muôn câu Phật làm thường khóa, và gần đây Hư Vân Đại sư (thế kỉ 19-20) là hàng thiền bá trong tông môn cũng
khuyên người niệm Phật, Ấn Quang Đại sư (thế kỉ 19-20) một trong các vị tôn đức thuộc cận đại đã bảo:
Tâm tức Phật, ý hợp thinh,
Như như niệm, vô vô minh,
Điểm trần chẳng nhiễm căn tánh tình,
Ba tạng giáo,
mười hai
kinh,
Muôn tám công án lộ chân
hình
Phật, Tổ dạy, nhiệm mầu linh.
Trở lại vấn đề cõi Cực Lạc có hay không? Theo Phật học, bậc trí thức muốn khám phá điểm này phải căn cứ với 3 điều kiện:
1. Tỉ thẩm lượng: đây là trí lường xét qua sự so sánh, suy gẫm, không phái chờ mắt thấy tai nghe rồi mới xác nhận. Thí dụ như ở thế gian người đức hạnh lành, chí công học hỏi, siêng cần làm việc sẽ được kết quả giàu sang hoặc ít nữa là danh tốt lưu truyền, trái lại, kẻ hung gian, độc hiểm, dốt nát, lười biếng, làm điều trái phép sẽ bị nghèo khổ, tù đày, dù có được no ấm bình an cũng chỉ trong vòng tạm bợ nhất thời. Nếu người công đức lành quá lớn, kẻ tâm hạnh ác quá to tất phải có cảnh Cực Lạc, thiên đường hay ngạ quỷ, địa ngục để trả đền, như thế mới họp với lý nhân quả, chớ không đợi tận mắt trông thấy rồi mới tin. Xin tạm trích ra đây một đoạn vấn đáp trong Phật điển giữa vua Milinda (Di Lan Đà)
và tôn giả Nãgasena
(Na Tiên):
– Bạch Tôn Đức, Trẫm không thấy cảnh địa ngục thì sao tin được rằng có cõi ấy!
– Thưa Đại vương, Ngài có trông thấy dòng nước rộng, hai bên bờ nhiều kì hoa dị thảo tươi đẹp của con sông U Há trên dãy Hi
Mã Lạp Sơn[Himalaya] hay
không?
– Bạch Tôn Đức, Trẫm không trông thấy.
– Thưa Đại vương, nếu như vậy thì không có con sông U
Há.
Bạch Tôn Đức, Trẫm tuy không thấy nhưng đã có nhiều người chứng kiến về nói lại nên Trẫm tin có con sông U Há.
– Thưa Đại vương, sự hiện hữu của địa ngục cũng như thế, nên lấy trí cân nhắc suy xét, phải tin rằng có cõi địa ngục chứ không cần đợi trông thấy.
2. Hiện thực lượng: từ xưa đến nay có nhiều Phật tử ở Ấn Độ, Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam tu Tịnh Độ, hiện tiền hay lúc lâm chung họ đã thấy những thắng tướng của cõi Cực Lạc, cho đến Tây Phương Tam Thánh đến tiếp dẫn vãng sanh. Đây là sự hiện thực rõ ràng có ghi vào sử sách, nếu bảo Cực Lạc là cảnh huyễn dụ làm sao có những tướng trạng ấy.
3. Thánh ngôn lượng: chẳng những trong Tịnh Độ tam kinh Đức Thích-ca đã nói sự trang nghiêm ở Cực Lạc, mà trong các kinh đại thừa khác như: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Bảo Tích, Phật cũng từng đề cập đến sự việc này. Và trong nhiều bộ luận chư Tổ đã hằng dẫn giải về môn niệm Phật cùng cõi Cực Lạc, chẳng hạn như trong Đại Thừa Khởi Tín Luận của Tổ Mã Minh, Đại Trí Độ Luận của Tổ Long Thọ, Tịnh Độ Thập Nghi Luận của Tổ Thiên Thai Tri Giả, cho đến Vãng Sanh Luận, Niệm Phật Viên Tông Luận v.v… Người học Phật phải lấy lời của Phật, Tổ làm mực thước mà lượng định, nếu đem chỗ thấy biết cạn hẹp của mình vội bác phá Tịnh Độ đó chính là bác phá Phật và Tổ, kẻ ấy không phải là đệ tử của Phật.
Ấn Quang Đại sư nói: “Phàm phu vì mê mờ không tin có địa ngục nên chư Bồ-tát, Thánh thần thường dùng phương tiện đưa biết bao người đến cõi địa ngục cho thấy biết rồi trở về thuật lại để người đời kinh sợ mà dứt dữ làm lành”. Chẳng hạn như khi xưa đã có truyện Địa Ngục Ký của Sư cô Huệ Hiền tục gọi Cô Ba Cháo Gà ở tại chọ Vòng Nhỏ, tỉnh Mỹ Tho[Nay là
tỉnh Tiền Giang], đây
là truyện nơi Việt Nam, còn riêng ở Trung Hoa thì không biết bao nhiêu trường hợp tương tợ như thế. Trong bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục ở Trung Quốc vào đời nhà Minh có truyện Viên Tông Đạo được anh là Viên Hoàng Đạo đã vãng sanh
đưa hồn sang Cực Lạc để khuyến tấn tu hành, cảnh của Tông Đạo thấy biết chỉ là một phần sự tướng nơi Tịnh Độ, không đầy đủ bằng chuyện gần đây của Khoan Tịnh Pháp sư ở Trung Hoa được Quán Thế Âm Bồ-tát dẫn sang Cực Lạc cho thấy cả chín phẩm vãng sanh, câu
chuyện này rất li kì do chính Pháp sư trần thuật lại và đệ tử của Ngài là Cư sĩ Lưu Thế Hoa ghi chép. Cư sĩ cho đây là tiếng vang chấn động xưa nay, tiết lộ ra những điều mà người khác chưa từng nói đến.
Có lẻ Đức Đại bi Quán Thế Âm cùng chư Thánh thương xót chúng sanh cuối thời mạt pháp, chỉ nương pháp môn Tịnh Độ mới hợp thời cơ để tu tiến và đảm bảo được sự giải thoát nên dùng phương tiện khéo mà hoằng hóa cứu độ đó chăng? Điều này nếu suy ngẫm đọc kỉ độc giả sẽ tự hiểu. Thời gian trước Nguyễn Công Trứ đã nói:
Lỡ duyên với rượu khôn từ chén,
Trót nợ cùng thi
phải chuốc bài.
Nhưng lời ông chỉ nêu lên cái nghiệp dĩ về thơ rưọu của mình mà thôi, riêng bút
giả thấy người đời có lắm nổi khổ, già, bệnh, chết, lần lượt diễn tiễn mà phần đông hãy còn ướ mơ tham vọng, cố hái hoa hạnh phúc trong vườn trần mộng huyễn, nên bỗng động lòng từ bi mẫn thế, muốn nhắc gọi đồng nhân thức tỉnh mới phiên dịch ra quyển này, xin tạm mượn hai câu sau để biểu lộ mối cảm hoài ấy:
Mắt lệ đã mờ sầu biển lụy,
Hoa tươi còn luyến bóng xuân trần.
Và tiếp theo
xin nhường lời lại cho Lưu Thế Hoa Cư sỉ.
Tệ nạp
Vô Nhất
LỜI ĐẦU
Khoan Tịnh Pháp sư quê quán ở huyện Bồ Điền, tỉnh Phước Kiến, Trung Quốc. Sanh nhằm ngày mùng 7 tháng 7 năm
Giáp Tý (ngày 7-8-1924), thân phụ Ngài nguyên họ Phan là một Cư sĩ sùng tín đạo Phật, nhà ở số 140 đại lộ Quang Đông Trấn tại huyện Thành (huyện lỵ Châu Thành).
Vào buổi chiều lúc Ngài sinh ra đời, hai bên phương trời Đông và Tây kim quang chiếu rạng, mặt đất như vàng ròng chiếu sáng huy hoàng, do nhân
duyên đó cha mẹ mới đặt tên cho là Phan Kim Vinh.
Lúc bé theo thân phụ chỉ dạy học ở nhà, năm lên 7 do căn lành
thúc giục, Ngài
năn nỉ xin cha
mẹ cho tới ở chùa Giáo Trung, tỉnh Phước Kiến nên không có nhân duyên đến trường lớp thế tục. Tuy nhiên Pháp sư thiên tư đỉnh ngộ hơn người, thầy dạy kinh, luật đến đâu liền nhớ đến đó, chỗ giải ngộ lại hơn các đồng bạn. Mãi đến năm 15 tuổi, Ngài mới được thế độ xuống tóc với Hư Vân lão Hòa thượng ở chùa Tổ đình Nam Bình Khai cũng
thuộc tỉnh nhà.
Năm 17 tuổi, Hư Vân Thiền sư thấy Ngài là bậc pháp khí, đặc biệt cho thọ giới cụ túc nơi chùa Nam Hoa, tỉnh Quảng Đông.
Kế tiếp, Pháp sư lại chuyển đến chùa Vân Cư, tỉnh Giang Tây để tiện bề tu học. Ngài được Hư Vân lão Hòa thượng truyền chánh pháp nhãn tạng làm vị thừa kế đời thứ 48 tông phái Đổng Vân[Tào Động và Vân Môn hợp nhất], từ đó về sau Pháp sư lần lượt làm trụ trì trải qua các tự viện[Chùa,
viện tu học] :
Khanh Để Bình,
Tiên Phật, Năng
Nhân, Khai Bình, Mạch Tà
Nham, Tam Hội.
Lúc làm trụ trì chùa
Tam Hội, thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Phước Kiến, Pháp sư tọa thiền từ ngày 23 tháng chạp ngồi luôn đến ngày 29 mới xuất định, kể tất cả là 7 ngày, việc xảy ra vào năm 1980 làm toàn
huyện xôn xao
náo động, hàng
đạo tâm đến xin quy y hơn 3.000 người.
Năm 1982, Ngài sang nước Mỹ làm vị tăng hành cước tại thành phố Nữu Ước[New
York] để tuyên dương Phật pháp, Ngài được Phật Giáo Hội ở Bắc Mỹ cử làm đổng sự trưởng danh dự chùa Lạc Na thành phố Cựu Kim Sơn[San
Francisco], kế đến làm đổng sự trưởng chùa Quán Thế Âm ỏ Los Angeles.
Trên đây là vài nét đơn giản giới thiệu Khoan Tịnh Pháp sư, một bậc cao tăng hiện đại. Điểm chánh yếu của tập ký sự này là ghi lại quá trình chính bản thân của Ngài đã kinh lịch[Kinh
nghiệm thực chứng] sang
cõi Cực Lạc tham quan chín phẩm hoa sen ở Tây Phương với những chi tiết li kì của thế giới thanh tịnh bên ấy. Việc trên đây xảy ra vào ngày 25 tháng 10
Âm lịch năm
Đinh Mùi (ngày 26-11-1967), lúc đó Pháp sư đang ngồi thiền ở chùa Mạch Tà Nham đột nhiên được thần lực của Đức Quán Thế Âm đưa sắc thân Ngài đến tạm ẩn nơi động Di Lặc rồi dẫn thần thức sang Cực Lạc. Pháp sư có cảm giác thời gian du lãm trên chỉ trải qua một ngày một đêm, nhưng khi trở về nhân gian đã là ngày mùng
8 tháng 4 Âm lịch nàm
Quý Sửu (ngày
10-5-1973), tính ra khoảng 6 năm
6 tháng. Việc này dường như vượt quá sự hiểu biết thông thường nhưng đối với môn vũ trụ học thì không gian và thời gian tùy mỗi thế giới vẫn có những điểm bất đồng sai khác. Theo các tích
truyền kì thời xưa, có khi ở cõi tiên một ngày, nhân thế phải qua
nhiều năm
tháng, như một vị vua xứ Ai Cập mộng thấy mình lên cõi trên chỉ có 3 giờ nhưng khi hồn trở về nhập xác, nhân gian đã trải qua 8 ngày đêm, điều này người đủ chút kiến thức về Phật học đều có thể lý giải.
Khi Pháp sư bỗng nhiên mất tích ỏ Mạch Tà
Nham tự, toàn thể tăng tín trong chùa đều tản ra tìm khắp hơn 100 động lớn nhỏ thuộc vùng dân cư, lại có người nól mới thấy Ngài trên đường đi đến động Di Lặc ở núi Cửu Tiên, đại chúng cũng lên đó tuần tra mà không gặp. Thậm chí nhiều người xuất tiền nhờ thủy quân lặn dò các ao đầm trong vùng, mướn đội tuần thám đến xét hỏi ở huyện Thành cùng các thành phố Tuyền Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Nam Bình,
và đánh điện nhờ người ở các huyện xung quanh, như Vĩnh Thái, Vĩnh Xuân, Đức Hoa, Phước Thanh để hỏi han. Như thế trước sau vài năm cũng bặc vô âm tín, do đó hàng Phật tử đều cho rằng Pháp sư đã lìa trần, trong lòng bùi ngùi thương cảm.
Kì thực nhục thể của Pháp sư trước sau vẫn không rời động Di Lặc nửa bước, do thần lực chư Thánh duy trì ẩn dấu, khiến cho thân chẳng bị phát hiện và hư hoại. Pháp sư là một bậc cao tăng đắc định, giữ giới luật, tin nhân quả, quyết không khi nào nói dối, đây hiển nhiên là Phật, Bồ-tát vì lòng từ bi muốn cứu vớt và thức tỉnh chúng sanh thời mạt hậu đã dùng phương tiện khéo truyền đạt lời giáo huấn qua bản thân Ngài mà thôi.
Sự kinh lịch của Pháp sư không phải là mộng cảnh, cũng không đồng cảnh giới thấy biết của thiền định vì chúng ta sẽ thấy những tình tiết qua sự vấn đáp, những điểm kì diệu qua nhận thức riêng của Ngài khác hẳn.
Và sau đây là tất cả điều quan yếu do tôi ghi lại trong thời diễn giảng của Pháp sư ở chùa Nam Hải, Phổ Đà Sơn tại Tân Gia Ba[Singapore] vào
tháng 4 Âm lịch năm
Đinh Mão (tháng 5-1987).
Lưu Thế Hoa Cư sĩ kính ghi
Ai hỏi nhà sư sự nghiệp chi?
Thưa rằng giải thoát với từ bi.
Niệm Phật là phương mầu giải thoát,
Năm thừa lại mở cửa từ bi.
DUYÊN KHỞI
Nam-mô A Di Đà Phật
Trình chư Tôn Đức Tăng Ni, thưa chư quý Phật tử, Khoan Tịnh xin gửi lời chúc nguyện an lành đến tất cả chư quý vị.
Hôm nay chúng ta có duyên lành hội ngộ nơi đây, tôi nghỉ đó là túc nhân Phật pháp tiền sanh hoặc các kiếp quá khứ về trước. Đề mục tôi sắp diễn giảng chính là thuật lại việc bản thân đã kinh lịch sang thế giới Cực Lạc Phương Tây, đem các tình cảnh mắt thấy tai nghe tỏ bày cho chư vị cùng được rõ. Xin chia lịch trình này qua 7 phần, mỗi phần gồm nhiều giai đoạn:
1. Diễn tiến tôi đến Cực Lạc như thế nào?
2. Tình hình thực tế trải qua ra sao?
3. Thuật lại các cảnh giới tôi đã trước sau kinh lịch gồm các nơi: La Hán động, cõi Tứ Thiên Vương, cõi
Trời Đao Lợi, Đâu Suất thiên cung.
4. Hoa sen hạ phẩm gồm có 3: Hạ thượng, Hạ trung và Hạ hạ phẩm.
5. Hoa sen trung phẩm lại gồm 3: Trung thượng, Trung trung và Trung hạ phẩm.
6. Hoa sen thượng phẩm cũng gồm 3: Thượng thượng, Thượng trung và Thượng hạ phẩm.
7. Trên đường trở lại nhân gian.
Và sau đây là các diễn tiến ấy.
PHẦN 1:
DIỄN TIẾN TRÊN BƯỚC KHỞI HÀNH
1. Từ chùa Mạch Tà Nham đến Di Lặc Động
Năm 1967, tôi đang đảm nhiệm chức trụ trì tại Mạch Tà Nham Tự. Vào ngày 25 tháng 10 Âm lịch, lúc quá nửa đêm, tôi đang ngồi thiền bỗng phưởng phức nghe có tiếng gọi pháp danh mình bảo: “Đi mau”, vừa khi ấy tự có cảm giác như bị đẩy tới phía trước.
Không kịp chuẩn bị, tôi bước xuống pháp tòa rồi như bị sức thu hút không rõ nguyên
do, rảo đi thật nhanh ra khỏi tự viện. Bấy giờ trong tâm tự biết mình sẽ phải đến động Di Lặc thuộc vùng núi cửu Tiên, huyện Đức Hòa, cách chùa độ hơn 20 dặm. Tuy đi rất mau như thế nhưng không cảm thấy đói khát, mỏi nhọc, cũng không dừng nghỉ.
Lúc ấy ỏ Trung Hoa nhằm phong trào Đại Cách Mạng Văn Hóa (năm 1966 đến 1976), Hồng Vệ Binh tuần tra khắp nơi. Bấy giờ vào khoảng 3 giờ sáng, trong màn đêm đầy sương mù tôi nghe tiếng dân chúng đi trên đường nói:
– Nay là ngày 25 tháng 10 Âm lịch, nhằm thời kì Văn Cách, địa phương rối loạn, chúng ta phải đổi hành trình vào ban đêm mới thuận tiện yên ổn.
2. Duyên hạnh ngộ
Đi tới gần sáng, đột nhiên thần trí tôi thanh tỉnh trở lại. Vừa khi đó, tôi chợt gặp một lão Hòa thượng trang phục như mình, hai bên vái chào
cùng thông tri tên họ. Hòa thượng tự giới thiệu mình là Viên Quán Pháp sư muốn đến núi cửu Tiên, động Di Lặc. Gặp bạn đồng hành tôi vui vẻ tán thành, rồi vừa rảo bước đi vừa trò chuyện.
Pháp sư tợ hồ biết rõ nhân quả mấy kiếp về trước của tôi, tuần tự thuật lại từng đời, như: Sanh ở đâu? Cha mẹ là ai? Tên họ gì? Ngài nói rõ ra mỗi điểm, nghe dường như truyện huyền thoại, điều lạ lùng là mỗi chi tiết Pháp sư nói ra tôi đều ghi nhớ rõ không quên.
Bảy năm sau
(năm 1974), tôi tìm và hỏi về thời gian và địa điểm đó thì tất cả đều chuẩn xác. Đại khái, các đời ấy tôi đều xuất gia làm Hòa thượng, chỉ có một kiếp làm Cư sĩ tại gia vào triều vua Khang Hi, đời nhà Thanh, ở thôn Phương Quế Cách, huyện Dẫm Thượng, tên là Trịnh Viễn Tư, sanh 6 trai, 2 gái, trong
ấy có một đứa con thi đổ tiến sĩ. Đến nay hậu duệ của dòng đó hãy còn.
Đường đi rút
ngắn rất mau, dường như có ai làm phép Hồ Công Xuất Địa[Hồ Công Xuất Địa: phép thâu ngắn đường đi cùa loài hồ.]. Không
bao lâu, chúng tôi đã đến chân
núi Cửu Tiên, một sơn lãnh cao nhất của tỉnh Phước Kiến. Trên núi này có hang động to rộng, trong ấy duy thờ một tượng Di Lặc nên gọi là Di Lặc Động. Lúc chúng tôi tiến lên đến lưng chừng núi thì trời đã hừng sáng.
PHẦN 2:
BƯỚC KÌ LẠ TỪ DI LẶC ĐỘNG
3. Đường từ Di Lặc Động đên cảnh Trung Thiên La Hán
Bấy giờ, cảnh trí kì diễm[Đẹp lạ] bỗng xuất hiện trước mắt. Tôi thấy đường sá không giống như lối cũ mà mình đã từng trải qua, lộ trình biến thành rộng rãi, lót toàn bằng đá đẹp, phát ra ánh sáng chớp chớp. Khi đi đến hang động thì nơi đây cũng biến đối trang nghiêm, khác với động Di Lặc lúc xưa.
Chúng tôi bước vào lễ tượng Bồ-tát rồi cùng ngồi nhắm mắt dưỡng thần trong giây phút. Khi ấy, tôi nghe Hòa thượng Viên Quán gọi, bảo ra sau núi du lãm, tôi vội bước chân theo Ngài thì một bầu trời đất khác bỗng lại xuất hiện. Trước tầm mắt tôi, một tòa nhà cổ nguy nga đứng lồ lộ, nét huy hoàng tráng lệ còn hơn cố cung Tử Cấm Thành của vua nhà Thanh ở Bắc Bình[Tên gọi thành phố Bắc Kinh từ nâm 1928 đến năm 1949.]. Hai
bên ngôi chùa to rộng ấy có hai tòa bảo tháp đẹp cao đồ sộ. Chúng tôi lần tiến bước đến sơn môn, thấy cửa tam quan này làm toàn bằng đá hoa trắng, lối kiến trúc thật hùng vỉ oai nghiêm. Trên cổng vào có tấm biển lớn khảm chữ vàng chiếu ánh chói ngời, 4 kim tự nơi biển ngạch không phải chữ Trung Hoa, chữ Anh hay chữ Phạn, tôi hoàn toàn không hiểu thấu.
Trước sơn môn có 4 vị Hòa thượng đã đứng sẵn đón chờ, mình đắp y đỏ, lưng thắt đai vàng, pháp tướng cao lớn trang nghiêm. Khi thấy chúng tôi đến, họ vái chào, tôi và Hòa thượng Viên Quán cũng vội vàng đáp lễ. Lúc đó, trong tâm tôi có
chút nghi vấn, tự hỏi: “Trang phục của mấy vị này mình chưa từng thấy qua, có lẽ họ là những vị Lạt Ma chăng?”. Các vị ấy dường như biết, chỉ mỉm cười bảo: “Đã đến đây rồi xin hoan nghinh”, rồi mời chúng tôi vào. Khi vào khỏi cổng chùa trải qua vài tòa điện vũ[Hội trường], tôi
thấy đền đài xinh đẹp tráng lệ. Điểm kì diệu là mọi vật đều phát ra ánh sáng, xung
quanh các điện đều có hành lang rộng bao vòng,
ngoài hành lang nhiều sắc kì hoa dị thảo điểm tô, ra xa hơn là những hàng cây lạ cao vút. Vào chùa nhìn qua
cửa song, vẫn có thể trông thấy bảo tháp và các tòa kiến trúc.
Trong viện trưng bày rất nhiều đồ cổ ngoạn khéo đẹp kì lạ. Lần bước lên tới ngôi đại điện thứ nhất, ngước trông thấy là bốn kim tự lớn sáng chói, loại như kiểu đã thấy bên ngoài, tôi hỏi Viên Quán lão Hòa thượng, Ngài đáp:
– Đó là bốn chữ “Trung Thiên La Hán”.
Lòng thầm nghỉ: “Thì ra đây là Trung
Thiên La Hán Tự, nơi các vị A La Hán tu
trì, một thế giới thần tiên ở nửa lừng trời. Chỗ này không còn là cảnh nhân gian nữa, thảo nào mà mọi vật chẳng đều khác lạ phi phàm”.
Bốn đại tự ấy hiện tại tôi nhớ được một hình chữ khuôn hoa, riêng ba chữ kia thì đã mờ trong kí ức.
4. Quang cảnh động La
Hán
Bấy giờ, khung trời sáng rạng rỡ, xung quanh núi non, mây
rán[Mây ừng màu nắng] đẹp bao vòng. Chỉ thấy trong và ngoài đông đảo người ra vào, gồm nhiều sắc da, như: vàng, trắng, hồng, ngâm ngâm đen, màu cam
sẫm, nam nữ, trẻ già đều đủ cả, trong ấy người da vàng chiếm đa số. Y trang của họ cũng kì lạ, tùy màu sắc phát ra nhiều ánh sáng khác nhau. Dường như nơi đây, ngoài chư vị A La Hán còn có các vị thần tiên đến tham quan hoặc học đạo.
Đại chúng kết họp thành nhiều đoàn, như: nam giới tập luyện võ thuật, nữ giới trổi nhạc múa ca, mấy lão nhân thì chăm chú nơi cuộc cờ, xung quanh một số người theo dõi, ngoài ra có vị lại ngồi tỉnh tọa dưỡng thần. Tất cả đều hiện sắc thái an nhàn vui vẻ. Khi thấy chúng tôi đến, họ ngẩng đầu lộ nét thân thiết, mỉm cười gật đầu chào đón, nhưng mỗi người theo phần việc của mình không giao tiếp hỏi han.
