THỜI KINH KHUYA 

VĂN GIẢI


ÐẠI PHẬT ÐẢNH, THỦ LĂNG NGHIÊM KINH THẦN CHÚ 

Thích nghĩa “Thần chú của kinh Ðại Phật đảnh Thủ Lăng Nghiêm”.


Y theo ý kinh mà lập ra danh đề, vì nêu tên chỉ là “Pháp”. Bằng đủ theo kinh đề, thì 19 chữ đều nêu lên cả Nhân và Pháp.


Ðại Phật đảnh” là tánh đủ 3 đức: “Thủ Lăng Nghiêm” là ngôi tu 3 nhân. Chứ đó về Ðại Phật đảnh đều đủ 3 đức đó, thì “Ðại” đủ 3 nghĩa : 


1/ Pháp thân là Thể Ðại (lớn), vì tâm tánh khắp giáp tròn đủ. 

2/ Bát nhã là Tướng Ðại (lớn), vì trí huệ suốt thấu tỏ soi. 

3/ giải thoát là Dụng Ðại, vì lan rộng ứng hiện không ngần ngại.


 “Phật” đủ 3 nghĩa : 


1/ Giác tự (giác ngộ lấy mình) thì biết tự tánh vẫn thanh tịnh, dứt hẳn những danh nghĩa còn đối đãi hai bên, tức là nghĩa Bát Nhã Ðức. 

2/ Giác Tha (giác ngộ cho người), thì khiến cho chúng hữu tình được sáng suốt lòng dạ, tức là nghĩa Giải Thoát Ðức. 

3/ Giác mãn (với 2 điều giác ngộ ấy làm đã hoàn toàn), thì chứng được cái thể và tướng của “pháp giới tánh” là tánh Phật, mà ta với người đều đồng bực, tức là nghĩa Pháp Thân Ðức. 


Ðảnh” là đảnh đầu, cũng đủ có 3 nghĩa :


1/ Là nghĩa tối tôn, vì thể tướng của pháp thân rất quý, tức đức của pháp thân. 

2/ Là nghĩa chẳng khá thấy, vì với cái “đảnh tột cao của Pháp thân, huệ nhãn, pháp nhãn hãy còn chẳng thấy được, duy có Phật nhãn mới thấy tận nơi, tức đức của Bát nhã. 

3/ Là nghĩa phóng quang hiện hoá Phật, vì tại nơi đảnh đầu của Phật Thích Ca phóng hào quang ra, trong hào quang có đức hoá Phật nói thần chú Lăng Nghiêm, tức đức của giải thoát. Nói bằng cách dón tắt : Ðại tức là pháp thân; Phật tức là bát nhã; Ðảnh tức là giải thoát. Nghĩa là : Pháp thân là cái lý tánh thanh tịnh chu viên, vốn sẵn đủ Trí bát nhã là vắng lặng mà tỏ soi. Trí đó vẫn chiếu ngay vào  pháp thân, chứ hẳn không có trí nào riêng ngoài lý mà có thể chiếu được  ấy, cũng không có cái lý nào riêng ngoài Trí mà bị trí nó chiếu, Lý Trí vẫn như như, phi đồng nhau, cũng phi dị nhau, vừa tròn sạch, vừa tròn tột, tức là đại giải thoát. Thế nên “Ðại Phật đảnh” là cái tánh kho mầu nhiệm để chứa 3 đức kia. Chư Phật chính đã giác ngộ tánh ấy, còn chúng sanh chính đương mê muội tánh ấy; mặc dầu đương mê, chứ nó cũng có tánh sẵn đủ ấy đồng với chư Phật. Bởi lẽ ấy, nên chúng sanh y nơi tánh đức sẵn đủ đó, có thể phát triển ra cái tu đức Thủ Lăng Nghiêm, ngõ hầu khá huờn nguyên lại tự chứng lấy tánh đức ấy.


“Thủ Lăng Nghiêm” là tên một “tam muội” chính một pháp đứngđầu cả một trăm lẽ tám (108) pháp tam mụội mà là một cái tên chung của tất cả pháp đại định.

Tiếng Phạm là “Suramgam” theo Cựu dịch, thì tiếng Việt đọc là “Thủ Lăng Nghiêm” Tân dịch, thì tiếng Việt đọc là “Thủ Lăng Gam”. Thủ Lăng Nghiêm, đổi nghĩa là “tất cả việc ráo rốt bền chắc”, rằng “tất cả sự” ấy, tức là cái của sáu phàm bốn thánh giữa mười cõi, chữ sự tức là chữ pháp. Với pháp của lục phàm, tứ Thánh trong thập giới, chỉ dùng hai chữ “Sắc Tâm” bao quát được hết thảy. Sắc, tức là khí giới và căn thân; tâm, tức là 8 thức tâm vương, tâm sở. 


Ðối với sắc tâm, nhơn tuỳ theo mỗi căn cơ, mà Phật hoặc mở ra hoặc họp lại. Phân làm bốn hạng :


1. Vì những kẻ mê Tâm nhiều, mê Sắc ít, Phật nói pháp ngũ ấm, đó là đối với Tâm thì mở, với Sắc thì hiệp.

2. Vì mấy người mê Sắc phần nhiều, mê Tâm phần ít, Phật nói pháp lục nhập và 12 xứ. Ðó là mở Sắc ra, hiệp tâm lại.

3. Chúng nào với Tâm-sắc đều mê cân nhau, thì vì họ mà Phật thuyết ra pháp 18 giới, thế là Tâm sắc đều mở ra cả.

4. Các đứng nào với Tâm-sắc đều chẳng mê, thì Thế Tôn vì nói ngay 2 chữ Sắc Tâm ra, là họ tức thời rõ liền.


Ba hạng người trước, là căn cơ đều chậm chạp tối tăm; hạng thứ tư là những người có căn tánh nhanh chóng sáng suốt. Người mà mê tâm thì ngu nơi tâm, kẻ nào mê sắc thì ưa chấp cảnh. Bởi thế, sắc và tâm của Thánh phàm 10 giới, tức là 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ và 18 giới, mà ấm, nhập, xứ, giới tức là Sắc tâm của thánh phàm 10 giới, gọi chung là “tất cả sự”, cũng tên là “hết thảy pháp”.


Người tu nếu có thể quán xét ấm, nhập, xứ, giới mỗi mỗi đều là tại đâu sanh, với diệt thì cũng tại xứ nào diệt ở xứ nấy (như nhãn thức thì sanh tại nơi nhãn căn, mà diệt cũng tại nơi nhãn căn; cả đến các căn thức kia cũng tại đâu vẫn sanh diệt đó như thế), người nào tu quán được như thế, tức tỏ chứng Thủ Lăng Nghiêm tam muội bằng “Chân đế”, thì đắc cái “Liễu nhơn huệ tánh” hiển hiện ra; người mà quán xét ấm, nhập, xứ, giới mỗi mỗi cái nào cũng đều là xứng nhau với cái tướng huyễn hoá hư vọng, tu quán được như thế tức là chứng rõ Thủ Lăng Nghiêm tam muội bằng “Tục đế” thì đắc cái “duyên nhân thiện tánh” nó hiển ra; người nào tu quán các pháp; ấm, nhập, xứ và giới, nhận thấy cái tánh của các pháp ấy thật là cái thể sáng của diệu giác, người ấy liền rõ ngay Thủ Lăng Nghiêm tam muội bằng “Trung đế”, đặng cái “chánh nhân lý tánh” tỏ bày ra.


Nói lên một Thủ Lăng Nghiêm tam muội, tức là ba đế, nói ba đế tức gồm một Thủ Lăng Nghiêm; mà ba với một chẳng phải là hai. Song tu tam đế tam muội ấy, toàn do nơi tánh Ðại Phật đảnh để khởi sự, ngay nơi cái tánh Phật đảnh ấy. Thế là chính chỗ bảo : “Từ tánh dấy tu, mà không tu chi khác hơn là tu tại tánh ấy, vì tánh và tu chẳng phải hai riêng nhau.”


Chính rõ trì chú : Mỗi chữ đều do nơi tự tâm để đưa ra, mỗi câu lại cũng từ nơi tự tâm để rút vào,là chỗ bảo rằng đâu chẳng do nơi “pháp giới tánh” để lưu thông ra, rồi phải chăng chẳng trở lại về nơi “pháp giới tánh” thật thế. Ðã là Nhứt thiết sự gì cũng đều do ở tánh Ðại Phật đảnh để làm thể, nên mỗi mỗi sự pháp đều nói rốt ráo bền chắc cả.


Song, chừ với cả trong thần chú, phân ra làm 5 hội, mỗi hội đều có danh :


Hội thứ nhất là “ Tát đác đa bát-đác lam”

Hội thứ nhì là “Tác đác tha bát lt xá tất-đa”

Hội thứ ba là “Tô ba la noa ma ha bát thu bác đác dạ”.

Hội thứ tư là “Tát đát đa bát đác ra

Hội thứ năm là “Tất đác đa bát đác ra


Hoặc nhập 5 hội làm một, kêu chung một tên là “ Phật đảnh quang minh ma ha tát đác đa bát đác ra vô thượng thần chú”. Ðối với tất cả nhơn bí mật, nghĩa hiển nhiên, thì nội trong đầu đề Kinh, nó gom trùm trọn vẹn hết thảy.


Rằng “Hào quang đảnh Phật” tức là trên đảnh đầu của đức Thích Ca phóng hào quang ra, trong ánh sáng có đức hoá Phật nói thần chú của Kinh này.


“Ma-ha” dịch nghĩa là lớn : đủ 3 nghĩa lớn như trên đã nói, tức là “Ðức pháp thân”; “tát đác đa” dịch nghĩa là trắng: cái tướng nó khác hẳn các màu nhuôm trí tánh nó đủ sạch sẽ trọn vẹn, tức là “Ðức Bát Nhã” “Bát đác ra” dịch nghĩa là Lọng tàn : dùng che mắt muôn loài, tức là “Ðức giải thoát”. “Vô thượng” rất sáng tột cao, đứng sựng chót vót, không chi ngang sánh. Với uy linh không thể lường xét được, với cảm ứng cũng khó nghĩ bàn, nên gọi là “Thần chú”.


“Tàn lọng trắng lớn” toàn thể nó là “Chủng trí” chư Phật, mà là “diệu tánh” của chúng sanh, chủng trí là quả, diệu tánh là nhơn, mà nhơn trùm quả suốt, vừa đủ lý tánh, vừa đủ giáo nghĩa. Nên thần chú này : người tụng đến, sẽ trừ hết nghiệp chướng từ đời trước; người trì đến, khá chứng quả Phật.


Lại nữa, thần chú đây, cũng có tên là Chú tâm, cũng có tên là Tâm chú, cũng có tên là Như lai đảnh, bởi vì thần chú đây là pháp sở thuyết của đức Hoá Phật hiện ra trong hào quang trên đảnh đầu của đức Thích Ca : hoá Phật tức là biểu tướng của như lai tạng tâm.


Song, y nơi kinh, để lập danh đề, đó là nghĩa của hiển giáo; còn y theo chủ để lập danh đề, đó là nghĩa của Mật giáo. Mà đồng thời vừa hiển vừa mật lẫn tròn chẳng phải riêng làm hai, thế nên đều có thể lập danh đề bằng cả Mật lẫn Hiển được nốt.


Chín bởi chúng sanh tự mê muội quên lửng Như Lai tạng tâm là tánh Phật của mình đi, nên đức Hoá Phật trên đảnh của đức Thế Tôn ngài nói thần chú ra vậy là, chính muốn cho chúng sanh giác ngộ ngay nơi Như Lai Tạng của mình vốn sẵn đủ.


Chú đã Phật tâm, nên với công dụng của nó, người ta khó nghĩ suy gì được ! đối với chú, người tu hành phải cần trì tụng mới đặng. Kinh nói “Nguyên các đức Như Lai, ở mười phương, nhơn nơi chú tâm đáy, mà đắc đạo quả Phật”.


Kinh lại nói “các người là bực Hữu học chưa hết cái khổ sanh tử luân hồi, thì các người nên dấy cái tâm chí thành để tu tụng chú tâm đặng chừng lấy quả Vô học là A La Hán. Nếu chẳng tu trì chú này, thì không thế nào ngồi chốn đạo tràng mà khiến cho thân tâm xa tránh được các điều Ma chướng làm hại được”.


Yếu-nghĩa” là với Chú, không thể giải nghĩa ra đặng, vì đã là ý nghĩa vô cùng, lại không nhứt định, bởi người tu tâm thành đến đâu, cầu nguyện đến gì, là được đến đó, nên chẳng dịch ra được là vậy. Nhưng chỉ yếu theo nghĩa của Chú, xin bày ra ít lời sơ lược thôi.


Họp cả toàn văn của hai thời khoá tụng, phân làm ba tiết :


Tiết thứ nhứt, thời sớm, thời chiều, đều từ bắt đầu cho đến niệm Phật và bồ tát, đó là chính việc Tu pháp khoá tụng.

 

Tiết thứ nhì, tức là văn hồi hướng của hai thời sớm và chiều, với văn tam quy y, là phần hồi hướng bằng kết cuộc Phổ độ chúng sanh.


Tiết thứ ba, tức là hai thời chúc tán sóc, vọng, là để chúc cầu các vị Thần Hộ pháp, an tăng quốc thái, dân khương, Âm siêu, dương thới.


 

NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT

Kính lạy Phật và bồ tát trên hội Thủ Lăng Nghiêm


Ðây là kính vì ngôi “Tổng tướng Tam Bảo” số là, với tất cả việc Phật đều lấy “Tam Bảo” làm chỗ quy y, nên phải xướng lên trước nhứt.


Lăng Nghiêm tức là ngôi pháp bảo Phật tức là ngôi Phật bảo; Bồ tát tức là ngôi tăng bảo; giữa Tam Bảo, các Thánh phàm đều nhóm họp là Hội: Một hội như thế : Phật là Giáo Chủ, để gồm cả chư Phật trong hội đồng cùng phóng quang quán chiếu vào đảnh lẫn nhau. Bồ tát là bạn (đối với chủ) để chung gồm cả các Thánh 3 thừa tại hội và, các Thánh từ 10 phương qua lại. Chính là gọi : chủ bạn hội đồng, cơ giáo phù hiệp, đấy là một trường hợp Tổng tướng mà là “Tự tánh Tam Bảo” vậy.


Từ câu “Diệu trạm tổng trì bất động tôn” đến câu “Thước ca ra tâm vô động chuyển” cả 18 câu kệ ấy, là lời kệ tán đối kinh Lăng Nghiêm, nhơn vì A Nan giác ngộ rồi, phát thệ ngụyện ấy để khen ngợi Phật.


Bởi A Nan tỏ ra bị sa ngã về cái nạn của nàng Ma Ðăng Già..... Ðức Như Lai phóng quang thuyết thần chú, sai ngài Văn Thù đem thần chú đến cứu hộ A Nan.....khi A Nan về đến chỗ Phật, lạy khóc và cầu hỏi về giáo pháp.... “tối sơ phương tiện” là ông có ý như muốn lên đường về nhà mong được đạo lực hoàn toàn, thì, cốt phải biết trước cái căn bản của sanh tử đã. Nên chi Phật bảo rằng : Sỡ dĩ bị sanh tử tiếp tục mãi, là đều bởi tất cả chúng sanh chẳng tự biết cái chân tâm hằng còn, tánh thể nó vẫn sáng sạch, lại dùng lầm lấy cái vọng tưởng làm tâm, thành thử cứ lăn tròn theo sanh tử, vì cái tưởng ấy không phải tâm !


Cái lẽ mà quên chân tâm, rượt theo vọng tưởng, là đều bởi tâm, mục gây nên tội lỗi, nghĩa là bởi mắt thấy lòng động, mới có điều ân ái, do ân ái, mới có sanh tử; nên Phật dùng 7 chỗ để gạn hỏi cái Tâm, là khiến cho biết rằng : đối với mỗi chỗ, Tâm và Mục không nhứt định ở một chỗ nào cả.


Khai thị về hai thứ căn bổn :


1/ Vô thỉ sanh tử căn bổn là vọng tâm. 

2/ Vô thỉ bồ đề Niết bàn là chân tâm thì Phật dạy rằng : vọng tâm không có tánh riêng của nó : còn bồ đề tâm thì nguyên lai vân chân thật. Các pháp mà được phát sanh, là do nơi tâm A lại da biến hiện.


Với căn 10 phen chỉ rõ cái tánh thấy, thì, Phật khiến cho biết rằng : chạm đến đâu, chỗ nào chăng chẳng đều là chân cả.


Lại, hội về các văn : 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ, 18 giới, phi nhơn duyên, phi tự nhiên, thì Phật nói rõ về đạo lý trung bình, là tánh Như Lai Tạng.


Rốt sau, tiêu dung luôn địa, thuỷ, hoả, phong đều là cái thể thanh tịnh sẵn sàng, cái dụng khắp giáp pháp giới. Nghĩa là : trong với thân tâm, ngoài với vũ trụ, chỉ một đại mà thành pháp giới, phi thiếu, gồm 7 đại mà thành pháp giới, cũng phi dư; vì đối với vạn pháp, thì Như Lai tạng tánh nó vẫn nhứt như, mà dù tuỳ theo nghiệp tịnh hay nhiễm của chúng sanh, tánh nó phát hiện ra tợ hồ có thiên sai vạn biệt, thành thử có những cái danh tướng của thất đại đó, là chỉ vì với thể dụng xưng hô mà có khác vậy thôi.

 

Chân không là cái thể của “Nhứt Như”, nên với thất đại, đều gọi là chân không; còn thất đại là cái dụng theo nghiệp tịnh hay nhiễm nên nói “Tạng tánh, sắc tướng tức là chân không; tạng tánh chân không cũng tức chân sắc”. Nhẫn đến nói “tánh biết rõ hay, là biết hay đều do nơi tánh mình; biết sáng cũng chân thức, là thức nó tuy là lỗi vì “giác minh” nhưng thể nó vẫn thiệt chơn, vì lẽ diệu giác trạm nhiên, thể dụng chẳng hai, nên điều được nương nhau lẫn nói.



PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ CỨU CÁNH KIÊN CỐ 

ĐẠI BẠCH TÁN CÁI THẦN CHÚ







LĂNG  NGHIÊM THẦN CHÚ  có 5 hội:

 

HỘI THỨ NHẤT

TỲ LÔ GIÁ NA CHÂN PHÁP HỘI

( VAIROCANA SATTHATA PATTRAIN )

 

Đây là “TỲ LÔ GIÁ NA CHÂN PHÁP HỘI”, có nghĩa: Những lời bí mật của 12 pháp môn đoạn dưới đều từ nơi PHÁP THÂN hay TỲ LÔ CHÂN TÁNH LƯU LỘ RA.

 

HỘI THỨ HAI

THÍCH CA ỨNG HÓA HỘI

( SAKYAMUNI SATATHA PRASASITA)

 

Đây là “THÍCH CA ỨNG HÓA HỘI” hay LĂNG NGHIÊM GIÁO CHỦ HỘI, có nghĩa: Năm bộ Tam Bảo trong thần chú gồm chư DƯỢC XOA, THẦN VƯƠNG, KIM CANG MẬT TÍCH, cho đến tất cả Pháp môn, đều do đức Phật  Thích Ca và chư Phật THỊ HIỆN RA.

 

HỘI THỨ BA

QUÁN THẾ ÂM HIỆP ĐỒNG HỘI

(AVALOKITE SHVARAYA SUPARANA MAHA PAYUH PATTAYA)

 

Đây là “QUÁN THẾ ÂM HIỆP ĐỒNG HỘI”. Bốn môn trong đây đều là do đức Quán Thế Âm trên đồng dưới hiệp, VIÊN THÔNG TU CHỨNG chẳng thể nghĩ bàn, đức mầu VÔ TÁC thành tựu một cách tự tại.

 

HỘI THỨ TƯ

KIM CANG CHIẾT NHIẾP HỘI

(VAJRA PANIYA SATTATHA PATTRA)

 

Đây là “KIM CANG CHIẾT NHIẾP HỘI”, do HỎA THỦ KIM CANG BỒ TÁT KHAI HIỂN, nên chư Kim Cang Tạng Vương sau khi nghe niệm chú, đều dùng sắc lịnh để hộ vệ, đối với kẻ ác thì chiết phục, với kẻ thiện thì nhiếp thâu.

 

Chư Kim Cang Mật Tích cũng đều hiện phần bản tích ứng hóa của mình.

 

HỘI THỨ NĂM

VĂN THÙ PHÚ HỘ HOẰNG TRUYỀN HỘI

(MANJUSRI SATTVA SITATA PATTRAI)

 

Đây là “VĂN THÙ PHÚ HỘ HOẰNG TRUYỀN HỘI”. Đức Văn Thù hay Mạn Thù Thất Lỵ sau khi lãnh chú đến che chở hộ trì rồi thay đại chúng thưa hỏi pháp môn tu. Nếu chẳng phải là bậc đại trí đức thì không thể thông hiểu và hoằng truyền pháp môn nầy.

Năm hội trên tượng trưng cho NGŨ TRÍ ĐẢNH của Tỳ Lô Giá Na. Hiệp cả năm hội lại gọi chung là PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ CỨU CÁNH KIÊN CỐ ĐẠI BẠCH TÁN CÁI THẦN CHÚ.

 

(VSNISA JVALA SURAM GAMA MAHA SITATA PATTRAM)

 

CỰC LẠC DU LÃM KÝ

(Hòa Thượng Thích THIỀN TÂM)

 

 

PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ

MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA

THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ

 

 

PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ là trên ĐẢNH PHẬT phóng ra 10 đạo hòa QUANG bách bảo và TỤ lại trên ĐẢNH CHÚNG SANH trong Pháp Giới, khi tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm.

Đây là Hóa Thân Phật dùng THẦN CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM để  “ẤN TÂM” cho Qúy vị sẽ thành Phật trong vị lai.

 

ĐẠI (Lớn) là “THỂ” của  Chú Lăng Nghiêm, không đối đãi phân biệt, biến khắp tận cùng hư không pháp giới, nên gọi là MA HA.

 

BẠCH (Trắng)  là “TƯỚNG” của Chú Lăng Nghiêm, thanh tịnh không ô nhiễm, nên gọi là TÁT ĐÁT ĐA. 

 

TÁN CÁI (Tàng Lọng)  là “DỤNG” của Chú Lăng Nghiêm, có khả năng che chở, bảo hộ, TRUỞNG DƯỠNG THIỆN CĂN,  TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG TRONG VÔ LƯỢNG KIẾP, KHÔNG TRẢI QUA 3 A TĂNG KỲ, MÀ QÚY VỊ  CŨNG CHỨNG ĐƯỢC PHÁP THÂN, nên gọi là BÁT ĐÁT RA.

 

CỨU CÁNH KIÊN CỐ   THỦ LĂNG NGHIÊM ĐẠI ĐỊNH, định này là VUA trong các định.

 

THẦN  là thần diệu linh thông, khó mà suy lường được.

 

CHÚ là khi qúy vị TỤNG , thì có công năng PHÁ TÀ LẬP CHÁNH, tiêu trừ nghiệp ác, phát sanh phước đức căn lành.

 

 

TRÊN ĐẢNH CỦA PHẬT TỲ LÔ GIÁ NA (PHẬT PHÁP THÂN)  LƯU LỘ RA  NGŨ TRÍ. CHO NÊN, GỌI  LÀ “NGŨ TRÍ” ĐẢNH CỦA TỲ  LÔ GIÁ NA.

 

Thật sự, thì tấc cả PHẬT có cùng một PHÁP THÂN, bao gồm NGŨ TRÍ.



NGŨ TRÍ

 

NGŨ TRÍ là năm loại trí được trình bày theo Mật giáo. Năm trí này miêu tả tất cả những khía cạnh của Tuyệt đối, của Chân như mà con người có thể thực hiện được khi đã chuyển hoá thân tâm. Thân tâm gọi cụ thể ở đây là Ngũ uẩn, năm nhóm với năm cấu uế, phiền não  phụ thuộc là tham dục, sân, Si, hoặc vô minh, mạn và ganh ghét. Năm trí bao gồm:

 

1)      PHÁP GIỚI TRÍ 

2)      ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ 

3)      BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ 

4)     DIỆU QUÁN SÁT TRÍ 

5)     THÀNH S TÁC TRÍ 


 

1.   PHÁP GIỚI TRÍ là trí siêu việt của Pháp giới, trí tột cùng. Căn cơ của trí này là Sắc uẩn cùng với Vô minh, và thuộc về Thân trong ba động cơ tạo nghiệp là Thân, khẩu, ý. Trong Mạn-đà-la thì Pháp giới trí thuộc về Đại Nhật Phật, nằm ở trung tâm.


50. ÐA THA GIÀ ĐA CU RA DA

多他伽跢俱囉耶

TATHĀGATA KULĀYA

Đức Phật Tỳ Lô Giá Na

 

2.   ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ  là trí như một tấm gương lớn, trí giúp người nhìn vạn vật với một tâm thức Vô ngã, không muốn chiếm đoạt, phân biệt đúng sai, chấp nhận vạn vật với mỗi sắc thể riêng của nó. Trí này được ví như một tấm gương vì một hạt bụi nó cũng không bỏ qua nhưng nếu hạt bụi này bay đi, gương không lưu lại dấu vết gì. Nguồn gốc của trí này là Thức uẩn cùng với tâm trạng sân hận, thuộc về ý trong ba cửa tạo nghiệp. Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc về Phật Bất Động, nằm ở phương Đông.


52. NAM-MÔ BẠT XÀ RA CU RA DA

南無跋闍囉囉耶

NAMO VAJRA KULĀYA

Đức Phật Dược Sư

 

3.   BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ  là trí giúp con người thấy rõ sự bình đẳng giữa mình và chúng sinh. Tinh thần Từ bi của đạo Phật cũng xuất phát từ trí này chứ không phải xuất phát từ ý nghĩ "tội nghiệp, đáng thương" – cách nhìn của một người "trên cơ" nhìn xuống. Người Phật tử phát triển Bồ-đề tâm, phát triển lòng từ bi vì đã nhận ra chính mình trong tất cả hoàn cảnh, tất cả chúng sinh. Nguồn gốc của trí này là Thụ uẩn cùng với tâm trạng Kiêu mạn. Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc về Phật Bảo Sanh, vị trí ở phương Nam.


53. NAM-MÔ MA NI CU RA DA

南無摩尼囉耶

NAMO MANI KULĀYA

Đức Phật Bảo Sanh


4.   DIỆU QUÁN SÁT TRÍ  là trí giúp người ta biến chuyển khả năng phân biệt, thị phi bằng trí thức bình thường thành trí huệ Bát-nhã, tuỳ cơ ứng biến, làm việc đúng thời điểm và địa điểm, không cần "dụng công." Nguồn gốc của trí này là Tưởng uẩn cùng với tâm trạng Tham dục. Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc về Phật A-di-đà, giáo chủ phương Tây.


51. NAM-MÔ BÁT ĐẦU MA CU NA DA

南無般頭摩囉耶

NAMO PADMA KULĀYA

 Đức Phật A Di Đà

 

5.   THÀNH S TÁC TRÍ  là trí giúp người hoàn thành tất cả mọi việc mà không tạo Nghiệp, đó là hành động Vô vi, xuất phát từ một tâm đã chứng ngộ được Vô ngã của chính bản thân và các Pháp Hữu vi. Nguồn gốc của trí này là Hành uẩn cùng với tâm trạng ganh ghét. Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc về Phật Bất Không Thành Tựu, giáo chủ phương Bắc.

 

373. TẦN ĐÀ RA TẦN ĐÀ RA

頻陀囉頻陀囉

VIDARA VIDARA

Đức Phật Bất Không Thành Tựu


Cách trình bày như trên thuộc về truyền thống của Kim cương thừa Tây Tạng.




  PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ

MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA

THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ



Bấy giờ, A Nan được cái sáng suốt không còn chi ngăn ngại, vì thân tâm đều rổng rang, nên thấy mười phương trống không, như xem thấy lá cây hay vật gì đương cầm trong bàn tay, nghĩa là thấy rằng : tất cả những vật sở hữu giữa cõi đời, đều nguyên là cái giác tâm diệu minh đồng một cả thể như nhau. Oâng tự chứng biết được cái bổn tâm diệu giác của ông rất rõ ràng. Ðối với thâm ân của Phật, vì quá ư cảm động, nên A nan chính nơi miệng mình thốt lời nói bài kệ để tán thán Phật bằng nguyện lớn rằng :


1. Diệu trạm tổng trì bất động tôn

2. Thủ Lăng Nghiêm vương thế hy hữu.


Ðức “Diệu Trạm Tổng Trì Bất Ðộng Tôn”; Pháp “Thủ Lăng Nghiêm lớn nhứt”, vì thế gian ít có.


Câu thứ nhứt là khen cả ba thân, Phật, đấy là người chứng quả năng thuyết; câu thứ hai : bốn chữ “Thủ Lăng Nghiêm vương” và pháp sở thuyết; ba chữ “thế hy hữu” đấy là khen chung cả Nhơn, Pháp đều ít có.


Sau khi đã nghe rồi được ba cuốn trước kinh Thủ Lăng Nghiêm, ông A Nan mới biết chỗ sở thuyết của Phật, lý nó cực diểm, lý ấy không sai khác một mảy giữa tâm sẵn có của mình (A Nan) với chúng sanh, nên chính nơi miệng ông thốt hai câu ấy ra để tán thán Nhơn hy hữu là Phật, Pháp ít có là Lăng Nghiêm.


Diệu Trạm : Trí thanh tịnh đã viên mãn, thể nó thì vắng lặng, dụng thì không ngần ngại; đó là tán thán về nghĩa “Báo thân Phật”.


Tổng trì : Tánh Như Lai Tạng nó tuỳ theo duyên nhiễm hay tịnh của thức biến, để phổ ứng ra thất đại, lợi ích không bỏ sót một vật nào; đó là tán thán về nghĩa “Ứng thân hoá thân Phật”


Bất động: Tâm tánh nó thường vắng lặng, vì vô thỉ vô chung; đó là khen ngợi về nghĩa “pháp thân Phật”

 Lại, cả ba thân đều diệu trạm (mầu trong), vì ba mà tức là một. Cả ba thân đều là tổng trì (gom giữ), vì một mà tức là ba. Cả ba thân đều là bất động (chẳng động), vì ba và một chẳng phải là hai riêng gì.

Lại, sách Văn Cú nói : Diệu trạm là nghĩa tuỳ duyên mà thường chẳng biến; Tổng trì là nghĩa chẳng biến mà thường tuỳ duyên ; bất động là nghĩa theo duyên chẳng đổi, bất biến tuỳ duyên, vì không hai thể. Kinh đề đủ 20 chữ

“Ðại Phật đảnh Như Lai mật nhơn tu chứng liễu nghĩa chư Bồ tát vạn hạnh Thủ Lăng Nghiêm kinh”.

Như lai mật nhơn tu chứng liễu nghĩa gọi là Diệu trạm chư bồ tát vạn hạng Thủ Lăng Nghiêm gọi “Tổng trì” Ðại Phật đảnh gọi là “Bất động” đều được nói một mà tức là ba, nói ba gồm một, vì 3 với 1 chẳng phải là 2.

Rút lại để nói : “Diệu trạm tổng trì bất động” nghĩa nó bao gồm cả toàn bộ Lăng Nghiêm kinh; cũng thâu gồm cả Thánh giáo của một đời Phật thuyết, cho đến tông chỉ mầu nhiệm của tất cả chư Phật ba đời, mười phương, sáu chữ ấy nó gom thâu hết không sót một chỗ nào. Ðủ như các lời sớ của sách Phật đảnh văn cú đã giải ai có cần hiểu rộng, phải tìm sách ấy để xét....


Tôn : Cao nhứt giữa bốn bực Thánh, vì cả ba thân đều là vô thượng tôn cực.


Thủ Lăng Nghiêm vương :Tên chung của pháp đại định, vì định này nó gồm thâu hết các pháp tam muội (định) khác; lại tên là “Vương tam muội”

Nay lấy ngũ ấm, lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới, cả thất đại làm tất cả sự; các sự ấy đều là cảnh sở hiện của tâm. Chính là bảo : kẻ nào quên cái “Như lai tạng tâm” thì nó biến thành ra các sự : thất đại, thập bát giới, thập nhị xứ, lục nhập, ngũ ấm, tạp nhiễm sanh diệt của chúng sanh; trái lại, kẻ nào nhớ được cái “tâm Như Lai Tạng” thì các sự (ấm, nhập, xứ...) kia đều trở thành lại bằng viên diệu thanh tịnh của chư Phật, như ngũ ấm thành ngũ phần thân hương, lục nhập thành lục thần thông....tức là tâm tịnh độ tịnh. Nghĩa là nhứt thế sự thanh tịnh viên diệu..

Thế nên biết rằng : các sự ngũ ấm, lục nhập.....đâu chẳng là pháp được sanh bằng nhơn duyên, cũng như đủ điều kiện mới phát hiện. Ðã do nhiều nhơn duyên mới phát sanh ra các pháp là ấm, nhập.....các sự , thì các sự tỷ như hoa đóm giữa hư không, vì cái thể nó vốn không, bởi nguyên nó là Như lai tạng tâm, mà tạng tâm ấy đương thể nó là Diệu trạm tổng trì bất động.

Thế thì, nói nhứt thế sự đều là tạng tâm, nên bảo rằng “cứu cánh”. Mỗi sự mà là Diệu trạm tổng trì bất động, nên bảo rằng “kiên cố”. Thủ Lăng Nghiêm, dịch là : Nhứt thế sự cứu cánh kiên cố. Nghĩa là suốt thấu nguồn đây các pháp, mà, không động không hoại, thật thế. Người mà tu pháp quán ấy, thời, các pháp : Tam đề, Tam quán, Tam đức, Tam thân, đâu chẳng đều ở nơi pháp Thủ Lăng Nghiêm tam muội này. 


Hy hữu : ít có. Thế : thế gian của cửu giới, tất cả Thánh phàm trong chín cõi đều chưa chứng ngộ được “tạng tâm”. Chưa rõ được Phật đức, nên chưa có thể nói được pháp tam muội ấy, cũng không thể nghe nổi được pháp tam muội ấy nên nói “thế hy hữu” nghĩa là cả chín thế gian ít có người nói pháp ấy. Nay ông A Nan đã nghe và đã chứng ngộ được, nên thuật rõ lời tán thán để cảm ơn sâu của Phật.


3. Tiêu ngã ức kiếp diên đảo tưởng

4. bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân :


Dứt tưởng đảo điên từ vạn kiếp, chẳng trải nhiều kiếp chứng pháp thân.

Ðấy là ông kể bày chỗ đã chứng ngộ. Kiếp, tiếng phạn là kalpa, dịch là thời phần, nghĩa là năm tháng ngày giờ rất lâu dai. Ưc, ức có 4 số 1/ mười vạn; 2/ trăm vạn ; 3/nghìn vạn ; 4/ muôn vạn. Nói “tưởng điên đảo từ vạn kiếp” : sau khi chứng ngộ ròi, mới nhận thấy từ vô thỉ đến nay những vọng tưởng mê tình. Nương nơi vọng tưởng ấy, để kiến thiết ra những khổ cảnh sanh tử giữa chín thế giới, mà sở chấp của chúng sanh trong của giới không ngoài các pháp nhơn duyên tự nhiên hoà hiệp, bất hoà hợp, hữu, vô, đoạn, thường, mỗi mỗi đều là pháp sanh diệt hý luận, thật vậy. A Nan đã biết được cái tánh : Tuỳ duyên bất biến, bất biến tuỳ duyên, nêu bao điều hý luận vọng tưởng liền tiêu tan, mà với pháp thân bổn hữu mới thâu hoạch lại đặng.


A tăng kỳ, tiếng phạn là Asrinkhya, dịch : vô số ; Bồ tát muốn thành Phật, phải trải qua số năm bằng tam A tăng kỳ kiếp, để tu đủ phước đức trí huệ, gây các tướng tốt, mới kết tinh pháp thân bằng “Ngũ phần hương” (quả Phật bên tạng giáo).....nhẫn đến được “pháp thân cứu cánh thanh tịnh” (quả Phật (diệu giác) bên (viên giáo). Ở đây, A Nan liền chứng ngộ được tạng tánh trong ngày giờ chẳng trải qua kiếp số tăng kỳ, mà đã đắc pháp thân. Ðã rằng pháp thân, tất phải đủ 2 đức nữa là bát nhã và giải thoát, thì pháp thân đây chẳng đồng nhau với “tố pháp thân” bên biệt giáo nói (Tố : dùng nghĩa theo loại như Tố Vương, Tố Phong). Còn như muốn chỉ rõ ra, thì, chỗ mà điên đảo vọng tưởng tiêu tan hết đó là đức giải thoátl cái trí hay làm cho điên tưởng tiêu tan đó là đức bát nhã.

Song, khi chúng ta còn mê muội, với va đức ấy không phải ta bị giảm bớt, mà chỉ là ta chẳng giác ngộ đó thôi; nghĩa là như bỏ quên mất, nên chỉ gọi là “Lý tức Phật”.

Ngũ trụ hoặc – tức là ba hoặc vọng tưởng. Cả kiến hoặc của tam giới, họp làm một Trụ; cả tư hoặc của ba giới, phân làm tam Trụ, gọi là tứ trụ địa phiền não, thế là vọng hoặc trong tam giới. Người tu đã chứng quả La Hán, ra khỏi lớp vọng hoặc của tam giới, còn có nhị phiền não hoặc là Trần sa và vô minh, hợp làm một Trụ, chung với trên cộng là ngũ trụ. Phá hết ngũ trụ tức là chứng cực quả Phật bên viên giáo; thô cấu là kiến hoặc, tư hoặc, đoạn hết kiến hoặc, thì chứng bực Sơ tín, đoạn hết tư hoặc chứng bực thất tín đều của viên giáo. Xem biểu ngũ trụ địa :

 

 

Phiền não gốc rễ nó hay nảy ra phiền não ngọn nhánh, nên gọi là Trụ địa. Gốc nó làm chỗ cho ngọn nương, nên nói là Trụ ; gốc hay nảy ngọn, nên gọi là Ðịa. Năng sanh là Ðịa, khiến cho sở sanh được thành lập, nên gọi là Trụ. 

Từ trong mê mà giác ngộ, mới biết có công hiệu, thì gọi là Hoạch cũng như đắc hay chứng, mà có năm địa vị chẳng đồng nhau : 1/ Với cái trí chỉ mới đủ hiểu được pháp thân, thì gọi là Danh Tự hoạch ; 2/ Từ chỗ đã hiểu biết rồi khởi sự tu niệm, dẹp hết ngũ trụ hoặc, gọi là Quán hạnh hoạch; 3/ tha hồ hai thô cấu rụng hết trước gọi là Tương tự hoạch; 4/ phá một phần vô minh, chứng một phần pháp thân, trong thời đương phá, pháp thân hoàn toàn hiển hiện, gọi là Cứu cánh hoạch.

A Nan là bực trong ẩn cái hạnh Bồ tát, ngoài bày cái tưóng Thinh Văn, thì cái chỗ gốc tích của ông là “Bí mật hoạch” hạng phàm không thể nhận xét được ! nay căn cứ nơi danh tích là Hiển hiện hoạch của ông, thì, ông ở về bực Sơ tín bến Viên giáo, địa vị ngang hàng với bực Sơ quả thánh nhơn bên Tạng giáo.

5. Nguyện kim đắc quả thành bảo vương,

6. Huờn độ như thị hằng sa chúng

7. Tương thử thâm tâm phụng trần sát,

8. Thị tắc danh vi báo Phật ân

9. phục thỉnh Thế Tôn vi chứng minh,

10. ngũ trược ác thế thệ tiên nhập,

11. như nhứt chúng sanh vị thành Phật

12. chung bất y thử thủ Nê Hoàn

5/Nguyện đắc ngay quả Diệu giác (Phật) liền thành ngôi bửu vương vô thượng giữa mười phương; 6/ trở lại đây để độ chúng sanh số hằng sa trong chín cõi; 7/ đem cái tâm nguyện “Cầu Phật quả, độ chúng sanh” đây thờ chư Phật trong cõi số vi trần; 8/ được thế mới là đền ơn sâu của Phật độ tôi; 9/ lại cầu đức Thế Tôn chứng minh cho lời nguyện của tôi; 10/ Với đời dữ ngũ trược thề vào trước, để độ tận chúng cang cường khó dạy; 11/ Như một chúng sanh nào chưa được thành Phật; 12/ vẫn không bỏ nó, vội thành Phật riêng để diệt độ mình.

Bốn câu trên là nghĩa của pháp bốn thệ nguyện rộng lớn. Bài kệ dưới là nghĩa thệ nguyện tăng thượng. Chữ Bửu là nghĩa tôn quý. Chữ Vương là nghĩa tự tại. Là nói : Phật đã sạch hết ba hoặc vẫn không hai tử địa vị là vô thượng, nên gọi là Tôn Quý; pháp thân giáp tròn, tột cõi hư không, hoá độ vô cùng vô ngại, nên gọi là Tự tại. 

Sách Văn Cú nói : Nguyện Kim đắc thành bửu vương, là muốn chứng Ðạo đế, Diệt đế của mười pháp giới, chính gọi “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành” và gồm thâu “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Hườn độ như thị hằng sa chúng, là muốn dứt Khổ đế, Tập đế của mười pháp giới, chính gọi “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, kiêm luôn “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”.

“Thâm tâm” là nương nơi Vô tác tứ đế của “Viên giáo”, để phát khởi ra Tứ Hoằng thệ nguyện. Kế đó là lời thệ nguyện tăng thượng. Hai câu : Phục thỉnh Thế Tôn vi chứng minh, ngũ trược ác thế thệ tiên nhập, là dõng mãnh tăng thượng, số là với chúng sanh ở đời ngũ trược cang cường lắm nên khó dạy bảo. Nay ông A Nan đã đắc cái tạng tánh bình đẳng, phát được cái tâm đại bi, đối với chúng ấy, như mẹ thương con, nên mới có thể cấp cứu chúng đặng. Hai câu : Như nhứt chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ nê hoàn, là hoằng nghị tăng thượng, bởi đã đạt đến tạng tánh; nó dọc thấu ba đời, ngang giáp mười phương, nên với việc hoá độ, không bỏ sót một chúng sanh, dù tột hết qua nhiều đời sau, với hạnh khổ khó làm đến đâu, cũng không chán sợ.

Nguyện vì chúng sanh có khổ, Bồ tát có bi, bởi bi cùng đồng thể với khổ : Tỷ như cái tánh thiêng liêng nó quan thiết nhau giữa mẹ con; con có khổ, mẹ ắt bi cứu. Thế nên chúng sanh có cảm, lòng Thánh phải ứng.

“Nê Hoàn” cũng gọi Niết bàn, dịch là Diệt độ; diệt phiền não, độ sanh tử, tức là chứng đặng pháp thân diệu tánh, là tâm cảnh không còn phiền não sanh tử nữa.

13. Ðại hùng đại lực đại từ bi

14. hy cánh thẩm trừ vi tết hoặc

15. Linh ngã tảo đăng vô thượng giác

16. ư thập phương giới toạ đạo tràng

13. Ðức Ðại hùng Ðại lực đại từ bi ; 14. Mong thêm xét dứt lầm nhỏ nhít ; 15.Khiến tôi sớm lên Phật không trên ; 16. Với mười phương cõi ngồi đạo tràng.

Ðây là lời Phật gia hộ, để mong dứt những vọng hoặc quá vi tế, mà kỳ cho được chứng lên bực tột cao thượng.

Thể theo chứng lên ngôi Vô thượng làm thầy cả chín cõi, nên nói là Ðại Hùng. Có cái Trí Tuệ phá tan được nghiệp chướng mê hoặc của phiền não nơi ta và chúng, nên nói là Ðại lực. Cứu hết cái khổ sanh tử của chín cõi, cho chúng đều được cái vui Niết bàn của cõi Phật, nên nói là Ðại từ bi,

Sách văn cú nói : Ðại lực là đức tốt “Diệu trạm” (tinh thần mạnh sáng). Ðại từ bi là đức tốt “Tổng trì” (nghị lực gom giữ). Ðại hùng là đức tốt “Bất động” (uy nghi tự tại). Lại nói : Chứng được cái lý thể “Diệu trạm tổng trì bất động” gọi là “Ðại Hùng”; đủ cái trí chiếu “Diệu trạm tổng trì bất động” gọi là “Ðại lực” dấy cái diệu dụng “Diệu trạm tổng trì bất động” gọi là “Ðại từ bi”. Lẫn nhau để nghĩ xét, là cái cớ : Ba và Một chẳng phải là hai lẽ.

 

“Hy cánh thẩm trừ vi tế hoặc”, Hy : trông, cầu. Vi tế hoặc : chính là cái vô minh của bực đã ra ngoài tam giới. Kinh nói : “Ngươi (A Nan) nay đã đắc quả Thánh Tu đà hoàn, đã dứt diệt rồi đều mê hoặc bằng nhận thấy sai lầm giữa thế gian chúng sanh trong tam giới”. Chính là bài kệ trước kia đã nói : “Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng”.

Kinh lại nói : “Song, bởi chưa biết trong Căn tánh nó chứa chất cái thói quen giả dối từ vô thỉ đến nay, với cái thói quen ấy, cốt phải do công tu mới đoạn trừ được nó”. Cái “thói quen” đó là chỉ cho sự lo nghĩ lầm sai (tư hoặc) của chúng sanh trong tam giới.

Kinh lại nói : “phương chi trong đời nay đây, với mõi bốn giai đoạn : Sanh, Trụ, Dị, diệt của mỗi ý niệm, chia chẻ mỗi mỗi con số ......”, những ý niệm sanh diệt đó, là chỉ cho cái vọng hoặc riêng của những bực đã ra ngoài tam giới, mà chính ở đây bảo là “vi tế hoặc”.

Vô thượng giác tức là ráo rốt quả Phật Diệu giác, nếu người tu Phật đã đoạn hết cái mê hoặc vi tế thì liền tiến lên quả Diệu giác, chính rằng ba giác đã sáng suốt cực điểm tức là Như Lai.

Mười phương cõi cần đủ ngang và dọc để luận. Ngang tức là Ðông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc và trên, dưới; như đối với phương đông : Ðể xét cõi hư không, thấy nó vô cùng vô tận, mà thế giới cũng không tột không hết. Thế thì mỗi phương đều như vậy cả. Bàn về bề dọc, thì với giữa thế giới nhiều vô tận, thế giới nào cũng đủ bốn quốc độ. Ðối với chúng sanh hoặc căn cơ nào đoạn hoặc chứng chơn đã viên mãn bình đẳng, thanh tịnh, thì Phật ngồi nơi đạo tràng cõi tịch quang, để thị hiện cho chúng ấy được thấy “pháp thân Phật”. Hoặc có trình độ tu đoạn đã được bình đẳng tự lợi lợi tha, thì Phật ngồi nơi đạo tràng cõi thật báo, để thị hiện cho họ thấy được “ Báo thân Phật”. Hoặc có hạng vừa tu chứng bực Nhị thừa, thì Phật ngồi nơi Ðạo tràng giữa phương tiện độ, để thị hiện cho chúng thấy được “Ứng thân Phật”. Hoặc có hạng người tu bằng cách trước tướng chán khổ bỏ khổ, thì Phật ngồi nơi Ðạo Tràng đồng cư độ, để cho chúng ấy được thấy thân Phật bằng cách “biến hoá’. Song, tạng tánh của Phật là tròn bọc cõi hư không; chính chỗ bảo rằng : đến khi mà một người thành Phật, đầy dẫy pháp giới đều là y báo chánh báo của một đức Phật chính là đây vậy.

17. Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong

18. Thước ca la tâm vô động chuyển

17/Tánh Thuấn Nhã đa có thể mất

18/ Tâm Thước ca la không hề nao.

Ðây là tỷ dụ : Với cái tâm nguyện không lui mất. Thuấn nhã đa là : cái hư không. Thước Ca la : bền chắc. Nghĩa là những vật chất như địa cầu còn có ngày tiêu diệt, vì hữu hình hữu hoại ; chớ nên không là vô tướng, thì bao giờ tiêu mất được, vì nó là thể tánh bất sanh bất diệt. Thế mà bảo rằng : “Nó có thể tiêu vong” đó, là ý nghĩa rất sâu để tỷ lại với cái “tâm nguyện” rất kiên cố, rốt ráo không hề thối chuyển. 

Hỏi : Kinh nói : Với cái hư không, phi ai có thể làm gì nó được, nên nó không hoại diệt. Lại nói : “phát minh được cái chơn qui ngươn (chơn tâm) rồi, thì hư không liền tiêu mất”. Thế với hai nghĩa trên nói sao cho xuôi ?

Ðáp : Bằng nói pháp thế tục đế, thì với “hư không” chẳng đó thể diệt nó đặng, nên trong kinh sách Phật, một phần cũng dùng cái hư không để tỷ dụ cái chân tánh, vì là nghĩa bất sanh bất diệt bởi vô hình vô động; còn cứ nơi pháp Ðệ nhất nghĩa đế thì cái không nó nguyên bởi nơi vô minh làm mê mất cái Chơn không mà biến đổi làm ra cái Ngoan không. Nếu phá được vô minh rồi, thì toàn thể nó chính là Như lai tạng tâm, ngay nơi Ngoan không mà làm Chơn không, giữa hư không cả đại địa cũng là cái Diệu hữu. Kinh lại nói : Cái hư không sanh trong tâm đại giác, tỷ như một cục bọt nổi giữa biển cả, bọt tan cũng như cái “không vốn chẳng có, hư không đã chẳng có, huống đâu còn tam giới. Chính rằng nghĩa trên đây, kêu bằng hư không (Thuấn Nhã Ða) hữu tận, ngã nguyện (nguyện tâm) vô cùng (Thước ca la : kiên cố).

Nam mô Thường trụ thập phương Phật

Nam mô Thường trụ thập phương pháp

Nam mô Thường trụ thập phương Tăng.

Cúi lạy ngôi Phật bảo thường ở đời nơi mười phương.

Cúi lạy ngôi Pháp bảo thường ở đời nơi mười phương.

Cúi lạy ngôi Tăng bảo thường ở đời nơi mười phương.

Ðấy là lạy chung tất cả các ngôi Tam bảo hiện trụ trong thập phương thế giới. Với ba triệu trên sẽ thấy giải thích ở nơi văn sám hối sau.

Nam mô Thích Ca Mưu Ni Phật

Nam mô Phật đảnh thủ lăng nghiêm

Nam mô Quán thế Âm Bồ tát.

Kính lạy ngôi Phật là đức Thích Ca Mâu Ni.

Kính lạy ngôi Pháp là Phật đảnh Thủ Lăng Nghiêm

Kính lạy ngôi Tăng là đức Quán Thế âm Bồ tát và Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát.

Ðây là lạy riêng về Ngôi Tam Bảo của Kinh Lăng Nghiêm; Thích Ca Giáo Chủ là “Phật bảo”; Lăng Nghiêm kinh chú là “Pháp bảo”; hai vị Bồ tát thuộc “Tăng bảo”. Thích Ca (Sẽ giải rõ ở văn Ðại sám hối là Hồng danh bửu sám. Quán Thế Âm : đích là với Kinh này về chánh tông kén chọn “nhĩ căn viên thông” vì Bồ tát Ngài bắt đầu từ nơi nhĩ căn đi sâu vào mà đắc quả viên thông. Ðức Văn Thù chấm lấy nhĩ căn, vì nó rất thích hợp với căn cơ của thính giả ở thế giới ta bà này. Nên vắn tắt rằng : “Thử phương chơn giáo thể, thanh tịnh tại âm văn”; phương đây thiệt giáo thể, trong sạch ở tiếng nghe. Nghĩa là với thể lãnh giáo đúng chơn thật của chúng nhơn thế giới ta bà đầy, được thanh tịnh nhứt là ở tai nghe của thính giả đối với tiếng nói của đấng thuyết pháp.

