LAM
Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo (3 lần)
NGHI THỨC
MÔNG SƠN THÍ THỰC
Nam mô Diệm Nhiên Vương Bồ tát (3 lần)
Mãnh hỏa diệm diệm chiếu thiết thành
Thiết thành lý diện nhiệt cô hồn
Cô hồn nhược yếu sanh Tịnh độ
Thính tụng Hoa Nghiêm bán kệ kinh:
Nhược nhơn dục liểu tri
Tam thế nhứt thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhứt thiết duy tâm tạo.
PHÁ ÐỊA NGỤC CHÂN NGÔN
Án dà ra đế da ta Bà-ha (3 lần)
PHỔ TRIỆU THỈNH CHÂN NGÔN
Nam-mô bộ bộ đế rị, dà rị đa rị đát đa nga đa da (3 lần)
GIẢI OAN KIẾT CHƠN NGÔN
Án tam đà ra dà đà ta Bà-ha. (3 lần)
Nam mô Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh (3 lần)
Nam mô thường trụ thập phương Phật
Nam mô thường trụ thập phương Pháp
Nam mô thường trụ thập phương Tăng
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát
Nam mô Minh Dương Cứu khổ Ðịa Tạng Vương Bồ tát
Nam mô khải giáo A Nan Ðà tôn giả.
(Bảy câu trên đây tụng 3 lần)
Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng.
Quy y Phật lưỡng túc tôn
Quy y Pháp ly dục tôn
Quy y Tăng chúng trung tôn.
Quy y Phật cánh, Quy y Pháp cánh, Quy y Tăng cánh.
(Ba câu trên đây tụng 3 lần)
PHẬT TỬ sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham, sân, si
Tùng thân ngữ ý chi sở sanh
Nhứt thiết Phật tử giai sám hối.
HỮU TÌNH sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham, sân, si
Tùng thân ngữ ý chi sở sanh
Nhất thiết Hữu tình giai sám hối.
CÔ HỒN sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham, sân, si
Tùng thân ngữ ý chi sở sanh
Nhứt thiết Cô hồn giai sám hối.
CHÚNG SANH vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo Vô thượng thệ nguyện thành.
(Bốn câu trên đây tụng 3 lần)
Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ.
Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn.
Tự tánh pháp môn thệ nguyện học.
Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành.
(Bốn câu trên đây tụng 3 lần)
DIỆT ÐỊNH NGHIỆP CHÂN NGÔN
Án bát ra mạt lân đà nãnh ta Bà-ha (3 lần)
DIỆT NGHIỆP CHƯỚNG CHÂN NGÔN
Án a lổ lặc kế ta Bà-ha (3 lần)
KHAI YẾT HẦU CHÂN NGÔN
Án bộ bộ đế rị, dà rị đa rị, đát đa nga đa da (3 lần)
TAM MUỘI DA GIỚI CHÂN NGÔN
Án tam muội da tát đỏa phạm (3 lần)
BIẾN THỰC CHÂN NGÔN
Nam-mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế, án tam bạt ra, tam bạt ra hồng (3 lần)
CAM LỒ THỦY CHÂN NGÔN
Nam-mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha, án tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, ta Bà-ha (3 lần)
NHỨT TỰ THỦY LUÂN CHƠN NGÔN
Án noan noan noan noan noan (3 lần)
NHŨ HÃI CHƠN NGÔN
Nam-mô tam mãn đa mẫu đà nẩm án noan (3 lần)
Nam mô Ða Bảo Như Lai.
Nam mô Bảo Thắng Như Lai.
Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai.
Nam mô Quảng Bát Thân Như Lai.
Nam mô Ly Bố Úy Như Lai.
Nam mô Cam Lồ Vương Như Lai.
Nam mô A Di Ðà Như Lai.
(Bảy câu trên đây tụng 3 lần)
Thần chú gia trì TỊNH PHÁP THỰC
Phổ thí hà sa chúng PHẬT TỬ
Nguyện giai bảo mãn xả xan tham
Tốc thoát u minh sanh Tịnh độ
Quy y Tam bảo phát Bồ đề
Cứu cánh đắc thành Vô thượng đạo
Công đức vô biên tận vị lai
Nhứt thiết PHẬT TỬ đồng pháp thực.
Thần chú gia trì PHÁP THÍ THỰC
Phổ thí hà sa chúng HỮU TÌNH
Nguyện giai bảo mãn xả xan tham
Tốc thoát u minh sanh Tịnh độ
Quy y Tam bảo phát Bồ đề
Cứu cánh đắc thành Vô thượng đạo
Công đức vô biên tận vị lai
Nhứt thiết HỮU TÌNH đồng pháp thực.
Thần chú gia trì CAM LỒ THỦY
Phổ thí hà sa chúng CÔ HỒN
Nguyện giai bảo mãn xả xan tham
Tốc thoát u minh sanh Tịnh độ
Quy y Tam bảo phát Bồ đề
Cứu cánh đắc thành Vô thượng đạo
Công đức vô biên tận vị lai
Nhứt thiết CÔ HỒN đồng pháp thực.
Nhữ đẳng PHẬT TỬ chúng
Ngã kim thí nhữ cúng
Thử thực biến thập phương
Nhứt thiết PHẬT TỬcộng
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ PHẬT TỬ
Giai cộng thành Phật đạo.
Nhữ đẳng HỮU TÌNH chúng
Ngã kim thí nhữ cúng
Thử thực biến thập phương
Nhứt thiết HỮU TÌNH cộng
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ HỮU TÌNH
Giai cộng thành Phật đạo.
Nhữ đẳng CÔ HỒN chúng
Ngã kim thí nhữ cúng
Thử thực biến thập phương
Nhứt thiết CÔ HỒN cộng
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ CÔ HỒN
Giai cộng thành Phật đạo.
THÍ VÔ GIÁ THỰC CHÂN NGÔN
Án mục lực lăng ta Bà-ha (3 lần)
PHỔ CÚNG DƯỜNG CHÂN NGÔN
Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần)
(Trở về bàn Phật)
BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI
NAM-MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA.
A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
Phật-Đảnh Tôn-Thắng Đà-Ra-Ni
Nam-mô ba ga pha tê. Sạt hoa tát răn, lô ky da. Bơ ra di, vi ti sắc tra da. Bút đà da, ba ga pha tê. Tát đi da tha !
Um ! Bút rum, bút rum, bút rum. Suýt đà da, Suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Á sá ma, sá ma. Sa măn tá, phạ hoa sát. Sa phả ra na, ga ti, ga gạ na. Soa phạ hoa, vi suýt đi. Á vi chuân da, du măn. Sạt hoa tát thá ga đá. Sú ga da. Phạ ra, phạ ca nã. A mi rị tá, bi sá cu. Ma ha muýt đơ ra, măn đa ra, ba na.
Um ! Á hạ ra, á hạ ra. A du săn, đà ra ni. Suýt đà da, suýt đà da. Ga ga na, xoa phạ hoa, vi suýt đi. U sắc ni sá, vi ca da, vi suýt đi. Sá hạ sa ra, ra sa mi, săn tô ni tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa. A hoa lô ki ni. Sạt hoa tát thá ga đa, mát tê. Sá tra, bá ra mi tá. Ba rị, bủ ra ni. Na sá, bủ mi bơ ra, đi sắc si tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa, hất rị đà da. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê.
Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri. Hoa di ra, ca da. Săn hạ đa nã, vi suýt đi. Sá ra hoa, ca ma, phạ ra na, vi suýt đi. Ba ra, đu ri ca ti, bi ri, vi suýt đi. Bơ ra ti na, hoa ra đá da, a dục suýt đi. Sa ma dã, đi sắc sá na, đi sắc si tê.
Um ! Ma ni, ma ni, mạ hạ ma ni. Á ma ni, á ma ni. Vĩ ma ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni. Mát đi, mát đi, mạ hạ mát đi. Tát thá đá, bủ đa. Cu thi, vi ri suýt đi. Vĩ sa phổ ra, bút đi, vi suýt đi.
Um ! Hi hi. Dá ra, dá ra. Vĩ dá ra, vĩ dá ra. Sa ma ra, sa ma ra. Sa phạ ra, sa phạ ra. Sá ra phạ, bút đa. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê. Suýt đi, suýt đi. Họa di ri, họa di ri, mạ hạ họa di ri. Á họa di ri. Họa di ra, gạ bi. Dá ra, gạ bi. Vĩ da ra, gạ bi. Họa di ra, rít họa lã, gạ bi. Họa di rô, na ga tê. Họa di rô, na bà vê. Họa di ra, sam bà vê. Họa di rô, họa di rị na. Họa di rảm, hoa phạ, đô mạ mạ. Sá rị rảm, sá ra phạ, sát ta phạ năng. Tả ca da, bi ri, vi suýt đi. Sất da, hoa phạ, đô mi, sát na. Sá ra phạ, ga ti, bi rị suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đa, sất da mi. Sá ma, sa phạ, sát dăn tu. Sạt hoa, tát thá ga đa. Sá ma, sá phạ sa, đi sắc si tê.
Um ! Sất đi da, sất đi da. Bút đi da, bút đi da. Vi bút đi da, vi bút đi da. Bồ đà da, bồ đà da. Vi bồ đà da, vi bồ đà da. Mô ca da, mô ca da. Vi mô ca da, vi mô ca da. Suýt đà da, suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Sa măn tá, tát bi ri, mô ca da. Sa măn đá da, sa mi, bi ri suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà da. Đi sắc sá na, đi sắc si tê.
Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, mạ hạ muýt đơ ra. Mạn đà ra, bá na. Đi sắc si tê. Sóa ha .
UM! BÚT RUM! HÙM!
BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN
Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, a bát ra đế, yết đa chiết, chiết nại di. Án, kê di kê di, đát tháp cát tháp nẫm, mạt ngõa sơn đính, bát ra đế, ô đát ma đát ma, đát tháp cát tháp nẫm, mạt ngõa hồng phấn tá ha. (7 lần)
Nam-mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo. (3 lần)
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA. (3 lần)
Khể chủ tây phương An-Lạc quốc
Tiếp dẫn chúng-sanh đại đạo sư
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ-bi ai nhiếp thọ
Ngã kim phổ vị tứ ân tam hữu, cập pháp-giới chúng-sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô-thượng bồ-đề đạo-cố, chuyên tâm trì niệm A-Di-Đà-Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh tịnh-độ. Duy nguyện Từ-Phụ A-Di-Đà Phật ai lân nhiếp thọ từ-bi gia hộ.
A-Di-Đà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang-minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di.
Hám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa bồ-tát chúng diệc vô-biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
Đệ tử chúng đẳng, hiện thị sanh tử phàm phu tội chướng thâm trọng luân hồi lục đạo, khổ bất khả ngôn; kim ngộ tri thức, đắc văn A Di Đà danh hiệu, bổn nguyện công-đức, nhứt tâm xưng niệm cầu nguyện vãng sanh, nguyện Phật từ bi bất xả, ai lân nhiếp thọ, đệ tử chúng đẳng, bất thức Phật thân, tướng hảo quang-minh, nguyện Phật thị hiện, linh ngã đắc kiến, cập kiến Quan Ấm Thế Chí Bồ Tát chúng bỉ thế-giới trung, thanh-tịnh trang-nghiêm, quang-minh diệu tướng đẳng, linh ngã liễu liễu đắc kiến A Di Đà Phật.
Ngã kim trì niệm A-Di-Đà.
Tức phát bồ-đề quảng đại nguyện
Nguyện ngã định huệ tốc viên minh
Nguyện ngã công-đức giai thành tựu
Nguyện ngã thắng phước biến trang-nghiêm
Nguyện cộng chúng-sanh thành Phật đạo.
Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham sân si
Tùng thân ngữ ý chi sở sanh
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời
Tận trừ nhứt thiết chư chướng ngại
Diện kiến ngã Phật A-Di-Đà
Tức đắc vãng-sanh Cực-Lạc sát
Ngã ký vãng-sanh Cực-Lạc dĩ
Hiện tiền thành tựu thử đại nguyện
Nhứt-thiết viên mãn tận vô dư
Lợi lạc nhứt thiết chúng-sanh giới
Ngã Phật chúng hội hàm thanh-tịnh
Ngã thời ư thẳng liên-hoa sanh
Thân đỗ Như-Lai Vô-Lượng-Quang
Hiện tiền thọ ngã bồ-đề ký.
Mong ngã Như-Lai thọ ký dĩ
Hóa thân vô-số bá cúng-dường-chi
Tri lực quảng đại biến thập phương
Phổ lợi nhứt thế chúng-sanh giới.
Chúng-sanh vô-biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật-đạo vô-thượng thệ nguyện thành.
Nguyện sanh tây phương tịnh-độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi-trần phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ-Tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công-đức
Trang-nghiêm Phật tịnh-độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Tức phát bồ-đề tâm
Tận thử nhứt báo thân
Đồng sanh Cực-Lạc quốc.
Tận thử nhứt báo thân
Đồng sanh An-Dưỡng-Quốc.
NGUYỆN
A-Di-Đà Phật, thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn, lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thinh phân minh, diện phụng Di-Đà, dữ chư thánh-chúng, thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.
Nhứt sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ-Tát đạo, quảng độ chúng-sanh đồng thành chủng-trí.
Chí tâm đảnh lễ : Nam-Mô A-Di-Đà Phật Thế-Tôn.
Nguyện ngã Tội chưóng tất tiêu diệt (1 lạy)
Nguyện ngã Thiện căn nhựt tăng trưởng (1 lạy)
Nguyện ngã Thân tâm hàm thanh-tịnh (1 lạy)
Nguyện ngã Nhứt tâm tảo thành tựu (1 lạy)
Nguyện ngã Tam muội đắc hiện tiền (1 lạy)
Nguyện ngã Tịnh nhơn tốc viên mãn (1 lạy)
Nguyện ngã Liên đài dự tiêu danh (1 lạy)
Nguyện ngã Kiến Phật ma đảnh ký (1 lạy)
Nguyện ngã Dự tri mạng chung thời (1 lạy)
Nguyện ngã Vãng sanh Cực Lạc Quốc (1 lạy)
Nguyện ngã Viên mãn Bồ tát đạo (1 lạy)
Nguyện ngã Quảng độ chư chúng-sanh (1 lạy)
(Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
GIẢI THÍCH
NGHI THỨC
MÔNG SƠN THÍ THỰC
Lấy tên núi làm sách, đúng như pháp mà thí thức, nên nói là Mông sơn thí thực.