Lúc đến tòa đại điện, tôi lại thấy một hoàng kim tự lớn, Viên Quán Pháp sư bảo đó là bốn chữ “Đại Hùng Bảo Điện”. Từ trong điện bước ra, hai lão Hòa thượng chắp tay nghinh tiếp, thoáng mắt nhìn qua tôi ghi nhận một vị râu dài bạc trắng, còn vị kia không để râu. Hai lão Hòa thượng thấy Viên Quán Pháp sư liền vội gieo năm vóc thi hành đại lễ. Thấy tình huống đó, tôi thầm nghĩ: “Trung Thiên La Hán
đối với Viên Quán Pháp sư mà lễ bái như thể, tất Ngài không phải là bậc tầm thường rồi”.
Liếc mắt nhìn quanh, ngôi chánh điện thật rộng rãi trang nghiêm, nền lót đá hoa trắng phát ra ánh sáng, điểm kì lạ nơi đây không có một tượng Phật nào cả nhưng cúng phẩm thì rất nhiều, những chiếc bình to phô bày hoa tươi đẹp đủ màu, mỗi đóa hoa lớn bằng chiếc nón, ngoài ra còn có những đèn treo, gồm lắm hình thái kì diệu, các hạt minh châu trong đèn tỏa ra ánh sáng muôn sắc. Lòng tôi như lạc lõng ngây ngất, chỉ cảm biết hương lạ tỏa thơm ngào ngạt quanh mình, ánh sáng tạp sắc xoay chuyển chớp ngòi. Có lẽ nơi đây vẫn đầy đủ tượng Phật nhưng do nguyên nhân nào đó
khiến tôi
không thấy được chăng, nếu chẳng thế thì sao chốn này gọi là Đại Hùng Bảo Điện?
Sau khi tham lễ nơi đại điện, hai lão nhân mời chúng tôi sang khách sảnh[Phòng
khách, nhà khách.]. Vào nhà khách, vừa ngồi xong một lão Hòa thượng nhìn đồng tử hầu cận ra ý bảo: “Đem hai chén nước giải khát”. Đồng tử này đầu kết hai búi tóc, gương mặt hồng hào rạng rỡ, mình khoát y lục, lưng thắt đai vàng, tướng mạo rất thanh đẹp. Nước trong chén sóng sánh màu
bạc, thơm ngọt khác thường. Tôi uống hơn nửa chén, Viên Quán Pháp sư đưa mắt tỏ ý bảo dùng hết, tôi vâng lời, cảm biết trong người tươi khỏe, tinh thần bội phần thanh sảng, không còn một điểm mỏi nhọc.
Kế đó, Viên
Quán Pháp sư cùng lão
Hòa thượng nói với nhau bằng một ngôn ngữ lạ mà tôi không biết được. Tiếp theo, Hòa thượng sai đồng tử đưa tôi qua hậu phòng tắm rửa. Vừa bước vào, tôi thấy nơi đó có sẳn một bồn nước trong, gần bên vắt chiếc khăn và bộ y phục màu lam của nhà chùa để thay đổi. Sau khi tắm gội lau mình
xong, thâm tâm tôi mười phần tươi tính nhẹ nhàng, lòng thầm nghĩ: “Hôm nay quyết định mình đã đến Thánh cảnh rồi đây”. Tâm tràn ngập niềm an vui thật khó diễn tả.
5. Thưa thỉnh về hiên tình và tương lai Phật giáo
Khi trở lại khách sảnh, tôi đến trước hai lão Hòa thượng cúi xuống lễ ba lạy rồi chắp tay cầu xin chỉ điểm về hiện tình và tưong lai của Phật giáo. Vị Hòa thượng râu dài không đáp, cầm bút lông viết 8 chữ trên giấy như sau:
PHẬT TỰ TÂM TÁC GIÁO DO MA CHỦ
Viết xong,
Ngài đưa tờ giấy trao sang. Tôi
xem qua không thấu hiểu hết ý của 8 chữ, lại cầu xin khai thị cho rõ thêm. Vị Hòa thượng kia thay lời giải đáp:
– Tám chữ ấy, ông có thể sắp song song, xem ngang,
nhìn dọc, từ trái sang mặt, từ mặt sang trái, đảo lộn từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, như phân ra thành 36 câu, có
thể hiểu rõ tình huống Phật giáo từ đây (khoảng năm 1970) đến một trăm năm về sau. Nếu lại diễn đạt rộng 36 câu thành 840 câu, tất biết được tình hình suy thạnh về tương lai Phật giáo của toàn thế giới, cho đến khi Chánh pháp của Đức Thích-ca hoàn toàn mất tích nơi cõi Diêm Phù. Khi trở về nhân gian, ông nên suy ngẫm cho tinh tường sẽ tự thông hiểu.
Theo thiển ý, đại khái vào thời mạt hậu, tà ma ngoại đạo xen lẩn vào làm lệch lạc Chánh pháp. Cho nên, người tu Phật phải chính chắn đề phòng, chớ chấp mê theo hình thức, cũng đừng vội phế bỏ hình thức, hãy cẩn thận suy nghĩ, gạn lọc kẻo sai lầm. Đó là ý nghĩa: Chánh
giáo do ma làm chủ động, Phật quả tự tâm mình liễu đạt tu hành. Còn về phần 840 câu, đợi tưong lai khi có thành thục sẽ công bố. Nếu chư vị muốn được sớm hiểu biết nên khởi công nghiên cứu. Đây thiết tưởng cũng là một điểm lý thú về văn nghệ.
Sau khi giải sơ lược mấy điều xong, lão Hòa thượng bảo tiếu đồng đưa tôi vào phòng tạm yên nghỉ. Lúc bước vào, tôi thấy trong phòng
không kê giường nằm, chỉ có một chiếc ghế kiểu trạm trổ rất thanh nhã, trên lót nệm ngồi. Tôi bước lên tĩnh tọa, cảm giác thân tâm thanh nhẹ, thần trí lâng lâng.
Ngồi chưa bao lâu đã nghe tiếng Viên Quán lão Pháp sư kêu gọi. Tôi mở mắt bước xuống ra khỏi phòng, lão nhân nói:
– Ngay bây giờ, tôi đưa ông vượt qua cõi trời Tứ Thiên Vương và Đao Lợi, đi thẳng lên Đâu Suất thiên cung bái kiến Di Lặc Bồ-tát và để gặp thầy của ông là Hư Vân Thiền sư.
Tôi đáp:
– Rất hân hạnh, xin vô cùng cảm tạ.
Lúc rời khỏi đại điện, tôi bỗng chợt nhớ muốn trở lại giã từ hai lão Hòa thượng, Pháp sư bảo:
– Không cần thiết phải cáo từ, thời giờ chẳng còn nhiều nữa.
Tôi chỉ biết yên lặng rảo bước theo Ngài.
PHẦN 3:
TỪ LA HÁN ĐỘNG ĐẾN CÁC CÕI TRỜI
Trên đường đi,
nhiều ngân điện, kim
lâu, cùng bảo tháp
tráng lệ, hùng vỉ trải qua tầm mắt, mỗi tòa đều phóng ra ánh sáng nhiều màu. Nhưng vì lão Pháp sư cứ nhắc bảo tiến bước mau nên tôi không rảnh rỏi đế quan sát. Con lộ chúng tôi đi toàn là đá trắng ngần ngòi chớp, hai bên triền núi kì hoa dị thảo theo gió đong đưa, hương thanh ngào ngạt khiến cho người lâng lâng vui đẹp. Mà sau này tôi mới chú ý, vì thời gian ở thượng giới không đồng cõi tục, không nên dần dà chậm trể, nếu chẳng thế khi trở về nhân gian có thể trải qua vài trăm năm hoặc vài ngàn năm không chừng.
Chuyển qua vài
đoạn quanh
co, trước mặt tôi bỗng xuất hiện một chiếc cầu rộng rãi vỉ đại. Nhưng kì lạ, cây cầu to lớn này chỉ có đoạn giữa nối lơ lửng nơi hư không, còn đầu và đuôi cầu không tiếp giáp với đường lộ, nhìn xuống dưới là vực sâu muôn trượng. Tôi tự nói lẩm bẩm: “Làm thế nào qua khỏi chiếc cầu như thế này?”.
Viên Quán Pháp sư dường như hiểu được tâm niệm ngần ngại của tôi, liền hỏi:
– Hằng ngày,
ông trì niệm những kinh chú nào?
Tôi đáp:
– Bình nhật giảng bối thường tụng kinh Pháp Hoa và chú
Lăng Nghiêm.
Ngài đáp:
– Tốt lắm, ông hãy tụng chú Lăng Nghiêm đi.
Tôi vâng lời niệm nho nhỏ. Chú Lăng Nghiêm có hơn 3.000 chữ, tôi vừa mới tụng được mấy câu, trước mắt bỗng hiện ra cảnh tượng lạ, chiếc cầu dài to bỏng biến thành vàng ròng, bảo sắc chiếu sáng, hai đầu nối liền với đường đi. Dường như chiếc bóng thất bảo cong vòng lên giữa hư không xinh đẹp không thể tả. Hai bên lan can cầu có nhiều lòng đèn châu ngọc treo lơ lửng phóng những tia sáng nhiều màu. Đầu cầu có 5 kim tự lớn giống như kiểu chữ ở đại điện, tôi thầm nghỉ: “Đây nhất định là mấy chữ TRUNG THIÊN LA HÁN KIỀU”.
Qua khỏi cầu, chúng tôi vào trong kiều đình[Mộ kiểu nhà nghỉ chân ở gần chân cầu.] ngồi nghỉ giây phút, nhân cơ hội đó tôi hỏi Viên lão Pháp sư:
– Tại sao trước kia không thấy hai đầu cầu, đợi niệm chú rồi mới thấy?
Ngài đáp:
– Trước kia,
chân tánh của ông do
vô minh nghiệp chướng bao vây, nên thị tuyến[Đường truyền của thị giác.]bị che lấp. Khi khởi niệm chú, nghiệp chướng bị sức Đà-ra-ni công phá, như mây mù gặp gió thổi tan, tự nhiên Thánh cảnh lộ bày. Đó là đạo lý:
Biển lặng ngàn tầm in rán đẹp,
Mây tan muôn dặm lộ trời xanh.
6. Từ cõi Tứ Thiên Vương đến trời Đao Lợi
Đáp xong câu đó, Ngài dạy tôi vẫn niệm chú và tiếp tục lên đường. Tôi vâng lời, vừa đứng lên niệm mấy câu, dưới đôi chân bỗng có hai tòa sen trong suốt như thủy tinh, phát ánh sáng xanh
hiện ra đỡ gót, các cánh của hoa nở bày và phóng những tia sáng lạ. Nhờ liên tòa nâng đỡ, tôi vượt lên hư không như cỡi mây mù bay lướt đi, chỉ nghe bên tai tiếng gió thổi vi vu, nhưng nơi thân không cảm thấy có hơi gió và lần lần lại ấm áp. Tốc độ bay như tia chớp, còn bội phần lẹ hơn phi cơ, nhiều cảnh tượng liên tiếp xuất hiện rồi như vụt chạy mau ra sau.
Không bao lâu, trước mắt tôi bỗng lộ ra một cảnh tượng như cổng Thiên An Môn[Ở Bắc Kinh], nhưng to rộng, hùng vĩ và trang nghiêm
hơn nhiều. Trụ đá nơi cổng trạm trổ long phụng chớp chớp sáng ngời, nóc cổng tựa như hình thức cung điện, toàn thể đều trắng bạc, tất cả như một tòa bạch ngân thành, mười phần tráng lệ. Trên cổng thành có tấm biển lộ kim tự lớn, gồm 5 loại chữ, trong đó có chữ Trung Hoa đề: NAM THIÊN MÔN. Do xem
kinh giáo, tôi biết đây là
một trong 4
cửa vào cõi
trời Tứ Thiên Vương, thuộc quyền cai quản của Tăng Trưởng Thiên Vương.
Nơi Nam
Thiên Môn có nhiều chư Thiên cao lớn, mình mặc giáp phục, tay cầm binh trượng, đây là hàng võ tướng đang đứng giữ thành. Ngoài ra còn có những vị trang sức quan phục như cổ triều nhà Thanh, song
hoa lệ khác thường. Từ các chiến y, giáp phục, cho đến những vũ khí đều phát ra ánh sáng, trông mười phần oai nghiêm.
Chư Thiên
bày đội hình chỉnh tề đứng trên đầu thành chắp tay nhìn chúng tôi tỏ vẻ hoan nghinh, song chẳng hỏi han chi cả. Vượt qua cửa thành độ 10 trượng[Khoảng 50 mét.], một mặt gương to rộng, trong sáng lộ bày, trong gương chiếu hiện tất cả cảnh tượng lành dữ, biến đổi dưới cõi trần.
Bay tiếp lên
cao, vô số cảnh vật kì lạ rực rỡ như cầu vòng, chiếc bóng, xoay tròn như quả cầu, đẹp như hoa, sáng như điện, vượt lui mau qua sau thân
chúng tôi. Trong những tầng mây rán[Mây ửng màu nắng, lạ.], ẩn hiện vô lượng đền đài lầu các, những chóp đinh tháp hoặc xa hoặc gần chẳng đồng. Viên Quán Pháp sư giới thiệu:
– Đây là Đao Lợi Thiên
Cung, tầng trời thứ hai của Dục Giới, vượt cao hơn cõi Tứ Thiên Vương và cũng nghiêm đẹp hơn. Cảnh giới này thuộc vùng của Thích Đề Hoàn Nhân, thống lãnh tất cả 33 cung trời, người trần gọi Ngài là Ngọc Hoàng Thượng Đế.
7. Từ Đao Lợi Thiên đến cõi Đâu Suất
Không có thời giờ dừng lại chiêm quan[Tham
quan, chiêm ngưỡng.], chúng
tôi lại tiếp tục bay lên, vượt qua một tầng trời nữa. Viên lão Pháp sư nói:
– Hiện tại đã đến cõi Đâu-suất-đà (Tusità), tầng trời thứ tư của Dục Giới.
Chớp mắt, chúng tôi đã đứng trước cổng một tòa điện các. Chỉ thấy hơn vài mươi vị thân tướng cao lớn trang nghiêm đến nghinh tiếp chúng tôi, trong đó nhìn
kĩ tôi nhận ra một vị chính là ân sư của mình, Hư Vân lão Hòa thượng, còn hai vị nữa là Diệu Liên Hòa thượng và Phước Vinh Đại sư, hai Tôn Đức này đều đã sanh lên Đâu Suất Nội Viện. Tất cả đều đắp cà-sa đỏ, màu sáng chói, tươi đẹp khác thường.
Thấy ân sư, tôi vội vàng tới trước đảnh lễ, tiếp đến bái kiến hai vị Tôn Đức kia. Cách xa lâu ngày mới được gặp, tôi không ngăn được lòng bùi ngùi cảm xúc, ân sư bảo:
– Hãy bình tĩnh, đâu có điều chi đáng thương cảm. Ngươi có biết vị nào đã đưa mình hôm nay đến đây chăng?
Tôi đáp:
– Bạch sư phụ, đó là Viên Quán lão Pháp
sư.
Sư phụ nhìn tôi với đôi mắt nghiêm nghị, bảo:
– Đây là vị mà mỗi ngày ngươi thường lễ niệm, Đức Đại từ bi Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ-tát đó.
Nghe qua, tôi chợt kinh động, vội quay lại đảnh lễ Viên Quán lão Pháp sư 12 lạy, rồi đứng lên chắp tay kính cẩn, không biết nói năng gì. Lúc ấy, Diệu Liên Hòa thượng nhìn tôi, nói:
– Ở đây,
thân người cao lớn, nghiêm đẹp gấp bội hơn các cõi dưới, cảnh trí cũng kì diệu tráng lệ hơn. Những chúng sanh phước kém, không thấy được cảnh giới chư Thiên, nếu có phước cũng chỉ thấy theo sở kiến phước phận của mình. Chúng ta phải tạm hiện thân cũ để cho ông dễ nhận biết đó thôi.
Tôi nhìn lại, thấy thân của Viên Quán Pháp sư và mình cũng chợt hóa ra cao lớn, đồng như sắc thể chư vị nơi đây. Ân sư tôi dạy:
– Khi ngươi trở về cõi trần, phải gắng cần khổ tu hành, bền nhẫn trải qua những sự khảo đảo của nghiệp chướng, mới có thể lần lượt thắng phục vọng tâm. Lại còn phải lập công bổi đức, tu tạo chùa am, tiếp tăng độ chúng, để xây nền phước huệ.
Liếc mắt nhìn quanh, tôi thấy chư Thiên ở cõi Đâu Suất, nam, nữ, lớn, bé đều có, tướng mạo nghiêm đẹp, trang phục như triều đại thời xưa nhưng mỹ lệ hơn nhiều. Kế tiếp, Viên lão Pháp sư đưa tôi vào Đâu Suất Nội Viện để tham bái Đức Di Lặc.
Nơi Bồ-tát ngự là một tòa đại bảo điện rộng rải thênh thang, gồm nhiều thứ châu ngọc lạ, tạo thành sự kì xảo tráng lệ không bút mực nào có thể diễn tả được. Trên cửa điện có đại tự gồm 5 loại văn mà hàng Hoa văn là bốn chữ “ĐÂU SUẤT NỘI VIỆN”. Tiến vào 49 lớp cửa có giăng màn châu lưới ngọc, Thiên Thần canh giữ, chúng tôi đến một đại sảnh trang nghiêm, trong đó sự thiết kế thật là mỹ lệ diệu kì
không thể nói hết ra đây được.
8. Lời khai thị của Đức Di Lặc
Dung tướng Di Lặc Bồ-tát không đồng với hóa thân của Ngài là Bố Đại Hòa thượng, trán nhăn, thấp, bụng to rộng, thân mập mạp, miệng lúc nào cũng nở nụ cười như người đời hằng thờ phụng. Báo thân của Ngài gồm 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, đầu đội thiên quang, mình mặc thiên y, cổ mang chuổi Anh Lạc, hai cổ tay và chân đều có đeo những vàng ngọc, gương trăng sáng rõ đủ nét từ-bi-hỉ-xá, đẹp nghiêm thật phi thường mỹ diệu khó đổi hình dung.
Bồ-tát ngự trên đài sen báu cao lớn, bên dưới là các hàng Bồ-tát, mỗi vị đều ngồi tòa sen. Chư Bồ-tát hoặc mặc tăng phục hoặc trang phục theo chư Thiên, mỗi Ngài một vẻ nhưng số khoác cà-sa đỏ chiếm phần đông. Đại chúng có đến mấy muôn vị.
Tôi giữ dáng
nghiêm kính, chắp tay từ từ tiến bước tới trước, đảnh lễ Bồ-tát 12 lạy, rồi quỳ xuống cầu xin khai thị. Ngài dạy:
– Khi ngươi trở về trần thế, khuyên chúng sanh nên cố gắng song tu phước huệ. Trong tương lai, nơi cõi người trải qua độ 60 vạn ức năm nữa, châu Nam Thiệm Bộ sẽ biến thành Nhân Gian Tịnh Độ. Lúc ấy, người nào đã tu nhân lành, tất được gặp ta trong 3 hội Long Hoa và sẽ đắc độ. Hiện tại, ngươi về khuyên người trần giới nên ái hộ lẫn nhau, chớ sanh lòng tham sân si,
ganh tị, hơn thua, phỉ báng, chẳng những riêng các tông phái Phật giáo mà đối với các đạo khác cũng không nên tranh chấp dèm pha.
Bồ-tát còn
nói mấy lời pháp ngữ, song vì ngại sức ghi nhớ của mình chưa được hoàn chỉnh nên tôi không dám trần thuật ra đây.
Sau khi bái tạ Đức Di Lặc lui ra, tôi được sư phụ là Hư Vân lão Hòa thượng cùng Phước Vinh Đại Sư dẫn đến một tòa đại lâu các. Trước lầu có vị mặc giáp phục oai nghiêm, nhưng tôi biết không phải là đức Vi Đà Hộ Pháp, vị võ tướng này đưa chúng tôi vào điện các và mời ngồi nơi bảo ỷ[Ghế quý báu.]. Bên
trong, 3 Thiên nữ bưng chén ngọc đựng chất nước màu hồng, bay mùi thơm ngát ra chiêu đãi. Tôi thử dùng một hớp cảm thấy ngọt mát lạ thường, tinh thần trở nên tươi tỉnh. Phước Vinh Đại Sư bảo:
– Đây là nước mật hoa cõi trời, uống vào trừ bệnh, lại được sống lâu, đổi già hóa trẻ. Ông nên dùng cho hết sẽ thấy lắm điều hay về sau.
Cho đến hiện tại, tôi vẫn thấy tinh thần, trí lực gia tăng, thể chất nhẹ nhàng khỏe mạnh như chưa từng dùng tới thuốc. Đại sư nói tiếp:
– Vì cảnh vui nơi cõi trời rất tế diệu, nên chư Thiên dễ bị say đắm, khó đỏi tu hành, ví như ở nhân gian những người quyền thế giàu sang, tài năng, khỏe đẹp không mấy ai chịu xuất gia, cam khổ nhọc nhằn tu tiến. Phước trời rồi phải hết, phước người có bấy nhiêu, họ đâu chịu suy nghỉ: “Sau khi hưởng hết phước sẽ bị luân hồi trong 3 cõi, 6 đường không biết chừng nào thoát li được biển khổ!”. Chúng ta may mắn được hóa sanh nơi Đâu Suất Nội Viện, thường nghe pháp âm, gần gũi bậc tri thức, tương lai khi Đức Di Lặc giáng sanh thành Phật hóa độ nhân gian, chúng ta sẽ theo Ngài xuống trần, chừng ấy mới chính thức tiến lên ngôi vị Bồ-tát, đủ sức bi nhẫn để giải thoát những kẻ trầm luân.
Tiếp theo, Hư Vân sư phụ nói lời khai thị rằng:
– Vào cuối thời mạt pháp hiện nay, người tu nên giữ vững giới luật, gắng sức độ sanh giữa hoàn cảnh đầy ác liệt, chớ nên tham mê danh lợi, làm điều lỗi lầm hoặc thoái tâm khi đối phó chướng duyên thường nghịch. Phải tùy trường hợp mà thanh tịnh tiến tu, độ mình độ người, giữ gìn mạng mạch của Chánh pháp mới đích thực là hành Bồ-tát đạo. Ta phó chúc cho ngươi, sau khi trở về trần thế nên cố gắng khuyến tấn những người tu Phật, đặc biệt là các huynh đệ đồng bạn, phải lấy giới luật làm thầy, tu trì như lệ cũ, chẳng nên duy tân hoặc cải cách tăng chế. Hiện nay, ở nhân gian có lắm kẻ bảo các kinh chú Đại Thừa là giả tạo hoặc do chư Tổ đặt bày, không phải của Phật nói, lại có người sửa đổi tăng phục, không tin nhân quả, nói các thứ trứng là đồ chay chẳng phải máu huyết ăn không có tội, họ không chịu kham khổ tu hành đế cảm hóa quần sanh, trở lại dùng tà pháp mê hoặc người, đem kinh Phật diễn giảng sai lầm, như mưa sa gió loạn dối gạt tín chúng để mong sự cúng dường. Những bọn đó toàn là tà ma ngoại đạo lẫn vào trong Chánh pháp, làm
đứt mất huệ mạng của Như Lai, thật đáng xót thương. Vậy ngươi phải noi theo chí nguyện Sư phụ, hộ trì những đại già lam của ta đã tu chỉnh lúc còn sanh tiền. Trong tương lai, khi đến các nước thuyết pháp giáo hóa, nên thực hành theo lời dạy của ta. Bởi duyên ấy, lúc mới truyền pháp ta đặt cho ngươi hiệu là Phục Hưng, chính do nói dụng ý đó, ngươi có hiểu chăng?
Dừng lại giây phút, sư phụ tôi bỗng thốt lên giọng rổn rảng, nhấn mạnh từng tiếng một:
Chí tùng một sắc trời sương tuyết,
Nguyện biển ba ngàn nước lặng trong.