Lại bởi Nhĩ căn (thính giác) nó đủ cả ba cái thể chơn thật là : Viên thông, và Thường. Kinh nói “Dụ như người ở chỗ yên lặng, mười phương đều có kẻ đánh trống, đồng thời cũng đều nghe được cả”. Ðó là Viên chơn thật. “Cách vách nghe tiếng vang, xa gần cũng nghe được”. Ðó là Thông chơn thật “Với lúc không tiếng động, tánh nghe đã chẳng diệt; với khi có tiếng vang; thính giác cũng phi sanh” đó là thường chơn thật.

Vậy, người tu Phật : Chính khi nghe, cốt chớ nghe nơi ngoài cảnh, vì tiếng bên ngoài là thuộc về trần; lại cũng đừng nghe bên trong, vì cái động cảm bên trong lòng là thuộc về thức. Bởi nếu nghe nơi trần thì bị nhiễm ô, còn nghe nơi thức thì bị phân biệt, vì thức cùng trần đều phi tự tánh. Nay chỉ nghe mà thôi, nghĩa là cái nghe chỉ nghe lấy tự tánh của nó. Ðã được quày cái nghe để nghe lại tự tánh, là đi ngược dòng mê vọng của sanh tử khổ hải, để tiến vào dòng giác. Chơn của pháp tánh linh nguyên, nghĩa là : “mất cái tướng động tướng tịnh, hết cái nghe bằng có nghe, không cái biết rằng có biết, diệt cái không bằng không suông” (bởi cái không ấy nó còn đối với cái có), mà đắc cái cảnh giới “tịch diệt” hiện tiền, liền siêu việt lên trên cái tri thức của lục phàm ở thế gian, và tri giác của tam thừa xuất thế gian; vì tri thức của thế gian là vọng trần cũng như vật chất hay duy vật khách quan, còn trí giác của xuất thế gian là phân biệt cũng như ham tịnh ghét nhiễm chỉ lo phần tự giác tự độ, Duy thức chủ quan. Ðối trên thì đồng họp với “Từ dữ lạc” của chư Phật, đối dưới thì đồng cảm với “Bi bạt khổ” cho chúng sanh. Thế thì đã trọn phá rồi cái vọng thân ngũ ấm trọn vượt khỏi rồi cái vọng kiếp ngũ trược trọn dứt rồi ba cái vọng hoặc, trọn rỡ ràng ba cái đức tốt..... nhẫn đến chứng được rốt ráo quả vị Phật.

Trong những thời ta đương trì tụng chú Lăng Nghiêm, nên biết mỗi chữ đều do nơi tự tâm đưa ra, trở lại đến nghe nơi dòng tự tánh, miệng thì tụng, tâm thì soi, chăm chăm như như rót nước chẳng sai dời, cũng không cho tâm thần (ý thức) nó hôn trầm và tán loạn. Vậy, ta liền khế họp ngay nơi “lẽ viên thông” của đức Quán Thế Âm, cũng dù thi vi gì gì nữa đâu chẳng là tánh tạng bí mật ư ? ( xin xem kinh Lăng Nghiêm quyển thứ 6 vàlời chú giải sẽ được tường tận cả nghĩa trên).

Ngài Kim Cang Tạng là chủ tịch bên bộ Mật bộ, vì Ngài năng hộ trì những người tu trì chú Lăng Nghiêm, khiến cho tu sĩ ấy được chóng thành tựu công đức.

Nhĩ thời Thế Tôn, tòng nhục kế trung, dũng bách bửu quang, quang trung dũng xuất, thiên diệp bửu liên, hữu hóa Như Lai, tọa bửu hoa trung, đảnh phóng thập đạo, bách bửu quang minh, nhứt nhứt quang minh, giai biến thị hiện, thập hằng hà sa, Kim Cang mật tích, kinh sơn trì xử, biến hư không giới, đại chúng ngưỡng quan, úy ái kiêm bảo, cầu Phật ai hựu, nhứt tâm thính Phật, vô kiến đảnh tướng, phóng quang Như Lai, tuyên thuyết thần chú.

Lúc bấy giờ, từ trong tướng nhục kế nơi đảnh của Thế Tôn vọt ra một hào quang bằng trăm ánh báu; trong hào quang hiện ra một hoa sen nở hàng nghìn cánh, có một Hóa Phật ngồi trong hoa sen báu ấy, trên đảnh Hóa Phật phóng ra mười đạo hào quang bằng những ánh của trăm ngọc báu, mỗi mỗi tia sáng ấy đều chiếu khắp nơi để thị hiện ra 10 hằng hà sa thần Kim Cang Mật Tích : ông thì bưng núi, ông thì cầm xử v.v... khắp cõi hư không, đại chúng đều ngữa mặt trông nhìn, ôm lòng vừa kinh sợ vừa mến yêu để xin Phật thương giúp, nên đều chăm lòng đợi nghe Phật dạy, đức hóa Phật trong hào quang mà nơi tướng vô kiến đảnh phóng ra đó tuyên nói thần chú như sau.

Ðây là đức Thế Tôn Ngài thị hiện cái tướng biến hóa ra để thuyết thần chú (tức là năm hội thần chú sẽ thấy sau kia).

Lời Sớ giải thích rằng : Với cái tướng tốt nhục kế, so theo Vô thượng y Kinh nói, thì : Cái đảnh đầu của Phật có xương óc nổi cao lên tự nhiên nó thành như cái “đầu tóc bới”, tức kinh đây bảo là “Ðại Phật đảnh”, cũng tên là Vô Kiến đảnh, để tỏ bày là cái thể bất động trí. Bách Bửu quang : hào quang bằng ánh sáng của trăm thứ báu, là để tiêu biểu cái dụng sáng suốt vô lượng trí chiếu khắp trăm thế giới, vì đúng với tánh khắp giáp. Thiên diệp bửu liên : hoa sen báu nở nghìn cánh, là trưng ra rằng ngàn lần vẫn đúng như một. Hữu hóa Như lai tọa bữu hoa trung: Bửu hoa là Nhơn, Như Lai là Quả, để tỏ rằng : Nhân trùm biển quả, Quả thấu nguồn nhơn, mà Nhơn quả vẫn đồng thời. Ðảnh phóng thập đạo..... thập hằng hà sa : Trên đảnh hóa Phật phóng 10 tia sáng......10 số hằng hà sa, là để nêu rõ rằng : Các pháp “Thập giới, thập như v.v....” mà pháp thì có sai biệt, còn hào quang thì không lệch khác, pháp và quang đều là cái diệu dụng của “Như lai tạng tánh”, nhưng pháp và quang đều khắp giáp thị hiện ra đó là : Chính để tỏ rằng tạng tánh ấy bản thể nó sẵn sàng thanh tịnh khắp giáp pháp giới.

Kim Cang Mật Tích : Tiếng Phạm là Sanda, tiếng Ta đọc là Tán na. Lại Phạm ngữ Pancika, ta đọc là Tán chi ca, dịch là Mật chủ, vì đủ bốn nghĩa Mật : Danh, Hành, Trí và Lý, làm vị thần Hộ pháp chủ, bởi sự tích thị hiện làm Kim Cang thần, nên gọi là Mật Tích : danh tích bí mật. Nghĩa là Bửu quang ấy thể nó như kim cương; không chi phá hoại được, mà nó phá hoại được số hằng sa phiền não của thập giới (10 cõi), khắp hiện ra số hằng sa diệu dụng trong mười cõi, nên nói là biến hư không giới.

Uùy ái : Sợ thương, vì đủ uy đức, để bẻ dẹp, nên đại chúng đều sợ, đủ từ bi để dung thâu, nên đại chúng đều mến yếu. Cũng như nói : Uùy kỳ oai, hoài kỳ đức. Ðức Hóa Phật trong hào quang trên đảnh là nêu rõ rằng : “Cái thể kín nhiệm” nó chẳng mượn công tu và chứng, vì tâm với Phật vẫn đều là vô vị. Ðức Hóa Phật nói thần chú là để tỏ bày “cái diệu dụng kín nhiệm” chẳng khá nghĩ bàn. Phóng hào quang hóa Phật nói chú, thì Hóa Phật thuyết chú đều là hào quang, là để tỏ “cái tướng kín nhiệm” vô ngại thanh tịnh. Từ nơi đảnh Phật là để tỏ tức là Hiển, tức là Mật, vì pháp nó không khác nhau. Vô Kiến : không thấy, là nêu rõ rằng chẳng phải Hiển, chẳng phải Mật, vì pháp nó vẫn vắng lặng. Ðây chính là cái trọn chứng của Như Lai, và tức là cái thể mà chúng sanh đồng đủ. Song, Lý nó nhơn nơi Sự để tỏ bày, còn pháp là theo nơi Cơ để cảm hóa. Vì A Nan trước nhờ Ngài Văn Thù đem thần chú đến cứu hộ rồi dẫn về, đó là chỉ mới đặng sự lợi ích của pháp Mật mà thôi, chớ chưa được rõ nghe về pháp Hiển. Về đến pháp hội, đã nhờ đức Như Lai mỗi tầng chỉ vẽ....A Nan mới tờ ngộ đặng lý Viên đốn, rõ được sự viên tu. Còn với những điều mà ông muốn thâu tâm vào định Thủ Lăng Nghiêm để tránh xa các sự ma chướng, thì còn phải nhờ 4 giới Trọng cấm giữ được như giá trong tuyết trắng. Chí như những thói quen của mấy đời trước rất khó trừ, thì cần phải tụng “Phật đảnh Thủ Lăng Nghiêm thần chú” mới trừ đặng. Thế nên trong cuốn thứ 7, A Nan lập lại cầu Phật phóng quang hiện đức Hóa Như Lai tuyên thuyết thần chú.

Trong bộ Du Già dạy có 4 cách niệm tụng : 1/ niệm tụng có âm thinh, là niệm bằng cách đọc ra tiếng. 2/ Kim Cang niệm tụng : ngậm miệng niệm thầm, cuống lưỡi hơi cử động. 3/ Niệm tụng bằng phép Tam ma đề : là niệm trong tâm tưởng. 4/ Chơn thật nghĩa niệm : tu hành đúng với chữ Nghĩa.

Lại hoặc phân làm 5 cách niệm tụng : 1/ Xuất nhập tức tụng, là lòng tưởng theo tiếng chữ chú, tùy theo hơi thở ra hút vào, hễ hơi ra thì tưởng chữ ra, hơi vào thì tưởng chữ vào, mỗi chữ rõ rành, như xâu chuỗi ngọc, trước sau khong hở xen. 2/ Du Dà trì tụng : tưởng nơi trái tim ta nó tròn như mặt nguyệt, trong ngoài phân minh, tưởng như thứ lớp chữ thần chú trước quanh qua bên hữu, mỗi chữ khắp bủa chạy theo cái bìa vòng tròn của mặt trăng ấy, rốt rồi trở lại như trước. 3/ Kim Cang trì tụng : ngậm môi, trong miệng niệm nhỏ nhỏ lầm thầm nơi đầu cuống lưỡi. 4/ Vị thinh trì tụng: đọc mỗi chữ cho rõ ràng, tiếng đọc chỉ vừa lỗ tai mình nghe được mà thôi, chớ đừng đọc lớn đến người ở gần nghe. 5/ Cao Thinh trì tụng : cao giọng niệm tụng lớn tiếng để cho người nghe, hầu dứt ác sanh thiện.

Trong Như ý bửu kinh, ông Diệu Trụ Bồ Tát hỏi : Có người cũng niệm tụng bài thần chú đây, nhưng tại sao không thấy được tam thế chư Phật ? Phật đáp rằng : Bởi vì lòng còn trụ trước nơi nghiệp thiện hay ác, lòng nghi ngại chưa đoạn, lòng chấp hữu vi, và không có phương tiện; nếu có thể tâm không nghi hoặc, quyết định chuyên chú, thế mới gọi là chơn thực trì tụng được.

Lại, ông Diệu Tý Bồ Tát hỏi : trì tụng thần chú mà không thể kết quả, là phải chăng pháp lực vô hiệu ? Hay là những thời tu niệm trái giờ ? Hoặc nữa, chủng tánh nó chẳng phải Phật tánh ư? Hoặc Thần chú còn khuyết điểm lợi ích ? Kẻ tu trì tự ý khinh mạn ? Hay là lễ vậtcúng dường chẳng đủ ? Kim Cang thủ bồ tát trả lời rằng : Người mà tu chép chơn ngôn cũng như thần chú, muốn cho được thành tựu, thì cần phải lìa hẳn các phiền não, dấy nơi đức tin sâu, phát tâm bồ đề, kính trọng Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo, xa lìa mười nghiệp ác, bỏ thói tàkiến, hành pháp thập thiện; vào đàn niệm chú, nương theo vị A xà lê, quyết chí mạnh tiến, sám hối nghiệp chướng từ đời trước, giúp bạn đồng tu, vật cúng tinh khiết, thì phép tu chơn ngôn nó không sai ngoa. Trái lại, người tu chứng đúng phép thì chắc chắn được linh cảm. Ðời nay người tu trì không được ứng nghiệm, đã không tự trách lỗi mình mà trở lại phiền trách kinh chú vô hiệu. Thật là vô lý ! Nếu do đó mà sanh tâm nghi ngờ chê bai, tất phải chịu quả báo tội ác, với hạng người tu tụng như thế đó, than ôi khá tiếc !

Phuï : Sau đây là năm đệ thần chú (đối với Phạm ngữ là tiếng của Aán Ðộ, tôi chưa học nói được nên chỉ dịch bằng tiếng việt đọc, chữ Nho của Việt xưa mà thầy Tổ đã vẫn truyền dạy bấy lâu. Tổ Vân Thê cũng đã phán : “Không biết tiếng Phạm thì đọc ngay tiếng thổ âm của mình cũng đặng, vì không cần tiếng mà cần ở tâm, bởi thần chú, nghĩa : Uy linh bất trắc gọi là Thần, tùy tâm sơ nguyện gọi là Chú”. Lại : linh tại ngã, bất linh tại ngã; thế cần gì tiếng Phạm?


Năm hội thần chú trên nói đề “tánh Như lai tạng” một cách rất kín nhiệm (pháp mật), còn kinh Lăng Nghiêm cũng nói về “tánh Như Lai tạng” mà nói một cách rất rõ ràng (Pháp hiển). Bởi vì có chúng sanh nghe thuyết pháp “mật giáo” rồi tự tỏ ngộ vào chơn lý; hoặc có chúng sanh nhơn nghe nói pháp “Hiển giáo” mà tự nhận rõ được chơn lý. Thế đủ biết rằng : hoặc hiển thuyết, hoặc mật thuyết...đâu chẳng phải là phương pháp của Phật giáo hóa chúng sanh ? Ngài có đủ phương tiện bằng ba pháp luận bất khả tư nghị như thế.

Phép thần chú của TiênPhạm thiên làm rối loạn tâm tánh của A nan, đến khi nó gặp chú Lăng Nghiêm do Hóa Phật ở trong hào quang trên đảnh đức Thế Tôn nói, thì thần chú Trời bị thần chú Phật đánh tiêu, chẳng những giải cứu được cái lụy “kiết hoặc” cho A Nan, mà cũng khiến cho nàng Ma Ðăng Già liền chứng được quả thánh thứ ba (A Na Hàm).

 

Bởi vì sức thần chú ác pháp tỷ như lửa của con đôm đốm, ánh sáng của thần chú thiện pháp như ngàn mặt nhựt ; lửa đốm kia gặp một ngọn đèn còn không rõ sáng đặng, phương chi với nghìn mặt nhựt ư ? Thê nên với thiện chú đây người tụng cũng đắc công đức bất khả tư nghị. Tức là “Sità tapatra” “Tất đát đa bát đát ra “ tên của chú “đại Phật đảnh”, dịch : “Bạch tán cái” nghĩa : Cây tàn trắng tức là chỉ cái “tạng tâm”, vì rằng; chẳng cùng họp nhau với điều vọng nhiễm, nên nói là “Bạch : Trắng”, bởi như cây tàn trắng che mát chúng sanh.

Quỷ quái các chất độc địa, tám hoạnh, chín nạn, sao tai ương, chiêm bao ác đều không nhiễm trúng tai hại gì được; chư Thiên chư Thần thường đến phù hộ. Dẫu lỡ phạm tội ngũ nghịch, tứ trọng, cũng đều được sám hối. Xa lìa các điều Ma chướng, rốt được thành đạo Phật. Hễ có cầu nguyện gì, thì tùy muốn thế nào đều kết quả thế nấy. Xin xem cuốn Lăng Nghiêm thứ 7.

Ba Hoặc : 1. Kiến tư hoặc, 2. Trần sa hoặc, 3. Vô minh hoặc; Hoặc : lầm, lại có nhiều tên là : phiền não, hữu lậu, cấu và kiết, đều thể theo nghĩa mà đặt tên.

Hai Tử : 1.Phận đoạn tử là cái chết của sáu phàm ; 2. biến dịch tử của Thinh Văn.


 

ĐẠI BI THẦN CHÚ


(Trích ở hàm chữ “Năng” trong đại tạng, kinh đề là thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm Bồ tát quảng đại viên mãn Vô ngại Đại bi Tâm đà La Ni Kinh).

Bấy giờ Phật đến tạm trụ nơi Đạo Tràng bửu trang nghiêm trong Thạch thiên cung, bên ao nước trên đảnh núi Bổ Đà lạc Ca (Potalaka) bờ biển phía nam Aán Độ, là chỗ của đức Quán Tự Tại thường tới lui ở đó, nay Phật và các thần thánh tam thừa Bát bộ đều hội họp.

Thuở ấy, đức Quán Thế âm rấ kín nhiệm phóng ra hào quang lớn, chiếu cả mười phương các cõi nước đều rực rỡ, thành màu vàng ròng; rồi chắp tay bạch Phật rằng: “tôi có thần chú.....Đại bi tâm đà la ni, nay tôi muốn nói ra, để cho các chúng sanh đều đặng an lạc, vì nó có hiệu lực : tiêu trừ bịnh hoạn, tuổi sống lâu dài, giàu có, thêm điều lành, dứt hết các tội, được toại tâm với sự mong cầu”, nên được Phật hứa cho thuyết chú.

Bồ tát nhắc tích rằng : “Trước đây từ vô lượng ức kiếp, có Phật ra đời, hiệu là Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai, vì tôi mà Ngài thuyết thần chú Quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni. Hồi đó tôi mới chứng lên bực Sơ địa bồ tát, tức thời tôi phát đại nguyện như vầy :

Qua đời sau, nếu tôi có thể làm lợi ích cho chúng sanh được, thì hiện giờ đây, khiến trong cho cái thân thể này liền nảy sanh ngàn tay, ngàn mắt (mỗi bàn tay đều có con mắt).

Tôi phát nguyện ấy rồi, quả nhiên đều đủ như lời. Bấy giờ có 6 món vang động, chư Phật đều phóng hào quang đến chiếu trên thân tôi, và chiếu cả vô biên thế giới.

Tôi lại nguyện : Nếu người nào tụng được năm biến chú Đại bi, thì có thể dứt được trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử trọng tội, đếnlúc mạng chung, được thập phương chư Phật nắm tay dẫn dắt cho vãng sanh tịnh độ.

Nếu người tụng chú này : mà còn đọa tam ác đạo, chẳng sanh về cõi nước của chư Phật, chẳng đặng vô lượng pháp tam muội biện tài, cầu điều chi chẳng được toại ý, như có các điều ấy, thì chẳng xưng là Đại Bi Tâm đà la ni, Chỉ trừ mấy kẻ: tâm bất thiện, chi bất thành, còn chút lòng nghi, thì chẳng được ứng nghiệm.

Nếu người có các điều thập ác, ngũ nghịch, hủy báng chánh pháp, phá giới, làm ô nhục nết na người ta.......mặc dầu ngàn đức Phật của kiếp trụï này ra đời hết rồi cũng chẳng cho người ấy sám hối các tội lỗi trên, nhưng một phen hễ tụng chú Đại bi này, thì bao nhiêu tội kia đều tiêu diệt hết.

Hoặc người gặp những tai nạn ác nghiệt, thành tâm tụng chú Đại bi đây, liền đặng giải thoát những ác nạn ấy : hoặc có cầu điều gì, cũng đều được kết quả toại lòng. Xin xem kinh kia, sẽ tự biết tụng chú Đại bi được công đức vô cùng.

Thiên thủ thiên nhãn : Tay thì hay cầm hay dở, nghìn cánh tay, là để tỏ ý nghĩa rằng : cái công hành quá rộng lớn, vì bởi lan khắp ra để duy trì Phật pháp, và phổ cập nưng đỡ chúng sanh. Mắt thì năng xem năng xét; ngàn con mắt, là để tiêu biểu rằng : Bi và Trí đều không ngằn mé, vì bởi mỗi mỗi đều đủ ngũ nhãn, để trọn soi xét cả các căn cơ, đặng đều đủ cứu khổ sanh tử trong thế gian, cho vui Niết bàn ngoài thế gian.

Kinh Lăng Nghiêm, đức Quán Thế Âm nói : bởi tôi ban đầu với điều nghe, quày đặng cái nghe để nghe để nghe lại tự tánh, nghĩa là cái nghe bằng quày nghe đó, là “Thỉ giác”, cái tánh bằng tự tánh đó là “Bổn giác”, Bổn, Thỉ hiệp làm một, thì hai lẽ đều thành mầu nhiệm lẫn nhau, nên nói “diệu diệu văn tánh”. Cái tâm tinh tức tự tánh nó đã giải thoát hết năng văn và sở văn rồi, nên với những điều thấy nghe hiểu biết, chẳng còn phân cách nhau nữa, như giác quan nọ riêng cách với giác quan kia của phàm tục, vì nó đã thống nhứt họp thành làm một cụ thể “viên thông thanh tịnh bửu giác”. Thành thử tôi mới biến hiện ra được đông nhiều hình dung tốt lạ, và cũng có thể thuyết được vô biên bí mật thần chú.

Giữa những hình dung nói trên, tôi biến hiện ra hoặc 1 thân chỉ 1 đàu, 1 thân 3 đàu, 1 thân 5 đầu , 1 thân 7 đầu, 1 thân 9 đầu, 1 thân 11 đầu, nhẫn đến 1 thân 108 đầu, 1 thân : 1.000 đầu, vạn đầu, 8 vạn 4 nghìn đầu bằng chất kim cang rất kiên cố. Hoặc hiện ra những cái thân có : hai tay, bốn tay, sáu tay, tám tay, mười tay, mười hai tay, mười bốn tay, mười sáu tay, mười tám tay, hai mươi tay, nhẫn đến mỗi thân có : Hai mươi bốn tay, hai mươi tay, nhẫn đến mỗi thân có : Hai mươi bốn tay.....một trăm tám tay, ngàn tay, muôn tay, tám muôn bốn ngàn tay bắt ấn. Hoặc mỗi thân có : 2 mắt, 3 mắt, 4 mắt, 9 mắt, nhẫn đến 108 mắt, 1.000 mắt, vạn mắt, 8 vạn 4 nghìn mắt rất báu thanh tịnh. Tóm lại, những đầu, tay và mắt nhiều như thế, là để tỏ ra những cái hình dung : Từ là để cảm hóa; Uy là để chinh phục; Định là để yên tâm; Huệ là để giác sát, cứu hộ chúng sanh, đều được đại tự tại, vì đủ có Bi và Trí diệu dụng của sáu căn để tiếp ứng giữa trần lao.

(Phụ lời biện giải : Đầu là chung cả tác dụng của sáu căn; Tay là tỏ lòng “bi” nưng tiếp; Mắt là để tỏ cái “Trí” xét soi; đều y nơi “Bổn” để sung số trưng bày ra. Nhẫn đến 8 vạn 4 ngàn đầu hay tay và mắt cũng đều y nơi căn bổn sáu tác dụng, và căn bổn trí bi mà để ứng phó với tám vạn bốn ngàn trần lao, cho được diệu dụng của bực đại tự tại. Đấy là công hạnh thần diệu của các thành đẳng giác ở “Thập nhứt địa”. Vì bực này thuần là đại bi làm bản thể cả pháp giới. Bi cũng viên mãn với trí hoàn toàn thật hiện. Nên suốt khắp thân thể của đức Quán Thế Âm đều hiển hiện cả tay lẫn mắt, chung gọi là Đại Bi.

Thế với tám vạn bốn ngàn trần lao, cả pháp giới sự và lý gì cũng không hề cách rời ngoài một bản thể “Viên dung tịnh giác”, vì là lẽ năng đồng mà năng dị, tức một mà tức nhiều, thân tức độ, độ tức thân, nên gọi là “đồng thể đại bi”

Thế thường họ chưa hiểu rằng : với tám vạn bốn ngàn đó, là chỉ nêu rõ pháp số vậy thôi, chớ với một cái thân thì làm gì lại thi vi ra nào đầu nào tay và mắt bằng những con số đó ? Họ ngờ thế là chỉ đem cái quan niệm tư duy để xét lường cái cảnh viên thông của Bồ tát.

Thử xét giữa loài người đây, kẻ nọ cũng cái thân đủ sáu căn như ai, mà sao lại vụng về dốt nát, người kia cũng có cái thân có sáu căn như ta, sao lại phát minh ra được nhiều tri xảo tài nghề ?

Đứa phàm sẵn có cái thân, sáu căn sau thành lục tặc ? Các La Hán cũng vẫn sáu căn đó mà sao lại thành ra lục thần thông với thiên biến vạn hóa ?

Vậy biết còn vô minh mê hoặc, thì cái thân tâm nó thàh ra bátngu tứ thiên phiền não cũng như bát vạn tứ thiên trần lao; trái lại, đã chuyển thức thành trí rồi thân tâm nó thành ra bạt vạn tứ thiên thần thông diệu dụng. Huống nữa, là cái thân trùm mười cõi hư không, đầu mảy lông hiện ra cõi Phật. Đó, cõi không, cõi Phật, chẳng những như cái đầu cái tya mà thôi. Kìa tám vạn bốn ngàn cái đầu, cái tay cũng như tám vạn bốn ngàn lỗ trong một cái thân, đấy, cũng đủ lấy làm lạ. Vì cái thân của Đẳng giác Bồ tát đã rất tịnh rất diệu, chớ không phải như cái thana của bạc địa phàm phu rất uế rất tục.

Vã lại, thánh nhân nói ra tức sự mà tức lý, đã là lời lẽ bất khả tư nghị, chớ chấp lấy cuộc hạn theo cái ý của ta để nghĩ và bàn !

Rất hay thay thần lực của đức Quan Thế Âm như thế, nên với sở thuyết ra tâm chú, đâu cho chúng ta nghĩ bàn được ru !?


 

THIÊN THỦ THIÊN NHÃN VÔ NGẠI 

ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI


(cả bài chú đây 84 câu; về câu thứ 16 có 5 chữ “Na ma bà tát đa” đó là Tổ Văn thê đại sư căn cứ theo kinh Đại Bi bổn xưa mà đem vô đấy. Hoặc có bổn xưa: ở cuối bài chú thêm vào 4 câu: 1/ Kim cang thắng trang nghiêm ta bà ha. 2/ Ma yết thắng trang nghiêm, ta bà ha 3/Thinh văn thắng trang nghiêm ta bà ha 4/Án bạt xà ra thất rị duệ ta bà ha. Và giữa thập chú dưới đây, có thêm vào 2 bài chú. 1/ Án xỉ lâm kim tra, kim tra tăng kim tra v.v...2/ nam mô Thích Ca Lăng đế v.v... đều có chữ Hoa, chữ Phạn đi đôi xen lộn với nhau, đều là phi kim khẩu của Phật thuyết hay bồ tát thuyết ra, nên chẳng đem vào đây, vì e là Ma thuyết !)


Thuở đức Quan Thế Âm thuyết thần chú Đại Bi này vừa rồi, thì tự nhiên trên trời (thiên không) mưa hoa quý xuống, giữa vũ trụ có sáu món vang động, bởi phép lực của thần chú chuyển động, tỷ như: sức mạnh của Hỏa sơn phun lửa, dại bàn bị hãm, trái đất bị thu rút, đều cũng gây nên những tiếng nổ như sức mạnh của dương điện âm điện gây ra lôi chấn.

Chư Phật đều hoan hỷ, chúng trời Ma Vương đồng kinh sợ. Cả hội chúng đều được chứng quả thánh : Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán; Hoặc tiến lên các bực bồ tát : Nhứt Địa, Nhị Địa....Thập Địa cho đến tất cả chúng sanh đều phát bồ đề tâm.

Trong bổn “Đại Bi Sám hiện tướng” hay xuất tượng cả 84 câu của chú Đại Bi, với mỗi mỗi câu, tổ xưa đều họa tượng trưng ra mỗi mỗi thần biến: hoặc hình Phật, hình Bồ tát, hình các thánh nhị thừa; hoặc hình của các Trời : Phạm võng Đế Thích hoặc hình của các thần tướng Kim Cang v.v..... đều tỏ ra mỗi bộ dạng hoặc từ bi, hoặc sân si, hoặc thánh dung hoặc phàm tướng, mỗi mỗi uy dung chẳng đồng nhau. Tất cả đều từ nơi thánh trí; lòng đại bi của đức Quán Thế Âm hóa hiện ra bằng cách đại tự tại, để làm ích lợi cho chúng sanh; mà chúng ai cũng ắt được chứng nghiệm chắc thật, nếu chí tam trì tụng !



THẬP CHÚ


1. NHƯ Ý BỬU LUÂN VƯƠNG ĐÀ LA NI

(Trích ở hàm chữ Năng của Đại Tạng Kinh Trung quốc)


Đối với nguyên bổn “Như ý tâm Đà La Ni Kinh” do đức Quán Thế Âm Bồ Tát muốn cho chúng sanh tùy ý cầu chi được nấy, nên Ngài bạch với Phật để cầu chứng, được Phật hứa nhận. Bấy giờ, đối trước Phật, đức bồ tát tự trần rằng “người tụng Minh Chú cũng như Đà La Ni đây, thì thần lực của chú, hóa ra những món quý báu tuôn xuống như mưa, vì nó tùy theo ý người nguyện muốn thế. Tỷ như cây Như ý nảy sanh ra các ngọc báu như yù, để tùy theo sở cầu của chúng sanh ứng với lòng tưởng niệm chi tất được kết quả nấy”.


Cây như ý: là để nêu rõ trí bổn giác; Ngọc báu Như Ý: là để tỏ bày trí thỉ giác: “Đà La Ni” là pháp cảnh sở tri cũng như bị tụng. Luân: vành tròn bánh xe, có hai nghĩa : 1/ quây lăn 2/ cán nghiền. Nghĩa là người tụng chú nầy, nhờ pháp bí mật nó quây lăn trong tự tâm, trừ diệt những điều mê hoặc về ngã kiến, để chứng đặng cái lẽ cảnh và trí vẫn nhứt tâm, tùy theo như ý muốn cầu chi được nấy, để thuyết pháp lợi sanh, dẫn dạy đến vô cùng.


Lại còn lẽ nữa: Trí là thể, nó vẫn trống không; cảnh là thể, cũng vẫn vắng lặng, tức là lẽ “chơn đế” cũng như tâm pháp của xuất thế gian; mỗi chữ đều từ nơi tâmlưu lộ ra, tỳ như ngọc Như ý nó hóa hiện rải tuôn tất cả quý báu, tức là lẽ “tục đế” cũng như tâm pháp của thế gian; với hai lẽ là đạo lý của chơn đế (xuất gia), Tục đế (tại gia) đều mất cái phân biệt, mà vẫn cũng đều soi sáng nơi không cái chấp phân biệt. Với “Phân biệt”, đồng thời vừa lặng vừa soi cũng như chẳng chấp nơi có, chẳng chấp nơi không, trọn lẫn không ngăn ngại, tức là lẽ “trung đế” tâm pháp công bằng, thể tánh tự tại, ba đế tròn mầu. Người trì chú mà tiến đến bực đó, thì tánh báu như ý tức Phật tánh tự nhiên sáng suốt, phước đức trí huệ thần thông pháp bửu chi thảy đều hiển hiện.


Bấy giờ, đức bồ tát thuyết thần chú ấy rồi, giữa vũ trụ có sáu môn vang động, cung điện của các trời Ma Vương thảy đều phực lửa, chúng rất kinh sợ ! Những chúng sanh độc ác té ngã ! các loài bị phổ đồng được siêu lên cõi trời.


Giữa thiên không mưa tuôn xuống những hoa báu, và các vật quý xinh đẹp; các thiên thần tấu trổi nhạc, dưng đủ món cúng.


Đức Như Lai tán thán cho bồ tát, và giới thiệu với chúng hội rằng với các điều: hoặc cầu phước báo hiện tiền, hoặc phương khấn tai tinh ác ương, hoặc sám hối ngũ nghịch trọng tội, hoặc cầu đảo các bịnh nước lửa gió mưa, nạn vua, trộm cướp, oan hồn, ác mộng, giặc giả, thú dữ, và các tai nạn, chỉ chuyên nhứt tâm thụ trì thần chú trên đây, thì bao tai ương kia đều tiêu diệt hết; đến lúc mạng chung, người trì chú đây liền được thấy Phật A Di Đà, Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, đến tiếp dẫn về Tịnh độ.



2. TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ

(Trích ở trong kinh Tiêu tai kiết tường nơi hàm chữ “Chi” trong Kinh ra)


Kinh nầy chép rằng : Bấy giờ Phật ở tại cõi trời Tịnh Cư. Ngài bảo các Vì sao Tu, Sao Diệu.... 28 tinh tú, 12 cung thần và các vị thiên chúng lưu hành giữa hư không, Phật dẫn tích dạy rằng : Ta nay nhắc nói đức Phật Ta La Vương Như Lai đã thuyết rõ ra một thần chú Xí Thạnh Quảng Đại Uy Đức đà la ni là phương pháp để giải tai nạn phàm là tại nơi thủ đô, đến ngoài ranh cõi mà có 5 ngôi sao xâm lăng; Sao La Hầu, sao Nhuế, sao Bột, Sao Yêu, nó chiếu đến chỗ sở thuộc của người là các ngôi sao nơi sao cung bổn mạng; hoặc nó chiếu đến chỗ đế tọa, và các khu vực ngoài đồng nội, sẽ gây nên mọi điều chướng ngại, tai hại chi, cũng đều trừ diệt liền, nếu nhơn chúng mỗi địa phương ấy, đồng tuân y đúng pháp lập chương trình kỳ hạn để niệm một trăm tám biến thần chú nầy.


Đã từ nơi tâm với tai, lại cũng từ nơi tâm diệt tai, nên nói tiêu tai. Bởi chỗ tạo nghiệp từ đời trước, nên nay cảm chịu lấy nghĩa là các điều thống khổ nó tập trung nơi cái thân tâm đây, nên nó là tai. Nghiệp chướng đã thanh tịnh rồi, sự ấy được vui mừng nơi tâm, nên nói là cát tường.

Người mà tu trì pháp thần chú đây, tâm phải đủ ba phép Quán: lấy phép Không quán để tiêu tai: dùng phép Giả Quán để hội sự cát tường mà không hay. Giả gì cũng đều chỉ là một niệm vì tai thi tiêu, cát thì đến, đồng gọi là pháp giới tánh, đây tức là Trung Quán. Hễ tâm mê thì cát tức là tai, còn tâm Ngộ thì tai tức là cát. Nghĩa là tâm còn hôn mê thì, dầu là điều cát tường cũng thành ra tai hại ! Tâm đã giác ngộ rồi, vì dầu tai hại cũng hóa thành cát tường !

Với lẽ Tam quán, đem tâm so xét đã như thế, thì với Tứ giáo. Lục tức cũng có thể đem tâm so xét được cả, nếu để ý nghĩ rộng thì đặng rõ thấy.


3. CÔNG ĐỨC BỬU SƠN THẦN CHÚ


(Thần chú nầy chưa rõ chỗ dịch ra từ đâu ? Lại, tại nơi hàm chữ thuyết trong Đại Tạng, về cuốn “Mật chú viên nhân vãng sanh tập” có bài thần chú nầy tên là “Công đức vãng sanh tập” có bài thần chú nầy tên là “Công đức sơn Đà La Ni” chỉ tiếng dịch có khác, chớ thật là đồng một thần chú.)

Trong cuốn Viên nhân Vãng sanh tập có dẫn lời của Kinh Đại Tập nói như vầy: “nếu người tụng một biến thần chú nầy, công đức cũng bằng như lạy bốn vạn năm nghìn bốn trăm biến Đại Phật Danh kinh; lại cũng bằng tụng 60 vạn 5 nghìn 4 trăm biến Đại Tạng Kinh. Vì dẫu có tạo tội chứa đầy hơn mười cõi nước, phải đọa vào địa ngục lớn vô gián đi nữa, đến khi lâm chung cũng được quyết định vãng sanh về Cực lạc thế giới đặng đức Phật A Di Đà, rồi sanh lên bực thượng của thượng phẩm, nếu thành tâm tụng chú nầy.


Thần chú tên là “Công đức bửu sơn” xin giải thích thế nầy: người hay chuyên việc là công, công có thật nghiệm là Đức. Người mà chí tâm tụng chú đây, thì về công là đủ ba quán về Quả là rỡ ba Đức. Tỷ như Ma Ni bửu châu: thể nó tròn sạch, đó là đức của pháp thân; nó sáng suốt trong ngoài, đó là đức của bát nhã, dường núi sản sanh vật liệu đó là đức của giải thoát. Ngay nơi chú tức là tâm, vì đều là ba đức, Sơn: Núi thì nó hay kết tinh sanh ra các mỏ châu báu; còn tâm thì cũng hay bày ra nơi cảnh vật, núi pháp tánh nó cũng phát sanh đủ cả công đức, nên chi, người thụ trì thần chú nầy với tài vật quý báu của tự tánh tùy ý nguyện cầu thụ dụng được cả.


4. PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ THẦN CHÚ


(Trích ở Kinh Chuẩn Đề nơi hàm chữ Mạc trong đại tạng)

Khể thủ quy y tô tất đế

Đầu diện đảnh lễ thất cu chi

Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề

Duy nguyện từ bi thùy gia hộ

(Cúi đầu lạy pháp Tô Tất Đế (ngôi pháp) :

chân thành đảnh lễ bảy ức Phật (ngôi Phật):

con nay ca ngợi đức Đại Chuẩn Đề (ngôi tăng)
xin duỗi lòng từ bi gia hộ).

Bốn câu chữ trên là của đức Long Thụ Bồ tát làm bài kệ để đọc mở đầu tụng thần chú nầy: Câu đầu là quy y ngôi (pháp bảo); câu thứ hai là kính lễ ngôi “Phật bảo”; câu thứ ba là làm lễ ngôi “Tăng bảo”; câu thứ tư là cầu nguyện cả Phật pháp tăng Tam Bảo đều chứng minh gia hộ cho.

Phạm ngữ Su Si Dhi dịch ra chữ Nho mà tiếng ta đọc là: Tô tất địa, tô tất đế (đọc đủ là Tốt tất địa pháp: một trong ba pháp lớn của ba bộ chơn ngôn tông). Tô tất đế, dịch: thiện viên thành, Diệu thành tựu, chữ thiện nghĩa như chữ Diệu Viên thành nghĩa như thành tựu. Nghĩa là phép tu nầy rất “nhiệm mầu” vì “hay khéo trọn” mãn được tất cả lòng nguyện, và cũng có thể “khéo nên” mọi sự lý nghĩa thế gian  xuất thế gian.

Chân thành đảnh lễ: là người năng lễ, bảy ức Phật là Phật sở lễ. Nghĩa là bảy ức Phật bị người lạy.

Tiếng Phạm Koti (Cu tri) ta đọc là Cu Chi, dịch: Trăm ức. Nghĩa là đức Chuẩn đề Phật Mẫu với Bảy trăm ức Phật đoanh vây.

Tiếng Phạm Can di (Chuẩn đề) hoặc đọc: Tôn Na, Tôn Di... Dịch nghĩa là Ra làm, là nói: lòng nguyện rộng lớn đúng nơi lý, dùng đại trí để dứt vọng hoăc, vì đủ các nhơn hạnh để ra làm việc lợi tha cho chúng sanh. Lại còn dịch là thành thực, nghĩa là : từ nơi “pháp không” tường quán ra “Pháp giả” vì để thành tự cái cảnh trí tịch diệt.

Những chữ Quy y... Duy nguyện... nghĩa nó thuộc về ý nghiệp; đầu diện đảnh... tức là thân nghiệp: xưng tán... là khẩu nghiệp. Nghĩa là người trì tụng thần chú này, đem toàn lực cả ba nghiệp thân, khẩu, ý đồng thời tương ứng nhau, cốt được nhứt tâm thanh tịnh để cho trí và nguyện của người được tương ứng nhau với trí nguyện của thánh, thì tâm Từ bi của đức Chuẩn đề trọn thâu gồm thân tâm của người, nên nói là thùy gia hộ: duỗi lòng từ bi đoái xuống để thêm trí nguyện giúp cho.

Mẫu: mẹ, Pháp là thầy học của chư Phật, thật trí là mẹ và Quyền tài là cha của Chư Phật. Vậy có thể thấy rằng: nguyên bảy số Cu Chi Phật đều do nơi pháp “Chuẩn đề tam muội” để chứng quả bồ đề, mà tất cả chúng sanh cũng nên thụ trì sẽ chứng quả Phật. Vì pháp kết thành ra quả Phật nên gọi là Phật mẫu.

Kinh Chuẩn đề chép: Đức Như Lai trụ tại vườn cây của hai ông Kỳ Đà, Tu Đạt, được tứ chúng và Bát bộ vi nhiểu, đức Thế Tôn vì thương tưởng đến chúng sanh bị nghiệp dày phước mỏng trong đời mạt pháp, nên Phật vào định chuẩn đề tam muội, rồi thuyết pháp, thuật lại phép thần chú nầy là chỗ của bảy trăm ức Phật đã nói:


Phật dạy rằng: người tri tụng thần chú nầy đủ chín chục muôn biến, có thể diệt được các tội thập ác, từ trọng và ngũ nghịch. Nhẫn đến với nhà thế tục nào bất luận là tịnh hay uế, chỉ cần chí tâm tụng thần chú nầy, liền được tiêu trừ tai nạn bịnh hoạn, và tăng nhiều phước thọ. Tụng đủ 49 ngày, liền được đức bồ tát sai hai vị Thánh giả để thường phò hộ người ấy trong những lúc đi đứng nằm ngồi.

Những người; hoặc cầu cho đặng trí huệ, hoặc cầu tiêu chướng nạn, hoặc cầu cho được phép thần thông, hoặc cầu quả vô thượng bồ đề....chỉ y theo pháp thiết đàn tràng, tụng đủ một trăm muôn biến, thì những người ấy liền đặng ở nơi tịnh độ của chư Phật, khắp hầu hạ chư Phật, khắp nghe cả pháp mầu trọn chứng quả bồ đề.


5. THÁNH VÔ LƯỢNG THỌ 

QUYẾT ĐỊNH QUANG MINH VƯƠNG ĐÀ LA NI



(Trích ở bổn Đại thừa Thánh Vô Lượng Thọ quyết định Quang Minh Vương Như Lai Đà La Ni Kinh)

Nhơn vì thương xót hết thảy chúng sanh tuổi sống ngăn ngủi trong đời vị lai, muốn cho chúng được tăng trưởng tuổi thọ mạng và lợi ích lớn, nên đức Thế Tôn ngài bảo với ông Đại Trí Huệ Diệu Cát Tường bồ tát để dạy phép rằng: giữa châu Diêm phù đề (thế giới nầy), hiện nay (thời giảm kết 9) sanh mạng của loài người, chỉ sống còn có trăm tuổi; với giữa con số đó, phần nhiều người gây làm ác nghiệp, nên lại bị tổn đức giảm kỷ mà phải thác yếu chết non, thành thử kẻ sông trăm tuổi chỉ còn phần ít ! Tuy thế, nếu người có phước duyên là gặp được thần chú nầy đem lòng thành kính hoặc biên chép, hoặc cúng dường, hoặc đọc tụng thụ trì thì được thọ mạng tăng lên sống ngoài trăm tuổi và qua đời sau mau chứng quả Phật.

Lời trên rút ở bổn kinh, và bài thần chú dưới đây:

Câu và chữ của thần chú trên đây phần nhiều nó chẳng phù hợp với thần chú trong tạng kinh, với đièu ấy có lẽ bởi vì hoặc là thời gian, hoặc là Dịch Sư lớp trước sau, mà có khác với nhau chăng ?


6. DƯỢC SƯ QUÁN ĐẢNH CHƠN NGÔN


(Trích ở bổn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai bổn nguyện công đức kinh tại hàm chữ Duy)

Kinh Dược Sư chép rằng: đức Thích Ca Như lai bảo với Mạn Thù Thất Lợi để nhắc tích rằng “Bấy giờ đức Thế Tôn kia vào định tam ma địa tên là “Dứt trừ tội khổ cho tất cả chúng sanh”. Phật đã nhập thiền định ấy rồi, tại nơi đảnh nhục kế phóng ra hào quang sáng lớn, trong hào quang ấy diễn nói ra bài Đại Đà Li nầy:


Trong hào quang thuyết thần chú ấy rồi, thì khắp mặt trái đất đều vang động. Đức Phật lại phóng hào quang nữa, khiến cho tất cả chúng sanh đều dứt hết các khổ.

Nếu ai có bịnh chi, chỉ chuyên nhứt tâm đọc thần chú nầy 108 biến để chú nguyện vào ly nước sạch rồi uống, thì các bịnh đều dứt liền. Còn người nào chuyên tâm trì tụng trọn đời thì được không đau ốm, sống lâu, đến lúc mạng chung, được vãng sanh về thế giới Tịnh lưu ly bên Đông phương.

Quán đảnh: Có hai nghĩa 1/ vì thần hcú này do từ trên đảnh đầu của Phật phóng hào quang, trong hào quang nói ra. 2/ nếu người có thân khẩu ý thanh tịnh tương đương nhau, chuyên tâm trì tụng thần chú nầy liền được hào quang của Phật chiếu đến như rót nước ngay vào đảnh môn của người nên gọi là quán đảnh.


7. QUAN ÂM LINH CẢM CHƠN NGÔN
(chưa rõ rút ra ở kinh điển nào)


Đức Quan Thế Âm có lòng địa bi rất thiết tha, đức độ sanh lan khăp; nếu người thành tâm tụng chú trên, liền được lòng đại bi của bồ tát theo niệm đến cảm cho, chớ nghi mà hỏng !



8. THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHƠN NGÔN.

(Trích ở bổn Đại phương đẳng Đà La Ni Kinh hàm chữ Tín trong Tạng)


Vì thương tưởng các Bí Su sẽ hủy phạm bốn giới trọng ở đời mạt pháp, và các bí Xu Ni sẽ phạm tám giới trọng, nên đức Văn Thù Sư Lợi bồ tát cầu xin Phật khai thị điều ngài hỏi rằng: với chỗ phạm trọng tội, phải sám hối bằng cách nào?

Bấy giờ đức Như Lai liền nói lại: bài chú dưới đây là Chơn ngôn của bảy đức Phật đã nói từ những đời quá khứ; thần chúù nầy nó hay diệt được các tội tứ trọng, ngũ nghịch và sẽ được vô lượng phước, nếu thành tâm thường tụng


Với những tội tứ trọng ngũ nghịch, nếu phi sám hối bằng pháp vô sanh, thì không thể dứt tội được !

Thần chú nầy chính là do cả bảy đức Phật đều đã thuyết ra đúng chơn tánh; người tu tụng lấy mỗi niệm cũng đúng với chơn tánh, thì, tất chứng được lý vô sanh; như thế, sự diệt tội tỷ như nước sôi tan giá tuyết.


9. VÃNG SANH TỊNH ĐỘ THẦN CHÚ


(Trích ở bổn Bạt Nhứt thế nghiệp chướng căn bổn đắc sanh tịnh độ Bà La Ni kinh, nơi hàm chữ Chơn trong tạng)


Cũng tên là “Bạt nhứt thế nghiệp chướng căn bản đắc sanh tịnh độ Đà La Ni”. Truyện chép rằng: Đời Lưu Tống, năm rốt niên hiệu Ngươn gia Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cần na Bạt Đà La từ nước Thiên Trúc qua nước Trung Hoa dịch ra.

Nhắc lại chỗ đã nghe, thì sách Minh tăng Tông Bổn tịnh độ hành pháp nói: Với thần chú nầy phải đọc 21 biến, mới họp thức theo ý Kinh. Truyện bất tư nghị thần lực chép rằng: Với cái phép trì chú, người tu thân và miệng phải thường và súc cho sạch, dâng hương, đốt trước tượng Phật, quỳ gối, chấp tay ngày đem 6 thời, mỗi thời tụng 21 biến, liền diệt được các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác và hủy báng chánh pháp. Nếu người thường tụng chú đây, được đức A Di Đà thường ở trên đỉnh đầu, để ủng hộ cho, chẳng cho kẻ thù tiện bề phá khuấy, hiện đời vẫn đặng yên ổn, đến hơi thở cuối cùng, được tùy ý vãng sanh. Hoặc tụng đến đủ số 20 vạn biến, liền cảm đặng tâm bồ đề nảy mộng. Hoặc tụng đến 3 chục muôn biến, liền trước mặt tự thấy Phật.

Với câu lối của thần chú nầy, các bổn đều có hơi khác nhau ; nay đây vì y theo bổn xưa, nên chỉ có 14 câu.


10. THIỆN NỮ THIÊN CHÚ


(Có chỗ viết lầm, là thiện thiên nữ Trích ở bổn Kim quang minh kinh, nơi hàm chữ hóa trong Tạng)

Kinh Kim Quang Minh, ghi lời của bà Công Đức Thiên cũng tên Thiên, nói và tự giới thiệu với hội chúng rằng:

Phía bắc giữa núi Tu Di, đức Trời Tỳ Sa Môn Thiên vương có một châu thành tên là A Ni Mạn Đà: giữa thành ấy có một sở vườn tên là Công đức Hoa Quang; trong vườn ấy lại còn có một khoảnh vườn nữa rất tốt tên là Kinh Tràng, vì kiến trúc bằng bảy thứ ngọc báu rất tốt, đó là chỗ của tôi thường cư xử.

Kinh này nói rõ thêm rằng: Vì muốn thành tựu cho kẻ tu trì Kinh Kim Quang Minh được đủ vật dụng để cần giúp sống, nên bà Trời công đức nói chú nầy:

Kinh Kim Quang Minh nói: Đối với thần chú đây, hoặc những kẻ tụng, người nghe, với ai dâng hương cúng hoa, phàm muốn cần dùng điều chi, như vàng bạc, châu, báu. Trâu, dê, ngũ cốc tất cả vật dụng, thì đều được đủ cả.



BÁT NHàMA LA MẬT ĐA TÂM KINH


Tâm kinh : Bổn kinh nầy nói pháp sở hữu của Tâm : A Lại Da Thức cũng như Như Lai Tạng Tánh. Tâm kinh làm nguồn gốc cả muôn pháp (chữ pháp là cả sự vật vô hình hữu hình) ; tâm kinh đây là điểm tinh giữa một đại bộ bát nhã kinh, nghĩa nó rất cao tột sâu xa, ít người tiến đến tận bờ kìa, mà đức Bồ tát ngài xét soi (quán chiếu) đến tận nơi thâm u của tâm kinh một cách rất tự tại, ngài có trí tuệ rất rộng lớn, nên với cảnh giới ấy bồ tát đã tự chứng rồi, lại sẵn sàng đem ra để chứng cho người, thành thử ngài nói Kinh đây.

Song muốn giải thích kinh nầy, trước phải giải đề mục đã. Với phép giải đề mục, đây tuân theo Tổ Thiên Thai bằng cách thành lập ra 5 lớp nghĩa mầu : 1/ Thích danh 2/ Hiển thể 3/ Minh Tông 4/Biện dụng và 5/ Phân giáo.