Thí là pháp đứng đầu của lục độ, và điều trước vạn hạnh, có ba nghĩa :
1. Tư sanh thí, cũng gọi là tài thí, như áo cơm, tiền của, ruộng nhà, thuốc men v.v… để giúp cho sanh mạng. Còn đây thí dùng nước cơm cháo bánh cả cúng cụ, để giúp cho chốn minh đồ, được dứt khỏ dặng vui, là tư sanh thí.
2. Pháp thí : Lấy sự thuyết pháp, trì chú, tụng kinh, vận tâm quán tưởng, nay đây tức là tụng văn nầy, làm pháp quán tưởng, là pháp thí.
3. Vô uý thí, như có người muốn làm lành mà sợ trước sợ sau, vì sợ làm không nổi, nếu ta có sức, giúp họ không sợ, khiến cho họ làm nên việc; nay vì chúng ở chốn u minh có cái sợ chịu kịch khổ nhiều kiếp dài dẳn; nương nhờ công đức đây, để trừ nghiệp chướng, lìa các bố uý, là vô uý thí.
Thực : Có cái công giúp ích, cái nghĩa sống còn. Kinh nói : “Tất cả chúng sanh đều do nơi ăn uống mới sống ở đặng, nếu không ăn uống, thì thân thể ốm gầy, dẫu có thí tài, thí pháp nào đủ cho sanh mạng ; nay nhân cực khổ của chúng sanh, mà khởi cái bi tâm, nên dùng thần chú, vật thực, mà cúng thí cho Quỷ loại, khiến đặng dứt khổ được vui.
Lại, có 4 cách ăn :
1. Đoàn thực, cũng kêu là đoạn thực, nghĩa là ăn bằng cách : từ miệng, hay từ phần, từ đoạn dùng 3 trần là Hương : hơi hám, vị : Mùi vị xúc : tiếp xúc, để làm thể. Biến đổi, tiêu hoại làm tướng. thế là cách ăn của Trời người và súc sanh…ở dục giới.
2. Xúc thực : lấy cái tâm sở tương ưng của 6 thức, tiếp xúc với cái cảnh vừa thích của ý, 5 căn hoà thuận, vui sướng làm cách ăn, tức là cách ăn của Quỷ thần.
3. Tư thực : Lấy cái “Tư tâm sở” Hữu lậu của ý thức, để chuyên tinh nghĩ nhớ (tư) chuyển thành cái cảnh thắng diệu thiền, giúp ích thân mạng của trời sắc giới, liên miên tư tưởng mãi chẳng dứt, tức là chúng ở sắc giới lấy “thiền duyệt” làm thức ăn. Lại, như ngửa trông lên cây me chua để dứt được cơn khát nước, treo bánh lên, để chung thấy mà đỡ được cơn đói bụng v.v…đó cũng là ăn bằng cách nghĩ nhớ (tự thực).
4. Thức thực : lấy cái thức thứ 8 nó nối nhau giữ gìn căn thân khiến chẳng rã hoại, đấy thì 4 thánh 6 phàm chung đủ, chỉ có khác với nhau là mê và ngộ. Thành nhân thì thức tánh đã giác ngộ viên mãn, vốn vẫn trong sáng, gọi là “Như lai tạng thức”, vì nó duy trì tất cả công đức có tánh vô lậu : phi có phi không, phi trụ phi chẳng trụ, đấy là cái ăn bằng cách vốn có công đức chẳng khá nghĩ bàn, mà làm sanh trụ.
Phàm phu thì thức tánh còn hoàn toàn là mê, tuy đâu sanh khởi nhgiệp chủng đó, gọi là Hàm tàng thức, vì rằng nó hàm tàng các hột giống thiện ác của hữu lậu và vô lậu, nên với phi có mà vọng chấp là thực có, do đó mà luân chuyển đến vô cùng. đấy là cái ăn bằng nghiệp thức sanh diệt mà làm sanh trụ.
Song, Như lai tạng thức, hàm tàng thức, cái danh dầu có hai, mà cái thể vốn có một, chỉ tuỳ theo mê và ngộ, nên phân làm hai, thế nên cả Thánh và phàm, đồng là thức thực.
Ba cách ăn trước thuộc về sự, cách ăn sau thuộc về lý, sự thì lệch về phàm phu, lý thì trùm cả Thánh phàm ; tiến tới bực nữa mà suy nghĩ, thì thánh nhân cũng đủ 4 cách ăn, phi ăn, phi chẳng ăn, thế là cách ăn bằng cách bất tư nghị viên dung diệu thực.
Lại, phải biết phép thí thực, ắt nhờ 3 vầng thế không, mới có thể giáp khắp được: 1. Hành nhân là người năng thí; 2. Quỷ loại là chúng năng thụ; 3. Và trung gian là vật sở thí. với cả 3 chỗ đó, thể tánh đều chẳng khá đặng. Song khi mà thể tánh chẳng khá đặng, vẫn y nhiên rỡ rỡ phân minh, khi mà rỡ rỡ phân minh, cũng vẫn y nhiên thể tánh chẳng khá đặng, thế là pháp thì bằng cách 3 vầng chẳng nghĩ bàn. Pháp thí như thế, thì tâm nào chẳng phải pháp, pháp nào chẳng phải đồ ăn. Song cũng thực nào chẳng phải pháp, pháp nào chẳng phải tâm, tâm đã giáp khắp, thì pháp và thực giáp khắp, tất nhiên chúng sanh trong lục đạo mười phương, đâu chẳng thụ hưởng đó mà được giải thoát.
Nghi : quỷ tắc, cũng có nghĩa là cách thức, nghĩa là : văn Mông sơn đây làm quỷ thức cho lễ Thí thực.
PHỤ CHÚ.-
Mông sơn : Núi, ở về tỉnh Tứ Xuyên bên Trung quốc. tập Mông sơn thí thực nghi, tác giả là ngài Cam Lộ Pháp sư nhóm chép, tác giả nầy và tác giả tập Hồng danh bảo sám cũng là một người, mà để khác hiệu, vì tập kia đề là Bất động Pháp sư. Còn tập Mông sơn thí thực nghi trong bổn Kinh Nhựt tụng đề Ngoại quốc Cam Lộ thiền sư trú thích Tứ xuyên Mông sơn tập. mà thuật giả Nhị khoá hiệp giải đã có dẫn giải rồi ở trước tập Hồng danh bửu sám rằng : “Văn Mông sơn, cũng là ngài Bất động nhóm chép”.
Hàm tàng thức : tức là A lại da thức, vì chân vọng hoà hợp nên nói là hàm tàng.
Như lai tạng, là toàn chân tại vọng, nghĩa là chân tâm nó ở bên vọng tâm, chứ không hoà hợp, lộn xộn như A lạy da thức, vì thức A lạy da nó hàm tàng tất cả thiện ác chủng tử, nên nói là chân vọng hoà hợp (lộn lộn, trộn lộn)
PHÁP BỐ THÍ CÓ 3 CÁCH:
1. Tư sanh thí
2. Pháp thí
3. Vô uý thí
Tư sanh thí (tức là tài thí)
- Nội tài : tức tự thân, như hỷ xả: đầu mắt tủy óc, hoặc đốt ngón tay, hoặc đốt liều hương ghi dấu trên đầu, hoặc đem tự thân ra thay thế để người dùng sức …
- Ngoại tài : tức ngoài thân, về chỗ cần dùng tất cả các của cải.
Pháp thí
- Nói pháp : Với người có trí thức khá, ta tùy căn cơ nói rộng giáo lý với người trí kém, ta lường theo sức họ cho vừa nghe.
-Lạy Tụng : Lạy Phật sám hối, Tụng kinh hồi hướng để phò tế quần sanh, người có trí thì lạy Phật tụng kinh, vận tâm làm pháp quán tạo tác các lễ cúng dường vận dụng cái tâm quán tưởng:
Nghĩa là với đồ cúng 5 trần là sắc hương vị xúc pháp, biến hóa một làm ra nhiều, dung tục làm chân, như nay thị thực, quán nước cơm làm diệu vị ...
Vô uý thí
Với người sợ nghèo thiếu, ta lấy của vật ... để giúp.
Với người làm lành mà sợ đó, ta hoặc giúp: bằng thân lực, bằng tâm lực, và hằng tài vật, gặp kẻ bị hàm oan mà sự lo, ta vì giải thích, phân rành, để an ủi cho họ khỏi sợ.
Với kẻ sợ khổ luân hồi sanh tử, ta khuyên vào tu học Phật pháp, để được vui Niết-bàn.
Với kẻ ngạo nạn mà sợ, ta vì đó tìm cách để giải cứu.
4 CÁCH ĂN :
1. Đoạn thực
2. Xúc thực
3. Tư thực
4. Thức thực
Đoạn thực : Có hình, có đoạn khá lấy, tức là mỗi món uống ăn thế-gian.
Xúc thực : Quỷ-thần ăn bằng cách vừa tiếp xúc đến hơi liền no.
Tư thực : Tu thiền-định đắc lực, lấy pháp-thiền duyệt làm vị ăn.
Thức thực : Trời thức-xứ lấy cái thức duy trì sanh mạng; tất cả chúng-sanh đều lấy thức thứ 8 giữ nghiệp chủng làm mạng.
3 VẦNG THỂ KHÔNG:
1. Người năng thí
2. Người năng thọ
3. Vật trung gian
Người năng thí :
Người năng thọ :
Vật trung gian :
Chúng-sanh ở thế-gian, ra làm lành bố-thí, đều trước tướng có ta (Bản ngã) làm năng thí, chứ chẳng biết 3 ấy toàn thể vốn không, không thì vô bờ mé, nên công đức xứng tánh, cũng không biên tế. Nếu trước tướng, thì đường giữa hư-không bị vật làm ngăn ngại, thì công đức chẳng khắp được ! Như nay đây quán sát các vật nước, cơm ... đều không, Tâm ta cũng không, nên có thể với MỘT biến ra làm VÔ LƯỢNG. Trái lại nếu chẳng đặng như thế, thì dầu có biến hóa được chăng nữa, cũng chẳng thể RỘNG LỚN lẫn khắp gì đăng !
NÚI MÔNG, CAM LỘ PHÁP SƯ
BẤT ĐỘNG CHÉP
Cũng tức là Kim-Cang Bất-Động pháp-sư tác-giả HỒNG DANH BỬU SÁM.
Mộng sơn : vị trí cách 15 dặm phía tây huyện danh sơn, châu nhã an, tỉnh tứ xuyên bên Tàu. Có 5 chót một chút cao hơn hết tên rằng Thượng thanh. Trên thượng thanh phong nầy, sản xuất vị Cam lộ, đời Tống, Ngài Bất Động Pháp sư ở trong đó để hành đạo, nên gọi là Cam lộ pháp sư.
( Sách Lủng thục dư văn chép rằng : trên đảnh chót núi ấy, có một hòn đá lớn bằng vài căn nhà, có 7 cây trà mọc nơi kẻ vô phùng trên hòn đá ấy, gọi là Trà Mông đảnh. người ta truyền khẩu với nhau rằng : chính tay ngài Cam Lộ đã trồng 7 cây trà đó, mà 7 cây trà nầy sanh sản lá đọt rất tí, vì kẻ đá thiếu đất dưỡng liệu, đời nhà Minh, đem cống hiến về Kinh sư mỗi năm chỉ cần chừng hơn mọt tiên. Còn chung quanh dưới chơn hòn đá, thì có vài chục cây trà, gọi rằng bồi trà, thì để cung phụng cho caca quan viên trong phiên phủ mà thôi.
Trong bộ Quảng Hưng Ký dẫn đồ Kinh rằng : trà đây nó hấp thụ dưỡng khí được hoàn toàn nên hương vị rất thơm. đời Đường ông lý đức Dủ vào đất Thục, được tặng phẩm bằng Mông trà, đem thử coi có thực hay không, là đem nước đổ vào trên thang bỉnh (bánh lọt) chừng một giờ thang bỉnh tan hết, là thiệt trà mông đảnh.
lại, tại tỉnh Sơn Đông, đất Nguyễn châu, phía tây bắc huyện phi cũng có Mông sơn, núi nầy dọc dài một trăm 20 dặm, có 72 ngọn, 636 động, chùa xưa hơn 70 sở, trên có cái gợp bạch vân, cũng sản xuất trà cũng gọi là Mông đảnh trà.)
Pháp sư Ngài nghĩ : nhẫn trước lại tụng kinh A Di đà và Hồng danh đại sám hối rồi, phải thí cho lục đạo để phổ lợi cho u minh, nên Ngài căn cứ trong bộ bí mất, thuỷ thí thực pháp, và cát kinh cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ, mà chép ra cái nghi văn Mông sơn đây, để khắp khuyên kẻ hậu học rộng ra cùng chúng sanh ở u minh kết làm cái vô sanh.
Nay có người nào muốn cầu phước huệ thêm thọ mạng, thì bị biện : một bát nước sạch, một bát cơm, một bát rau, và hương đèn v.v.. tuỳ chỗ mình ở đâu đó, tụng kinh Di Đà rồi liền kế tụng văn Mông sơn đây, tuỳ tụng tới đâu, thì theo nghĩa mà quán tưởng tới đó ; nếu người chẳng thuần thục quán tưởng được thì chỉ chuyên chú nơi tâm mà tụng, mỗi bài chú tụng 7 biến, hoặc tụng 2 lần 7, 3 lần 7 biến; riêng về chú biến thực, và chú cam lộ, đều tụng 7 lần 7 biến, hoặc một trăm 8 biến, tụng càng nhiều càng tinh, tụng rồi niệm Phật hồi hướng, thì cả minh dương đều được lợi ích.
Nếu người muốn rõ biết pháp môn công đức của tất cả chư Phật ở ba đời nơi mười phương, thì cần phải xét soi ngay nơi một niệm hiện tiền của tánh pháp giới, do vì 10 pháp giới (Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, Trời, Người, A tu la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh) hoặc tánh, hoặc tướng, hữu lậu, vô lậu, nào thiện, nào ác tất cả các pháp, đều duy nơi một niệm tâm hiện tiền của chúng nó tạo ra cả thảy.
Đó là bài kệ khai thị cái duy tâm.
Ấy là trong bộ kinh Hoa Nghiêm, về hồi thứ tư, bấy giờ Phật ở trên cung trời Dạ Ma (cõi trời thứ 3 của dục giới), có vô lượng Bồ tát đến vân tập dự hội, mỗi Bồ tát đều có thuyết kệ để tán dương Phật. thuở ấy ngài Giác Lâm Bồ tát cũng nói kệ 10 bài, bài trên đây là bài thứ mười.