Sau khi sư phụ dứt lòi, Viên Quán Pháp sư[Hóa thân của Đức Quán Thế Âm.] đưa tôi ra ngoại viện cõi Đâu Suất để tham quan cho
biết. Chỉ thấy mọi nơi ánh sáng đẹp giao xen, các đoàn tiên cầm, dị điểu nhiều màu so cánh múa hát, giọng thảnh thót dịu dàng dễ gợi lòng rung cảm. Tiếng thiên nhạc xa gần, thanh điệu du dương, các điệp âm chuyển khúc rất là tuyệt vời. Chư Thiên nam, Thiên
nữ, Thiên đồng mặc đủ sắc y phục, trang sức nhiều thứ bảo trân, thước tha như mây trắng, lớp dạy đàn múa hát, lớp bày đội chỉnh tề, du nhàn tự tại, khắp nơi hoa tiên sắc lạ như gấm đua nhau tươi nở, vẻ kì diễm thật vô cùng. Đó đây ẩn hiện những tháp báu,
đình đài, lầu các,
cung điện phóng
lên tia sáng chói lòa. Đại khái thật là phong cảnh thiên tiên siêu tuyệt hồng trần, nhân gian khó sánh được trong muôn một.
Tôi một mặt thưởng ngoạn, một mặt chỉ biết nức nở khen ngợi. Đức Quán Thế Âm chỉ một tòa bảo tháp ở xa xa, cao lớn như núi Côn Lôn, phóng ra trăm
sắc kì
quang, bảo:
– Đó là chỗ Thái Thượng Lão Quân ở, gọi là Luyện Đơn Đại Tháp.
Tôi phóng tầm mắt nhìn xa, thấy một tòa điện tháp to như núi, kì tuyệt tráng lệ chợt ẩn chợt hiện, bởi các lớp mây che giăng
nên không biết bao
nhiêu tầng, chỉ thấy bề ngoài chẳng được rõ bên trong. Bồ-tát lại bảo:
– Tòa tháp này là chỗ tiến tu của các Trung Thượng tiên, xung quanh có nhiều hàng linh nguyên thọ, bốn thời đều đom hoa kết quả. Hàng đạo gia luyện đơn, khi tu hành
thanh tịnh, duyên
phước huệ tốt đẹp, hương thần trổ hoa thành cây Đinh Nguyên ở thiên giới. Lúc công quả viên mãn, sẽ tiến lên ngôi Thượng tiên, nếu sức tu biếng trể lơ là, cây đó lần lần héo khô rồi ẩn mất.
Nói xong, Ngài lại thôi
thúc:
– Thời gian không
còn nhiều, bây giờ ta đưa ngươi sang thế giới Cực Lạc ỏ phương Tây. Nơi đó còn siêu thắng hơn đây bội phần, riêng cõi nhân gian thì
kém xa, chẳng thể nào đem so sánh luận bàn được.
PHẦN 4:
HOA SEN HẠ PHẨM
9. Từ Đâu Suất Thiên Cung đến cõi Cực Lạc
Lúc ấy, tôi lại tiếp tục trì chú Lăng Nghiêm, hoa
sen lại hiện ra đỡ gót đưa thân hình bay bổng lên hư không, bên tai liên tục vang tiếng vo vo không ngớt nhưng tôi không cảm biết là có gió. Tốc độ vượt mau như điện chớp, tất cả cảnh đẹp cõi trời lướt nhanh qua thân
mình như bị hốt vứt ra đằng sau.
Ước độ nửa giờ, tôi nhìn xuống phía dưới thấy vàng ròng trải đất, cây báu bảy hàng, cao không biết mấy mươi trượng. Đức Quán Thế Âm dạy:
– Đã đến nơi rồi, nên ngưng trì chú cho tòa sen hạ xuống.
Bảo thọ[Cây quý] ở nơi đây là toàn do các thứ kì trân hiện thành, hoặc lưu ly lá bạch ngân, hoặc cành tử kim lá bích ngọc. Lá cây lại có nhiều hình thái, hoặc hình tròn, hình dài, hình
cánh sen, hình bảo bình,
hoặc hình
tam giác, ngũ giác, lục giác,
bát giác. Hoa lá xen nhau tuôn ra các tia sáng đủ màu.
Các loài chim báu thân sắc tươi đẹp cũng phát quang tùy mỗi vẻ. Ngoài những phi cầm mà người trần có thể biết được như: bạch yến, hồng hạc, hoàng ly, châu tước, thanh phượng, tạp sắc anh vũ, còn có những loài chim lạ như: hai đầu, ba đầu, bảy đầu, hai cánh, bốn cánh, hoặc sáu cánh. Loài trân cầm[Loài
chim quý] tự do bay lượn múa hát, hoặc niệm Thánh hiệu chư Phật, hoặc xướng kinh văn. Các nơi đều có lan can báu vây quanh
tùy mỗi khu vực.
Đức Quán Thế Âm bảo:
– Kinh Phật nói: “bảy lớp lưới châu, bảy lớp hàng cây”, là đề cập sơ lược qua cảnh giới này.
Bên tai tôi còn nghe những ngữ âm khác
lạ giảng diễn, nhưng hoàn toàn không thông hiểu được. Bồ-tát nói:
– Đức Phật và chư Thánh chúng nơi đây đều nghe hiểu các thứ tiếng đó.
Trên đường, rảo bước đi tôi thấy nhiều bảo tháp, lầu các lạ đẹp nhiệm mầu, hoặc ở bặt bảo điện, hoặc lo lửng giữa hư không có mây nâng đỡ. Trong giây phút, tôi đến một tòa đại kim sơn sáng rỡ, so với núi Nga My ở Trung Quốc còn cao lớn hơn vạn bội. Không một điểm nghi ngờ, tôi biết mình đã đến trung tâm thế giới Cực Lạc.
10. Tình huống khi gặp Phật
Lúc ấy, Đức Quán Thế Âm đưa tay chỉ, bảo:
– Đã đến chỗ Phật ngự, Đức A Di Đà đang ở trước mặt, ngươi có trông thấy chăng?
Tôi ngơ ngác thưa:
– Con chỉ thấy một tòa vách đá vàng cao mà
thôi
Bồ-tát nói:
– Hiện thời, ngươi đang đứng trước đầu ngón chân của Phật đó.
Lời của Ngài vượt ngoài ước đoán, làm cho tôi kinh hải, vội hỏi:
– Thân Phật cao lớn như thế làm sao con có thể chiêm ngưỡng được?
Thật ra,
tình cảnh này chẳng khác chi con kiến đang đứng trước những tầng nhà lầu cao chọc trời của nước Mỹ, dù cho ngẩng đầu hết mức nhìn lên cũng không thể nào thấy toàn thể được. Đức Quán Thế Âm dạy:
– Ngươi mau quỳ
xuống cầu xin Đức Phật A Di Đà gia bị và cảm tạ ân Ngài đã hộ niệm đưa mình đến thế giới Cực Lạc.
Tôi vâng lời, vội quỳ xuống chí tâm cảm ân cầu nguyện. Trong giây phút, đột nhiên tôi cảm thấy mình to lớn không ngừng, cho đến khi tôi cao tới rốn cùa Ngài, ở mức độ này tôi mới nhận biết được Phật đang ngự trước mặt mình. Lúc ấy, Ngài đang đứng trên đài sen báu to lớn, không biết rõ cao bao nhiêu tầng cánh, mỗi cánh hoa ở mỗi tầng đều có bảo tháp đẹp mầu, phóng ra muôn ngàn sắc quang minh, trong ánh
sáng lại có vô số hóa Phật ngồi đài báo liên. Đồng thời, tôi lại thấy hiện ra một tòa đại điện, sắc kim bích giao xen huy
hoàng tráng lệ. Lại phóng xa tầm mắt nhìn ra xung quanh, một vùng gồm những cây ngọc, ao báu, đường vàng, trân cầm, lưới châu, mưa hoa, thiên nhạc, lầu các, câu lơn, khiến cho tôi nhận thức được khái quát phần nào toàn cảnh Cực Lạc.
Bấy giờ, Viên Quán lão Pháp sư cũng hồi phục chân hình Quán Thế Âm Bồ-tát, toàn thân sắc hoàng hồng chói suốt, từ bảo thể, y phục, kim quang phát ra trăm
ngàn loại ánh
sáng, dung mạo tuyệt đẹp, khó nhận biết được là nam hay nữ. Thân tướng của Ngài cao lớn hơn tôi rất nhiều, ước độ tới ngang vai của Phật A Di Đà.
Tôi đứng giữa bao nhiêu cảnh đẹp thắng diệu ấy, mắt nhìn ngơ ngẩn. Hiện tại, nếu muốn đem cảnh giới đó trình diễn ra, e rằng trong bảy ngày đêm thuật cũng không hết, chỉ riêng pháp tướng trang nghiêm khó sánh ví
của Đức A Di Đà, dù nói nửa ngày vẫn chưa xong. Chẳng hạn, như đôi mắt cánh hoa sen xanh biếc của Phật, rộng mênh mang như biển cả, hàm ẩn những nhiệm mầu, nói ra sợ người trần không tin nhưng sự thật là thế.
Chiếu theo
kinh nói: “Thế giới Cực Lạc phương Tây, cách cõi Ta Bà phương Đông này 10 muôn ức Phật độ”, nếu dùng quang niên[Quãng
đường ánh
sáng đi trong một năm, cứ một giây ánh sáng đi khoảng 300 ngàn cây số .] tính
kể không biết bao nhiêu ức triệu năm ánh sáng cũng không
thể đi đến, vì một Phật độ có khi gồm nhiều cõi Đại Thiên. Tây Phương Tam Thánh quang lâm 10
phưong để tiếp dẫn chúng sanh thuộc về ý sanh thân, tưởng đến đâu là hiện thân đến đó, không thật có tướng đến cùng đi, ý tưởng đi rất nhanh trong nháy mắt nó đã đi đến tận sâu thẳm của vũ trụ. Và thần thức của chúng sanh tới được Cực Lạc đều do thần thông của Phật, cùng nguyện lực của mình. Sự tới được Cực Lạc của tôi hoàn toàn do sức hộ niệm của Phật và thần lực của Đức Quán Thế Âm Bồ-tát.
Sau khi chiêm ngưỡng từ dung của Đức A Di Đà, tôi chí thành
đánh lễ rồi quỳ xuống cầu xin chỉ dạy. Đức Phật bảo:
– Bồ-tát Quán
Thế Âm đưa ngươi đến đây là để ngươi tận mắt trông thấy Thánh cảnh, rồi trở về Ta Bà thuật lại, khuyến tấn chúng sanh nơi đó tu hành. Vậy ngươi hãy mau đi tham quan các
nơi vì thời gian không còn nhiều nữa.
Lúc ấy, tôi
đang kinh ngạc vì cảnh thù thắng ở Tây Phương, lại cảm ngộ vì cõi nhân gian nhiều thống khổ, liền tha thiết yêu cầu:
– Bạch Thế Tôn, ở Cực Lạc an lành dễ tiến tu, con không màng trở lại cõi ngưòi. Xin Đức Thế Tôn xót thương cho con lưu trụ.
Phật bảo:
– Chẳng phải ta thiếu từ bi không cho ngươi ở lại, nhưng vì trách vụ của ngươi còn phải trở về hóa độ cõi nhân hoàn. Vã lại, 2 kiếp về trước, ngươi đã được chư Thánh đến nghênh tiếp vãng sanh về nơi đây, song vì ngươi còn chí nguyện muốn ở lại Ta Bà để độ thân quyến, cứu đời, nên do tiền duyên ngươi phải trở về để hoàn thành tâm nguyện đó.
Tiếp theo, Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:
Kiếp trước vãng sanh đã được duyên,
Vì muốn cứu đời, độ cửu huyền,
Cho nên nay phải hoàn
tâm nguyện,
Sau sẽ đồng về cửu phẩm liên.
11. Bảo điện Đức Phật ngự
Sau khi nghe kệ, toàn
thân tôi rung động, liền nhớ lại tình cảnh sắp vãng sanh đời trước như hiện trước mắt, tự nhiên im lặng không nói lời chi được. Đức A Di Đà bảo Quán Thế Âm Bồ-tát:
– Ông mau đem sa môn này đi tham quan các nơi.
Tôi đảnh lễ tạ ơn Phật rồi cùng Bồ-tát bước lui ra. Xung quanh tòa đại điện tôi đã thấy khi trước, từ bảo thọ, bờ ao, lan can, đều do các thứ báu họp thành, tuôn ánh sáng rực rỡ như đèn điện[Đèn
ne-on]. Điều rất kì lạ, những sắc tướng đó tuy hữu hình nhưng có lẽ là như ý bảo[Bảo vật như ý.] nên
không chướng ngăn,
muốn qua có
thể đi xuyên
qua, muốn chất ngại[Chất cản trở] liền thành chất ngại. Trên cổng đại điện hiện bốn kim tự lớn, hai bên có liễn đối, tôi chỉ nhớ được một chữ, còn ba chữ kia thì không sao ghi nhận rõ. Đức Quán Thế Âm bảo:
– Nếu dùng
Hoa văn để giải thích, bốn chữ đó có thể đọc là ĐẠI HÙNG BẢO ĐIỆN hoặc VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT.
Tòa đại điện kim bích huy hoàng ấy, rộng lớn vô tỉ, có đến mấy muôn vạn Bồ-tát, hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc ở trong hay ngoài điện, toàn thể chư vị đều thân kim sắc đẹp sáng, chiều cao so với Phật chỉ kém một chút. Do sự giới thiệu của Đức Quán Thế Âm, tôi được biết nhiều vị Bồ-tát như: Đại Thế Chí, Mạn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền, Thường Tinh Tấn, Vô Tận Ý, Bảo Đàn Hoa.
Đức Quán Thế Âm lại bảo:
– Như thế cũng đã tạm đủ, bây giờ ta lần lượt đưa ngươi đi chiêm quan từ Hạ phẩm đến Trung phẩm rồi Thượng phẩm.
Cực Lạc Du Lãm Ký
CỰC LẠC DU LÃM KÝ
Pháp sư Khoan Tịnh trần thuật
Cư sĩ Lưu Thế Hoa ghi chép
Cố Hòa thượng Thích thượng Thiền Hạ Tâm soạn dịch
12. Thân tướng và sự sinh hoạt ở Hạ Hạ phẩm
Tôi đang tiến bước theo chân Bồ-tát, bỗng phát giác ra thân minh lần lần rút nhỏ lại. Khi hiện tượng đó xảy ra, tôi lấy làm lạ hỏi Đức Quán Thế Âm:
– Tại sao
thân con lần lần rút nhỏ lại thế?
Ngài đáp:
– Nơi cõi Cực Lạc, chúng sanh thuộc các phẩm, nhân vì cảnh giới không đồng nên chịu thấp cao, lớn nhỏ có sai khác. Hàng thiện nhân ở Thượng phẩm cao lớn hơn Trung phẩm nhưng so với Hạ phẩm lại cao lớn hơn. Như thân chư Thiên ở cõi trời, tầng thấp kém hơn tầng cao, các Thiên giới càng cao thân người lại càng vượt hơn gấp bội. Hiện tại, chúng ta đang đi từ Thượng phẩm sang Hạ phẩm, nên thân thể phải lần sút giảm cho đồng cao độ với chúng sanh ở phẩm đó.
Vừa đi vừa nói, bất giác đã tới Hạ phẩm Liên Trì. Nhìn kĩ, tôi thấy mặt đất nơi đây đều do quý kim pha bảo chất tạo thành, nên vừa phát ra ánh sáng vừa trong suốt. Đi độ khoảng đưởng nữa, trước mắt hiện ra một quảng trường rộng lớn có nhiều nữ nhân đang dạo chơi. Đây là những nữ hài tử độ 13, đầu kết 2 búi tóc, cài các thứ hoa tím,
đỏ, vàng,
trắng, thân
mặc quần sắc hồng đào, áo màu thanh đạm, lưng thắt đai vàng, tất cả đồng một loại trang phục, dung nhan đều tươi đẹp khác thường. Lòng tôi nảy mối nghi ngờ hỏi Bồ-tát:
– Theo trong kinh, ở thế giói Cực Lạc không có nam, nữ phân biệt. Tại sao nơi đây lại hiển hiện nhiều nữ hài tử?
Ngài đáp:
– Đúng như thế. Ở đây không phân tướng nam nữ, ngươi hãy tự nhìn kỉ lại xem mình thế nào.
Bị Bồ-tát cảnh báo, tôi kinh lạ chợt phát hiện ra mình cũng biến thành thân nữ hài 13 tuổi, trang phục đồng một dạng thức như các nữ chúng kia. Tôi tiếp tục hỏi với giọng đầy kinh ngạc:
– Tại sao lại như thế này?
Đức Quán Thế Âm lộ vẻ từ bi mỉm cười bảo:
– Nơi đây có
một vị Bồ-tát làm chủ tể, muốn biến nam thì toàn chúng đều hóa thành nam, muốn biến nữ thì toàn chúng thành nữ. Kì thật chẳng luận biến nam hay nữ, khi đã hóa sanh trong hoa
sen tức không
còn thân huyết nhục, thể chất đều là ngọc báu trong suốt, bên
ngoài chỉ có tướng người, thật ra không phân nam nữ. (Tôi
quan sát lại thân thể mình, quả đúng như lời Bồ-tát nói, không thấy da, thịt, xương, gân, tỉ, não, chỉ là chất ngọc thủy tinh trong trắng). Nhưng chúng thuộc phẩm Hạ Hạ, vì còn nhiều phiền vọng nên đều là đới nghiệp vãng sanh, song chẳng luận trẻ già nam nữ ở nhân gian, khi đã gởi chất nơi hoa sen Cực Lạc, tất cả đều hóa thành thân hài tử, phi thường xinh đẹp, thức ăn mặc cũng đều tự nhiên hiện thành.
Tôi hỏi Bồ-tát:
– Tại sao
chúng hữu tình sanh đến đây đều đồng tướng trạng tuổi tác như thế?
Ngài đáp:
– Đó là bởi Phật tánh bình đẳng, do nguyện lực của Đức A Di Đà nên người nào đã sanh về nơi đây đều được đãi ngộ như nhau, tỉ như ở nhân gian trai hay gái khi
mới sanh đều đồng một dạng, không mấy sai
khác. Nơi phẩm Hạ Hạ, mỗi ngày 6 thởi có một thời được nghe diễn giảng do một vị Đại Bồ-tát chủ trì, đến lúc giảng kinh, khi tiếng chuông reo vang, chúng
thiện nhân ở trong lầu các nơi hoa sen đều một loạt biến thành nam hay nữ hài tử, đồng một trang phục xanh, vàng, hoặc đỏ, trắng như nhau, cùng hội họp đến nghe pháp âm. Chúng sanh
đó ban ngày thì ra khỏi lầu các du ngoạn, khiêu vũ ca hát, hoặc ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh, đến thời yên nghỉ, tất cả đều trở về hoa sen riêng của mình, có người không nghỉ ngơi, lại tiếp tục tu trì. Ở đây, khi hoa nở, chim kêu là ban ngày, hoa
khép, chim ngừng hót là
ban đêm, ngoài ra cảnh trí đều luôn luôn tươi sáng huy hoàng không có
ngày đêm phân biệt.
Đức Quán Thế Âm lại bảo:
– Bây giờ ta đưa ngươi đến quảng đường gần nơi điện và ao báu để được tăng thêm kiến thức.
Tôi vâng lời theo Bồ-tát đến cửa một đại điện trong vùng kim địa thật rộng rãi, có lan can đẹp bao quanh giáp vòng. Ban
sơ chỉ thấy độ mấy mươi nữ hài, trong giây phút lần lượt kéo đến cả hàng trăm ngàn muôn vị, đồng sắc phục, vân tập đầy chật trong đại điện như để cho tôi chiêm quan được rõ ràng hơn. Đối với họ thì đây là dịp rất dễ nhưng ở nhân thế muốn tập trung số người đông đảo như vậy tất phải khó khăn mất nhiều thời gian.
Xem khắp nơi xong, tôi lại được đưa đến một ao báu rộng lớn như biển, nước ở đây trong sáng dường như vô hình, nhiệm mầu khó tả, không giống chất nước ơ Ta Bà. Bồ-tát bảo:
– Ngươi nên xuống tắm gội qua giây phút.
Tôi thưa:
– Như thế y phục bị ướt hết!
Ngài đáp:
– Không ướt, đấy là Ma-ni Bảo Thủy.
Tôi vâng lời, bước xuống tắm với vẻ rụt rè e ngại, nhưng quả nhiên y phục chẳng ướt. Điều rất lạ, tôi vốn không biết lội, sợ mình bị chìm xuống đáy ao, trái lại khi đã xuống, muốn thân thể chìm nổi, qua lại đều tùy ý, lúc ngồi yên muốn nước dâng đến đâu cũng tùy tâm nước lên đến đó, thật đúng là Như Ý Thủy. Tôi thử uống một hớp cảm thấy thơm mát ngon ngọt, lòng thích thú liền uống no, càng uống càng thấy tinh thần tươi khỏe, toàn thân phơi phới nhẹ nhàng như muốn bay bổng lên. Thật quả là nước Bát Công Đức. Lại thử sờ vào y phục, rất lạ không có điểm nào bị thấm ướt.
Đang lúc tôi lướt nhẹ trong nước, đến giữa ao thấy rõ có nhiều hoa sen to đẹp nò tưoi sáng rõ, mỗi đài hoa đều có người ngồi kiết-già niệm Phật, một ít hoa sen khô héo sắp tàn.
13. Những phản ảnh của vọng nghiệp nơi phẩm Hạ Hạ
Như đã nói ỏ trước, chúng hữu tình sanh vào phẩm Hạ Hạ đều thuộc về đới nghiệp vãng sanh. Vãng sanh nghỉa đã rõ nhưng sao gọi là đới nghiệp? Đây là những chúng sanh ở Ta Bà hoặc đã tạo ác mà biết sám hối tu hành, hoặc tuy từng làm lành niệm Phật song tâm còn nhiều phiền não, vọng tưởng, những chúng sanh đó khi lâm
chung được thiện tri thức khuyên dạy, hoặc bỗng tự hối ngộ chí tâm niệm Phật, một lòng không loạn nên tạm thời được sự cảm thông, nương nguyện lực tiếp dẫn của Đức A Di Đà, mang vọng nghiệp sanh về Cực Lạc. Bởi sức tu kém, vọng tưởng còn, nên chỉ dự được vào bậc Hạ phẩm Hạ sanh. Nhưng 9 phẩm Liên Đài ở cõi Tây Phương, muốn từ phẩm Hạ Hạ lần tiến lên phẩm Thượng Thượng phải trải qua nhiều kiếp, khi đã đến phẩm Thượng Thượng chứng vô sanh pháp nhẫn rồi, lại phải phân thân khắp 10 phương thế giới, tu sáu độ muôn hạnh, cứu tất cả chúng hữu tình, chừng nào phước đức, trí huệ, nhân duyên đầy đủ mới có thể thành Phật.
Kinh nói: “Ở Ta Bà
tinh tấn tu một ngày, công đức bằng nơi cõi Cực Lạc tu một kiếp”, cho nên ở Tây Phương từ phẩm thấp tiến lên phẩm cao cần phải có thời gian. Còn ờ Ta Bà nếu chịu khổ nhọc siêng tu, có thể chỉ trong năm bảy năm từ Hạ phẩm tiến lên Trung phẩm. Thân người khó được, cảnh khổ khó tu, nếu biết mượn thân người ở trong cảnh khổ đời mạt hậu này mà gắng tu thì công đức lớn lao vô tỉ.
Cõi Ta Bà có nhiều nỗi khổ, như: sanh, già, bệnh, chết, thương xa lìa, oán gặp gỡ, cầu không toại ý và ngũ ấm thạnh, đó là
bát khổ, ngoài
ra còn tam khổ là: hoại khổ, khổ khổ, hành khổ. Ở thế giới Cực Lạc, dù cho người Hạ phẩm Hạ sanh tuyệt đối không có các điều khổ như đã nói, bởi nơi cõi này chỉ thuần vui mà không khổ. Tuy nhiên, chúng sanh thuộc phẩm Hạ Hạ phải tu hành trong
thời gian
dài, trải qua 12
kiếp mới được lên cấp trên. Trong quá trình từ thấp tới cao cho đến khi chứng quả đều chỉ ở Cực Lạc không còn bị sa đọa luân hồi nữa.