THÍCH DANH

Thích Danh là giải rõ cái Danh đề của Kinh; kinh nầy lấy riêng về pháp để đặt tên. Bát nhã : dịch là Trí huệ, có ba nghĩa :

1/ Thật tướng Bát nhã : Bát nhã tức là : Trí huệ, hay Phật tánh và chơn tâm chẳng hạn. Cái tướng chơn thật của trí huệ là “tướng không” chứ chẳng phải “tướng có” nên gọilà “thực tướng” nghĩa là nó không hẳn những cái tướng : Sanh tử của sáu loại phàm, Niết bàn của bốn quả Thánh, và phi các hình tướng : Tròn, dẹp, lớn, nhỏ, thấp, cao, trắng, vàng, nam, nữ, ta, người, nay, xưa v.v...cho đến phi những cái tướng dại khôn, chúng sanh và Phật. Vì nó không phân biệt, không ngộ mê, bởi đã không cái “tướng có” lại phi cái “tướng không” và không luôn “cái không” nữa, thế gọi là thể tướng của “Thật tướng bát nhã”.

2/ Quán chiếu bát nhã : Cái tướng xét soi của trí huệ. Lấy ánh tâm Trí huệ, để soi xét diệu lý của thật tướng, cái trí sáng, cái lý rõ, thì phá tan được những điều mê hoặc, để rõ bày tam Đức diệu tâm ra : 1/ Pháp thân đức 2/ Bát nhã đức 3/ giải thoát đức.

3/ Văn tự bát nhã : cũng gọi là phương tiện bát nhã; bởi lý nó đã là cái vô hình, lại tiệt đường nói nghĩ, ắt phải nương văn tự để rõ nghĩa, do nơi nghĩa để hiểu lý, dần dần sẽ đặng với nghĩa và rõ đều quên, văn tự tánh nó vẫn không, thế thật tướng. Tỷ như đã được cá và thỏ rồi, thì nơm, rập đều bỏ. Số là lớp sơ học mà phi phương tiện, thì khó tiến vào bát nhã môn; văn tự nghĩa thú, là cái cảnh phương tiện, cái hiểu biết là trí phương tiện. Nếu buông nó ra, thì đâu có thể rõ đặng thật tướng ư ?

hỏi : Phương tiện bát nhã nó có khác gì với Quán chiếu bát nhã không ?

Đáp : Cũng có khác, cũng không khác. Nghĩa là : Với “Phương tiện bát nhã” là nơi chữ và nghĩa mà hiểu, đó là do cái trí phân biệt để phân biẹt về sự cảnh giới, tức là quyền trí đấy. Với “Quán chiếu bát nhã” là y nơi thật tướng mà xem xét, đó là do nơi cái trí không phân biệt để chiếu ngay vào lý cảnh giới, tức là thật trì đấy. Nghĩa có khác với nhau là thế.

Mặc dầu Quyền Trí đối về sự, nhưng riêng không còn Quyền nào ở ngoài thật; tuy thật trí chiếu về lý, cũng chẳng còn Thật nào ở ngoài Quyền. Tức là Thật tức là Quyền, mà thể nó chẳng phải riêng làm hai, nghĩa cũng đồng nhau.

Như trong Văn kinh : Chữ “Chiếu kiến” đó, tức là nghĩa của “Quán chiếu bát nhã” “Ngũ uẩn đều không” “Không tướng của các pháp” đó là là nghĩa “Thật tướng bát nhã” “độ tất cả khổ ách” là “phương tiện bát nhã”.

Lại thật tướng bát nhã tức là Pháp thân đức; Quán chiếu bát nhã tức là Bát nhã đức; Văn tự bát nhã, phương tiện bát nhã tức là giải thoát đức, ba và một chẳng phải là riêng bát nhã tức là giải thoát đức, ba và một chẳng phải là riêng làm hai, mà chính là nhứt tâm sẵn sàng vẫn đủ của ta với người đấy.

Phạm ngữ Paramità, ta đọc Ba la Mật, dịch chữ : Bỉ ngạn đáo, nghĩa: Đến bờ kia. Sanh tử là bờ bên đây, Niết bàn là bờ bên kia, phiền não là chính giữa dòng sông mê bể khổ, trí huệ là thuyền bè.

Trong văn Kinh nói : Hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không: Thân “ngũ uẩn” là sanh tử; trí “chiếu kiến” là thuyền bè; “giai không” là đáo bỉ ngạn. Nghĩa là “Hành đã thâm” thì liền chứng đến cảnh giới tịch diệt Niết bàn. Phải biết rằng : với cái thân năm uẩn đây đã không, hể một cái này không, thì tất cả chi chi nữa cũng đều không, với cái không của tam đế được viên dung, là trọn nhờ nơi công, hành quán chiếu, mới tiến vào cảnh “chơn không” của Ba La Mật môn.

Tân (tâm kinh) làm chủ suốt bốn Thánh sáu phàm và gồm cả mười thiện mười ác ; nói bằng cách ước lược thì có những : Tâm của thảo mộc, tâm của duyên lự, tâm chân như và cái tâm của tích tụ tinh yếu.

Tâm thảo mộc : cỏ cây nó chẳng thể có cái bản năng Duyên lự (Leo lo) cũng như liên tưởng, vì chữ Duyên : Liên lạc ; chữ Lự : Tư tưởng. Mà nó vì có nghĩa sanh trưởng, nên nói tợ hồ có tâm, dù không giác tri.

Tâm duyên lự : Cũng kêu tâm lo biết, chính là cái tâm bằng “mỗi một niệm” hiện bây giờ đây của ta và người, nó hàm đủ những khả năng bằng Duyên lự là liên tưởng cả đến chín loại ở chín cõi. Nghĩa là : Cái tâm niệm hiền tiền đây, nếu có duyên về thập ác bằng thượng phẩm để làm tư lự, thế là cái tâm địa ngục : nếu nó duyên về thập ác bằng trung phẩm để làm tư lự, thế là cái tâm súc sanh; nếu nó duyên về thập ác bằng hạ phẩm để làm tư lự thế là cái tâm ngạ quỷ. Chung gọi là “Tam ác đạo”

Tâm niệm lo nghĩ về mười lành bằng lực hạ, là tâm duyên lự của thân A Tu La; lo nghĩ về 10 lành bằng bực thượng là tâm duyên lự của các Trời, chung gọi là “tam thiện đạo”. Cả “thiện và ác trên, đèu cộng chung là “lục đạo luân hồi”. Tức là sáu cảnh giới của phàm phu.

Tâm niệm nó duyên lệch cảnh không vắng lặng, để tư lự hoạt động, đó là tâm của các thánh Thinh văn; nó duyên theo cái tánh không pháp nhơn duyên, để làm tư lự hoạt động, đó là tâm của các Thánh Duyên giác; nó duyên pháp Lục độ đều tu để làm tư lự hoạt động của các thánh Bồ tát; nó duyên theo tánh pháp giới vô ngại, nên được bình đẳng giữa người với ta, vì đồng một bản thể thanh tịnh diệu minh, để làm tư lự, đó là tâm chơn như của Phật.

Duy cái tâm chơn như của Phật, nói là trí vô phân biệt, vì giác ngộ đã hoàn toàn cứu cánh. Tất cả đều gọi là cảnh giới của tứ thánh nhơn ở ngoài tam giới lục đạo.

Kinh Hoa Nghiêm bài kệâ nói : Ưng quán pháp giới tánh, nhất thế duy tâm tạo : Nên xét tánh pháp giới, tất cả chỉ tâm (tâm duyên lự) tạo. Lại nói “tâm như công họa sư, tạo chủng chủng ngũ ấm. Tâm như thợ vẽ khéo, tạo mỗi mỗi ấm thân “Kinh Lăng Nghiêm nói “Vạn pháp sở sanh, duy tâm sở hiện : Cảnh sở sanh của muôn pháp (sự vật) là cảnh sở hiện của duy tâm (Như Lai Tạng).

Song pháp tánh (tâm chơn như) nó vẫn hoàn toàn sáng suốt vốn chẳng óc những hiện tượng bằng thế giới chúng sanh; bởi vì với trên thẻ viênmãn quan minh đó, lững đi không tỉnh giác mà mỗi động lên một miện (tâm duyên lự) : hoặc vọng hoặc chơn hay là mê với giác, nhiễm với tịnh cũng như ác niệm thiện niệm chẳng hạn, thành thử giữa “pháp giới tánh” mới có hiện thật ra những hiện tượng phân biệt bằng tứ thánh, lục phàm nơi mười phương: chúng sanh chẳng chịu nhận ngay nơi niệm để giác chiếu, nên mỗi niệm đều rượt theo cảnh lục trần để sanh vọng động luôn luôn, nhơn đó tâm nó bị tạp loạn mãi mãi, không giờ nào thôi ! đó là cái ánh tư tưởng cũng như quan điểm điển tử, để chiếu bóng ra những hiện thực giữa lục phàm.

Trái lại, nên biết : với niệm trước mặc dầu nó đã sanh khởi bằng mê vọng, mà chỉ cốt lấy niệm sau quày xét lại bằng gác chơn : Niệm nó chẳng có cái thật thể của nó, thể đã phi có, thì niệm do đâu sanh ? Tỷ như đã không hột, không giống thì làm gì sanh ra cỏ, ra cây ? Cứ mỗi một niệm nào, thường giác ngộ mỗi niệm nấy, mỗi niệm vẫn theo riết với giác tánh theo mãi cho đến cùng nguyên cực để, thì tự nhiên tiến thủ được cái tn tức của tâm chơn như, mà trong Kinh thường bảo là “minh tâm kiến tánh” đến đó, từ đây chấn hưng lại cái giác phong (tâm ấn) của Phật tổ. Thể của Tâm chơn như là: vơi vơi lộng lộng, mà chẳng lộ ra một mảy hình sắc gì, nên không mắc không buộc chi tất cả, thì với mỗi chỗ nào, đâu chẳng là chỗ tự tại, nơi mô chăng chẳng là “tướng không” của các pháp, cũng như Phật tánh cả mọi loài. Như thế thì, đụng chạm đến chỗ nào cũng đều là “Tâm kinh” rõ rệt cả.

Lại làm bài ca rằng :”Thử gia phong, thiên địa không, sanh tử khứ lai hữu hà tung, diêu không nguyệt lạc ba tâm lý, Phật dữ chúng sanh nhứt tánh trang : đây, chân tâm; Trời, đất.....không sống chết tới lui không hình tung, nguyệt trên không in rơi lòng sóng, Phật với chúng sanh trong tánh chung”.

Tâm tính tụ tinh yếu : lòng chứa nhóm những tinh nghĩa cốt yếu. Nghĩa là : “Tâm kinh” đây chính thực tính yếu giữa sáu trăm cuốn của bộ Đại Bát Nhã kinh. Lấy “tâm” làm đề mục đó, là cốt muốn cho chúng sanh ngay nơi vọng tâm đổi ra cái chơn tâm Bát nhã, nếu nương theo trí bát nhã rồi, thì chính nơi vọng tâm của chín giới chúng sanh, nó tức là tâm chơn như thanh tịnh của Phật giới, nên chính chỗ gọi rằng : một cuốn tâm kinh đây, là nguyên liệu để ta thành Phật có dư, thật thế.

Tu đa la, dịch chữ : Khế kinh. Nghĩa : với trên thì khế họp tâm của chư Phật, với dưới khế họp cơ chúng sanh. Lại chữ Kinh, nghĩa là Pháp, là Thường : chúng sanh ở mười cõi đồng tuân, nên nói là Pháp; thời gian suốt ba đời không đổi, nên gọi là Thường. Với danh đề của tâm kinh, sơ lược giải thích rồi.

HIỂN THỂ

Hiển thể là rõ bày cái bản thể của Kinh này : Tâm kinh nầy lấy thật tướng của bát nhã làm thể, thì nghĩa ấy đã giải thích như trước, tức là trong kinh về những nghĩa của: các chữ Không các chữ Vô, và sáu chữ Bất trong mấy câu bất sanh bất diệt....đều là thể của Tâm Kinh nầy.

Thể ấy tức là Bát nhã, thể bát nhã bao giờ nó cũng vân sẵn sàng rỡ rỡ, chẳng cần mượn công tu tập quán tưởng nhiên hậu mới có đắc chứng, vì nó vốn không thiếu không dư, nên dùng thể bát nhã là trí huệ để nói ra nó. Kinh đây riêng biệt nói rõ nghĩa không đó là : Với vũ trụ vạn hữu cũng như những hiện thật giữa thế gian, ta hiểu được một cái nầy (thân ngũ ấm) không thì cả thảy cái chi chi khác nữa cũng đều không, không “pháp giải”, không : “pháp trung” mà chẳng là không, với giới chủ quan thì một tiêm, một hào nó cũng chẳng nhiễm, còn về giới khách quan thì lời nói ý nghĩ của người cũng chẳng thấu nỗi, nên nói là “thật tướng làm thể của nó”.

Kinh Pháp Hoa nơi : Chỉ có Phật Thích Ca và chư Phật mới có thể xét thấu được “thật tướng của các Pháp”. Nên kinh Bát nhã ba la mật đa tâm đây, chuyên về lẽ quét sạch cả dấu vết của ngữ ngôn và tư tưởng, mới gọi là thanh tịnh như như.

MINH TÔNG

Minh tông : là nói rõ cái tông chỉ của Kinh nầy : Kinh nầy lấy cái trí quán chiếu bát nhã làm tông chỉ, nghĩa đã giải ở trước, tức như kinh đây về nghĩa của các : chữ quán, chữ chiếu kiến, và nghĩa của chữ y của câu “y bát nhã”....đều là chính tông chỉ của Tâm kinh.

Tông : tông yếu, tông thú, nguyên bởi Chơn không (chơn như tâm) lẽ có là không hình tướng, không danh từ, chẳng phải dùng lời nói, để ý nghĩ mà có thể đúng đến đâu, chỉ cốt là cái “trí vô phân biệt” mới có thể soi xét thấu được.

Lại “thực tướng Bát nhã” là Lý Như Như “quán chiếu bát nhã” là Trí Như Như. Vì ngoài Trí không Như, ngoài Như không Trí, bởi ngay nơi Trí tức là Như, ngay nơi Như tức là Trí. Đồng thời năng sở đều tuyệt, đối đãi cũng vong, đến tuyệt vong cũng đều phi, đó, chính nơi chân tông để rõ chân thể của Tâm kinh hay là Chơn Như Tâm.

BIỆN DỤNG

Biện dụng là phân rành những tác dụng của tâm kinh nầy; kinh nầy lấy “phương tiện bát nhã làm diệu dụng. Phương tiện tức là Quyền Trí, vì Bồ tát dùng những cách phương tiện quyền xảo để tế độ chúng sanh. Chính trong kinh nầy về nghĩa của những câu: Độ nhứt thế khổ ách, và năng trừ nhứt thế khổ v.v.. đều là lực dụng của kinh nầy.

Lại, trước kia nói : Văn tự bát nhã, cũng tên là phương tiện bát nhã; ở đây nói lấy phương tiện bát nhã làm tác dụng thì đã thế, còn lấy “Văn tự bát nhã làm tác dụng là: bởi văn tự nó từ nơi “thật tướng” chơn như tâm lưu lộ ra, cũng tỷ như nói : chữ nghĩa do nơi tâm trí của người phát minh, chế biến, đặt để và giảng nói ra. Nay đây, là : y nơi văn nghĩa để dấy lên quán xét, là trở lại quán xét lấy “thật tướng – tâm” mà đắc lực dụng.

PHÁN GIÁO

Phán giáo là phân phán ra cho biết Tâm kinh đây nó thuộc về “giáo tướng” nào; đối với diệu chỉ : ngon nhứt của Đại thừa, thì, tâm kinh đây dùng thức ngon ấy tỷ như vị sữa chín để làm “giáo tướng” : lời của Phật giảng dạy cho lớp dưới gọi là giáo; với những lời giáo huấn như thế, phân ra làm năm thời, tám giáo gọi là tướng.

Từ khi mới thành đạo quả, cuối đến Niết bàn, Phật thuyết pháp kể có năm thời : Thứ nhứt là thời Hoa Nghiêm, diệu chỉ của htời này tỷ như sữa. Thứ nhì là thời A Hàm, pháp vị của thời nầy tỷ như hơi mùi băng lạc và vãng sữa. Thứ ba là thời phương đẳng, đạo vị của thời này tỷ như khí vị bằng sanh tộ là dầu sữa. Thứ tư là thời Bát nhã, giáo vị của thời nầy tỷ như mùi vị bằng thục tô là dầu sữa chín. Thứ năm là thời Pháp Hoa và Niết bàn, nghĩa vị của thời pháp nầy tỷ như thượng vị đề hồ là đem dầu sữa chín chưng thành ra mỡ sữa .

Bát nhã tâm kinh nầy, ở về thời thứ 4, là nó lẫn suốt cả các pháp, vì để đào thải là đãi sạch hết tánh tình chấp pháp của các Phật tử. Song, có hai nghĩa bát nhã là : cọng và bất cọng, nghĩa là một phần thì có nghĩa cọng đồng với Tiểu thừa, một phần lại chẳng chung cùng với tiểu thừa; chừ tâm kinh đây là nghĩa rất hay của Đại thừa, thế thì bất cọng bát nhã : phần bát nhã nầy chẳng chung nghĩa với tiểu thừa.

Lại, với trong bốn giáo, thời Bát nhã không nói dến Tạng giáo, chỉ kèm theo hai quyền lý là Thông giáo và biệt giáo, mà chính nói về thật lý của Viên giáo.

Ba thời thuyết pháp trước, để thích hợp với căn cơ của Tiểu thừa : đến đây lòng chúng ham mộ về Đại thừa nó càng tiến hơn, tâm đã dần dần thông thái, tỷ như sanh tô biến thành thục tộ. Với “ngũ trùng huyền nghĩa” đã tường thuật sơ lược rồi.

1,2,3,4,5. với kinh Niết bàn, Phật nói từ sữa đến để hồ là năm vị, để tỷ từ Hoa Nghiêm đến Niết bàn là năm thời. Tổ Thiên Thai Đại Sư nhơn đó chia định ra làm thứ lớp cho Kinh pháp của Như Lai đã nói trong một đời : một là để tỷ lớp lan năm thời giáo nảy nở; một là để tỷ thứ tự căn cơ thuần thục, là nói : so về giáo thì có sanh nhau, so về cơ thì đậm lợt:

1/ Nhủ vị : mùi sữa, mới từ nơi vú bò nặn ra. Ví Phật nơi ngưu, ban đầu Phật nói Hoa Nghiêm kinh, như sữa bò, bấy giờ căn cơ của nhị thừa chưa chín, lợt lạt quá, như là sữa sống. 2/Lạc vĩ : lấy từ nơi sữa sống ra, nghĩa là sữa lấy ra khỏi vú, để nguội, nó đóng váng, gợt lấy váng ấy, gọi Lạc. Để ví rừng : sau thời Hoa Nghiêm, Phật nói Kinh A Hàm, chúng nghe kinh A hàm, là làm cơ tiểu thừa. 3/ Sanh tô vị : Lại từ nơi lạc chế biến ra.nghĩa là lấy lạc nấu vừa nấu vừa khuấy một chập, để nguội, đóng lớp mỏng trên mặt như tàu hủ ky, vớt lấy lớp váng đó, gọi là vị sanh tô. Để tỷ rằng : sau thời A Hàm, Phật nói kinh Phương đẳng, căn cơ tiểu thừa đã thục, để tiến làm cơ về thông giáo của Đại thừa. 4/ Thục tô vị : lại là lấy sanh tô để chế luyện cho tinh thêm, để dụ sau thời phương đẳng, Phật nói Kinh Bát Nhã căn cơ của Thông giáo đã thục mà làm cái cơ biệt giáo của Đại thừa. 5/ đề hồ vị : lại lấy vị thục tô để chưng chế mà thành vị đề hồ : từ chất sữa đem nấu chưng chế đến bốn lần là thành đề hồ. Để ví dụ rằng :sau thời Bát Nhã Phật nói hai bộ Kinh Pháp Hoa và Niết bàn, bấy giờ căn cơ của Biệt giáo đã thục, tiến đến làm căn cơ Viên giáo của Đại thừa.

Kinh Niết bàn cuốn 14 nói : Tỷ như từ bò ra sữa, từ sữa chế thành ra lạc, từ lạc chế thành ra sanh tô, từ sanh tô chế thành ra thục tô, từ thục tô chế thành ra đề hồ, đề hồ là vị ngon tột bực, hễ ai uống đến, bịnh gì cũng lành, vì dẫu có vị thuốc chi hay, cũng không ngoài diệu dược đề hồ.

Phật cũng như thế : Từ Phật xuất sanah ra 12 bộ kinh, từ 12 bộ Kinh xuất sanh ra tu đa la xuất sanh ra phương đẳng kinh, từ phương đẳng xuất sanh ra bát nhã ba la mật, từ bát nhã ba la mật xuất sanh ra đại Niết bàn. Dường như đề hồ. Các Thánh Thinh Văn tỷ như sữa : Các Thánh Duyên Giác tỷ như lạc; người hành đạo bồ tát, tỷ như sanh tô thục tô; chư Phật Thế Tôn tỷ như đề hồ, đó là Nhân. Hoa nghiêm, A Hàm, Phương đẳng, bát nhã, Pháp hoa, Niết bàn, đó là pháp, nên dụ ngũ vị có nhơn và pháp.

Ngũ thời bát giáo : Đấy là Thiên thai thành lập : Từ thời Hoa Nghiêm đến thời Niết bàn là ngũ thời; từ giáo hóa pháp và tứ giáo hóa nghi là bát giáo.

Hóa pháp bốn giáo 1/ Tam tạng giáo : 3 tạng kinh luật, luận, bộ loại riêng rành, nói về pháp tứ đế bằng nghĩa nhơn duyên sanh diệt, phần chính là để dạy hành Nhị thừa tức các Thánh Thinh văn, Duyên giác, phần phụ cập là để dạy nói qua các Thánh mới tiến học bồ tát đạo 2/ Thông giáo : nói về nghĩa bốn chân đế bằng lẽ tức không vô sanh, khiến cho thông với ba thừa để đồng học cả, nhưng lấy bồ tát làm chánh căn cơ, Nhị thừa Thinh Văn Duyên giác làm bàng căn cơ 3/ Biệt giáo : Với nhị thừa chẳng đồng trình độ, nên phải riêng biệtđối với bồ tát để nói pháp đại thừa vô lượng 4/ Viên giáo : đối với các bồ tát bực tối thượng lợi căn, để nói pháp bằng sự lý viên dung nhau, kêu là Trung đạo thực tướng. Bốn giáo trên là : vì làm pháp môn để hóa độ chúng sanh được lợi ích, nên nói “Hóa pháp tứ giáo”.

Hóa nghi tứ giáo : Dùng Hóa pháp kia làm cái pháp nghi thức để khai thị cho chúng sanh, nên gọi là Hóa nghi tứ giáo : 1/ Đốn giáo : đối với căn cơ đốn đại, thì đốn thuyết những pháp lớn về biệt giáo, Viên giáo, như thời Kinh Hoa Nghiêm đấy. 2/ Tiệm giáo: đối với tiệm cơ, phải dần dần theo thứ lớp để nói ra bốn giáo của Hóa pháp, như giáo tướng nói ba thời ở Lộc viên, Phương đẳng, và Bát nhã đấy 3/ Bí mật giáo : đối với căn cơ của một hạng người, nói ra pháp bí mật; khiến cho người trong một hội tự tha đều biết lẫn nhau, đó là do nơi pháp lực bất tư nghì nói : thân, khẩu, ý của đức Như Lai. 4/ Bất định giáo : với trong một pháp hội, nói ra một pháp, khiến cho mỗi người tuy đồng nghe mà lãnh hội thì mỗi người lại hiểu mỗi khác, hoặc có đặng ít, hoặc không đặng ít. Số là : tứ giáo hóa pháp tỷ như vị thuốc, còn tứ giáo hóa nghi thì ví như một phương thuốc, họp thành bát giáo là thế. Sách chỉ quán nghĩa lệ nói : Đốn cả tứ giáo là Hóa nghi của Phật, Tạng cả tứ giáo là Hóa pháp của Phật.

ĐƯỜNG TAM TẠNG PHÁP SƯ HUYỀN TRANG DỊCH

Đời Đường, Thầy Tam Tạng Pháp sư hiệu Huyền Trang dịch tâm kinh này.

Đường : Họ Lý tên Uyên, tự là Thúc Đức, ông lý Uyên làm quan nhà Tùy (589 – 617), chịu vua cung Đế nhường ngôi mà có thiên hạ, đóng đô thành Trường an, lập quốc hiệu là Đường (618 – 905)

Tam Tạng : Tạng Kinh, tạng luật, tạng luận ; học thuộc lòng, hiểu suốt cả giáo pháp của ba tạng cũng như ba kho sách, làm sư phạm cả chúng nhơn, nên được gọi là Tam Tạng Pháp Sư.

Vốn tên làVi. Hiệu là Huyền Trân, cháu chắt của ông Thái Khưu trần trọng Cung đời nhà Hán. Đến đời con cháu đời đi ở xứ Hầu thị, huyện Lạc châu, tỉnh Hà Nam. Thuở nhỏ bị túng cùng ! sớm thông tam học Giới, Định, Tuệ. Năm lên 15 tuổi, cùng đi với anh là Trường Tiệp Pháp Sư đến nhập chúng nơi chùa Trang Nghiêm, tại thủ đô Tràng An, làm Môn hạ của Ngài Đạo Cơ, giữa tiệc luận pháp, được chúng khẩu hoan nghinh là bực anh hùng, nhơn lại có cái chí nguyện du học Tây vực để tìm thêm sách Phật.

Năm lên 29 tuổi, Sư bèn mạnh dạn một mình đến tận cửa khuyết, dâng chương biểu để tỏ bày chí nguyện trên, nhưng các quan ở đây không sẵn lòng vì thông tin hướng dẫn vào tâu. Sư liền tách dấu Kinh đô, đến dạo lan khắp các xứ của nước Thổ phồn như : Tây Tạng, Thanh hải, Cam túc, Tứ xuyên, Vân nam để học các thứ sách và các thứ tiếng.

Năm Trinh quán thứ 3 là năm Kỷ Sửu (629) tại đất Kinh sư xảy gặp tai biến. Vua ra sắc lịnh : Cho kẻ đạo gnười tục đều được tùy tiện với phương nào khỏi mất mùa thì đến đó tự sống, ngõ hầu bớt sự thiếu hụt cho kinh đô, nhơn đó dân chúng phải tản cư tứ hướng, thừa dịp Sư được sang Tây vực.

Đến nước Kế Tân (nay là Khắc thập mễ nhĩ) gặp khoảng đường rất nhiều hổ báo, hiểm trở, không thể qua đặng, Sư chẳng biết làm sao đi ! Sư đóng cửa ngồi nghỉ. Đến tốim mở cửa, Sư thấy một ông Sư già, đầu mặt lở lói, mình vóc tươm mủ máu, ngồi cao nghệu một mình, chẳng biết Sư già từ đâu đến. Trán sư liền lạy cầu khẩn. Lão bịnh Tăng liền truyền miệng cho bổn Tâm kinh, bảo tụng; Sư vân lời thường đọc, nên sự băng qua sông núi dễ dàng và tránh khỏi độc trùng, ác thú.

Khi đến Aán độ, Sư được quốc vương Giới Nhật hoan nghinh sùng bái, vì cả Luận sư của 18 nước không ai đối đáp hơn ngài nổi ! Sư dạo khắp 5 xứ Aán độ, thỉnh được các phạm bổn....đến năm Trinh quán 19 (645) là năm Aát Tỵ, ngài trở về Kinh sư. Vua Thái Tôn thỉnh Sư trụ Trì chùa Hoằng Phúc, và rước vào ở Ngọc Hoa, để phiên dịch kinh tạng...thành phần được 73 bộ, kể có 1.330 cuốn....

Với Tâm kinh đây kể có 5 nhà dịch 1/ Ngài La Thập dịch tên là “Ma ha Bát nhã ba la mật đại minh chú Kinh: 2/ Trán Sư dịch, tức là bổn “Bát nhã ba la mật đa tâm kinh” này; 3/ Bát nhã lợi ngôn dịch, tên Kinh đồng với bổn này; 4/ Tổng pháp Nguyệt dịch, tên là “Phổ biến tạng Bát nhã ba la mật đa kinh 5/ Ngài Thi Hộ dịch, tên là “Phật thuyết Thánh mẫu Bát nhã ba la mật đa tâm kinh”. Nhưng về chỗ truyền trao đọc tụng từ xưa đến nay đều sùng thượng bổn dịch của Ngài Huyền Trán.

Bổn Tâm kinh đây, trước đầu chẳng có năm sự về tựa chứng tín; ba Bổn của ba nhà dịch đều có cả phần : tự phần, chánh phần, lưu thông. Ba bổn kia nói : Đức Phật ở non Linh Thứu, với một ngàn hai trăm năm mươi người, và các vị Bồ tát, thiên long bát bộ đều hội họp.

Bấy giờ, Phật vào định “thậm thâm quang minh tuyên thuyết chánh pháp tam muội”. Bấy giờ, thính giả ngơ ngáo, vì không do đâu để nghe pháp ! Thành thử Tôn giả Xá Lợi Phất mới hỏi, đức Quan Tự Tại Bồ Tát nói Bát nhã tâm kinh này.

Bổn dịch đời Tống lại nói : Khi đức Quan Tự Tại Bồ Tát nói Kinh đây rồi, từ pháp tam muội xuất định. Phật tán thán rằng : Hay thay ! hay thay ! đúng như lời của Quan Tự Tại đã nói”. Nay kinh đây thể theo văn dón gọn, nên bớt mấy phần tự chứng, lưu thông kia.

Song, trong Đại Phẩm bát nhã có một đoạn văn, phần lớn cũng đồng với Kinh nay đây, đã có ngài Long Thụ thích nghĩa ai muốn cần rộng thì tìm lấy để xét.

Quán tự tại Bồ tát, hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thế khổ ách :

Thuở đức Quan Tự Tại Bồ Tát tu hành đã tiến sâu đến chỗ trí huệ bên kia bờ, ngài soi thấy cả năm uẩn đều không, nên độ được tất cả khổ ách.

Đấy là lời tự khởi của nhà kết tập kinh này, sơ lược kể bày nghĩa của ba bát nhã : Tự tại và không là nghĩa của “Thật tướng bát nhã” Quan và chiếu kiến là nghĩa của “Quán chiếu Bát nhã” Hành thâm...độ nhứt thế khổ ách là nghĩa của “Phương tiện bát nhã”.

Quan Tự Tại tức là Quan Thế Âm, nhơn vì có ông Xá Lợi Phất thưa hỏi, nên đức Bồ tát nói kinh này. Quan : Quán chiếu; Tự tại : lý thật tướng của chơn như tâm. Chơn như lẽ vô vi, nghĩa là không tạo tác, không hình tướng, không phân biệt, nên nó không ngã vào con số nào, và danh tự gì cả, vì nó lìa hẳn những hình tướng : chướng ngại, phiền não, và các tướng hý luận chấp “có” bác “Không” chấp “không” bác “có” giữa vật với tâm; hết thấy điều điên đảo là : không thường hcấp là thường, không lạc chấplà lạc, ngã tịnh cũng thế, cho đến lìa luôn cái tướng Niết bàn nữa. Không vướng mắc vào điều gì bằng một mảy lông, sợi tơ giữa sự vật, nên gọi là “tự tại”.

Lại, Quan là cái trí năng quan, Tự tại là cái cảnh sở quan, Trí thì khôn sáng chẳng mê muội, vì thể nó vắng lặng, mà dụng nó thường soi. Tỷ như nhựt cầu khắp rọi mà không chọn lựa, nên ba đời suốt tỏ, mười phương không sót. Cảnh thì tánh thật chân như, soi làm thường vắng, từ xưa chẳng đổi, vì thỉ chung vẫn như như, như nước lóng đứng trong sạch khắp giáp pháp giới.

Tức là Trí, tức là cảnh, vì tùy duyên sự tướng mà chẳng biến đổi tánh chơn như; tức tà cảnh, tức là trí, vì chẳng biến đổi tánh chơn như mà tùy duyên sự tướng.

Bồ tát xét thấy cái thân ngũ uẩn không thực có, với một cái đã không, thì tất ả cái gì khác cũng đều là không thực có, là cái không vi diệu tự tại, đó là chiếu về lý; dấy cái lòng đồng thể đại bi, tùy theo cơ duyên, để cứu độ khổ ách cho tất cả chúng sanh, khiến chúng đều cũng đắc tự tại, đólà chiếu về cơ. Bởi vì chúng sanh với Bồ tát chẳng phải là hai cái thể tự tại, nên gọi là đồng thể, kẻ tiên giác phải nhắc thức cho người hậu giác, khiến cho hậu giác trở nên đồng với tiên giác này thôi.

Lại nữa, chiếu về lý, tức là xét soi nơi cơ, soi xét nơi căn cơ tức là chiếu lý. Công và hành đã sâu, thì tự với tha đều đắc tự tại bồ đê,f thế gọi là bồ tát hạnh. Cái cảnh sở hành của bồ tát, là cần phải thực hành pháp lục độ, vì để tự độ và độ tha.

Bát nhã tức trí tuệ, mà có cái trí bổn giác, và trí thỉ giác (chúng sanh vốn đủ tánh chơn minh, chẳng mượn công tu mới đặng, đó là Bổn giác; hiện giờ một niệm soi xét trở lại mà dấy công tu hành đó, là thỉ giác). Chúng sanh dù sẵn đã trí bổn giác, mà nếu không có trí thỉ giác, thì cái trí bổn giác bị toàn mê, vì chưa minh tâm kiến tánh. Với trí thỉ giác, các thánh nhơn bực nhị thừa tuy đã có, nhưng trí bổn giác hãy còn mê, vì đoạn trừ chưa hết phiền não hoặc chướng. Các thánh Bồ tát thì hai trí giác đều đồng thời chói dọi nhau, chính giờ nào vẫn cũng sờ sờ, vì ngũ uẩn giai không, nên chẳng còn cách ấm hơn mê nữa. Các đức Như lai, thỉ giác đã họp nhứt với bổn giác hoàn toàn soi sáng mà vẫn vắng lặng, vắng mà trọn soi. Nay đây, đức Quan Tự tại công hành đã thâm, trí thỉ giác trí bổn giác đều rỡ ràng, đổi sanh tử làm Niết bàn, cách mạng phiền não làm bồ đề. Niết bàn là lý, bồ đề là Trí, trí lý bặt lẫn, thì chỗ nào lại phi bỉ ngạn ư ?

Chiếu kiến : Soi thấy, chiếu là ba trí, kiến là năm nhãn. Nghĩa là với pháp tu “Không quán”, thì, trí và hành đã thâm đoạn trừ hết kiến hoặc từ hoặc (sự nhận thấy và suy nghĩ đều lầm lạc) để rõ ra cái nhứt thế trí (Trí của Thinh văn, Duyên giác: biết được tổng tướng của nhứt thế pháp; tổng tướng tức là cái không tướng) mà “huệ nhãn” được sáng suốt, nên thấy đặng cái bỉ ngạn rằng chư pháp (sự sự vật vật cũng như vũ trụ vạn hữu) tức là lý chân đế. Với pháp tu “giả quán” tri và hành đã thâm, dứt hết những mê hoặc là trần sa phiền não, để tỏ rạng cái đạo chủng trí ra (trí của Bồ tát: biết được tất cả đạo pháp của mỗi mỗi soi khác) mà “pháp nhãn” được suốt, nên thấy đặng cái bỉ ngạn bằng chư pháp tức là lý tục đế. Với pháp tu “Trung quán” tri và hành đã thâm dứt sạch cái mê hoặc vô minh, để rỡ bày ra cái nhứt thế chủng trí (trí của Phật : tròn sáng, thông suốt tất cả chủng pháp của tổng tướng, biệt tướng để dạy chúng dứt hoặc chứng chơn, lại hay biết được những nhơn chủng của tất cả chúng sanh) mà “Phật nhãn” tròn sáng, thấy suốt cái bỉ ngạn bằng chư pháp tức là lẽ viên diệu tuyệt đãi của Trung đế. Tức nhiên nhục nhãn, thiên nhãn đều phải thanh tịnh sáng suốt luôn, chẳng cần đợi nói.

Ngũ uẩn : năm món chứa dựa. 1/ sắc uẩn, nghĩa là cái căn thân của mỗi người làm phần nội sắc, tức những tế bào, bốn nguyên tố là vật chất hữu hình trong thân thể, nên gọi là nội sắc; cả miền đại địa khí giới là phần ngoài sắc, là những hiện tượng thiên sai vạn biệt giữa vũ trụ. Còn bốn uẩn nữa là thụ, tưởng, hành, thức sẽ thấy giải ở dưới. Một cái trước là hình sắc, bốn cái sau thuộc về tâm lý là những cái pháp vô hình. Tân dịch là uẩn, cựu dịch là ấm : chứa dựa (uẩn) năm chúng, che phủ 9ấm) cái chơn không thật tướng (chơn tâm).

Song, đức bồ tát ngài hciếu thấy 5 uẩn đều hư huyễn chẳng thiệt có, tỷ như trăng dưới nước, hoa đốm giữa hư không. Cái thể năm uẩn vốn không, không tức là chơn như. Bởi không nên có thể phát khởi các diệu dụng để cứu độ được khổ ách cho tất cả chúng sanh trong thế gian và xuất thế gian. Chớ nếu mà chẳng không cũng như chẳng trống rỗng tức kín mít là bị cái có nó làm bít lấp rồi, thì đâu có thể phát khởi ra diệu dụng gì nẵa đặng để độ khổ ách ư ?

Trên đó kể bày những công dụng rộng lớn của đức bồ tát để làm lợi ích cho chúng nhơn tức là ích lợi cho mình, đã rồi. Xá lợi tử ! sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc.

Này Thu Tử ! cái có sắc tướng nó chẳng khác với cái không, cái không tướng cũng chẳng khác với cái sắc, mà sắc tức là không, không tức là sắc.

Từ đây xấp xuống đến câu “tam miệu tam bồ đề “ là để nói rộng nghĩa của ba pháp bát nhã. Từ câu “sắc bất dị không” xuống đến câu “vô trí diệc vô đắc” là riêng nói rõ về nghĩa “thật tướng bát nhã” từ câu “dĩ vô sở đắc cố” đến câu “tam miệu tam bồ đề “ là riêng nói rõ về nghĩa hai pháp “quán chiếu bát nhã phương tiện bát nhã”.

Trong nghĩa ban sơ, từ sắc bất dị không đến thụ tưởng hành thức đó, lànói rõ về “năm uẩn đều không”. Bởi vì trong khi ý tâm đối với sắc cảnh, chúng sanh ưa chấp trước lấy, để phân biệt là : thuận thì thương yêu, nghịch thì ghét bỏ...thành thử mới có những cảnh tượng khí giới, căn thân giữa chín cõi trưng bày ra bằng cách mê vọng; chớ có biết đâu rằng : Trong tánh chơn không vốn chẳng có cái tướng của tâm bằng thụ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng có cái tướng của sắc bằng địa, thủy, hỏa, phong ; nguyên độc nhứt là cái “thanh tịnh chơn như” (Phật tánh) thể nó vẫn sạch làu, sáng rỡ rỡ, nghĩa là cái tánh Phật nó vốn riêng toàn một thể sáng sạch, chứ chẳng có một ti một hào gì bằng tình trần, thế thì đâu có ngũ uẩn? Thật là chỗ gọi rằng: muôn dặm không mây muôn dậm trời. Nếu đã có một vọng niệm từ trước, thì cín cõi, năm uẩn kia bỗng nhiên vọng ảo sanh ra. Người xưa nói : Vừa mống một niệm vọng thì mây bạc muôn dặm, chính là nghĩa trên đây.

Sắc : Khí giới (thế giới) và căn thân (thân hình của mọi loài) giữa chín cõi, tức là năm căn : nhãn, nhỉ, tỹ, thiệt, thân; sáu trần :sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

Không : Chơn không diệu tánh, tức là cái thể của “pháp giới đại tổng tướng pháp môn”. Số là: Sắc pháp ấy nó chỉ là cái cảnh sở hiện của nhứt tâm, lìa tâm ra, nó chẳng có tự thể. Thế mà chúng sanh trong lục đạo lại lấy cũng như nhận làm thật sắc (vật chất hay duy vật và thật tế). Nhị thừa thánh nhơn duy đã lìa sắc pháp, cũng như không dính mắc vật chất, nhưng hãy còn sa lệch nơi cái không. Bồ tát đã giác ngộ : sắc và không đều chẳng khác gì với nhau. Duy chỉ có bổn Phật và chư Phật mới dung hòa lẫn hết pháp giới sắc và tâm nguyên đồng một thể không còn phân biệt. Chính thực là : tình với vô tình cọng thành Phật đạo rồi.

Kinh Lăng Nghiêm nói : “Sắc nó dung hòa lẫn nhau với không, vì rằng sắc là sắc của Tạng tánh sẵn đủ, thì sắc tức là không của chơn thể; không là không của Tạng tánh sẵn đủ, thì không tức là không của chơn thể. So về thể thì thể nó nguyên vẫn thanh tịnh sẵn sàng, so về dụng thì dụng nó khắp giáp cả trong căn thân lẫn ngoài khí giới. Thế nhưng chỉ một đại để thành pháp giới, chẳng phải là chẳng đủ, mà gồm cả 7 đại cũng để thành pháp giới, chẳng là có dư. Sỡ dĩ tánh Như lai tạng nó tùy theo những cái tâm tịnh hay nhiễm của mỗi chúng sanh mà thị hiện ra, để cho ưng họp với cái lượng của sở tri của chúng đó thôi.

Thế nên, hễ cố ý chấp đến, thì mỗi một mảy trần cũng ngăn cách nhau, còn hòa lẫn được thì mỗi một vật sắc vẫn viên thông cả.

Ngài U Khê nói : “Sắc tức là không, đây khắp pháp giới đâu chẳng là chơn không; không tức là sắc, đấy tột pháp giới đâu chẳng là diệu hữu” thật thế. Nếu chúng sanh chấp bậy ; cho ngũ uẩn là vật có thật, thì nên dùng nghĩa của câu sắc bất dị không để phá lòng chấp có; các thánh nhơn trong nhị thừa đã lìa được điều chấp có sắc, lại sa bên chấp không, nên dùng nghĩa câu không bất dị sắc để phá lòng chấp không. Với các thánh Bồ tát bực quyền thừa hoặc đắm mắc nơi hai bên là có và không, hoặc chỉ chấp cứng ở chính giữa là phi có phi không, nên ngài thuyết ra nghĩa của hai câu sắc tức là không, không tức là sắc để khai hóa cho Bồ tát ấy cải cách cái tâm chấp đó đi. Số là, chơn không (là Tâm, vì nó chẳng có hình tướng, nên gọi là “không”, không vọng niệm, nên gọi là “chơn” tức là Diệu hữu (với cái có lòng chẳng mê chấp làm thiệt có, nên cái có thành diệu), diệu hữu tức là chơn không. Chớ như, nếu còn phân biệt mà mê chấp là thiệt có, thì cái có ấy đâu được gọi là Diệu ! đã phi diệu rồi thì làm gì với “có tức không”, đồng thời với “không tức có” cho đặng ư ?

Lời thuật văn rằng : Với sắc mà tức là không, thì sắc ấy phi thiệt có, với không mà tức là sắc, thì không ấy phi thiệt không. Phi có phi không, chính nơi thể nó tuyệt hẳn, thế không lìa hai bên; mà rõ bày ngay cái lẽ “với đâu cũng vẫn đều được trung tâm điểm cả”. Cao cả thay ! Với đạo lý viên dung có thể mà nghĩ suy bàn tính gì được đây chăng ?

Thụ tưởng hành thức phục diệc như thị.

Với Thu, Tưởng, Hành và Thức này, nghĩa cũng lại như thế.

Cả 4 uẩn đây cũng so theo phương pháp phá chấp sắc uẩn trên để phá. Nghĩa là : Thụ chẳng khác với không, không chẳng khác với thụ, vị thụ tức là không, không tức là thụ. Còn 3 uẩn : Tưởng, Hành và thức cũng như thế.

Thuï : Trong những khi 5 căn đối với 5 trần, liền có 5 thức (5 giác quan cảm chịu) lãnh nạp lấy 5 cảnh trần, như : mắt nhận biết sắc trần, tai nhận biết thinh trần v.v...

Tưởng : Là ý thức thứ 6 nó cảm tình lấy những tướng mạo của 5 trần cảnh, tỷ như : cùng nói chuyện ăn me chua, mà trong miệng tự nhiên chảy nước miếng.

Hành : là thức thứ 7 hằng chấp lấy phần thấy, biết của thức thứ 8 để làm ngã ái của nó, rồi mỗi niệm cưng yêu luôn không phút nào rời tự ái.

Thức : Thức thứ 8 mặc ý nó rõ rành tánh cảnh của thức, mà nó chẳng kèm theo danh mục và ngôn cú cũng như danh ngôn chủng tử, tức là hiện tượng. Thức là Tâm vương, Thụ, Tưởng, Hành là Tâm sở, vì những khi đối cảnh thì Tâm vương và tâm sở ắt phải tương ứng với nhau để sanh khởi.

Song, cả 5 uẩn đều là món huyễn vọng trên thể tự chứng phần của chơn như, phải biết rằng uẩn chẳng khác không, không chẳng khác uẩn, vì uẩn tức là không, không tức là uẩn. Lại nên biết : người mà mê chấp, thì uẩn tỷ như nước kết làm giá, người mà giác ngộ, thì uẩn ví như giá trở lại thành nước. Nước là dụ tâm chơn không, giá là thí tỷ năm uẩn.

Xá lợi Tử ! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt,, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.

Nầy Xá lợi Phất : Cái “không tướng” của các pháp này, nó chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.

Đây là nó rõ cái không tướng của các pháp, tánh nó tuyệt hẳn nghĩa đối đãi. Chư pháp tức là các pháp : 5 uẩn trên, và dưới đây như 6 nhập, 12 xứ, 18 giới, 12 nhân duyên và 4 đế. Số là : trong tánh chơn không rõ ra thì chẳng thể có các pháp gì cả, bởi mê quên đi nên in tuồng như có nên nó là không tướng. Đã không có các pháp thì chính nơi thể nó bất sanh, với sanh đã chẳng sanh, thì với diệt cũng chẳng có diệt, nên nó là bất sanh bất diệt. Chúng sanh trong 9 cói còn đương mê vọng chưa giác ngộ, bị vọng tưởng làm ra cấu uế, chớ cái tánh chơn không thì chẳng có một ty một hào để noi theo điều hư vọng nên nói là bất cấu. Cõi Phật thì Phật đã ba giác viên mãn, chẳng có mê vọng, vì đã chứng cái thể thanh tịnh, mà cũng trọn đủ những tác dụng của chín cõi kia, là vì để tùy duyên, kêu bằng Phật pháp tại thế gian bất ly thế gian giác, nên nói là bất tịnh. Bởi vì chúng sanh cũng đồng thể với Phật, nên sanh va Phật đều lẫn nhau đủ tác dụng cả mười cõi, không thiếu không dư, vì đồng chung một thể viên mãn; hễ với tác dụng mà tịnh, là giác tức Phật, còn tác dụng mà nhiễm, là mê tức chúng sanh, thế khác nhau chỉ vì mê với giác, là bởi tác dụng nhiễm với tịnh, chứ nguyên lai thì cũng vẫn đồng thể ấy, nên gọi là ở 4 thánh thể ấy bất tăng, ở sáu phàm thể ấy cũng bất giảm, là duyên cớ như thế.

Sáu chữ bất trên, nghĩa nó chính là rõ ngay cái tâm thể tuyệt đãi của mỗi người, sở dĩ người mà đã tỏ ngộ được tâm thể đó rồi, thì với chữ nào cũng đều là tâm kinh và chỗ mô chỗ cung toàn là tự tại. Tỷ rằng : Dặm, dặm trời xanh riêng lồng lộng; sông, sông trăng rọi khắp ngời ngời.

Thị cố không trung vô sắc, vô thụ tưởng hành thức.

Thế nên trong chơn không nó không có : sắc, thụ, tưởng hành và thức.

Đã là kết cuộc nói năm uẩn không có. Các uẩn pháp đều là bởi nhơn duyên hòa họp lại, cũng như nói đủ nguyên liệu chung lại, mới có pháp sanh ra nó bằng cách hư vọng, đến khí các nhơn duyên kia lìa riêng ra, thì nó cũng tiêu diệt đi bằng cách giả dối. Ai đã tỏ ngộ được chơn tánh ròi, thì biết nhơn duyên nó vẫn không.

Oâng Phó Đại Sĩ nói : “Tin được tự tâm từ bao giờ cho đến bao giờ nó vẫn thanh tịnh, đủ có chơn tánh bát nhã, thể nó kiên cố thường còn, mà phi huyễn hóa cũng chẳng phải giả dối, không sanh không diệt, nên bảo nó là “thật tướng”

Đối với Y báo (y báo tức là các chỗ ở và những tài vật cần dùng giữa 10 cõi, để làm cảnh sở y cho báo thân) chánh báo (tức là những báo thân của 6 hạng Phàm, 4 bực Thánh giữa 10 cõi) trong mười cõi, chỉ có hai chữ “Sắc tâm” là bao quát được hết cả; với “sắc tâm”, chư Phật đã giác ngộ được rồi, nên sắc nó không làm chướng ngại gì với Tâm được; chúng sanh còn mê muội nên bị nó làm cách ngại nhau giữa Sắc Tâm !

Hễ mê tâm thì tâm bị ngu muội (nghĩa là Hoặc tối tăm trầm trọng, hoặc phóng túng tán loạn, chấp cứng lấy thành kiến mà không tiến triển hóa thông, hoặc có nghe mà chẳng giác ngộ, hoặc chấp nơi thường kiến là linh hồn và chúa tạo vật đều sống mãi, hoặc chấp lấy đoạn kiến là chỉ có vật chất, chết rồi mất hẳn, không tội phước nhơn quả....những hạng ấy đều vì chẳng giác ngộ được tâm vốn vắng lặng); mê sắc thì bị sắc cuốn (nghĩa là đối với 5 trần cảnh và các sự tướng và sanh tâm tham muốn tiếc thương, đã chẳng biết sắc là một vật huyễn hóa lại còn mải miết suốt ngày rượt tìm), nên Phật ngài đặc biệt mở ra 4 câu dưới đây, để đánh tiêu các sự mê chấp kia :

Vì kẻ mê tâm nhiều, mê sắc ít, Phật thuyết pháp ngũ ấm bằng cách mở tâm ra làm 4 uẩn, hiệp sắc lại một uẩn.

Vì người mê sắc nhiều, mê tâm ít, Phật thuyết pháp 12 nhập bằng cách mở sắc ra làm 5 căn, hiệp tâm lại làm một ý nhập.

Vì chúng nào với sắc tâm đều đồng mê, Phật thuyết pháp 18 giới bằng cách mở sắc pháp ra làm 10 giới, mở tâm pháp làm 7 giới.

Vì ai với tâm sắc đều chẳng mê, thì Phật ngài thuyết pháp bằng chỉ nói ngay sắc tâm, mà họ nghe liền đặng suốt thông chẳng còn gì nghi ngại cả.

Đối với pháp ngũ uẩn, mà Phật ngài thuyết ra bằng ba cách : một “hiệp sắc mở tâm”, hai “hiệp tâm mở sắc”, ba “Tâm sắc đều mở” như trên đó;

Hỏi : Nếu chỉ có chơn không mà thôi, chớ không có 5 uẩn, 12 nhập và 18 giới gì hết, thế thì đâu có thể phát khởi ra tác dụng ư ?