Nếu người muốn rõ biết cái pháp của chư Phật, thì cần quan sát ngay nơi cái tâm nhứt niệm hiện tiền đó, vì tâm ấy nó khắp đủ các pháp của mười pháp giới là cái chỗ mà Phật thường bảo rằng : Ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm, thực thế.
Ba đời : Đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Ba đời đều có mười phương, mười phương đều có ba đời. ba đời mười phương, đều có vô tận thế giới, thế giới vô tận, thì chư Phật cũng vô tận, chư Phật vô tận, thì chúng sanh cũng vô tận. song chư Phật, chúng sanh trọn ở trong tâm nhứt niệm của chính người sở đắc lấy, nên nói : nhất thế duy tâm tạo.
Chỗ nói pháp giới ấy, là cái tên chung của nhất tâm, mà là chỗ muôn pháp quy thú. lại, giới nhân vì pháp của mười giới đều nhân tâm mà sở tạo ra. Như : chính người nếu khởi cái tâm ra làm mười ác năm nghịch, đó là cái nghiệp nhân tạo ra địa ngục; nếu khởi tâm tham dục si tưởng, đó là cái nghiệp nhân tạo ra ngạ quỷ; nếu dấy cái tâm thấy, yêu, sân, tham đó là cái nghiệp nhân tạo ra súc sanh; nếu móng cái tâm gì ganh hơn giận đua, đó là cái nghiệp nhân tạo ra thần A tu la; nếu nổi lên cái tâm giữ can thường ngũ giới, đó là cái nguyên nhân tạo ra nhân tạo; nếu khát khi cái tâm giữ năm giới hành mười thiện, đó là cái nguyên nhân tạo ra thiên đạo; nêu phát khởi cái tâm : chán khổ sanh tử, ưa vào nơi vui tịch diệt, đó là cái chánh nhân tạo ra bực Thánh Thanh văn; nếu phát khởi cái tâm xét nhân duyên tánh không, đó là cái chánh nhân tạo ra thánh Duyên giác; nếu phát khởi cái tâm tu pháp lục độ để giáo hoá người, đó là cái nghiệp nhân tạo ra thánh Bồ tát. nếu đấy cái tâm bình đẳng viên dung vô ngại, chính là cái nghiệp của Phật giới thanh tịnh chẳng khá nghĩ bàn tánh công đức. nay bài kệ đây chỉ cử lên nói một Phật giới, là nghĩa nó gồm thâu tất cả 9 giới kia.
Kinh Lăng Nghiêm nói “Vạn pháp mà sở dĩ được sanh ra, là bởi duy tâm nó biến hiện, nhẫn đến lá cỏ, gút chỉ gạn thấu căn nguồn, đều có thể tánh”.
Lại, Tổ Thiên Thai, lấy trăm giới ngàn như, ba nghìn tánh tướng sự tạo lý đủ hai lớp ba ngàn, đều duy là cái tâm hiện tiền thoạt vậy một niệm mà thôi (có biểu đồ ở văn đại sám hối).
Sách pháp số giải thích rằng : thập ấy nghĩa nó gom cả các pháp (10 pháp giới). Giới ấy là lấy 3 để làm ranh chia, nên nói là pháp giới.
Lại trong bài kệ : nói về hcữ tánh ấy là thể, là bất biến. nói về chữ tama ấy là dụng, là tuỳ duyên. Cái thể bất biến mà nó tuỳ nơi nhiễm duyên (duyên do của 7 thức trước), tức là tạo ra chúng sanh nơi chín pháp giới kia; cái thể bất biến mà nó tuỳ nơi tịnh duyên (duyên sạch của Như lai tạng) tức là tạo ra Như lai nơi Phật pháp giới.
Với khi mà nó tuỳ nhiễm duyên, tánh nó cũng không nhiễm, khi mà nó tuỳ tịnh duyên tánh nó không tịnh. tỷ như gương chiếu vật tượng, vật tượng có tốt xấu, chứ cái thể của gương chưa hề có biến đổi, tâm tánh cũng thế.
Nay muốn phá tan những nghiệp đạo kia (ngạ quỷ đạo), nên trước thị ra lấy cái tuy tâm nếu biết duy tâm thì bao chúng nghiệp đương thể tiêu tan mất.
Thuở xưa, tại đất Kinh Triệu, có ông Vương Minh Cán là người vẫn tạo ác nghiệp, một hôm, nhân bịnh ngặt chết giấc tự thấy có hai người dẫn đường thấy có một vị Tăng sĩ bảo rằng : “Đức Địa Tạng Bồ tát dạy người đọc lấy bài kệ :
Nhược nhơn dục liểu tri
Tam thế nhứt thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhứt thiết duy tâm tạo.
Người tụng bài kệ ấy, có thể vẹt được cái khổ nơi địa ngục). đó, rồi y vào yết kiến Diêm Vương, Vương hỏi : Ngươi có làm được công đức chi không ? Y đáp : chỉ mới thụ trì được một bài kệ kế tụng lại bài kệ trên. Tiếng vang cả địa ngục, tội nhân đều được thoát ra v.v.. ba ngày y sống tỉnh lại được y đi hỏi thăm các vị Tăng sĩ và cư sĩ, mới biết bài kệ kinh Hoa Nghiêm ...
Ôi ! Chỉ tụng có một bài kệ, còn đắc ứng nghiệm như thế huống là tụng toàn bộ kinh ư !
MƯỜI CÕI DUY TÂM
Tánh là lý tánh, lý vốn tuyệt vời, nguyên không bốn Thánh 6 phàm mê và ngộ gì cả, mà chỉ nói đủ mười giới phàm mà thôi. Tâm ấy là : với lý thành sự mà phân thánh phàm mê ngộ. nên chi, hễ tâm sanh thì món món pháp sanh. Pháp tức là sự và lý. Do vì sự nó chẳng tự thành, phải đặng có lý nên mới thành được, còn lý nó chẳng tự rõ, phải do nơi sự nên mới rõ ra được.
Chính chỗ mà người xưa bảo rằng : cử nói lên pháp đều là tâm, cử lên nói tâm đều là pháp. thế nên cả thập giới đâu chẳng duy tâm duy tánh.
Xưa có bài kệ rằng :
Thập ban pháp giới hoạ thành đồ
Trực chỉ nhân tâm kiến dã vô
Tứ thánh lục phàm tuỳ nghiệp huyễn (ảo hoạn)
Phù vân tán tận nguyệt luân cô.
Tạm dịch:
Mười miền pháp giới vẽ nên đồ;
Chỉ thẳng tâm người thấy biết mô ?
Bốn thánh sáu phàm theo nghiệp dối
Mây mờ tan hết, nguyệt tròn phô.
Tâm hành của Thánh phàm 10 giới
Giới ngoại bốn thánh Vô lậu vô sanh
1.- PHẬT: Tâm pháp giới bình đẳng, 3 hoặc sạch hết , 2 tử mất hẳn, 1 Phật thừa.
PHẬT: Quả vị vô thượng.
2.- BỒ TÁT: Tâm sáu độ hai lợi, dứt hoặc trần sa, phần phá vô minh, đại thừa.
3.- DUYÊN GIÁC: Tâm nhân duyên tánh không, thêm dứt tập khí, trung thừa.
4.- THANH VĂN: Tâm tứ đế chân không, dứt kiến, tư hoặc, tiểu thừa.
Tiểu thừa, trung thừa, đại thừa chung gọi tam thừa.
-Dứt rồi kiến tư hoặc, nhưng hãy còn các phiền-não là: trần sa hoặc, vô mình hoặc, nên còn thọ thân BIẾN DỊCH sinh tử ngoài tam giới.
Giới nội sáu phàm Hữu lậu sanh tử
5.- TRỜI: Tâm hữu lậu mười thiện, thượng phẩm thập thiện.
6.- NGƯỜI: Tâm cang thường ngũ giới, trung phẩm thập thiện.
7.- TU LA: Tâm ganh hờn đua hơn, hạ phẩm thập thiện.
TRỜI, NGƯỜI, TU LA: 3 thiện đạo.
8.- NGẠ QUỶ: Tâm tham dục si tưởng, hạ phẩm nghịch ác.
9.- SÚC SANH: Tâm thấy, yêu xan tham, trung phẩm nghịch ác.
10.- ĐỊA NGỤC: Tâm nghịch, ác chê pháp thượng phẩm nghịch ác.
NGẠ QUỶ, SÚC SANH, ĐỊA NGỤC: 3 ác đạo.
3 thiện đạo, 3 ác đạo chung gọi lục đạo.
- Rộng tạo các phiền não: là những kiến hoặc, tư hoặc giữa tam giới nên vĩnh kiếp phải chịu thân phân đoạn sanh tử giữa 6 đạo.
Lời chân ngôn phá địa ngục:
Khi tụng thần chú đây, phải quán tưởng : tiếng đọc chú và uy quang của Phật đều giáp khắp thấu đến các địa ngục trong mười phương địa ngục mười phương đồng thời đều phá tất cả các tội nhân đều được dứt nghĩ khổ não.
Án dà ra đế da ta Bà-ha
Đây là vĩnh ly ác đạo.
Pháp giới đã duy tâm sở tạo, thì địa ngục cũng duy tâm sở phá, chẳng đợi nói mới rõ ạ. Sao thế ? thưa : Do hoặc mà tạo ra nghiệp, do nơi nghiệp rồi vời lấy khổ. hoặc : Tức là vô minh vô minh nó không có tự tánh, nó lấy chân như làm tánh. Mà chân như thì thanh tịnh : trong trẽo vắng lặng dường như cõi hư không thế, từ đâu có hoặc ? Hoặc đã chẳng sanh, nghiệp cũng phi có, thì địa ngục các khổ, theo niệm tiêu tan mất.
Chân Ngôn; tánh chân như của Phật, đủ cái trí canư bổn do nơi trí căn bổn nó lưu thông ra cái trí hậu đắc, do nơi trí hậu đắc nó lưu lộ ra cái tâm đại bi, từ nơi tâm đại bi nó chảy đưa ra phép thần chú bí mật. nên phàm là thần chú đều từ nơi chân như thực tế của Phật chảy ra nên nói là chân ngôn, nghĩa là bởi chân như hiện ra chân ngôn.
Nếu người trì tụng thần chú, phải biết : mỗi câu cũng từ nơi tự tánh chân như nó lưu ra, do vì trong có cái quán trí rỡ rỡ, ngoài nương tiếng thần chú rành rành, trí và chú thống nhất, tức thời cảm đến hào quang của chư Phật chiếu lẫn nhau, soi suốt mười phương địa ngục và các ba giới đâu chẳng giải thoát, đương thể hoá làm pháp giới thanh tịnh.
Địa ngục gồm có ba chỗ
Một, tám địa ngục nóng : là ngục căn bản ở trung ương, vì có các ngục nhỏ ở chung quanh.
Hai, tám địa ngục lạnh : cũng như trên đã dẫn.
Ba, địa ngục ở ngoài hiên : là những ngục ở nơi hẻo lánh trên nhân gian.
AN LẬP TÁM TƯỚNG ĐỊA NGỤC NÓNG
Châu Nam Thiệm Bộ
Địa ngục Thổ-Nê cao 500 do tuần
Địa ngục Bạch-Thiện cao 500 do tuần
1.- Địa ngục Đẳng-hoạt sống 500 tuổi
2.- Địa ngục Hắc-thằng sống 1000 tuổi
3.- Địa ngục Chúng-hiệp sống 2000 tuổi
4.- Địa ngục Hiều-kiếu sống 4000 tuổi
5.- Địa ngục Đại-kiếu sống 8000 tuổi
6.- Địa ngục Diêm-Nhiệt sống 16.000 tuổi
7.- Địa ngục Cực-nhiệt sống nữa kiếp
8.- Địa ngục Vô-gián sống 1 kiếp
Từ địa ngục Đẳng-hoạt đến địa ngục Cực-Nhiệt là 7 địa ngục bề cao cộng là 19.000 do tuần, mỗi cái bề rộng một vạn do tuần.
Người ta nói : địa ngục ở dưới đáy đó, tức là địa ngục vô gián ở số tám đây vậy.
Ở nhân gian người tạo thập ác ngũ nghịch hạng nặng nhứt, thì sau khi chết, liền hoá sanh ở vào địa ngục vô gián nầy !
Tám sở địa ngục nóng đây, chồng chất với nhau mà trụ ở dưới châu nam Thiệm bộ, hai ngục trước đều có chủ ngục trị tội; ba ngục kế đó ít có chủ ngục trị hành ; ba ngục sau không cần có chủ ngục trị, vì tự nghiệp của tội nhân nó tự hành khảo lấy. tám sở nầy làm căn bản nơi trung ương, mỗi sở đều có mười sáu sở du tăng vây ngoài bốn cửa thàn, liên cọng với ngục căn bản thành số là một trăm ba mươi sáu ngục. trong ngục sức lửa nóng dữ lắm như hòn đá tư vuông một trượng để vào trong ngục lửa nầy, tức thời đá tiêu tan. chứ như lửa ở nhân gian để một viên đá nhỏ, dù đốt lâu mấy, đá ấy cũng chẳng tiêu. So đó để biết lửa ở địa ngục nóng là bực nào, nên gọi là nhiệt ngục.
Tám sở địa ngục nóng, lần lượt dẫn giải ra dưới :
Một, ngục Đẳng hoạt : chúng sanh ở ngục nầy, mười ngón tay đều sanh ra móng tay bằng sắt, hễ có giận nhau, thì cào cấu với nhau, tay vừa bấu đến đâu là móc thịt rớt ra tới đó, liền xiểu chết ngay, hoặc quỷ ngục tốt kêu bảo sống, tức thời sống trở lại, hoặc có một luồn gió lạnh thổi đến, làm cho sống lại, hai duyên cớ ấy tuy khác, chứ khiến cho sống, tức thời sống trở lại, hoặc có một luồn gió lạnh thổi đến, làm cho sống lại, hai duyên cớ ấy tuy khác, chứ khiến cho sống lại thì cũng đồng một lẽ. chịu hết tội ở ngục Đẳng hoạt rồi, theo thứ lớp ra chịu tội hành ở nơi mười sáu du tăng là ngục nhỏ nữa, mỗi chỗ cũng đều sống lâu năm trăm tuổi, do lúc ở nhân gian, buôn lung thân khẩu ý tạo nghiệp bất thiện mà gây nên.