Hoa sen phẩm Hạ Hạ nơi cõi An Dường không đồng với hoa sen ở nhân gian, mà đường kính rộng lớn từ một dặm đến ba dặm, trên đài hoa có lầu các cao ba bốn tầng, toàn thể hoa và lầu đều tuôn ra từ các thứ ánh sáng tùy màu sắc, như: hoa xanh ánh sáng xanh,
hoa vàng ánh sáng vàng. Chúng sanh ở lầu các nơi đài sen, nếu khỏi các thứ vọng tưởng thì hoa trở nên ảm đạm, không sáng suốt, trái lại như quả không vọng tưởng, trong tâm thâm thanh tịnh thì toàn thể đều phát ra tia sáng chói rực huy hoàng.
Đức Quán Thế Âm bảo:
– Chúng hữu tình vì
nhiều kiếp tạo các nghiệp không đồng, nên sau khi đới nghiệp vãng
sanh, sự phản ảnh của vọng nghiệp cũng sai khác. Phẩm Hạ lại chia thành ba bậc: Hạ Hạ, Hạ Trung và Hạ Thượng. Nên sức nghiệp của loài hàm linh nơi này cũng có nặng nhẹ khác nhau, mà phần lớn là nghiệp ân ái và tham luyến lợi lộc, quyền danh. Khi sức nghiệp đó phản ảnh ra, cảnh giới giống như người đời nằm mộng. Nay ta đưa người đi xem vài trường họp như đã nói.
Tôi theo Bồ-tát qua
vài đoạn đường quanh liền thấy một hoa sen màu sắc ảm đạm. Lần bước tới gần xem, trên đài lộ hiện ra lầu cao, nhà rộng, phòng ốc tráng lệ, sang cả như hoàng cung, vườn hoa xung quanh mười phần tươi đẹp. Trong nhà, các trân bảo và cổ vật đều có giá trị liên thành, cách bày trí
phi thường trang
nhã. Trong nhà, già trẻ, trai
gái độ vài mươi vị y trang đồng với cõi người rất là sang đẹp, gia nhân ra vào náo nhiệt dường như đang sắp bày yến tiệc vui. Tôi hỏi Đức Quán Thế Âm:
– Tại sao ở cõi Cực Lạc lại có hình thức sinh hoạt của gia đình nhân gian?
Ngài đáp:
– Đương sự đây tuy lúc lâm chung mười phần thanh tịnh, được đới nghiệp vãng sanh,
song vọng niệm lũy kiếp[Tích
chứa nhiều kiếp.] còn
nhiều, tâm
tham luyến hồng trần chưa dứt. Vài mươi người trong nhà đó đều là cha mẹ, huynh đệ, thê thiếp, dâu con cho đến thân thích. Mỗi ngày, khi chúng sanh này
về tới lầu các trong hoa sen đế yên nghỉ, thường vọng tưởng đến những nhân vật đó, nên huyễn cảnh lại hiện ra. Ở Cực Lạc chẳng có sự khổ “cầu không toại ý”, cho nên khi tưởng tới cha mẹ, thê nhi, lâu đài, cho đến sơn hào hải vị thì những ảnh tượng đó liền xuất hiện, như tình huống người ở Ta Bà khi
nằm mộng thì buồn vui đủ cả, lúc tỉnh ra mọi việc thảy hoàn toàn không.
Lời của Bồ-tát khiến cho người trần gian chúng ta thức tỉnh, cuộc sống cõi đời nào khác chi một trường đại mộng. Khi hồn lìa khỏi xác, từ người cũng như của, có đem theo được cái gì
đâu. Bồ-tát lại nói tiếp:
– Thật ra, người vãng sanh đến chốn này vọng tưởng còn nhiều hơn nhân gian, bởi nơi đây cách xa Ta Bà, duyên
cũ mong gì tái ngộ, nhưng cõi Cực Lạc có sức mầu nhiệm, tưởng chi liền hiện ra cảnh ấy nên người đã vãng sanh về đây đều được thỏa nguyện, thọ dụng không cùng, cõi Tịnh Độ thuộc về Chân Không Như Ý Bảo Chất, do nguyện lực, phước đức của Phật, từ nơi không hiện ra sắc, đầy khắp mọi nơi. Cõi trời thuộc về Thần Chất nhưng sức thần thông còn hữu hạn, kẻ chứng ngũ thông đôi khi sở cầu cũng không toại ý. Cõi người thuộc về Vật Chất, bị ngăn cách nhiều lớp, sở cầu khó thực hiện.
Tôi lại hỏi:
– Vọng Cảnh với Thanh Tịnh Thật Cảnh của Phật khác nhau thế nào?
Bồ-tát khai
thị:
– Thật Cảnh thuộc về thường trú, hằng lặng lẽ chiếu sáng khắp nơi. Vọng cảnh vô thường, huyễn hóa, tùy duyên dữ lành thay đổi. Chúng sanh ở Ta Bà đem hết tinh lực một đời tranh danh cướp lợi, chỉ nghỉ mình sống mặc cho người chết, không kể thiện ác, họ đâu biết khi thọ số mãn, theo nghiệp luân hồi sa đọa, chịu khổ vô hạn, kể nói sao cùng. Cho nên, muốn được thoát ly phải sớm giác ngộ. Chủ nhân trong ngôi nhà này
cũng là người đồng hương của ngươi, nên vào nơi đó xem thử.
Tôi y lời dạy, bước vào tòa lầu các liền mục kích nhiều bàn đầy những sơn hào hải vị, độ sáu bảy mươi thực khách đang ngồi dự đại yến, ăn to uống lớn, nói chuyện ồn ào. Chủ nhân là một lão trượng tuổi khoảng cổ hy[Hơn 70 tuổi.], có
khí phách tay đại hào phú, ông
thấy tôi vào
liền bước ra chào hỏi:
– Quý khách từ phương nào đến?
Tôi dùng tiếng bản xứ đáp:
– Đệ từ huyện Bồ Điền, tỉnh Phước Kiến đến.
Nghe tôi nói, chủ nhân nhận là người đồng hương, mặt đầy vẻ hoan hỉ vội gật đầu đưa tay mời:
– Tốt lắm, rất hân hạnh, xin mời ngồi dự tiệc.
Tôi hỏi tiếp:
– Ngài có hỉ sự chi mà bày đại yến hội như thế?
Ông cười hỏi lại:
– Quý khách có duyên gì lại đến trùng hợp vào lúc này?
Tôi chỉ ra ngoài
cửa đáp:
– Quán Thế Âm Bồ-tát đưa tôi đến đây để tham quan.
Chủ nhân vừa nghe câu
đó, toàn thân liền rung động, mặt lộ vẻ hổ thẹn, cảnh náo nhiệt trước mắt như tòa đại hà cùng thực khách đột nhiên ẩn mất. Lão nhân bỗng biến thành nam hài tử 13 tuổi, thân thể lưu ly trong suốt, ngồi trên hoa sen, mười phần tươi đẹp. Tình huống này như Đức Quán Âm vừa nói, cảnh tượng đều do vọng tưởng mà sanh, vọng tưởng diệt, cảnh cũng diệt theo. Sau đó nam hài tử lại nói:
– Kiếp trước ở Ta Bà, tôi là một đại phú thương thuộc hàng vọng tộc, người huyện Bồ Điền, tỉnh Phước Kiến, cư ngụ tại Hàm Giang, thôn
Đa Đầu, tên
Lâm Đạo Nhất. Khi lâm chung được thiện tri thức khuyên nhắc, nên tôi nhiếp tâm trong 10 niệm mà được vãng sanh. Điều đáng thẹn là vọng nghiệp cùng niệm ân ái của tôi còn quá nhiều, nên mới hiện ra huyền cảnh đó. Quán Thế Âm Bồ-tát từng điểm danh 2 lần, bảo tôi phải sửa đổi, bây giờ bệnh cũ lại tái phát chưa bỏ chưa xong.
Khi lâm biệt[Sắp từ biệt.], hài tử (tiền thân là Lâm Đạo Nhất) lại căn dặn:
– Tôi có đứa con tên
Lâm A Vượng, hiện ỏ Tân Gia Ba10. Khi
Pháp sư trở về Ta Bà, nhớ chuyển lời, nói nghiêm đường của nó đã vãng sanh về Tây Phương Tịnh Độ, chớ nên cúng giỗ và bi thương, mà phải cố gắng nối gót cha, làm phước niệm Phật tu hành.
Bồ-tát lại đưa tôi đến một nơi vách đá cao gần vực thảm, nhìn kỉ tôi bỗng phát giác ra hiện tượng kì lạ, một người nữ tuổi độ hai mươi, mặc đồ đen kiểu phục sức nhân gian đang ngồi ở mé vực kêu gào thương khóc. Tôi thầm nghỉ: “Thế giới Cực Lạc chỉ thuần vui không khổ, tại sao nơi đây lại có người thương khóc như vậy?”.
Đức Quán Thế Âm biết ý niệm đó liền bảo tôi tới hỏi xem sẽ được rõ. Tôi vâng lời, đến nơi chắp tay hỏi:
– Cô có điều chi mà
kêu khóc bi ai như thế?
Nữ nhân đó
ngẩng đầu lên nhìn thấy tôi, chẳng những không thương khóc chợt quay lại cười đáp:
– Đây là do tâm tôi kinh động nên hiện ra cảnh vọng huyễn đó thôi.
Nói xong, vị này vội trở lại ngồi tháng nơi hoa sen trong ao, hóa
thành nữ hài 13
tuổi, toàn
thân trong suốt như thủy tinh, vách núi cao và vực thẳm đồng thời đều biến mất, lúc ấy nữ hài tử liền tự giới thiệu:
– Tôi là người ở Thuận Xương, tỉnh Phước Kiến, tên là …, đã quy y Tam Bảo. Vào năm 1960, tôi quyết chí xuất gia nhưng bị chính quyền quyết định không cho, tình thế bức bách tôi kêu thương niệm Phật rồi nhảy xuống vực sâu tự sát, nhờ Đức Quán Thế Âm rộng nguyện đại từ bi, xét biết tôi từ lâu tu
luyện chí
thành nên tiếp dẫn cho sanh về Tịnh Độ. Bởi tôi mới vãng sanh, niệm kinh động chưa dứt nên bất chợt vọng nghiệp ấy phản ảnh hiện ra cảnh giới kinh hiểm đó. Tôi nhờ Bồ-tát mấy phen thuyết pháp nhưng vẫn chưa dứt trừ huyễn vọng.
Tôi sanh niệm oan
thiết, bảo:
Cô hãy lưu ý vị đứng gần bên tôi có phải là Bồ-tát đó chăng?
Nữ nhân
nghe nói liền nhìn kỉ lại, rồi vội vàng quỳ xuống đảnh lề. Ngài dạy:
Ngươi hãy xuống Bảo Trì, dùng nước Bát Công Đức tắm gội, lần lần vọng nghiệp sẽ tiêu trừ, tâm niệm thanh tịnh, phục hồi chân tánh bản lai.
Tôi hỏi Đức Quán Thế Âm:
Tại sao
trong ao báu lại có hoa
sen khô, tươi, suy,
thạnh như thế?
Bồ-tát đáp:
Các đóa hoa suy khô là những người ở Ta Bà ban sơ phát lòng thành tín, siêng
năng niệm Phật, gieo nhân sen lành nên
khiến trong
ao thất bảo hóa sanh hoa sen, lần lần to lớn tròn sáng đẹp tươi. Nhưng các chúng sanh đó chỉ tinh tấn được một thời gian, rồi công phu
lần hồi biếng trễ, khi lòng tin không còn bền vững thì chẳng những sự niệm Phật lơ là bỏ phế, mà có khi còn tạo nhiều điều ác nữa, do đó hoa sen lần lần khô héo, cọng sen gãy đỗ rồi biến mất. Ngươi xem, cánh sen khô gãy này
là của một người ở tỉnh Giang
Tây tên …, ban sơ kẻ đó trường chay niệm Phật, sau vì làm quan nên
không trì niệm lại còn ăn mặn, tạo ác, hiện đã bị chính quyền tuyên án tử hình nên cành sen khô héo
và sẽ mất dần. Còn cành sen khô gãy kia
là của một người ở huyện vĩnh Thái, quy y tinh tấn niệm Phật đã 3 năm, hoa báu hiện thành cực tươi đẹp, về sau kẻ ấy tham đắm tài lợi, mãi lo việc kinh doanh, không tu
hành, lại dùng đủ cách để mưu cầu của tiền phi nghĩa, vụ việc bị phát giác nên phá sản nợ nần chồng chất, cùng trí rồi tự vẫn, do đó cành
sen phải chết khô.
Tôi thưa:
Bạch Bồ-tát, Thường Lượng Pháp sư lúc còn sống có nói cho con biết: “Chí tâm niệm một câu Phật, diệt được vô lượng tội, sanh trưởng vô lượng phước”, kẻ kia niệm Phật đã 3 năm, tại sao không có công đức mà kết cục lại bị thảm cảnh như thế?
Ngài đáp:
Lời đó hàm
ý sơ lược khái quát và chỉ có tính cách sách tấn đối với người chưa hiểu Phật pháp mà thôi. Phải biết, chí tâm niệm Phật tuy sanh vô lượng phước lành, song chí tâm làm ác
cũng sanh vô lượng tội chướng, niệm Phật rồi tạo tội, đem công trừ tội tất phước cũng không còn. Tuy
nhiên, kẻ niệm Phật rồi tạo nghiệp, nếu biết ăn năn sám hối, quay đầu hướng thiện, thề không dám tái phạm, phát lòng tinh tấn niệm Phật như xưa thì tội chướng lần tiêu, phước huệ lần lớn, trong ao Bát Công Đức hoa sen sẽ lại đâm chồi nở cánh tốt tươi. Cuối cùng vẫn được đới nghiệp vãng sanh, tiến lên quả Vô Thượng Bồ-đề, không còn thoái chuyển.
Bồ-tát chợt dừng lại trong giây phút rồi nói tiếp:
Lại còn một điều, có kẻ miệng tuy vẫn niệm Phật nhưng trong lòng còn ô nhiễm, đắm sắc tham
tài, đôi khi nảy sanh
tâm ganh tị, giận hờn, tranh chấp, thầm lén hại người. Kẻ ấy dù còn chút công đức nhưng bị các chướng nghiệp đó thì không được vãng sanh về Tịnh Độ, chỉ gieo nhân sen đắc độ về sau mà thôi.
Cho nên, tất cả thế gian bất luận giàu nghèo,
sang hèn, trí ngu, lành dữ, trẻ già, gái trai, đều biết phát lòng tín thành dứt dữ làm lành, trai giới niệm Phật trong ngoài như một, giữ công tu bền lâu suốt đời, tất hoa sen nơi cõi Tịnh hóa hiện lớn đẹp sáng tươi, khi lâm chung sẽ được tiếp dẫn về Cực Lạc. Người nào chí nguyện không bền, lúc trễ lúc siêng, hoa báu tuy
phát sanh nhưng chẳng thể lớn mạnh tốt đẹp, nếu lại làm ác thì sen phải héo tàn, đã không đưọc vãng sanh mà còn bị đọa luân hồi nữa.
Bồ-tát vừa nói tới đây tôi chợt thấy một Ni cô tuổi độ ngoài ba mươi rảo bước đi đến trước mặt, tôi định thần nhìn kĩ thì vị đó là Ni sư Pháp Bổn, trụ trì tại Dân An ở núi Vân Cư, thuộc tỉnh Giang Tây. Cô thấy tôi liền vui mừng nói lớn:
Khoan Tịnh sư huynh đã tới đây, hoan nghênh cung hỉ.
Tôi hỏi:
Ni sư vãng
sanh lúc nào mà tôi không được hay biết?
Cô đáp:
Năm 1971, bị thế quyền ép buộc, tôi không chịu hoàn tục, trốn đến một vùng cô tịch rồi niệm Phật nhảy xuống sông tự trầm. Cái chết như thế cũng thuộc về tội ác, song nhờ Đức A Di Đà từ bi, thương tôi một lòng
tu niệm chẳng nhiễm trần duyên, mở rộng cửa ân đức tiếp độ cho vãng sanh. Tôi vừa mới tới đây chưa được bao lâu.
Tôi tiếp tục hỏi:
Những người đã sanh về phẩm Hạ Hạ đều hóa thành thân hài tử hơn mười tuổi, tại sao sư muội hình tướng và tuổi tác đều giống ở Ta Bà?
Cô đáp:
Tôi phải quyền hiện ra tướng củ để sư huynh để nhận biết đó thôi. Đại huynh Khoan Trung có được khỏe mạnh không? Nhờ sư huynh khi trở về thế gian, chuyển lời nói tôi được vãng sanh, khuyên đại huynh cố gắng siêng cần niệm Phật, đừng lo buồn nghỉ đến tôi nữa.
14. Tịnh Quán
Tháp và Ngữ Ngôn
Đà-ra-ni
Vừa lúc ấy, bỗng có tiếng hồng chung trầm bỗng rền vang. Đức Quán Thế Âm Bồ-tát bảo:
Giờ thuyết pháp đã đến.
Khi đó, chỉ thấy hàng ngàn, hàng muôn nam
hài kéo đến như dòng nước chảy, các nam hài tuổi độ 13, đồng y phục sắc hồng đào, thắt lưng đai vàng, đầu kết 2 búi tóc, toàn thân đều là chất bạch ngọc trong suốt, trang phục thống nhất, hàng ngũ chỉnh tề, đại chúng đều tụ họp dưới một liên đài cực to. Sau khi cùng nhau làm
lễ, lại chắp tay đồng thanh
niệm Phật, bấy giờ thiên nhạc trổi lên dìu dặt thanh thao, trên hư không các thứ trân cầm bay đến đậu nơi những hàng cây báu, chớp cánh múa ca, cùng hòa
thanh niệm Phật.
Tiếp theo, một vị Bồ-tát thân như tòa núi vàng, phóng ra
muôn ngàn ánh quang minh màu khác lạ, hiện ra ngồi nơi hoa sen, cảnh tượng thật mầu nhiệm trang nghiêm cùng cực. Đức Quán Thế Âm giới thiệu:
– Đây là Đại Nhạo Thuyết Bồ-tát, hôm nay tới phiên Ngài trị nhậ1[Trực ban] nói
pháp. Ngươi mau tới đảnh lễ Ngài và mười phương Phật Thánh.
Tôi vâng lời đến quy lễ, vừa xong thì trên trời rơi xuống như mưa nhiều loại hoa màu sắc tươi đẹp cùng các vật báu lạ. Kế, lại khắp hư không muôn ức quang sắc túa ra như điện chớp, xoay vần thành những tướng, như: đài mây, lâu các, bảo cái, tràng phan, trông
vô cùng đẹp mắt.
Nơi khu vực Hạ phẩm Hạ sanh có ngôi điện đường, tên gọi NGỮ NGÔN ĐÀ-RA-NI. Do thần lực chư Thánh và sức linh thông của tòa nhà này, mỗi khi Bồ-tát thuyết pháp, chỉ dùng một ngữ âm mà chúng sanh ở thế giới nào, cõi nào, xứ nào, tỉnh nào, đều nghe thành tiếng của nơi mình đã ở và đều hiểu được rõ ràng thông suốt. Dù loài hữu tinh ở thế giới Ta Bà, Diệu Hỉ hay Tư Ha, thuộc cõi trời, người, hay Tu-la, cư ngụ tại nước Anh, Ấn Độ hay Trung Hoa, sanh quán ở tỉnh Quảng Đông, Triều Châu hay Phước Kiến, ai nấy cũng đều hiểu biết được, không cần phải thông dịch, cho nên kinh nói: “Phật dùng một tiếng nói diễn pháp, chúng sanh tùy loài
đều hiểu được[Phật diễn nhất âm diễn thanh thuyết pháp, chúng sanh tùy loài
các đắc giải.]”. Đây
là sự mầu nhiệm của môn Ngữ Ngôn Đà-ra-ni.
Ở vùng Hạ Hạ phẩm còn có một tòa báu tháp cao rất nhiều tầng, tên gọi TỊNH QUÁN THÁP. Chúng sanh nơi đây, khi muốn lên hay xuống tầng thứ mấy của tháp, vừa khởi niệm liền được lên xuống, chẳng cần phải dùng thang máy như cõi nhân gian ở Ta Bà. Trước đã nói, chư thiện nhân phẩm Hạ Hạ, thân đều là chất ngọc trong suốt nên không bị ngăn ngại, chẳng hạn khi đến nơi nào muốn đi xuyên qua tường vách, tùy tâm khởi niệm liền được qua, dù cho cả ngàn muôn vị đồng tụ họp nơi một khoảng không gian cũng không
cùng chướng ngại, chẳng có cảnh tượng chen lấn va chạm nhau, sở dĩ như thế bởi các vị đó không còn nhục thân vật chất của cõi phàm.
Tịnh Quán
Tháp chẳng những cao mà còn rộng lớn phi thường, trong đây ảnh hiện ra cảnh 10 phương thế giới. Nếu như muốn nhìn quả Địa cầu, Mặt trời, hay Mặt trăng nơi cõi Ta Bà thì toàn thể cảnh ấy đều hiện ra. Địa cầu cũng có mặt, chỉ to bằng hạt cát nhưng nếu muốn nhìn cho kỉ, cảnh ấy liền mở rộng tùy ý mình, chẳng hạn muốn trông rõ châu Á, châu Mỹ, tỉnh Vân Nam, hoặc Vạn Lý Trường Thành, cho
đến ngôi
nhà xưa mình đã
ở, các cảnh ấy liền khuếch trương[Phóng
to.] hiện rõ ràng
trước mắt. Nói cách khác, Tịnh Quán Tháp là một tổng đài quan sát cảnh vật của toàn thể vũ trụ.
Các vị được ngôi Hạ phẩm Trung sanh là những người bình thời ở Ta Bà vừa niệm Phật vừa tập hạnh lành, gieo nhân phước huệ. Các vị được ngôi Hạ phẩm Thượng sanh là những người kiếp trước công hạnh tiến vượt một tầng nữa, hoặc giữ thêm Ngũ giới, Bát Quan Trai giới, cố gắng bố thí làm lành, siêng tu
nghiêm cẩn. Thân
thể và cảnh giới của hai phẩm này đều cao đẹp hơn phẩm Hạ Hạ.
Sau khi tham quan lược qua các vùng ấy, Đức Quán Thế Âm bảo:
– Thời gian hữu hạn, bây giờ ta đưa ngươi đi du lãm hoa sen ở Bảo Trì thuộc Trung phẩm.
PHẦN 5:
HOA SEN TRUNG PHẨM, NƠI PHÀM THÁNH ĐỒNG CƯ
Tôi theo Bồ-tát rời khỏi khu vực này, lại tiếp tục trì chú, hoa sen liền hiện ra đỡ chân tôi bay vút lên hư không, vượt đi như chớp, chỉ thấy vô số lầu các, chót tháp lướt qua bên mình, rồi lui nhanh ra sau. Lúc ấy tôi chợt cảm biết thân thế lần lần cao lớn thêm ra,
do bởi đài sen
của bậc Trung phẩm to rộng độ bảy tám trăm dặm, như một tỉnh của Trung Quốc, nên sắc thân những vị nơi đây cũng phải tương xứng. Tôi ước lượng từ nơi Singapore này đến Kuala Lumpur đoạn đường trải qua khoảng hơn 180 dặm, đài sen đó to rộng bảy tám trăm dặm thì ước chừng nó phải rộng đến trung bộ của nước Thái Lan.
Hoa sen và sắc thân của bậc Trung phẩm đã như thế thì lầu các và phòng xá tất nhiên cũng cao rộng mới có thể dung nạp chư vị nơi đây. Đức Quán Thế Âm bảo:
– Bậc sinh về Trung phẩm phần lớn là hàng Phàm Thánh đồng cư, đủ cả bốn chúng, có chư Tăng Ni xuất gia, cùng các nam nữ Phật tử tại gia ở Ta Bà. Người đã sanh về đây sánh với người Hạ phẩm lại cao hơn một bậc. Những vị này đời trước đều có ý niệm thoát sinh ba cõi, nên
khi ở nơi uế độ luôn siêng cần tu tập, ngoài điểm tự tu lại còn tích cực làm những Phật sự như: xây cất chùa am, ấn tống kinh điển, giảng giải Phật pháp, bố thí làm lành, cúng dường trai giới. Bên trong họ lại giữ lòng từ, nhẫn, trung, thứ, dứt niệm tật đố, tham, sân,
do đó khi lâm chung họ được Tây Phương Tam Thánh tiếp dẫn sanh về đài sen Trung phẩm. Nhưng sự tu trì của các vị ấy có sâu cạn khác nhau, nên Trung phẩm có ba bậc là: Trung Thượng, Trung Trung và Trung Hạ phẩm.