Đáp : Kinh nói : Nếu có thể chuyển được vật chất (như đi bộ trên sông chẳng chìm, vào lửa không cháy....cảm hóa độc trùng, ác thú làm đệ tử đắc lực....) cũng như chuyển thức thành trí tức nhiên người ấy đồng thể với Phật, nghĩa là thân tâm đều viên minh, căn trần đồng thanh tịnh...chưa hề xê xích ra khỏi chùa, mà với trên đầu một mảy lông nào nó bao hàm cả mười phương cõi nước. Bởi thế, mỗi căn lẫn khắp, trọn trùm cả pháp giới; mỗi trần chứa dung cả căn trần 10 phương, thế đều là do cái trí phổ quang minh trong tự tánh, bởi đã chuyển đổi được vật sắc, thì cảnh tức là tâm, nên sắc pháp nó không chướng ngại với tâm pháp nữa. Thì đại dụng hiện tiền (như Đức Minh Không chữa bịnh Vua Lý Thần Tôn hóa cọp, và mang một tai mà thồn hết kho đồng mà ngồi trên chiếc nón qua sông không chìm, tháy ghi ở sách “Thiền uyển tập anh” Đức Hoa Lâm Hòa Thượng có hai đệ tử bằng cọp tên là Đại Không, Tiểu không, thấy chép trong lời âm nghĩa sách Quy ngươn) chỉ nhơn vì với chúng sanh tâm còn chấp trước, thì chẳng đặng chẳng phá chấp, sỡ dĩ với vạn duyên đều buông xuống lại buông xuống nữa, với chỗ không còn gì buông xuống, lại buông xuống luôn nữa, thế mới là triệt để hỷ xả, cũng như hí sanh chính như đứng chỗ vực thẳm buông tay bước tới, vậy mới là triệt để phá chấp, vì với tánh mạng còn không tiếc, huống là còn chấp trước gì ? người mà phá chấp đã cực điểm đến thế, thì với thập phương hư không, đều là diệu dụng vô ngại, giơ lên một mảy lông, là nóimó tay vào một việc nhỏ nhứt đi nữa, đâu chẳng là suốt lẫn với diệu tánh, cũng như ngoài không cảnh, người học Phật mà tiến đến trình độ cứu cách đó, mới được hiểu nổi câu “tình dữ vô tình cọng thành Phật đạo” và chơn thật nghĩa của câu ấy mới được thật hiện.

Vô minh, diệt vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệt vô lão tử tận :

Tánh chơn không nó chẳng có cái vô minh, cũng không luôn cái vô minh đã hết ; nhẫn đến nó chẳng có cái lão tử, cũng không luôn cái lão tử đã hết.

Đây nói rõ 12 nhân duyên đều không cả, vì các thánh duyên giác nguyên do nơi pháp đây để chứng ngộ đạo quả Bích Chi Phật.

Những điều để đưa đến cảm chịu kết quả gọi là Nhơn, những cái mà để giúp cho Nhơn được thực hiện là Duyên.

Lại, nhơn là hột giống năng sanh, Duyên là cái cảnh sở sanh.

1/ Vô minh không sáng; vô minh tức là cái điều mê hoặc : Do nổi lên một niệm bậy làm mê lửng cái chơn không diệu tánh không còn sáng suốt của trí huệ nên bảo nó là vô minh.

2/ Hành là hành động : tức là chỗ tạo nghiệp thập thiện hay thập ác về thời quá khứ. Vô minh là Hoặc đạo, nghiệp là nghiệp đạo : Do cái mê hoặc, mà gây ra hành nghiệp, nên nói vô minh duyên hành : cái vô minh nó chuyền leo qua cái hành.

3/ Thức hiểu bằng cách phân biệt về những cảnh theo nghiệp sở hiện ra, đấy cái niệm giác quan bằng cách điên đảo. Điên đảo : Nếu định nghiệp sắp sanh làm con trai, thì trung ấm thân nó dấy niệm thương mẹ, ghét cha, đối với khi cặp phu phụ đương hành dâm sắp làm cha mẹ nó; lại nữa, rồi đến, nó tưởng chính nó hành dâm với người đàn bà đó, chớ nó không tưởng có người đàn ông thứ hai. Còn định nghiệp sắp làm con gái, thì niệm tưởng thương hành dâm điên đảo trái lại với trên Kêu bằng nhơn lòng yêu làm hột giống, nạp tưởng điên đảo nên thai để gá vào thai mẹ, nên nó là hành duyên thức : Cái hành nó chuyên níu qua cái thức.

4/ Danh sắc : Danh là tên, chỉ có cái tên, chớ chẳng có cái hình ; sắc là vật chất hữu hình. Thần thức nó đã gá vào bào thai (khi dấy niệm điên đảo để hành dâm giữa 3 chúng sanh ấy, cái ái tình đều đến cực diểm, bấy giờ tnhf cha, huyết mẹ bắn ra thần thức của kẻ sắp làm con nó bị 3 diễn lực dâm dục hít lẫn nhập cục với nhau như một điểm hồ đặt ở trong tử cung,. Thức ấy là tinh thần, tinh huyết ấy là vật chất, bấy giờ trong cái bào thai nó có 3 nguyên tố : một là cái mạng sống có kỳ hạn cảu cái thai sanh ấy 2 là cái hơi ấm, tức sức ôn độ của 3 dục hỏa kia nó lẫn giữa khối tinh huyết ấy, kêu bằng “Nhứt điểm chơn dương”, vì có sức nóng ấy duy trì, nên tiên thiên khí huyết kia không bị nguội nữa ; 3 thức : Tánh biết; tức a lại da thức, khi đầu thai, thức nầy đến trước nhứt rồi nó lần hồi nảy sinh ra 7 thức kia; Thức tâm gọi là Danh là phần vô hình ; Phôi Thai gọi là Sắc, là phần hữu hình, nên bảo là thức duyên sanh sắc : Cái thức nó leo qua cái danh sắc.

5/ Lục nhập : Sáu vào ; đã có danh là tâm, sắc là thân, thì 6 nhập trọn đủ, như sắc trần nhập với nhãn căn ; thinh trần nhập với nhĩ căn v.v.. nên nói Danh sắc duyên lục nhập : Danh sắc nó liên chuyền qua lục nhập.

6/ Xúc : Đụng chạm, tiếp xúc, cảm xúc ; đứa bé lúc ban sơ mới ra khỏi thai mẹ, đối với cảnh, cả 6 căn của nó chỉ xúc tiếp 6 trần bằng cách quá ư trẻ con, nghĩa là chưa biết phân biệt : Tốt hay xấu, sạch hay dơ, thương hay ghét, kẻ thân hay người thù gì. Nên đối với Bé lúc bấy giờ, đức Lão Tử gọi là “tánh thuần phốc”: Quá ư thiệt thà : Còn Đạo Nho bảo là “tánh bổn thiện” rất hiền lành, cái yếu nghĩa mà hai nhà rất chuộng đó, nó chỉ là ngang với chữ xúc nói trên, mặc dầu căn có xúc với trần, mà chưa đủ những khả năng để phân biệt, vì các năng tánh ấy hãy còn tiềm tàng trong thức thứ 8, chưa được mấy phát triển, bởi còn thiếu công huân tập để trợ duyên ; mà chỉ có tánh năng biết khát sữa đòi bú là mạnh hơn hết, vì là cái “Câu sinh ngã chấp” nó đã thâm căn hơn. Còn các tánh tình kia thì chưa hiện hành phân biệt, nên nói lục nhập duyên xúc : Sáu nhập nó liên lạc với xúc.

7/ Thụ : Chịu : từ năm lên 5 , 6 tuổi, đến năm 12 , 13 tuổi trong thời gian đó, vì cảm xúc với hoàn cảnh, mà lãnh nạp lấy các trần hiện tiền, nhưng chỉ làm chơi vui bằng cách trẻ con vậy thôi, chớ chưa biết mưu toan gì khác, nên nói xúc duyên thụ...

Từ thức đến thụ 5 cái nhơn duyên đó, là cái khổ quả của cái thân, tức là khổ đạo (trên có hoặc đạo, nghiệp đạo, và đây khổ đạo : Bởi hoặc tạo nghiệp, có nghiệp phải chịu khổ).

8/ Aùi : Yêu, thương, năm lên 14,15 tuổi, đến 18 , 19 tuổi, vì bởi đã biét nạp thụ sự này vật nó, thì hiền nảy lòng ái nhiễm nghĩa là yêu ham điều đây, ghét chán điều đó, nên nói thụ duyên ái ; điều chịu nó níu đến điều yêu.

9/ Thủ : Lấy, dùng ; từ 20 tuổi về sau, vì bởi lòng tham ái càng ngày lại càng già dặn, nên đeo đuổi tìm kiếm khắp nơi giáp xứ, để tién thủ lấy công việc làm, ăn, ở và lo bảo thủ lấy tên tuổi, non sông, nhà nước .. ..nên nói ái duyên thủ : hễ cái yếu muốn sự chi, thì nó chuyền leo đến để lấy dùng sự nấy. Hai cái ái, thủ đây thuộc về hoặc đạo.

10/ Hữu : có ; do vì cái thủ là lấy dùng, đã lấy dùng, tức có hoặc phải hay quấy, có điều phải quấy đó, tức là nguyên nhân của 3 giới. Nghĩa là nguyên nhân phải là ba thiện đạo : Thiên, nhơn, Tu la; nguyên nhân quấy là 3 ác đạo : địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nên nói thủ duyên hữu : Cái chấp thủ nó duyên qua cái Hữu sanh giữa đời. Một cái Hữu đây cũng là nghiệp đạo, vì có nghiệp thiện là tam thiện đạo ; có nghiệp ác là tam ác đạo. Bởi đạo nhơn hữu thiện hữu ác, nên kết quả có dữ có lành, cũng như có tốt có xấu....

11/ Sanh : Để, mở đời sống : đã có gây cái nhơn thiện hay nhơn ác, tất phải cảm báo chịu sanh mở ra cái thân ở đời sau, nên nói Hữu duyên sanh : cái nhơn có lành có dữ, nó liên kết qua cái quả đời giàu đời nghèo.

12/ Lão tử : già chết ; mới sanh nở ra là non nước, mắt đẹp mày xinh, kế lớn, rồi già, mắt mờ da nhíu, từ trẻ đến già lắm lúc biến đổi, đến bịnh hoạn và hoại diệt là chết, nên nói sanh duyên lão tử : Cái sanh sống nó vấu níu đến cái già chết.

Hai cái nhơn duyên trên đều thuộc về khổ đạo 1/ hoặc là bị mê lầm cũng như phiền não, 2/ nghiệp là làm việc 3/ khổ là chịu thống khổ. Bởi ba lẽ đó mà phải lưu động chuyển đổi đi để chịu sanh tử trong lục đạo luân hồi, là bị quây theo môn sanh diệt ! nghĩa là thuận tình đi theo cửa xuất sanh nhập tử của lục phàm.

Nếu người có thể xem xét ngược trở lại như thế này : Cảnh khổ của Sanh tử nó lấy cái Hữu làm nhơn; Hữu nó lấy cái Thủ làm nhơn; thủ nó lấy cái Aùi làm nhơn: Aùi nó lấy cái thụ làm nhơn; thụ nó lấy cái xúc làm nhơn; Xúc nó lấy cái lục nhập làm nhơn ; Lục nhập nólấy cái danh sắc làm nhơn; Danh sắc nó lấy thức làm nhơn. Vô minh nó không có tự thể riêng của nó, nó chỉ lấy “chơn không diệu tánh” làm thể : Ma hễ đã biết cái chơn tánh thể nó hãy còn như hư không rồi, thì cái vô minh nó dựa vô đâu để sanh khởi ? Thế há phi chính nơi thể nó tức là diệu tánh của chơn không ư ? Vậy là đi lại môn hoàn diệt. Nghĩa là thuận đạo đi theo cửa siêu phàm nhập thánh của Bích Chi Phật.

Phiền não đạo....Đạo : những lẽ, hay các điều phiền não; phiền não là tên riêng của hoặc. Hoặc : lầm, như kiến hoặc, tư hoặc v.v...khổ đạo : những điều mà hiện nay ta đương chịu quả báo thống khổ, như 3 khổ, 8 khổ v.v..

Với 12 nhân duyên, cổ đức tóm tắt làm bài kệ rằng :

Vôminh, ái, thủ tam phiền não

Hành, hữu nhị chi thuộc nghiệp đạo

Tòng thức chí thụ tinh sanh tử

Thất chi đồng danh nhứt khổ đạo.

Xin tạm dịch : Ba điều phiền não : mê, yêu, lấy;

Hai cái : có, làm thuộc nghiệp quấy ;

Từ biết đến chịu và sóng, vong,

Chung kêu một khổ : bảy phần đấy. . . .

Ngoài cái danh “Thập nhị nhơn duyên” còn có các danh : thập nhị hữu chi, thập nhị trùng thành, thập nhị kinh cước, và thập nhị liên hoàn. Còn có các nhơn duyên riêng biệt với nhau bằng cách của : 3 đời, 2 đời, và một niệm. Với 12 nhân duyên : tùy ý đoạn được một cái nào, thì các cái kia đều tan rã liền; hễ cái nhơn đã đoạn, thì không còn hột giống nữa ; cái duyên đã đoạn, không còn cảnh phụ trợ. Tức thời nó hóa làm trí giác của bực Vô thượng, người học Phật đã tiến đến đó, thì với chỗ nào, đâu chẳng đắc tự tại ru ?

Vô khổ tập diệt đạo

Trong tánh chơn không nó không có : khổ, tập; diệt, đạo.

Đây nói rõ pháp tứ đế vốn không có ; các thánh trong hàng Thanh văn nguyên tu pháp nầy mà chứng A la hán.

Khổ : 3 khổ, 8 khổ

, 108 khổ, và vô lượng chư khổ, Tập : làm nghiệp, nghĩa là các phiền não của 3 cái hoặc là : kiến hoặc : chỗ nhận thấy lầm lạc; tư hoặc : điều lo nghĩ lầm lạc và vô minh hoặc : sự lầm lạc bởi si mê. Tập là tạo nhơn của chúng sanh ở thế gian, như : trời, người, thần, địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh. Khổ là kết quả thế gian như lục đạo kể trên.

Đạo : giải bằng cách sơ lược là giới, định, và huệ; còn rộng ra là ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Diệt : diệt các vọng giả hữu sanh tử, chứng cái tánh chơn không niết bàn. Đạo là tu nhơn của bốn quả xuất thế gian, diệt là chứng quả các thánh xuất thế gian như Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A La hán.

Nếu tỏ ngộ được tánh chơn không, thì năm uẩn sáu nhập đều đúng với tnáh ấy, tức nhiên không còn khổ gì nữa ; trần lao là phiền não vốn thường thanh tịnh, thì không còn tập đạo đâu nữa để đoạn ; biên kiến tà kiến lại đều là trung chánh, thì chẳng còn đạo chi nữa khá tu ; sanh tử nguyên tức niết bàn, thì đâu còn tịch diệt gì nữa mà chứng. Bởi vì uẩn, nhập, khổ, tập, diệt, đạo chi chi cũng chỉ là Diệu minh chơn tánh mà thôi.

Kẻ phàm phu có xét lý mà chẳng ngẫm cho đúng; bực nhị thừa dù ngẫm đúng mà chỉ chúng được lý tánh nhơn thiệt nhưng lại sai lệch về một bên; bực bồ tát đều có xét và ngẫm lẫn suốt, mà hãy chưa tròn tột; duy có Phật thì : Với trí đâu chẳng ngẫm đúng với lý chăng chẳng hoàn toàn.

Vô trí diệc vô đắc

Tánh Chơn Không nó không cần trí cũng chẳng cần đắc gì.

Đây nói rõ hay cái chấp : Có trí, có Đắc đều bặt mất. Song với trí : Vì cần phá trừ vọng hoặc mà phải dùng đến nó. Cũng như với Binh là : Vì để dẹp giặc nên mới thiết lập ra. Chớ tánh mầu là nguyên sẵn sàng, hẳn không có ngộ hay mê gì cả ? vì nó vẫn khôn thiêng, vốn sáng suốt, thế thì đem trí dùng vào chỗ nào ? ty ûnhư : nước nhà đã bình trị rồi, thì với quân đội là chỉ để giữ gìn trật tử vậy thôi, chớ với những cuộc hành binh thì không dùng đến nữa. Nên nói rằng Vô trí : không dùng trí cũng như nói không dụng binh hay không dùng vũ lực nữa.

Đã là nguồn tánh thanh tịnh, nên chẳng cần dụng công tu và đắc gì. Nếu còn tưởng có đắc bằng một ly một hào gì, tức là hư vọng cả, nên nói là vô đắc.

Người xưa nói “Đến khi tỏ suốt lẽ đại thừa rồi, trọn không có một phép chi khả đắc” thật thế. Với thật tướng bát nhã đến đây nói rõ đã rồi.

Dĩ vô sở đắc cố, bồ đề tát đỏa, y bát nhã ba la mật đa cố :

Bởi vì không sở đắc mới là bồ tát, gọi là bồ đề tát đỏa, nương nơi trí bát nhã để xét soi, mới đạt qua bên ngàn giác kia.

Từ đấy đến câu tam miệu tam bồ đề, để nói rõ về nghĩa của hai Bát nhã là quán chiếu, phương tiện.

Ba câu chánh văn trên đây, nói rõ riêng là quán chiếu bát nhã : câu đầu là thừa tiếp văn trên, và phát khởi văn dưới.

Cái thể của diệu tánh nó vẫn thanh tịnh với cảnh lục trần nó không dính mắc một tý ti gì, nên nói là vô sở đắc. Bởi vì vô sở đắc, mới chính là bồ đề tát đỏa. Chữ Y : Nương ; tức là nghĩa của quán chiếu bát nhã, là vì nó hay nương nơi trí bát nhã để xét soi, tức nhiên mới tiến đến bỉ ngạn bên bồ đề.

Bồ đề tát đỏa : Dịch : Đại đạo tâm chúng sanh (thứ chúng sanh có lòng đạo lớn), bồ đề tát đỏa, là tiếng xưng hô bằng nghĩa tự lợi lợi tha của bồ tát đối với chúng sanh; còn tân dịch là : giác hữu tình vì với “bồ đề” cựu dịch là Đạo, Tân dịch là giác; với “Tát đỏa” trước dịch là chúng sanh; sau dịch là giác; với “tát đỏa” trước dịch là chúng sanh; sau dịch là hữu tình. Giác là tự lợi, giác tha là lợi ta. Nên được chúng sanh hay hữu tình tôn xưng là bồ đề tát đỏa.

Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo, mộng tưởng cứu cánh Niết bàn :

Vì nương Bát nhã để quán chiếu, nên tâm không quái ngại ; bởi tâm chẳng ngần ngại, nên chẳng có e sợ, xa lìa các đều điên đảo mộng tưởng, rốt ráo quả Niết bàn.

Đây nói rõ về nghĩa phương tiện bát nhã được cứu cánh. Chữ Cố ở nơi đuôi 3 câu trên kia, nghĩa nó cũng có thể phát khởi xuống câu “Tâm vô quái ngại” trên đây, vì rằng năng y nơi trí bát nhã để dấy lên cái quan niệm xét soi, thì mới đắt cái tâm vô quái ngại. Bởi vì không ngần ngại, nên mới được không khủng bố, không điên đảo và không mộng tưởng, như thế, há phi cứu cánh niết bàn ư ?

Tánh chơn không thì chẳng có cái nghiệp chi có thể buộc ràng nó được, vì đương thể nó vẫn là giải thoát, nên chi nó không còn bị điều gì làm quái ngại, mà nó cũng chẳng làm quái ngại điều gì. Đó là đức giải thoát.

Chơn tánh không còn khổ, thể là đại an lạc vì đương thể nó là pháp thân, nên chi nó không còn bị thứ gì làm khủng bố, mà nó cũng không làm khủng bố thứ gì. Đó là đức pháp thân.

Chơn tánh không còn vọng hoặc, thế là xa lìa tám điều điên đảo : Như với thường kể là không thường ; với không thường lại chấp làm thường. Với Lạc, Ngã, Tịnh kể chấp cũng thế, thành tám cái điên đảo, mà Bồ tát đã viễn ly được rồi, vì đương thể nó vẫn là Bát nhã, nên không có điên đảo mộng tưởng. Đó là đức Bát nhã.

Đã không ba điều : Hoặc, nghiệp, khổ, vì đương thể nó vẫn cứu cánh tịch diệt, thì ngay nơi ba điều ấy gọi là ba đức (giải thoát, pháp thân, bát nhã) niết bàn.

Niết bàn, dịch : Tịch, diệt, nghĩa : Vắng lặng. Lại dịch Diệt độ, nghĩa : diệt hết khổ không mê : độ đến vui ngàn giác lại dịch : Viên tịch, nghĩa : với trí đều đủ gọi là viên, với mê hoặc sạch kết gọi là tịch. Ca ba nghĩa trên, đại ý đều tỏ rằng : Đã xét thấy được cái pháp tánh bằng một cách cứu cánh, thì vẫn tự tại, vì bất sanh, bất diệt.

Hai tiết trên, đã nói rõ đức bồ tát ynơi páhp bát nhã đây mà đắc cái cảnh trí đại Niết bàn rất ráo rốt rồi.

Tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố, đắc a nậu đa la, tam miệu tam bồ đề.

Nguyên chư Phật cả ba đời, sở dĩ đắc quả vô thượng chánh đẳng chánh giác đó, là vì y nơi pháp bát nhã ba la mật đa đây.

Đấy là nói là rõ : Nguyên các đức Phật cũng đều y nơi pháp bát nhã đây mà đã thành vô thượng biến chánh giác rồi đó.

Tam thế : Ba đời, là quá khứ, hiện tại, vị lai đó là so về bề dọc để nói như thế. Chư Phật các đức Phật là gồm cả chư Phật suốt ba đời ở tận nơi mười phương, đó là so về bề ngang mà kể như vậy. Đối với pháp bát nhã chẳng phải chỉ riêng về bồ tát y nơi nó mới chứng quả đấy thôi, song đến cả như Phật cũng y nơi nó để thành quả tam miệu tam bồ đề như thế. Nên Đại Luận nói : “Thầy học của chưa Phật chính là pháp đấy”. Kinh Bát nhã chép : Tam thế chư Phật, và pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác của chư Phật, đều từ nơi kinh này sản xuất ra.

Y : Quán chiếu, cũng đồng nghĩa chữ Y ở câu Bồ đề tát đỏa y bát nhã....trên, câu “đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề” là nói chứng quả Phật đà.

A dịch Vô : Nậu đa la dịch : Thượng : Tam miệu dịch : Chánh đẳng : Tam Bồ đề dịch chánh giác, Nghĩa với cao, chúng chẳng thể tột được, nên gọi là “Vô thượng” ; chẳng xiên chẳng lệch là “chánh” mười giới (4 thánh, 6 phàm) đồng thể, là “đẳng” (đều có tánh Phật là bình đẳng) khác với là kiến của phàm phu và ngoại đạo, là “chánh giác”. Nếu tóm Tròn tột quả Phật tự tại bồ đề, nên gọi là Đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Cố tri bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú.

Nên biết rằng : Kinh Bát nhã ba la mật đa đây, thật là : Bài chú đại thần, bài chú địa minh, bài chú vô thượng, và thật là bài chú vô đẳng đẳng, vì nó hay diệt trừ được tất cả khổ não, chắc hẳn không dối.

Đây là dùng cái danh thần chú để kết thúc nghĩa Kinh : danh l của thần, chú là Đà La Ni (dịch : tóm giữ). Đây, với kinh mà lại tên là chú như thé, là vì nó tóm thâu suốt. Đại tạng thế với các giáo : Hiển, Mật....chi chi chẳng hạn, nó đều bao gồm hết cả.

Đầy nhẩy khắp pháp giới, gọi là Đại ; với linh nghiệm không thể xét lường gọi là Thần ; nguyền điều ác hóa thành điều thiện gọi là Chú.

Người tụng bài “Đại thần chú” đây, vì nó hay phá trừ hết các điều ma chướng. Trí huệ được tròn đủ sáng soi nên gọi là Đại minh chú, vì nó bay dứt hết điều si mê ám muội. Với lẽ cao của nó, không còn chỗ nào trên nữa, nên gọi là Vô thượng chú, vì chỉ rõ ngay tánh chơn như. Vâng và soi đều đồng thời lẫn nhau, với bực đấy không bực nào khá sánh được, nên gọi là Vô đẳng đẳng chú.

Lại, các giới ngoại đạo, Thiên thần, và Tiên nhơn cũng đều có chú thuật, hễ chuyên tâm luyện đọc, cũng có thể biết được tâm tưởng của kẻ khác, hoặc có thể khinh thân bay lên trên mây, và biến hóa ẩn hình, hoặc có thể kéo dài cái sanh mạng sống ở được lâu lâu ; chừ chú bát nhã đây, người chánh niệm chơn tu thì được nhiều công đức hay, cao siêu hơn kia gấp vô lượng vô biên dù đem những con số gì bằng cách ví dụ như vi trần, hằng sa, giới thành, thạch kiếp chẳng hạn, cũng không thể so sánh kịp nên gọi là vô đẳng đẳng.

Lại nữa, trong bổn dịch của Ngài La Thập, thì chẳng có câu “Thị đại thần chú” Song, với cả bốn câu (thị đại thần chú.... Thị vô đẳng đẳng chú ) nếu là hiểu lẽ bằng cách một câu, thì tức nhiên cùng với tánh chơn không, cũng khế hội bằng cách rất khéo nữa.

Câu hay dứt tất cả khổ đó, là xâu kết lại để tán thán Pháp bát nhã có công dụng quá rộnglớn, vì hay trừ hết khổ sanh tử cho 9 cõi (1/ cõi Bồ tát; 2/ Duyên giác ; 3/Thinh văn; 4/Cõi trời; 5/ cõi người; 6/ A tu la; 7/ Súc sanh; 8/ngạ quỹ 9/địa ngục)

Câu chơn thật bất hư ấy cả kinh đây, mỗi chữ, chữ nào cũng từ nơi chơn không diệu tâm để lưu lộ ra, thế thì có hư vọng ?

Cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết :

Nên nói chú bát nhã ba la mật đa, liền nói chú rằng :

Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

Đây chính là nói chú Bát nhã đấy, để tỏ rằng : với công dụng ấy, chúng ta chẳng thể nghĩ bàn gì được, vì vừa tức pháp Hiển, mà cũng là vừa tức pháp Mật.

Phải biết kinh đây chính là trung tâm điểm cả sáu trăm quyển của một đại bộ bát nhã, mà một đời Phật 5 thời thuyết giáo, đâu chẳng lấy bát nhã là tâm, còn chúng sanh nếu phi cái tâm bát nhã thì làm gì hiểu nổi vào nơi pháp môn ba la mật ? thế ta nên rán nghĩ đi nghĩ lại để nhớ lấy !

Ma ha bát nhã ba la mật đa.

Đại trí tuệ đáo bỉ ngạn : Lớn trí tuệ đến bờ kia.

Nghĩa là trí tuệ đây là trí huệ lớn nhất ngoài 3 giới, vì đã lên khỏi sông mê giữa ba giới, nên nói đến ngàn giác bên kia; hơn cả trí huệ giữa tam thừa, nên nói lớn nhất ngoài ba giới.

“Ma ha bát nhã ba la mật đa” là đề mục chung của tất cả bộ bát nhã, vì với công dụng của bát nhã, khó mà nghĩ xét cho cùng đặng, nên dùng để kết thúc mà tụng đó.

Như thuở xưa ông trời Thiên đế Thích bại trận, vì bị thần A Tu La tấn cong bốn mặt, rượt đuổi ! hết đường rút lui thành thử ông trời ấy dùng thần túc thông để trực thăng lên đặng cầu tiếp viện nơi đức Phạm Thiên Vương. Trời trên đây bảo Trời dưới kia thành tâm tụng câu “ma ha bát nhã ba la mật đa”. Trời đế thích vâng lời đọc mãi, tức thời biến hiện ra đủ thứ vũ khí từ trên oanh tạc xuống, như mưa đá tuôn rơi ; binh tướng thần A Tu la đều bị thương quá nặng, vì đầu mình lóng đốt đều trày tróc, không còn chỗ chun trốn ! Than ôi ! với công dụng của bát nhã, khá chẳng tin ư ?



TÁN PHẬT 


Thượng lai hiện tiền thanh tịnh chúng, phúng tụng Lăng Nghiêm chu phẩm (bí mật) chú :

Nãy giờ đến đây chúng thanh tịnh, trì tụng chú Lăng nghiêm và các thần chú.

Nữa bài kệ ấy, là để kết xâu từ trên, và chuyển xuống dưới làm hồi hướng. Ròng tu một hạnh thanh bạch, gọi là thanh tịnh; sáu hòa hợp đồng nhớm, gọi là chúng. Đọc mò chữ là phúng (chữ phúng là : từ hai đến nhiều sư cùng hòa tiếng rập giọng với nhau, để hoặc tụng, hoặc tán thuộc lòng. Cái điệu đọc tán rập ấy, nguyên là cách phúng tụng của Bà la môn, mà với Bí xu, Phật cũng cho dùng cái điệu ấy, mặc dù khác bài và ý nghĩa, tức là Phạm Bại nghĩa là lối tán tụng của Trời Phạm Vương. Sư nào hay giỏi môn tán tụng đó, được gọi là Kinh sư. Bên Tàu, đời Lương, sách tăng truyện, có lập ra một khoa Kinh sư, để dạy các sư nào tiếng tốt, nhịp hay, tán tụng giỏi, đặng làm Pháp sư ngoài đàn tràng. Chứ không phải ông Thần tú mới bày đặt ra như người ta đã hiểu lầm. Dùng tiếng để đọc tiếp tục nhau, gọi là tụng (chữ tụng còn có nghĩa nữa là : Mỗi người đọc một hơi thuộc lòng, để tiếp chuyền hơi thay đổi với nhau).

Lại, lục hòa 1/ Với thân thể thì hòa hợp nhau để chung ở; 2/ với Khẩu thiệt thì hòa họp nhau để không cãi cọ; 3/ Với Y chí thì hòa họp nhau để chung vui 4/ Với Giới phẩm, được hòa hợp nhau để thụ lãnh giới nào thì chung tu với giới ấy; 5/ Với tài lợi chi, được hòa hợp nhau công bình chung sống. Đủ sáu nguyên tắc ấy cư xử với nhau công bình chung sống. Đủ sáu nguyên tắc ấy cư xử với nhau, mới được gọi là lục hòa tăng vì danh đúng với thật, thể họp với dụng, sự hòa với ý, chứ không phải : mỗi chùa mỗi cơ sở riêng, mỗi sư mỗi hành động khác, mỗi phần tử mỗi thụ dụng bất đồng nhau.... Mà xưng bướng là lục hòa tăng được đâu ? vì miệng nói một đàng, mà tay phan một ngả, gia dĩ, trống đánh xuôi mà kèn thổi ngược vậy ! song, cũng khá hơn một phần nào đối với kẻ không học Phật.

Minh Chú : bên Tiểu thừa bộ Độc tử thành lập ra 4 tạng : ngoài 3 tạng Kinh, Luật, Luận, thêm một tạng nữa là Minh Chú tạng, Minh Chú là Đà La Ni lạiTiểu Pháp tạng bộ cũng lập 5 tạng :2 Kinh tạng, 3 luật tạng, 4 Minh chú tạng; 5 bồ tát tạng. Vậy biết rằng : minh chú tức là Đà La Ni, cũng tức là Thần chú.

Cây Như ý : Kinh Vô Lượng Thọ nói: cây Bửu thọ nơi đạo trường chỗ đức A Di Đà ngồi, với cây báu ấy, chúng nhơn ngó tưởng, muốn chi thì nó hiện ra món ấy cho dùng, nên gọi là Như ý thọ. Như ý châu, là từ nơi Bửu châu nầy nó hóa ra mỗi mỗi vật theo như ý ai muốn chi được nấy, nên gọi là Như ý. Trí độ luận cuốn 59 dẫn rằng; có chỗ nói từ nơi đỉnh của Long vương kết tinh sanh ra Bửu châu ấy, người nào được ngọc ấy, mang theo thân thì các thứ độc chẳng làm hại, vào lửa không cháy, nước không chìm, gươm đao không chặt đứt...bởi có các công năng trên nên gọi là bửu châu. Có chỗ nói : Xá lợi của Phật đến thời kỳ pháp của Phật diệt hết, thì xá lợi ấy đều biến làm như ý bửu châu để làm ích lợi cho chúng sanh. Tỷ như nước đóng gia lâu đủ một ngàn năm thì nó hóa thành ngọc pha lê, để làm vật quý cho đời.

Thứ như ý châu này không có màu sắc nhứt định, thể nó trong suốt rất nhẹ rất tốt những vật tượng trong vũ trụ đều hiện chiếu vào thân ngọc nó. Thứ báu nầy thường hay hóa ra tất cả vật quý báu như : áo quần thực phẩm, tùy ý ai muốn chi đều hiện nấy, để phổ thí cho cần dùng.

Kinh tạp bửu tạng cuốn 6 chép lời Phật nó : dưới biển có thứ cá Ma Kiệt tức là kình ngư con nào lớn nhứt thân dài 28 muôn dặm, thì trong đầu nó sản xuất thứ bửu châu ấy tên là Kim Cang kiên cố. Kinh quán Phật tam muội cuốn nhứt nói : Chim kim súy, đến khi già chết, quả tim nó cũng hóa thành như ý châu.

Ngã kiến : nhận thấy trong thân tâm do ngũ uẩn vẫn giả họp nầy, có cái ta cũng như cái hồn cho rằng nó là vẫn thường, vẫn một, nên gọi là ngã kiến. Sách đại thừa chương nghĩa cuốn 6 chứp : thân kiến, cũng là ngã kiến, với ngũ uẩn bảo là thân, trong cái thânnhận thấy có ta, phân biệt chấplấy có tên tuổi của ta, danh dự của ta, tự ái mê lầm, nên bảo là thân kiến.

Với ba câu ấy, còn có vài cách đọc, khê khê, khê hế, khê hế; khi khi, khi hí,khi hí; khe khe, khe hé, khe hé..

Trăm ức Kinh Hoa Nghiêm phẩm A tăng kỳ nói : 10 vạn làm một lạc xoa, lạc xoa là con số ức; 100 lạc xoa làm 1 cu chi. Cu chi có 3 hạng : một 10 vạn; hai 100 vạn; ba 1000 vạn. Ngài Huyền Trang Tam Tạng định số là ngàn vạn. Trong bài kệ trên, cai chữ Cu chi đó là gọi tắt hiệu “Tỳ Cu Chi Quan âm” cũng gọi tắt hiệu “thất Cu Chi Phật mẫu”.

 

Hồi hướng Tam Bảo chúng Long thiên, thủ hộ già lam chư Thánh chúng :

Hồi hướng : Tam bảo, các Rồng, Trời...., cả thánh chúng giữ giúp vườn chùa.

Từ đây sắp xuống mười câu kệ, là dâng công đức trên, để hồi hướng về cả mười giới. Yù nghĩa của hai chữ hồi hướng nó đi ngay suốt xuống cả mười câu kệ, nên hơi đọc là ý tưởng đều chẳng đặng dứt giữa khoảng nhịp mõ. Hai câu trên đây là hồi hướng lên ngôi Tam Bảo và các Hộ pháp. Với nghĩa của Tam Bảo sẽ rõ ở văn Sám hối sau. Trời, rồng là gồm chung thuộc bát bộ thần Hộ Pháp. Với nghĩa của Già Lam, sẽ thấy rõ ở văn chúc tán. Các vị Thần : Trời, Rồng....Già Lam, phần nhiều là có các đức Bồ tát ẩn hình thị hiện và trong đó, nên xưng là thánh chúng. Chừ ở đây hồi hướng lên Tam Bảo là để nguyện cầu gia hộ cho ; hồi hướng về các vị : Thiên, Thần....là để cầu ủng hộ ngôi Tam Bảo.

Tam đồ bát nạn cu li khổ, tứ ân tam hữu tận triêm ân, quốc giới an ninh binh cách tiêu, phong điều vũ thuận dân an lạc.

Ba đồ tám nạn điều lìa khổ, bốn ân ba hữu trọn nhờ ơn, nước cõi an ninh binh cách (giặc cướp) tan, gió hòa mưa thuận dân yên vui.

Bốn cây đây là hồi hướng cho cả pháp giới chúng hữu tình từ chốn u là khuất mắt, đến chốn hiểu rõ thấy, điều được chung nhờ lợi ích.

“tam đồ bát nạn” sẽ rõ thấy nơi “văn lẽ Phật phát nguyện” của ngài Di Sơn Nhiên Thiền Sư.

“Tứ ân” có ba điểm 1/ ơn của Thiên Ðịa che chở; 2/ ơn của Nhựt Nguyệt soi đến (là ơn của cõi đời thiên nhiên bố thí cho ta bằng cách tự nhiên) 3/ ơn của các đấng mở mang đất nước; 4/ ơn của Cha Mẹ dưỡng dục. Ðólà tứ ân của thế gian. Kinh Chánh Pháp niệm chép : 1/ ơn của Cha; 2/ ơn của Mẹ; 3/ ơn của Như Lai đại sư; 4/ ơn thuyết pháp của các pháp sư. Ðây là tứ ân của thế gian, xuất thế gian. Tâm địa phẩm nói : 1/ ơn Phụ Mẫu, 2/ ơn chúng sanh (nhơn quần xã hội và thú lực) : Vì luân hồi lẫn nhau làm cha mẹ, và giúp đỡ lẫn nhau về các phương diện : ăn, mặc, ở và công việc làm, dẫu ta ra tiền mua mướn : 3/ ơn Quốc gia 4/ ơn Tam Bảo, đây là tứ ân nghĩa rộng gồm cả thế gian và xuất thế gian.

Tứ ân dù có nhiều thuyết, song ta phải kỷ niệm, báo đáp tận tâm bình đẳng.

“Tam Hữu” : ba có, tức là ba giới; vì có những nhơn quả của thập thiện, hoặc của thập ác, bởi ý chí có chấp trước lấy sự tướng vật chấp để tưởng nhớ mãi chẳng quên, nên gọi là “Hữu: có”. Chữ Triêm, nghĩa : thấm nhuần, chịu ơn.

“Quốc giới” : Cõi nước ; với xa thì so cả đại thiên thế giới, sa số thế giới; so với gần, thì có năm châu, chín châu ( 5 châu lớn, là : 1/ Châu á tế, 2/ Châu âu la ba, 3/ Châu a phi ly gia, 4/ Châu á mặc ly gia, 5/ châu úc tước ni á. Với năm châu ấy tức kinh Phật kêu làm một là thiệm bộ châu phía nam núi tu di, nay đây bất quá cũng tùy theo thuyết của thế gian để quyền tạm mà nói là năm châu lớn đấy thôi, chớ thật ra thì năm châu ấy đâu có thể gồm hết đặng nam thiên bộ châu ? Với vị trí của chín châu kia, sẽ thấy rõ ở trong văn chúc tán sau).

“Bình” : Những món đồ vũ khí của quân nhung. Thuở xưa, ông Xuy Vu dùng các loại kim thiết để chế tạo ra năm món binh khí : 1/ Cây cung, 2/ Cây đầu, 3/ Mũi mâu, 4/ Mũi qua, 5/ Mũi kích ; cũng gọi là ngũ nhung tức ngũ binh đây, thật thế.

“Cách” : da thú đã thuộc chín ; cách là áo giáp bằng da. Lại, xe bọc da (nay bọc sắt) tức là xe nhà binh. Nước nhà nào mà lắm cơn loạn lạc, thì nạn binh cách (giặc giã, hay giặc cướp) nổi lên lung tung, như lũ kiến, chòm ong : cắn hút thịt máu của dân chúng ! lúc nào có minh chủ trị đời, thì giữa nước, ngoài cõi đều được an ninh : nên nguyện cho nước nhà đồng được như đời vua Nghiêu, vua Thuấn : năm ngày thì có một ngày gió mát mười ngày có một ngày mưa, tan hẳn binh cách, thiên tai nhơn họa đều không, ách nước nạn dân chẳng có, sĩ thứ đồng an cư lạc nghiệp.

Nay dùng công tu phúng tụng này, để hồi hướng cho pháp giới quần sanh đồng hưởng phước vui vô vi như trị ấy.

Ðại chúng huân tu hi thắng tấn, thập địa đốn siêu vô nan sự :

Ðại chúng huân tu mong hơn tới, chóng lên thập địa không việc khó.

Hai câu kệ đây, là nguyện cho bạn đồng tu đều được thắng tiến cả.

“Huân tu” xông, rèn, trau, sửa “Hy” cầu, trông. 

“Thắng tấn” có hai nghĩa : 1/ cứ xét theo ngôi thứ để mà tiến, nghĩa : người tu pháp Tiệm giáo, thì y theo vị thứ của 55 bực mà tiến, đó là trình độ độn căn của đại thừa. 2/ tiến triển bằng cách vượt lớp, tức là thắng tấn. Nghĩa : Người tu pháp đốn giáo, đối với năm mươi lăm ngôi, vượt lớp mà tiến, đó là hạng lợi căn của đại thừa.

Lại, từ nơi vị trí của phàm phu, vừa phát tâm tu học liền chóng vượt lên bực Sơ địa Bồ Tát....nhẫn đến bực thập địa Bồ Tát; hoặc từ nơi sơ địa tu học, mà đốn siêu bực thập địa : như đức Quán Thế Âm nghe Phật Thiên quang vương Tịnh trụ Như lai nói thần chú đại bi, từ sơ địa mà siêu ngay lên bát địa, đó là thế.

Lại, bên biệt giáo, từ sơ địa về trước, đều là hạng duyên tu, thì chẳng gọi là thắng tấn được, vì duyên tu là tu bằng cách phải chuyển theo trải qua mỗi sự mỗi cảnh; nếu lên được bực Sơ địa, thì mới được thuộc về hạng chưon tu, thế mới gọi là niệm tự nhiên để tiến tới, chứ chẳng cần mượn công tu bằng cách tác ý.

Tam bảo, và kẻ có quy y thụ giới, đều vâng nhờ công đức hồi hướng đấy, để tăng thêm chánh phước và chánh huệ.

Ba bài kệ trên đó (từ “Thượng lai hiện tiền thanh tịnh chúng.....” đến “đàn tín quy y tăng phước huệ” cọng 12 câu, phân là ba bài) của tác giả : Chơn yết Thanh Liễu thiền sư đời Tống (960 – 1.276), sanh trưởng ở đất Thục, con nhà họ Ung xứ Miên Châu, đệ tử của Tổ Ðan Hà Thuần thiền sư; đến sau năm Thiệu Hưng thứ 21 (đinh vị 1,151) nhận lời chiếu của Vua Tống Cao Tôn thỉnh, lãnh trụ trì nơi chùa mới núi Cao Ðình, xứ Hàng Châu.

Nam mô ta bà thế giới, tam giới đạo sư, tứ sanh từ phụ, nhơn thiên giáo chủù, thiên bách ức hóa thân, Bổn Sư Thích Ca Mâu ni Phật.


Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam mô đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Nam mô đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát

Nam mô Hộ Pháp chư thiên Bồ Tát

Nam mô đạo tràng hội thượng Phật Bồ Tát.


(Trong lúc niệm Phật đi hữu nhiễu đó có 2 ý nghĩa : 1/ Là một, lễ kính bằng cách vừa miệng thì xưng tụng hiệu Phật, và thân thì đi vòng quanh hầu tượng của Phật; đó là cái lễ rất kính của xứ Ấn độ đối với Phật. Kinh vô lượng thọ nói : “Cúi lạy chơn Phật, hữu nhiễu 3 vòng”. Thế gọi là hữu nhiễu. 2/ Là phương pháp tiêu dưỡng : hoặc đứng tụng lâu, hoặc ngồi thiền lâu, gân máu ngưng trệ, hay ma buồn nó phá, hoặc mới ăn cơm rồi.....đều phải đi vòng hay đi thẳng tới lui, là để cho gân máu chạy đều, hết lừ đừ ngũ, tiêu thực, vệ sinh dưỡng thân. Thế thì gọi là : Hành đạo hay kinh hành. Truyện ký qui cuốn thứ ba chép : Ði hữu nhiễu Phật điện, đi vòng quanh ngôi tháp, là cốt vì cầu phước cho tự tha, nên tỏ cái nghi cung kính : còn kinh hành là cái phép tiêu thực tán bô, ý nghĩa ở dưỡng thân trừ bịnh).

 


HỒI HƯỚNG VĂN

SÁM QUY MẠNG

(Quỳ đọc)


Phàm làm việc Phật, rốt phải hồi hướng là để cho công hạnh có chỗ ký thác : như sau kia là riêng hồi hướng về cực lạc tịnh độ : còn chính đây là tổng (chung) hồi hướng về Tam Bảo giữa pháp giới. Nhưng, hoặc riêng hay chung gì đều phát cái tâm tự lợi lợi tha, nguyện cho đồng đắc thật chứng.


“Hồi hướng cũng như phát nguyện” : Số là, có hành mà không nguyện, thì chí hướng bất định. Như người ra đi đâu đó mà không có cái sở nguyện gì, chí hướng chi, thì ra đi phóng mạng cũng như lãng mạn giữa đường có gặp chuyện chi xảy đến, tất nhiên theo với cảnh ngộ mà đổi dạ sang đàng ! Hễ nguyện hải đã sâu, công hạnh đã đầy, thì đạo quả thành tựu. Nên phàm là kẻ tu hành hễ có công tác chi, đều phải hồi hướng :


Hồi hướng có bốn cách :


1/ Hồi nhơn hướng quả, nghĩa là tu các hạnh là nhơn đều có thể được để thành Phật là Quả. Chính như nay tu tịnh độ là nhơn, hồi hướng về Cực lạc là quả, lẽ phải như vậy.


2/ Hồi tiểu hướng đại, nghĩa : Những kẻ học Phật bằng pháp tiểu thừa, và tu thập thiện của nhơn thiên thừa, đều nên hồi hướng lên đại thừa, mà nay thì với những chỗ tu các pháp thiện đều hồi hướng về đài sen thượng phẩm, thật thế.


3/ Hồi tự hướng tha, nghĩa : ta nay phát tâm tu Phật đây, là chẳng vì để mưu cầu riêng cho mình, mà ít nhất việc lành bằng mảy tơ sợi lông gì cũng đều phải hồi hướng thí cho pháp giới chúng sanh, bây giờ thì nguyện cho chóng phát triển trí huệ của Phật tánh, để quảng độ chúng sanh, thật như vậy.


4/Hồi sự hướng lý, nghĩa : Lạy Phật, tụng Kinh, tham thiền, học đạo, bố thí, làm phước, thay chúng làm việc, nhẫn đến giúp bầu nước, quét chỗ đất, việc lành bằng mảy lông, với các việc làm kể trên, nếu ta để ý trước tướng, thì đều thuộc về sự tướng : trái lại, nếu ta hiểu rằng : với năng niệm, năng tác, tánh cách nó đã không, thì với sở niệm sở tác, tánh cách nó cũng không mà cái cái không nó chẳng có bờ mé, tức nhiên toàn sự chính là lý, thì mỗi mỗi sự gì cũng đều bao trùm pháp giới, mỗi mỗi tâm niệm chi, cũng đều tròn bọc thái hư, như thế xét kỹ ra, nó đều thuộc về lý tánh cả. Chính chỗ gọi : sự thiện bằng hữu tướng, nó lẫn thành ra lý thiện bằng vô tướng. Sự lý dung hiệp lẫn nhau, tức là cảnh tam đế ; năng niệm năng tác chính là tâm tam quán. Tâm vẫn tức là cảnh, cảnh vẫn tức là tâm, thế là chơn tịnh độ. Với sự hành động và khi yên lặng trong hằng ngày của ta cùng người, đều phải quán xét như thế đó, thì, chính nơi chỗ ta đương ở đâu, cũng thành ngay được tự tâm tịnh độ liền tại đó.


Bài phát nguyện hồi hướng sau đây, là Ngài Duy Sơn Nhiên thiền sư chép ra, để tổng hồi hướng về pháp giới Tam bảo ; hoặc ai không thích, thì đổi đọc văn tịnh độ. Như “Khể thủ tây phương an lạc quốc....” “Thập phương tam thế Phật.....” “Nhứt tâm quy mạng.....” tùy ý, và tùy chí nguyện. Nhưng phải biết là tổng hồi hướng hay biệt hồi hướng ? chớ đừng phân biệt cố chấp mà thành ra cái bịnh xuyên tạc của kẻ tu học


Quy mạng thập phương Ðiều-Ngự Sư

 Diễn dương thanh-tịnh Vi diệu pháp

 Tam-thừa tứ quả giải-thoát tăng

 Nguyện tứ từ bi ai nhiếp thọ.


Lạy cả : “Ðiều ngự sư” mười phương ;

Giảng bày “pháp” thanh tịnh vi diệu ;

Ba thừa bốn quả “tăng” giải thoát ;

Xin đồng thương xót thâu nạp cho.


Bốn câu trên : Câu đầu là kính lạy ngôi Tam Bảo ; câu thứ hai là lạy ngôi Pháp bảo; câu thứ ba lạy ngôi Tăng bảo ; câu thứ tư là tổng quát để nguyện Tam Bảo chiếu ánh Từ Quang đến chứng nhận lời phát nguyện hồi hướng này.


Quy mạng : Cúi đầu kính lạy, là một nghĩa trong tiếng Nam mô (Namoahnamo. Như : Namo Buddhàya, dịch quy mạng ư Phật, nghĩa : Kính lạy đức Phật v.v.......)


Thập phương điều ngự  tức là các đức Phật ở mười phương. 10 phương là : Ðông, Tây Nam, Bắc, bốn góc (đông nam, Tây nam, tây bắc, đông bắc) thượng phương, và hạ phương.


Ðiều : trị, sữa. Ngự : gom dùng ; ngăn dẹp; điều khiển. Lý cho, để đặng phước có vui vô sanh; với chúng sanh còn có tánh cang cường, Phật cấm hẳn đi, khiến cho được đạo quả xuất thế gian. Số là : sức lành lan khắp, gôm giáp pháp giới để sửa đổi, giáo hóa, đó là Phật bảo ; với một mảy bụi không nhiễm lìa bốn điều quá (chấp có, chấp không, chấp phi có phi không, chấp cũng có cũng không), dứt hẳn trăm món quấy, đó là Thanh Tịnh ; tròn rỗng khắp giáp, lẽ nó tuyệt nói năng suy nghĩ, đó là Vi diệu ; nghĩa với pháp vi diệu thanh tịnh như thế duy chỉ có Phật mới có thể chứng và biết đựơc, rồi ra, khắp vì chúng sanh để giảng nói diệu pháp ấy mà nêu bày giáo hóa, thế mà chúng sanh còn phần nhiều vì mê mà chưa biết hết được pháp ấy ! còn các thánh giữa tam thừa thì, tùy theo mỗi trí của mình mà chứng biết lần hồi từ mỗi phần, thế nên ta cần phải quy mạng để mà nghiên cứu kỳ cho được “ly dục thanh tịnh” đó là Pháp bảo.


Tam thừa : bốn quả Thánh Thinh Văn là Tiểu thừa ; các Thánh Duyên giác, Ðộc giác là Trung thừa; các Thánh Bồ Tát là đại thừa. Tứ quả : tức là bốn quả Thánh Thinh văn như sơ quả Tu Ðà Hoàn, Nhị quả Tư Ðà Hàm, Tam quả A Na hàm, tứ quả A la hán. Các quả ấy đều là địa vị thánh nhơn, vì đã giải thoát hết sanh tử rồi nên xưng là Tăng bảo.


Ðối với Pháp, Ba thừa tùy phận mà biết :


1.-Thánh Thinh-văn chênh lệch biết : Chơn-đế pháp.

2.-Thánh Duyên-giác chênh lệch biết : Tục đế pháp.

3.-Thánh Bồ-Tát biết từ phần : Pháp trung đế. 