Hai, ngục hắc thằng : quỷ ngục tốt lấy dây mà gây nên, trói thân người tội, lưỡi búa theo đường dây mà chặt thân đứt ra trăm ngàn khúc; lại trói lấy cưa cưa đó, hoặc lấy dây sắt nóng vấn thân riết đứt thấu xương, như thế chịu hết tội ở ngục hắc thằng rồi, ra theo thứ lớp chịu tội hành ở mười sáu ngục du tăng nữa. Mỗi ngục đều sống một nghìn tuổi, do lúc ở nhân gian, tạo những nghiệp nghịch với Cha Mẹ. Phật và các Thánh Thanh Văn mà gây nên.
Ba, ngục chúng họp : là hai hòn núi hiệp lại với nhau, để ép người tội, xương thịt nát tan, rồi hai núi dan ra hoàn về chỗ cũ, thống khổ muôn điều, như thế chịu rồi ra, với mười sáu ngục du tăng theo thứ lớp vào chịu nữa, sống ngàn tuổi do tạo ba ác nghiệp, chẳng làm ba thiện nghiệp mà gây nên.
Bốn, hiền kiếu ngục : cũng gọi là kiếu hoán, cũng gọi là hô hô. Quỷ ngục tối bắt người tội liệng vào trong cái vạc lớn để nấu, kêu la nhảy nhót, đau khổ muôn trạng như thế chịu rồi, lại theo thứ lớp vào mười sáu ngục du tăng chị nữa, sống bốn ngàn tuổi, bởi ôm lòng độc sân khuể, tạo các hạnh ác mà gây nên.
Năm ngục đại kiếu : cũng tên là ngục địa hô, đem người tội để vào cái chảo sắt, hoặc cái vạc sắt để nấu sôi, rồi lại liệng lên trên cái tắm vỉ sắt lớn để quay ram. Như thế chịu rồi, lại ra theo thứ lớp mà vào mười sáu ngục du tăng để chịu hành tội nữa, sống tám ngàn tuổi. bởi gây cái lưới ái tà kiến, tạo cái hạnh thấp hèn mà chiêu cảm lấy.
Sáu ngục viêm nhiệt : cũng kêu là ngục thiên nhiên, tội nhân ở trên cái lầu bằng lửa, hoặc ở trong thành bằng sắt, hoặc ở trong cái lò gốm bằng sắt lớn, trong ngoài đều hực đỏ, da thịt bị cháy rã như thế chịu ở ngục đây ra rồi, lại còn theo thứ lớp vào mười sáu ngục du tăng để chịu tội nữa, sống một vạn sáu ngàn tuổi, do đốt sanh mạng mà gây nên.
Bảy ngục chứng nhiệt : Cũng kêu là ngục địa thiêu nhiên cũng gọi là cực nhiệt, thành bằng sắt lửa đốt cháy trong ngoài đều đỏ, hầm lửa, núi lửa. ngục tối câm cây thiết xoa đâm vào thân tội nhân đem để dựng đứng trong lửa, chịu tội rất lâu rồi lại vào nơi mười sáu ngục du tăng chịu hành tội nữa, sống nửa kiếp do bỏ quả lành làm hạnh ác gây nên.
Tám ngục vô gián : cũng tên vô trạch, lột da vấn thân để trên xe lửa, hoặc bánh xe nghiền nát ra, hoặc để vào thành sắt toàn lửa cháy không có chỗ trống, thống khổ vạn đoạn, không chút xen nghỉ, đây tức là ngục ngũ vô gián, như thế chịu rồi tội ở ngục đây, lại theo thứ lớp phải vào mười sáu ngục du tăng để chịu hành tội thêm nữa, sống một kiếp tuổi do trước kia ở nhân gian tạo những tội ngũ nghịch thập ác mà gây nên cái kiếp bị đày đoạ ở ngục vô gián nầy.
Từ ngục Đẳng hoạt đến ngục cực nhiệt là bảy ngục cộng bề cao là một vạn chín ngàn do tuần, bề rộng đều một muôn do tuần; riêng về ngục vô gián bề cao và bề rộng đều hai vạn do tuần.
Tám ngục nóng, mỗi ngục đều có 4 cửa, 1 ngục cọng là 16 địa ngục nhỏ gọi là du tăng.
Ngục Đẳng Hoạt
Cửa Trái
Rìu búa : Vật trên sắt nóng rìu búa chặt thân.
Chó sói: Có bầy chó sói đua đến táp cắn.
Cây kiếm: Gió thổi cây kiếm là đâm trên thân.
Giá lạnh : Khổ độc kêu la rồi mới mạng chung.
Cửa Trên
Cát đen: Gió thổi cát nóng cháy da thấu xương.
? Tiểu phẩn: Tiểu phẩn hoàn sắt bụm để trong miệng.
Đinh sắt: Nằm trên sắt nóng đinh sắt khắp thân.
Phỏng rã : Vật trên sắt nóng nước đồng rót miệng.
Cửa Phải
Chết đói : Vật trên sắt nóng hoàn sắt để miệng.
Vạc đồng: Ngục-tốt bắt người dộng đầu vạc đồng.
Nhiều vạc: Móc sắt bắt để trong vạc nhiều đồng.
Cối đá : Vật trên đá nóng cối đá xay thân.
Cửa Dưới
Nung huyết : Mủ máu sôi vọt giòng chạy ở trong.
Lường lửa : Cầm đấu sắt nóng tay lường nhóm lửa.
Sông tro : Nước tro cả nóng gieo chìm ở trong.
Hoàn sắt : Nắm hoàn nóng cả thân sắt lửa cháy.
Luận Bà Sa nói : 8 ngục nóng, mỗi ngục đều có bốn cửa, phía ngoài đều có bốn du Tăng ; tội nhơn dạo qua kia chịu khổ thêm vậy. Kinh Chánh Pháp niệm nói : Khổ ở địa ngục vô gián, gấp ngàn lần hơn 7 địa ngục lớn trước ….
Đồ tướng an lập của tám sở địa ngục lạnh
Tám ngục lạnh đây, vị trí ở dưới núi thiết vi. tội nhana đi ở bằng cách ngửa mặt hướng lên; hai ngục trước do nơi thân tướng chịu đặt tên; ba ngục kế đó là do nơi thanh tướng mà chịu đặt tên; ba ngục sau là do nơi cái tướng ghẻ mà chịu đặt tên. đều là cực kỳ lạnh rét ép ngặt !
Sống lâu nhiều như cái hộc nước Kiều tát là, lường hai mươi hộc hột mè, giả như có người sống lâu, cứ mỗi một trăm năm lấy bỏ ra một hột mè, cứ như thế mãi, chừng nào lấy ra hết số hột mè của hai mươi hộc ra, mới là hết số tuổi sống ở địa ngục án phù đà, hai mươi lần tuổi sống của án phù đà mới là làm số tuổi sống của ngục Ni lại phù đà. Cứ như thế, cả tám ngục theo thứ lớp mà tuổi sống cứ gấp bội phần tăng lên.
Ngoài tám nóng tám lạnh ra, riêng có các ngục lớn, nhỏ, danh ngạch vô lượng, đủ như trong các bộ Kinh luận kể rõ.
Địa-ngục ngoài biên gồm có ba chỗ :
1.- Giữa núi
2.- Giữa nước
3.- Đồng hoang
Đều chịu khổ báo nghiệp riêng.
Trong bộ Lục Trang Thung chép : Những địa ngục côi quạnh riêng một mình, thì ở nơi các chỗ trong châu Diêm phù đề, như là : hoặc nơi đồng hoang rộng vắng; nơi chính giữa núi rừng; nơi bờ biển; nơi trong đình miếu v.v.. có cả đến tám vạn bốn nghìn toà, khổ báo dần dần nhẹ ít. Các địa ngục nhỏ đây, phải chịu xen lộn vừa hàn vừa nhiệt, sự chịu khổ : có kẻ nhiều, có kẻ ít; với tuổi sống : có kẻ dài có kẻ vắn.
Các ngục ở bên biển, như các sở mà ông Tăng Hộ đã đi đến thấy đó; các ngục ở giữa núi, như là : Thái sơn, phong đô, lại như các sở mà ông Ức nhỉ đã đi đến ngó thấy đó …
Lời chân-ngôn phổ triệu thỉnh:
PHỔ TRIỆU THỈNH CHÂN NGÔN
Khi tụng thần chú đây, quán tưởng cả mười phương, ba đồ, sáu đạo tất cả chúng sanh, vâng uy quang của Phật, trong nhứt thời nầy đồng đến nơi đạo tràng để rồi thụ thí thực.
Nam-mô bộ bộ đế rị, dà rị đa rị đát đa nga đa da.
Phổ : Khắp trước, đã phá các địa ngục và các nghiệp đạo buộc ngăn, thì nghiệp đạo của địa ngục đương chỗ giải thoát, e hành nhân là người làm việc thí thực, tâm quán tưởng chẳng được tinh thành, không thể khiến cho chúng sanh kia ứng theo lời vời mà đến, nên lại tuyên lời thần chú để khắp với chúng sanh tội khổ trong pháp giới, tìm theo ánh hào quang liền đến đạo tràng.
Hỏi : Mười phương ba đồ xa cách vô cùng làm sao có thể khiến cho chúng ứng theo lời vời liền đến ?
Đáp : Tự tâm tha tâm, vẫn không xa gần, nhân vì mê nên có cách, nay nương sức gia trì thần chú, cảm sức uy quang của Phật, khắp khiến mười phương đều thành cảnh thắng diệu, không còn cái tướng viễn cận, nên khiến một lời triệu thỉnh liền đến đặng ngay.
Lời chân ngôn giải oan kiết:
GIẢI OAN KIẾT CHƠN NGÔN
Khi tụng thần chú đây, quán tưởng chúng sanh trong sáu đường, đều vâng chú lực và Phật lực, khiến cho điều oan kiết từ vô thỉ, đều được nhứt thời thanh tịnh.
Án tam đà ra dà đà ta Bà-ha.
Từ vô thỉ lại nay, quấy sanh cái lòng phân biệt nhân và ngã : kêu bằng ta làm chủ, còn người là đối phương với ta, mà rộng ra kết dây oan thù; nay e mỗi mỗi chúng kia lấy mạnh lướt yếu rồi gây chướng nạn nữa : hoặc chợt hiện ra các điều chướng, hoặc rốt rồi sanh tâm bất bình, hoặc nhận thấy nhau mà dấy điều nhiệt não, nay nương cái công gia trì thần chú, khiến cho mỗi mỗi chúng kia từ vô thỉ oan kiết chỉ trong nhứt thời nầy được giải thích, kính ái lẫn nhau, đồng đến nơi pháp hội bình đẳng.
Phụng thỉnh Tam Bảo.
Xét bổn kinh Diệm Khẩu : nửa phần trước đều là về sự kết lập đàn tràng, phụng thỉnh Phật thánh, bày ra các món cúng dường; nửa phần sau là vào Quan âm định rồi, sau mới phá địa ngục, và triệu thỉnh các đẳng u hồn trong lục đạo. nay văn thí thực đây lại trước thì phá địa ngục, sau mới triệu đó là do ban sơ tụng một bài kệ Duy tâm chỉ thị ra chỗ phá ngục, tức là đạo tràng rồi.
Khi thần chú nầy, phải tưởng tất cả Quỷ thần đều nhứt tâm trường quỳ chấp tay, rập tiếng xưng dương hiệu Phật :
Nam mô Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh
Đó là đề mục của bộ kinh Hoa Nghiêm, tức là ngôi nhứt thể Tam bảo : Đại phương quảng là Pháp bảo; Phật là Phật bảo; Hoa nghiêm là Tăng bảo.
Đại, tội cõi hư không còn có thể đo được, chứ với cái thể của đại đây không sao đo được, vì nó không có biên bờ. phương thì với tột biển khơi còn có thể uống được, chứ với cái pháp của phương đây không thể uống hết được, vì pháp môn nó vô tận; Quảng thì nghiền nát các cõi Phật nhiều bằng số vi trần ra bụi, với bụi ấy còn có thể đếm được, chứ với cái Dụng của Quảng đây không thể đếm được, vì Dụng nó không thể lường; Phật thì lìa năng giácc, sở giác, muôn pháp sáng suốt; Hoa, thì bát ngát phơi ra muôn hạnh, tươi rõ các đức Nghiêm thì tròn đức hạnh nay, để trau giồi mười thân kia; kinh thì xỏ xâu từ chữ từ câu để thành ý nghĩa vi diệu.
Do thế, cử lên nói đề mục liền đã gồm hết toàn kinh số là Kinh đây, là Phật Ngài hiện ra Viên mãn báo thân phóng hào quang để gia bị cho các vị Đại Bồ tát, mà các vị đại Bồ tát đều vâng uy lực nói ra cái tâmviên mãn pháp giới, kiêm nói cái nết hạnh của lịch kiếp.
Nếu có vẻ thấy người nghe lạy tụng Kinh nầy, đặng ích vô lượng.
Tổ Thiên Thai Đại sư nói : chỉ nghe cái đầu đề Kinh nầy đã được công đức vô lượng.
Tổ Thanh Lương làm lời tựa, có câu rằng : thấy nghe làm giống lâm nạn siêu lên bực thập địa, là đây gọi thế chăng.
Nam mô thường trụ thập phương Phật
Nam mô thường trụ thập phương Pháp
Nam mô thường trụ thập phương Tăng.
Từ đây sắp xuống là biệt tướng Tam bảo.
Ba đời chẳng đổi, muôn kiếp vẫn còn là thường : pháp thân khắc giáp lóng đứng chẳng động là Trú. Tam Bảo đều là thường trú chẳng diệt, lẫn khắp mười phương. nhứt thể, biệt tướng, có biểu đồ ở văn sám hối.
Nhứt thể : là nhứt thể Tam bảo, cũng gọi đồng thể Tam bảo.
Biệt tướng : là biệt tướng tam bảo.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đây là đức giáo chủ ở thế giới Ta bà, làm Bổn sư của chúng sanh cả chín cõi.
Thích Ca dịch là Năng nhân, là họ, nghĩa là hay thực hành nhân đức rộng giúp ba giới. Mưu Ni, dịch : Tịch mặc, là tên Tự, nghĩa là hoặc nghiệp vắng bặt lui đến lặng im.