Vừa đi vừa nghe lời chỉ dạy, giây phút đã tới một đại bảo điện. Tôi vào trong tham quan
đảnh lễ chư vị Bồ-tát, sau đó Đức Quán Thế Âm liền đưa tôi đi đến một ao báu rộng lớn. Hoa sen nơi đây sánh với Hạ phẩm Liên Trì, lại tươi đẹp trang nghiêm gấp bội, ao báu và câu lơn[Lan
can bao vòng] xung quanh đều do thất bảo tạo thành. Hoa sen trong ao
làn nét xinh đẹp tuyệt vời, phóng ra nhiều quang sắc giao chiếu lẫn nhau, cảnh trí thật là huy hoàng diễm lệ khó nỗi hình dung.
Điểm hy kì[Hay lạ] là hoa
tòa có nhiều tầng cánh, giữa mỗi lớp tầng cánh đều có đình
đài, bảo tháp, lầu các, phóng ra vô số tia sáng màu sắc khác nhau, về mỹ thuật, nó khiến cho tâm tư người ta phải rung động. Chư vị ngồi trên đài hoa thân sắc lẫn màu hoàng kim hồng đào sáng đẹp trong suốt lại phóng ra ánh sáng, phục sức của chư vị nơi đây đồng một dạng, tuổi khoảng trên dưới 20, không có người già cùng kẻ hài tử.
Tôi nhìn lại chính
mình, không biết đã biến dạng và tỏa ánh sáng giống như chư vị nơi đây từ lúc nào, riêng Đức Quán Thế Ấm vẫn còn giữ nguyên tướng cũ. Tôi lấy làm lạ hỏi, Bồ-tát liền giải đáp:
– Tất cả đều do thần thông nguyện lực của Đức A Di Đà khiến nên như thế. Phật phóng ra vô lượng quang minh chiếu đến nơi đây nên mọi vật đồng phản ánh tỏa sáng nhiều màu, sự biến thể cùng trang phục của ngươi cũng vậy, trừ phi tự mình có sức thần thông hóa ra các tướng khác, nếu không thì tất cả đều thống nhất.
Bồ-tát lại nói tiếp:
– Ở Trung phẩm Liên Trì có một ít hoa đài ảm đạm và lầu các không phóng ra ánh
sáng, nhưng đó
không phải là thật cảnh nơi đây mà do vọng tưởng bất thường của những vị đã vãng sanh huyễn hiện.
Ngài liền chỉ một tòa lầu các và liên đài mờ nhạt xa xa, tôi nhìn theo thấy khu bảo điện này có vườn hoa rộng rãi bao bọc xung quanh, trăm hoa đua
nở như bức tranh cẩm tú khoe màu, trên cây báu
trân cầm xòe
cánh nhảy múa xen
giọng ca. cảnh trạng giống như nhà Vương hầu nơi nhân thế. Giữa gian đại sảnh của tòa lầu các có thờ phượng Tam Bảo, một số gia nhân như cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái, cùng quyến thuộc, đủ cả trẻ già, trai gái gồm hơn 20 người đang tụng trì lễ sám.
Đức Quán Thế Âm bảo:
– Vị này đã
sinh về Trung phẩm đây, kiếp trước toàn gia quyến đều quy y niệm Phật, bố thí làm lành, từ bi nhẫn nhục, nhưng tâm ân ái của đương sự vẫn còn, niệm vọng tình chưa dứt, thường nhớ nghĩ đến cảnh cũ. Do sức phản ảnh của nghiệp nên mới hiện ra huyễn cảnh đó.
Bồ-tát lại bảo:
– Chín phẩm hoa
sen, mỗi phẩm từ thấp lần lượt đến cao, Hạ phẩm tu thành công lại tiến lên Trung phẩm, Trung phẩm hoàn mãn sanh lên Thượng phẩm. Tỉ như người tu môn thế gian thiền, từ ngôi vị đáo định dẫn đến sơ thiền, nhị thiền, rồi từ nhị thiền tiến vào tam thiền, tứ thiền. Tình hình diễn tiến của cửu phẩm liên đài lý cũng như thế.
15. Pháp hội ở khu vực Trung Phẩm
Bỗng nhiên
có tiếng hồng chung ngân nga vang rền giữa hư không, các cảnh tượng do phản ảnh của nghiệp hiện ra đều tan biến. Đại chúng đồng phục hồi thân nam tử 20 tuổi, thân sắc hồng vàng chiếu sáng trong suốt, trang phục thống nhất, dòng người càng lúc càng đông không
thể tính kể, vân tập thành hàng đội nơi quáng trường.
Đức Quán Thế Âm cho biết:
– Hôm nay đến lượt hai vị Bồ-tát là Đại Thế Chí và Thường Tinh Tấn giảng kinh Pháp
Hoa, ngươi hãy đến nghe thử.
Tôi vẫn ưa thích trì tụng kinh này nên vâng lời bước mau tới giảng đài[Nơi hội trường.]. Bốn phía trên giảng đài đều có lưới châu bủa giăng tuôn trăm ngàn tia
sáng rực rỡ, kết tụ thành nhiều tướng đẹp như cầu vồng, như mây rán,
hai bên lại có bảy hàng cây báu cao vút lên
hư không,
giữa những lớp tàn cây hiện ra đinh đài, lầu các, nhiều vị Bồ-tát tập hợp ở trong đó nghe kinh. Giảng đài do thất bảo tạo thành cao không biết bao nhiêu trượng, mười phần tráng lệ.
Đức Quán Thế Âm đưa tôi lên giảng đài, sau khi tôi đảnh lễ, hai vị Đại sĩ dạy tôi ngồi một bên để nghe cho kỉ. Đức Đại Thế Chí đương vị chính chủ[Chủ tọa.], Bồ-tát Thường Tinh Tấn nhiệm chức giảng sư. Giữa lúc ấy, khói hương không biết từ đâu đến, thơm thanh lạ thường, trên trời nổi lên thiên nhạc du dương, trân cầm chớp cánh múa ca, hòa điệu theo tiếng nhạc. Sau khi tất cả đại chúng lễ bái, Đại Thế Chí Bồ-tát đứng lên tuyên bố khai giảng. Kế tiếp, Đức Thường Tinh Tấn bước tới pháp tòa, ngồi lên, chắp tay hướng về đại chúng đáp
lễ, rồi dùng Phạm âm nói:
– Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa là cội nguồn của chư Phật trong thế giới Hoa Tạng, là căn bản để thành Phật, là pháp bảo tôn quý vô thượng, khen ngợi không thể cùng. Hôm nay tôi xin giảng tiết thứ hai nói về tác dụng của kinh.
Tiếp theo,
Ngài giảng thao
thao sâu xa thanh thoát như trong
dòng suối bạc, đại khái ước độ trên dưới một giờ. Sau khi nghe xong, trong
tâm tôi nổi lên niềm nghi vấn, bởi văn cú lời giảng không đồng với kinh Pháp Hoa của nhân gian, tôi đem điều này hỏi, Đức Quán
Thế Âm giải thích:
– Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa ở trần gian văn nghĩa còn ước lược, lời kinh giảng nơi đây thì sâu rộng nhiệm mầu hơn, nhưng dù cạn hay sâu, rộng hay lược, ý nghĩa vẫn là một. Ngươi nên biết, hàng trời người không thông cảnh giới của Thanh Ván, bậc Thanh Văn không rõ cảnh giới của Bồ-tát, còn Bồ-tát thì không thấu rõ cảnh giới của chư Phật. Lại nên hiểu, Bồ-tát chỉ dùng một âm thanh diễn giảng mà muôn ngàn thính chúng
đều nghe
thành ngôn ngữ của riêng mình, đây chính là
môn Đại Tổng Trì Âm Thanh Tam Muội.
Bồ-tát Thường Tinh Tấn giảng kinh vừa xong thì một màn ki cảnh[Cảnh lạ lùng.] không
thể nghỉ bàn hiện ra, chỉ thấy đầy trời mưa xuống các thứ thiên hoa tươi đẹp nhiều màu cùng những bảo vật sáng rỡ, tròn như quả cầu, hoặc hình tam giác, lục giác, đủ các sắc dạng, vô số ức đại bảo quang kết tụ thành minh châu rải rác tuôn rơi. Thính chúng dưới đài đều đưa hai tay tiếp đón, hoặc dùng tà áo hứng lấy.
Bấy giờ nhạc trời trỗi vang, tiên khúc trầm bỗng, thanh âm không biết từ đâu xuất phát, mười phần mầu nhiệm trang nghiêm.
Ngàn muôn nam thanh trang phục màu hồng đứng thành hàng ngũ nghe pháp
chợt rung
mình biến thành nữ tú, áo xiêm màu lục, quần sắc hồng đào, lưng thắt kim đái, rập ràng ca múa, lộ vẻ vô hạn tươi vui. Trong giây phút, đại chúng đều biến thành hình những quả cầu tròn, rồi hình hoa sen, không còn
thấy tướng người nữa, đột nhiên trên hoa sen hiện ra chư Bồ-tát ngồi kiết-già đoan nghiêm, tiếp theo lại biến thành ngân tháp, kim
tháp, phóng quang rực rỡ, các cảnh sắc biến hiện đều mầu đẹp khó nổi hình dung.
Tôi đang nhìn sửng gần như xuất thần, bỏng thấy từ hư không hiện ra nhiều nữ tử mặc vân y xanh biếc, tay áo dài phơi phới, bay xuống xuyên tường báu, vượt qua đại điện như đi trong không khí, chẳng bị trở ngại. Tôi ngạc nhiên thưa hỏi, Đức Quán Thế Âm đáp:
– Thế giới Cực Lạc do nguyện lực của Phật A Di Đà hình thành, tánh
thể chẳng phải là vật chất nên không trở ngại, vì thế, vô luận là đình đài, lầu các, cung điện, bảo tháp, hoa quả, cây cối, đều thấu suốt, đều có thể tự do vưọt qua, không tin ngươi hãy thử xem.
Tôi vâng lời rảo bước đến mấy chỗ như: bức tường bao quanh đại điện, các cột trụ to, lan can, vỗ mạnh vào rồi rút tay ra, đi xuyên qua,
lui mình lại, quả nhiên không thấy ngăn ngại. Duy có một điểm hơi khác là khi xúc chạm đến dường như có thể trạng vật chất nhưng chỉ không trở ngại mà thôi, hiện tượng này giống lúc khoác tay vào nước, quả thật có cảm giác chạm đến vật thể song tùy ý vẫn dễ dàng đưa tay qua lại, khuấy xuống cạn sâu như thường.
Sau đó Bồ-tát bảo tôi nối bước theo Ngài đi xem hai nơi kì quan là
BÁT ĐẠI CẢNH SƠN và HOA TẠNG GIỚI TRIỂN LÃM QUÁN.
16. Bát Đại Cảnh Sơn
Bậc sanh về phẩm Trung Hạ, hoặc không vọng tâm, hoặc chỉ có vọng niệm chút ít. Dáng bề ngoài của những vị này đều ở tuổi từ 16 đến 20, y phục đồng màu, không phân nam nữ, hành động của các vị đều theo tập thể, như buổi mai cùng nhau đem hoa và
các thứ báu lạ cúng dưòng chư Phật 10 phương. Hoa sen ở đây tầng cánh nhiều hơn phẩm dưới, vẻ mầu đẹp cũng hơn, có đủ các sắc đơn hoặc tạp, tùy màu nào phóng ánh
sáng sắc ấy.
Nơi đây lại có BÁT ĐẠI CẢNH SƠN, tiêu biểu cho 8 thức, là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, Mạt-na, A-lại-da. Hiệp lại xưng là Bát Thức Tâm Điền. Đức Phật A Di Đà thiết lập cảnh này là muốn cho chúng hữu tình khi sanh về đây, đem toàn bộ 8 thức căn của mình tu luyện đến mức trong sạch không không.
Cảnh thứ nhất gọi là QUANG MINH CẢNH SƠN, đại biểu cho nhãn thức. Lên núi này có thế dùng mắt thấy rõ tất cả cảnh trong 10 phương thế giới. Chẳng hạn nếu muốn thấy hình thể và trạng huống đời này, cùng những đời trước của một chúng sanh
nào ở cõi Ta
Bà, tất sẽ được thấy biết, như đời này là người giàu sang, đời trước là tôi tớ, đời trước nữa là thân trâu lợn, hoặc bậc Vưong tướng, đều có thể thấy biết rành rẽ rõ ràng, cho đến tình hình nơi cõi Phật đó cũng nhìn trông thấu suốt.
Cảnh thứ hai gọi là THANH VĂN CẢNH SƠN, đại biểu cho nhỉ thức. Đến núi này ta có thế nghe tất cả âm thanh của 10 phương thế giới. Dù là tiếng tăm loại nào, chỉ cần trải qua tai nghe liền có thể nhận biết ngay, cho đến Đức Phật nơi đó giảng diễn những kinh pháp gì đều có thể nghe và thông hiểu.
Cảnh thứ ba là HƯƠNG KHÍ CẢNH SƠN, đại biểu cho tỉ thức, ở núi này có thể ngửi biết tất cả mùi hương trong 10 phương thế giới. Hương khí nào đã trải qua mũi liền ngửi biết một cách tường tận, như: nghe hơi người nữ có thai nhận hiểu ngay phụ nhân đó sẽ sinh trai hay gái, thành tựu hoặc không thành tựu, nghe hơi của kim loại liền biết đó là vàng, bạc, chì, thau, đồng hoặc sắt.
Cảnh thứ tư ÂM VỊ CẢNH SƠN, đại biểu cho thiệt thức. 10 phương thế giới, tất cả những chất vị chua, cay,
ngọt, mặn, lạt, đắng, khi hơi vị chạm đến miệng lưỡi đều có thế cảm biết và những âm thanh từ miệng lưỡi chư Phật Thánh cho tận đến chúng sanh ở địa ngục, toàn bộ đều cảm biết rõ ràng.
Cảnh thứ năm gọi là KIM THÂN CẢNH SƠN, đại biểu cho thân thức. Nơi núi này có thể nương tựa vào xúc giác, phân biệt nhận ra tất cả sự vật cho đến kim thân của chư Phật ở uế độ và Tịnh Độ đều nhận biết rõ ràng.
Cảnh thứ sáu gọi là PHÁP THỨC CẢNH SƠN, đại biểu cho ý thức, ở núi này có thể thấy biết tất cả chư Phật, toàn bộ những kiếp tu trong vô số đời trước của chư vị ấy đều bày hiện rõ trong ý thức, cho đến những tiền sanh của chính mình từ một đời dẫn đến trăm ngàn đời đều ảnh hiện tỏ tường.
Cảnh thứ bảy gọi là TẾ MINH CẢNH SƠN, đại biểu cho Mạt-na thức. Đây là cảnh giới khác lạ, khác thường, có công năng đem sáu cảnh đã thuật ở trước tập trung lại, rồi hiện ra. Nơi cảnh sơn này nếu tưởng thấy, tưởng nghe, tưởng hương, vị, xúc, pháp, đều được đồng thời hiện rõ.
Cảnh thứ tám gọi là VÔ BIÊN CẢNH SƠN, đại diện cho A-lại-da thức, cảnh giới này đầy khắp mọi nơi, từ thời gian như quá khứ, hiện tại, vị lai, đến không gian như 10 phương pháp giới, tất cả và tất cả thảy đều ảnh hiện.
Trên đây chỉ trình
thuật một cách khái quát về công năng của Bát Đại cảnh Sơn mà thôi, nếu nói cho tường tất phần vi tế thì không thể cùng tận.
17. Hoa Tạng Giơi Triển Lãm Quán
Bậc vãng
sanh phẩm Trung
Trung là người đời trước ở Ta Bà sự hiểu biết và tu trì về Phật pháp có trình độ tương đương sâu sắc, đồng thời đối với phương tiện bố thí làm lành có thể gọi là tích cực, nên mới đạt được thành quả đó. Do sự chứa công bồi đức ấy sánh với phẩm Trung Hạ mới cao hơn một cấp. Cảnh giới của hàng Trung phẩm Trung sanh có bảo tháp hiện lầu cùng nhiều phòng, thân tướng cũng cao lớn hơn, cố nhiên lầu phòng phải cao rộng mới xứng họp với hình tướng.
Mỗi buổi mai, trên hư không đều có mưa hoa rơi xuống, các thiện nhân ở đây mỗi buổi sáng lại đem những hoa đó đựng nơi lẳng xách, theo chư Bồ-tát đi cúng dường 10 phương Như Lai. Các thứ hoa ấy đều màu lạ tươi đẹp khác thường, hoa ở Ta Bà không thể sánh trong muôn một.
Khi mưa hoa, trời cũng trỗi lên âm
nhạc, thanh
diệu phi thường, bút mực chẳng thể hình dung được. Cứ theo kinh Phật: “Ngàn muôn tiếng âm nhạc của hàng đế vương trong đời không hay bằng tiếng âm nhạc của Chuyển Luân Thánh Vương, ngàn muôn tiếng âm nhạc của Chuyển Luân Thánh Vương không hay bằng một tiếng âm nhạc của trời Đao Lợi, ngàn muôn tiếng âm nhạc của trời Đao Lợi không hay bằng một tiếng âm nhạc của trời Tha Hóa, ngàn muôn tiếng âm nhạc của trời Tha Hóa không hay bằng một tiếng âm ngạc của hàng cây thất bảo nơi cõi Cực Lạc”.
Hàng thiện nhân phẩm Trung Trung cho đến phẩm Trung Thượng toàn thân đều là sắc ngọc kim hồng trong suốt phóng ra ánh sáng, vì
thân không chướng ngại nên họ có thể trong giây phút đến các cõi Phật cúng dường 10 phương điều ngự[Mườ phương Phật.], rồi trở về Cực Lạc cũng chỉ trong giây phút. Những người đời trước không có công đức chi nhiều chẳng thể sanh về phẩm này. Bậc thắng thiện nơi đây ít có vọng tưởng hoặc hoàn toàn không còn vọng tưởng, thích dùng Thiền Duyệt thực, chẳng mấy khi nghỉ đến thức ăn chi khác. Còn bậc Trung phẩm Hạ sanh bởi công phu còn kém nên phải uống nước mật hoa để giúp sức tiến đạo.
Nơi khu vực này có một tòa lâu các tên là HOA TẠNG THẾ GIỚI TRIỂN LÃM QUÁN, vào đây có thể thấy biết vô lượng pháp môn tu hành của chư Phật, chư Bồ-tát ở cõi Hoa Tạng khắp 10 phương. Tòa lâu các này bao gồm vạn hữu, có thể gọi là Vô biên Hải tạng môn. Hoa Tạng Triển Lãm Quán gồm nhiều tầng, mỗi tầng đều bày hiện quá trình của một vị Bồ-tát tu hành, từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật. Tỉ như Đức Phật A Di Đà,
tiền kiếp là vua Vô Tránh Niệm, xuất gia làm Pháp Tạng tỳ-kheo, thấy là Thế Tự Tại Vương Như Lai, phát 48 điều nguyện lớn tu thành cõi Cực Lạc thanh tịnh mầu đẹp trang nghiêm, từ đó về sau gắng công tu trong vô lượng kiếp. Nếu muốn thấy sự thực hành trong
mỗi đời thì nơi đây đều bày hiện không thiếu sót. Nói tóm lại, như muốn xem quá trình của chư Phật, chư Bồ-tát trong 10 phương, bất cứ một vị nào đều có thể thấy nơi Hoa Tạng Triển Lãm linh kì mầu nhiệm này.
PHẦN 6:
HOA SEN THƯỢNG PHẨM
Rời khỏi khu vực Trung phẩm, tôi tiếp tục trì chú, chân đạp hoa sen bay vụt lên hư không, rồi lướt theo Đức Quán Thế Âm. Bấy giờ, tôi cảm biết thân mình lại lần lần cao lớn cho đến lúc thân lượng to như khi mới thấy Đức Phật A Di Đà. Bồ-tát bảo tôi:
– Bậc sanh về phẩm Thượng Thượng, đời trước tinh thông Phật điển hoặc ngộ đệ nhất nghĩa đế, giới hạnh tròn sáng như minh châu, mạnh mẽ tinh tiến, dứt thập ác, hành thập thiện, gốc đạo vững chắc, đem hết sức hành trì, dù mấy mươi năm vẫn bền giữ y như một ngày, tu cho đến lúc thọ chung. Ngoài ra, trong sáu
độ muôn hạnh cũng tạo nhiều công đức lớn, nên mới được hóa sanh nơi đây. Bậc Thượng phẩm Thượng sanh sáu căn thanh tịnh, vọng tưởng không còn. Trong hạng này có vị đã chứng đạt cảnh giới Bồ-tát, thần thông rộng lớn, biến hóa tự do, chẳng hạn như muốn biến bảo liên trì toàn thể đều biến thành ao sen báu, muốn biến cảnh điện tháp, hàng bảo thọ, thành quách, núi non, các
loại trân cầm, đều có thể tùy niệm biểu hiện.
18. Lời khuyên
nhắc của Ấn Quang Đại sư
Hoa sen nơi ao báu
Thượng phẩm đó, nhỏ nhất cũng bằng ba tỉnh của xứ Trung Hoa, nói cách khác
là bằng ba nước Mã Lai Á[Malaysia] hợp lại. Bồ-tát nói tiếp:
– Hiện tại ta đưa ngươi đi xem ao hoa bậc Thượng phẩm.
Tôi liền theo
chân Ngài, không bao lâu đã đến bảo trì. Liên Trì ở Cực Lạc tuy nói là ao, thực ra diện tích rộng lớn hơn biển cả, không thấy ngằng mé. Bờ ao noi đây so với các phẩm Trung, Hạ nghiêm đẹp hơn nhiều, quanh bờ ao có mấy lớp lan can bao bọc phóng ra các sắc quang minh, từ hoa sen phóng ra tiết hương sen mầu lạ, nhẹ nhàng lan tỏa khắp nơi.
Trong ao có những tòa đại bảo tháp lớn như non cao, trình bày nhiều hình, hoặc tròn, hoặc vòng góc, hoặc cánh sen, tuôn ra muôn ức tia sáng. Ngoài ra lại có những chiếc cầu báu nối liền, cong vòng sáng đẹp. Mặt ao chẳng những có vô số hoa nở mà còn gồm muôn cảnh trí hiện bày, trên hư không có các lộng báu treo đủ châu hoa sáng ngời liên tục chớp lấp lánh.
Mỗi đóa hoa
tính không kể xiết là bao nhiêu tầng lớp cánh, trong mỗi tầng đều có tháp báu, đình đài,
lâu các xinh đẹp khiến người nhìn say động ngẩn ngơ. Những vị ở trên đài sen thân tướng đều cao lớn trang nghiêm, sắc chân kim thấu suốt, y phục phi thường diễm lệ, tuôn ra các ánh sáng báu
nhiều màu.
Đột nhiên,
Đức Quán Thế Âm hỏi tôi:
– Trong đây có một vị Pháp sư tên là Ấn Quang, ngươi có quen biết chăng?
Tôi vội thưa:
– Pháp sư ở nơi nào? Đại danh của Ngài con kính mến đã lâu nhưng chưa hân hạnh được gặp mặt.
Vừa nói
xong, bỗng trong
đài sen có vị nam tử độ ba mươi tuổi biến lại thành nguyên tướng của Ấn Quang Đại sư bay đến. Tôi vui mừng đảnh lễ, cùng nhau đàm thoại nhiều điều, hiện tại chỉ còn nhớ Đại sư từng đôi ba phen căn dặn rằng:
– Nơi cõi Ta
Bà đã cuối thời mạt pháp, đang buổi đầu của kiếp nghiệp[Nghiệp cướp bóc, giành giật.], Chánh
giáo suy vi, nạn tai dẫy đầy, bậc chân tu thưa thớt. Kế, lại có một thời kì tạm hưng thạnh, Phật pháp như ngọn đèn bừng cháy lần cuối cùng rồi lần lần tắt hẳn. Khi loài người còn ba mươi tuổi là thượng thọ[Tuổi thọ nhiều nhất], các
kinh điển Đại Thừa ẩn mất, chỉ còn kinh điển Tiểu Thừa. Lúc nhân loại hai mươi tuổi là thượng thọ, kinh điển Tiểu Thừa cũng tiêu mất. Sau rốt đến buổi loài người thượng thọ là mười tuổi, chỉ là một câu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT để độ chúng sanh. Khi ông trở về nhân gian gắng khuyên người hãy sớm giác ngộ tu hành mới có thể tránh khỏi muôn ngàn tai ách. Lại nên truyền đạt cho hàng tu Phật biết, phải nghiêm giữ tịnh giới, lấy giới luật làm thầy, dùng tín – nguyện – hạnh chân thật một lòng niệm Phật, quyết định sẽ được vãng sanh. Hãy khuyên người tu chớ vội cho mình là thông minh,
lại đem giới luật của Phật định cùng quy chế của chư Tổ nơi thiền môn tự chuyên, canh cải, đề xướng đường lối duy tân, đó là điều trái giới luật, phạm thanh quy, khiến cho Phật pháp suy hoại, bậc tri thức đau lòng. Phải nhớ lấy lời ta dặn.