Người học Phật, đối với pháp “Tam-đế” nếu chỉ biết bằng cách chênh lệch riêng về “chơn-đế”mà thôi, thì chẳng gọi là biết đúng pháp vi diệu; vì pháp tiểu thừa thuyết ra cái chơn lý đó là nó lệch về một bên “không” nên nói các thánh Thinh văn biết pháp bằng cách lệch về chơn đế. Nghĩa : Chân, tránh cái khổ sanh tử trong tam giới, riêng hưởng lấy cái vui niết bàn ngoài ba cõi. Còn những người học Phật mà biết cả ba Ðế bằng cách trọn vẹn vẫn một chẳng hai, vì với pháp sanh tử đã giác ngộ rồi hết mê hoặc, thì, pháp sanh tử tức là niết bàn. Biết như vậy mới gọi là biết đúng pháp vi diệu, nên Ma ha tát, dịch : đại giác hữu tình, nghĩa : Bồ Tát lớn đã giác ngộ mình và chúng.


Ðể tử chúng đẳng

 Tự vi chơn tánh

 Uổng nhập mê lưu

 Tùy sanh tử dĩ phiêu trầm

 Trục sắc thanh nhi tham nhiễm

 Thập-triền thập-sử

 Tích thành hữu-lậu chi nhân

 Lục căn, lục trần

 Vọng tác vô biên chi tội

 Mê luân khổ hải

 Thâm nịch tà đồ

 Trước ngã đam nhân

 Cử uổng thố trực

 Lụy sanh nghiệp chướng

 Nhứt thiết khiên vưu.


Phật-tử cùng PHÁP GIỚI chúng sanh, từ trái tánh giác, luồng vào dòng mê, xuôi theo biển sanh tử để trôi chìm, rượt với cuộc sắc thanh làm hám đắm. Mười triền, mười sử, chứa nên cái nhơn hữu lậu; sáu căn, sáu trần, quấy tạo cái tội vô biên. Mê man lội bể khổ, đi sâu vào đường tà, lòng chấp ngã đắm nhơn, việc bỏ ngay làm vạy. Chồng chất đời nghiệp chướng tất cả quấy lỗi.


Ðoạn đây là nêu lên cái nhơn của nghiệp sanh tử. Ba cân đầu là : Từ nơi chơn tánh, phát sanh ra vọng nghiệp ; Nghĩa : Từ trái tánh giác, là điều hoặc ; luống vào dòng mê, là cái nghiệp; xuôi theo biển sanh tử, là khổ quả. Chính rằng : mê quên nơi chơn tánh, mà dấy ra vọng hoặc, từ nơi vọng hoặc để gây ra nghiệp nhơn, do nơi nghiệp nhơn rồi chịu khổ quả giữa tam giới, thực như vậy.


Câu thứ tư sắp xuống là : Từ nơi một thứ vọng này rồi chất chứa bao vọng khác. Là nói : bởi sáu căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý nó rượt theo với sáu trần là : sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, sáu trần làm hoen ố sáu căn. Căn thuộc về tâm, Trần thuộc về cảnh; cảnh kéo trì nhau với tâm, tâm bị hoàn cảnh lôi cuốn, lẫn nhau phát khởi ra phiền não là mười triền mười sử, lắm lúc tạo những tội chướng nhiều đến số lượng ! Thì lẽ tất nhiên, với ba giới sáu đạo, cứ luân hồi mãi trong vòng tròn sanh tử và đắm chìm nơi bể khổ hữu lậu đã sâu lại càng sâu !


Ðường tà tức là năm lợi sử trong mười sử ; nhơn ngã là năm độn sử trong mười sử : hễ sa đắm đường tà, thì, chẳng có cái chánh tri kiến để ra khỏi thế gian ; còn chấp nhơn ngã, thì gây tội lỗi ở thế gian : không có lòng nhơn từ bình đẳng, sanh khi điều nhận thấy lầm lệch bằng ái và ố ! Thì cũng như chỗ đức Khổng Tử nói : “Làm những việc cong quẹo, bỏ các điều ngay thẳng” thật không công bình gì hết ! lấy mà dùng là nghĩa chữ Cử, bỏ đi chẳng dùng là Thố; mưu tam hạn chế việc làm trái với chánh lý là Uổng ; để ý ngăn làm thuận theo chánh lý là Trực. Nghĩa : với chỗ ta yêu, dù nó là kẻ gian tham ngu bạo trái với chánh lý, thế mà ta cũng cất nhắc nó lên, để tín dụng ; với chỗ ta ghét, tuy nó là kẻ nhơn trí hiền lương thuận chánh lý, vậy mà đành ém gạt bỏ đi. Như thế thì, cái chánh lý tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ nó rối hẳn rồi ! Bất luận quân chủ hay dân chủ, chánh khách hay thứ nhơn....hễ một phen đã do nơi lòng ái, ố làm chướng ngại rồi, thì mối dây oan nghiệt cứ cột gút mãi chẳng thôi, mà với cái khiên vưu giữa ác đạo càng gấp nặng gấp sâu luôn !


Mười Sử làm thể, mười Triền làm nghiệp dụng, do mười sử làm tiên phong, thì có nghiệp dụng của thập triền nó làm cho chúng sanh mê muội chơn tâm, buộc ràng nơi sanh tử, không lúc nào buông ra được, nếu chẳng xuất gia tu hàng giải thoát.


Bốn sử tham, sân, si, mạn đều là mê chấp lấy sự vật giữa thế gian và khởi ra những quan niệm vọng hoặc của bốn ấy, tánh phận nó trì độn, nên gọi là độn sử; còn cái Nghi sử là đối với chơn lý của tứ đế mà sanh ra điều vọng hoặc này, tánh nó là do dự không quyết định gì được, thì, tánh phận cũng không tinh nhuệ chi, nên đồng loại với tham, sân, si, mạn, là ngũ độn sử.


Năm sử bén : Bởi mê muội cái lý tánh của pháp tứ đế mà khởi ra ngũ lợi sử nầy với giữa những điều vọng hoặc ; năm cái hoặc này tánh nó lanh lợi cũng như bén sước hơn hết nên gọi là ngũ lợi sử, tức cũng là ngũ kiến :


 1/ Thân kiến, tức là cái ngã kiến cà cái ngã sở kiến. Nghĩa : chẳng biết cái thân ta đây nó là vật giả dối bẵng ngũ uẩn hòa họp, mà lại kể chấp làm thật có cái thân của ta (ngã kiến : nhận thấy có ta) ; với những sự vật ở chung quanh bên thân ta lại chẳng biết nó là vật không có chủ sở hữu nhứt định, mà kể chấp cho là thật vật sở hữu của ta (ngã – sở – kiến : nhận thấy vật sở hữu của ta) ; nhập chung hai cái ngã kiến và ngã sở kiến lại làm một là thân kiến. Mà thường thường với cái ngã sở kiến, chỉ gọi tắt là ngã kiến. 


2/ Biên kiến : Một phen sau khi chấp có cái ngã thân dấy cái ngã kiến, thì với cái ngã, hoặc kể chấp rằng sau khi chết rồi, cái ngã (hồn) nó đoạn tuyệt hẳn ; hoặc kể chấp sau khi chết rồi nó cũng vẫn thường còn mãi chứ không dứt mất, vì hai nghĩa ấy là cái vọng kiến (thấy bậy) dấy ra ở bên sau cái thân kiến, nên gọi là biên kiến (đó là nghĩa cuả Duy thức học). Còn chấp lệch về một bên đoạn hay thường nên gọi là biên kiến (đó là nghĩa của Câu Xá Luận) 


3/ Giới thủ tức giới cấm thủ kiến : do nơi cái “kiến thủ kiến” dưới đây, bèn thủ lấy cái giới cấm “phi lý, phi quá” để làm đầu, dùng lấy mỗi mỗi hành pháp kia, để làm cái nhơn sanh về các cõi Trời, hoặc để làm cái đạo Niết bàn. Trong đây có hai thứ : a/ Giữ các giới ngưu, giới kê (ăn những vật của con trâu ăn, gà ăn, hoặc ăn bằng cách như trâu gặm gà mỗ) dùng làm cái để sanh lên Trời, thế là cái giới cấm thủ kiến bằng cách phi nhơn mà chấp làm nhơn) b/Tu các giới khổ hạnh bằng cách : hoặc lấy tro tô phết vào thân thể, hoặc tịch cốc, nhịn đói, ăn rau..... dùng khổ hạnh đó để làm cái đạo Niết bàn, thế là cái giới cấm thủ kiến bằng các phi đạo mà kể làm đạo. 


4/ Kiến thủ kiến : dùng cái tri kiến hạ liệt làm đầu, thủ lấy các hạ liệt khác, để tư tưởng làm một thứ rất tốt đẹp hơn hết. Nghĩa chữ “kiến” trên : dầu chỉ về chỗ nhận thấy cửa thân kiến, biên kiến, song chữ “kiến” ấy nghĩa nó còn hàm những mỗi sự vật khác nữa. 


5/ Tà kiến : với đạo lý có nhơn có quả, lại bác bỏ đi cho là không có nhơn có quả gì hết, như : cho rằng ở đời không có cái nguyên nhơn nào đem lại cái kết quả, cũng chẳng có cái kết quả nào do nguyên nhơn mà sanh, thành thử với các chúng chẳng sợ, với thiện chúgn cũng không ham, cái lối nhận thấy lầm lạc ấy, chính là đã tà kiến mà lại tà kiến hạng nặng ! nên tặng cho cái danh là “tà kiến”


Nhẫn trên năm điều kiến thức đó, là một phần ác tri huệ, với ngôi kiến đạo, đồng thời dứt hết năm điều ấy. Nhà Cựu dịch gọi là “Ngũ lợi sử”.


 Ngưỡng Tam-Bảo dĩ từ-bi

 Lịch nhứt tâm nhi sám hối.


Ngữa cầu Tam bảo duỗi từ bi, cúi nhỏ nhứt tâm xin sám hối.


Ðây là chung ngửa kính ngôi Tam bảo để cầu sám hối. Chữ “ngưỡng” là ngữa mặt trông lên trên để mà cầu xin. Chữ “Lịch” là nước nhỏ từ giọt có tiếng, tức là : Nghiên tận đáy lòng để lộ trần những điều tội lỗi không còn sót giấu. Như nghiêng bình rót nước ra hết chảy từ vòi đến từ giọt không còn sót một điểm nào.


Sở nguyện-Năng-Nhơn chẩn bạt

 Thiện hữu đề huề

 Xuất phiền-não chi thâm-uyên

 Ðáo Bồ-Ðề chi bỉ ngạn.


Cúi xin đức Năng nhơn cứu vớt, các thiện dắt dìu, lên khởi vực sâu phiền não, tiến đến ngàn giác bồ đề.


Ðây cho đến rốt bài điều dùng vâng Tam Bảo trên cầu chứng sám hối, để riêng dấy cái nguyện tự lợi lợi tha. Bốn câu ở trên đây : là chính tự mình nguyện nhờ cứu dắt tiến lên cảnh giới cực điểm là vô thượng chánh đẳng chánh giác tức quả vị Phật.


Hai chữ “Sở nguyện” nghĩa nó trùm suốt xuống cuối bài.


“Năng nhơn” : tức là đức Thích Ca giáo chủ.


“Thiện hữu” : bạn lành, người có đủ kiểu mẫu làm đạo, có công giúp ích mở trí. Chỉn bởi từ vô thỉ cũng như từ đời kiếp mà không biết đầu cuối là đâu, đã chứa chất dưới vực sâu phiền não, nay đây nếu phi Thánh giáo thì k hông thể đắc độ nổi ; lại bởi trí lực ta qua suy vi, với ngàn giác đạo, nếu phi thiện hữu thì chẳng thể tự mình chóng lên đặng. Tổ Quy Sơn nói :


“Ði đường xa, cốt nương bạn lành, để thường được trong sạch nơi tai nghe, mắt thấy; đến trụ chỗ nào, ắt phải chọn bạn, để mỗi giờ được nghe chỗ mà bấy lâu chưa nghe”.


Nên chi, với đạo cả, nếu muốn nghe nhiều hiểu rộng, thì lẽ tất nhiên là trước nhứt ta nên thân cận thiện hữu, đó chính trên đây bảo thế.


Thử thế phước cơ mạng vị

 Các nguyện xương long

 Lai sanh trí chủng linh miêu

 Ðồng hi tăng tú.


Ðời này : với nền phước ngôi mạng, đều nguyện chung được thanh cao; kiếp sau, giống trí mạ linh, đồng cầu cùng nhau thêm tốt.


Ðây là nguyện khắp cả người với ta đồng đặng phúc huệ. Kiếp trước đã đắp xây nền phước, đời nay ngôi mạng thanh cao; hiện nay đem giống trí của Phật gieo vào ruộng Tâm ta, mai sau này mầm linh chồi đạo mỗi giờ càng thêm tốt; mãi đến sau khi đã hoàn toàn kết quả bồ đề rồi, mà với mục đích chí nguyện ấy từ thỉ chí chung phi riêng vì đề cầu cho một cá nhân mình, mà chính vì phổ nguyện cho pháp giới chúng sanh đồng đắc như thế.


Sanh phùng trùng quốc

 Trưởng ngộ minh sư

 Chánh tín xuất-gia

 Ðồng chơn nhập đạo

 Lục căn thông lợi

 Tam nghiệp thuần hòa

 Bất nhiễm thế duyên

 Thường tu Phạm hạnh

 Chấp trì cấm giới

 Trần nghiệp bất xâm

 Nghiêm hộ oai nghi

 Quyên phi vô tổn.


Với đời sau, nguyện sanh ngay ở Trung châu quốc độ, lớn lên liền gặp đức thầy sáng suốt, ta do lòng chánh tín đi xuất gia từ tuổi đồng chơn đã vào đạo; lục căn đều sáng dạ, tam nghiệp lẫn trọn lành, chẳng nhượm duyên đời, thường tu hạnh sạch; giữ gìn giới cấm, với nghiệp trần chẳng xâm, dè dặt nết na, với một con vi trùng nhỏ bay cũng không nở làm tổn nó.


Ðây là nguyện sau khi sanh ra đời liền gặp ngay vị thiện tri thức, vào đạo giữ giới cấm do thầy đã truyền trao.


Những xứ ở nơi biên cương (bìa ranh) ít có văn hóa của Thánh hiền phổ cập thì phần nhiều là kẻ ngu ngoan bạo ác và tự cường; dầu sao cũng còn dã man; còn Trung ương quốc độ, thường có Thánh hiền xuất thân, tiếp tục lấy văn tự, giáo pháp, lễ nghĩa, tiết hạnh và đức độ để dạy bảo khuyên răn. Nên chi hễ muốn vào đạo Thánh hiền, ắt phải sanh ở trung độ của nước. Xin chớ hiểu lầm hai chi chữ “Trung quốc” là nước Tàu mà thàh ra biệt ngại bất thông.


Từ thiện của thế gian, không thể gọi là chánh đặng, vì còn phân biệt lệch về chấp ngã, chấp nhân; tịnh thiện của xuất thế gian mới gọi là chánh, vì hai chấp đã không, ba vòng chẳng có. Nên chỉ dùng kẻ chơn chánh học Phật là chánh tín, chánh thiện, bởi không tham nhiễm và chấp trước.


“xuất gia” : ra khỏi nhà, có ba nghĩa


1. Xuất hồng trần gia : ra khỏi nhà bụi hồng. Là lòng xa lìa trần cấu phiền não, chữ gia là gia thất, nó hàm có những nghĩa ân ái, phiền lụy, nên Tỳ bà sa luận nói : “gia là phiền não nhơn duyên, kẻ xuất gia là vì dứt trừ cấu lụy, nên phải xa lìa”. Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói : “Qua khỏi cửa này, là La hán ra khỏi trần”.


2. Xuất tam giới gia : Ra khỏi nhà tam giới. Ðại thừa Bồ Tát, đại thừa cư sĩ như Duy ma cật, vì tâm đã dứt hết cửu p hẩm mê hoặc cả tam giới tức A la hán, đều là hạng “tâm xuất gia”. Tâm giải thoát ngoài tam giới.


3. Xuất vô minh gia : ra khỏi nhà không sáng. Nghĩa là : Cái tâm ám độn không có ánh trí chiếu rõ sự lý của các pháp. Vô minh tức là tên riêng của si mê, vô minh nó hòa hợp nhau với tham mà sanh ra ta; vô minh tỷ là cha, tham ái tỷ là mẹ Kinh Lăng Già cuốn 3 nói : “Tham ái gọi là mẹ, vô minh thì là cha, người xuất gia trước phải diệt cha mẹ ấy”. Tứ giáo nghi nói “Từ biệt (diệt) hẳn cha mẹ vô minh, cứu cánh lên đảnh núi Niết bàn”. Nên nói ra khỏi nhà vô minh.


Vã lại, thân xuất gia : các Bý su bên tiểu thừa, và Bồ Tát tăng bên đại thừa; tâm xuất gia : cư sĩ tu Bồ Tát bên đại thừa. Như các ông : Duy ma, Hiền Hộ v.v..lại nữa,


1/ thân xuất gia tâm chẳng xuất gia : thân tuy ở giữa tăng chúng, tâm còn nhớ tưởng người nhà. 


2/ thân dù ở nhà, mà tâm đã ra khỏi nhà : mặc dầu thụ dụng với thê tử, mà lòng chẳng mê đắm ái ân. 


3/ Thân tâm đều xuất gia : Với bao cảnh tham dục, tâm không đoái hoài quyến luyến. 


4/ Thân tâm đều chẳng xuất gia: Vẫn còn nguyên thụ dụng với vợ con, lòng quá ư mê đắm điều kia việc nọ (rút ở Pháp uẩn túc luận)


Ðồng chân nhập đạo. Ðồng : trẻ, son, một mình. Nghĩa : kẻ tuổi trẻ chưa có thất gia (vợ chồng) đúng hơn là trinh tiết, thì gọi là Ðồng, vì ngươn tình còn nguyên vẹn, chưa hề bị hành dâm tan mất, người mà ít biết gì đến ái tình, mới để xuất gia nhập đạo, bởi tự bảo đảm khỏi mèo na, hổ bắt !


Lục căn thông lợi : Nhơn vì đời trước, với giữa Tam bảo đã có công rất sâu dày về siêng tu tìm học, nên nay đủ căn tánh đi hành đạo xuất thế gian, thành thử, vừa thấy nghe đạo Phật là, đã tín thụ thông lợi liền.


Tam nghiệp thuần hòa : Cái thân chẳng làm nghiệp ác là : sát sanh, thâu đạo và tà dâm; cái khẩu không nói lời ác là : vọng ngôn khỉ ngữ, lưỡng thiệt và ác khẩu; các ý chẳng niệm điều ác là : Tham lam, sân hận và si mê. Với khi hành động,, lúc yên nghĩ, đều chỉ một niềm tinh tịnh, gặp sự gì cũng không bạo động tàn ngược, nên gọi là thuần hòa.


Bất nhiễm thế duyên: Nhiễm : nhượm, dơ. Thế duyện, tức là các : ngũ dục (tiền của, sắc đẹp, danh vọng, an sang, ngũ sướng), sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) sanh và diệt. Ðối với sáu trần, thì, sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), nó thường ưa sanh ra gây nhiều tội lỗi, nên phải cấm, giữ lấy phạm hạnh là hạnh kiểm thanh tịnh, mà dứt hẳn những điều tập quán tham nhiễm để ngăn dứt cái nghiệp nhân của thân khẩu ý, nên gọi là bất nhiễm.


Phạm hạnh : cái tâm hạnh trong sạch không ô nhiễm. Nghiêm cấm mà chẳng phạm gọi là giới. Trần nghiệp tức là thế duyên. Xâm : lấn tổn, nhiễu nhương. Lòng tin thành gìn giữ, là nghiêm hộ. Vì nghiêm chính, nên khiến người kính nể, là UY. Vì hạnh vuông vức (đúng đắn), khiến người khá noi gương lấy mực, là nghi. Chính rằng cái cách thức hay gương mẫu để làm chánh đạo.


Cấm giới : mười điều răn của Sai di và các giới của Bí xu, Bí xu ni, thức xoa ma na; lại, trong giới Bí xu đủ có 3000 uy nghi, tám vạn hạnh vi tế.


Quyên phi : các loài trùng rất nhỏ mà có tánh cách biết hay như : muỗi, mòng v.v... vô tổn : Tức chẳng nở giết hại, rằng : với các loài chỉ biết bò biết bay mà thân mạng nó rất nhỏ, nhà tu sĩ còn thường phải năng thương giữ hộ thay, huống chi với tất cả vật có sanh mạng lớn ư ?


 Bất phùng bát nạn

 Bất khuyết tứ duyên

 Bát-nhã trí dĩ hiện tiền

 Bồ-Ðề tâm nhi bất thối

 Tu tập chánh pháp

 Liễu ngộ Ðại-Thừa

 Khai Lục-Ðộ chi hạnh môn

 Việt tam-kỳ chi kiếp hải.


Chẳng gặp tám nạn, không thiếu bốn duyên, trí bát nhã hiện tức thời, lòng bồ đề không lui sụt; học tu chánh pháp, rõ chứng đại thừa, mở cửa hạnh sáu độ, vượt k iếp lớn ba kỳ.


Ðây là ngoài thì phụ giúp, trong thì tự dấy để đủ về công viên tu thì quả mới viên chứng đặng.


Với điển bát nạn sẽ chỉ rõ ra cái biểu đồ sau kia, vì tám chỗ ấy vẫn chẳng được gặp Tam Bảo nên nói là nạn : Bị chướng ngại !


Tứ duyên có hai điển : 


1/ duyên thấy, duyên nghe, duyên hộ pháp, và có cái duyên để phát tâm; vì bốn cái duyên ấy đều hay để giúp ích cho cội bồ đề được tăng trưởng.


 2/ có bốn cái duyên về bốn sự ; y phục, ngọa cụ, ẩm thực, và thang dược đó là những dưỡng liệu bên ngoài để giúp cho sắc thân đủ sức khỏe để giúp bên trong phát khởi tiến triển, nghĩa là : Ngoài nhờ sự, sống bằng bốn duyên, trong đấy trí khôn của bát nhã. Hễ trí bát nhã đã sáng suốt, thì tâm bồ đề tự nhiên tăng tiến chứ không lui, hằng giừ tu chánh pháp, mỗi ngày nâng cao giáo thừa lên.


Ðại thừa là : Nhứt Phật thừa. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phật nói rằng : chỉ có pháp nhứt thừa là đúng, còn hai thừa kia là nhị thừa, tam thừa đều là phi chơn. Vì là pháp phương tiện, bỡi tạm quyền nhứt thời chi dụng, chớ phi cứu cánh.


Lục độ : Ta tu pháp bố thí là để độ cái tánh tham lam bón rít của ta, tu pháp trì giới là để độ cái tánh (tật, nghiệp) phá trai phạm giới ; tu pháp nhẫn nhục để độ cái tánh sân nhuế phẩn hận; tu pháp tinh tiến để sữa chữa cái tật trễ nãi; tu pháp thiền định là để cải biến các nghiệp tán tâm loạn tưởng ; tu pháp trí huệ là để độ lành cái bịnh ngu si của ta. Chữ Việt là Vượt bổng qua.


 A tăng kỳ : Phạm ngữ là : “Asamkhya” theo lớp cựu dịch mà ta đọc là a tăng kỳ, dịch chữ : vô số, nghĩa : Nhiều vô số kể. Lớp tân dịch mà ta đọc la a tăng sí da, phạm ngữ là : “A Sanikhyeya” dịch chữ : Vô ương số, “vô ương” cũng như “vô lượng” nghĩa như trên. Trí độ luận chép là : a tăng kỳ dịch là vô số, sách Huyền ứng âm nghĩa cuốn 24 chép là : A Tăng sí da, dịch là vô ương số, a tăng kỳ là con số cực lớn của toán học xưa ở Ấn đọ : Dùng muôn lần làm một số ức; muôn lần ức làm một số triệu mãi như thế bội bội tính lên, thì một a tăng kỳ kể có : một ngàn, muôn muôn muôn muôn muôn triệu.


Như bên Tạng giáo : Mang nghiệp chịu sanh trải qua ba a tăng kỳ kiếp tức là vô số kiếp tu hành theo đạo nghiệp của Bồ Tát làm những hạnh khổ mà người đời chủa làm được, Bồ Tát tu nhiều kiếp như thế kia, để hành lắm việc khó làm như thế nọ mới chứng đắc quả vô thượng là Phật.


Nay đây, bên Viên giáo : Trọn phần thành lập bản chương trình tu nhơn chứng quả cho chúng sanh, đến bực tứ địa mà với phần quả địa rồi là trọn phần nhơn chơn tu, để trọn phần dứt vọng hoặc, với lý thì chứng ngộ không sai, nên nói là vượt tam kỳ kiếp hải. (quả địa, là : Y theo vị trí nơi “Nhơn” nào để tu hành, thì đắc cái địa vị chứng ngộ về pháp gì là kết quả nấy ; cả 3 thừa đều có quả địa khác nhau, giữa Thinh văn thừa lại còn có bốn quả riêng biệt. Kinh Lăng Nghiêm chép : chỗ nhơn địa phát tâm là đồng hay là dị nhau với chỗ quả địa giác. Trên cuốn thứ sáu, sách Huyền ứng chép : Quả địa đã tròn tột rồi, thì chẳng còn nhơn vị.


 Kiến pháp tràng ư xứ xứ

 Phá nghi võng ư trùng trùng

 Hàng phục chúng ma

 Thiệu Long Tam Bảo

 Thừa sự thập phương chư Phật

 Vô hữu bì lao

 Tu học nhứt thiết Pháp môn

 Tất giai thông đạt

 Quảng tác phương huệ

 Phổ lợi trần sa

 Ðắc lục chủng chi thần thông

 Viên nhất sanh chi Phật quả.


Dựng cờ chánh pháp khắo nơi nơi, xé lưới tà nghi luôn lớp lớp, dẹp thắng bốn quân Ma, tiếp rân ba ngôi báu ; vâng thờ mười phương chư Phật không biêt nhọc nhằn, tu học tất cả pháp môn thảy đều thông suốt ; rộng ra làm đủ phước đức và trí tuệ, để lan khắp lợi cho nhiều chúng lắm loài; đều đắc phép thần đủ sáu món đồng tròn quả Phật ngay một đời.


Ðoạn đây là : Với trên, cầu đắc pháp mầu, với dưới dạy tu chung tròn quả Phật. Dựng cờ chánh pháp là : thuyết pháp độ sanh; kiến : dựng lên ; cờ túc là phướng : cao sáng. Nghĩa : Thí tỷ chánh pháp của Phật rất cao sáng, khiến cho đâu đâu cũng đều trông thấy mà nảy lòng kính tin. Lại nữa, còn nghĩa là tồi tà phụ chánh : Thí tỷ việc thuyết pháp là khiến cho thính giả xả tà quy chánh. Vì có hai nghĩa trên, nên bảo là Pháp tràng (cờ chánh pháp hay là cây phướng). Ði nói pháp khắp pháp giới để tùy theo trình độ của mỗi loại mà tế độ chúng sanh, nên gọi là xứ xứ (nơi nơi).


Chúng Ma : Ma nó hay cướp đoạt cái mạng của kẻ tu hành chánh đạo. Phạm ngữ là Ma ra, dịch nghĩa là : hay cướp mạng, làm chướng ngại, làm rối rắm, làm phá hoại, làm não hại. Ðức chúa trời ở cõi trời thứ sáu của Dục giới là Ma vương quyến thuọc của ông là dana Ma, người Ma. Các kinh luận của cựu dịch viết bằng chữ Ma là mùi. Lương Vũ Ðế đem chữ Quỷ thay vì chữ Thạch thành ra chữ Ma là ma quỷ. Nay xét : Chữ Ma, bằng bộ thạch là đúng theo danh từ đọc đủ tiếng phạm là Ma, ra, vì dịch âm chứ đâu phải dịch nghĩa ; còn Vũ đế thay, chữ Quỷ vào thành chữ Ma bằng bộ Quỷ, là dùng theo nghĩa rằng nó hay phá hoại cướp hại mạng người tu.


Ma có bốn thứ : 


1/ phiền não ma, vì các điều phiền não là tham, sân, si, mạn, nghi v.v..Nó hay làm tổn thương não hại nơi thân tâm, nên bảo là Ma. 


2/ Ấm ma. Lại kêu rằng ngũ chúng ma, tan dịch là uẩn ma, vì năm món sắc, thụ, tưởng, hành, thức nó hay sanh ra mỗi mỗi điều khổ não nữa, nên gọi là ma. 


3/ Tử ma : Vì cái chết nó hay dứt dứt cái căn (gân máu) sanh mạng của người nên nói nó là Ma. 


4/ Tha hóa tự tại thiên tử ma, tân dịch rằng tự tại thiên tử ma : Ðức Chúa Trời Ba Vương tên là Ba Tuân ở từng trời thứ sáu (tức là trời tha hóa tự tại) cõi Dục giới. Trời ba tuần đây chính là nghĩa của chữ Ma Ra. Còn Tử Ma mới thật là đoạt mạng. Thấy trí độ luận và nghĩa lâm dương đồng nói như thế. Mà Bồ Tát hay dùng sức trí huệ để chiến thắng tất cả Ma quân, La hán cũng có một nghĩa là sát tặc : giết cả sáu giặc.


Lục thần thông : Thần : chẳng thể xét lường được, như thần kỳ, thần diệu, nghĩa là lạ lùng lắm : thông : Suốt không chi ngần ngại. Các thánh trong ba thừa đắc sáu món trí huệ rất tự tại rất thần diệu chẳng thể xét lường, không chi làm trở ngại, nên gọi sáu phép thần thông :


1/ Thần túc thông : Ðắc phép thông lực, lội đi qua lại rất tự tại núi sông không làm trở ngại. 


2/ Thiên nhãn thông : Ðắc con mắt trời sắc giới, chiếu lâu không ngại.


 3/ Thiên nhĩ thông : đắc lỗ tai trời sắc giới, nghe suốt không ngại.


 4/ Tha tâm thông : Biết tất cả nghề nghiệp. Từ nhiều đời trước của ta và chúng sanh đều không ngại. 


 5/ Túc mạng thông : Biết tất cả nghề nghiệp. Từ nhiều đời trước của ta và chúng sanh  đều không ngại.


Với năm thông trên, đều do tu pháp thần hữu lậu hoặc nương nơi sự thuốc. Sức thần chú mà chứng đặng, nên các người tu tiên bên ngoại đạo cũng có thể chứng được, cả năm ấy đều gọi là trí chứng thông nữa, là : Bởi y nơi trí mà chứng được thông lực ấy trong Cu xá luận chép như thế. 


6/ Lậu tận thông : Tu pháp tam thừa tiến ngần ngại. Duy có các thánh tam thừa mới chứng được cái thông nầy mà thôi, chứ trời, tiên ngoại đạo đều chẳng có, vì tâm phiền não hãy còn !


Lại chia 3 hạng : 


1/ Báo đắc thông : Các ông trời ở ba giới đều có năm phép thần thông; nhẫn đến quỷ, thần cũng có một hai thông, vì thần thông ấy đều nương nơi quả báo nên nay cảm đặng bằng cách tự nhiên. 


2/ Tu đắc thông lực : Nguyên các thánh trong tam thừa do tu pháp tam học mà đắc lực thần thông; người tiên bên ngoại đạo do tu thiền định mà hiện đặng năm phép thần thông, biến hóa thông lực. Các thánh trong tam thừa dùng sức thần thông để biến hóa ra mỗi mỗi phép thần. Lại, chư Phật, Bồ Tát, duyên giác, thinh văn và ngoại đạo tiên nhơn do tu đắc thì đều gọi là “thần thông”, mặc dầu khác nhau bằng năm thông sáu thông : còn những thông lực của các loại : Thần, Quỉ, Chồn Cáo sở đắc đó, thì đều gọi là “Nghiệp thông”, vì các loại ấy do nơi nghiệp lực mà đắc thông.


3/Thành quả Phật ngay một đời : tức là bực Ðẳng giác ngôi nhứt sanh bổ xứ ; từ ngôi đây phát khởi ra cái tánh trí kim cang để chiếu phá hết một phần sanh tướng vô minh, tức là bực Diệu giác Cực quả, để chứng cái tánh tâm viên mãn pháp giới.


Nhiên hậu bất xả pháp giới

 Biến nhập trần lao

 Ðẳng Quan Âm chi từ tâm

 Hạnh Phổ Hiền chi nguyện hải

 Tha phương thử giới

 Trục loại kỳ hình

 Ứng hiện sắc thân

 Diễn dương diệu pháp.


Sau nầy, chẳng rời tánh pháp giới, khắp vào cõi trần lao, đồng với lòng từ của đức Quan Âm, làm cả biểu nguyện của đức Phổ Hiền; cõi nầy phương nọ, theo loại hiện tình, để ứng hiện sắc thân, đặng diễn nêu pháp nhiệm.


Ðoạn nầy là nói : Sau khi chứng quả, tùy theo căn cơ của chúng sanh, để phổ hiện hóa thân ra mà thuyết pháp dạy tu.


Nhiên hậu là lời thừa tiếp đoạn trên, phát khởi xuống đoạn dưới.


Tánh pháp giới, là cái danh thủ đô của nhứt tâm, cũng chỗ qui thú của vạn pháp. Số là, tự tâm đã thanh tịnh, thì thể nó khắp trùm mười phương, nên chi chẳng rời cái tâm pháp giới của Phật quả, mà vẫn khắp vào những cảnh trần lao giữa lục đạo. Như : Ðức Quán Thế Âm có ba mươi hai ứng thân để thị hiện khắp nơi các cửa nhà đó lại như đức Phổ Hiền có nguyện lớn sâu như biển cả vô cùng, lan khắp pháp giới để làm lợi ích chúng sanh, vì cũng hóa hiện ra nhiều thân hình bằng cách tùy theo các cơ cảm, để thuyết đủ pháp mầu.


Hỏi : Ứng thân có đồng hay không đồng nhau với hóa thân ?


Ðáp : cứ theo kinh Ðồng tánh và Kinh Kim Quang Minh, thì : Ngoài ứng thân, có thành lập ra hóa thân nữa, thế là hai thân ấy sai khác nhau. Luận khởi Tín thì với ngòai ứng thân, không thành lập hóa thân nữa. Ðến như các bộ Duy thức luận, Pháp hoa luận, thì ngoài hóa thân, chẳng thành lập ứng thân. Thế thì Hóa thân tức là ứng thân.


 Nê lê khổ thú

 Ngạ quỉ đạo trung

 Hoặc phóng đại quang minh

 Hoặc biến chư thần biến

 Kỳ hữu kiến ngã tướng

 Nãi chí văn ngã danh

 Giai phát Bồ-Ðề tâm

 Vĩnh xuất luân hồi khổ.


Với cảnh địa ngục khổ, trong đường Ma quỷ đói, hoặc buông ra ánh chiếu sáng lớn, hoặc hiện phép thần biến hóa nhiều : Những chúng thấy cái tướng tôi, nhẫn đến nghe danh tôi, đều dấy lòng bồ đề, ra khỏi khổ luân hồi.


Ðây nói cứu khổ cho ba ác đạo bằng cách tổng quát : Nê Lê tức là địa ngục đạo, vì bị tội khổ hành chịu không phút nào ngừng ! Chúng sanh trong giới ngạ quỷ giờ chịu mãi cái tội khổ đói khát !


Giữa súc sanh đạo : thì lại thường ăn tươi nuốt sống lẫn nhau, như kiến ăn cá cá ăn kiến, rắn nuốt nhái, loài lớn ăn loài nhỏ, thứ mạnh ăn thứ yếu v.v...những chúng sanh trong ba đường ấy là hạng chịu cực kỳ thống khổ !


Nay đây các Bồ Tát sau khi đắc quả rồi, hoặc phóng hào quang chiếu đến khiến cho chúng kia được giải thoát ! hoặc hiện thần biến tướng ra khiến cho chúng nọ sanh tâm kính tín, để cùng nhau vẫn khỏi cái phổ luân hồi, siêu sanh về nước cực lạc.


 Hỏa hoạch băng hà chi địa

 Biến tác hương lâm

 Ẩm đồng thực thiết chi đồ

 Hóa sanh Tịnh-độ.


Những chỗ vạc lửa hừng, sông giá lạnh, đổi làm rừng thơm : mấy loài ăn sắt nướng, uống đồng sôi, hóa sanh cõi tịnh.


Trên kia nói bằng cách tổng quát ; giờ đây nói bằng cách riêng biệt : để hóa độ các sở địa ngục.


Vạc lửa, là : tám sở địa ngục nóng. Sông giá, là : tám chỗ địa ngục lạnh. Nay đều nương ánh từ quang chiếu đến thảy cả liền hóa thành cảnh tịnh độ.


Phi mao đới giác

 Phụ trái hàm oan

 Tận bãi tân toan

 Hàm triêm lợi lạc.


Các loại : mang lông đội sừng, thiếu nợ ngậm hờn, đều thôi những khổ đắng cay, đồng hưởng lắm vui lợi ích.


Ðây cũng nói riêng biệt cảm hóa về súc loại ; nay chỉ nói một loài tẩu thú là để gồm thâu hết tất cả các loài súc sanh ở : trên không, mặt đất, và dưới nước rồi.


Thiếu nợ ngậm hờn, là : Súc sanh đều chuyên lấy sự ăn nuốt lẫn nhau đó, là cũng cốt vì để đền trả lại cái thiếu nợ bằng cách ăn thịt nó từ kiếp trước, nên kiếp nầy phải bồi thường túc trái bằng cách để cho nó ăn thịt lại mà trừ, kêu rằng : tham tha nhứt luyến luyến hườn tha, nghĩa là kiếp trước ta ăn một miếng thịt của nó, thì đời nay phải trả lại cho nó ăn một miếng thịt của ta. Nhưng chúng ta đương bị cái hôn mê giữa thân này cách với thân trước, nên ấm muội mà không thấy biết gì được ! chứ nếu chứng được cái tri túc mạng thông, thì tự phá tan cái mù hôn mê tức thấy biết được những việc mấy đời trước như việc trong giấc nằm mộng và lúc đã thức dậy ; với sự gì từ bữa hôm qua.... Và hôm nay vậy thôi.


Lại nữa, chúng sanh giữa lục đạo, đều có túc trái, đời đời cứ kết dây oan trái với nhau mãi chẳng thôi như thế kia, nay đều thôi dứt hết những điều cay đắng, và cùng nhuần thấm lợi ích yên vui giải thoát.


 Tật dịch thế nhi

 Hiện vi dược thảo

 Cứu liệu trầm kha

 Cơ cẩn thời nhi

 Hóa tác đạo lương

 Tế chư bần nỗi.


Với thời có tai tật dịch, hiện ra làm thuốc men để cứu lành bịnh trầm kha; với cơn xảy nạn đói ngu, hóa ra làm lúa bắp, để giúp yên vùng bần nổi.


Ðây là đức Từ hóa hiện ra để cứu khổ tai nạn Thân nhướm điều dữ nổi lên là nghĩa chữ Tật; cái tật ấy nó quá lắm, là nghĩa chữ Bịnh. Loài Quỷ nó hay thừa dịp có khí độc để làm cơn ôn hoàng dịch lệ. Dân chúng đều cái tai bịnh ấy, là nghĩa chữ Dịch tả. Trị cái chứng bịnh ấy lành là nghĩa chữ Liệu. Trầm kha là bịnh rất trầm trọng. Khônglúa thóc là nghĩa chữ Cơ; không cải rau là nghĩa chữ Cẩn. Lúa hột còn ở ngoài ruộng là nghĩa chữ Ðạo ; đã thâu hoạch về nhà vựa là nghĩa chữ Cốc. Thóc ra trấu rồi là nghĩa chữ Mễ chữ Lương là thứ bắp cao giàn. Chung gọi thì có sáu giống thóc, là : Ðạo, lượng, thục, mạch, thử, tắc.


Nổi : đói, với các điều tai hại như nạn tật dịch nạn cơ cẩn, thì trong bốn phương thiên hạ không chỗ nầy tất chỗ nọ thường thường có xảy ra đều bởi chúng sanh đồng tạo một thứ nghiệp từ đời trước mà nay đến ngày giờ đủ điều kiện gây nên.


Còn nếu như tiểu tam tai của kiếp giảm kia : đến cái thời nó nỗi thì cùng khắp cả trái đất, loài người đều bị tai ấy, là bởi những chúng sanh đồng nghiệp đã tạo phần nhiều ác ấy.


Tiểu tam tai – Trong một kiếp trụ, có hai chục lần tăng giãm như hai chục tiểu kiếp cái mà nó nổi lên ở phần rốt kiếp giảm đó gọi là tiểu tam tai : 


1/ Ðạo binh tai, vì loài người bấy giờ làm nhiều điều phi pháp, tâm sân độc càng thạnh, hễ vừa thấy nhau là liền dấy cái lòng tàn hại rất mãnh liệt, nên tùy theo tay cầm vật gì thì nó liền hóa thành gươm đao, nghĩa là tùy ý người muốn chi là nó hóa nấy, đặng để mà tàn sát lẫn nhau. 


2/ Tật dịch tai, vì loài người bấy giờ cũng gây các điều tội ác như trên, nên ai ai cũng thở cái độc khí ác nộ ấy ra như khói un cùng khắp, các loài ôn hoàng lợi dụng những hơi độc đó đem đi làm tật dịch mỗi nơi hễ ai xuông đụng độc khí bị quỷ hành đó, thì thổ tả chết liền. 


3/ cơ cẩn tai, vì thôi nhơn cũng bởi lòng ác nghiệt như trên đó, nên các vị thiên long không điều khiển chừng mực, thành thử mưa gió nắng tạnh không điều hòa, mùa màn thất lợi, thế gian bị đói lâu, nên phần nhiều bị mạng chung.


Cu Xá Luận cuốn 12 nói : từ lúc mà các chúng sanh do thân khẩu ý dấy đủ mười ác nghiệp, lần lần lại càng tăng trưởng đến bực thập ác hạng nặng ; bấy giờ loài ở châu diêm phù nầy tuổi sống giảm giảm lần lần mãi đến cái thời mà mỗi người chỉ còn mười tuổi là trọn đời, thì có cái tiểu tam tai hiện ra. Tiểu tam tai ấy nó hiện vào khoản rốt kiếp trụ. Ðao binh tai lưu hành chỉ có bảy ngày đêm ; tật dịch tai lưu hành bảy tháng ngày : cơ cẩn tai lưu hành bảy năm bảy tháng bảy ngày. Qua khỏi là hết kiếp trụ.


Ðối với cái thời tật dịch, cơ cẩn ấy, lòng từ bi bắt buộc, nên các Bồ Tát hoặc hiện ra làm các thứ dược thảo, đem cứu khắp nơi lành bịnh trầm kha; hoặc biến hóa làm các lúa bắp, để giúp đỡ cả vùng cơ cẩn, sau rồi cảm hóa chúng vào đạo Phật.


CUỐI KIẾP GIẢM TIÊU TAM TAI


Tuổi sống người giảm xuống

Chỉ còn 30 tuổi là mãn đời, thân lượn dài còn 3 thước, bấy giờ có cơ cẩn tai nôi lên suốt bảy năm đại hạn 

Chỉ còn 20 tuổi là mãn đời, thân lượng dài còn 2 thước, bấy giờ có tật dịch tai nổi lên suốt bảy tháng mới dứt. 

Chỉ còn 10 tuổi là trọn đời, thân dài còn chỉ 1 thước, có đao binh tai nổi lên luôn 7 ngày mới chấm dứt. 


 Ðản hữu lợi ích

 Vô bất hưng sùng.


Hễ việc làm mà có ích cho người lẫn ta, thì đâu chẳng chấn hưng sùng bái.


Ðây kết thúc về chỗ rộng ra dấy làm việc Phật. Sùng cao, chủ : Số là tu theo bực nhị thừa thì, trí thức chỉ lệch mạnh về phần tự lợi, mà yếu sút về phần lợi tha, nên chi các nhà tu sĩ bên nhị thừa thường ưa trốn tránh cảnh ồn áo, để ngắm xem chốn vắng lặng. Trái lại, người hành Bồ Tát đạo chẳng phải thế : bởi cơ quan đại tác dụng không ngần ngại, vì đối với việc chí, cảnh ngộ trường hợp nào hễ có ích lợi cho người lẫn ta, thì đâu chẳng tiến tới mau lên ra công tác ư ?


 Thứ kỳ lũy thế oan thân

 Hiện tồn quyến thuộc

 Xuất tứ sanh chi khốt một

 Xả Vạn kiếp chi ái triền

 Ðẳng dữ hàm sanh

 Tề thành Phật đạo.


Kế đó, nguyện cho kẻ thân người thù từ lắm kiếp, và những đáng quen thuộc hiện còn : đều lên khỏi cái khổ chìm nổi tứ sanh, đồng dứt buông cái dây ái ân vùng vạn kiếp, cả đến mọi loài, chung thành Phật đạo.


Ðây lại phát ra cái nguyện bình đẳng. Lũy là chồng chất. Thứ kỳ là lời thừa tiếp văn trên để lập lại dấy xuống văn dưới. Cốt một là vừa nổi vừa chìm mà người ta gọi là giả gạo, tùy theo mực nước cạn sâu, mà trồi lên hụp xuống có mau chậm. Hàm sanh : phàm là loài có thể cục cựa nhúc nhích được đó là chúng nó đều có linh thức và tánh biết của nó ; đã tánh biết thì đều có thể có ngày nó hồi đầu lại để tự tỏ ngộ bổn tánh Phật của nó. Số là :


Từ kiếp vô thỉ (không đầu, là không biết đầu từ đâu ? ) từ thuở có sanh loài người lại nay, tất cả người thân thuộc, kẻ oai gia, đều chìm nổi cũng như đầu vào trôn ra nơi bể tứ sanh là : Noãn, Thai, Thấp, Hóa, từ tình ái nầy đến tình ái nọ, cứ thế vấn vương riết chặt với nhau mãi trong cuồng tơ vô hình là sanh tử vạn kiếp ; nay ta nguyện cho tất cả chúng hữu tình kia với chúng ta đây đồng thành Phật đạo.


 Hư không hữu tận

 Ngã nguyện vô cùng

 Tình dữ vô tình

 Ðồng viên chủng trí.


Cõi hư không có hết, lòng nguyện tôi chăng cùng, chúng hữu tình và chúng vô tình, đồng tròn giống trí Phật.


Bốn câu chót đây là kết thúc về tâm nguyện vô cùng vô tận.


Tình tức là loài có tình thức, cả chánh báo chúng sanh ; vô tình tức là phần vô tri vô giác cả cõi y báo thế giới.


Giống trí là giống Phật tánh ; nguyên nó là căn bản thật trí; từ một niệm trái với chơn đó, thì toàn thể giống trí ấy nó biến thành ra cái vọng niệm, nếu biết quày đầu khiến chơn tánh tự sáng tỏ lại, thì toàn thể vọng niệm vô minh vẫn là giống trí Phật.


Hỏi : Với nghĩa rằng hữu tình thành Phật thì, tôi có thể biết được; còn chúng vô tình thì, làm gì cũng thành Phật ư ?


Ðáp : Y báo là quốc thổi, chánh báo là căn thân, đều do nơi nhứt tâm tạo tác ra. Kinh Lăng Nghiêm nói : tưởng trừng thành quốc thổ, tri giác nãi chúng sanh : phần tư tưởng nếu không hoạt động nữa mà ngưng lóng lại thì nó thành ra quốc thổ, là những vật vô tri vô giác; còn phần mà vẫn còn hoạt động, tri giác thì, nó thành ra chúng sanh, là những chúng có cảm tình tri thức. Thế biết rằng : hễ khi mà nhứt niệm mê, thì chánh báo nó cách ngại nhau với y báo; còn lúc mà nhứt niệm giác, thì thân căn lẫn rỗng nhau với quốc thổ. Lý do là hễ tâm niệm thanh tịnh tất nhiên Phật thổ tự thành tịnh; một bằng chứng hiển nhiên nầy nữa : hễ tâm của nhơn loại đều thanh tịnh, thì quốc thổ cũng đều bình tịnh yên vui; còn khi mà tâm loài người đồng bạo động chiến tranh, thì quốc thổ cũng đồng uế ác loạn khổ. Vậy biết : hễ nhơn sanh mà được vui hay bị khổ, là bởi nhơn tâm thiện tịnh hay ác động, mà đến nước nhà cây cỏ cũng chịu ảnh hưởng chung số phận. Thế thì, niệm mê niệm ngộ tự tâm, thì ra, với giữa vạn hữu vũ trụ, tùy ý bốc lên một cái gì đó nó đâu chẳng phải là cái của thanh tịnh diệu tâm, vì hễ còn tưởng trừng tức quốc độ, hết tưởng trừng tức tri giác. Nên bên cực lạc tịnh độ : nước, chim, cây, rừng....đều thường ngày hằng giờ vẫn đồng thuyết pháp vì loài ngươì bên ấy đều đồng giác ngộ rồi, nên quốc độ tức chúng sinh, chúng sanh tức quốc độ, cũng như nói : cảnh tức tâm, tâm tức cảnh cho nên nói tình dữ vô tình đồng viên chủng trí.


Mười nguyện lớn nhất của đức Phổ Hiền Bồ Tát.


Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện chép rằng: “lúc bấy giờ, đức Phổ Hiền Bồ Tát ma ha tát, sau khi xưng tụng công đức tối thắng của Phật rồi, rao bảo cùng các đức Bồ Tát và thiện tài rằng: thiện nam tử! đối với công đức của Như lai, ví dẫu tất cả chư Phật ở mười phương, trải qua nhiều kiếp bằng số “bất khả thuyết, bất khả thuyết Phật sát cực vi trần” để tiếp tục nhau nói mãi đi nữa, cũng chẳng thể nói công đức ấy! Nếu người muốn trọn nên công đức đó, thì chỉ nên tu mười thứ hạnh nguyện rộng lớn như sau v.v...


Lại sau mười nguyện có bài nói rằng: nếu có thiện nam tín nữ, lấy cả bảy thứ quý báu nhứt, tốt đẹp nhét đầy nhẫy trên tất cả thế giới ở mười phương bằng số “vô lượng vô biên bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần” và lấy cái phước tối thắng an lạc của loài người, loài trời đều đem ra bố thí cho chư Phật, Bồ Tát bằng số bấy nhiêu tất cả thế giới, mà bố thí luôn trải qua nhiều kiếp bằng số. Bấy nhiêu “Phật sát cực vi trần” vẫn tiếp tục bố thí mãi không ngớt, người thí chủ ấy sở đắc công đức nhiều quá sức tưởng tượng như thế kia, cũng chả bằng công đức như thế này:


Ðối với mười nguyện chú ấy, nếu có người chỉ một phen nghe lọt vào tai, mà sở đắc công đức quá ư rất nhiều, đến vô số kể. Ðem so với trên thì công đức của bố thí kia, chẳng kịp một phần trăm, chẳng kịp một phần ngàn...nhẫn đến cũng chẳng kịp một phần ưu ba ni sa đà.


Hoặc lại có người đối với nguyện lớn ấy, đem cái tâm tin sâu, để thụ trì đọc tụng, nhẫn đến viết chép ít nhứt là một bài kệ bằng bốn câu, thì chóng dứt trừ được cái tội nghiệp của địa ngục ngũ vô gián, ngoài ra với hết thảy các chứng bịnh, mọi điều chướng nạn đâu chẳng trừ diệt ráo (bài kệ bốn câu, là tức như: “sở hữu thập phương thế giới trung, tam thế nhứt thế nhơn sư tử, ngã dĩ thanh tịnh thân ngữ ý, nhứt thé biến lễ tận vô dư ....)