Trước ở trong nội viện trên cung trời Đâu Suất, hiệu là Hộ Minh Bồ tát bấy giờ, lấy cơ duyên của chúng sanh sở cảm, chuyển thần từ cung trời Đâu Suất, giáng sanh xuống nước Ca tỳ la vệ, cha là Tịnh Phạn vương, mẹ là Ma Da phu nhân : phu nhân nằm mộng thấy Bồ tát cỡi bạch tượng sáu ngà, từ trên trời giáng xuống, vào nơi sườn phía hữu về sau, thân ý thư thái với điềm tướng ấy, đức ba thường thấy thế mãi.
Đến giờ sắp sanh, Thánh mẫu ngự ra thượng uyển (lum Bỳ ni) gặp cây vô ưu nở rộ, thánh mẫu đưa tay hữu lên vịn cành hoa, bất ngờ Bồ tát từ nơi sườn phía hữu đản sanh (đó là sanh nở bằng cách hoá sanh : Sanh băng cách biến hoá, nên muốn gá vào nơi sườn để biến hiện ra, còn như đức Di Lặc sau nầy gá nơi trán mẹ để hiện sanh, đó cũng là hoá sanh; chớ chẳng phải như thai sanh đâu mà phải do nơi cửa mình mẹ để sanh. phải biét cõi ta bà nầy có bốn cách sanh là : Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hoá sanh), bấy giờ có chín con rồng phun nước, đừng bồn vàng tắm gội thái tử đi tới lui qua lại mỗi hướng đều bảy bước, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, thốt tiếng rằng : trên trời dưới trời chỉ có ngã tướng là độc tôn …
Phụ hoàng dẫn đếnlễ yết miếu Phạm thiên, tượng trời bỗng đứng dậy làm lễ lạy.
Nhà vua về đền, vời nhóm quần thần để vì đặt tên cho Thái tử là Tát bà tất đạt đa dịch :Nhưt thế nghĩa thành tựu. năm lên tám tuổi học rộng lục nghệ (lễ, nhạc, xa, ngự, thư, số), phàm những kinh sách của thế gian bấy giờ, đâu chẳng học thuộc làu cả.
Vua cha cưới nàng Da Du Đà La cho Thái tử làm hiền thê, với dục niệm rất thanh tịnh, do vì tức duyên nên chỉ vào bụng phi mà tiên đoán rằng : Sau sáu năm quy phi sanh con trai (mang thai sáu năm sanh La hầu la).
Thuở ra dạo chơi bốn cửa thành, gặp các người già, người bịnh, người chết, và thần Sa môn (tu sĩ của đạo Bà la môn), thì cái tâm xuất gia càng thục giục.
Năm lên 19 tuổi, đêm 19 tháng 2 (Kinh Nhân quả ghi là ngày mùng 7 tháng 2) bốn vị Thiên vương bồng chưn ngựa ra cửa thành phía bắc, đến núi Đàn Đặc, tạm nghỉ trong rừng, lấy gươm mang bên mình ra cắt tọc thốt lời thệ nguyện rằng : Nguyện cùng tất cả chúng sanh dứt phiền não.
Bấy giờ vị Trời Tịnh Cư hoá thân làm một người thọ săn, thân đắp áo cà sa, Thái tử lấy áo châu ngọc đổi cho người, Thái tử vào núi Di Lâu theo hai vị tiên nhân là A Lam, Ca Lam để học phép định bất dụng xứ được ba năm. Lại theo ông Uất đầu lam, luôn ba năm đẻ học phép định phi phi tưởng tự biết là chẳng phải chánh pháp, bèn bỏ đi nơi khác.
Đến núi tượng đầu, ở lẫn trong chúng Ngoại đạo, tự tu khổ hạnh, đến đỗi ngày chỉ ăn một hột mè một hột bắp, lấy cái công : vô tâm, vô ý, vô thụ vô hành, các vị tu sĩ Ngoại đạo đều chịu học theo ; tu như thế sáu năm, tự biết sắp thành đạo, tự nói : vay đây phi giải thoát, phải ăn trước đã, sau thành Phật đạo.
Bèn đến sông Nê Liên để tắm gội, thụ lãnh bát sữa cháo của Mục nữ cúng hiến mà ăn, dần dần tướng hảo bình phục lại như xưa (tu khổ hạnh sáu năm, thân thể gầy ốm, chúng sanh nhục nhãn, khó dùng kính tin, nên trước phải ăn).
Tìm đến bên cội cây Tất bát la (cây bồ đề cũng kêu cây da Lâm vồ), vị Thiên Đế Thích (vị Thiên chủ ở trời đao lợi đảnh núi Tu di) hoá thân ra làm một đồng tử tên là Cát Tường tự cắt cỏ đem lót chỗ ngồi bên gốc da, là đêm mùng bảy rạng mùng tám tháng hai (nhà Châu Kiến tỳ tháng 11 ta làm tháng giên, thì Sửu là tháng hai, tức tháng 12 ta ; nhà Hán kiến dần tức tháng ba nhà Châu làm tháng giêng, thì Sửu là tháng 12 tức tháng hai nhà Châu, mà tháng chạp của ta ngày nay. Vậy với ngày Phật thành đạo; nếu cứ niên lịch nhà Châu, thì là ngày mùng tám tháng hai của nhà Châu, tức là mùgn tám tháng chạp của niên lịch nhà Hán, tức cũng tháng 12 của ta ngày nay. Lại thuyết mùng bảy tháng tư dẹp Ma mùng tám thành đạo).
Đã ngồi lên toạ cỏ rồi, phóng quang dẹp Ma xong, liền vào chánh định, đến giờ Tỳ (chính là đầu ngày mùng tám) chợt thấy sao Mai mọc sáng liền ngộ đạo thành Phật (ta bảo khi đương nhập định, chưa rảnh để thấy, đến khi ra định, vô để ý mà thấy minh tinh chạm đến cơ duyên mà ngộ Phật đạo, bấy giờ 30 tuổi).
Với nơi Kim cang (trong Kinh nói : bên gốc cây Lâm vồ, có cái toạ bằng chất Kim Cang, là cái Mún của trái đất ta bà), hiện ra cái tướng Viên mãn báo thân, luôn hai mươi mốt ngày, vì bực đại căn Bồ tát mà thuyết kinh Hoa nghiêm hạng tiểu căn thấy Phật vẫn là thân một tượng sáu của tướng Tỳ kheo đó thôi.
Bấy giờ có các vị : Phạm Vương, Đế Thích và cả Chư Thiên đến thỉnh Phật chuyển pháp luân. với ngày sau ba tuần thất, Phật ngài đến vườn lộc giả, trước nhứt độ năm tu sĩ là bọn ông Kiều Trần Như.
Lại đến nước Ma Kiệt Đà, hoá độ ba anh em ông Ca Diếp Ba và các ông Xá Lợi, Mục Liên theo thứ lớp đều đắc độ, đồng thành đạo quả Thanh văn.
Như thế thuyết pháp hơn ba trăm hội, độ người nhiều đến vô lượng.
Ngài sống được tám mươi tuổi, mà vào cõi Niết bàn. Đó là một thời kỳ đức Như lai ra đời giáo hoá.
Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát.
Khắp vận cái tâm tam duyên, nên nói là đại bi. Quan : tức là trí của Bồ tát; Thế âm : tức là tiếng của chúng sanh ở chín cõi. Nghĩa là chúng sanh có bị khổ thì ắt thốt tiếng lâu xa, nghe Phật Vô lượng uy đức tự tại quang minh vương Như lai thuyết thần chú Đà la ni (biến thực chân ngôn) đem trao cho đức Thích Ca, đến nay Đức Thích Ca thành Phật, Quan âm ngài bí mật hoá hiện ra cái thân Diện Nhiên Quỉ vương, để bảo A nan thưa thỉnh nơi Phật mà nói ra thần chú đây, đặng rộng giúp cả chúng sanh ở cõi minh và cõi dương.
Lớn lao thay ! Đức Quan âm, vận lòng từ vô duyên, làm người chẳng đợi mời, từ mấy ngàn năm lại kịp qua đời sau, đều nhờ lấy đức của Ngài đó, mà pháp nầy chẳng bị suy sụp, cái công huân rất lớn đó, trong muôn kiếp đâu có thể tột được một phần muôn !
Tâm tam duyên : một chúng sanh duyên từ bi, nghĩa là lấy một cái tâm từ bi xem : chúng sanh trong năm đạo mười phương cũng như xem : cha mẹ, anh em, chị em con cháu duyên đó mà thường nhớ cái tâm cho vui bớt khổ, nên gọi là chúng sanh duyên từ bi tâm…..đó là phần nhiều ở nơi phàm phu hoặc người hữu học chưa dứt phiền não mà khởi duyên này. Hai pháp duyên từ bi tâm…và ba Vô duyên từ bi tâm…thấy ở : Trí độ luận cuốn hai mươi Phật Trí luận cuốn năm va Kinh Niết bàn.
Nam mô Minh Dương Cứu khổ Ðịa Tạng Vương Bồ tát.
Địa ngục, Ngạ quỷ, súc sanh thuộc về cõi u minh, Trời Người Thần A Tu la thuộc về cõi dương gian, nên gọi là Minh vương.
Đức Địa Tạng nguyện rằng : “độ hết chúng sanh mới chứng bồ đề (gồm cả Minh dương), địa ngục chưa không thể chẳng thành Phật” Chỉ nói cõi minh nên nói là “Minh Dương cứu khổ”.
Địa : đất hay sanh vạn vật; Tạng : kho khá chứa các báu; Vương : vua, đủ nghĩa tự tại. là nói : Bồ tát dùng cái tâm địa bất tư nghị hạnh nguyện để trùm chứa cái công đức hằng sa trí tuệ, mà đắc cái diệu dụng tự tại. do thế, đức Địa Tạng Ngài từ trong vô lượng kiếp, giáo hoá vô lượng đệ tử đã thành Phật, mà Ngài vẫn còn ở cái địa vị Bồ tát, sở dĩ chưa nguyện thành Phật đó, chớ đâu phải chẳng nguyện thành Phật ư.
Chính bởi với chúng sanh độ hết, thì nguyện của ngài mới hết, mà đằng nầy độ chúng sanh chưa hết, nên nguyện của Địa Tạng chưa hết, nguyện của ngài chư hết, thì cái tâm độ người của Địa Tạng đâu có giờ nào hết được ru !? nên với hạnh nguyện của Địa Tạng, trọn không có Bồ tát nào mà có thể hơn được.
Lại, Kinh Địa Tạng nói Đức Thế Tôn vỡ lên cườm tay vàng vò trên đầu Địa Tạng mà nói lời nầy : Địa Tạng ! Địa Tạng ! thần lực của ông chẳng khá nghĩ bàn; tâm từ bi của ông chẳng khá nghĩ bàn; trí huệ của ông chẳng khá nghĩ bàn; biện tài của ông chẳng khá nghĩ bàn ! đối với việc chẳng khá nghĩ bàn của ông, dẫu mười phương chư Phật khen ngợi rao nói mãi ngàn muôn kiếp đi nữa cũng chẳng kể hết !
Nam mô khải giáo A Nan Ðà tôn giả.
Ngài A Nan đã chịu lời kỉnh cáo của đức Diên Nhiên, đến cầu thỉnh đức Như lai thuyết ra pháp môn đây, nên gọi rằng khởi giáo. Tiếng phạm là A Nan Đà, dịch Khánh Hỷ, sanh nhằm ngày đức Thái Tử thành Phật, nên đặt là Khánh Hỷ (nghĩa là mừng mừng vì một là được tin Thái tử thành Phật, hai là trong cung nhà Thúc báo tin sanh vương tử, chỉ trong một ngày mà hai tin ấy nên tên mừng mừng) A Nan đà là con Bạch Phạn vương (có chỗ nói với con Hộc Phạn Vương), tùng đệ của Phật. sau xuất gia làm thị giả của Phật ông có cái huệ đa văn bực nhứt.
Một bữa nọ, A nan ngồi một mình trong rừng để nhập định, lúc canh ba thấy một vị Ngạ quỷ miệng phực ra lửa ngọn, đầu tóc tủa khỏi thân hình xấu ghê, hai tay hai chơn và cả lóng đốt đều có tiếng trều trệu như chiếc xe hư, đói khát như lửa cháy, cần cổ, nhỏ tợ mũi nhọn, nanh và móng tay dài sướt như gươm, cực kỳ thống khổ, khó mà nở thấy !
A Nan hỏi : danh tự là chi ?
Đáp : Diên Nhiên, ông sau ba ngày sẽ đoạ làm Ngạ quỷ
A Nan hoảng kinh hỏi : có phương pháp nào được khỏi ?
Ngạ quỷ đáp : qua rạng sáng ngày mai, ông dùng các thức uống ăn đem bố thí cho loài ngạ quỷ nhiều bằng số trăm ngàn ức hằng hà sa, và cúng dường cho vô lượng Bà La môn Tiên, Diêm la làm chủ, các Minh quan nơi nghiệp đạo, cả các quỷ thần, các vong hồn đã chết trước từ lâu xa, mỗi mỗi bằng bảy lần bảy hột ẩm thực như cái hột của nước Ma Kiệt Đề dùng đó và vì chúng tôi mà cúng dâng ngôi Tam bảo, để cho chúng tôi được lìa khổ địa ngục ngạ quỷ, siêng lên thiên thượng thì ông mới thêm tuổi thọ.
A Nan kinh sợ, sớm mai yết kiến Phật, thưa lại chuyện trên.
Phật dạy : ông chớ quá ư lo sợ ! Ta nghĩ nhớ lại trong quá khứ vô lượng kiếp, thuở đó ta làm người dòng Bà la môn, đối trước Ngài Quán Thế âm, ta thụ được pháp đà la ni (biến thực chân ngôn) của Phật vô lượng uy đức Tự tại Quang minh Như lai; ta nay bảo người: nếu trì tụng thần chú đây, niệm được bảy biến có thể khiến cho một món ăn nó hoá ra làm vô lượng món ăn, đều thành mùi vị cam lộ rất ngon nhứt, liền hay đầy đủ cho trăm nghìn số cu chi, Na do tha, hằng hà sa số, tất cả ngạ quỷ, Bà la môn, chư Tiên, dị loại Quỷ thần, đều mỗi mỗi đặng các thức ăn đựng đầy theo hột của nước Ma Kiệt đề, và đều đắc Thánh quả, hoặc sanh tịnh độ mà ông liền đặng thêm tuổi thọ. (Trung quốc xưa Lương võ Đế kiến thiết đàn chay thuỷ lực và đời Đường ngài Kim Cang Trí Pháp Sư tu pháp Du già thí thực, mở ra các sự cúng dường, đều do gốc nơi đây cả.)