19. Phương pháp Tương Tự Trì Niệm
Kế lại, Bồ-tát và Ấn Quang Đại sư đưa tôi sang hoa đài, đến một lâu các lớn. Trên lối đi, các loại trân cầm đậu nơi những cành vàng lá ngọc, cất giọng xướng ca hòa với tiếng thiên nhạc, đôi khi lại thảnh thoát niệm Phật du dưong. Đến đâu tôi cũng thấy kì hoa diễm lệ đua nhau khoe sắc, lan tỏa hương mầu thanh nhẹ, muôn hoa tươi nở như cười dường vô số quả cầu tròn, ánh ngời sáng rỡ. Lại có những hàng đèn trân châu, đèn
lưu ly, đèn
mã não giăng bày. Các dị bảo trong đèn đủ kiểu tuôn ra nhiều ánh sáng màu, chớp động đẹp không thể tả, song tôi không rỗii rảnh để nhìn xem cho kỉ.
Tiến vào lâu
các, cảnh lạ lại càng thắng diệu làm cho tôi chợtt dừng bước sững sờ. Trong lầu, kim quy[Ánh
vàng] lấp lánh chớp động, đất báu tỏa ra nhiều sắc hào quang, mọi vật trước mắt đều phát ra ánh màu minh diệu. Đại sư đưa tôi lên lầu, nơi đây có nhiều tấm gương thủy tinh, chính giữa là mặt gương tròn cực to rộng. Đức Quán Thế Âm dẫn giải:
– Gương này có
thể soi
nguyên hình của mọi chúng sanh, đại thể như tâm tánh thanh tịnh hay vọng tưởng, phiền não nhiều hay ít, hoặc còn những nghiệp chướng gì.
Trên lầu bày liệt[Bô
trí] chỉnh tề mấy hàng ghế thất bảo, toàn thể đều phát quang. Nơi giữa bàn có để bình báu, bát pha lê và những đồ vật lạ mà tôi không
được rõ. Bồ-tát hỏi:
– Ta biết ngươi đã đói, vậy có muốn thọ thực chăng?
Tôi thú nhận và hỏi có món chi dùng được thì Ngài nói:
– Nơi đây sự ăn uống cùng với phẩm Hạ Hạ đồng nhau, ngươi muốn thứ gì sẽ hiện ra thứ đó. Khi dùng vào, thức ăn bỗ trợ làm cho
thân tâm tươi tỉnh, rồi tan thành mùi thơm, không còn cặn bã.
Tôi xin cơm trắng với một ít canh rau. Vừa nói xong thì món ấy liền hiện thành trong bát pha lê nơi bàn trước mặt. Bồ-tát lại trấn an:
– Ngươi cứ tự nhiên ăn, chúng ta không
thọ dụng chi cả.
Theo chỗ tôi biết, những bậc vãng sanh về phẩm Thượng Thượng phần đông đã lên quả vị Bồ-tát, không cần ăn uống và cũng chẳng nghĩ tưởng đến sự ăn uống, xét lại mình tự cảm thấy hổ thẹn. Sau khi dùng xong, vừa để bát đũa nơi bàn thì những thứ ấy chợt biến mất. Tôi ngạc nhiên hỏi, Đức Quán Thế Âm đáp:
– Bởi ngươi có vọng tưởng đến ăn nên mới cảm thấy đói, sau khi ăn xong, vọng tâm đã thỏa mãn, không còn nghĩ đến nữa, tất nhiên các thứ ấy tự ẩn đi. Sự vật nơi đây đều từ ý hiện thành, ví như trong giấc mộng, cảnh giới vọng tưởng dường có thật, lúc tỉnh ra chẳng còn chi cả.
Bồ-tát liền đọc kệ:
Vọng tợ sương mù, mộng ảnh động,
Cảnh duyên
huyễn hữu, sắc là không,
Lý này tâm tịnh, liền khai ngộ,
Huệ nhật vô cùng hải tạng thông.
Bậc vãng
sanh phẩm Thượng do không vọng tưởng, được khế hợp với chân tâm, nên trong một sát-na có thể nương nơi nguyện lực A Di Đà, biến hiện vô số hoa đẹp trái ngon, cùng các phẩm thức trân diệu, cúng dường mười phương chư Phật. Đến thời thuyết pháp, muôn ức Bồ-tát đều ngồi ngay nơi tòa sen, hoặc lầu các, bảo tháp, hay cung điện trong các hàng cây báu trực tiếp nghe diệu âm của Đức từ tôn giảng dạy. Tôi trình bày:
– Ở cõi Ta
Bà có rất nhiều chúng hữu tình niệm Phật, tại sao ít ai trông thấy cảnh giới Cực Lạc?
Đức Quán Thế Âm bảo:
– Bởi phần đông kẻ trì niệm đó còn nhiều tạp tâm, nên bị vọng niệm che lấp. Nếu quả một lòng niệm Phật, không còn vọng tưởng, thì tâm rỗng sáng, suốt thông, tự nhiên sẽ thấy thế giới Cực Lạc bày hiện rõ ràng.
Nhân cơ hội này, tôi liền xin lời khai thị:
– Bạch
Bò-tát, niệm Phật thế nào để được nhất tâm?
Ngài bảo:
– Chuyên tâm niệm Phật đến mức thanh tịnh gọi là Tịnh Độ thiền, dùng tâm thanh tịnh làm căn bản để niệm Phật là thiền Tịnh Độ. Có phương pháp gọi là TƯƠNG TƯ TRÌ NIỆM, nghĩa là nương giúp nhau để niệm Phật, cách thức này có thể áp dụng từ hai người sắp lên, giả sử như bên Giáp niệm Phật năm câu thì im lặng, nghe bên Ất tiếp niệm năm câu, cứ thay phiên nhau niệm như thế, khi bên này niệm bên kia lắng nghe. Câu
niệm Phật cũng cần phải rành rẽ rõ ràng, không gấp, không hưỡn, luân phiên niệm mãi như thế cho đến gần mãn thời khóa, rồi cùng đứng lên đảnh lễ và quỳ sám hối, phát nguyện hồi hướng. Cách trì niệm như thế ít hao hơi mỏi nhọc hơn, nên thời khóa có thể giữ bền lâu. Vã lại nhĩ căn có đủ tánh duyên: thông và thường, khi lắng nghe rành rẽ rõ ràng, ý cũng duyên
theo, người niệm như mình niệm, lòng niệm hợp nhất, lần lần phiền vọng lắng nhẹ, tâm được thanh tịnh, Phật tánh sẽ lộ bày. Phải biết câu hồng danh là
thanh hoa, là kết tinh của tất cả công hạnh, phước huệ trong vô biên kiếp tu của Đức A Di Đà, nên khi trì niệm tất được tiêu trừ vô số tội khiên, sanh trưởng vô lượng phước đức. Lại nữa, tâm sáng lặng là thiền, bao hàm câu hồng danh là tịnh, chẳng khỏi vọng niệm là huệ, chí thành xưng Thánh hiệu là phước, cho nên phương pháp này cũng gọi là Thiền Tịnh Môn hoặc Phước Huệ Môn. Công phu càng sâu, dứt hết các tướng, hữu niệm đồng vô niệm, chẳng phải thiền, chẳng phải tịnh, không phải một, không phải hai, chẳng phải sắc, chẳng phải không, năng sở tiêu tan, trong ngoài vắng lặng, đây lại là Bất Nhị Pháp Môn. Chư thiện nhân ở thế giới Cực Lạc phần đông thường tu theo phương pháp này để tiến lên thập địa cho đến khi thành Phật. Nhưng hãy thôi, thời gian không còn nhiều, giờ đây ta đưa ngươi đi xem Liên Hoa Đại Tháp của Đức A Di Đà, ngươi sẽ có dịp chứng kiến điều ta vừa nói.
Cực Lạc Du Lãm Ký
CỰC LẠC DU LÃM KÝ
Pháp sư Khoan Tịnh trần thuật
Cư sĩ Lưu Thế Hoa ghi chép
Cố Hòa thượng Thích thượng Thiền Hạ Tâm soạn dịch
20. Liên Hoa Đại Tháp
Kế tiếp, tôi lại trì chú bay lướt giữa hư không theo Đức Quán Thế Âm. Các đỉnh tháp, lầu đài, lần lượt như chớp vụt qua bên mình, rớt lui lại đằng sau. Không bao lâu, một tòa đại tháp thật hùng vĩ tráng lệ, cao lớn tưởng chừng gấp mấy vạn bội dãy núi Côn Lôn ở Trung Quốc, hiện ra trước tầm mắt. Đây là LIÊN HOA ĐẠI THÁP, cao vút ước mấy vạn tầng, lộ bày những cảnh góc vòng cung nhiều không kể tính xiết được. Toàn tháp màu trong suốt, phóng vô số đạo kim quang, bên trong ẩn khuất vang ra
câu niệm NAM MÔ
A DI ĐÀ PHẬT rất rành rẽ rõ ràng, khi thì giọng ai thiết, lúc thì như cầu cứu, lúc lại mạnh mẽ ran rãn hùng hồn.
Liên Hoa Đại Tháp là
chỗ du ngoạn của muôn ức vị thuộc phẩm Thượng Trung. Theo lời Đức Quán Thế Âm, sự cao lớn của tháp nhân
gian không thể hình
dung được, bởi thể lượng to bằng ngàn muôn quả địa cầu hợp lại, vì thế, về chiều cao người trần chẳng làm sao tưởng tượng nỗi. Trong tháp có các loại cung điện nhiều hình thức kiểu dáng, nhiều màu sắc, tất cả đều chiếu sáng rực rỡ huy
hoàng. Những vị du ngoạn có thể tự do bay xuyên qua tường vách, muốn lên hay xuống nơi nào chỉ cần khỏi niệm là đến. Lên tháp này có thể thấy vô số Tịnh Độ cùng uế độ ở khắp cõi Hoa Tạng mười phương, những tướng trạng và tình cảnh chánh báu, y báu nơi các cõi
đó thật vô lượng vô cùng, chẳng làm sao diễn tả nỗi.
Bồ-tát đưa tôi vào tháp, bay vượt từ tầng này đến tầng khác như đi lên thang máy. Tôi thấy mỗi tầng đều có nhiều nam tử độ tuổi ba mươi đang ngồi ngay thẳng niệm Phật, các thanh nam tùy theo tầng sai biệt, trang phục ở mỗi tầng đều khác nhau, đại ước hơn hai mươi loại màu sắc, nhưng đặc biệt, không có một nữ nhân nào.
Bồ-tát bảo:
– Chư vị nơi đây sáu thời tu hành tinh tấn, ngoài ra cũng có lúc chỉ tịnh[Khi tạm an dưỡng], hiện tại là thời niệm Phật.
Tồi xin
phép thử dừng lại ở một tầng khoảng trung ương vào xem đại chúng niệm Phật ra sao. Liếc mắt quan sát, chư vị chia thành hai bên tả và hữu, ngồi trên bồ đoàn dày đẹp, tỏa ánh quang minh, chắp tay đối diện nhau, đồng thanh niệm Phật. Song chỉ nghe tiếng chuông mõ, tiếng trì tụng, không thấy pháp khí chuông mõ đâu.
Chính giữa có một đại Bồ-tát tướng tốt trang nghiêm đang chỉ đạo, hướng dẫn. Những vị trì niệm đắc lực trên đầu đều phát ra ánh sáng, trong
ánh sáng hiện vô số hóa Phật và Bồ-tát, cùng nhiều tướng trạng, như: lâu các, lưới châu, ao sen, hàng cây
báu, bảo tháp,
hoa đẹp, cùng
các loài trân cầm bay lên
bay xuống đồng thanh niệm Phật. Trong đại tháp còn có các loại đèn xích châu, đèn hoàng
lộc, đèn lưu ly, tự động biến hiện nhiều loại hình tướng,
phóng ra nhiều sắc quang minh. Tóm lại cảnh tượng trong Liên Hoa Đại Tháp nói không xiết, kể chẳng cùng.
21. Lời khai thị của Đức A Di Đà
Sau khi tham quan đại lược chín phẩm hoa sen, Bồ-tát đưa tôi trở lại nơi Phật ngự. Tôi đảnh lễ ba lạy, quỳ xuống trước Đức từ tôn cầu xin khai thị. Đức A Di Đà thuyết pháp bằng lời kệ:
Chúng sanh cùng chư Phật,
Tánh thể vẫn đồng nhau,
Vì mê chân như tánh,
Ba cõi mãi gian lao.
Bài vọng chấp phân vân,
Lầm nhận huyễn là chân,
Hết thân
này thân khác,
Luân hồi khổ muôn phần.
Bốn mươi tám đại nguyện,
Thề cứu độ chúng sanh.
Gái trai cùng già trẻ,
Giữ vững tín, nguyện, hạnh,
Một lòng
không tạp loạn,
Gồm thiền tịnh tinh anh,
Lâm chung mười niệm tịnh,
Quyết định được vãng sanh.
Nghe xong, tôi lại đảnh lễ, quỳ chắp tay nhờ xin chỉ dạy thêm. Đức Phật bảo:
– Ngươi cùng
chúng sanh cõi Ta Bà có nhân duyên, muốn cứu độ loài hữu tình và quyến thuộc, phải lấy giới luật làm thầy, dạy người tu tập môn Thiền Tịnh. Đối với các tông trong Phật pháp và các giáo phái
khác, như: Gia Tô
giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo, Tiên giáo, Thần giáo, Nho giáo, phải hổ trợ đoàn kết, chẳng nên tranh chấp, phỉ báng nhau, nói đây là
chánh kia là tà, bởi tất cả các pháp đều là Phật pháp. Cửa Phật rộng lớn, bao quát tám muôn bốn ngàn pháp môn, các tôn
giáo dù cứu cánh hay
không cứu cánh, đều là những nấc thang phương tiện để cho quần sanh tùy căn cơ sở thích tiến lần từ chỗ thấp đến nơi cao và đều là những chiếc bè giả tạm, nếu biết tu hành thì tà trở thành chánh, thấp sẽ thành cao, ma sẽ trở thành Phật. Phải hỗ trợ tương ái, chỉnh tà phò chánh, mới phù họp với tông chỉ huệ mạng của Phật đà.
Đức từ tôn yên lặng một giây rồi nói tiếp:
– Thôi, thời gian giữa cõi Thánh, Phàm có khác,
ngươi nên sớm trở về.
Tôi đôi ba phen bái tạ, chắp tay từ từ lui bước.
PHẦN 7:
TRÊN ĐƯỜNG TRỞ LẠI NHÂN GIAN
Rời khỏi nơi Phật ngự, tôi định thần trì chú Lăng Nghiêm hai
đóa sen lại hiện ra đỡ chân đưa thân hình vượt lên hư không bay đi như làn chớp, Lần này không trải qua các cung trời mà đi thẳng về cảnh Trung Thiên La Hán, tôi
đình chỉ sự trì niệm nhẹ nhàng đáp xuống núi, hoa sen nơi chân cũng biến mất. Bước vào điện, vị tri khách tăng mời ngồi, bảo đồng tử bưng nước thanh hương thỉnh giải lao, sau đó lại đưa vào tăng phòng cho tôi an
nghỉ.
22. Tỉnh giấc nơi động Di Lặc, núi Cử Tiên
Trong cơn mơ màng tôi chợt tỉnh lại giữa màn đêm bốn bề đen tối như mực, quang cảnh chùa, tháp, chư Thiên, Bồ-tát ẩn mất vắng tăm, điện lầu hùng vĩ rực rỡ ánh vàng, cổ thọ kì hoa cũng đều biến dạng. Hồi tưởng lại những thắng cảnh từ lúc ban sơ đến cõi Cực Lạc như còn hiện rõ ràng trước mắt. Tôi có cảm giác mình đang ngồi dưỡng thần trong một thạch động.
Không bao lâu bên ngoài lộ vẻ sáng liền nhận rõ đây là động Di Lặc thuộc núi Cửu Tiên. Tinh thần tôi cũng lần lần khôi phục trạng thái bình thường, nhớ lại thời gian trải qua các nơi ước độ hai mươi tiếng đồng hồ.
23. Đường về chùa Mạch Tà Nham
Tôi ở lại động lễ sám vài ngày, hết cảm xúc lại trách thương cho thân phận, nghĩ tiếc mình đã tự cao khiến nỗi không biết bao giờ được về cõi Phật. Sang đến ngày thứ ba tôi mới lìa khỏi núi, lần bước về chùa cũ cách sơn động hơn hai mươi dặm.
Đến xích Thủy Nhai thấy người đi rộn ràng, lính tuần tra đón hỏi giấy căn cước[Chứng Minh Nhân Dân] trong
lòng chợt thấy mối kinh lo, tôi thầm niệm thánh hiệu Quán Thế Âm cầu xin gia hộ, mầu nhiệm thay quân sĩ làm ngơ không gọi đến. Hỏi thăm khách đi đường thì ra lúc bấy giờ nhằm ngày mùng 8 tháng tư năm Quý Sửu (Dương Lịch là 10-5-1973), tính lại mình xa lìa
nhân gian đã sáu năm gần sáu
tháng.
24. Chút cảm niệm cuối cùng
Hoa tiếu quanh đề quán Tự Tại,
Kim hà hồng nhật đại A Di,
Vân tự khứ lai sơn bất động,
Cao tăng bích nhãn tựu thùy
mi.
Ôi! Mê là chúng sanh, tỉnh là Bồ-tát, mê
tỉnh đều do mình tự giác, nào
khách hữu duyên sẵn túc nhân trả huyền cố gắng độ oan thân. Tôi nghỉ từ đây mình phải nối chí sư phụ là Hư Vân lão Hòa thượng và theo chân chư Tôn Đức trên đường hoằng pháp lợi sanh, hoàn cảnh cùng túc nguyện đã an bài không còn làm
khác được nữa.
Trên đường trở về, tôi thẩn thờ bước đi từng bước từng bước nặng nề với bao nhiêu trách vụ khó khăn, với tương lai đầy bất trắc đang chờ đón trước mặt. Xa xa, cảnh chùa Mạch Tà Nham lần hiện rõ mái cong, qua hàng dương liễu vài cánh én xuân còn sót
lại bay lơ lững bên khung trời.
THAY LỜI BẠT
Ngẫu ích Đại sư bảo:
Có người cho rằng, Thiền Tông để độ hàng thượng căn, Tịnh Độ môn để độ hàng trung hạ, nói như thế là vô tình phỉ báng tông và giáo. Thật ra, Thiền và Tịnh đều độ cả ba căn, bậc thượng căn tu thiền có thế tùy phần chứng đắc, bậc trung căn ngộ tánh bản lai, bậc hạ căn nếu cố gắng tu cũng sẽ đắc định hoặc tùy phần tâm mà được an định. Hàng thượng căn tu Tịnh tất mau chứng niệm Phật tam muội, hàng trung căn sẽ đạt lý nhất tâm đồng với cảnh khai ngộ bên Thiền, hạ căn như chuyên tu cũng tiến tới sự sự nhất tâm, tức cảnh giới định tâm tương tục của thiền tông. Duy có điểm khác là Thiền hoàn toàn dùng tự lực tiến tu, Tịnh đã dùng tự lực lại kiêm nhờ tha lực, cho nên với Tịnh môn hành giả dù còn hoặc nghiệp[Nghiệp mê mờ] khi
lâm chung nếu nhất tâm trong mười niệm sẽ cảm được Đức A Di Đà y theo bản nguyện đến tiếp dẫn vãng sanh về Cực Lạc. Khi sang cõi ấy rồi thì sống vô biên kiếp không còn luân hồi trở lại nữa và tu tiến mãi cho đến lúc chứng quả Vô Thượng Bồ-đề, đây là
điểm đặc biệt siêu thắng của môn niệm Phật.
Pháp môn Tịnh Độ cũng không có chi kì lạ, chỉ tin sâu, nguyện thiết, và cố gắng hết sức hành trì, được sanh cùng không là do tín
nguyện có sâu
thiết hay
chăng, phẩm sen cao
hoặc thấp hoàn toàn thuộc về công phu
hành trì hơn kém.
Xin nhấn mạnh để hành giả lưu ý, phẩm sen cao thấp không phải là điểm trọng yếu, chính vấn đề là có được vãng sanh hay không, nếu chẳng được vãng sanh dù có bao nhiêu
công đức cũng
hóa thành nhân thiên phước báu.
Cho nên một chữ nguyện rất quan trọng, nguyện không ái luyến ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cho đến tất cả thầy trò, thân bằng quyến thuộc, nguyện không tham danh vọng, tiền của, nhà cửa, ruộng vườn, sắc đẹp, tước quyền, nguyện không cầu hưởng phước báu cõi người, cõi tiên,
cõi trời, nguyện không cầu Thánh quả thấp của Thanh Văn, Duyên Giác, chỉ cầu quả vị Vô Thượng Bồ-đề của Phật, để độ mình, hàng thân tình, oan
trái và tất cả chúng sanh.
Cổ ngữ có câu: “Thông
minh phản bị thông minh ngộ”, có nghĩa, kẻ thông minh thường bị sự thông minh làm cho lầm lạc, bởi ỷ mình thông minh có học thức nên nhiều người cho môn Tịnh Độ là thấp kém, thích những lối huyền luận, những pháp cao siêu, nói cho đối phương điếc tai cứng họng, pháp nào mình cũng
thông hiểu. Chỉ tội cho bản thân đã rơi vào chỗ sơ thất là “lời không xứng hạnh” và “nhiều ngõ lạc dê”, đây là truyện đi tìm dê lạc của người láng giềng Dương Chu thời Chiến Quốc, cứ gặp ngã ba, ngã tư nhiều lần nên mất lối, ấy là do đường cái lắm ngã mà dê mất không tìm thấy. Người đi học cũng vậy, chỉ vì mê muội thích phân tích quá chi
li mà mất cả phương hướng.
Lão tăng thường thấy lắm kẻ thông minh lạc theo không thiền và cuồng thiền, thích mượn lời ngữ lục của chư Cổ Đức để nói cho cao kỳ, ngôn thuyết thì đi trước Phật, Tổ nhưng hành vi lại ở đằng sau phàm dung, đến lúc lâm chung sức nghiệp dập dồn, bốn đại giải thể, thân xác bị thoái hóa mỏi nhức rên la, không tìm được nơi y cứ, thật đáng thẹn thùa thương tiếc. Trái lại, những người thật thà quê dốt, lòng không phân biệt, chỉ biết chuyên trì một câu niệm Phật, khi lâm chung phần nhiều có triệu chứng vãng sanh hoặc chết một cách an lành. Đây là điểm đáng lưu ý cho người tu, nên định tâm suy nghiệm cho kĩ.
Ấn Quang Đại sư khai thị cho tín chúng trong pháp hội Hộ Quốc Tức Tai ở Thượng Hải rằng:
Tất cả pháp môn đều cậy nơi tự lực, môn Tịnh Độ đã nương tự lực lại nhờ tha lực. Với tất cả pháp môn, hành giả phải tu sao cho nghiệp sạch tình không thì mới thoát khỏi luân hồi, duy ở môn Tịnh Độ dù hoặc nghiệp hãy còn, hành giả cũng được đới nghiệp vãng
sanh, dự vào hàng
Thánh. Nhiều người không xét kĩ, xem môn Tịnh Độ là thấp kém, thật đáng thương xót.
Hàng thiện giả đời nay lắm kẻ cho rằng tham thoại đầu đắc lực sẽ được liễu thoát, tùy ý đi hoặc ở, đây là lời nói mộng của kẻ chưa mở chánh nhãn mà thôi.