Lại nói: chỉ có nguyện vương (vua nguyện; nguyện lớn nhứt ) đây, chẳng rời bỏ nhau với người xấp xả thân qua đời, với mỗi giờ phút, nguyện ấy nó dẫn đường đi trước, chỉ trong một sát na, người được liền sanh qua thế giới cực lạc; tới rồi, liền được yết kiến đức A Di Ðà Phật, và các đức; Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí cả đến các đức Ðại Bồ Tát, ngài nào cũng đủ sắc tướng đoan nghiêm.


“Lại tự thấy thân mình trong hoa sen sanh ra, nhờ Phật thụ ký, từ đấy về sau trải lâu vô số kiếp, đi khắp giáp thập phương thế giới để làm việc ích lợi cho chúng sanh. Người ấy chẳng bao lâu nữa, sẽ ngồi chốn đạo tràng, thành quả đẳng chánh giác, chuyển diệu pháp luân, kêu là thuyết pháp độ sanh” mười nguyện chúa như dưới đây:


Nhứt giả lễ kính chư Phật:

Nguyện thứ nhứt đây là “kính lạy các đức Phật”


Bổn văn (là nguyên văn phẩm hạnh nguyện kinh Hoa Nghiêm) nói: rằng kính lạy các đức Phật đó, là có những bao hết cõi pháp, cõi hư không, trong đó, cả mười phương ba đời đời các đức Phật Thế Tôn bằng số “nhứt thế Phật cát cực vi trần: tất cả cõi Phật nhiều như những hột bụi cực nhỏ”, nay tôi nhơn theo danh nghĩa nguyện lực của đức Phổ Hiền, đem lòng rất thâm thiết tin hiểu, trông chư Phật như đối trước mắt, hẳn dùng ba nghiệp thân khẩu ý đều thanh tịnh, để được thường tu việc kính lạy. Nghĩa là: đối với mỗi mỗi đức Phật đều hiện ra nhiều mỗi mỗi thân bằng số “bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần”; mỗi mỗi thân khắp lạy chư Phật nhiều bằng số “bất khả thuyết Phật sát cực vi trần”, cứ vẫn tu lạy như thế, chừng nào cõi hư không hết, tu lạy của tôi mới hết, còn như cõi hư không chẳng hết, thì tu kính lạy của tôi đây cũng không có lúc nào cùng tận, cũng như thế: bao giờ cõi chúng sanh hết, nghiệp chúng sanh hết, phiền não của chúng sanh hết, thì chừng đó cái tu nguyện lạy của tôi mới hết mà nếu như thế giới của chúng sanh chưa hết, thì cái nguyện lễ kính của tôi đây cũng chưa có cùng tận. Với lòng tin tưởng lạy Phật đây, mỗi niệm liền nhau không hề gián đoạn cả đến ba nghiệp là ý tưởng, miệng xướng, thân lạy vẫn không nhàm chán.


Lễ: noi theo, hay thể theo, để thật hành cái nguyện kính lễ. Nghĩa là khi lễ kính, ta phải mỗi niệm đưa lòng tưởng, xét đi sâu vào cái thể pháp giới, mới gọi là chơn lễ. Lại nữa, ta là bên năng lễ năng kính, còn chư Phật là bên sở lễ sở kính. Năng lễ năng kính là thuộc về tâm, sở lễ sở kính là thuộc về cảnh chư Phật bị ta lạy là sở lễ. Mà năng lễ sở lễ cái tánh nó vẫn đều vắng trống, thì ra, hiện tiền đây, thân tâm của ta dù là thứ giả dối, chứ cái tánh năng lễ sở lễ nó không hề hư vọng, vì là thể nó trống vắng, mà tánh nó đồng một thể viên mãn với thân tâm của chư Phật. Tỷ như cái không này nhập chung với cái không kia, lẽ cảm ứng lẫn nhau bằng cách viên mãn dung vô ngại, bất khả tư nghì, thế mới chánh rằng chân lễ.


Nhị giả xưng tán Như lai

Nguyện thứ hai là khen kính đức Như Lai


Bổn văn chép rằng xưng tán Như lai như thế này: có những bao nhiêu tột hết cõi pháp, cõi hư không, ngang giáp mười phương, dọc suốt ba đời, tất cả cõi nước, trong đó có những bao nhiêu mảy trần nhỏ nhứt, trong mỗi mỗi mảy trần đều có các đức Phật nhiều bằng những số mảy trần nhỏ nhứt giữa tất cả thế gian; những chỗ của mỗi mỗi đức Phật, đều có hàng cả biển hội Bồ Tát đoanh vây bao vòng nơi mỗi Phật. Tôi sẽ trọn dùng cái sức thấy biết hiện tiền rất sâu biển hơn, đều dùng hiện ra cuống lưỡi hơn cuống lưỡi vi diệu của biện tài thiện nữ, mỗi mỗi cuống lưỡi đều thốt ra vô cùng biển âm thinh, mỗi một âm thinh thuyết ra tất cả biển ngôn từ, để tỏ bày khen ngợi các biến công đức của tất cả Như lai, tán dương như thế tột qua đời vị lai, cũng vẫn tiếp tục khen ngợi mãi chẳng dứt, cùng cả cõi pháp, đâu chẳng khắp giáp đến để xưng dương tán thán. Cứ khen tặng như thế luôn, chừng nào cõi hư không hết, cõi chúng sanh hết, nghiệp chúng sanh hết, phiền não của chúng sanh hết, thì bấy giờ cái nguyện xưng tán của tôi mới hết. Nếu cõi hư không....cho đến các phiền não của chúng sanh chưa hết, thì cái nguyện tán thán của tôi cũng không bao giờ hết. Mỗi niệm nối nhau chẳng dứt, ba nghiệp là thân, khẩu, ý thường tu tán thán hoài không biết nhàm mỏi. 


Ðối với Phật đủ công đức bất khả tư nghị, người tu nguyện xứng tán....ít nhứt một lời đẻ khâm khen, thì công đức của người ấy, còn chắc sẽ thành Phật thay, huống chi là người thường thường tu những lời xưng tán.


Kính Pháp Hoa chép lời Phật dạy: “Hoặc đem tâm hoan hỷ, để xưng tụng công đức của Phật, như ca ngâm hay xưng tán. Những người ca tán để khen Phật với giọng cao hay trung bình, cùng ít nhứt là một tiếng nhỏ, những người ấy đều đã đương, sẽ được thành Phật đạo “.


Tam giả quảng tu cúng dường

Thứ ba là nguyện “tu rộng làm việc cúng dâng


Bổn văn chép “rằng: quảng tu cúng dường là rộng cùng tột hết cõi pháp, cõi hư không, ngang giáp mười phương, dọc suốt ba đời, trong tất cả cõi Phật nhiều như những hột cực vi trần, mỗi một hột bụi, đều có chư Phật rất nhiều bằng số cực vi trần giữa tất cả thế giới, mỗi một chỗ Phật có nhiều biển hội Bồ Tát bao quanh Phật, tôi nhơn danh lấy sức hạnh nguyện đức Phổ Hiền, để dấy cái tri kiến hiện tiền tin hiểu thật sâu và dùng các món đồ vật tốt nhất để cúng dường, như là: hoa, tràng bông, âm nhạc trời, tàn lọng trời, y phục trời..., mỗi món đếu tốt nhứt như mây ùn ùn dương lên; mỗi món hương đều tốt nhứt, như: hương thoa, hương xông, hương bột. Các món hương tốt nhứt như mây đây, mỗi món lượng bằng núi chúa Tu di; đốt nhiều thứ đèn, như là: “Tô đăng (là đèn một chân có tám ngọn đốt cúng trên bàn Phật, khi tụng thần chú) “Du Ðăng” (là đèn thắp bằng dầu của các thứ trái, củ, hột, ép ra); và đốt đèn bằng các thứ dầu thơm, mỗi ngọn đèn lớn như núi Diệu cao; mỗi ngọn đèn chứa dầu như nước biển lớn. Tôi dùng tất cả các món đồ như thế, để thường làm vật cúng dường”.


Ðức Phổ Hiền kêu Thiện Tài bảo: Thiện nam tử! Trong các món cúng dường, duy có “pháp cúng dường” là tối thắng hơn hết. Nghĩa là: giữ đúng như lời Phật dạy mà tu hành là cúng dường; làm ích lợi cho chúng sanh là cúng dường; thâu nạp chúng sanh là cúng dường; siêng tu căn lành; là cúng dường chẳng rời hạnh nghiệp của Bồ Tát tức là pháp cúng dường; chẳng lìa tâm bồ đề tức là pháp cúng dường.


Thiện nam tử! với vô lượng công đức của các món cúng dường như trước kia, đem so với công đức chỉ trong một niệm của pháp cúng dường đây, thì trăm phần công đức kia chẳng bằng một phần công đức nầy; cho đến: trăm ngàn lần ức, trăm ngàn lần triệu, trăm ngàn lần một phần trăm, trăm ngàn lần một phần toán, trăm ngàn lần một phần số, trăm ngàn lần một phần dụ, trăm ngàn lần một phần ít nhứt, cũng đều chẳng bằng một phần công đức pháp cúng dường. Do cớ sao?


Bởi vì các đức Như Lai đều tôn trọng pháp; bởi vì tu hành đúng như lời nói mới sản xuất ra chư Phật. Nếu các Bồ Tát cúng dường theo cách thật hành pháp, thì đắc thành tựu cúng dường Như lai. Tu hành như thế mới thật là cúng dường.


Nên với cái nguyện tu cúng dường quảng đại tối thắng nầy, bao giờ cõi hư không hết, cõi chúng sanh hết, nghiệp chúng sanh hết, phiền não chúng sanh hết, thì cái nguyện tu cúng dường của tôi mới hết; còn nếu cõi hư không...đến phiền não chưa hết, thì cái nguyện tu cúng dường của tôi cũng chưa hết. Vậy cái nguyện tu cúng dường, mỗi niệm nối nhau không hề gián đoạn, ba nghiệp thân, khẩu, ý, mới không có chán mỏi.


Kinh Pháp Hoa nói “thật cúng dường, là gọi đúng pháp cúng dường Như Lai”. Nếu hay tùy dâng lên một trần nào giữa 6 trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp), thì tất cả pháp cũng đều đến tập trung nơi trần, cái đến tập trung như thế là pháp nào cũng chẳng khỏi trần, thì mỗi trần nào mỗi trần nấy cũng đều có thể lẫn khắp với nhau, đó là tu cúng dường bằng lẽ duy tâm, chính tức là pháp cúng dường”.


Lại, Kinh Pháp Hoa nói: “trước Chùa Tháp, tượng Phật bằng cốt báu hay tượng vẽ,mà người có lòng thành kính, đem hương, hoa, tràng phan, bửu cái để cúng dường...người ấy sẽ thấy được nhiều Phật, rồi được thành đạo quả vô thượng.


Tứ giả sám hối nghiệp chướng

Thứ tư là nguyện “sám hối nghiệp chướng”


Bổn văn nói rằng: “Sám hối nghiệp chướng, là Bồ Tát tự nghĩ lại mình như vầy: “Từ vô thỉ về thời quá khứ, ta do nơi ý thức dấy động tham lam, sân hận, si mê, rồi miệng thốt, thân hiện hành, tạo tác mười điều ác nghiệp (thân tam: sát, đạo, dâm; Khẩu tứ: vọng ngôn, khỉ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu: ý tam: tham, sân, si) dần dần gây nhân ác nhiều đến vô lượng vô biên. Nếu những ác nghiệp ấy có hình tướng thì cả cõi hư không cũng chẳng thể dung chứa hết đặng! Vì ác nghiệp vô hình, vô tướng con người không để ý sợ mà vẫn cứ làm hoài.


Tôi nay đều chuyên lấy ba nghiệp thanh tịnh để khắp đến trước tất cả chư Phật và chư Bồ Tát chúng trong pháp giới nhiều bằng số cực vi trần, mà thành tâm xin sám hối hết thảy những tội ác nghiệp đã lầm lỡ gây từ trước, và thề rằng từ đây về sau không dám tạo ác nữa, để hằng giờ an trụ nơi tịnh giới, lo làm tất cả công đức.


Với cái nguyện tu sám hối như thế, chừng nào cõi hư không nầy hết, cõi chúng sanh nầy hết, chúng sanh nầy hết ác nghiệp, chúng sanh nầy hết phiền não, thì chừng đó, cái nguyện sám hối của tôi mới hết; mà nếu như cõi hư không nầy, cho đến chúng sanh nầy chưa hết phiền não, thì cái nguyện tu sám hối của tôi cũng không cùng tận; mỗi niệm vẫn tu sám hối mãi không hề gián đoạn, cả thân, khẩu, ý ba nghiệp thường cần tu sám hối luôn, không hề chán nãn.


Sám là sám kỳ tiền khiên, nghĩa là rửa sạch, trừ hết tiền khiên; hối là hối kỳ hậu quá, nghĩa là ăn năn, kiêng cả hậu quá. Chính rằng: cải thiện lỗi cũ, chẳng tạo lỗi mới. Có ba cách sám hối sẽ thấy rõ ở văn đại sám hối (là văn hồng danh bửu sám nghi thức)


Hối: Riêng về hối có năm cách hối 


1/ sám hối, 

2/ khuyến thỉnh 

3/ tùy hỉ 

4/ Hồi hương 

5/ Phát nguyện mà thường gọi là ngũ hối.


Nghiệp có ba: Thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp. Ba nghiệp của cái thân là: giết hại, trộm cướp, dâm dục. Bốn nghiệp của cái miệng là: nói láo, nói thêm, nói hai lưỡi, nói thô ác. Ba nghiệp của ý thức là: Tham lam, sân hận, si mê; ấy gọi là thập ác. Trái loại thì bảo là thập thiện. Nay ở đây nói rằng thanh tịnh tám nghiệp là mười điều lành của pháp tánh.


Chướng có ba: Báo chướng, nghiệp chướng, và phiền não chướng, kẻ tu Phật phải biết rằng: nghiệp chướng vẫn vô hình, vô tướng, và tội với phước cũng đều vô chủ. Nghĩa là chẳng nhứt định riêng có ông nào làm chủ tể để xả tội hay ban phước cho ta được đâu? Mà nguyên lai là chính tự ta làm chủ lấy để tự mình làm tội thì có tội, làm phước thì có phước, mà ta có làm thì nó có, ta không làm thì nó cũng không có. Có không đều tự nơi ta, thân ta không làm ác, khẩu ta không nói ác, ý ta không tưởng ác, tức nhiên cũng không ta làm chủ tội ác nữa; thế ý niệm đã mất tội tánh cũng diệt; tâm tội đều không vẫn hoàn không; sám hối phải xét rõ như thế, mới đúng nghĩa chơn sám hối.


Ngũ giả tùy hỷ công đức

Thứ năm là tu cái nguyện “tùy hỷ công đức”


Bổn văn nói rằng: “Tùy hỷ công đức, là có bao nhiêu đức Phật Như Lai nhiều bằng số như những hột bụi nhỏ nhứt trong tất cả cõi nước Phật, dọc suốt ba đời, ngang giáp mười phương tột hết pháp giới, cùng hư không giới, vì “nhứt thế trí” mà nguyên chư Phật Như Lai kia, từ mới phát tâm siêng tu phước đức trí huệ, chẳng tiếc thân mạng, tu như thế đó trải qua nhiều kiếp bằng những hạt bụi cực kỳ nhỏ tí trong những cõi Phật số bất khả bất khả thuyết; với trong mỗi mỗi kiếp đó, chư Phật Như lai đã hy sinh những đầu, mắt, tay chơn rất nhiều bằng con số bất khả thuyết; bất khả thuyết Phật sát cực vi trần, các ngài tu tất cả các khổ hạnh mà người đời khó làm được như thế, nên các ngài đã viên mãn được món pháp môn (thành phần nhiều khoa) Ba la mật, để chứng vào mỗi mỗi bực trí huệ của Bồ Tát, nhiên hậu mới thành tựu quả vô thượng bồ đề của chư Phật, và sau khi vào niết bàn, chia của xá lợi ra làm cho nhiều nơi, nhiều đời làm kỷ niệm. Vậy với chư Phật Như lai đã có bao thành tích thiện căn, tôi nguyện đều tùy hỷ noi gương làm theo.


Và với tất cả chủng loại giữa tứ sanh, lục thú trong hết thảy thế giới mười phương kia, các chủng loại ấy đã có làm nên bao công đức. Từ ít đến nhiều, nhẫn đến việc lành nhỏ nhứt bằng hột bụi, tôi cũng sẵn lòng tùy hỷ theo, là lấy làm vui mừng, tán thành, để chúng làm nên công chuyện.


Ðối với hết thảy các thánh từ bực hữu học đến bực vô học là các đức Thanh Văn và Duyên giác, dọc suốt ba đời, ngang giáp mười phương. Các đức ấy đã có được bao nhiêu công đức, tôi điều cũng xin tùy hỷ kính mừng theo.


Ðối với hạnh khổ khó làm mà tất cả các đức Bồ Tát đã làm để cầu chứng lên quả bồ đề vô thượng chánh giác. Công đức ấy quá rộng lớn của Bồ Tát. Tôi cũng nguyện tùy hỷ tu theo.


Nguyện tu tùy hỉ như thế, mãi chừng nào cõi hư không nầy hết, cõi chúng sanh nầy hết, nghiệp chúng sanh nầy hết, phiền não chúng sanh nầy hết, chớ cái tâm nguyện tu tùy hỷ của tôi đây, không bao giờ cùng tận, mỗi niệm tiếp tục luôn, không có xen hở, cả ba nghiệp, thân, khẩu, ý vẫn thường siêng tu hoài hoài, không dám bi quyện hay chán nản.


Hễ là thấy ai, hoặc lạy Phật, tụng kinh, làm các việc công đức bất luận lớn hay nhỏ, và thấy ai làm việc công quả...ít nhứt như là gánh nước, quét nhà, tôi cũng đều kính phục tùy hỷ, thì ai như tôi sẽ được công đức vô lượng.


Lục giả thỉnh chuyển pháp luân

Thứ sáu là tu cái nguyện “Mời Phật nói pháp”


Bổn văn chép rằng: mời Phật nói pháp, là có những tột cõi pháp cõi hư không mười phương ba đời tất cả cõi Phật, trong những hột bụi hết sức nhỏ, mỗi mỗi đều có những cõi Phật rộng lớn nhiều như số những hột bụi rất nhỏ trong các cõi Phật bằng số bất khả thuyết bất khả thuyết; đó là lẽ rằng cái lớn, phần nhiều nó không rời nhau với cái nhỏ, phần ít, mà cái nhỏ, phần ít nó cũng không lìa nhau với cái lớn, và phần nhiều, kêu bằng nhứt đa vô ngại, đại tiểu tương dung. Trong mỗi một cõi Phật, niệm nào niệm nấy đều có những con số chẳng khá nói chẳng khá nói cõi Phật nhiều như những hột bụi rất bé tí, trong những cõi ấy đều có tất cả chư Phật đã thành bực đẳng chánh giác, có tất cả biển hội Bồ Tát đương quây quầng chung quanh Phật, mà tôi thì tôi dùng ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, mỗi pháp phương tiện, để nong nã khuyên thỉnh chư Phật chuyển diệu pháp luân.


Nguyện tu khuyến thỉnh như thế, mãi đến chừng nào cõi hư không hết, cõi chúng sanh hết. Nghiệp chúng sanh hết, phiền não chúng sanh hết, nếu những ấy chưa hết, thì tôi cũng chưa hết cái nguyện thường khuyến thỉnh tất cả chư Phật chuyển chánh páhp luân. Mỗi niệm tiếp nhau chẳng có gián đoạn, cả thân khẩu ý ba nghiệp thường khuyến thỉnh, không có mỏi chán.


Chữ Chuyển là tiếng nói pháp từ miệng Phật chuyển đem lọt vào lỗ tai của chúng sanh: liền khiến cho y theo giáo mà dấy ra hành, để cách mạng phàm tình tập thành thánh trí, tỷ như bánh xe nó triển chuyển. Bởi vì hễ pháp luân thường chuyển thì, chúng sanh thường được ly khổ, chỉnh với kẻ thiếu phước ít duyên, nên với Phật pháp nó khó nghe qua hiểu liền, vì vậy mà tôi phải cần kíp khuyến thỉnh.


Thất giả thỉnh Phật trụ thế

Thứ bảy là nguyện “xin Phật ở nán lại cõi thế gian này”.


Bổn văn nói rằng: thỉnh Phật trụ thế, là có chư Phật nhiều bằng số những hột bụi cực vi trong tất cả cõi Phật ba đời mười phương tột hết các cõi pháp giới hư không, sắp muốn hiện ra cái tướng nhập diệt, và các thánh: Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác, bực hữu học, bực vô học, nhẫn đến tất cả các đấng Thiện tri thức, vị nào muốn sẽ nhập diệt, tôi đều khuyến thỉnh chớ vội vào Niết bàn, xin ở nán lại trải qua kiếp số cực vi trần trong nhứt thế Phật sát, để được lợi lạc cho tất cả chúng sanh. Như thế, cõi hư không hết, cõi chúng sanh hết, nghiệp chúng sanh hết, phiền não của chúng sanh hết, chứ cái nguyện cầu Phật và các Thánh ở đời của tôi không có cùng tột mỗi niệm tiếp tục luôn, chẳng có gián đoạn, thân khẩu ý ba nghiệp cũng không chán mõi.


Phật pháp xuất hưng ở đời, tỷ như ánh mặt nhựt chiếu xuống thế gian; những thời không Phật ra đời, tỷ như đêm dài quá tăm tối; từ kiếp tối tăm này vào đến kiếp tăm tối nọ, tiếp tục tạo ác mãi, đi sâu vào tam đồ! Ðối với thời có chư Phật ra đời, cách bức xa xuôi thật là khó gặp! Tỷ như hoa ưu đàm, hằng ba ngàn năm mới một phen trổ hiện; chính như toàn quốc xá vệ có chín ức nóc nhà: mà có ba ức nhà được thấy Phật, ba ức nhà chỉ vừa mới nghe được danh, còn ba ức nhà kia đều chưa được nghe đến cái tên Phật là gì? Vậy chúng ta cần kíp khuyến thỉnh các đức thánh hiền nãn ở lại đời, cho chúng sanh được nghe thấy.


Bát giã thường tùy Phật học

Thứ tám là nguyện “thường theo Phật để học”


Bổn văn chép rằng: thường theo Phật học là chính như tại thế giới ta bà đây, nguyên đức Phật Tỳ Lô Cha Na Như Lai từ ban sơ mới phát tâm xuất gia tu học cho đến thời chứng quả, trong khoảng giữa cực kỳ dài dẳng, vì trải qua nhiều đời kiếp, vẫn một tâm tinh tiến chẳng lui, đã đem những thân mạng nhiều bằng số bất khả thuyết bất khả thuyết để làm hạnh bố thí đặng mà cầu học, như là: xã thân làm tọa ngồi, khoét thân làm đèn, trải tóc Phật bước lên tòa, cho đến lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, chích máu làm mực, để biên kinh sách chât như núi cao, chính vì trọng pháp bảo để cầu học, mà chẳng tiếc thân mạng. Ðó, rất đổi thân mạng là món chi trọng hơn hết mà còn chẳng tiếc huống chi những món bên ngoài là: ngôi vua, kinh thành, tỉnh ấp, làng mạc, cung điện, thượng uyển, sơn lâm và nhứt thiết vật sở hữu gì gì nữa. Ngoài ra còn tu hành mỗi mỗi hạnh khổ mà không ai làm được nhẫn đến lúc ngồi bên gốc cây Da lông đồ, thành quả đại bồ đề; bấy giờ Phật thị hiện ra mỗi mỗi phép thần thông, phát khởi lên mỗi mỗi cách biến hóa, hiện bày ra mỗi mỗi ứng thân, tổ thành ra mỗi mỗi chúng hội. Như là: hoặc ngài chủ tọa nơi đạo tràng chúng hội của tất cả chư đại Bồ Tát; khi thì chủ tọa ở đạo tràng chúng hội của các thánh Thanh văn và Bích Chi Phật; lúc thì chủ tọa ở đạo tràng chúng hội của đức Chuyển luân Thánh Vương và các vua nước nhỏ cả đến quyến thuộc của hoàng thân quốc thích; hồi thì chủ tọa ở đạo tràng chúng hội của các dòng sát lợi, dòng Bà la môn, cả trưởng giả cư sĩ; nhẫn đến có thuở chủ tọa ở đạo tràng chúng hội của Trời, rồng cả tám bộ thần Hộ pháp và các vị Nhơn Phi nhơn là quỷ thần.


Phật chủ tịch ở mỗi mỗi chúng hội như thế, là để dùng pháp âm viên mãn như đại lôi chấn, tùy theo mỗi căn cơ cũng như trình độ ham thích, mà huấn luyện cho chúng được thành thục, nhẫn đến khi ngài thị hiện vào Niết bàn; như thế với những việc Phật đã làm kể trên, tôi nguyện đều theo tu học, như đức Lô Cha Na Thế Tôn vừa nhập diệt rồi ở kiếp thứ chín này vậy.


Như thế, tột cả cõi pháp, cõi hư không mười phương ba đời tất cả cõi Phật, trong đó có những số vi trần bao nhiêu là những số Như lai cũng bấy nhiêu, tôi nguyện đều theo học các đức Như Lai ấy, với niệm nào niệm nấy vẫn theo hầu luôn.


Theo hầu học như thế, chừng nào dẫu cõi hư không hết, cõi chúng sanh hết, nghiệp chúng sanh hết, phiền não chúng sanh hết, chứ cái nguyện theo Phật để hầu học của tôi không có tội hết, mỗi niệm tiếp tục chẳng hề gián đoạn, cả thân khẩu ý ba nghiệp siêng học không dám mỏi chán.


Như đã trãi quả nhiều kiếp đến nay, đức A nan đà vẫn làm kẻ thị giả hầu Phật, chẳng chỉ một đức Khánh hỷ, mà đến cả các vị đệ tử lớn kia của Phật cũng đều thế ấy. Như thế dầu chẳng phải là vì chúng sanh như mình, mà phải phát nguyện tiếp tục trải qua nhiều kiếp để theo hầu học với chư Phật, mà vì lẽ phải cốt yếu lo tự giác giác tha, và tự lợi lợi tha vậy.


Cửu giả hằng thuận chúng sanh

Thứ chín là nguyện “thường chấp thuận việc cầu của chúng sanh


Bổn văn nói rằng: Hằng thuận chúng sanh là tột hết pháp giới hư không giới, mười phương cả sát hải (thủy và lục) có những chúng sanh mỗi mỗi sai khác, như là: loài noãn sanh, loài thai sanh, loài thấp sanh, loài hóa sanh; có loài nương nơi đất, nước, lửa, gió để ở và sống; có loài nương hư không, các lùm cây để ở và sống; mỗi mỗi sanh loại, mỗi mỗi sắc thân, mỗi mỗi hình trạng mỗi mỗi tướng mạo sắc thân, mỗi mỗi hạn lượng tuổi sống, mỗi mỗi dòng dõi giống loài, mỗi mỗi tên hiệu, mỗi mỗi tâm tánh, mỗi mỗi biết thấy, mỗi mỗi ưa muốn, mỗi mỗi ý nghĩ ra làm mỗi mỗi cách đi đứng nằm ngồi, mỗi mỗi kiểu bận áo quần, mõi mỗi thức ăn uống, ở nơi mỗi mỗi: thôn dã, doanh thự, làng mạc, thị thành, tỉnh ấp, phủ huyện, nhứt là cung điện, nhẫn đến tất cả vua Trời, vua Rồng, tám bộ thần Hộ pháp, nhơn phi nhân là các vị quỷ thần này tuy hình tướng giống người mà trên đầu có sừng. Các loài: không cẳng, hai giò, bốn chơn, nhiều chơn, có sắc thân như loài người và trời ở cõi dục giới và trung gi ới; không có sắc thân như các trời ở cõi không xứ, vì chỉ lấy bốn lần làm thân; loài hữu tưởng là các trời có tư tưởng ở ba giới; loài vô tưởng là các trời ở cõi phi tưởng phi phi tưởng; và các trời ở cõi vô tưởng thiên tại tắc giới, vì sanh ở cõi này trong khoảng thời gian 500 kiếp lớn trụ vào cái định vô tâm, bởi dùng định lực đè nhẹp cái ý thức. Loài phi hữu tưởng phi vô tưởng (theo danh từ của cựu dịch, còn tân dịch gọi là phi tưởng phi phi tưởng thiên; các trời này không có phiền não thô tưởng như mấy trời ở các cõi dươi snên gọi là phi hữu tưởng; và gọi là phi tưởng hay là phi phi tưởng. Bởi cái lẽ “Phi hữu tưởng” nên chúng ngoại đạo lấy chỗ nầy làm cảnh chơn Niết bàn; bởi vì lẽ “Phi vô tưởng” nên Phật biết chỗ trời nầy còn là cái cảnh sanh tử).


Ðối với các loại chúng sanh nào tâm lý, nào hình thức mỗi mỗi sai khác nhau như trên, tôi đều tùy thuận theo sát cánh để mà dần dần day trở, mỗi cách vâng thờ, mỗi cách cúng dàng, kính như cha mẹ, như vâng Sư, Trưởng, và A la hán, nhẫn đến cũng không khác với cách mà tối kính thờ các đức như lai. Nghĩa là: Tôi vì các chúng bịnh khổ, mà làm bác sĩ....tôi vì các chúng lầm đường, mà làm chánh lộ đạo sư.....tôi vì các chúng vô minh trường dạ, mà làm đuốc huệ đèn từ...tôi vì các chúng bần cùng cơ cẩn, mà khiến đặng kho báu của chôn...hành Bồ Tát đạo là hy sinh tấm lòng bình đẳng như thế để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, thì tức là tùy thuận cúng dường chư Phật; đối với chúng sanh, nếu Bồ Tát đều tôn trọng vâng thờ thì, tức là tôn trọng vâng thờ các đức Như lai. Nếu làm cho chúng sanh nảy lòng hoan hỷ, thì khiến cho tất cả Như lai cũng đều hoan hỷ, vì sao? Các đức Như lai đều dùng tâm đại bi làm thể bởi vì: nhơn nơi chúng sanh bị khổ, mà Như Lai dấy lòng đại bi; nhơn nơi lòng đại bi mà phát bồ đề tâm; nhơn nơi tâm bồ đề mà thành bực chánh giác.


Ví như đồng ruộng mênh mông, giữa vùng sa mạc có một cây lớn nhất, nếu dưới rễ nó hấp dẫn được nước, thì nhánh lá bông trái đều rậm tốt. Giữa đồng ruộng sanh tử, có cấy chúa bồ đề cũng lại như thế: tất cả chúng sanh là rễ cây, chư Phật, Bồ Tát là hoa trái, lấy nước đại bi làm lợi ích nhuần thấm cho chúng sanh, thì hay nên hoa quả bằng trí huệ cho chư Phật, Bồ Tát vì sao?


Nếu chư Phật, Bồ Tát lấy nước đại bi để nhuần ích cho chúng sanh, thì các Ngài mới thành tựu được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Thế nên cây rễ bồ đề là thuộc về chúng sanh, vì nếu không chúng sanh thì tất cả Bồ Tát rốt không thể thành quả vô thượng chánh giác được.


Nói đến đó, đức Phổ Hiền ngài kêu Thiện Tài để dạy tiếp rằng: Thiên nam tử! đối với nghĩa trên, trò nên hiểu như thế này: bởi vì tâm bình đẳng với chúng sanh, thì Bồ Tát mới có thể thành tựu được tâm đại bi viên mãn; bởi vì tâm đại bi tùy thuận với chúng sanh, thì Bồ Tát mới thành tựu được nghĩa cúng dường Như lai, nghĩa Bồ Tát tùy thuận chúng sanh như tế, dù đến chừng cõi hư không hết, cõi chúng sanh hết, nghiệp chúng sanh hết, phiền não của chúng sanh hết, chớ với cái nguyện tùy thuận của tôi học theo bạn hiền tôi đây không khi nào cùng tột, mỗi niệm tiếp tục, không hề gián đoạn, cả thân khẩu ý, ba nghiệp đều tùy thuận, không dám mỏi chân.


Hằng: thường, luôn luôn. Chúng sanh là mọi loài ở chín cõi. Cửu giới: chừa Phật giới, còn chín giới là: Bồ Tát, Duyên giác, Thinh văn, các loài Trời, nhơn loại, các thần A tu la, súc sanh giới, ngạ quỷ giới, địa ngục giới; đối với Phật giới để nói thì chín cõi kia đều là cảnh giới mê hoặc .


Thập giả phổ giai hồi hướng

Thứ mười là nguyện “khắp đều hồi hướng”.


Bổn văn trong phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện của bộ Ðại phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh nói rằng: Phổ giai hồi hướng là kể từ ban đầu tu nguyện lễ bái chư Phật....đến nguyện tùy thuận chúng sanh có được bao nhiêu công đức thảy đều xin hồi hướng cho tất cả chúng sanh trong cùng tận pháp giới hư không giới, để nguyện cho tất cả chúng sanh thường được an vui, không bịnh khổ; như chúng muốn sắp làm điều ác thì khiến cho việc ấy đều bất thành; còn với chỗ nghiệp lành, đều khiến cho việc làm mau chóng nên. Ngăn đóng tất cả đường ngỏ vào các ác thú như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; mở bày ra những lộ chơn chánh như tám chánh đạo để đưa loài người, loài trời, về cảnh Niết bàn. Nếu các chúng sanh còn nhơn vì chứa chất bao ác nghiệp, mà phải chịu lấy hết thảy quả khổ nặng nề, thì tôi đây nguyện sẵn sàng thay chịu để cho chúng sanh kia đều được giải thoát và đều thành quả vô thượng bồ đề.


Chỗ tu hồi hướng của Bồ Tát như thế, dầu cõi hư không có hết, cõi chúng sanh có hết, nghiệp chúng sanh có hết, và phiền não của chúng sanh có khi hết, chớ cái nguyện tu hồi hướng của tôi đây không khi nào hết được, mỗi niệm tiếp luôn nhau không có gián đoạn, cả đến ba nghiệp là thân khẩu ý vẫn tu hồi hướng luôn không dám biết mỏi chán.


Tóm lại, nếu hay phát hành mười thứ nguyện lớn trên đấy, thì mới có thể thành thục cho chúng sanh, mới có thể sung mãn được biểu nguyện của đức Phổ Hiền, và mới có thể chứng được đạo Phật một cách viên mãn. Lại hay trừ được những tội nghiệp nơi ngục ngũ vô gián, và hai thứ bịnh ở thân và tâm; cả Ma chú Trời ở trên đảnh Dục giới, các chúng quỷ ác độc cũng đều chẳng dám xâm phạm đến gần kẻ tu mười nguyện trên. Cho đến kẻ thù, người thân cũng đều được ích lợi, liền đặng vãng sanh về cực lạc thế giới, thấy Phật A Di Ðà thụ ký cho.


Thế nên, với mười nguyện lớn trên đây người tu Phật cần phải hoặc thường thụ trì hoặc thường chép ra, vì người mà nói rộng nghĩa lý, thì ắt phước nhóm lại nhiều đến vô lượng vô biên.



SÁM QUY MẠNG

(Quỳ đọc)



 Quy mạng thập phương Ðiều-Ngự Sư

 Diễn dương thanh-tịnh Vi diệu pháp

 Tam-thừa tứ quả giải-thoát tăng

 Nguyện tứ từ bi ai nhiếp thọ.


 Ðể tử chúng đẳng

 Tự vi chơn tánh

 Uổng nhập mê lưu

 Tùy sanh tử dĩ phiêu trầm

 Trục sắc thanh nhi tham nhiễm

 Thập-triền thập-sử

 Tích thành hữu-lậu chi nhân

 Lục căn, lục trần

 Vọng tác vô biên chi tội

 Mê luân khổ hải

 Thâm nịch tà đồ

 Trước ngã đam nhân

 Cử uổng thố trực

 Lụy sanh nghiệp chướng

 Nhứt thiết khiên vưu.


 Ngưỡng Tam-Bảo dĩ từ-bi

 Lịch nhứt tâm nhi sám hối.


 Sở nguyện-Năng-Nhơn chẩn bạt

 Thiện hữu đề huề

 Xuất phiền-não chi thâm-uyên

 Ðáo Bồ-Ðề chi bỉ ngạn.


 Thử thế phước cơ mạng vị

 Các nguyện xương long

 Lai sanh trí chủng linh miêu

 Ðồng hi tăng tú.


 Sanh phùng trùng quốc

 Trưởng ngộ minh sư

 Chánh tín xuất-gia

 Ðồng chơn nhập đạo

 Lục căn thông lợi

 Tam nghiệp thuần hòa

 Bất nhiễm thế duyên

 Thường tu Phạm hạnh

 Chấp trì cấm giới

 Trần nghiệp bất xâm

 Nghiêm hộ oai nghi

 Quyên phi vô tổn.


 Bất phùng bát nạn

 Bất khuyết tứ duyên

 Bát-nhã trí dĩ hiện tiền

 Bồ-Ðề tâm nhi bất thối

 Tu tập chánh pháp

 Liễu ngộ Ðại-Thừa

 Khai Lục-Ðộ chi hạnh môn

 Việt tam-kỳ chi kiếp hải.


 Kiến pháp tràng ư xứ xứ

 Phá nghi võng ư trùng trùng

 Hàng phục chúng ma

 Thiệu Long Tam Bảo

 Thừa sự thập phương chư Phật

 Vô hữu bì lao

 Tu học nhứt thiết Pháp môn

 Tất giai thông đạt

 Quảng tác phương huệ

 Phổ lợi trần sa

 Ðắc lục chủng chi thần thông

 Viên nhất sanh chi Phật quả.


 Nhiên hậu bất xả pháp giới

 Biến nhập trần lao

 Ðẳng Quan Âm chi từ tâm

 Hạnh Phổ Hiền chi nguyện hải

 Tha phương thử giới

 Trục loại kỳ hình

 Ứng hiện sắc thân

 Diễn dương diệu pháp.


 Nê lê khổ thú

 Ngạ quỉ đạo trung

 Hoặc phóng đại quang minh

 Hoặc biến chư thần biến

 Kỳ hữu kiến ngã tướng

 Nãi chí văn ngã danh

 Giai phát Bồ-Ðề tâm

 Vĩnh xuất luân hồi khổ.


 Hỏa hoạch băng hà chi địa

 Biến tác hương lâm

 Ẩm đồng thực thiết chi đồ

 Hóa sanh Tịnh-độ.


 Phi mao đới giác

 Phụ trái hàm oan

 Tận bãi tân toan

 Hàm triêm lợi lạc.


 Tật dịch thế nhi

 Hiện vi dược thảo

 Cứu liệu trầm kha

 Cơ cẩn thời nhi

 Hóa tác đạo lương

 Tế chư bần nỗi.


 Ðản hữu lợi ích

 Vô bất hưng sùng.


 Thứ kỳ lũy thế oan thân

 Hiện tồn quyến thuộc

 Xuất tứ sanh chi khốt một

 Xả Vạn kiếp chi ái triền

 Ðẳng dữ hàm sanh

 Tề thành Phật đạo.


 Hư không hữu tận

 Ngã nguyện vô cùng

 Tình dữ vô tình

 Ðồng viên chủng trí.


Nhứt giả lễ kính chư Phật,

Nhị giả xưng tán Như-Lai,

Tam giả quảng tu cúng-dường,

Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,

Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,

Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,

Thất giả thỉnh Phật trụ thế,

Bát giả thường tùy Phật học,

Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,

Thập giả phổ giai hồi-hướng.



SÁM THẬP PHƯƠNG

 

Phỏng Dịch Bài Sám “Thập Phương” Của Đại Từ Bồ tát

Và Mười Điều Đại Nguyện Của Phổ Hiền Bồ tát.

 

 

Mười phương chư Phật ba đời

Di Ðà bực nhứt chẳng rời quần sanh

Sen vàng chín phẩm sẵn dành

Oai linh đức cả đã thành vô biên!

Nay con dưng tấm lòng thiềng (1)

Quy y với Phật sám liền tội căn,

Phước lành con có chi chăng,

Ít nhiều quyết cũng nguyện rằng về Tây!

Nguyện cùng với bạn tu đây,

Tùy thời cảm ứng hiện nay điềm lành,

Biết giờ biết khắc rõ rành.

Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.

Thấy nghe chánh niệm hơn thường,

Vãng sanh Lạc quốc đồng nương hoa vàng,

Hoa nở thấy Phật rõ ràng,

Thoát vòng sanh tử, độ an muôn loài.

Phiền não vô biên, thệ dứt trừ,

Pháp môn tu học, chẳng còn dư,

Chúng sinh nguyện độ, bờ kia đến

Phật đạo cùng nhau chứng Trí, Như. (2)

Hư không cõi nọ dầu cùng,

Nguyện trên còn mãi chẳng cùng chẳng thiên. (3)

Không tình cùng có đồng nguyền, (4)

Trí mầu của Phật đồng viên đồng thành.

 

Nay con lại nguyện tu hành,

Phổ Hiền nguyện lớn sẵn dành mười môn:

Một là nguyện lạy Thế Tôn

Hiện thân trước Phật hết lòng kính tin.

Hai, khen Phật đức rộng thinh,

Lời hay, tiếng tốt tận tình ngợi ca.

Ba, thời sắm đủ hương hoa,

Tràng phan bảo cái dưng ra cúng dường.

Bốn, vì mê chấp lầm đường,

Tham sân nghiệp chướng con thường sám luôn.

Năm, suy công đức vàn muôn,

Của Phàm của Thánh con đồng vui ưa.

Sáu, khi Phật chứng thượng thừa,

Pháp mầu con thỉnh đã vừa (5) truyền trao.

Bảy, lòng chẳng chút lãng xao,

Cầu xin chư Phật chớ vào vô dư! (6)

Tám, thường tu học Ðại thừa,

Bao giờ bằng Phật mới vừa lòng con,

Chín, thề chẳng dám mỏi mòn,

Dắt dìu muôn loại đều tròn pháp thân.

Mười, đem tất cả công huân,

Mọi loài cùng hưởng, khắp trần cùng vui.

Mười điều nguyện lớn nguyện rồi,

Nguyện về Cực Lạc nguyện ngồi tòa sen.

 

 

SÁM THẬP PHƯƠNG

 

 

Thập phương tam thế Phật

A Di Ðà đệ nhất

Cửu phẩm độ chúng sanh

Oai đức vô cùng cực.

Ngã kim đại quy y

Sám hối tam nghiệp tội (7)

Phàm hữu chư phước thiện

Chí tâm dụng hồi hướng. (8)

Nguyện đồng niệm Phật nhơn

Cảm ứng tùy thời hiện.

Lâm chung Tây phương cảnh

Phân minh tại mục tiền.

Kiến văn giai tinh tấn

Ðồng sanh Cực Lạc quốc.

Kiến Phật liễu sanh tử,

Như Phật độ nhứt thiết. (9)

Vô biên phiền não đoạn

Vô lượng pháp môn tu.

Thệ nguyện độ chúng sanh

Tổng giai thành Phật đạo.

Hư không hữu tận

Ngã nguyện vô cùng.

Hư không hữu tận

Ngã nguyện vô cùng.

Tình dữ vô tình,

Ðồng viên chủng trí. (10)

 

Nhứt giả lễ kính chư Phật,

Nhị giả xưng tán Như Lai,

Tam giả quảng tu cúng dường,

Tứ giả sám hối nghiệp chướng,

Ngũ giả tùy hỷ công đức,

Lục giả thỉnh chuyển pháp luân,

Thất giả thỉnh Phật trụ thế,

Bát giả thường tùy học Phật,

Cửu giả hằng thuận chúng sanh,

Thập giả phổ giai hồi hướng. (11)

 

 

Chú thích sám “Thập phương” nghĩa

 

(1) Lòng thành

(2) Chánh trí Như Như

(3) Chẳng cùng tận, chẳng thiên chuyển

(4) Vô tình cùng hữu tình

(5) Đã vừa là đã phải thời

(6) Vô dư Niết bàn, cảnh giới của chư Phật.

 

 

BÀI TỰA

Về Văn “MƯỜI PHƯƠNG”

 

Bài hồi hướng. “Thập phương”, văn chữ hán (số A) vốn là của ngài Đại Từ Bồ tát soạn ra. Sau khi tụng kinh cùng niệm Phật, tụng bài này cốt để đem bao nhiêu công đức tụng niệm đều hồi hướng cầu được vãng sinh về cõi Tây phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. Tụng bài này phước đức lớn lắm nên từ xưa đến nay, ở nước ta cũng như nước Tàu, trong các chốn Thiền môn, luôn luôn dùng bài này phổ vào các thời khóa.

 

Còn từ “nhất giả” đến “thập giả” (số B) là mười điều nguyện rút ra trong phẩm “Phổ Hiền hạnh nguyện” của kinh Hoa Nghiêm. Trong kinh mỗi một nguyện ngài Phổ Hiền Bồ tát vì ngài Thiện Tài Đồng Tử và chúng hội Bồ tát mà giảng giải rất rộng, 10 câu tổng nên về mỗi nguyện thôi.

 

Phàm tụng văn hồi hướng, cần nhất người tụng phải hiểu rõ nghĩa lý trong văn, vì có hiểu thời chỗ hồi hướng phát nguyện mới thiết thiệt, tâm quán tưởng mới xác thật, công đức mới tăng trưởng. Nếu tụng mà không hiểu chi hết, thời hồi hướng đó là hồi hướng về đâu? Phát nguyện đó là phát những gì và như thế nào? Thành ra chỉ có tụng theo lệ suông thôi chắc khó thành tựu công đức được.

 

Vì lẽ trên đây, nên tôi không quản tài sơ văn vụng phỏng theo nguyên văn và y cứ nơi nghĩa trong kinh mà dịch cả hai bài (số A và số B) ra quốc văn. Dịch xong lại còn ngại vì trong sám văn có nhiều nghĩa sâu ẩn, khuất khúc, nên viết thêm đoạn thích nghĩa sau đây, (số 20 và 21) để giải rõ bổn quốc văn, ngõ hầu khi tụng đến, tụng chữ hiểu nghĩa, tâm và lý tương tương ứng khi hiệp, lâu lâu tinh thuần, thiện căn công đức chắc chắn là vô cùng vô tận vậy.

 

Hân Tịnh Tỳ Kheo

Thích Trí Tịnh

Cẩn chí

 

Trong khoảng không gian vô tận, chẳng phải chỉ có nội một cõi Ta bà của đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật mà chúng ta hiện ở đây thôi, kỳ thật ngoài Ta bà ra còn có vô biên thế giới khác. Phàm hễ có một thế giới thời có một đức Phật làm giáo chủ, thế giới đã vô biên thời là có vô lượng chư Phật. Chẳng những hiện tại đây vô biên thế giới ở mười phương (Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên và dưới) có vô lượng chư Phật, và về thời kỳ quá khứ đã có vô lượng chư Phật và đến thời kỳ vị lai cũng sẽ có vô lượng chư Phật. Nên trong văn nói: Mười phương chư Phật ba đời.

 

Trong vô lượng chư Phật ở mười phương ba đời đó, suy ra thời đức Phật A Di Đà là bậc nhất.

 

Về Phật quả thời Phật đồng chứng như nhau, đồng trí viên, đồng hạnh mãn, đồng đức đủ, đồng nguyện toàn, công đức của chư Phật đã đồng sao lại nói Phật A Di Đà là bậc nhất? –Đây nói bậc nhất là cứ nơi ứng hóa thân của Phật mà so sánh thôi, chớ không phải nói đến pháp thân và báo thân, về pháp thân và báo thân của chư Phật quyết hẳn là đồng, vì hai thân đó là thật thân quả chứng của chư Phật vậy. Còn ứng hóa thân là những chiếc thân vì chúng sinh cảm cách đến Phật mà ứng hóa ra, chúng sinh cơ cảm có sai khác nên thân ứng hóa của chư Phật cùng tùy đó mà sai khác, lại sự sai khác đó cũng do vì bổn nguyện của chư Phật lúc còn tu hạnh Bồ tát không đồng nhau vậy.

 

Về sự thù thắng nơi ứng thân của đức Phật A Di Đà lược kể về phần đại khái thời có 4 điều nói:

 

I.-  Quang minh thường chiếu suốt các cõi nước ở mười phương không bị che ngăn, như Trong kinh Tiểu bổn A Di Đà nói Quang minh của đức Phật đó vô lượng chiếu các cõi nước ở mười phương không bị chướng ngại, nên hiệu A Di Đà”.

 

Trong kinh Đại bổn A Di Đà nói: “Giả sử khi ta đặng thành Phật mà quang minh có hạn lượng, ít nhất là chẳng soi suốt trăm nghìn ức na do tha cõi nước của chư Phật, thời ta nguyện không chứng quả chính giác” (điều nguyện thứ 12 trong 48 điều nguyện).

 

Còn quang minh nơi ứng thân của chư Phật, phần nhiều có hạn lượng, hoặc chiếu một do tuần, 10 do tuần, 100, 1.000... do tuần, hoặc chiếu 1 thế giới, 10, 100, 1.000... thế giới. Như quang minh nơi ứng thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ chiếu có 1 tầm!

 

Vì quang minh vô lượng nên đức Phật A Di Đà có 12 biệt hiệu như trong Đại bổn kinh:

 

1. Vô Lượng Quang,

2. Vô Biên Quang,

3. Vô Ngại Quang,

4. Vô Đối Quang,

5. Viêm Vương Quang (có chỗ để Diệm Vương Quang),

6. Thanh Tịnh Quang,

7. Hoan Hỷ Quang,

8. Trí Huệ Quang,

9. Nan Tư Quang,

10. Bất Đoạn Quang,

11. Vô Xứng Quang,

12. Siêu Nhật Quang.

 

Do đây nên về quang minh thường nơi ứng thân, thời đức A Di Đà được phần thù thắng trong hàng chư Phật vậy.

 

 

II.- Thọ mạng ứng hiện ra đời của chư Phật phần nhiều đều có hạn lượng; hoặc 100 tuổi, 1.000 tuổi... hoặc 1 kiếp, 10 kiếp, 100 kiếp, 1.000 kiếp, v.v... như đức Phật Thích Ca ở đời chỉ có 80 năm.

 

Còn về ứng thân của đức Phật A Di Đà, thọ mạng vô lượng. Trong Tiểu bổn kinh nói: “Đức Phật đó sống lâu vô lượng vô biên vô số kiếp, nên hiệu là A Di Đà”. Điều nguyện thứ 13 trong Đại bổn kinh nói: “Giả sử khi ta đặng thành Phật mà thọ mạng có hạn lượng, ít nhất không được trăm nghìn ức na do tha kiếp đó, thời ta nguyện không chứng quả chính giác”. Nên đức Phật A Di Đà cùng hiệu là Vô Lượng Thọ Phật.

 

Đây là thọ mạng của đức Phật A Di Đà có phần thù thắng trong hàng chư Phật vậy.

 

 

III.- Về phần đồng cư nơi Cực Lạc, là cõi nước của đức Phật A Di Đà cực kỳ trang nghiêm, thuần vui thanh tịnh, tuyệt không có mảy may khổ não, như trong Đại bổn kinh, Tiểu bổn kinh và Quán kinh đã rộng thuật.

 

Lại trong bộ Yếu giải nói: “Cực Lạc đồng cư, tứ độ viên dung, thọ lạc viên dung Ở nơi đồng cư độ (cõi phàm) mà viên kiến cả ba bộ trên (3 cõi thánh: Phương tiện độ, Thật báo độ, Thường tịch quang độ cõi trước là cõi của Nhị thừa thánh nhân, kế là cõi của đại Bồ tát, sau rốt là cõi của đức Phật).

 

Chứ so với các cõi khác, như Ta bà chẳng hạn, nơi chúng ta đồng sống đây chính là đồng cư độ của cõi Ta bà vậy, thời lại đủ thứ uế nhơ, nào tam khổ, bát khổ, vô lượng điều khổ sở Ngũ trược v.v... lại hạng phàm phu không thể dự phần nơi cảnh Thánh.