Ngạ quỷ trong sách Phật, một danh loại nầy nó gồm thâu cả thiên thần địa kỳ các vị thần minh.
Đời Đông hán ông Trịnh Huyền nói : tinh khí của thánh nhân gọi là Thần, tinh khí của Hiền nhân gọi là Quỷ. Thi Tử nói : Thiên thần gọi là linh, Địa thần gọi là Kỳ, Nhân thần gọi là quỷ. Nay Nội điển nói là Quỷ thần đó, thần Năng Bực có đại lực, thì năng dời núi lấp khe, còn tiểu lực thì năng hiển biến hoá. Quỷ sợ. Luống khiếp nhiều sợ ! Lại, Quỷ: Uy. Hay khiến sợ uy. Chỗ ở có chánh trụ biên trụ. Quả báo thì có : hữu uy đưc,s vô uy đức, chủng loại nhiều vô lượng, quả báo cũng đều khác nhau. Sách chánh lý luận, nói có ba phẩm chín loại, kinh chánh pháp niệm nói có ba mươi sáu chủng loại; thí thực nghi lời chú nói có mươi sáu bộ quỷ vương; Kinh đại kiết nghĩa chú, nói có bốn vị Thiên Vương thống lãnh tám bộ quỷ thần …
Quỷ đạo hai loại phân ở hai chỗ :
1. Chánh Trụ : dưới châu nam diêm phù đề, cách chừng năm trăm dặm có thành Diêm la chu vi là bảy vạn năm trăm ngàn dặm, Diêm vương thống lãnh quỷ chúng, an trụ giữa trung ương đó; lại tại trung gian hai núi thiết vi là chỗ mà ánh sáng của Nhật Nguyệt không chiếu tới được trong đó có rất đông loài ngạ quỷ.
2. Biên Trụ : giữa bốn Châu, những danh sơn, đại xuyên bể cả, bên biển, hang núi, giữa chỗ trống không gò mã xưa nổng rừng, chỗ mới ở nhà vườn cũ nơi bình phong cầu tiêu cả các chỗ bất tịnh; thảy đều có quỷ nầy ở đó.
Thứ quỷ có uy đức : ở các chỗ giữa núi, trong hang giữa chỗ trống không, bền bờ biển, đều có cung điện bằng thất bửu trang nghiêm, mỹ lệ phi mắt nhân gian thấy được.
Thứ quỷ không có uy đức: Nương dựa nơi chỗ bất tịnh phấn uế, lùm cỏ, bụi câu gò mã, bình che nhà xí gò hoang nương nơi, vật gì đó dựa nơi bóng chàng dựa bóng âm u, chớ đều chẳng có nhà cửa cung điện chi cả.
Uy đức có hai hạng
1. Hữu phước hữu đức là chánh thần :
Trong bốn châu thiên hạ, những núi có danh thắng sông lớn, như ngũ nhạc, tứ độc, thành hoàng, thổ địa v.v…đều có chỗ chấp chỗ chủ, có quốc tế, có nhân dân thờ cúng hương lửa đời đời, có phước giúp cho nước nhà dân thứ, nên gọi là chánh thần.
2. Có phước không đức là Tà thần:
Các đẳng Quỷ Thần như : Dạ xoa, La sát,Ly Mỵ, Võng lượng, thứ nương dựa nơi vật gì đó, để làm sự quái mỵ, thứ nương dựa nơi đình làng, miếu xã, để đem điều phúc, hoạ làm bậy kiếm ăn hưởng cúng nơi huyết thực dâm từ.
Thân lượng của Ngạ quỷ
1.- Cở lớn : Hạng cái thân cực dài rất lớn là một do-tuần, cái đầu như núi lớn, cuống họng nhỏ như lỗ trôn kim, đầu tóc chơm bơm, hình hài gầy ốm, chống gậy mà đi.
2.- Cở vừa : Hạng mà cái thân bực trung bình, thì không nhứt định …
3.- Cở nhỏ : Hạng mà cái thân tướng rất nhỏ bằng đứa bé mới vừa biết nói; hoặc có chỗ nói hình-lượng nó bằng cở trung gian giữa ba tấc.
Loại quỷ có ba điều chướng ngại
1.- Nội chướng : Cần cổ như mũi kim, miệng như ngọn đuốc lửa bụng rộng lớn, dù gặp uống ăn, mà chẳng ăn đặng.
2.- Ngoại chướng : Thường chịu đói khát, da thịt đen như than, đầu tốc chơm bơm, miệng khô khốc, ưa le lưỡi tự liếm miệng.
3.- Vô chướng : Có thứ Ngạ quỷ tên là Mãnh-Diệm mang, tùy ăn uống chi, đều bị hóa lửa đốt khát khổ lớn !
- Mặt, đói khát dớn giác mỗi chỗ giông chạy, đến suốt ao nào, đều bị vị quỷ-thần đại lực tay cầm dao gậy giữ chẳng cho thấy nước dù có thấy chăng nữa, liền hóa nung huyết! Vì tâm tạo tham sân, nên âm hiện các điều chướng ngại, thành thử loài quỷ thường thấy các cảnh : lửa lớn, bực đại-lực gàn cản ?, đao-gậy… đều là tâm nghiệp biến hiện.
Quỷ ở bốn châu và hai cõi trời
Quỷ thần, nhưng duy có loại quỷ thần có uy đức mà thôi, mà phải làm kẻ hầu hạ để chư thiên kia sai khiến v.v…
Bốn châu là : Đông thắng thần châu, Nam thiệm bộ châu, Tây ngưu hoá châu, Bắc uất đơn việt; cả bốn châu đều ở ngang giữa nơi bốn phía núi Tu di đều có cung điện bằng thất bửu rất trang nghiêm.
Đao lợi thiên, dịch : 33 cõi trời. ba mươi ba cõi trời nầy đồng ở trên đảnh núi Tu di, thuộc trong số thứ hai của cõi trời dục giới tức hạ giới, hiệp với tứ Thiên vương Thiên, đồng gọi là Địa cư thiên, nghĩa là hai trời nầy chơn còn đi sát mặt đất : Thiên đế Thích làm thiên chủ ở trung ương, còn 32 trời kia ở chung quanh ngoài phiên trấn.
Quỷ có 3 phẩm 9 loại
Ba mươi sáu bộ Quỷ thần
Hoạch thang Quỷ : Quỷ vạc nước sôi, do chịu người mướn làm việc sát sanh, nên mắc tội bị sắc nấu trong vạc nước sôi ; hoặc chịu lãnh của người gởi, rồi chống cự chẳng trả, nên phải chịu quả báo đây.
Châm khẩu xú Quỷ : Quỷ miệng nhỏ như trôn kim, lấy tiền của mướn người làm việc giết hại nên cuống họng nhỏ như mũi kim, dầu một nhiễu nước cũng không dung nút được.
Thực thổ Quỷ : Quỷ ăn mửa, chồng khuyên vợ bố thí, vợ sẽn tiếc nói không, chưa của bón rít, nên phải chịu báo thường ăn đồ khác nhổ.
Thực phẩn quỷ : Quỷ ăn phấn, do người vợ lừa dối người chồng, để riêng tự ăn uống, vì ghét hiềm chồng, nên phải mắc quả báo thường ăn phấn uế.
Thực hoả quỷ : Quỷ ăn lửa, do ngăn cấm lương thực của người, khiến cho người tự chết đói, nên chịu những tội khổ lửa bốc cháy, kêu gào đói khát.
Thực khí quỷ : quỷ ăn hơi, chỉ tham lam tự an một mình các thức miếng ngon, ăn cho được nhiều, chẳng thí cho vợ con nên phải khổ thường bị đói khát, chỉ được hửi lấy hơi thôi.
Thực pháp quỷ : Quỷ ăn pháp, nói pháp cho người nghe bằng cách vì tài lợi, nên phải bị khổ thường chịu đói khát, thân thịt nhót rút hết, nhờ nghe thuyết pháp mạng được tồn tại.
Ẩm thuỷ quỷ : Quỷ uống nước, do nấu rượu trong như nước để đánh lừa người ngu, còn phần mình chẳng trì trai giới, nên mắc quả thường bị khô khát.
Hy vọng quỷ : Quỷ trông mong do dành giá mua bán, dối trá lấy vật của kẻ khác nên bị bịnh đói khát thường trông mong bà con tế tự để đặng dự hưởng.
Thực thoá quỷ : Quỷ ăn đồ khạc nhổ đem đồ bất tịnh, gạt người xuất gia, nên thân thường đói khát, hằng bị nấu đốt, tìm đồ người khạc, và ăn những thứ bất tịnh.
Thực mang Quỷ : Quỷ ăn chuỗi anh lạc, do đời trước trộm lấy cái tràng hoa anh lạc của Phật, để dùng tự chưn diện; nếu có ai bị chuyện mà tục lệ buộc phải dùng tràng anh lạc bằng hoa cúng rồi đem bỏ, nhân đó mà được thụ thực.
Thực quyết Quỷ : Quỷ ăn máu do sát sanh để uống huyết canh và ăn thịt, mà chẳng thí vợ con, nên chịu thân quỷ đây, nhờ nhân gian lấy huyết thoa tế mà được hưởng đó.
Thực nhục quỷ : Quỷ ăn thịt do lấy thịt trong thân thể chúng sanh mỗi miếng đem cân bán mua dối trá, nhân đó mà chịu cái báo đây, nhiều lần đói trá xấu hèn, nên ai thấy cũng ghét gớm đó, thịt lộn xộn tế tự, mới được ăn đó.
Thực hương quỷ : Quỷ an nhang. bởi bán nhang, xấu mà lấy giá mắc nên nay chịu quả báo chỉ ăn khói hương sau bữa chịu báo bần cùng.
Tật hành quỷ : Quỷ đi nhanh nhà sư phá giới mà mặc ca sa lừa gạt lấy của hứa giúp bịnh nhân rồi chẳng giúp cho để của xài tiêu nên chịu báo đây, thường ăn đồ bất tịnh và tự đốt cháy mình.
Tứ tiện quỷ : Quỷ dòm rình địa tiểu tiện. do lập mưu gạt của chẳng tu phúc đức, bởi thế chịu báo đây mỗi lông trong mình ra lửa, ăn khí lực bất tịnh của người, để tự sống
Hắc ám quỷ : Quỷ tối đen, bởi đem điều làm oan uổng người để mưu cầu lấy tiền bạc, mà giam buộc người trong ngục tối, mắt chẳng trông thấy chi cả, thường cất tiếng đau thương, nên phải đoạ chỗ hắc ám, có rắn dữ nhảy dẫy, đau dường dao cắt.
Đại lực quỷ : Quỷ sức lớn do cắp trộm vật của người đem cho bạn dữ, chớ chẳng cho bằng cách làm phúc điền nhân thụ báo đây dù có đại lực thần thông,mà bị nhiều khổ não.
Xí Nhiên Quỷ : Quỷ phừng cháy do phá thành cướp giật giết hại bá tính nên chịu báo đây than khóc kêu gào, khắp thân lửa cháy, sau được làm người thường bị cướp giựt.
Từ anh nhi tiện quỷ : Quỷ rình con nít ỉa do giết con nít, sanh tâm đại nộ, nên thụ báo đây, thường dòm người đại tiện tra hại những đứa bé.
Dục sắc quỷ : Quỷ dâm dục do ưa ham hành dục được của cải, chẳng biết bố thí làm phúc điền, nên thụ báo đây, thường dạo nhân gian, cùng người giao hội quáy làm yêu quái, hù nhác những người ngu dốt, để cầu sự cúng cho ăn được sống.
Hải chứ quỷ : Quỷ cồn biển, do kiếp trước đi ngoài đồng rộng, thấy người bịnh khổ dối gạt lấy tài vật của người nên nay sanh ở trong cồn biển, chịu khổ lạnh nóng, thập bội hơn người.
Diêm la vương chấp trượng quỷ : Quỷ cầm gậy cho vua Diêm La do thuở đời trước, làm đại thần thân cận quốc vương, chuyên hành bạo ác, nên chịu báo đây, làm quỷ cầm gậy để hầu Diêm La vương sai khiến.
Thực tiểu nhi Quỷ : Quỷ ăn con nít do luyện thần chú phép thuật, để lấy tài vật của người, giết hại heo dê gà vịt, chết đoạ địa ngục, sau chịu báo đây, thường ăn tiểu nhi.
Thực nhân tính khí quỷ : Quỷ ăn tinh khí người, dối trá làm bạn thân, hứa rằng : ta vì bảo hộ cho người thúc hối người rán sức ra mặt trận mà chết, rốt chẳng cứu hộ gì cả nên chịu báo đây.
La sát quỷ : bởi đời trước giết nhiều sanh mạng để làm tiệc đại hội, nên chịu cái báo bị lửa đói đốt cháy đây.
Hoả thiêu thực quỷ : Quỷ ăn lửa cháy, do cái tâm sẽn tiếc, ganh ghét, che dấu, ưa ăn vật thực của chúng tăng trước đoạ địa ngục ra nên chịu lò lửa đốt thân.
Bất tịnh hạn mạch quỷ : Quỷ ăn đồ bất tịnh nơi đường hẻm, bờ ruộng, do kiếp trước đem vật thực không sạch thí cho nhà Tăng phạm hạnh ăn nhân đoạ báo đây ăn đồ bất tịnh.
Thực phong quỷ : quỷ ăn gói, do thấy nhà Khất sĩ đến xin, hứa mà chẳng cho, vật thực chi cả, nhân chịu báo đây, thường bị cái bịnh đói khát, như chịu khổ nơi địa ngục.
Thực thán quỷ : Quỷ ăn than, do làm chủ ngục hành hình cấm chẳng cho tù nhân uống nhân chịu báo đây thường ăn lửa than.
Thực độc quỷ : Quỷ ăn chất độc, do trước kia đem độc thực cho người ăn chết, nhân đó đoạ địa ngục sau ra làm quỷ thường chịu đói khát hằng ăn lửa độc cháy thân.
Khoáng dã quỷ : Quỷ đồng rộng, giữa đồng rộng minh mông, có kẻ đào ao hay giếng nước để thí nước cho khách đi đường giải khát, mà có người thốt lời độc ác rằng quyết phá ao nước khiến người chịu khát, nên chịu báo đây, thường bị bịnh đói khát, lửa đốt cháy thân.