Xin dẫn đôi việc xưa nay để chứng nghiệm:
Đời nhà
Thanh trong những niên
hiệu Càn,
Gia[Càn Long, Gia Tỉnh] có ba vị thiền tăng làm bạn đồng tham. Sau khi viên tịch, một vị đầu thai ở tỉnh Giang Tô tên là Bành Uẩn Chương, một vị sanh ở tỉnh Vân Nam tên là Hà
Quế Thanh,
còn một vị ở Hiệp Tây là Trương Phí. Trong ba người, duy có họ Bành là nhớ được đời trước. Sau vào kinh thi Hội, gặp hai vị kia liền kể lại việc làm tăng trong tiền kiếp, hai người nọ tuy không nhớ được nhưng khi cùng gặp mặt cảm thấy như đã quen biết từ lâu nên kết nhau làm đồng bạn. Trải khoa thi Hội rồi đến kì Biện Thí, Bành đỗ trạng nguyên, Hà đỗ bảng nhãn và còn Trương thì trúng bậc truyền lô. Bành từng làm Chủ Khảo rồi đến chức Học Đài nhưng lại tham sắc sau mãn phần ở tại nhà. Hà làm quan
Chế Đài ở Nam Kinh, khi giặc Hồng Dương[Hồng Tú Toàn] loạn Thái Bình Thiên Quốc (từ năm 1843 đến 1864) làm phản, chiếm mất Nam Kinh (1853) bị vua Thanh khép vào tử tội. Còn họ Trương làm chức Thị Độc Học Sĩ giáo hóa tựu quân là Hàm Phong hoàng đế, bị loạn Hồi Hột bắt đem giết đi. Ba vị ấy có thể nói là bậc tăng phi thường, chỉ đáng tiếc không chịu tiếp tục tu thiền lại không biết niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, tuy được hưởng chút hồng phước nhưng hai người chết không an lành, còn Bành Uẩn Chương thì tham đắm nữ sắc e kiếp sau lại không bằng kiếp này vậy.
Lại nữa, ở Tô Châu có Ngô Ẩn Chi tiên sinh vốn là một vị thám hoa triều Thanh, học vấn, đạo đức, tướng mạo đều tốt. Năm Dân Quốc thứ 10 (1921), ông đến triều lễ chùa Phổ Đà có gặp tệ nạp, tự nói kiếp trước mình là Hòa thượng tỉnh Vân Nam, lúc đó vì khách
hành hương quá
đông nên tệ nạp không rảnh rỗi để hỏi rõ nguyên do. Năm sau
(1922) lúc đến Dương Châu để ấn khắc kinh điển rồi sang Tồ Châu ngụ một nhà đệ tử tại gia, tệ nạp cho người mời Ngô Ẩn Chi đến để hỏi thăm, ý nghĩ rằng ông chẳng mê căn tu đời trước, nhưng khi gặp mặt đàm luận thì Ngô đã hoàn toàn quên
mất túc
nhân, từ đó về sau bặt vô âm tín. Đến năm Dân Quốc thứ 19 (1930), lúc đang bế quan ở chùa Báo Quốc thì Ngô Ẩn Chi cùng hai vị cư sĩ là Ấn Tuyền, Hiệp Hòa đến thăm viếng. Tệ nạp[Người áo vá lượm thuộm, đây là lời khiêm cung tự xưng của bậc tu khổ hạnh.] hỏi:
– Tại sao ông
biết kiếp trước mình là một vị Hòa thượng ở Vân Nam?
Họ Ngô đáp:
– Lúc tôi 26 tuổi, mộng thấy mình ở cảnh già lam, tự biết đó là
ngôi chùa nơi một huyện nọ tại Vân Nam. Trong mộng thấy từ điện đường, phòng xá, liễn đối cho đến tam quan, cây cối, ao hồ xung quanh, dường như cảnh cũ đã quen, lại thấy mình là một tăng lớn tuổi. Khi tỉnh giấc nhớ rất rõ ràng, tôi liền lấy sổ ghi kĩ lại từng chi tiết, về sau một người bạn làm quan sắp phó nhậm Vân Nam, tôi nhờ tìm hỏi thăm và biên chép lại cảnh trí về ngôi chùa nọ. Khi xác minh đem so với kí lục của mình thì không sai lấy một mẩy.
Tệ nạp khuyên:
– Tiên sinh nay đã tám mươi tuổi, hậu nhật chẳng còn bao lâu, nên khôi phục lại sự nghiệp xuất trần mới không uổng phụ công khổ tu đời trước.
Ngô nói:
– Niệm Phật đâu có chi là cao siêu kì
lạ mà phải tu trì.
Tệ nạp đáp:
– Niệm Phật chẳng có điều chi hi kì hay lạ, bởi nghỉ thế nên người đời không mấy ai chịu niệm, nhưng nếu chấp định chẳng cao siêu kì lạ nên không chịu thực hành thì ăn cơm cũng là một việc rất không cao siêu kì lạ, thử hỏi ông và mọi người mỗi ngày không ăn cơm có được chăng?
Y không đáp được nhưng y chẳng cho là phải nên không chịu niệm. Cuối năm ấy hai vị cư sĩ đi theo y báo tin rằng Ngô Ẩn Chi đã mãn phần vừa tròn 80 tuổi. Họ Ngô vào kiếp trước cũng khéo tu trì, có đức hạnh tốt nên đời này mới cảm phước báu được công danh lớn, thọ số cao, nhưng chỉ diễu tròn luân thường, ngoài ra về Phật pháp lý Thiền và Tịnh đều không tin nhận chắc, nghĩ cũng lạ và đáng thương.
Nhưng bốn vị trên đều chưa có sở chứng, mà phiền hoặc chưa dứt hết vẫn còn bị sự luân hồi chi phối, huống chi mình dám tự hào tham thiền đắc lực đi ở tự do ư? Như đời Đường, cha của Lý Nguyên làm Quận Thú ở Đông Đô bị An Lộc Sơn tạo phản bắt đem giết. Lý thấy con đường hoan lộ vinh nhục mất còn bất định nên không muốn ra làm quan, sửa ngôi nhà ở của mình ở Lạc Dương thành chùa Huệ Lâm, rước Viên Trạch Thiền sư về làm trụ trì, phần ông cũng ở luôn tại đó tu hành. Thời gian sau, Lý Nguyên muốn triều lê thánh tích ở núi Nga My, mời ngài Viên Trạch cùng đi, Viên muốn theo con lộ từ Trường An sang Hiệp Tây, Lý
vì không thich trải qua
Kinh Đô nên nhất định dò theo thủy đạo ngang qua Kinh Châu. Viên
Trạch biết mình đi chuyến này không còn trở về nữa nên đem hậu sự ghi dặn lại nơi tờ giấy, rồi để trong quyển Kinh nơi bàn. Xong cùng Lý Nguyên
xuống thuyền khỏi hành. Khi tới Kinh Châu sắp tiến vào ngã Hiệp Tây, vì thủy lộ nơi đó hiểm trở nên chưa đến chiều phải dừng thuyền nơi bến tạm.
Lúc ấy bỗng có một phụ nhân mặc quần gấm xuống bến xách nước, Viên Trạch trông thấy liền rơi lệ, Lý Nguyên hỏi duyên cớ, sư đáp:
– Tôi không muốn đi theo
ngã Kinh Châu vì sợ thấy người đàn bà này. Phụ nhân đây mang thai đã ba
năm chờ tôi đến làm con, không thấy còn có thể tránh khỏi, nay trông thấy tức duyên phần đã quyết định. Ông nên đi tới người đàn bà đó họa phù niệm chú cho tôi mau
sanh, không bị chướng ngại, sang ngày thứ ba nên đi tới nhà ấy nhìn nhau, tôi sẽ đáp lại bằng nụ cười để làm tin. 12 năm sau nếu còn tưởng nhớ nghĩa xưa hãy tìm đến chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu vào đêm rằm tháng tám sẽ cùng tái hội bên giếng Các Hồng.
Lý Nguyên nghe nói liền thuật lại cho phụ nhân biết, hỏi thăm chỗ ở và ngó vào bào thai họa phù niệm chú. Người đàn bà để xem thử được biết liền lộ sắc mừng, khi mọi việc xong xuôi liền vội vã xách nước về nhà. Lý Nguyên trở xuống thuyền thì Viên Trạch đã ngồi thoát hóa. Đến ngày thứ ba, Lý đến nhà viếng thăm, đứa bé sơ sinh liền nở miệng cười. Khi ông trơ về chùa Huệ Lâm tìm thấy giấy tờ ghi hậu sự để trong Kinh càng tin Viên
Trạch Thiền sư là bậc phi thường. 12 năm sau, Lý Nguyên đến chùa Thiên Trúc ở Hàng
Châu vào đêm rằm tháng
tám tới nơi ước hẹn để đón chờ, vừa khi ấy một mục đồng ở bên kia sông cầm roi gõ vào sừng trâu ca rằng:
Hương nguyền ba kiếp phách trên non,
Nào lúc ngâm phong thưởng nguyệt tròn,
Thẹn với người xưa xa đến viếng,
Thân này tuy khác tánh linh còn.
Lý Nguyên nghe ca đứng bên bờ sông hỏi thăm, mục đồng trả lời vắn tắt mọi việc rồi khen rằng: “Lý công thật là trang tín sĩ”, nói
xong ngồi trên lưng trâu quay đi ca tiếp:
Thân sau thân trước sự bời bời,
Muốn nói e
mình đứt ruột thôi,
Ngô Việt nước non đà trả khắp,
Chèo mây nay lại chở thuyền khơi.
Ca xong cưỡi trâu đi
thẳng. Các vị thử nghĩ, Viên Trạch Thiền Sư thông đạt quá khứ vị lai, cảnh chứng đắc cao siêu như thế mà không thoát khỏi bị vào bào thai, nên những vị bảo rằng mình tham thoại đầu đắc lực có thể đi ở tự do, tệ nạp cho đó chỉ là lời nói mộng và những vị tự nghĩ: “Ta là hàng trí thức, môn niệm Phật thấp kém chẳng có chi kì lạ” nên không chịu tu cũng là cái chướng thuộc về sự thấy biết[Sở tri chướng]. Trái
lại với hạng trên có kẻ lại bảo: “Tôi dốt nát căn tánh thấp, việc trong ngoài đa đoan chắc không thể niệm Phật tu hành được”, nói như thế là tự phế bỏ mình, Phật làm sao cứu vớt, phải biết việc tu trì không lựa giàu nghèo, sang hèn, trí
ngu, già trẻ, có
thành thì có cảm, như có ăn tất có no. Ở thế gian nhiều người vì mê đánh cờ đánh bạc, ngồi luôn ngày lẫn đêm, quên ăn quên ngủ, quên cả thời tiết nóng nực, rét lạnh, những việc như thế vẫn làm được còn niệm Phật là điều tốt, là gieo nhân phước huệ, là duyên khẩn yếu để cứu mình khỏi luân hồi sanh về cõi an vui giải thoát, tại sao lại không cố gắng tu hành?
Do đó, tệ nạp khuyên mọi người đều nên niệm Phật, ngoài thời tu chính thức, khi ăn cơm, mặc áo, đi đứng, nằm ngồi cũng niệm, khi có vọng niệm xấu ác nổi lên liền dứt trừ, thầm sám hối rồi tiếp tục niệm, hành trì như thế thành tâm hồi hướng cũng được vãng sanh. Và
người niệm Phật cần phải dung thông cả sự lý chân đế, tục đế, ví như mặt gương tròn sáng rộng lớn, tuy rỗng không chiếu suốt song vẫn hiện cả người và cảnh, muôn tượng xum la, vật đi không dính mắc, vật đến lại soi hình, thể rỗng không chiếu suốt là chân
đế, là lý,
cũng gọi Chân Như Tịch Chiếu môn, muôn tượng xum la là tục đế, là sự, cũng gọi là Sanh Diệt Sai Biệt môn (chữ đế ở đây ý nói chắc chắn, chân thật). Nghĩa là cả chân, tục, sự, lý đều toàn bộ là một thể. Chân Tâm hay Như Lai Tạng Tâm, Thiền Tông từ không môn đi vào, chủ về lý, về chân đế, tuy muôn hạnh đều tu mà không lập một pháp, chẳng dính chấp điểm trần. Tịnh Độ từ hữu môn thể nhập, chủ về sự về tục đế, nơi chỗ chẳng lập một pháp, không dính chấp điểm trần mà tròn tu muôn hạnh. Cho nên bậc trí phải thông dung sự, lý, chân, tục, chẳng nên thiên chấp, nếu chưa được như thế, thà rằng chấp có, đừng nên chấp không. Chấp có tuy chẳng tỏ thông Phật tánh nhưng hãy còn nhờ công đức hữu vi sanh về cõi nhân, thiên hoặc cõi Phật. Chấp không thì công đức hữu vi đã chẳng có, công đức vô vi lại cũng không, gây thành cái
chấp đoạn diệt, bác phá nhân quả, làm cho chúng sanh lạc lầm, Phật pháp rối loạn, mối họa rộng lớn không thể diễn tả.
Chúng ta niệm Phật bắt đầu từ chỗ có niệm mà dụng công, niệm lâu dần đến chỗ vắng lặng, tâm và cảnh đều quên, không thấy mình là người niệm, Phật là vị được niệm, song mỗi câu mỗi chữ đều rành rẽ, liên tục, rõ ràng, đó là cảnh niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, nhưng công phu này chẳng phải bước đầu tiên liền có được, nếu chưa đến trình độ ấy vội nghỉ rằng “mình còn có niệm tức còn vướng mắc”, vội chê bỏ chẳng dụng công, đi tìm cái “không
không” thì chẳng khác
nào tự phá nhà
mà muốn được nơi yên ổn. Bậc Thiền đức khi xưa do dung thông sự lý nên tuy “không môn” mà
chẳng bỏ các công đức thuộc “hữu môn”, như ngài Vĩnh Minh Thọ và Thủ Sơn Niệm Thiền sư mỗi bữa đều tụng Kinh Pháp Hoa, Tổ Phổ Am và Khuê Phong Thiền sư đều tụng Kinh Hoa Nghiêm, cho đến Viên Giác, Câu Chi Thiền sư, sư trì chú Chuẩn Đề, Thiên Thai Trí Giả kiêm tu niệm Phật.
Liên Trì Đại sư là bậc triệt ngộ về thiền đã bảo: “Chấp sự mà mỗi câu Phật nối nhau, chẳng uổng công phu nhập phẩm, chấp lý nhưng tâm chưa thông đạt, khó khỏi mối họa lạc ngoan không”. Biển Phật pháp rộng vô biên, tệ nạp xét mình là kẻ dung thường không dám nói nhiều e rằng nhàm tai bậc tri thức.
Pháp hội này gọi là Hộ Quốc Tức Tai, mối họa thời nay ngày một thêm nhiều, như chiến tranh, trộm cướp, bão lụt, động đất, sóng thần, lửa cháy rừng, mất mùa đói khát, nạn sâu rầy, châu chấu, nạn phi cơ, xe thuyền, bệnh hiểm lạ phát sinh là do nhân loại tạo nghiệp sát nặng, tâm tư âm độc, tham mê ái dục, chế khí giới tối tân để giết hại nhau, cư xử trái đạo luân thường, muốn tiêu tai nạn hộ quốc gia phải dứt sát nghiệp, trừ ác tâm và thực hành tám chữ: “Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sĩ”. Muốn thực hành các điểm trên lại cần phải có ba điều tin là: “Tin tội phước báo ứng, tin siêu đọa luân hồi và tin có Phật Trời, Thần thánh”.
Điều thứ nhất, tại sao phải tin tội phước báo ứng? Bởi căn cơ đời này phần nhiều thấp kém, nếu chỉ giảng về đạo lý cao siêu như: giữ cho tâm trong sạch, chân chánh, thường hằng sáng suốt, vô ngại, rỗng không, chẳng dính mắc, tất chẳng mấy ai làm được, cho nên những lý luận đó chưa đủ để cải thiện nhân tâm. Vì thế cần phải đề xướng rộng thuyết nhân quả, làm lành sẽ được hưởng phước lành vui, tạo ác tất chịu tội báo nạn tai đau khổ.
Điều thứ hai, tại sao phải tin siêu đọa luân hồi? Nếu theo thuyết duy vật cho rằng người chết là mất hẳn, không có sự siêu đọa thọ tội phước cùng linh hồn đi đầu thai, thì cần chi làm lành, nhọc gì tạo điều phải, việc tốt, như thế mọi người cứ tham ô, dâm loạn, cướp giựt, giết hại, dối trá, lường gạt, miễn sao mình hưởng điều khoái lạc là đủ, bởi chết rồi tâm thức tiêu tan đâu còn chi nữa mà phải lo tội vạ. Cho nên thuyết duy vật cho chết là mất nên gây tai họa lớn lao nguy hiểm vô cùng, nên biết linh hồn vọng thức tuy là huyễn nhưng chỉ huyễn đối với bậc Thánh đã trong sạch sáng suốt, dứt hết nghiệp hoặc, vọng tâm, còn hàng phàm phu
vì còn vọng nghiệp, còn
linh hồn, nên vẫn ở trong vòng luân hồi nhân quả.
Điều thứ ba, tại sao phải tin có Phật, Trời, Thần Thánh? cổ ngữ có câu: “Nhân
gian tư ngữ, thiên ván như lôi, ám thức khuy tâm, thần mục như điện”,
nghĩa là người nói thầm lén trời nghe rõ như sấm vang, nhà tối tâm sai trái mắt thần nhìn biết rõ ràng như điện chớp. Phải biết chư Thiên, chư Thần do phưóc báo thanh tịnh, tạm đắc ngũ thông nên có thể biết rõ tâm tư, nghe thấy lời nói hành vi thầm kín của hàng phàm tục, huống chi chư Phật, Bồ-tát thần thông rộng lớn, chẳng những thấy biết rõ từng chi tiết mà còn thông đạt vô biên kiếp về trước, thấu hiểu vô lượng kiếp về sau. Tin nhận mọi tâm niệm, hành vi của mình đều có Phật, Trời, Thần Thánh soi thấu chứng tri như nhìn vào lòng bàn tay, từ đó ta mới biết sợ mà không dám làm ác.
Trong Bồ-tát giới có câu: “Tâm sợ, khó sanh ác; lòng lành,
khó phát xấu xa” là
nói về điểm này.
Có người hỏi tệ nạp: “Đã khuyên người giữ giới, ăn chay, làm lành, niệm Phật là đủ sao còn bảo nên thường niệm Quán Thế Âm Bồ-tát là có ý gì?”.
Điều ấy không chi lạ bởi thời mạt hậu sự khổ thêm nặng, đức Quán Thế Âm lòng bi sâu, Bồ-tát lại có nhân duyên lớn với chúng sanh cõi Ta Bà nên
cần nhờ sức vô duyên từ của Ngài để cứu độ trong khi cấp nạn, sức từ bi ấy ví như bóng trăng in muôn dòng nước lặng, từ điểm sương cho đến điểm suối, hồ, sông, biển, nếu nơi nào có nước trong tất được ảnh hưởng của ánh trăng chiếu suốt. Nước trong là chỉ cho tâm niệm chí thành, tâm niệm này phần nhiều xuất phát từ cảnh nguy, nạn hiểm bất ngờ khiến chúng sanh quên mất thân tâm để cầu cứu. Có kẻ nói: “Theo phẩm Phổ Môn Kinh Pháp Hoa, niệm Quán Thế Âm rớt xuống vực sâu sẽ được cứu, rơi vào lửa dữ không bị cháy, nói như thế tôi chưa tin, quý vị thử niệm danh hiệu Ngài rồi nhảy xuống vực, lao vào lửa, xem coi có bị tan xương, bị chết cháy hay không?”. Bảo như thế là hồ đồ không đúng, bởi còn có niệm thử thách tất chưa quên hẳn thân tâm, chưa chí thành khẩn thiết làm sao được sự cơ cảm cứu độ vô duyên từ, vả lại Kinh Pháp Hoa do Phật nói, không tin lời Phật đâu phải là Phật tử.
Hồi thời Hoa Nhật chiến tranh, phố xá xung quanh vùng bắc ở cảng hộ bị bom đạn thiêu hủy hết, duy có căn phố của một đệ tử quy y với tệ nạp là Hạ Hinh Bồi vẫn còn trơ trọi nguyên vẹn. Nguyên do bởi lúc ấy cả nhà đều chí thành niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, lúc đó Hạ Hinh Bồi đang làm việc trong tòa soạn báo Tân Văn, y cũng niệm hồng danh Bồ- tát nên gặp điều may mắn khác thường. Bảy ngày sau được đệ thập cửu lộ quân cứu thoát khỏi vòng vây chở đưa về nhà trong người chẳng bị thương tích chi, tất cả đồ vật trong nhà đều còn nguyên không bị tốn thất.
Lại một đệ tử tại gia của tệ nạp ở huyện Văn Hỷ tỉnh Sơn Tây tên là Diệp Tư Sơ vẫn thường niệm Quán Âm, một hôm nhân có việc cần y cưỡi lừa qua vùng đại lãnh, một bên là núi cao, bên này
là vực thẳm, do trời lạnh tuyết đóng thành băng, lừa trượt chân té ngã nên y rơi lăn xuống vực. Lúc ấy Diệp hốt hoảng niệm Quán Âm mấy câu, vừa may nửa chừng có nhành tùng de ra, y rớt vào mấy cây tùng nhỏ chi chít nên bám vào đó mà
lần leo lên
được, con lừa cũng không bị hề hấn chi. Nằm nghỉ một lúc cho khỏe và tỉnh hồn, Diệp nhìn xuống vực để quan sát cho kĩ thì điều kì lạ trong vực sâu thẳm không có cội tùng nào de ra cả.
Chuyện linh cảm về việc niệm hồng danh Quán Thế Âm lắm người đã kinh nghiệm hoặc mắt thấy tai nghe
còn rất nhiều, nay chỉ thuật ra đây vài chi tiết để làm chứng tín. Lời của tệ nạp tuy quê mùa nhưng thiết tha dẫn giải, nhưng vẫn không ngoài ý Kinh lời Tổ, mong chư vị đừng vì những kẻ dung thường mà chê bỏ chánh pháp thì sự an ổn và đắc ích rất lớn lao.
Trên đây là những lời khai thị của bậc tôn đức Ngẩu ích, Ấn Quang về việc nhân quả luân hồi, riêng bút giả[Lời khiêm cung của Hòa thượng Thiền Tâm] xin
dẫn thêm bằng chứng theo quyển “Luân hồi trong thời khoa học”, ông Trương Thái Diêm là một nhà ái quốc nhiệt thành, nổi tiếng cương trực, dám nói không sợ chết, năm Dân Quốc thứ tư (1915) Viên Thế Khải muốn làm hoàng đế, sợ ông phản đối chỉ trích nên dụ tới Bắc Kinh rồi giam lỏng ở chùa Long Tuyền cho quân canh giữ. Thái Diêm buồn giận, mộng thấy mình làm Diêm
La nên gửi thư cho Hòa thượng Tông Ngưỡng có đoạn như sau:
“Vào đầu tháng
chạp năm rồi, đệ tử mộng thấy có người đem thiệp mời đi dự tiệc, dưới thiệp thư danh vị chủ yến là Vương Ngao. Vương vốn người ở trấn Trạch, bậc hiền tể[Thừa tướng đảm lược] của vua Võ Tôn đời nhà Minh, đệ tử chưa kịp suy nghỉ chi khác thì ngoài cửa đã có xe ngựa đón rước. Đến nơi, trong dinh đã bày sẵn đại yến phân chia thành nhiều nhóm, có người Trung Hoa, người Ấn Độ và người các nước Âu Mỹ. Về nhóm người Trung Hoa thì ngoài Vương và đệ tử còn có Hạ Hầu Huyền, Mai Hiểu Thần và các vị bồi yến. Đệ tử hỏi Vương:
– Đọc qua lịch sử biết tiên sinh là bậc danh đức, song từ trước đến nay vẫn chưa có chén rượu thừa hoan[Chén rượu giao tiếp vui vẻ], sao bỗng dưng lại được hân hạnh vào đại yến này?
Vương Ngao
đáp:
– Lệnh trên cử tôi cùng ông giữ chức Diêm La xử án, Hạ quân làm Tài phán quan,
Mai quân làm Tổng kiểm soát. Những vị nơi đây đều chia nhau chủ xử về hình sự ở năm châu.
Đệ tử lại hỏi:
– Việc tuyên xử căn cứ theo pháp luật nào?
Vương đáp:
– Nơi đây
tham cứu theo
hình luật các đời Hán, Đường, Minh, Thanh, Âu Tây và
Nhật Bản.