 

Đây là cõi đức Phật A Di Đà, về phần đồng cư độ có phần đặc biệt trong các cõi nước ở mười phương vậy.

 

IV.-  Nhân dân trong nước của đức Phật A Di Đà dầu là phàm, nhưng cũng đều trụ bậc “bất thối chuyển”, nghĩa là ở vào địa vị thẳng mãi đến thành Phật, không còn ngưng trệ lui sụt. Nói chi các bậc Thánh! Trong hàng Thánh của nước Cực Lạc, cứ về bậc “Nhất sinh bổ xứ Bồ tát” như ngài Quán Âm Thế Chí, hay là như Di Lặc v.v... số nhiều vô hạn, huống là bậc Thập địa, Địa tiền, cùng Thanh văn Duyên giác! Trong tiểu bổn kinh nói: “Nơi nước Cực Lạc, chúng sinh nào sinh về đó đều là bậc bất thối chuyển. A la hán và Bồ tát đều đồng vô lượng vô biên, không thể tính đếm mà biết được, chỉ có thể gượng nói là vô lượng vô biên vô số thôi”.

 

Bậc Thánh trong cõi khác hoặc là có số hạn, như cõi Ta bà có 62 ức hằng hà sa vị Bồ tát v.v...

 

Lại nhân dân nơi Cực Lạc tuổi thọ đồng với Phật, nghĩa là vô lượng, như Tiểu bổn kinh nói: “Thọ mạng của đức Phật đó và thọ mạng của nhân dân của ngài, vô lượng, vô biên, vô số kiếp”.

 

Đấy là nhân dân, La hán, Bồ tát của đức Phật A Di Đà trong các cõi nước mười phương vậy.

 

Vì những phần đặc thắng trên đây, nên trong văn nói:

 

“Mười phương chư Phật ba đời, Di Đà bậc nhất.”

 

Đối với chúng sinh, đức Phật A Di Đà có nguyện lực độ sinh rất lớn. Nguyện lực đó rõ ràng nhất là đã nêu bày trong 48 điều nguyện của ngài: những nguyện độ khắp Thánh phàm trong mười phương! Lại trong Quán kinh có câu: “Phật tâm đó là lòng đại từ bi vậy dùng vô duyên từ nhiếp độ các chúng sinh”. Kinh lại nói: “Đức Vô Lượng Thọ Phật có 84.000 tướng, trong mỗi tướng đều có 84.000 tùy hình hảo, trong mỗi hình hảo lại có 84.000 áng sáng, mỗi ánh sáng chiếu khắp các cõi nước ở mười phương. Ánh sáng này nhiếp thủ chúng sinh niệm Phật không lìa bỏ”.

 

Đức Phật A Di Đà có lòng từ, nguyện lớn, phóng quang minh tiếp độ chúng sinh không lìa bỏ, nên trong văn nói:

 

“Di Đà bậc nhất chẳng rời quần sinh.”

 

Do nguyện lực của đức Phật A Di Đà, nên những người được sinh về cõi Cực Lạc của ngài đều từ trong hoa sen báu nơi ao thất bảo mà hóa sinh, nghĩa là mượn hoa sen làm bào thai mà cho thân hình. Đó gọi là “liên hoa thanh tịnh hóa sinh”, cũng có câu “liên hoa vi phụ mẫu”. Vì người vãng sinh về đó nơi trí có cao thấp, nơi phước có nhiều ít không đồng nhau, nên hoa sen là chỗ thác sinh cũng có nhiều hạng, đại khái chia làm chín phẩm:

 

1. Thượng phẩm thượng sinh.

2. Thượng phẩm trung sinh.

3. Thượng phẩm hạ sinh (ba phẩm này thuộc bậc đại thừa Bồ tát).

 

4. Trung phẩm thượng sinh.

5. Trung phẩm trung sinh (hai phẩm đây thuộc hàng nhị thừa Thánh nhân).

6. Trung phẩm hạ sinh (một phẩm đây thuộc hàng có công đức lành ở đời).

 

7. Hạ phẩm thượng sinh.

8. Hạ phẩm trung sinh.

9. Hạ phẩm hạ sinh (ba phẩm này thuộc về hạng người tạo ác nghiệp).

 

Cứ nơi chín phẩm trên thấy, thời thấy rằng từ bậc đại thừa Bồ tát, nhị thừa Thánh nhân, người lành tốt trong đời cho đến kẻ tạo ác nghiệp, phạm ngũ nghịch thập ác v.v... mà có gia công niệm Phật, thời đều được vãng sinh về cõi Cực Lạc cả (trừ người hủy báng Tam bảo).

 

Đức Phật A Di Đà sẳn đức từ bi nguyện lực, dùng chn phẩm liên hoa báu để chực chờ tiếp dẫn chúng sinh về nước của ngài. Nên trong văn nói:

 

“Sen vàng chín phẩm sẵn dành.”

 

Oai lực linh thông của Phật vô cùng, đức lành của Phật vô cực. Trí quang chiếu phá sự mê tối của chúng sinh khắp mười phương, đó là “oai lực”. Chúng sinh niệm Phật, thời liền hộ niệm giữ gìn cho được an ổn không thối không thất, và hiện vô lượng thân đến khắp vô lượng thế giới để tiếp dẫn chúng sinh về Cực Lạc. Đây là “linh thông”. Tâm của Phật không lúc nào quên chúng sinh, như cha mẹ hiền nhớ con, thương con. Lại không công đức nào mà Phật không hoàn mãn đây là “đức lành”. Như tiểu bổn kinh nói: “Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nghe nói đến đức Phật A Di Đà rồi hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, chấp trì danh hiệu nhất tâm bất loạn. Người này đến lúc lâm chung, đức Phật A Di Đà và hàng Thánh chúng hiện ra nơi trước, người lúc chết tâm hồn không điên đảo, liền đặng vãng sinh về nước Cực Lạc của Phật A Di Đà”. Kinh Lăng Nghiêm có câu: “Các đức Như Lai trong mười phương thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con”. Lại có câu: “Người nào niệm danh hiệu Phật, thời hào quang của Phật chiếu đến người đó, làm cho các sự tai vạ tà ma, quỷ quái không đến gần được”.

 

Oai lực linh thông của Phật vô cùng, đức dày của Phật lại vô cực nên văn nói:

 

“Oai linh đức cả đã dành vô biên.”

 

Từ đây nhẫn lên là giải một câu kệ về phần tán thán công đức của Phật:

 

“Mười phương chư Phật ba đời,

Di Đà bậc nhất chẳng rời quần sinh.

Sen vàng chín phẩm sẵn dành

Oai linh đất cả đã dành vô biên.”

 

Đã rõ nơi đức Phật A Di Đà có vô lượng công đức thù thắng nếu không quy y với Phật còn quy y với ai. Quy y là đem cả thân mạng mình nương nơi Phật, gửi nơi Phật, giao phó cho Phật. Lại dùng lòng chí thành mà quy y. Trong văn nói:

 

“Nay con dưng tấm lòng thiền, quy y với Phật...”

 

Từ thưở trước đến ngày nay, vì say mê nên đã lỡ lầm gây tạo ra không biết bao nhiêu tội lỗi. Ngày nay nhờ nghe kinh thấy Phật mà tỉnh ngộ, đã biết tự xét ăn năn, nên cũng mau mau dùng lòng chí thành mà sám hối tội lỗi, nghĩa là ăn năn tội trước, chừa cải lỗi sau. Nên trong văn nói:

 

“Sám liền tội căn.”

 

Nay tự suy lấy ta – Trong những đời đã qua, chắc có lẽ ta cũng đã có tu tạo ít nhiều phước lành chớ chẳng không, vì nếu không có phước lành thời quyết hẳn là không được sinh làm người, vì loài người thuộc về thiện đạo trong lục đạo. Lại trong kinh nói: gặp được Phật pháp là điều rất khó. Rất khó mà nay ta được nghe, thời chắc chắn ta đã có căn lành sẵn rồi, dầu có nhưng vì ta mê muội nên cách đời mà quên đi. Lại trong đời này, những ngày qua, hiện tại nay, và sau này, thời ta đã có làm lành, hiện tu tập và sẽ vun trồng cội phước. Dầu thế song còn thuộc hạng phàm phu, phiền não, nghiệp chướng đầy dẫy, thời làm lành đâu dám chắc là thiệt lành, làm phước đâu dám tự hào là thiệt phước, chỉ có trí huệ của đức Phật mới có thể nhận thiệt mà thôi, nên trong văn nói:

 

“Phước lành con có chi chăng?”

 

Nương phước mà ở mãi nơi Ta bà, thời chỉ được hưởng sự vui tạm bợ, hết phước tất phải khổ, huống trong vòng luân hồi, từ say mê càng vào mê, hễ mê thời dễ gây nghiệp, đâu bằng đem công đức hồi hướng cầu vãng sinh Cực Lạc thế giới ở Tây phương, để được hưởng sự vui thanh tịnh và bảo đảm giải thoát, đây văn nói:

 

“Ít nhiều quyết cũng nguyện rằng về Tây.”

 

Từ đây trở lên là giải về bốn câu kệ quy y, sám hối và hồi hướng:

 

“Nay con dưng tấm lòng thiền (thành)

Quy y với Phật, sám liền tội căn.

Phước lành con có chi chăng?

Ít nhiều cũng quyết niệm rằng về Tây.”

 

Pháp lữ đề huề, thân cận thiện hữu, là điều cần thiết mà từ đức Phật đến chư Tổ đều luôn luôn nhắc nhở. Cùng dạy bảo cho nhau, những sự nghĩa chân chính, những lý thú thâm huyền. Cùng nhau đồng hành pháp sự, đồng tu tịnh nghiệp. Cùng nhau tùy hỷ khi đắc ích, khuyên răn lúc sái lười... Mến nhau như ruột thịt, coi nhau như tay chân. Vì thế nên chẳng phải chỉ nghĩ riêng về phần mình, mà tâm tâm niệm niệm không quên mong mỏi cho thiện hữu, cũng như trông cầu cho tự mình, sớm đặng kết thành ứng nghiệm lành trên đường tu tập: chính là nguyện bạn cùng mình, trong ngày hiện tại nơi đời sống này, hoặc lúc thiền quán, hoặc lúc mộng mơ, cảm cách đến Phật, đến Thánh chúng, đến Cực Lạc, mà được thấy kim thân của đức Phật, hoặc thấy hào quang, hoặc thấy liên hoa, hoặc thần du cõi Cực Lạc v.v... để cho lòng tin thêm kiên cố, nguyện hành càng tiến triển. Nên trong văn nói:

 

“Nguyện cùng với bạn tu đây,

Tùy thời cảm ứng hiện ngay điềm lành.”

 

Có nhân tất có quả. Nhân là tu tịnh nghiệp: niệm Phật cầu vãng sinh Cực Lạc quốc. Qủa là khi mãn báo thân trược uế được thác chất liên hoa nơi ao báu ở Tây phương Cực Lạc thế giới. Trước ngày lâm chung, nguyện đức Phật tin cho biết rõ ngày giờ, để vững lòng chờ đợi. Đến lúc lâm chung, xin đức Phật y lời bổn nguyện lực, hiện thân vàng cùng cảnh Thánh cho mình được thấy, nói pháp cho mình được đã được thấy Phật, nghe pháp rồi, thời chính niệm càng tinh tấn, bội hơn ngày thường nên văn nói:

 

“Biết giờ biết khắc rõ rành

Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.

Thấy nghe chính niệm hơn thường.”

 

Chính niệm tinh tấn, tâm không mê muội, không điên đảo liền đặng vãng sinh về nước Cực Lạc thác chất nơi hoa sen thất bảo. Sau khi hoa nở, tâm nhãn khai thông đôi mắt thanh tịnh, thấy rõ thân quang minh tướng hảo của đức Phật, được Phật vì mình mà thuyết pháp mầu, liền ngộ lý vô sinh, chứng bậc bất thối, thoát hẳn vòng sinh tử luân hồi. Rồi cũng như đức Phật, dùng thần thông trí lực, vận dụng từ bi, hiện thân đến thập phương độ khắp mọi loài chúng sinh, đồng được giải thoát như mình đã được giải thoát. Như trong văn:

 

“Vãng sinh Lạc quốc đồng nương hoa vàng

Hoa nở thấy Phật rõ ràng

Thoát vòng sinh tử độ an muôn loài.”

 

Từ đây nhẫn lên là giải về 8 câu kệ vì mình vì người mà phát nguyện:

 

“Nguyện cùng với bạn tu đây,

Tùy thời cảm ứng hiện nay điềm lành.

Biết giờ biết khắc rõ rành

Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.

Thấy nghe chính niệm hơn thường.

Vãng sinh lạc quốc đồng nương hoa vàng

Hoa nở thấy Phật rõ ràng

Thoát vòng sinh tử, độ an muôn loài.”

 

Muốn sau khi vào Cực Lạc được ở phẩm cao, thời phải có hạnh nguyện đại thừa vì ba thượng phẩm trong chín phẩm chỉ có đại thừa Bồ tát mới được dự phần. Nên người tu Tịnh độ cần phát “Tứ hoằng thệ nguyện”. Bốn nguyện này là những điều nguyện chung mà tất cả chúng đại thừa ai cũng phải đủ.

 

Thệ dứt tất cả phiền não, dầu là vô biên như văn nói:

 

“Phiền não vô biên, thệ dứt trừ.”

 

Nguyện học thông và tu tập tất cả pháp môn chính đạo của đức Phật truyền dạy, dầu là vô lượng như văn nói:

 

“Pháp môn tu học, chẳng còn dư.”

 

Lợi tha là chính hạnh của đại thừa, là hoài bão của Bồ tát. Nên thệ độ tất cả chúng sinh dầu là vô tận, độ đến đâu? Độ đến giác ngạn kia. Như nói:

 

“Chúng sinh nguyện độ, bờ kia đến.”

 

Và mục đích cuối cùng, là nguyện mình cùng tất cả muôn loài đồng viên mãn chính trí, chứng nhập như như, tức là thành Phật đạo hoàn toàn, Phật đạo Vô thượng. Như văn nói:

 

“Phật đạo cùng nhau chứng trí Như.”

 

Từ đây nhẫn lên là giải về bốn câu hoằng thệ viết theo thể tứ cú để cho có phần đặc biệt, là ý muốn người tụng đến phải chú ý:

 

“Phiền não vô biên, thệ dứt trừ,

Pháp môn tu học, chẳng còn dư,

Chúng sinh nguyện độ, bờ kia đến

Phật đạo cùng nhau chứng trí Như.”

 

Từ đây nhẫn xuống là 4 câu kết thúc lập chí bền chắc, giữ nguyện kiên cố, hư không chẳng bao giờ cùng tận, cái không cùng tận mà giả tỷ cho nó cùng tận đi nữa, nhưng những điều mà đã thệ nguyện ở trên đó, quyết không cùng tận, không mảy may dời đổi. Đây là ý nguyện của ta bền chắc vững vàng hơn cõi hư không. Những loài tình thức (người, vật v.v...) cùng với những loài không tình thức (núi, sông v.v...) khắp trong thế giới, ta đều bình đẳng nguyện cầu cho tất cả đồng viên thành trí huệ nhiệm mầu của Phật. Như văn nói:

 

“Hư không cõi nọ dầu cùng,

Nguyện trên còn mãi chẳng cùng chẳng thiên.

Không tình cùng có đồng nguyền,

Trí mầu của Phật đồng viên đồng thành.”

 

 

Hỏi: Loài có tình thức tu tập viên thành Phật trí thì phải, còn vô tình sao cũng đồng thành?

 

Đáp: Có hai nghĩa:

 

1. Vô tình là y báo, hữu tình là chính báo. Y báo là do chính báo cảm ra. Nên khi chính báo (hữu tình) thành Phật trí thời y báo (vô tình) cũng chuyển thành Phật cảnh. Vì nơi Phật, cảnh cùng trí không sai biệt, nên đồng viên thành Phật trí cũng không ngại, đó là lấy trí nhiếp cảnh vậy.

 

2. Giác tính ở nơi hữu tình thời gọi là Phật tính, ở nơi vô tình thời gọi là Pháp tính. Phật tính và pháp tính đều là giác tính. Thành Phật là viên chứng giác tính, ráo rốt bình đẳng viên dung, thời đâu còn có hữu và vô sai biệt cách ngại như phàm phu. Như thế, há lại không phải là đồng viên đồng thành đó ư?

 

Vì muốn cho các điều hạnh nguyện trên được dung thông pháp giới, rộng lớn tuyệt đối, nên tiếp tục mười điều nguyện vương của ngài Phổ Hiền Bồ tát tuyên thuyết nơi Hoa Nghiêm đại hội. Viên mãn 10 nguyện vương này thời tức là mãn quả Phật vậy.

 

Phật dạy: chúng sinh lưu lãng trong vòng sinh tử, chính là vì trái quên tính giác và dong ruổi theo trần lao. Trần lao là món vô thường nên theo đó tất cả cũng lưu chuyển như nó. Nếu chúng sinh thức tỉnh, biết xét trở lại, rời trần lao mà xoay về giác tính thời hẳn luân hồi, vì giác tính là bổn thể bất động.

 

Bậc chứng cùng giác tính là đức Phật nên đều nguyện thứ nhất lễ Phật đây là biểu tượng trái trần lao hiệp giác tính. Như văn nói:

 

Một là nguyện lạy Thế Tôn,

 

“Phật Thế Tôn” là đấng Vô thượng chính giác tôn quý nhất trong thế gian và xuất thế gian.

 

Lạy Phật như thế nào?

 

Trong phẩm Hạnh nguyện, ngài Phổ Hiền có giảng giải điều đó như thế này: “Tất cả vi trần số chư Phật ở mười phương ba đời, do ta dùng sức hạnh nguyện Phổ Hiền, nên thâm tâm tin giải như đối trước mắt. Đều dùng thân, ngữ, ý ba nghiệp mà thường cung kính đảnh lễ luôn. Nơi mỗi đức Phật ta đều hiện ra vi trần số thân. Mỗi mỗi thân đảnh lễ khắp vi trần số đức Phật. Sự lễ kính của ta đây không có cùng tận, niệm niệm nối luôn không xó xen hở, ba nghiệp không có nhàm mỏi”.

 

Trong văn tóm tắt:

 

Hiện thân trước Phật hết lòng kính tin.

 

Điều nguyện vương thứ hai là “khen ngợi Như Lai”.

 

Về điều nguyện này trong “Hạnh nguyện phẩm” nói: “Tất cả cõi nước trong mười phương ba đời có bao nhiêu vi trần, trong mỗi vi trần đều có vi trần số Phật, nơi chỗ của mỗi đức Phật đều có hải hội Bồ tát vây quanh. Ta đều phải dùng sức thắng giải hiện tiền tri kiến rất sâu, đều dùng thiệt căn nhiệm mầu hơn cả Biện Tài Thiên nữ. Mỗi mỗi thiệt căn vang ra biển, âm thanh vô tận, mỗi mỗi âm thanh diễn ra biển tất cả lời nói ngợi khen tán thán biển các công đức của tất cả Như Lai, cùng tột thuở vị lai nối luôn không ngớt, tận hư không đều cùng khắp cả”.

 

Tóm nghĩa kinh, văn nói:

 

Hai, khen Phật đức rộng thinh,

Lời hay tiếng tốt tận tình ngợi ca.

 

Điều nguyện vương thứ ba là “Rộng sắm cúng dường”.

 

Hạnh nguyện phẩm giải rằng: Trong vi trần của tất cả cõi nước mười phương ba đời, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi Phật, nơi chỗ của mỗi đức Phật, đều có hải hội các hàng Bồ tát vây quanh, ta do sức hạnh nguyện Phổ Hiền mà sinh tri kiến hiện tiền tín giải rất sâu, đều đem các thức đồ cúng dường thượng diệu để mà cúng dường. Những là mây hoa, mây tràng hoa, mây âm nhạc trời, mây tàn lọng, mây y phục trời, các thứ hương trời: hương xoa, hương bột, hương xông... mỗi mỗi thứ mây đó lượng lớn như núi Tu di. Thắp các thứ đèn, đèn tô, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm, mỗi tim đèn lượng như hòn núi Tu di, dầu trong mỗi đèn như nước biển lớn. Dùng các thứ đồ cúng dường như thế thường đem cúng dường.

 

Này thiện nam tử! Pháp cúng dường là hơn hết trong các cách cúng dường. Đó là: đúng theo lời Phật dạy mà tu hành để cúng dường, làm lợi ích cho chúng sinh để cúng dường, nhiếp thọ chúng sinh để cúng dường, thay thế sự khổ cho chúng sinh để cúng dường, siêng tu căn lành để cúng dường, chẳng bỏ hạnh nguyện Bồ tát để cúng dường, chẳng rời tâm Bồ đề để cúng dường.

 

Này thiện nam tử! với chừng một phần công đức của pháp cúng dường đem vô lượng phần công đức của tài cúng dường ở trước mà so sánh cũng không bằng một phần trăm, không bằng một phần nghìn, v.v...

 

Bởi sao? vì các đức Như Lai đều tôn trọng pháp vậy, vì tu hành đúng theo lời Phật dạy thời là xuất sinh các đức Phật vậy. Nếu các vị Bồ tát tu hành về pháp cúng dường, thời việc cúng dường đức Như Lai được thành tựu. Tu hành như thế là chân thật cúng dường. Cho nên đây là sự cúng dường rộng lớn tối thắng...”

 

Nơi văn lược nói:

 

Ba, thời sắm đủ hương hoa,

Tràng phan bảo cái dưng ra cúng dường.

 

Điều nguyện thứ tư là “sám hối nghiệp chướng”. “Sám” là Phạm âm nói đủ là “sám ma”. Tàu dịch là “Hối quá”. Lấy chữ “sám” trong sám ma còn chữ “hối” trong hối quá mà gọi chung là ‘sám hối”, nghĩa là ăn năn chừa cải. “Nghiệp” là những việc tạo tác không lành của thân, khẩu, ý, nghiệp này nó làm ngại đường lành, nó ngăn đạo Thánh, nên gọi là nghiệp chướng.

 

Về điều nguyện này, trong phẩm giải rằng:

 

“Bồ tát tự nghĩ như vầy: ta trong vô thỉ kiếp về quá khứ, do lòng tham lam, sân hận, ngu si, phát ra nơi khẩu, ý mà đã làm ra vô lượng vô biên nghiệp chẳng lành. Nếu nghiệp ác đó mà có thể tưởng thiệt, thời tất cả cõi hư không cũng không thể dung thọ cho hết. Nay ta đều đem ba nghiệp thanh tịnh, đối khắp trước tất cả chư Phật cùng chúng Bồ tát, mà thành tâm sám hối, về sau không phạm nữa, luôn trụ nơi giới pháp thanh tịnh tất cả công đức...”

 

Trong văn nói:

 

Bốn, vì mê chấp lầm đường,

Tham sân nghiệp chướng con thường sám luôn.

 

Điều nguyện vương thứ năm là “tùy hỷ công đức”.

 

Thấy người khác có công đức mà mình thật tâm vui mừng tán thành, đó gọi là “tùy hỷ công đức”.

 

Về điều nguyện này, trong phẩm giải rằng:

 

Vi trần số chư Phật Như Lai, từ khi mới phát tâm vì cầu nhất thiết chủng trí mà siêng tu phước và huệ, chẳng tiếc thân mạng, trải qua vi trần số kiếp. Trong mỗi kiếp xả thí vi trần số đầu mắt tay chân, thật hành tất cả hạnh khổ khó làm như thế. Viên mãn các môn Ba la mật, chứng nhập các trí địa Bồ tát, thành tựu đạo Vô thượng Bồ đề của chư Phật cho đến nhập Niết bàn phân chia Xá Lợi... Nơi đức Phật có bao nhiêu thiện căn thời ta đều tùy hỷ cả.

 

Và trong tất cả thế giới ở mười phương kia tất cả mọi loài lục đạo tứ sinh... có bao nhiêu công đức cho đến chừng một mảy trần ta đều tùy hỷ cả.

 

Tất cả Thanh văn và Bích Chi Phật, hàng hữu học cùng vô học trong mười phương ba đời, có bao nhiêu công đức ta đều tùy hỷ cả.

 

Bao quát nghĩa trên, trong văn nói:

 

Năm, suy công đức vàn muôn,

Của Phàm (tứ sinh) của Thánh (Phật, Bồ tát) con đồng vui ưa.

 

Điều nguyện vương thứ sáu là “Thỉnh chuyển pháp luân”.

 

“Thỉnh” là cầu thỉnh với đức Phật. “Chuyển” là diễn nói dạy trao. “Pháp luân” có hai nghĩa:

 

Vòng pháp, ý nói không cùng không tận, vô thỉ vô chung, không thể phân biệt nghĩ bàn, như vòng tròn.

 

Bánh xe pháp. Pháp của đức Phật có thể đưa người tu hành từ mê đến giác, từ phàm đến Thánh, từ khổ sang vui, từ sinh tử đến trường tồn lại hay phá trừ tứ ma các chướng v.v... Như bánh xe lăn từ đây sang kia, cán rạp chông gai sạn sỏi v.v...

 

Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Trong vi trần của tất cả cõi nước ở mười phương ba đời, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi nước rộng lớn, trong mỗi cõi nước niệm niệm đều có vi trần số đức Phật thành bậc Đẳng Chính Giác, mỗi đức Phật đều có tất cả hải hội Bồ tát vây quanh. Ta đều dùng thân, khẩu, ý đủ các phương tiện, để ân cần thỉnh tất cả chư Phật chuyển diệu pháp luân...”.

 

Bày nghĩa trên, văn nói:

 

Sáu, khi Phật chứng thượng thừa,

Pháp mầu con thỉnh đã vừa truyền trao.

 

“Thượng thừa” chính là tối thượng thừa, là Phật thừa chứng Phật thừa là thành Phật. “Pháp mầu” là vi diệu pháp luân. “Đã vừa” là vừa đến thời, vừa phải cơ.

 

Đức Phật thành Phật là vì chúng sinh mà thành Phật. Đã vì chúng sinh sao còn chờ cầu thỉnh?

 

1. Vì muốn cho chính pháp có phần quý trọng, có quý trọng mọi người mới sinh lòng hi hữu khao khát ngưỡng vọng, có khao khát ngưỡng vọng mới có thể được lợi ích.

 

2. Lòng của Bồ tát lúc nào cũng tha thiết nong nả đối với sự lợi người lợi mình. Mình cùng người được lợi không gì bằng được nghe Phật thuyết pháp, nên đức Phật chưa nói, mà Bồ tát đã cầu thỉnh trước.

 

Điều nguyện vương thứ bảy là “thỉnh Phật trụ lại đời”.

 

Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “vi trần số chư Phật Như Lai trong mười phương ba đời toan muốn nhập Niết bàn, và các Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, hữu học, vô học, cho đến các vị thiện tri thức... ta đều cầu thỉnh tất cả xin chớ nhập Niết bàn, xin ở mãi nơi đời trải qua vi trần kiếp vì muốn cho tất cả chúng sinh được lợi lạc...”

 

Như trong văn nói:

 

Bảy, lòng chẳng chút lãng xao,

Cầu xin chư Phật chớ vào vô dư!

 

“Lòng chẳng lãng xao” là tâm tâm niệm niệm cầu thỉnh luôn không ngừng không hở. “Vô dư” là vô dư y Niết bàn. “Niết bàn”, là cảnh giới sở chứng của các bậc Thánh xuất thế, nơi đó “tịch tịnh an thường”, “tịch tịnh an thường là nghĩa chính của “Niết bàn” khác hẳn với cảnh phàm phiền nhiễu loạn động.

 

Niết bàn có 4:

 

1. Hữu dư y Niết bàn

2. Vô dư y Niết bàn

3. Vô trụ xứ Niết bàn

4. Tinh tịnh Niết bàn.

 

Đây về vô dư y Niết bàn, là quả Niết bàn không còn thừa những báo và vô minh. Báo là thân hiện tại nơi thế. Ngoài đức Phật ra, từ Đẳng giác Bồ tát trở xuống đến Bích chi Phật, A la hán, đều còn vô minh. Nên cứu cánh vô dư y Niết bàn chỉ có bậc Phật là cùng tột.

 

Các bậc Thánh xuất thế không còn hệ lụy trong vòng sinh tử, nên muốn ở đời bao lâu vẫn được tự tại vô ngại. Do đó mới khuyến thỉnh vậy.

 

Điều nguyện vương thứ tám là “Thường học theo Phật”.

 

Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Như đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai trong cõi Ta bà này, từ khi mới phát tâm, thời tinh tấn luôn không lui sụt. Đem bất khả thuyết bất khả thuyết thân mạng mà bố thí. Ngài lột da làm giấy, chẻ xương làm viết, chích máu làm mực, để biên chép kinh điển, chứa nhiều như núi Tu di. Vì trọng pháp mà ngài không tiếc thân mạng, huống nữa là ngôi vua, thành ấp v.v... và các hạnh khổ khó làm khác. Cho đến dưới gốc cây ngài chứng quả Bồ đề. Ngài thị hiện và các món thần thông, khởi các thứ biến hóa hiện các hạng Phật thân ở các nơi chúng hội: hoặc ở trong chúng hội đạo tràng của các bậc đại Bồ tát, hoặc chúng hội đạo tràng Thanh văn, Bích chi Phật, cho đến chúng hội đạo tràng của Thiên, Long, bát bộ... Ở trong những chúng hội như thế, ngài dùng âm thanh viên mãn như sấm lớn vang dội, tùy theo chỗ hạp nghi của mỗi chúng hội mà nói pháp giáo hóa chúng sinh cho đến ngài thị hiện nhập Niết bàn. Tất cả công hạnh của ngài như thế ta đều học theo. Như với đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn với tất cả chư Phật ở mười phương ta cũng luôn luôn học theo cả.

 

Ngụ bày những ý nghĩa trên, trong văn nói:

 

Nguyện thường tu học Ðại thừa,

Bao giờ bằng Phật mới vừa lòng con.

 

Đã muốn bằng Phật sẽ tất nhiên là phải học theo Phật.

 

Điều nguyện thứ chín là “tùy thuận chúng sinh luôn”.

 

“Tùy thuận” đây chính ý là thiết tha lân mẫn chúng sinh, chiều theo chỗ hạp nghi, lòng nguyện vọng trong sạch của chúng sinh, mà thi hành những phương pháp gì để chúng sinh được lợi ích trên đường giải thoát khỏi khổ.

 

Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Bao nhiêu chúng sinh chủng loại sai khác ở mười phương, những là loài tứ sinh, hoặc loài nương nơi đất, nước, gió, lửa mà sinh trụ. Hoặc là loài nương nơi hư không và cỏ cây mà an trụ... cho đến Thiên, Long bát bộ, người cùng phi nhân, hoặc loài không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, loài có sắc không sắc, có tưởng không tưởng v.v... Ở nơi các thứ như thế, ta nên tùy thuận mà thật hành những điều kính thờ, cúng dường, kính như kính cha mẹ, sư trưởng, A la hán cho đến như kính đức Như Lai không khác.

 

Với kẻ bệnh khổ thời ta là ông lương y; với kẻ lạc đường thời ta là người chỉ con đường chính; với kẻ trong đêm tối thời ta là người soi sáng; với kẻ nghèo cùng thời ta làm cho họ được kho báu. Bồ tát bình đẳng, lợi ích tất cả chúng sinh như thế. Tại làm sao? Vì nếu có thể tùy thuận chúng sinh, thời là tùy thuận cúng dường chư Phật, ở nơi chúng sinh nếu có thể tôn trọng thừa sự Như Lai, nếu làm cho chúng sinh sinh lòng vui mừng thời là làm cho tất cả đức Như Lai vui mừng.

 

Tại làm sao? Vì chư Phật Như Lai dùng tâm đại bi mà làm thể vậy.

 

Nhân nơi chúng sinh mà sinh lòng đại bi, nhân nơi đại bi mà phát Bồ đề, nhân tâm Bồ đề mà thành bậc Đẳng Chính giác.

 

Ví như trong đồng trống sa mạc có cây thọ vương lớn, nếu như cây đó được thấm nhuần, thời nhánh lá bông trái thảy đều sum suê.

 

Cây thọ vương trong đồng trống sinh tử cũng lại như thế, tất cả chúng sinh là gốc rễ của cây, chư Phật, Bồ tát là bông trái. Dùng nước đại bi làm lợi ích cho chúng sinh, thời tất có thể thành tựu bông Bồ tát cùng trái trí tuệ của chư Phật.

 

Bởi sao vậy? Vì nếu các Bồ tát dùng nước đại bi làm lợi ích cho chúng sinh thời có thể thành tựu Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì thế Bồ tát thuộc nơi chúng sinh, nếu không chúng sinh, thời tất cả Bồ tát trọn hẳn chẳng hề thành bậc Vô thượng chính đẳng chính giác. Này thiện nam tử! Đối với nghĩa đó, ông nên hiểu như thế.

 

Bởi ở nơi chúng sinh mà tâm bình đẳng, thời có thể thành tựu đức đại bi viên mãn. Dùng lòng đại bi để tùy thuận chúng sinh như thế...”

 

Lược nghĩa trên, văn nói:

 

Chín, thề chẳng dám mỏi mòn,

Dắt dìu muôn loại đều tròn pháp thân.

 

“Pháp thân” là thân của chư Phật. Độ muôn loài viên mãn Phật quả chính là chỗ tùy thuận cứu cánh làm lợi ích cho chúng sinh vậy.

 

Điều nguyện vương thứ mười là “Đều hồi hướng khắp cả”.

 

Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Từ việc lễ bái” đầu tiên cho đến “tùy thuận chúng sinh” mà có bao nhiêu công đức, ta thảy đều đem cả hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Ta nguyện cho chúng sinh thường được an vui, không có các bệnh khổ. Như họ có muốn làm việc ác, thảy đều không thành. Còn những nghiệp lành của họ tu, thời đều mau thành tựu. Đóng bít tất cả cửa ác đạo, mở bảy đường chính: nhân, thiên, Niết bàn.

 

Nếu các chúng sinh, nhân vì họ gây tạo các nghiệp mà phải cảm vời lấy quả khổ rất nặng, thời ta nguyện chịu thế, để cho chúng sinh đó đặng giải thoát, rốt ráo thành tựu đạo Vô thượng chính giác.

 

Bồ tát tu nguyện hồi hướng như thế...”

 

Gồm ý trên, trong văn nói:

 

Mười, đem tất cả công huân,

Mọi loài cùng hưởng, khắp trần cùng vui.

 

Trong Hạnh nguyện phẩm, sau khi giảng giải mười điều nguyện vương xong, nơi đoạn đắc ích, về trường hàng có nói như vầy: “Lại nữa, người đó lúc mạng chung đến sát na rốt sau, tất cả các căn thảy đều tán, hoại, tất cả hàng thân thuộc đều xa lìa, tất cả oai thế đều thối thất, nào quan phụ tướng đại thần, nào cung thanh nội ngoại, voi ngựa xe cộ của báu kho đụn... tất cả những món như thế không còn theo nhau, chỉ có 10 nguyện vương chẳng xa rời nhau, trong tất cả lúc nó dẫn đường nơi trước, trong khoảng một sát na liền đặng vãng sinh về cõi Cực Lạc. Đến rồi, liền thấy đức Phật A Di Đà, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, ngài Phổ Hiền Bồ tát, ngài Quán Tự Tại Bồ tát, ngài Di Lặc Bồ tát v.v...

 

Và về phần kệ có những câu này:

 

Nguyện đến lúc tôi sắp mạng chung

Sạch trừ tất cả những chướng ngại,

Tận mắt thấy đức A Di Đà

Liền đặng vãng sinh về Cực Lạc,

Phật kia chúng hội đều thanh tịnh,

Ta liền từ thẳng liên hoa sinh,

Thấy rõ đức Phật Vô Lượng quang,

Hiện tiền trao tôi “Bồ đề ký”

Được đức Như Lai thọ ký xong,

Tôi hóa vô số trăm ức thân,

Sức trì “rộng lớn” khắp mười phương,

Lợi ích tất cả cõi chúng sinh.

 

Vì nương theo văn trong phẩm mà cũng chính là mục đích của người tu về pháp môn Tịnh độ, nên sau mười nguyện liên tiếp nói:

 

Phổ Hiền nguyện lớn nguyện rồi,

Nguyện về Cực Lạc nguyện ngồi tòa sen.

 

Tất cả những đoạn giải thích trên đây, toàn là y cứ nơi kinh cả. Hoặc khi tụng sám văn, hoặc lúc xem thích nghĩa, chính đó là tụng xem nghĩa lý trong kinh thời công đức vô lượng. Như trong phẩm có nói: “Như có người thiện nam, người thiện nữ nào dùng của báu thượng diệu đầy đủ cả vi trần thế giới v.v... để bố thí chúng sinh trong tất cả thế giới, để cúng dường cho chư Phật, Bồ tát trong tất cả thế giới luôn luôn như vậy trải đến vi trần số kiếp không ngớt, công đức của người thiện nam hay thiện nữ này đặng sánh không bằng một phần trăm công đức, một phần nghìn công đức v.v... của người nghe nguyện vương này một phen thoáng qua tai...

 

Công đức của chúng sinh nào đọc tụng nguyện vương này và khắp vì người mà giảng nói, ngoài đức Phật ra không ai có thể biết được.

 

Dầu thế nào, đây cũng thuộc về phần tóm tắt. Nếu người nào muốn hiểu biết rõ ràng đầy đủ hơn, xin tụng đọc những bộ này:

 

1. Phật thuyết A Di Đà kinh, tức là tiểu bổn A Di Đà kinh.

2. Vô Lượng Thọ kinh, tức là Đại Bổn A Di Đà kinh.

3. Quán Vô Lượng Thọ kinh tức là Quán kinh.

4. Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm.



SÁM THẬP PHƯƠNG

 

 

Thập phương tam thế Phật

A Di Ðà đệ nhất

Cửu phẩm độ chúng sanh

Oai đức vô cùng cực.

Ngã kim đại quy y

Sám hối tam nghiệp tội

Phàm hữu chư phước thiện

Chí tâm dụng hồi hướng.

Nguyện đồng niệm Phật nhơn

Cảm ứng tùy thời hiện.

Lâm chung Tây phương cảnh

Phân minh tại mục tiền.

Kiến văn giai tinh tấn

Ðồng sanh Cực Lạc quốc.

Kiến Phật liễu sanh tử,

Như Phật độ nhứt thiết.

Vô biên phiền não đoạn

Vô lượng pháp môn tu.

Thệ nguyện độ chúng sanh

Tổng giai thành Phật đạo.

Hư không hữu tận

Ngã nguyện vô cùng.

Hư không hữu tận

Ngã nguyện vô cùng.

Tình dữ vô tình,

Ðồng viên chủng trí.

  

Nhứt giả lễ kính chư Phật,

Nhị giả xưng tán Như Lai,

Tam giả quảng tu cúng dường,

Tứ giả sám hối nghiệp chướng,

Ngũ giả tùy hỷ công đức,

Lục giả thỉnh chuyển pháp luân,

Thất giả thỉnh Phật trụ thế,

Bát giả thường tùy học Phật,

Cửu giả hằng thuận chúng sanh,

Thập giả phổ giai hồi hướng. 

 

Nam-mô Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát Ma-Ha-Tát.  (3 lần)

 

 

 

BÀI TÁN PHẬT

 

Tán lễ Thích Tông      

kính lạy Thích Ca


Vô thượng năng nhân         

Tột bực Bu Ða


Tăng kỳ cữu viễn tu nhơn         

nhơn tu nhiều kiếp lâu xa


Ðẩu xuất giáng thần  

...xuống giữa ta bà:


Trường từ bửu vị kim luân        

...hy sinh ngôi báu nước nhà;


Bồ đề tọa  

....ngồi gốc da...


Ðại phá ma quân        

chiến thắng quân Ma!


Nhứt đổ minh tinh đạo thành    

đắc đạo sao Mai sáng lòa


Giáng pháp lâm          

mưa pháp sa,


Tam thừa chúng Tăng qui tâm   

theo về xe pháp cả ba;


Vô sanh dĩ chứng       

dã chứng Phật đà


Hiện tiền chúng đẳng qui tâm    

hiện giờ chúng đối trước tòa


Vô sanh tốc chứng     

mau chứng Phật Ðà

 

KHỔ VÌ CHÚNG SANH PHÁT NGUYỆN

KHẮP VÌ CHÚNG SANH MÀ DẤY NGUYỆN RẰNG:


Tứ sanh cửu hữu đồng đăng Hoa tạng huyền môn bát nạn tam đồ cọng nhập Tỳ lô tánh hải:

Bốn loài chín cõi đồng lên cửa huyền hoa tạng; tám nạn ba đồ chung vào biển tánh Tỳ lô.


Tứ sanh: bốn loài, là nói chung hết thảy cái chánh báo thân của chúng sanh cả ba giới. Cửu hữu: chín cõi, là nói chung hết thảy cái y báo độ của mỗi loại ở cả tam giới. Bát nạn: nói riêng những chỗ bị chướng nặng nề giữa tam giới, vì chúng sanh ở đó chẳng nghe được Phật pháp. Tam đồ: nói riêng về chỗ bị nghiệp quá trọng và khổ giữa tam giới. Ðấy cả chúng hữu tình đều là hữu lậu mê hoặc mà phải luân chuyển mãi đến vô cùng!


Hoa tạng huyền môn: là nêu chung lên tất cả cõi Phật mười phương. Tỳ lô tánh hải: là gồm chung hết thảy cái chơn như tánh giới vô cùng tận. Ðấy là cái pháp giới thanh tịnh Phật tánh vô biên tế.


Hoa tạng: Kinh Hoa Nghiêm ghi lời Phật giảng về thế giới Liên hoa tạng mà ở đây xin sao lục lại đoạn đại khái rằng:


“có cái biển lớn nước thơm tên là “Phổ quang ma ni vương trang nghiêm hương thủy hải”, giữa biển nầy mọc lên một cái hoa sen lớn tên là “chủng quang minh Nhụy hương tràng”, trong cái hoa Nhụy hương tràng đây có một tổng hải tên là “Hoa tạng trang nghiêm thế giới hải”, giữa biển đây có những hoa bằng số mười lần “Bất khả thuyết Phật sát vi trần”, trong mỗi một hoa có một hương thủy hải, trong mỗi một biển ấy lại có một hoa sen lớn, trên mỗi một hoa sen có hai mươi lớp thế giới theo thứ lớp chất chồng nhau, dưới đáy hẹp, lên trên nới lần rộng ra.


Như cái hoa ở rốt trung tâm tên là “Nhứt thế hương ma ni vương Trang nghiêm liên hoa” trên hoa nầy có hai mươi lớp thế giới, một lớp thế giới dưới nhứt tên là “Tối thắng quang biến chiếu” đức Giáo chủ ở thế giới nầy hiệu là “Ly cấu Ðăng Phật” chung quanh ngoài lại có nhiều thế giới bằng số nhứt Phật sát vi trần để bao bọc giáp vòng.


Ðến lớp thế giới thứ 13 tên là “ta bà”, đức Giáo Chủ ở thế giới nầy tức là “Thích Ca Mâu Ni Phật”, chúng quanh ngoài có nhiều thế giới bằng số mười ba lần Phật sát vi trần để bao bọc giáp vòng.


Ðến lớp thế giới thứ 20 tên là “Diệu bửu diệm” đức giáo chủ ở thế giới nầy hiệu là “phước đức tướng quang minh Phật”, chúng quanh có nhiều thế giới bằng hai mươi lần Phật sát vi trần để bao bọc giáp vòng.


Ðối với “hai mươi thế giới chồng lên hoa” như đã kể trên, vòng vây bên ngoài còn có mười chồng mỗi chồng cũng đủ hai mươi lớp thế giới bao bọc khắp bủa ở trên tổng liên hoa là “chủng quang minh Nhụy hương tràng”.


Ðấy dù là một toàn cảnh đều do thiên bách ức hóa thân Thích Ca Mâu Ni Phật chia thân mà giáo hóa, mà cũng chính là do duy tâm của mỗi người tạo thành cảnh giới ấy do biệt nghiệp hoặc cọng nghiệp.


Bởi thế, nên mỗi khi tâm của chúng ta dung hòa, thì cả pháp giới thảy đều dung hòa một cách soi suốt không chi làm chướng ngại thân tâm và quốc độ vẫn một chẳng hai (Kinh Lăng Nghiêm nói:Nếu người biết được tâm rồi, quày xem đại địa không còn tấc đất. Vì cảnh tức tâm, nên nói chẳng hai). Cảnh giới đó, chẳng khá nghĩ bàn được, là nghĩa của chữ “Huyền”. Vì nhứt tâm đây nó hàm đủ chư pháp (vũ trụ vạn hữu, hay tứ thánh lục phàm) mà với pháp nào, pháp nào nếu ta không mê, thì pháp nào cũng là cái môn để vào giác đạo, nên nói là huyền môn.


Lại nữa, mỗi pháp, pháp nào cũng vẫn đủ mười môn, nên Hoa Nghiêm tông diễn tả ra mười lớp huyền môn, với nghĩa lý rất viên diệu khó nghĩ thấu!


Như Kinh nói: “Cả mười phương hư không sanh trong tâm người, tỷ như vết mấy bợn giữa trời cao”. Chính rằng: tâm dung diệu lý hư không tiểu: tâm hòa lẫn với lẽ mầu rồi, thì cõi hư không là vật cực nhỏ. Cũng như nói: tâm bao thái hư, lượng châu sa giới..thì, cùng tột hư không pháp giới, chỗ nào là chẳng phải thanh tịnh pháp thân của chư Phật ư?


Thế nên khắp nguyện cho cả pháp giới: nào là tứ sanh nào là cửu hữu đồng giác ngộ lý của pháp thân, đồng chứng nhập thể của pháp thân, nên nói: tứ sanh cửu hữu đồng đăng hoa tạng huyền môn.


Tỳ lô tánh hải: tiếng phạm: Vairocana, tiếng ta đọc là: Tỳ lô cha na. Nhơn vì kinh cũ của đời Tấn dịch là: Lô xá na; kinh mới của đời Ðường dịch là: Tỳ lô cha na. Dịch chữ là Biến nhứt thế xứ, nghĩa: khắp tất cả chỗ, tức là cứu cánh thanh tịnh pháp thân. Lại, cảnh diệu hiểu ra rất cứu cánh, tên là Tỳ lô cha na; Trí diệu đầy đủ rất cứu cánh, tên là Lô xá na: hạnh diệu đầy đủ rất cứu cánh, tên là Thích Ca Mưu ni. Lại: Lô xá na, dịch: Quang minh chiếu; Tỳ lô cha na dịch: Quang minh biến chiếu, vì chữ Tỳ dịch là Biến.


Do vì: cái tánh pháp thân là lìa quá dứt phi, ly hẳn các danh tướng, vắng lặng chẳng động, dọc tột ba đời, ngang khắp mười phương, chẳng thể nghĩ bàn được, với lý và thể như thế không biết gọi thế nào cho đúng, nên tạm nói là “tánh” đấy thôi. Vậy, trên kia nói: ma ni Trang nghiêm vương hương thủy hải, số biển này nhiều đến vô lượng, và các hương hải nhiều như số vi trần, đều là do nơi tự tánh duy tâm của ta với người chung nhau tổ thành ra, nên nói là tánh hải.


Song, với tánh, tâm ấy, nếu người đều mê luôn cả hai, thì làm chúng sanh bị cách ngại với thế giới, không biết tất cả thế giới tướng vốn thường trụ và tánh nó viên dung. Chúng sanh trọn ngày ôm lấy cái tánh tâm ấy, mà luống uổng chịu luân chuyển! Tuy chịu luân chuyển mà cái tánh ấy chưa có biến đổi một tý hào nào. Nên trọn ngày những điều thấy, nghe, hiểu, biết đều toàn do nơi tự tánh nó rọi, nháng ra mà có những sanh diệt như chớp chớp, tắt tắt vậy thôi. Nếu người khứng chịu với mỗi niệm đương sanh diệt đó mà buông hẳn đi, thì toàn thể của sanh diệt ấy tức là chơn như, thế với vô biên hư không, Hoa tạng trang nghiêm, mỗi mảy bụi, mỗi cõi Phật, đều là cái chơn như diệu tánh của mỗi phần tử nó viên dung lẫn nhau với cả toàn thể pháp giới tánh.


Tâm ta đã là pháp giới tánh, mà pháp giới chúng sanh cũng đều ở giữa tâm ta, mà ta cũng ở giữa tâm của chúng sanh. Bởi vì chúng sanh tâm cũng đều là pháp giới tánh cả.


Thế thì tâm Phật, chúng sanh cả ba ấy đều lẫn nhau làm viên dung pháp giới tánh.


Vả lại, tâm ta đã hay qui nơi Phật tánh, thì phổ nguyện luôn cho bát nạn, tam đồ đương thể của chúng cũng quy nơi Phật tánh, nên nói: “bát nạn tam đồ cọng nhập tỳ lô tánh hải”.


PHỤ LỤC ÐỒ CHÚ THÍCH VÀ BIỂU


Trên kia lời chua thêm rằng “đối với Hoa tạng thế giới, có tóm tắt nêu ra từ đơn vị đến phúc tạp bằng năm cái biểu đồ và các lời chú thích như sau”.


Dưới và sau đây lần lượt đăng tái thêm năm bản đồ ấy và hai cái biểu bát nạn và cửu hữu, cho đến những lời chú thích giải rõ từ một đơn vị của tứ châu thiên hạ, từ một tiểu thế giới cho đến tam thiên thế giới của ta bà thế giới, là hóa cảnh đức Thích Ca Mâu Ni Phật phân thân giáo hóa chúng sanh, để cho các độc giả sẽ xem hiểu về: địa dư, thế giới, nhơn loại, thiên loại, tất cả các học khoa của Phật học bằng tóm tắt một cách với những vị trí danh từ, còn ai có trí lực khá thì nên xem Kinh Hoa Nghiêm sẽ được hiểu tường tất hơn.


Vậy xin xem năm bản đồ sau đây:

Triệu thời Khóa Lễ

PHỤ ÐỒ THỨ NHỨT

Bốn châu lớn núi Tu Di và các núi

Một cung điện của trời Ðao lợi (33 xứ trời) vị trí tại đảnh núi Tu Di.

Bản đồ thứ nhất đây là tượng trưng một tiểu thế giới, nội dung có một núi Tu di, và bốn châu thiên hạ (đồ đây tức là đoạn giữa của đồ thứ hai)

Trung tâm là núi Tu Di: hình như cây trụ đứng sựng một mình, trên dưới đều lờn, khoảng giữa thân núi rút nhỏ lại hình như tảng đá thắt eo lưng cổ bồng; trên đảnh núi là cung điện của Thiên đế thích.

Ngoài núi Tu Di: lại còn có bảy vòng núi vàng, bảy vòng biển hương thủy đều thứ lớp xen nhau để bao vây chạy giáp vòng ngoài Tu Di hình như bảy lớp hào và thành xen lớp bọc chung quanh.

Ngoài núi thứ bảy tức là biển lớn nước mặn nhảy liền bốn phương; bốn phương giữa biển mặn đều có mỗi một châu lớn: giữa biển đông là châu Ðông Thắng thần, giữa biển Nam là châu Nam thiện bộ, giữa biển Tây là Tây ngưu hóa châu, giữa biển Bắc là Bắc cu lô châu; mỗi hai bên châu lớn đều có hàng mấy trăm châu nhỏ để làm quyến thuộc.

Quanh vòng ngoài biển lớn nước mặm: bốn phía chu vi có núi Thiết vi bao giáp vòng ngoài như thành, đấy gọi là một tiểu thế giới.

Song, với cái thuyết địa cầu ngày nay, thì như thế nào để hiểu cho thông đặng?