Trủng gian thực khổi thổ quỷ : Quỷ ăn đất tro giữa gò mã, do trộm lấy bông hoa cúng Phật, đem bán lấy tiền để sanh nhai, nên chịu báo đây, thường ăn đất tro nóng nơi chỗ thiêu thây của người chết.
Thụ hạ trú quỷ : Quỷ ở nơi gốc cây do thấy người ta trông cây để thí bóng mát kẻ đi đường nghĩ mát, mà sanh ác tâm đốn chặt cây đi, lấy cây để xài dùng nên đoạ làm quỷ ở nơi cây để chịu cơn lạnh dữ nóng hung.
Giao đạo quỷ : Quỷ nơi đường giao thông do trộm lấy lương thực của người đi đường, bởi vì ác nghiệp đó, thường bị cưa sắt dứt dứt thân, nhân đồ người ta cúng tế rồi đem bỏ nơi đường ngã giao thông, lấy ăn để tự sống.
Ma la thân quỷ : Quỷ thân Ma la là Trời Ma vương do hành tà đạo, chẳng tin đạo chánh chân, nhân đoạ làm Ma la quỷ phá hại những người tu pháp lành.
BA MƯƠI SÁU VỊ QUỶ VƯƠNG
1. Ba tra bệ lệ đa
2. Bà la môn tiên
3. Bà tra Viễn hại đại lực
4. Nhã dạ xoa kiết cha
5. Bà la sát thực bất tịnh
6. Cơ hư thực phấn
7. Ba tra phú đan na
8. bà xoa nhân các cha
9. Ba la đa nhiệt bịnh
10. A phụ tà nịnh truyền tống
11. Ba tra các cha
12. Bỳ đà la đa
13. Nhã kiện đà la
14. Ô ma lặc ca
15. A bạc ma la
16. Cưu bàn đồ la
17. Bỳ xá xà đa
18. Vi đà la đa
19. Phụ vật vi quái
20. Phong hành yêu quái
21. Súc hành tịnh mụi
22. Trùng thành trùng độc
23. Ôn suy lệ ngược
24. Âm mụi U thị
25. Tinh Minh vọng lượng
26. Minh Linh dịch sử
27. A lỵ đế mẫu
28. Thực tiểu nhi tinh khí
29. Hà hải tinh mụi
30. Ba tra thực sí
31. Nhật nguyệt bạt thực
32. Ba la cha văn trà
33. Ba tra thực diên tiêu
34. Ba tra thực nung thuế
35. Bà tra thực thai huyết
36. Ba tra ma la
Cả ba mươi sáu vị Quỷ, vương trên đó đều làm chủ trong ba mươi sáu bộ quỷ thần hay thống lãnh vô lượng chư quỷ chúng, nếu cử lên kêu mới các vị quỷ chúa, thì cả bộ lạc các quỷ chúng đều phải thính lịnh thị tùng.
Bốn thiên vương thống lãnh tám bố quỷ thần để bảo hộ đời người trong bốn châu, nên thiên hạ nhân dân được bình an nếu nhân loại đều biết tu thiện.
Loài quỷ ở rải các trong các thú (nhàn, tu la, địa ngục, súc sanh), nhẫn đến trong phòng nhà chỗ các người ở, đều có Quỷ đầy nhẫy lẫn ở trong cả,nhưng người với Quỷ chảng thấy lẫn nhau, cũng không trở ngại với nhau; đấy đều bị dằm nơi không, sa nơi mờ dài mãi lâu kiếp chẳng đặng siêu thoát ! Dẫu có đặng Phật pháp ánh Thánh chiếu tới, chạm mặt mà chúng cùng chẳng thấy nghe gì cả ! Bởi cái nghiệp chướng vô minh từ đời trước nó tự ngàn che đến thế, là chỗ mà trong kinh Phật bảo rằng : cả ngàn Phật ra đời, nó cũng không thể sám hối được. vì cái bổn nghiệp nó chẳng cho thực tế !
Về nương Phật
Về nương Pháp
Về nương Tăng
Về nương Phật đấng lưỡng túc
Về nương Pháp đấng ly dục
Về nương Tăng đấng giữa chung
Về nương Phật rồi
Về nương Pháp rồi
Về nương Tăng rồi.
Khi đọc phải quán tưởng: tất cả chúng sanh đều nhứt tâm quy y ngôi Tam bảo.
Sáu câu trước, chính là tuyên dương pháp tam quy; ba câu sau là ba kết thúc. Trước kia, thỉnh ngôi Tam bảo các Thánh Hiền; còn đây là vì tuyên pháp tam quy khiến cho về lẽ chánh đề mau thoát tam đồ.
Số là tam bảo tức đấng Từ Phụ của chúng sanh mà là bửu phiệt nơi khổ hai, người quy y Tam bảo phi chi công đức lợi ích cho một mình mà thôi, vả lại còn có công ích khắp giáp cho cả chúng sanh nữa do thế hễ kẻ có tâm thì đều phải quy y Tam bảo.
Ngôi lướng túc : phúc túc, huệ túc. Phúc đủ, nên chúng sanh trong chín cõi đều quy y, huệ đủ, nên tuỳ cơ đều thuyết pháp hoá độ được cả. dẫu ai năng quy y, ắt cũng được phúc huệ đều đủ cũng như Phật vậy.
Ly dục tôn Lìa rời tình dục của hạ giới, cái dục nó làm gốc sanh tử, cái tình nó làm căn nghiệp quả, dục tình chẳng đoạn được, thì phải luân hồi mãi không thôi ! Nếu người mà tuân y theo giáo giới, ắt siêu khỏi biển tình dục.
Đấng giữa chúng, tức là ngôi chúng Trung tôn : Tăng sĩ đủ sáu hoà hiệp cả sự lẫn lý, Phạm hạnh (tịnh hạnh) cao cả, truyền pháp lợi sanh, làm Thầy giữa nhân và thiên, nếu người mà năng quy y về ngôi Tăng thì ắt lên bực Thánh.
Phật tử (hữu tình, cô hồn) chỗ tạo các nghiệp ác,
Đều bởi vô thỉ tham, sân, si,
Từ: thân, miệng, ý chỗ sanh ra,
Tất cả Phật tử (hữu tình, cô hồn) đều sám hối.
Đó là sám hối ba nghiệp.
Khi tụng bài nầy phải quán tưởng tất cả chúng sanh từ vô thỉ đã gây nghiệp chướng nay nhờ sám hối đều đặng tiêu trừ.
Phật tử hữu tình cô hồn do phân ra làm ba câu mà đọc như thế đó, e là chẳng phải thật bổn của Mông sơn; sách Lược giải lấy Phật tử gồm cả địa ngục, ngạ quỷ, lấy hữu tình gồm bàng sanh, lấy Cô hồn gồm cả các loại tam đồ, thế cũng chư chu tất. chưa bằng đọc ba lần đều chỉ dùng đọc một Phật tử là thoả hơn. Có bổn ba biến đều đọc là Ngã kim đó, bèn cho là thay vì cho quỷ loại mà đọc, là muốn cho tiếng của chúng đọc hoà rập một cách cho dễ vậy thôi.
Quy y rồi phải tỏ bày sám hối. Phật tử: Thánh Phàm đồng được xưng hô, mà có thân và sơ có khác nhau, Thánh : tức là các vị đã tu chứng ba thừa xuất thế gian, đã giác ngộ Phật tánh, là “thân tử” của Phật; mà giác ngộ còn cạn, cũng là “sơ tử” của Phật.
Phàm : tức là chúng phàm ở thế gian, mặc dù còn đương mê, mà sẵn đủ Phật tánh, tuy mê còn cách xa với ngộ, chớ cũng gọi là “sơ tử” của Phật.
Lại diễn giải ra bốn câu, đều thâu hết cả thân sơ trong chín cõi (xem biểu đồ dưới kia).
Hữu tình : Tình, tức là ba hoặc tình ái, chúng sanh ở sáu thường, đều lấy sáu căn đối nhau với sáu trần mà phát khởi ba hoặc tình ái, rồi vời lấy sanh tử trong ba với, nên nói là “hữu tình”.
Cô hồn: Không người thân để nương nhờ, không kẻ sơ để bè bạn, sa mãi nơi tối tăm, xăn hoài trong cõi người, mắc báo không biết quanh lánh, chịu khổ không ai cứu vớt, nết xấu không vẻ trang nghiêm, trải kiếp thường côi quạnh, nên nói là “cô hồn”.
Song, tất cả chúng sanh, với cái chỗ có ra ác báo, đó là đều do từ kiếp vô thỉ lại nay: Cái thân tạo ba nghiệp là sát, đạo dâm, cái khẩu gây ra bốn nghiệp là vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, cái ý thức dấy ba nghiệp là tham, sân, và si, cọng chỗ sanh ra mười ác nghiệp đây, nếu trái lại, thì tức là mười thiện (xem biểu đồ ở văn sám hối) nay đối trước Tam bảo, chí tâm thổ lộ thảy đều sám hối.
Sơ Phật tử, thân Phật tử
Các Bồ tát của Tạng, Thông, cả hai giáo mới đoạn rồi kiến hoặc, tư hoặc với tập khí đã hết, thì tức Phật quả vậy. Nên vừa đoạn hết kiến hoặc tư hoặc đó là Phật thân tử còn mới đè hẹp kiến hoặc tư hoặc, chơ chưa đoạn được đó, là Phật sơ tử. Ấy là những vị đồng chứng cái lý chân đế làm thân tử của Phật.
Các vị Bồ tát của Biệt giáo, Viên giáo, sẽ đoạn hết vô minh hoặc, mới xưng là Diệu giác Phật quả. Nên những vị mà chưa đoạn được vô minh hoặc đó, sơ tử còn những vị mà còn đương đoạn từ phần vô minh hoặc đó là Thân tử. đấy là lấy lẽ đồng chứng trung đạo làm Thân tử của Phật.
Cả bốn giáo Phật tử với thân sơ đều có bốn
Chúng sanh không ngằn thệ nguyện độ.
Phiền não không hết thệ nguyện dứt,
Pháp môn không lường thệ nguyện học,
Đạo Phật không trên thệ nguyện thành.
Đây trước sự sau lý theo lời phát nguyện.
Trong khi tụng về sự pháp nguyện : tưởng chúng sanh nghe tiếng đều dấy cái hoằng thệ của Bồ tát. Trong khi tụng, về lý phát nguyện : quán tưởng chúng sanh liền ngộ tứ hoằng đều là tự tánh sẵn đủ.
Bốn câu trên là Tứ hoằng thệ nguyện về sự vậy.
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, chúng sanh tức là chúng pháp tương sanh, đông nhiều pháp họp lại với nhau để sanh. Nghĩa là: năm ấm và tinh cha, máu mẹ mình là ba duyên. Năm với ba ấy hoà họp lại, tức có cái thân đây; đã có thân đây, thì có các khổ nó dời ép, là chỗ mà xưa đã bảo rằng: ba khổ, tám khổ (xem biểu đồ ở kinh Di Đà), vô lượng các khổ; khổ tuy vô lượng, ta nguyện độ hết, vả lại, chúng sanh vô biên, mà nguyện của ta cũng vô biên, đó là duyên theo khổ đế mà phát thệ nguyện.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, phiền não : tức là ba điều hoặc, hoặc: mê hoặc vọng tưởng. kiến hoặc, tư hoặc là phiền não của chúng sanh ở sáu ngã. trần sa hoặc là phiền não của các thánh nhân ở Nhị thừa; vô minh hoặc là phiền não vi tế của Thập địa Bồ tát. Duy chỉ có Phật là hoàn toàn thanh tịnh; chúng sanh nhân cái mê (mê hoặc vọng tưởng) nọ chất chứa đến cái mê kia; quanh di quẩn lại cũng chỉ là kiến hoặc tư hoặc thành mê chồng chất hàng ngày nhóm họp các vọng tưởng phiền não mãi, nay khiến cho đoạn sạch hết. vả lại chúng sanh không hết phiền não, thì nguyện của ta cũng không hết. đó là duyên về tập đế mà phát thệ nguyện.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, do vì chúng sanh trong chín cõi giới căn cơ điều sai khác, nên Như lai nói pháp giáo hoá có nhiều phương ta nguyện học hết. vả lại, chư Phật có vô lượng pháp môn, mà nguyện ta cũng vô lượng. đó là duyên theo. Đạo đế mà phát thệ nguyện.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành : Với ba hoặc, Như Lai đã thanh tịnh viên mãn; với hai tử (phận đoạn sanh tử biến dịch sanh tử - Sanh tử tử, Niết bàn tử) Như lai đã vĩnh viễn khỏi rồi, một mảy chẳng nhiễm, chín giới đều về nay ta đều thành; vả lại, đạo Phật vô thượng mà nguyện ta cũng vô thượng. đó là duyên diệt đế mà phát thệ nguyện.
Song, với tứ hoằng đây là chỗ của Bồ tát tu, nay khắp khiến cho chúng u đồ đều dấy nguyện đây, để chóng đặng cái đạo quả vô thượng bồ đề mà thôi.
Với chúng sanh, tự tánh thệ nguyện độ,
Với phiền não, tự tánh thệ nguyện đoạn,
Với pháp môn tự tánh thệ nguyện học,
Với Phật đạo thệ nguyện thành.
Đây là tứ hoằng thệ nguyện về lý vậy.
Số là, tịnh của Tứ thánh, nhiễm của lục phàm, đều do nơi đương niệm hoặc ngộ hay mê: hễ đương niệm mà mê, thì tuỳ theo cái tác dụng nhiễm duyên, mà làm những các thân sanh tử ở chín giới; trái lại hễ đương niệm ngộ, thì tuỳ theo cái diệu dụng tịnh duyên,mà tức bản thể diệu minh nơi Phật giới.
Nên, chúng sanh, phiền não, pháp môn, Phật đạo, đâu chẳng là cái dụng vốn đủ trên tánh thể. Song về dụng tuy có nhiễm có tịnh, chứ về tánh thể thì nó vẫn bất biến.
Tỷ như cái gương dù chiếu hiện bóng tượng, mà thể của gương cũng vấn bất biến.
Chúng U hồn kia nếu hay đương niệm lãnh ngộ, thì với chúng sanh phiền não, vốn không đoạn mà đoạn, với Pháp môn Phật đạo, vốn không chứng với lý đã viên thông, thì với sự nguyện trước kia, khá dùng tương tức nhau được.
Lời chân ngôn diệt định nghiệp
của Địa Tạng Bồ tát
từ đây sắp xuống là diệt các tội nghiệp
Á, bát ra mạt lân đà nãnh ta bà ha.