Từ đó, mỗi đêm đệ tử đều được mòi đi xử án, chỉ có ngày chủ nhật là tạm nghỉ. Việc xử cũng chẳng có chi trọng đại, gồm các tội: gông xiềng, khổ sai, côn trượng, cầm cố nơi ngục tối, tội nặng thì giam tù trăm năm cho
đến một kiếp. Có lẽ vì tin Phật, cúng dường Tam Bảo nên đệ tử không có nghiệp trông thấy giường sắt, vạt dầu, cột đồng lửa, cùng các ngục hàn, nhiệt, nhưng hỏi ngục tốt thi họ đều nói thấy. Khi tỉnh lại đệ tử bỗng chợt hiểu, Kinh Phật nói: “Những hình khổ ấy là đều do sức nghiệp của tội nhân hóa hiện, không có ai bức bách”, vả lại cũng hiểu rằng mình làm vua Diêm La là
bởi tánh
can cường nóng
giận chiêu cảm, đệ tử nghĩ phải dùng từ bi quán để phá nghiệp nóng giận đó, song chưa biết cách thức công dụng ra sao, xin kính nhờ Hòa thượng xót thương chỉ dạy”.
Vào năm 1900, ỏ Thụy Sĩ có nhà tâm lý học tên Théodore Flournoy có
viết quyển sách nhan đề “Từ Ấn Độ đến Hỏa tinh[From
India to the Planet Mars]”. Trong sách đại ý nói có vị tiểu thư con một nhà hàng hải tự biết kiếp trước mình là công chúa nước Áo tên
Marie Antoinette được gả về Pháp quốc làm hoàng hậu vua Louis XVI, trước kiếp đó nữa cô ta là công chúa nước Ả Rập gả cho một hoàng tử Ấn Độ. Hiện tại tiểu thư có thể viết và đọc tiếng Sanskrit rành rẽ. Điểm kì lạ là cô còn nhớ mấy kiếp về trước đã sanh làm
người ở Hỏa tinh, diễn tả rõ cảnh giới trên đó và nói được tiếng Hỏa tinh, tiểu thư lại đem ngữ thoại Hỏa tinh dịch thành Pháp văn, cô nói
tiếng Hỏa tinh rất hay, văn Hỏa tinh lại thông thuận với văn Pháp và đem so sánh
phân tích rành rẽ.
Trên đây là ít bằng chứng nhân quả luân hồi một cách hiện thực.
Đoạn trước nói về Thiền của các bậc tôn túc, không phải xem thường Thiền Tông, chẳng qua là chỗ đậu cơ thuyết giáo[Thuyết dạy hợp với trình độ và thời điểm] để làm lợi ích cho chúng sanh đó
thôi. Bởi các vị đều là hàng cao tăng đại triệt đại ngộ có thể là các bậc Bồ-tát tái lai, không còn tướng ngã nhân tranh chấp. Thiền và Tịnh đều là những ưu điểm giống như nhau, giản dị, khái quát và trực thiệp[Vào thẳng vấn đề], nhất là Tịnh Độ rất thích hợp và lợi ích đối với căn tánh thời nay. Chính Hư Vân Thiền sư, một bậc Bồ-tát tuy hoằng dương Thiền Tông để làm mô phạm và hóa độ những vị có túc căn về thiền nhưng vẫn khuyên người niệm Phật. Việc đức Quán Thế Âm hướng dẫn Khoan Tịnh Pháp sư đến cõi Cực Lạc cũng không
ngoài điểm đại bi cấp cứu hợp pháp hợp cơ đối với thời mạt hậu này, còn chỗ bác phá của chư tôn túc là phá lối chấp sai lầm của hàng không thiền, cuồng thiền, để phò trợ Thiền Tông chứ không phải bác phá bậc tu thiền chân chánh.
Hai hạng không
và cuồng trên
thường nói:
“Bản thân ta
là Phật cần chi phải niệm Phật, như trên đầu lại để thêm cái đầu khác làm sao cho hợp”, hoặc bảo: “Bản thân ta là Phật cần chi phải lễ Phật sám hối, đem ông Phật này lạy ông Phật khác là điều vô lý”, đó là những lời cầu cao nói
suông, quên xét mình còn là hạng phàm
phu đầy tội chướng.
Tóm lại, vì những ưu điểm giống nhau mà Thiền và Tịnh đều không thể bị mai một, nếu biết khéo dùng thì môn này lại hổ trợ cho môn kia. Đến như phần đề cập về năm vị tăng, ý của Tổ Ấn Quang muốn phân
tích rõ điểm khó dễ đối với thời cơ xưa nay cho người tu suy gẫm để được lợi ích giải thoát, theo bút giả trong ấy đại khái có ba điểm:
1. Người xưa đạo căn phần đông sáng lẹ, bậc tri thức cũng nhiều nên đường tu tập dễ tiến. Trái lại, người đời nay căn cơ đa số là hạng trung hạ, tâm nhiều hư vọng phân biệt, sự giảng luận tựa hồ thông sáng bên ngoài
song lại loạn tối bên trong, bậc tri thức lại ít có, tà ma ngoại giáo xen lẫn vào cửa đạo nên đường tu dễ bị lạc lầm.
2. Thời trước chánh pháp còn thạnh, bậc cao đức còn nhiều, dù đời này giải quyết việc sống chết chưa xong vẫn còn hi vọng những kiếp về sau. Cuộc sống thuở xưa lại đơn giản, tổ chức xã hội thời nay phiền toái, rối ren, chiến tranh, tai nạn ngày càng nhiều nên sự tu tiến rất khó.
3. Người xưa nói:
“Các bậc vương hầu nhà quyền quý cho đến hạng thông minh tài tuấn phần nhiều đều phát xuất từ cửa Tam Bảo”, nên có câu: “Sơn trung vô tỳ kheo, triều trung vô tể tướng”.
Nhưng cũng cần nhắc thêm một câu nữa của cổ đức: “Nếu không hiểu đạo thì sự tu đời này là
mối thù của kiếp thứ ba”, bởi có công tu nên kiếp sau mới được phú quý, nhưng trong vòng phú quý ấy lại dễ đắm theo tài sắc, danh lợi, tạo nhiều nghiệp, tiếp sang đời thứ ba phải bị đọa. Trong ngàn người mới có một đôi người không quên mất túc căn, nối bước tu hành, như trong năm vị cao tăng ngài Ấn Quang đã dẫn chứng, hết bốn vị đã thoái chuyển, duy Viên Trạch Thiền Sư là bậc liễu đạo, có lẽ đã chứng sơ quả Tu Đà Hoàn song bởi dư nghiệp chưa dứt nên ngài không tránh khỏi bị trở vào thai, còn phải bảy lần sanh lên cõi trời, bảy phen trở xuống nhân gian mới chứng quả A La Hán thoát hẳn luân hồi.
Cuộc đời mau chóng lắm nổi chìm nên một vị quan ở Việt Nam đã than thở:
Nghĩ kiếp phù
sinh bóng bạch câu,
Đời người thắm thoát có bao lâu,
Bao hồi xa mã
mau chùng bước,
Mấy nỗi công danh dễ bạc đầu,
Tiếng sóng
bên gành cơn gió thoảng,
Ngọc đèn trước án bóng trăng thâu,
Tuyết hồng chuyện cũ mười năm trưóc,
Một nén tám
hương gợi mối sầu.
Luận thêm về thời cơ, Thiền Tồng tuy siêu thắng nhưng trong thời mạt hậu muốn được giải thoát ngay ở hiện tại không phải là chuyện dễ, phải là hạng thông minh sáng lẹ sẵn có túc căn, dùng tử công phu tham cứu thoại đầu và khỏi nghi tình. Tử công phu là đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, mặc áo, cho đến lúc thức, ngủ, cũng đều phải như một, vẫn không rời câu thoại đầu. Nếu rời thoại đầu, tạm thời không ở trong định, Cổ đức cho là đồng như người chết, cho nên ở chùa Thê Hà và Thiên Đồng tại Trung Hoa có rất nhiều vị bất đảo đơn để đạt được mục đích đó. Bất đảo đơn là những vị tu hơi cao phát tâm ngồi mãi không nằm ngủ để tham cứu, mỗi ngày chỉ ăn một lần, có khi đôi ba ngày, năm
bảy ngày mới ăn một lần.
Tham thoại đầu và khởi nghi tình là thế nào? Tham thoại đầu, chẳng hạn như tham câu: “Trước khi cha mẹ chưa sanh, ta là ai?”, lúc khởi công phải đặt trọng tâm nơi chữ “ai”, ngưng động rồi soi đi soi lại, đến khi cảm thấy tâm vừa lơi thì lại đề khởi câu đó, lắng đọng rồi soi chiếu nữa, như tiếng chuông này vừa mãn liền tiếp tiếng chuông khác, chứ không phải đọc đi đọc lại câu đó mãi. Bậc lợi căn tu lâu, mỗi khi đề khởi định tâm thêm lan rộng, cảnh giới mới lại hiện ra, mà người xưa gọi là: “Nhất phiên đề khởi, nhất phiên tân”. Còn khởi nghi tình là thiết thực để tâm nghi về yếu điểm bí mật câu mình tham cứu, đến chừng nào khai ngộ mới thôi. Chẳng hạn nếu tham câu: “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?”, kế lại nghĩ một dung hòa về muôn pháp là sai. Lại như tham câu: “Con chó có Phật tánh hay không?”, rồi phân biệt chó đây không phải chó Tây, chó Tàu, cũng
không phải chó
đen, chó trắng, hoặc lại nghĩ: “Nay đã là chúng
sanh, dù là chó hay mèo cũng đều có Phật tánh”, phân biệt như thế đều sai, không phải lối khởi nghi tình, cổ thư có câu:
Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến,
Thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kì dị.
Khi chú hết tâm vào
điểm nào thì
quên hết cảnh xung quanh, thấy như không thấy, nghe như không nghe, cho đến ăn cũng không biết mùi vị. Công dụng của nghi tình cũng như thế, càng nghi càng quên, dứt hết phân biệt, tâm ngưng đọng thành một khối, cho nên người xưa nói: “Nghi lớn tỏ ngộ lớn, nghi nhỏ tỏ ngộ nhỏ” là vậy và đây là điểm khó thứ nhất.
Đã dụng công
tham cứu khởi được nghi tình lại phải cú và ý cho đến nơi đến chốn. Cú là công năng tham cứu thoại đầu, ý là chỗ khai ngộ, có bốn điểm:
Cú đến ý chưa đến.
Ý đến cú chưa đến.
Cú và ý đều đến.
Cú và ý đều chưa đến.
Xin mượn câu
chuyện sau
đây, nếu hiểu được một tất hiểu cả ba điểm kia. Một thiền giả đến tham vấn ngài Hư Đường, ngài hỏi:
– Khi chưa căng buồm, lái thuyền rong
theo gió thì thế nào?
Thiền giả đáp:
– Như chim
Tiêu Liêu thấy núi
Thái Sơn.
Lại hỏi:
– Lúc đã căng buồm rong
thuyền ra gió
thì ra sao?
Đáp:
– Như nước Hoàng Hà chảy ngược dòng.
Ngài Hư Đường quát:
– Như thế chưa được.
Thiền giả bạch:
– Học nhân chỉ hiểu được có bấy nhiêu, xin nhờ tôn giả khai thị thêm.
Hư Đường Thiền sư bảo hỏi lại câu trước, thiền giả hỏi, ngài đáp:
– Như nước Hoàng Hà chảy ngược dòng.
Thiền giả thưa:
– Thế thì đâu
khác chi lời của học nhân.
Ngài quát:
– Cái túi đựng cơm hãy về thiền đường tham cứu lại.
Đây là Tổ Hư Đường muốn thử xem thiền giả sức dụng công tham thoại đầu đã đến mức mà ý khai ngộ đã thông suốt chưa. Quả nhiên với thiền giả cú đến mà ý chưa đến mới chấp câu nói của mình, trong trường hợp đó nếu y lễ Hư Đường Đại sư ba lạy chắc có lẽ ngài đã ấn khả. Về sau thiền giả khai ngộ trình lên bài kệ:
Hốt u tâm cảnh cộng vong thi,
Đại địa sơn hà thâu thoát li,
Cổ Phật pháp thân toàn thể lộ,
Thời nhân tương đối bất tương tri.
Tạm dịch:
Bỗng nhiên
tâm cảnh thảy đều vong,
Cõi đất sơn hà rỗng suốt không,
Chân tánh pháp vương toàn
thể lộ,
Cùng người cười nói chẳng tương thông.
Lúc đó ngài Hư Đường mới chấp nhận. Đây là điểm khó thứ hai về tu thiền.
Trong cú và ý cùng đến còn có ba cửa ải phải vượt qua, đó là: bản tham quan,
trùng quan và lao quan. Bản tham
quan là cửa khai ngộ về câu thoại đầu. Trùng quan là từ chỗ vô tâm của bản tham quan tiến phá kiến hoặc và một phần tư hoặc, ngộ ngã và pháp đều không, chân tâm dung hòa
cùng vạn vật. Vì cửa này dầy đặc nhiều lớp nên gọi trùng quan. Lao quan là một phần vô minh hoặc vi tế như màn sương, tuy mong manh nhưng rất kiên cố khó phá, cần phải tiến vượt, cảnh giới này cổ đức khai thị là phải dùng Hải Ấn tam muội mà in một cái, kì dư đều bỏ hết. Lại xin mượn câu chuyện khác để ví dụ:
Một vị tôn túc hỏi thiền giả:
– Thế nào là ý
của tổ sư từ Tây Vực đến?
Thiền giả đáp:
– Mây ra đỉnh nói
không tình ý, nhạn vượt đầm trong chẳng dấu tăm.
Vị tôn túc
cười:
– Cho dù được thế, tỉ như mạt vàng tuy quý vướng vào mắt cũng bị xốn xang.
Ý ngài muốn bảo: “Dù đã được vô tâm, nếu còn thấy mình vô tâm, nhận đó là đạo cũng chưa đúng, cần phải tiến tu thêm”. Thiền giả vâng lời, sau tham cứu được đại ngộ, vượt qua tam quan, tuy không gặp vị tôn túc như trước để cầu ấn chứng nhưng đã có bài kệ trần thuật tâm cảnh của mình:
Kim kê trác toái bích lưu ly,
Vạn yết thiên hưu chi tự tri,
Túy ngọa phong
phàm thiên chánh ổn,
Tiền sơn vô phục võ cưu đề.
Tạm dịch:
Gà vàng mổ vỡ chụp pha lê,
Muôn vức ngàn
yên tỏ lối về,
Trời lạnh buồm căng say giấc ngủ,
Kêu mưa non vắng vọng cưu đề.
Trong thiền lục còn có truyện khác cũng giống như câu truyện trên, vì sợ phiền nên miễn nêu ra. Tam quan vừa nói tùy theo Thông giáo,
Biệt giáo,
hoặc Viên
giáo có cạn có sâu,
nhưng so với nghĩa “Lục tức Phật” của Thiên Thai giáo đại khái cũng chỉ từ Văn tự, Quán hạnh đến Tương tợ tức Phật mà thôi, trừ bậc Bồ-tát quyền hiện, ít có ai đến địa vị Phần chứng tức Phật. Chính Ngẫu Ích Đại sư, một bậc triệt ngộ cũng khiêm nhường tự bảo: “Danh tự vị đây là Phật nhãn, rồi ra biết phó cho ai”.
Danh tự vị là ngôi viên giải chẳng phải tầm thường, như có lời tụng:
Vừa thưởng vô sanh khúc,
Lại nghe
bát tử ca,
Nay ngộ ngay đương thể,
Tự hận đã dàn dà.
Quán hạnh tức Phật là địa vị ngũ phẩm, thuộc ngoại phàm của Viên giáo. Ngũ phẩm là: tùy hỉ, đọc tụng, giảng thuyết, kiêm tu lục độ và chánh hành lục độ phẩm.
Tương tợ tức Phật là ngôi nội phàm thuộc Thập tín cùa Viên giáo. Sơ tín dứt kiến hoặc, thất tín dứt tư hoặc, bát, cửu, thập tín dứt trần sa hoặc. Trong đây cũng có lời tụng:
Tứ trụ[Tứ trụ là: kiến ái trụ địa, dục ái trụ địa, sắc ái trụ địa và hữu ái trụ địa.] tuy
đà thoát,
Lục trần chửa rảnh không,
Đôi mắt còn vươn bụi,
Thái hư loạn sắc hồng.
Tu thiền dụng công khó nhọc như thế nên ngài Trường Khánh Nhàn ngồi rách bảy chiếc bồ đoàn mới ngộ đạo, Hương Lâm Thiền sư khổ công bốn mươi năm mới dung thông thành một khối. Lại chư tôn đức bên thiền từ trước tới nay, như các ngài Hư Vân, Lai Quả, Bạch Thánh đều bác bỏ lối tu mặc quán, cho đó là cách dụng công chưa an toàn. Mặc quán hay mặc chiếu thiền là lặng lẽ soi vào bên trong, khi thấy vọng niệm khởi lên liền dứt, như thế là còn đọa vào lưỡng biên, còn dùng chân phá
vọng, như lấy chốt tháo chốt, lâu ngày dễ lạc vào lỗi hôn trầm. Các ngài đều đề xướng phương pháp tham thoại đầu, bởi khi tham cứu lắng tâm ngưng đọng là tịch, phá trừ tán loạn, đề khởi soi lại là chiếu phá trừ hôn trầm, tịch và chiếu song hành. Tuy vô tâm trừ vọng mà ngầm phá cả hôn trầm tán loạn, không lạc vào bên nào cả. Thật ra, mặc chiếu thiền không phải sai, Kinh Lăng Nghiêm đã
dạy bằng cách lặng lẽ đem tánh nghe xoay vào
trong, chư tôn đức thới Tấn, Đường cũng có dùng nhưng đối với căn tánh người xưa thì có lợi, với căn tánh sau này phương pháp đó chưa được siêu mầu, kém phần đắc ích.
Cũng như thời xưa, chư thiền đức khai thị bằng minh ngữ, về sau các hành giả lại đem những minh ngữ đó ra đế lý giải, thành thử lạc vào chỗ thấy hiểu phân biệt, mất hẳn tông chỉ. Thấy thế, chư tôn túc chuyển đổi dạy bằng ẩn ngữ, nói những câu không nghĩa vị để lấp đường kiến giải của học nhân. Cách sau này cũng
bị kẻ hiếu kì, mua danh, mượn đem sử dụng, cổ đức lại đổi cách khai thị bằng lối dùng các cử chỉ hành động, như dang tay, co duỗi, nhướng mày, đánh hét, những tác phong đó có thể gồm tóm trong hai câu:
Mượn vật truyền tâm thoát nghĩa câu,
Vượt trần xuất chúng thái hư mầu.
Sau rốt, đây là
điểm thứ ba nói về sự khó của tu thiền.
Trong quyển này (Cực Lạc du lãm ký), Hư Vân Thiền sư khuyên phải giữ giới, tuân theo quy tắc cũ, đừng vội canh tân. Sở dĩ ngài có lời ấy vì hàng xuất gia thời nay lắm vị đề xướng canh cải lại Tứ Phần Luật, bác bỏ Bá Trượng Thanh Quy và hai thời công phu, vì cho là vướng mắc theo hình thức. Hai thời khóa tụng trong thiền môn vốn đã có từ xưa, đến thời Đường, Tống chư Tổ lại thêm vào cho đầy đủ chứ không phải do Ngọc Lâm quốc sư đời Thanh biên soạn. Ngài Ngọc Lâm nhận thấy hai thời công phu vẫn hợp với Tứ hát (tức bốn cách hét) của tông Lâm Tế, có lợi cho Thiền Tông nên đề xướng tán thành. Lại bảo hai thời khóa tụng là khuôn mẫu thước đo của các tông, nếu hàng sơ cơ không hành trì thì
làm sao trừ nghiệp chướng, sanh phước huệ? Phải lấy đó làm nền tảng giúp sự tiến tu và hóa giải được sự thọ hưởng của đàn na tín cúng.
Trong hai thời khóa,
thời sớm mai hành giả tụng Lăng Nghiêm, Đại Bi, Thập Chú để phá trừ ngũ dục và sức niệm vi tế. Chúng
sanh thời mạt hậu nghiệp chướng rất nặng, không thể thiếu sự trì tụng này. Trong Kinh nói, bậc bát địa Bồ-tát còn một phần trần sa và vô minh hoặc ẩn sâu trong tạng thức mà sức thiền quán không tìm thấy nên chẳng thể phá trừ, chư Phật e sợ các vị ấy say
trong cảnh định tịch chiếu bao la nên hiện thân cảnh giác và khuyên nên nhớ lại bản nguyện và dạy trì đà-ra-ni môn để công phá khiến cho hoặc chướng hiện ra mới tiêu trừ được. Chính bút giả đã từng nghe một nhà giáo nói: “Không biết đạo Phật có cái gì kì lạ mà tôi thấy mấy ông đạo lúc mới vào chùa rất khờ khạo cùn mằn, khi tu được ba bốn năm lại đổi ra khôn hết mức”.
Trở lại vấn đề trên, Lăng Nghiêm thần chú có năm hội:
Hội thứ nhất là Tỳ Lô Giá Na chân pháp
hội, có
nghĩa những lời bí mật của mười hai pháp
môn. Đoạn dưới đều từ nơi pháp thân hay Tỳ-lô chân
tánh lưu lộ ra.
Hội thứ hai là Thích-ca ứng hóa hội hay Lăng Nghiêm giáo chủ hội, có nghĩa năm bộ Tam Bảo trong thần chú, gồm: chư Dược xoa, Thần vương, Kim Cang, Mật Tích, cho đến tất cả pháp môn đều do Đức Thích-ca và chư Phật thị hiện ra.
Hội thứ ba là Quán Thế Âm hợp đồng hội. Bốn môn trong đây đều do đức Quán Thế Âm trên đồng dưới hợp viên thông tu chứng chẳng thể nghỉ bàn, đức mầu vô tác thành tựu một cách tự tại.
Hội thứ tư là Kim Cang chiết nhiếp hội, do Hỏa Hữu Kim Cang Bồ-tát khai hiển, nên Chư Kim Cang Tạng Vương sau khi nghe niệm chú đều dùng sắc lệnh để hộ vệ, đối với kẻ ác thì chiết phục, với người thiện thì nhiếp thâu. Chư Kim Cang Mật Tích cũng đều hiện phần bản tích ứng hóa của mình.
Hội thứ năm là Văn Thù phú hộ hoằng truyền hội. Đức Văn Thù (hay Mạn Thù Thất Lỵ) sau khi lãnh chú đến che chở hộ trì, rồi thay đại chúng thưa hỏi pháp môn tu. Nếu chẳng phải là bậc đại trí đức thì không thể thông hiểu và hoằng trì pháp môn này.
Năm hội trên tượng trưng cho ngũ trí đảnh của Đức Tỳ Lồ Giá Na, họp cả năm hội lại gọi chung là “Phật đảnh quang tụ cứu cánh kiên cố đại bạch tán cái thần chú”.
Còn thời khóa
chiều hôm,
hành giả tụng Di Đà, Hồng danh bảo sám và Mông Sơn thí thực để giúp tiêu nghiệp, sanh phước và khởi bi tâm, thí thức ăn uống cho cô hồn ngạ quỷ, rồi niệm Phật đem công đức hồi hướng cầu cho mình và bốn ân ba cõi, tất cả loài hữu tình đều sanh về Tịnh Độ.
Cho nên hai thời khóa tụng đều do chư Bồ-tát, Tổ sư dùng trí tuệ hiểu rộng thấy xa biên soạn ra để làm lợi vui cho tất cả chúng sanh, nếu bác bỏ chẳng những là thiển cận mà sợ e còn có tội với Phật pháp nữa.
Và sau rốt xin mượn mấy lời để kết cục:
Biển lệ tràn đầy kiếp chuyển luân,
Ai người biết nghĩ tự thương thân,
Xuống lên
sáu nẻo thống não
vô ngần,
Con đường sa đọa khôn li thoát,
Huyễn thân mấy chốc, tám khổ xoay vần,
Nhục vinh
tài sắc bao
nhiêu mộng,
Niệm Phật tu hành một kiếp chân,
Sớm mượn đài sen về Cực Lạc,
Mới mong xa
dứt lụy hồng trần,
Nhọc nhằn mai lại tối,
Già chết chợt đà gần.
Việt-Nam
Vô Nhất Đại Sư
Comments
Post a Comment