- Ðối với địa cầu: phía bắc biển Bắc băng dương, nó giáp với chưn núi phía ngoài của núi Vàng thứ bảy, là chỗ của trục trái đất phía Bắc nương tựa: phía Nam biển Nam băng dương, nó giáp với chưn núi phía trong của núi Thiết vi, là chỗ của trục trái đất phái Nam y cứ.

Như thế thì bốn châu lớn đều thành một địa cầu, sắp hàng chạy vòng tròn bốn phương, đều lấy chưn của hai núi bên trong bên ngoài để làm chỗ sở y cho trục trái đất ở giữa, thế thì, một tiểu thế giới nó có bốn châu lớn, đấy là chỉ dùng để hội thông vậy thôi.

Song, Kinh Hoa Nghiêm, Hoa Tạng thế giới là chính Phật trí thấy tận nơi mà nói ra; còn với địa cầu là người đời nay trắc lượng mà biết chứ phi thân kiến mà biết. Phật trí như ngàn mặt nhựt đều chiếu; người đời nay biết là tỷ như ở bên đây bức tường để xét lường cái bóng mà biết bên kia bức tường, với giờ phút dù chẳng sai chạy, nhưng đâu bằng thấy biết chính đích thân cận ư? vậy các nhà trí thức xét rõ lại coi.

Thời công phu sáng

PHỤ ÐỒ NHỊ

Thứ lớp vị trí của ba giới

 

PHỤ CHÚ THÍCH

1/ Trời Vô nhiệt sống được hai nghìn đại kiếp; 2/ Trời Thiện hiện sống được tám nghìn đại kiếp; 3/ Trời sắc cứu cánh sống được một vạn sáu nghìn đại kiếp; 4/ Trời Thiện kiến sống được bốn nghìn đại kiếp; 5/ Trời Vô phiền sống được một nghìn đại kiếp.

6/ Trời Phước sanh sống được hai trăm năm chục kiếp; 7/ Trời Vô tưởng và trời Quảng quả đều sống được năm trăm kiếp; 8/ Trời Vô vân sống được một trăm hai mươi lăm kiếp. Bốn trời đây nhập với năm trời trên cọng là chín trời chung gọi là “Tứ thiền thiên”.

9/Trời vôlượng tịnh sống ba mươi hai kiếp; 10/ Trời biến tịnh sống sáu mươi bốn kiếp; 11/ Trời Thiểu tịnh sống mười sáu kiếp, ba trời đây chung gọi là “tam thiền thiên”

12/Trời vô lượng quang sống bốn đại kiếp; 13/ Trời Quang âm sống tám đại kiếp; 14/ Trời thiểu quang sống hai đại kiếp. Ba trời đây chung gọi là “Nhị thiền thiên”.

15/Trời Phạm Phụ sống một trung kiếp; 16/ Trời Ðại phạm sống một trung kiếp rưỡi; 17/ Trời Phạm chúng sống nữa trung kiếp, ba trời này chúng gọi là “sơ thiền thiên”.

A/ Cung điện của trời Ðao Lợi (dịch nghĩa là 33 nước trời, mà đế thích ở giữa sắp hàng bủa khắp bốn phương nội trên đảnh núi Tu di).

O/Nhựt luân cũng như nhứt cầu là mặt trời; P/ Nguyệt luân hay nguyệt cầu là mặt trăng, tức là cảnh giới cửa nhựt cung thiên tử, nguyệt cung thiên tử ở.

B/Trời Tứ Thiên vương; C/Trời Nhứt Nguyệt tinh tú; D/ Trời thường phóng dật; Ð/Trời cầm tràng hoa; E/Trời G/ Núi Song trì; H/Núi Trì trục; 1/ Núi Ðảm mộc; K/ Núi Thiện Kiến; L/ Núi Mã nhĩ; M/ Núi chướng ngại; N/Núi Trì địa. Bảy núi trên chung kêu là Thất Kim sơn. Hễ một vòng lớp Núi thì xen một vòng lớp biển hương thủy, như thế cọng là bảy biển bảy núi đều chạy giáp vòng chung quanh núi Tu di.

Bản đồ thứ hai là hình tướng của ba giới theo thứ lớp sắp đặt vị trí. Bản đồ tam giới là một cái thế giới bằng số một hột bụi giữa từng thứ mười ba Phật sát vi trần thế giới của bản đồ thứ ba ở sau này. Nghĩa là dưới cái tam giới đây, duy có một cái hư không; từ giữa hư không này sanh khởi lên cái đại phong luân, để duy trì thủy luân; ở trên vì cái nghiệp lực của chúng sanh nên thủy luân chẳng trôi tan, tỷ như vật thực nó chưa tiêu nên nó chẳng sa xuống ruột già.

Trên từng thủy luân lại duy trì kim luân, tỷ như sữa chín phát sanh ra dầu nổi lình bình trên mặt. Trên từng kim luân tức là đại đại, trên đại địa hay địa luân nhảy đầy là biển nước mặn, chung quanh ngòai bìa đại địa, thì chạy giáp vòng là núi Chước Ca La dịch là Luân vi, lại dịch là Thiết vi. Núi này thể nó vòng quanh ngoài bốn biên địa luân như vòng thành để bao bọc giáp vòng ngoài biển mặn.

Phía tột trong bể mặn, có bảy lớp kim sơn và với bảy lớp hương thủy hải theo thứ lớp xen nhau, đều cùng chạy giáp vòng như bảy lớp thành hào để bao vây ngoài núi Tu di.

Phía tột trong bảy lớp biển ấy, trung tim có núi Tu di sừng sựng đứng riêng vọt cao tám vạn bốn ngàn dặm, hai phần trên đảnh dưới chưn đều lớn, phần giữa núi lại rút nhỏ; chỗ lớn của Tu di bề dọc và ngang đều tám muôn dặm; phía ngoài bảy núi vàng tức là biển lớn nước mặn nhẩy đầy cả chu vi bốn phương.

Ðối với núi Tu Di: giữa biển mặn phía đông có châu Thắng thần, giữa biển mặn phía nam có Châu Thiệm bộ, giữa biển mặn phía tây có Châu Ngưu h óa, giữa biển mặn phía bắc có Châu Cu lô; cứ mỗi một châu lớn ấy đều có hai châu vừa ở kèm hai bên, cùng với vài trăm châu nhỏ để làm quyến thuộc (quần châu hệ).

Lại, từ chân núi Tu di lên đến một vạn dặm, là chỗ của vị thiên thần kiên thủ ở; lại từ đây lên đến một vạn dặm là chỗ của vị thiên thần Trì hoa mang ở; lại từ đây lên đến một vạn dặm là chỗ của thiên thần Thường phóng dật ở. Ba thiên thần trên đó đều sắp hàng quanh vòng núi Tu di để ở, mấy thiên thần ấy đều là Quỷ thần Dạ Xoa mà hưởng phước cũng đồng như các trời ở tứ Thiên Vương.

Lại từ đó lên đến một muôn do tuần tức là đúng nửa núi Tu di, thì có Trời Tứ Thiên Vương đều nương ở theo bốn phía núi; nhựt nguyệt tinh thần thì ngày lẫn đêm vẫn cứ đi vòng quanh bốn phương, dù nương nơi trống rỗng để chuyển vần chớ cũng cùng nhau với mực bình thường.

Lại từ đấy lên cao bốn vạn hai ngàn do tuần tới đảnh Tu di sơn tức là chỗ của ba mươi ba nước trời ở, rốt trung ương tức Ðao Lợi thiên, vị thiên chủ tên là Thích Ðề Hoàn Nhơn, lại gọi là Ðế Thích, người đời gọi là Ngọc Hoàng Thượng đế. Những cõi trời Ðao Lợi, Tứ Thiên Vương v.v...kể trên đều chung gọi là “địa Cư thiên” vì còn nương nơi núi Tu di, chưn đi cũng còn sát mặt đất.

Từ trên đảnh Tu di nhẫn lên cả các trời sẽ kêu sau đây đều gọi là “Không Cư Thiên” vì đồng nương nơi mây để ở. Số là: Từ Ðao Lợi thiên bắt đầu kể lên mười sáu vạn do tuần là chỗ của trời Da ma ở. Lại từ đây lên sáu mươi bốn vạn do tuần là đến chỗ trời Hóa lạc ở. Lại từ đây lên một trăm hai mươi tám vạn do tuần là đến chỗ trời Tha hóa tự tại ở.

Từ lớp “Không cư” bốn trời xuống lớp “địa cư” có hai trời là Ðao lợi, Tứ Thiên vương, cọng là sáu trời, nhẫn đến dưới tới lớp “phong luân” chung gọi là “Dục giới” bởi vì còn có sự tình dục của hai giống: trai, gái, cái, đực và trống, mái để tạo tác, sản xuất thân mạng ra do sự dâm dục là phần chính nên gọi là Dục giới.

Lại từ trên trời Tha hóa kể lên hai trăm năm mươi sáu vạn do tuần là tới ranh Sắc giới. Từ đây kể lên là: Sơ thiền có ba trời; nhị thiền có ba trời, tam thiền có ba trời; tứ thiền có chín trời, cọng mười tám lớp trời Phạm Thiên, với số do tuần của mỗi từng lớp cứ gấp bội bội kể trên.

Lại từ trên trời sắc cứu cánh là lớp trời thứ chín của Tứ thiền thiên kể gấp bội tăng lên đến ranh Vô sắc giới cũng như thượng giới, từ đây kể đi là: Trời không vô biên xứ, Trời thức vô biên xứ, Trời vô sở hữu xứ, và trời phi phi tưởng xứ, cọng là bốn trời, bề cao đều lớp lớp gấp bội nhau. Như thế cả ba giới chung gọi là hai mươi tám từng trời.

Sách Tỳ đàm luận ghi lời của Phật dạy: giả sử có người đứng tại nơi đảnh trời “Sắc cứu cánh” chừa bốn trời của Vô sắc giới, phóng ra một viên đá lớn, thì trải qua sáu vạn năm ngàn năm trăm ba mười lăm năm, viên đá ấy mới rơi tới sát mặt đất Châu diêm phù đề, nếu chặng giữa không Nhơn đạo, Tu la đạo, Súc sanh đạo, Ngạ quỷ đạo chung gọi là tam giới lục đạo.

TAM THIÊN ÐẠI THIÊN THẾ GIỚI

Ba ngàn cả ngàn ấy, như nội dung của bản đồ thứ hai đã bao bọc, bắt đầu kể tận dưới: từ lớp địa luận, thiết vi, tứ châu, thất sơn, tu di, nhựt nguyệt, lục dục thiên, cho đến lớp Sơ thiền, như thế cứ mỗi lớp kể làm một, nghĩa là: một địa luân, một thiết vi, một tứ châu v.v... đến một Sơ thiền, cọng làm “một tiểu thế giới”.

Lấy một tiểu thế giới như trên tính làm một, như thế tính cho đến một ngàn cái tiểu thế giới, bên ngoài có một cái tổng Luân vi sơn nó đứng giáp vòng tròn vây bọc núi nầy cao đến cõi Trời Sơ Thiền, như thế gọi là “một tiểu thiên thế giới”.

Cứ một tiểu thiên thế giới, như trên tính làm một, tính như thế cho đến một ngàn cái Tiểu thiên thế giới, bên ngoài lại có một đại tổng luân vi sơn vòng vây, núi nầy cao đến nhị thiền thiên, thế gọi là “một trung thiên thế giới”.

Mỗi trung thiên thế giới như trên tính làm một, tính như thế cho đến con số một ngàn cái trung thiên thế giới, bên ngoài lại cũng có một vòng núi đại đại tổng luân vi bao vây, núi nầy cao đến cõi tam thiền thiên, thế gọi là “một đại thiên thế giới”.

Với trong cõi Ðại thiên ấy, tổng cọng có: muôn lần ức Núi thiết vi, muôn lần ức tứ châu, muôn lần ức núi Tu di, nhẫn đến muôn lần ức cõi Sơ thiền thiên, suốt cả gọi là gấp ba lần ngàn làm một cõi Phật tức là ta bà thế giới.

Xem đó thì biết: Với luân vi sơn thấy có đến bốn hạng núi, vì từ nhỏ thấp đến rộng cao có những phần lượng bội bội nhau; mà với tam giới thì tổng bao hàm một cõi Ðại thiên, một đại thiên thiên thế giới như trên tức là một Phật quốc độ.

Lại, với trong “Tiểu thế giới” từ trung tim Tu di nầy cách trung tim Tu di kia là có đén mười hai ức tám vạn 300040050 do tuần; còn cả tám phương từ núi nầy cách núi nọ bề xa với nhau cũng như số kể trên. Ðấy là chính thật lời nói của Phật bằng cứ nơi khai thị Phật tri kiến với “thiên nhãn thông” và “Diệu quan sát trí” đưa ra, xin chớ hạn lấy trí thức tỷ lượng của người đời để nghi!

TRỜI THIỀN TRÙM XUỐNG RỘNG HẸP

Bằng bốn châu thiên hạ; Nhị thiền rộng bằng: 1 Tiểu thiên giới; Tam thiên rộng bằng như một Trung thiên giới; Tứ thiên rộng như một đại thiên giới. Lại dưới địa luôn, các kim luân, thủy luân, phong luân mỗi đều rộng khắp đại thiên thế giới v.v...

Than ôi! vốn một tánh chơn không, không sanh diệt, một thể lượng trong sạch, vắng lặng sáng suốt chiếu soi khắp cõi pháp giới, và có công năng hiện ra vô biên thần hóa, viên dung, mà chỉ vì một niệm mê lầm, khiến chơn minh biến đổi làm vọng minh, chơn không hóa thành ra ngoan không, đổi diệu sắc làm giả sắc! (chơn minh là chơn trí, vọng minh là vô minh, chân không là chân lý, ngoan không là hư không, diệu sắc là cái cảnh đẹp bằng mỗi vật sắc nầy nó lẫn khắp nhau với vật sắc kia, giả sắc là cái khí giới luống dối bằng sáu trần).

Chỉn bởi nơi thể bổn chơn nó vì một niệm mê lầm mà chẳng biết tự tỉnh, nên chi từ nơi chơn trí mà khởi lên vô minh, rồi từ nơi vô minh nó sa đắm nơi ngoan không mà phát khởi ra vọng tưởng, cái vọng tưởng nó đã hoạt động, nên chiêu cảm lấy cái lớp phong luân phơi phới giữa không giới; cái tâm ý nó loạn động mãi chẳng nghĩ thôi, thì ái tình lại càng tẩm nhuần nữa, thành thử phong luân nó duy trì thuỷ luân để bao hàm cả mười phương giới. Chỉ nơi cái si mê với ngã ái, mà cái vọng tưởng nó càng chấp cứng luôn, tức nhiên có lớp kim luân để bảo trì quốc thổ. Kẻ nào có cái ác tưởng quá trọng trược, thì nó kết tinh đọng nơi đại địa ở trên kim luân, nhơn đấy cả tam đồ liền phát sanh. Còn ai có thiện tưởng rất khinh thanh, thì nó nổi bổng nưng cái tịnh thân ở giữa thanh hư, vì vậy mà cõi trời đều hiện.

Thế nên, những chúng tạo tác nghiệp thập ác thì sẽ sa chìm đến các chỗ: A Tu La, Ðịa ngục, Ngạ quỷ và súc sanh; còn những hcúng thi hành nghiệp thập thiện thì được thăng lên các chỗ sáu trời dục địa cư; mấy người đã tu mười lành gồm có tu được chút phần thiền định như: ngồi tịnh, phàm phu thiền, nghĩa: dù có chánh tín nhơn quả, mà tu thiền bằng cách chán cái khổ bực dưới, ham cái vui bực trên, sẽ sanh ở bốn cõi trời không cư của dục giới. Nếu tu thiền mà rõ được căn bản định, nghĩa: đè được phiền não của bực dưới, mà đắc thiền định bực trên, gọi cận phần, cũng gọi trung gian định: dứt được phiền não của bực dưới, đắc cái thiền định bực trên, gọi là căn bản thiền cũng như định, tức là được sanh lên ở nơi các cõi trời Tứ thiền trung giới.

Ơû sắc giới lòng đã lìa được cái dục tình của trời dục giới nên tâmthanh tịnh, tại đây, lại diệt được cái thân bằng sắc lung mà vào nơi không định, thì vãng sanh lên cõi vô sắc, theo thứ lớp mà ở nơi bốn trời không.

Như thế, các các trời ba giới: với phước vui tuy hưởng được vô cùng, nhưng chưa khỏi có ngày đọa xuống! Vì với chỗ tu pháp thập thiện, và các pháp thiền định như thế, nó đều thuộc pháp hữu lậu, nên chi các bậc trời ở dục giới khi hết phước, có năm cái tướng suy hiện ra; các bậc trời ở sắc giới, đến lúc tuổi sống sắp mãn, thân thể sanh ra đại khổ não; các bậc trời trên vô sắc giới, đến lúc mạng chung, thân thể bị đau chết như bị tên bắn.

Thế thì, tam giới, lục đạo, trời và mọi loài đều bị cái khổ lớn luân hồi sanh tử! Thí tỷ như nhà bị hỏa hoạn......Sự luân hồi như thế, một đều bởi si mê vọng hoặc làm nguyên nhơn; nếu ai lìa được si vọng rồi, thì tự biết tam giới như ảo thuật, lục đạo vốn không, chính nơi thân thể chứng ngay chơn như, ca ba giới đâu chẳng là quốc độ diệu nghiêm, cả ngoan không chẳng chẳng là tự tánh chơn không, toàn vọng minh đâu chẳng là cái trí chơn như, như vậy lý trí đều đã hay tuyệt, lẩn suốt không ngần ngại, thì làm gì có sanh tử ư?

Kinh mơi nguyện chúng sanh

PHỤ ÐỒ THỨ BA

Bản đồ thứ ba nầy, tức làmột phần bằng “hai mươi lớp hoa tạng thế giới” ở trung tâm điểm giữa bản đồ thứ tư sau kia.

So đó thì biết: những phần “hai mươi lớp hoa tạng thế giới” nhiều bằng số những vi trần ở thập phương nào là hình tượng hoặc lớn hay nhỏ, nào là vị trí sắp đặt lớp lan cũng đều đồng nhau, chỉ danh từ có khác vậy thôi.

Trong bản đồ đây, biển nước thơm tên Phổ Quang ma ni, và hoa sen tên Nhụy hương tràng tức là “Tổng hải hệ”, trong bản đồ thứ năm sau.

Trên “Nhụy hương tràng liên hoa” đầy dẫy trong đó toàn là “vô biên diệu hoa quang hương thủy hải”, bên ngoài biển nầy có “Núi Ðại thiết luân vi” giáp vòng tròn bên trong “Nhụy hương tràng liên hoa” để bao vây bên ngoài “Vô biên diệu hoa quang hương thủy hải”.

Biển vô biên diệu hoa quang hương thủy đây, nó có những tên mỗi biển riêng nhiều bằng số vi trần trong mười lần bất khả thuyết thể giới; mỗi mỗi biển riêng ấy đều có “Liên hoa tràng”.

Về “Liên hoa tràng”; nơi biển riêng rốt trong đó tên là “Ma ni vương Liên hoa”; bên trong liên hoa nầy có “thế giới chủng” tên là “Phổ chiếu thập phương”, trên có hai mươi thế giới trùng điệp nhau để an trụ bằng cách dưới nhỏ trên lớn: như dưới nhứt là lớp thứ nhứt, có những thế giới bằng số vi trần của một cõi Phật, để bao vây giáp vòng ngoài lớp thứ nhứt.

Cứ như thế gấp bội hơn nhau, đến lớp thứ mười ba có những thế giới nhiều bằng số vi trần trong mười ba cõi Phật để bao vây giáp vòng lớp mười ba.

Nhẫn đến thứ ba mươi có những thế giới nhiều bằng số vi trần trong hai mươi cõi Phật để bao vây giáp vòng lớp thứ hai mươi.

Cõi mà hiện nay chúng ta ở đây là Ta Bà thế giới, nó ở tại trung ương của lớp thứ mười ba, vậy Ta bà thế giới chính là con số bằng một mảy trần giữa nhiều vi trần của mười ba cõi Phật mà thôi. Cực lạc thế giới cũng là một trần ở giữa lớp thứ mười ba, mà vị trí Cực lạc nó cùng ngang bằng nhau với Ta Bà.

Hỏi: nói là thế giới nhiều như số vi trần là nghĩa như thế nào?

Ðáp: một hột bụi nhỏ tính là một thế giới.

- Thế giới một hột bụi là nó lớn được chừng bao nhiêu?

Với bề lớn của nó là ước chừng cứ một cái tam thiên đại thiên là một thế giới thì tính làm số một hột bụi. Nghĩa là như một ta bà thế giới tính làm số một hột bụi. Vì một ta bà kể có một tam thiên đại thiên, đấy là rất nhỏ; hoặc đến bằng hai đại thiên, bằng ba đại thiên, và như kinh Pháp Hoa Phật thụ ký cho ông Phú Lâu Na đa la Ni tử về cõi nước của ông sau nầy thành Phật là: lấy tam thiên đại thiên thế giới nhiều bằng số cát sông Hằng để làm một quốc thổ. Bởi thế, nên quốc độ của chư Phật hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc tịnh, hoặc uế, hoặc viên, hoặc phương, hoặc nghiêng, hoặc ngữa, mỗi mỗi hình lượng, không nhứt định. Với mỗi mỗi quốc thổ cũng như thế giới ấy, đều có mỗi một đức Phật hiện làm giáo chủ, như đức Phật Thích Ca Mâu Ni làm giáo chủ của Ta bà quốc độ đây.

(hoặc tịnh: cõi Phật bằng tịnh độ: hoặc uế: cõi Phật bằng uế độ; hoặc viên: cõi cũng như thế giới hình tròn. Hoặc phương: thế giới hình vuông. Thế giới hình nghiêng thì chúng sanh ở đấy đi đứng cái thân cũng nghiêng mà chúng đâu có biết; thế giới ngữa chúng sanh đi ngửa...., thế giới úp thì chúng sanh đi úp. Nghĩa là ở thế giới hình như thế nào, thì chúng sanh cũng do sức hấp dẫn như thế nấy v.v..

PHỤ ÐỒ THỨ TƯ

Hữu nhiễu vòng vây mười thế giới chủng

PHỤ ÐỒ THỨ NĂM

Bản đồ thứ năm này là gom chung cả bốn bản đồ trước, mà lại rộng trùm tất cả những Hoa tạng thế giới nhiều như số vi trần trong mười phương, đồng ở trên một cái hoa sen lớn, để chỉ rõ nghĩa của hai câu “Hoa tạng huyền môn, Tỳ lô tâm hải”.

Xét rằng: Tổng đại liên hoa tên là “Nhuy hương tràng” với Tràng này phía rốt dưới có Núi Tu Di và nhiều phong luân bằng số vi trần, mà lớp dưới hết là lớp phong luân thứ nhứt tên là “bình đẳng trụ”, lớp này nó duy trì lên trên tất cả Bửu diệm xí nhiên trang nghiêm.... Cho đến lớp phong luân rốt trên là “Thù thắng uy quang tạng”, lớp này nó hay duy trì “Biển Phổ quang ma ni hương thủy”, biển nầy là “tổng hương thủy hải” ở dưới Ðại liên hoa nhụy hương tràng.

Trong “biển tổng hương thủy” mọc lên đại liên hoa tên là “chủng chủng quang minh nhụy hương tràng” đấy là “tổng đại liên hoa”.

Trên tràng tổng đại liên hoa đầy dẫy bên trong là Hương thủy hải; chu vi bốn p hía có núi Kim cang Luân vi chạy vòng tròn dọc theo bên trong Tổng liên hoa, để bao vây bên ngòai Hương thủy hải, đấy là Tổng hương hải trên Tổng liên hoa.

Trong Tổng hải có những Hương thủy hải nhiều bằng số vi trần trong mười lần bất khả thuyết Phật sát, đó là chỉ ngay về những “biệt hương thủy hải” ở giữa “Tổng hương thủy hải” trên “Tổng đại liên hoa”.

Mỗi mỗi trong Biệt hải đều có một thế giới chủng, mỗi trên một thế giới chủng, để có hai mươi lớp Hoa tạng thế giới, theo lớp lan sắp đặt xây dựng, đồng gom chung trong một hoa sen lớn đấy, nên gọi là Hoa tạng thế giới, tức Tỳ lô tâm hải.

Song le, tổng quát trong hoa tạng, chỉ sắp bủa ra một trăm, một chục, một cái Phật sát chủng, là lấy phần giản lược, mà gồm cả trên hoa tạng những mười lần số “Bất khả thuyết”thế giới vi trần số thế giới chủng, mỗi mỗi thế giới chủng đều có hai chục tầng Phật sát. Tỷ như cái võng bằng ngọc của Thiên đế, nó chia bủa ra mỗi viên ngọc đều có mỗi chỗ để an trụ.

Mỗi một Phật sát đều có những vật trang nghiêm nhiều bằng số vi trần; mỗi một món trang nghiêm đều phóng ra những tia sáng nhiều nhiều số vi trần; mỗi một ánh sáng đều hiện ra những Hoa tạng thế giới trên và những sự bất khả tư nghị trong chốn sát hải cả ba đời. Tỷ như nghìn mặt gương trung trùng đối diện nhau, lẫn lẫn chói dọi khắp chiếu suốt nhau.

Song, với Hoa tạng và Tâm hải ấy, toàn là cái nhứt tâm của người đương đời, thế thì tâm đủ pháp giới, mà pháp giới tức là tâm, vì đều rộng lớn hòa lẫn nhau vô cùng vô tận, chính thật đây bảo: “Hoa tạng huyền môn Tỳ Lư tâm hải”

THUYẾT NÀY ÐỂ ÐEM HOA TẠNG

THẾ GIỚI NÊU RÕ NHỨT TÂM

Không luân ấy là để nêu nhứt tâm chơn như; tâm ấy làm thể cho pháp giới bằng đại tổng tướng pháp môn, tức là cái lý căn bản vô sai biệt; có núi Tu di ấy là để nêu bày cái chơn trí của nhứt tâm.

Phong luân ấy là để tiêu biểu rằng từ nơi tâm trí phát khởi ra vô lượng đại nguyện. Thủy luân ấy là để tỏ ra rằng nước đại bi tâm trong lóng chảy giáp khắp nhuần Hoa sen lớn ấy là nêu bày rằng từ nơi bi nguyện mà hành những công nghiệp bất khả tư nghị. Mười lần bất khả thuyết ấy là để tiêu biểu rằng với khắp trong pháp giới, các thánh Bồ Tát trong thập địa thường hành những sự bất khả tư nghị công đức. Ðiều hai mươi tầng dưới hẹp trên rộng ấy là biểu hiện ra rằng với bực thập địa, Bồ Tát tiến lên có phần chánh, phần hướng mà chánh, hướng cũng đều có phần đặng bởi nhơn quả đền bù, dần dần càng rộng lớn tốt hơn.

Mỗi tầng có danh hiệu Phật quả đó là để tỏ ra rằng tùy theo mỗi địa vị tiến lên hiệu Phật có nhơn có quả. Lại gom chung đều có những hai mươi tầng Phật quả là đồng thống nhất nơi căn bổn Phổ quang minh trí để tùy theo mỗi tiến lên làm lập thành những danh hiệu, chớ thật thì thể tánh không hề sai khác.

Bên trong núi Kim Cang luân vi giáp vòng vây đều có mười thế giới chủng mà trên dưới đều chỉ có bốn trùng là để biểu rõ tứ nhiếp pháp và tứ vô lượng tâm. Nói tóm lại, từ nơi cái “Trí chơn không vô phân biệt của Tổng Nhứt thanh tịnh chơn tâm, mà biến ra cái Trí hiện hành có sai biệt để thành không luân, phong luân, thủy luân, kim luân, địa luân”...

Song, đấy là tổng quát cả trong “tổng liên hoa” nó có những sát độ, hương hải như bấy nhiêu, mà không một sát hải nào là chẳng phải cái cảnh báo hóa của mỗi một đức Phật. Vốn bởi, đối với trí cảnh của nhứt tâm nó đã là vô hạn, thì với cái cơ để nhiếp hóa lợi sanh nó cũng vô hạn; với cơ nhiếp hóa lợi sanh đã vô hạn, nên chi với thân độ báo hóa đều trang nghiêm đâu chẳng xứng tánh bằng cách cũng vô hạn?

Thế nên, trong kinh ghi rõ rằng: Những kiếp tu nhơn của Ðức Thích Ca, đối với trong Hoa tạng đây, không chỗ nào là Ngài không để dâu vết đến. Bằng cứ là kinh nói: Cả ba ngàn thế giới, tùy ý ai lấy cây cắm xuống một chỗ nào, cũng đều trúng nhằm cái tiền thân của ta đã chôn tại đó, vì mỗi thân đều tử khứ sanh lại như thế để tu Bồ Tát đạo từ A tăng kỳ kiếp đến nay. Thành thử nay thành quả đạo, cũng với trong vô hạn sát hải ấy, khắp nơi hiện ra tam loại hóa thân, để tủy theo cơ cảm, ứng hiện độ sanh với chúng hữu duyên.

Thế thì, giữa Hoa tạng có vô lượng chư Phật, mỗi Phật, mỗi Phật đều là lẫn khắp nhau, lẫn ứng hiện nhau, thì Hoa tạng đây tức là diệu cảnh diệu tâm của mỗi mỗi đức Phật mà cũng là những diệu cảnh diệu tâm nơi nhứt tâm của ta với người vậy thôi.

Nên kẻ tu hành nếu y theo tổng đồ để quán xét nhìn tưởng, sự quán tưởng dần dần thuần thục, thì tâm lượng rỗng sáng rộng ra, thế với Hoa tạng huyền môn, Tỳ lô tánh hải ta tự lẫn suốt được.

Kinh nói: “Ưng quán pháp giới tánh, nhứt thế duy tâm tạo”, nghĩa: Nên xét tánh pháp giới (a lại da thức hay là Như lai tạng) thì biết tất cả (tứ thánh lục phàm) chỉ cái tâm tánh ấy tạo ra. Chính là nghĩa đã nói trên.

ÐỊNH DANH NGHĨA CỦA HOA TẠNG HUYỀN MÔN VÀ TỲ LÔ TÁNH HẢI.

Lời sớ sao kinh Hoa Nghiêm chép rằng: Với những chỗ mà hoa sen nó ngậm hột sen đó, thì gọi là “tạng hay tàng” nghĩa là kho hay chứa; các sát chủng (thế giới chủng), và các Phật sát (Phật quốc) là tỷ những chỗ hàm tàng của hoa sen lớn, nên bảo là “Hoa tàng”. Với trong Hoa tàng có mỗi mỗi cảnh giới, cảnh giới nào cũng đều có những thanh tịnh công đức nhiều như số sát hải vi trần, nên nói là “trang nghiêm”. Với thế giới thì: số nhiều vo âbiên, thể lượng sâu rộng, không thể xét lường đặng, nên gọi là “Hải”. Chứa nhiều thế giới chung ở trên một “ma ni vương liên hoa” để thâu nhiếp các lưu loại, nên gọi là “chủng”. Gôm chung các hạnh trong hoa tàng đây, tức là nhứt tâm chơn như của các Phật, trong cõi không: vô cùng đại nguyện là phong luân để duy trì nước biển đại bi, nảy nở vô biên hạnh nghiệp rỡ tốt như hoa là Phật sát (Phật quốc độ)

Vốn bởi, với tâm ấy sẵn đủ vô biên công đức diệu trí, nếu phi thật hành vào cửa vạn hạnh vô biên, thì không do đâu để tỏ rạng ra đức và trí kia, nên chư Phật công hạnh đã cùng tận, trí đức đã cao cực, thì toàn thể bày ra những tướng vi diệu của công đức Hoa tàng nhiều đến vô biên.

Song, với lý lẽ mà rất vi diệu khó nghĩ suy ấy, thì duy có Phật Thích Ca và chư Phật mới có thể xét hiểu được cùng tận nên gọi là “huyền”. Ðối với Hoa tàng, từ trong chí ngoài với mỗi mỗi mảy trần đều đạt được, với mỗi mỗi pháp đều thông suốt, nên gọi là “môn”. Chính nơi huyền môn ấy chúng sanh vốn sẵn đủ, nếu giác ngộ rồi lo tu, thì toàn thể nó rõ bày ra cái tâm bình đẳng của chư Phật, nên nói là “đồng đăng Hoa tạng huyền môn”.

Chỉ nói Hoa tạng thì, đâu chẳng phải là Tỳ lô tánh hải, vì tánh hải vô biên đấy nó hàm ở trong cái hư không vô biên, bởi hư không vô cùng tận, thì ngoài hoa sen lớn ra hẳn còn có vô cùng tận những bông đại liên hoa tạng nữa để làm trang nghiêm đủ rõ rồi.

Dường như cái võng bằng châu ngọc của Ðế thích: mỗi một viên ngọc ánh chói nó đến với nhiều viên ngọc; như thế mỗi mỗi viên ngọc ánh chói lẫn nhau, mỗi mỗi viên châu gồm thâu lẫn nhau, mà vẫn cũng chẳng tăng chẳng giảm, hòa lẫn hoàn toàn, không hề cùng tận. Thế thì, đâu chẳng là nói rõ tâm đức rộng lớn vi diệu rất khó suy nghĩ ru! sao thế?

Kinh Lăng Nghiêm nói: “Hữu lậu vi trần quốc, giai y không sở sanh, không sanh đại giác trung, như hải nhứt âu phát”: Thế giới hữu lậu nhiều như bụi, đều nương sanh khởi giữa hư không; hư không sanh khởi trong lòng Phật, ví dường cục bọt nổi giữa biển. Lại, Cổ đức nói: Tâm dung diệu lý hư không tiểu: Tâm lẫn lẽ mầu hư không nhỏ. Thế thì, cõi hư không đã vô cùng ta khó nghĩ được! Mà hư không hãy còn ở trong tâm chơn như của chúng ta, thì với cái tâm ấy, há chúng sanh chín cõi khá lường kịp ư?

BIỂU ÐỒ BÁT NẠN TAM ÐỒ

Ðối với Phật pháp, những chúng sanh vô duyên thiếu phước, không được nghe thấy chi hết, gọi là bị cái nghiệp chướng làm khốn nạn, như các chúng sanh ở vào tám chỗ kể trên. Thế mà người đời hiểu lầm nói bậy rằng Phật còn mang nạn tám...

Kinh Duy ma, phẩm phương tiện nói: Ðến khi Bồ Tát thành Phật, trong cõi nước chẳng có ba đồ tám nạn.

Sách Tịnh Tâm giới quán pháp chép rằng: bốn trăm bốn chứng bịnh lấy cái bữa ăn đêm làm gốc; tám nạn ba đồ đều bởi nữ nhơn làm gốc, ghê chưa?

Tam đồ: Kinh Tứ giải thoát nói: Chữ Ðồ nghĩa như chữ Ðạo là đường, và chữ Thú là đến. 1/ Hỏa đồ, tức địa ngục thú, là những chỗ phần nhiều chị mãnh hỏa đốt hành tội. 2/ Huyết đồ, tức súc sanh thú, là những chỗ mà chúng cứ ăn tươi nuốt sống hút máu lẫn nhau để chịu tội đền trả. 3/Ðao đồ, tức ngạ quỷ thú, là những chỗ mà chúng sanh này thường dùng đao kiếm gậy để chịu cái khổ xua đuổi áp bức lẫn nhau.

BIỂU ÐỒ CỬU HỬU



BÀI TÁN PHẬT


Tán lễ Thích-Tôn:

Vô thượng năng nhơn.

Tăng kỳ cửu viển tu chơn.

Ðẩu suất giáng thần,

Trường từ bửu vị kim luân, tọa Bồ-đề tòa đại phá ma quân.

Nhứt đổ minh-tinh đạo thành, giáng pháp lâm.

Tam thừa chúng đẳng qui tâm.

Vô sanh dĩ chứng.

Hiện tiền chúng đẳng qui tâm.

Vô sanh tốc chứng.

Tứ sanh cửu hữu, đồng đăng hoa tạng huyền môn, bát nạn, tam đồ cộng nhập tỳ lô tánh hải.



TAM QUY Y

NƯƠNG VỀ NGÔI TAM BẢO


Từ trước đến giờ: Từ tụng kinh, niệm Phật đến đây, để kết thúc hướng về ngôi Tam Bảo là cốt yếu phổ nguyện cho được tự tha lưỡng lợi mà thôi chứ không chi khác.

Với Tam bảo là chỗ để quy y. về bên Sự: thì, các ngôi biệt tướng...Tam bảo là sờ sờ có thể riêng ngôi; về bên Lý: thì, với ngôi Nhứt thể Tam Bảo, vẫn sẵn đủ trong nhứt niệm tâm ta

(xem bản đồ ở Hồng danh bửu sám)

Lại, với sự thì bảy bực người phương tiện về: Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo đều là chỗ để quy y, còn với Lý thì cả Viên giáo tự thỉ chí chủng, và thập địa của Biệt giáo đều là chỗ để quy y.

QUY là nghĩa trở về; Y là nghĩa nương theo. Nghĩa là bảo tà pháp, về phụng sự chánh pháp, nương theo chánh pháp để tiến đến chơn tế, chánh pháp tức là ngôi Tam bảo.

BẢO: báu, Quý báu của Phật là thuyết đạo; quý báu của pháp là chở đạo; quý báu của Tăng là vì truyền đạo. Ðối với tam bảo, nên tôn sùng, khá quý báu, vì giữa pháp thế gian không mấy có. Nói đúng ra: pháp thế gian là trong tam giới, làm gì có ba báu ấy, nếu không người chánh giác ra khỏi mê hoặc ba giới. Ðã có câu “bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ” vậy những người đã gặp và tự tâm tín thụ, ắt đặng giải thoát hết mê hoặc sanh tử của tam giới, nên tôn xưng là Bảo. Vua Ðường Thái Tôn tôn xưng Huyền Trán là quốc bảo, nghĩa là môn báu bằng người của nước nhà, vì hơn cả bảy báu kia, bởi biết hoạt động về thuyết pháp, dịch kinh, chuyển mê khởi ngộ cho cả một quốc dân. Và hơn “dĩ thiện vi biểu” của nước Sở, vì từ thiện hữu lậu của thế gian nó lẫn quẩn giữa cõi đời sống say chết ngũ! Thì thập thiện của Trời còn mê, huống thiện của nước Sở ở sát đất cái!

BIỂU ÐỒ

Tự quy y Phật; đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.

Tự quy y pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải

Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý địa chúng, nhứt thế vô ngại.

Tự về nương Phật; phải nguyện chúng sanh, noi hiểu đạo cả (Phật bảo), dấy lòng không trên.

Tự về nương Pháp; phải nguyện chúng sanh, sâu vào kho Kinh (Pháp Bảo), trí huệ như biển.

Tự về nương Tăng; phải nguyện chúng sanh, gôm trị chúng lớn (Tăng bảo), tất cả không ngại.

Ba bài kệ đấy, đều mỗi câu đầu (tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy y Tăng) là nói: quy y ngôi Nhứt thể Tam bảo. Mỗi ba câu kế (đều từ “đương nguyện chúng sanh” sắp xuống” là nói: quy y ngôi biệt tướng Tam bảo).

Tự quy y Phật là chính nối trí của tự tánh; quy y ngay noi Phật của tự tánh, cũng quy y nói pháp của tự tánh, và cũng quy y nơi Tăng của tự tánh. Phật giác, nghĩa là Biết, tỉnh và sáng suốt, tức là trí huệ của tự tánh. Pháp: phép tắc, mẫu mực, tức là lý lẽ của tự tánh. Tăng: hòa họp, tức là lý trí nhứt như của tự tánh.

Lại, Phật là bát nhã đức; Pháp là pháp thân đức; Tăng là giải thoát đức. Ba đức lẫn tròn, tức là tự tánh Tam bảo: Tự tánh thanh tịnh, vẫn giáp pháp giới, thì pháp giới và chúng sanh đều lẫn nhau ở trong tự tánh của ta, mà ta đã tự quy y với ngôi Vô tận Tam bảo của bản tánh ta rồi, thì ta cũng cần phải nguyện cho pháp giới chúng sanh thảy đều quy y về ngôi Vô Tận Tam bảo của tự tánh.

Song, biệt tướng Tam bảo dù nhiều, mà thành phần thì cũng do nơi Nhứt thể Tam bảo, tự tánh Tam bảo dẫu một, chứ biệt tướng Tam bảo riêng rõ sờ sờ, nên tự tánh Tam bảo đã hòa lẫn, thì cùng Biệt tướng nhứt như cũng khá biết.

Thể: thể cửu, là: noi xét. Giải: rõ nhớ. Ðại đạo: đạo cả của nhứt Phật thừa. Nghĩa là cầu nguyện cho khắp cả chúng sanh đều noi theo để tỏ nhớ đạo Phật vô thượng, phát ngay cái tâm lớn vô thượng, để mong cho chóng thành Phật quả vô thượng.

Thâm nhập kinh tạng: Kinh điển của địa thừa đều đủmười hai bộ, kinh điển của tiểu thừa đều đủ chín bộ “Tạng “: có ba tạng, là: Tạng Kinh, Tạng luật, Tạng luận. Với ba tạng đây: đều lẫn nhau đủ cả mười hai bộ và chín bộ, chín và mười hai cũng đều đủ cả trong Tam Tạng (Tạng Kinh đều đủ chứ mười hai bộ, tạng luật tạng luận đều đủ nghĩa của mười hai bộ).

Với “thập giới pháp môn” không kinh nào là chẳng trọn bao quát, nên nói là kinh tạng.

Lại, Kinh: trung đế; Luật: tục đế; Luận: chơn đế. Một mà đều đủ cả ba, ba một chẳng phải là hai, bởi thế, nói ba tạng đâu chẳng là ba đế, nên phổ nguyện pháp giới chún sanh tỏ sâu vào lý tam đế, khắp vào cái tâm pháp giới, thì nhứt tâm tức là tam trí, ba trí vẫn là một tâm, tỷ như đại hải vô nhai.

Tam trí: 1/ Nhứt thế trí, là trí của các thánh Thinh văn Duyên giác, vì biết cái tổng tướng của tất cả pháp; tổng tướng tức là không tướng. 2/ Ðạo chủng trí, là trí của các đức Bồ Tát, vì biết tất cả đạo pháp mỗi mỗi sai khác. 3/ Nhứt thế chủng trí, là trí của chư Phật, vì Phật có trí hoàn toàn sáng suốt, biết thấu pháp của tất cả chủng: từ tổng tướng đến biệt tướng để dạy đạo lý, dứt hoặc tập. Ba trí tròn sáng, tức là Chơn như tánh hải.

Thống: gôm, lý: sửa, điều trị. Ðại chúng: Nguyên tiếng Phạm là Sangha (tiếng Việt đọc Tăng già) dịch chữ là Hòa họp chúng, hay là chúng hòa hội, nghĩa theo Tiếng Việt là các vị Bí Xu đồng nhiều hòa thuận nhóm họp. Tức là các hàng quả vị trong tứ giáo, bảy bực hiền giữa Tam thừa, và hạng thật sự Tăng chúng giữa phàm phu (như đã thấy bản đồ ở văn sám của ngài Duy Sơn Nhiêu Thiền Sư).

Phổ thông nguyện cả chúng sanh: đều gom pháp lục hòa, đủ tam quán, để dứt tuyệt những mê vọng của tam hoặc, trọn rỡ cả chơn giác của tam trí, cùng vào biển của tất cả Hiền Thánh, mà đặng lẽ viên dung vô ngại

Hòa nam: dịch là lễ bái. Thánh chúng: tức là các Thánh chúng cả Tam thừa giữa Tứ giáo. Ý nghĩa là: lạy chào các Thánh, chúng con xin lui

BIỂU ÐỒ

Xét rằng: Tam đế là tam đức tánh thiên nhiên, vì Trung đế là gom tất cả pháp; chân đế là bặt hẳn hết thảy pháp; Tục đế là thành lập đủ các pháp. Lại, lúc tâm tánh chẳng động, mượn đấy để lập cái tên Trung; lúc mất bặt cõi tam thiên, mượn lập tên không; lúc mà tuy mất còn, mượn lập tên giả,

BIỂU ÐỒ

Với Trường hàng, Trùng tụng, Cô khởi thì theo nơi chữ, một câu để thành lập danh từ; do nơi Sở để nêu bày cái tên Phương Quảng. Còn mấy phần kia là đều theo nơi Sự để xưng hô.

Vã lại, chỉ ngay nơi một bộ kinh Pháp Hoa nó gồm đủ mười hai phần hay bộ, để rõ rằng: các bộ kinh đại thừa bộ nào cũng đều có đủ mười hai phần, mà cũng có đại thừa không đủ mười hai phần ấy, như Kinh A Di Ðà chẳng có ba nghĩa Trùng tụng, Cô khởi, Thụ ký. Ngoài ra, các Kinh khác so đó khá biết; còn với chín bộ của Tiểu thừa đủ hay chẳng đủ mười hai phần giáo, cũng so với Ðại thừa như trên khá biết.

BIỂU ÐỒ

Với ba ấy đều xưng là Tạng (là kho hay chứa vô kho) đó, là cả mười pháp giới nào tứ Thánh nào Lục phàm đều có bao nhiêu công đức đâu đều chẳng đủ, nên nói là Tạng: nếu mỗi người đều năng học tập, dần dần đi sâu vào chỗ thâm diệu của bao nhiêu kho ấy, thì tất nhiên trí huệ rộng sâu như biển khơi. 

Một phần trăm: Ca La Phần, là danh từ phân số hay phân lượng. Sách Huệ huyễn âm nghĩa nói: nhổ một sợi lông trên thân làm một giữa trăm phần. Hoặc nói: một phần giữa mười sáu phần. Bên Tây vực lấy 15 thăng làm 1 đấu, cũng như xứ ta dùng 16 lượng làm một cân. Ca la, cũng dịch nghĩa là: phần gião lượng. Trong văn cảnh sách, Tổ Hoằng Tán giải nghĩa có câu “thập lục phần trọn đủû bất cập nhứt” là do nghĩa ở chữ danh số “Ca la phần” mà ra. Sách huyền ứng âm nghĩa nói: nhổ 1 lông làm trăm phần, một phần là Ca La phần.

Lậu là tên riêng của phiền não; tất cả sự thể của thế gian đều là pháp hữu lậu. Chữ Hữu là nghĩa khổ có về sau, chữ Lậu là lưu trú ở ba giới.


TAM QUY Y


Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)

Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)

Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)


TỔNG QUÁT Ý NGHĨA THỜI KINH KHUYA



Người tu phật, trước hết phải học cho thông suốt cả chữ lẫn nghĩa của trọn thời khoá tụng, để tiện khi vừa tụng thuộc lòng, vừa xét hiểu ý nghĩa. Lại trước phải luyện cái tâm tập định được thuần thục, vì không thì, với cảnh lộn xộn, tâm phải rối ren, pháp quán tưởng khó thành được ! Nên với giờ sớm là lúc muôn cảnh chưa đông đạt, tâm ta còn im lặng, liền dậy súc rửa, thay quần áo, đi niệm “Chú phật đảnh Lăng Nghiêm tâm”, là để sớm trị cái bịnh ngũ dục chưa mống mầm, chóng kỳ cho được tâm hồn phẳng suốt, rỡ bày ngay cái tánhmầu chơn như của như lai tạng, đó là chỗ gọi rằng “phẳng lặng chẳng động, hễ có cảm đến đâu là liền suốt thấu đến đó”. 


Kế đến gia trì đọc bài “ Ðại bi thần chú” bài “Như ý Bửu luân vương chú”, đồng để rữa sạch những bụi phiền não trong tâm ta, hễ bụi lòng đã sạch, thì tỏ được lòng Ðại Bi đồng thể chuyển đặng xe Pháp luân Như ý; tụng “Chú tiêu tai cát tường”là tan mất điều tai ương, đưa đến sự yên lành, xe pháp luân lại càng được vững chãi; tụng “Chú Công đức Bảo Sơn” thì điều lành đã hiện nơi tâm, ở núi pháp tánh, đặng ngọc báu bằng công đức; tụng “Chú Chuẩn Ðề” là còn e pháp tánh khó tỏ bày, nên phải đọc chú này, cho tan sạch lý chướng đi thì mới khiến pháp tánh được quả toại; tụng “Chú Quyết định quang minh vương” thì sự đắc quả đã toại rồi, liền phải cầu cái tri sống lâu của đức Quang minh vương Như lai; tụng “Chú Dược Sư quán đảnh” là trí sống lâu đã phát triển, trí ấy lại như mặt trăng báu mà trong bình lưu ly hàm tàng nó, tia sáng nó rọi ngay vào đảnh đầu, nên gọi là quán đảnh; tụng “Chú Quan âm linh cảm” thì được họp sâu vào lỗ tai viên thông cả pháp giới của đức Quan Thế Âm sự linh cảm hay vô cùng, tỷ như trăng soi mà vắng, vắng mà soi; tụng “Chú Thất phật diệt tội” là e nghiệp cũ còn mù mờ, mặt nguyệt trí khó tỏ rạng ra cần phải diệt sạch cái căn nghiệp từ vô thỉ, nên gọi diệt tội; tụng “Chú vãng sanh”, thì căn bổn nghiệp chướng đã sạch, mong cầu đức Di Ðà rưới nước gội vào đảnh đầu, như chứng cảnh tịnh độ. Tụng “Chú Thiện thiên nữ”, là gom pháp quán mầu nhiệm trên, để cọng thành diệu dụng của pháp tánh, thì những chỗ nguyện, đều được kết quả toại lòng; song với sự tụng các chú mật nhiệm ấy, thì đã tiến vào pháp diệu quán, phải biết đều là bởi nhứt tâm làm nên, còn e chấp trước nơi quán cảnh, nên phải tụng thêm “Chú Bát nhã tâm kinh”, là để chỉ ngay cái tâm thể nó vẫn không, chẳng có cái cảnh trí khá đặng, vì tâm là cái “Không” mà cái “tướng” của không ấy cũng không luôn, thế là 1. Trí cảnh rõ ràng, 2. phi đồng phi dị, 3. Hai bên tuyệt vời, tức là 3 pháp quán trọn đủ rồi. 


Trên đó, cà 12 bài mật chú và một bài hiểu kinh (tâm kinh), ý nghĩa nó đều gồm thâu lẫn với nhau; người khoá tụng rồi, lấy công tác hành trì đó, gom lại đem hồi hướng lên ngôi Tam bảo chứng minh, để : nguyện và đáp Bát Bộ Thiên Long Hộ Pháp với tất cả 4 ân, 3 hữu, 8 nạn, 3 đồ, đều nhờ ơn khỏi khổ nước trị dân an, Ðàn Việt, tín độ thêm phúc huệ; tam môn là cửa ngõ chùa chế tạo hình tam quan mở 3 cửa, nên gọi tam môn, tức sơn môn, là nguyện cả các chùa đều thanh tịnh, để tiến vào 3 cửa giải thoát, thập địa đốn siêu: là nguyện cho tất cả chúng Tăng ở các chùa đều chóng tiến lên bực Thập địa Bồ tát, nên kết thúc về bài kệ hồi hướng; nhiên hậu mới niệm phật, để cầu cho được thật chứng; phải biết rằng : Niệm một Phật A Di Ðà, thì cả chư Phật khác, cũng đều hội hườn lại một.... Vì lẽ phật phật đạo đồng, đồng danh đồng hiệu, tức là một thân lẫn nhau với nhiều thân, tự cùng hoà nhau với tha rốt lại lấy 3 tự quy y, là hoàn toàn thâu cả công đức đã tụng các bài mật chú, hiểu Kinh trên, là để kết thành ngay ngôi Tam bảo của tự tánh, chứ chẳng mượn quy y bên ngoài. Như vậy là trọn rỡ bày của pháp Ðại tổng tưởng của nhứt tâm. Thế thì gặp những Phật hiệu chi, bài chú gì....chẳng phải là tự tánh Như lai tạng ư?



CHUNG

Comments

Popular posts from this blog