Khi tụng chú này, tâm quán tưởng tất cả chúng sanh thảy đều phá trừ định nghiệp từ vô thỉ.
Nghiệp: có hai thứ : 1/ Định nghiệp đời trước chỗ đã tạo nghiệp ắt nhứt định đời nay phải chịu báo, nên với định nghiệp này chẳng dễ gì sám hối ! 2/ Bất định nghiệp, đời trước chỗ gây ra nghiệp hoặc khinh hoặc trọng không nhứt định, nên nay sám hối thì dễ.
Không luận : Định hay bất định, đều từ nơi mê hoặc mà tạo ra cả, mà cái hoặc nó không có tự tánh của nó, mà nó lấy chân như làm tánh. Tỷ như: luồng mây thoạt khi thoạt diệt, mây nó không có tự nương, mà lấy cõi thanh hư làm nương. Số là, chúng sanh, Phật với ta, tâm đồng cõi thái hư, bấy nay không có hoặc, cái hoặc sỡ dĩ có ra là nhân nơi mê mà có; trí huệ như Phật (Phật tánh) phực sáng, mê hoặc như mây trọn tiêu. Nên phải dùng cái quán trí chuyên tinh tụng trì thần chú, cảm đến Phật tử, trí, chú, Phật là ba, phi một phi ba, mà ba mà một, ba một hoà suốt lẫn nhau, đồng một cái thực tướng kia chúng sanh chỗ tạo ra định nghiệp dù có vô lượng, nhưng đều hoạn hoá hư vọng chẳng thực, nếu được gặp cái kho trí quang minh, thì hoặc nghiệp kia. dường như một điểm sương tuyết trên lò lửa lửa hừng.
Bài chú đây với bài “chú phá định nghiệp” trong Kinh diệm khẩu lời khác mà nghĩa đồng, khi tụng chú phải tự quán tưởng tâm mình thành một vầng nguyệt thanh tịnh tròn đầy sáng suốt, với trên vầng tâm Nguyệt. tưởng có một chữ (hột rị) màu xanh, chữ hột rị phóng hào quang khắp chiếu chúng sanh trong nghiệp đạo, chúng sở hữu các định nghiệp mà chư Phật chẳng cho sám hối đó, khiến cho đều được thanh tịnh.
Lại nên tượng cho kia tự tánh bấy nay vẫn thanh tịnh, tâm Phật chúng sanh ba ấy không sai khác nhau, thế gọi là “Phá quyết định nghiệp”.
Chú diệt nghiệp chướng chân ngôn
Của đức Quán Âm Bồ tát
Án a lổ lặc kế ta bà ha.
Khi đọc chú này, tâm phải quán tưởng : tất cả chúng sanh có bao nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt.
Nghiệp chướng cũng có hai; định nghiệp và bất định nghiệp. Chú trước là để phá cái định nghiệp thuộc về lý: chú đây là phá cái bất định nghiệp thuộc về sự; sự được lý hoà lý nhân sự mà được rõ, sự lý không ngần ngại, thế mới là chân sám hối.
Chú đây cũng cùng đồng nghĩa nhau với chú sám hối diệt tội trong kinh Diệm khẩu. khi tụng chú đây, phải quán tưởng trên cái vầng tròn Tâm Nguyệt thành chữ hột rị màu trắng, chính chữ hột rị phóng ra hào quang phổ chiếu vào nơi thân của các ngạ quỷ, như cái tròng măt nhựt sai tan hột sương móc, bao tội cấu dường như nhựa mực theo nơi chơn chảy xuống, thấm vào dưới đất thấu đến lớp kim cang, tội chướng theo niệm tiêu diệt hết, đem cái thân tất cả tội trước kia, nay chuyển thành làm thân hoàn toàn thanh tịnh.
Hỏi: Thế nào tội như nước nhựa mực?
Đáp: Tội là hắc nghiệp, nên lấy mực để tượng trưng nhựa có ý chảy rót, nên nói là mặc trấp (chảy rót : tức là cái vọng tưởng nó sanh diệt diệt sanh luôn luôn tiếp nối mãi với nhau chẳng dứt, dường như dòng nước chảy rót chẳng đình trú)
Thần chú diệt chướng ngại
Khai yết hầu chân ngôn:
Án ba bộ để rị già đa rị đác đa nga đa da.
Khi tụng chú này phải quán tưởng tất cả ngạ quỷ cuống họng bằng mũi kim cả mở rộng lửa nghiệp thôi chảy mà được thanh lương khoái lạc !
Yết hầu: là chủ về ngôi rảnh (cửa vàm) khá khiến sự uống ăn chảy thông vào. Xưa nay thường có hạng người tánh tình sẽn tiếc, tham lam, kiêu mạn, vạy vò, bụng trống lòng cao, tạo nhiều nghiệp dữ nên cảm chịu lấy cái thân ngạ quỷ, yết hầu tự đóng nghẹt, suốt cả trăm ngàn muôn kiếp, chẳng nghe đến cái tên nước cháo. (Với cái nghe còn chẳng có, làm gì có cái ăn !) hoặc có khi thấy nước vừa muốn uống thì lại thấy nó hoá làm nung huyết, hoặc đưa nước vừa đến miệng, thì nước nó lại hoá ra lửa đốt chảy cả thân, mãi chiụ đói khát.
Trước kia như đức Mục Liên Tôn giả dùng thiên nhãn thấy mẹ đoạ trong loài ngạ quỷ. Tôn giả lấy bát đựng đầy cơm đến dâng mẹ bà liền lấy tay tả che bát, tay hữu bốc ăn, cơm vừa đến miệng, hoá thành lửa than ! Mục liên thương khóc chạy về cầu Phật.
Phật dạy: Mẹ ngươi tội nặng, phi đạo lực của một người có làm gì được ! người dù có hiếu cảm đến thấu trời thấu đất, mà thiên thần địa kỳ cũng chẳng làm gì cứu đặng ! Ắt phải nhờ cả đạo lực uy thần của tăng chúng nơi mười phương mới có thể giải thoát đặng.
Mục Liên liền y theo lời Phật dạy, cả dấy việc Phật, cả dấy việc Phật, cúng dàng chúng tăng, liền ngày ấy bà mẹ được thoát khỏi cái khổ ngạ quỷ.
Nay chúng sanh trong sáu đạo, đều bởi chỗ tạo nghiệp nặng từ vô thỉ đến nay, nếu phi pháp pháp lực của trí quán và mật chú, thì đâu đặng trừ diệt được.
Chú đây nghĩa cũng đồng nhau với chú khai yết hầu trong Kinh Diệm khẩu.
Sách tuỳ văn ghi rằng: Khi tụng chú đây phải quán tưởng làm phép như thế này: dùng bàn tay tả để ngửa lên như đựng hoa sen, trong hoa hiện ra một chữ A màu trắng chảy ra nước tách rất trong mát, khắp rưới cả cõi hư không tất cả ngạ quỷ chạm đến nước, đây tức thì cuống họng đều mở rộng lớn không ngần ngại, tự thân nhuận thấm.
Với phép thủ ấn, chỉ một người làm là được rồi, còn chúng thì không thể làm, nhưng mỗi người nơi tự tâm mình tưởng : một chữ màu trắng chảy ra thuỷ tánh rưới trên không như mưa, xối tưới xuống thân thể ngạ quỷ tức thì yết hầu thanh tịnh thông suốt.
Thần chú Tam muội Da giới chân ngôn
Án Tam muội da tát đoả phạm
Khi tụng chú đây, quán tưởng tất cả chúng sanh đồng thụ linh bửu giới kim cang quang minh tâm đắc thanh tịnh thân như Bồ tát. đấy là trao giới tam muội cho chúng sanh.
Tam muội giới: tức là đại thần giới, chính là của Bồ tát thụ trì; nếu muốn đắc giới đây, ắt đầu tiên phải sám hối trừ hết nghiệp đời trước, mới xiết trao chịu được. Tỷ như cái bình lưu ly là thứ bình rất trong sạch sáng suốt, mới xiết chứa đựng sữa của con sư tử được, còn đựng vào thứ đồ khác thì nứt bể liền.
Nay vì một loại chúng đương chịu điều cực thảm khóc chốn u minh, trước vì diệt nghiệp trừ khổ, chẳng thế, chúng kia đâu có y bẩm thụ giới pháp. Do thế, văn này có kệ chú diệt nghiệp sám hối làm tiên đạo, nhiên hậu tiến đến thụ giới tam muội da.
Kinh Duyên Khởi nói : Nếu muốn hành trì pháp thí thực, thì nên phát tâm bồ đề, trao lấy giới tam muội da.
Khi tụng chú, phải tưởng chữ Tông màu trắng, phóng ra hào quang sáng lớn khắp chiếu chúng hữu tình, ánh sáng kịp đến thân của chúng kia, thì giới ba la mật của chư Phật liền viên mãn trong nhứt thời này, là chân Phật tử.
Trong Đàn nghi nói: Phương pháp thụ giới được thành tựu là chú trọng ở đa lần yết ma, giới thể nhân đây mà đặng viên mãn.
Với chú đây: Khi tụng biến thứ nhất, phải tưởng cả thế giới mười phương, cái giới pháp diệu thiện, theo tiếng yết ma thảy đều rung động. khi tụng biến thứ nhì, phải tưởng cả thế giới mười phương, cái giới pháp diệu thiện, do nơi nghiệp lực của tâm, đều nhóm giữa hư không, như làn vây, tàng lọng, xoay vần chẳng tan. Khi tụng biến thứ ba, phải tưởng giới pháp diệu thiện đây, từ nơi đảnh mon chảy vào biển tạng tâm thức, làm hột giống Phật vĩnh viễn.
Kinh thí ngạ quỷ nói: Tụng chú đây ba biến rồi, tất cả Quỷ thần liền nghe được pháp bí mật thậm thâm, đều đặn cụ túc tam muội da, vô lượng y phước. tam muội dịch : chánh định, lại dịch: chánh thụ, do giới pháp thanh tịnh, nên được chánh định, trong định chẳng chịu ta thụ vì chỉ là pháp tánh chánh thụ mà thôi.
thần chú biến thực chân ngôn
Nam mô tát phạ đác tha nga đa, phạ lồ chỉ đế. An, tam bạt ra tam bạt ra hồng.
đọc chú đây nó biến hoá ra phám vị khi đọc chú quán tưởng .
Ngài A Nan đà nhập định trong rừng, đêm khuya, có một quỷ tên là Diệm khẩu hiện hình đến chỉ bảo cho phương pháp kéo dài tuổi sống thêm, nhân đó A Nan Đà liền cần cầu nơi Phật.
Phật dạy rằng: Ta tự nhớ lại thuở đời quá khứ, ta làm một người dòng bà la môn, đối trước đức Quán Thế Âm Bồ tát, truyền trao cho phương pháp đà la ni của Phật vô lượng uy đức tự tại quang minh Như lai; tụng Đà la ni đó nó hay biến môt món ăn mà hoá ra làm vô lượng món ăn lớn bằng núi Tu di, lượng đồng cõi pháp giới, trọn không thể hết.
Thần chú đây nó cũng đồng nghĩa mà khác lời với chú biến thực trong nghi Diệm khẩu khoa. Khi tụng chú đây, tay tả bưng món ăn đưa lên, tay hữu ngoán cái bấm với ngón vô danh, ngón út co lại, ngón thực và ngón giữa duỗi ngay ra để lên đồ đựng vật ăn, tưởng các vật ăn, mỗi hột biến hoá ra thành bảy hột, bảy hột lại biến thành bảy hột nữa, mà làm thành đầy bảy hột, bảy lần bảy, lại biến hoá ra làm thành bốn mươi chín hột, như thế lần lựa biến hoá mãi nhiều hột thực đầy lấp cõi hư không, ngon ngọt thơm phức, thân vật không ngần ngại nhau.
Kinh Thí Ngạ Quỹ nói: Tụng một bảy biến (tượng trưng bảy Thánh tài, hoặc có thể tụng ba lần bảy biến, hoặc bốn mươi chín biến, hoặc một trăm lẻ tám biến, càng nhiều càng hay), thì cả thảy ngạ quỷ đều đặng đồ ăn số bảy lần hột như hột của nước Ma dà đà thường dùng ăn rồi đều được siêu sanh lên các cõi trời, hoặc vãng sanh về Tịnh độ, năng khiến hành giả tiêu trừ nghiệp chướng mạng thêm sống lâu.
Thần chú cam lộ thuỷ chân ngôn
Nam mô Tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha Án tô rô tô rô bát ra tô rô bát ra tô rô ta bà ha.
Khi tụng chú đây, quán tưởng cúng nước biến thành pháp thuỷ cam lộ, rộng lớn như biển, cùng vật không ngắn, thâm đến nước đây, thưởng được thanh tịnh diệu lạc !
Đây là pháp thí cam lộ của đức Phật Diệu Sắc thân Như lai.
Khi tụng chú này phải quán tưởng giữa cái vầng tròn tâm nguyệt thành một chữ Tông giữa điểm sáng chảy ra tánh nước bát nhã cam lộ, khắp đầy pháp giới thấm nhuần tât cả chúng sanh nơi các nghiệp đạo, chóng lìa phiền não mà đặng thanh tịnh.
Kinh Thí Ngạ quỷ nói : “Tụng chú bảy biến, hay khiến các món ẩm thực và nước đều biến thành màu sữa cam lộ, hay mở rộng cuống họng của tất cả ngạ quỷ, mà được cùng ăn với nhau một cách bình đẳng.
Hỏi: Vật ăn và nước đều khắp thế giới thì Phật và chúng sanh để thân đứng ngồi và ở chỗ nào?
Đáp: Kinh Lăng Nghiêm nói : “Cái tánh của vật sắc là chân không, cái tánh hư không là chân sắc” Kinh ấy lại nói: “tánh của nước là chân không, tánh của không chân thuỷ, thanh tịnh sẵn sàng, khắp giáp pháp giới tuỳ tâm chúng sanh họp lượng chỗ biết theo nghiệp ấy dấy bày.”
Nay hành giả quán trí đều thanh tịnh khắp giáp thì nước và đồ ăn cũng đâu chẳng khắp giáp. Số là, do vì tâm trống vắng thì sỡ hữu nước, vật thực đâu chẳng trống vắng, vì không tức là sắc, mà sắc tức là không, vậy hư không vật sắc chẳng hai, nên đặng sắc sắc lẫn khắp trần trần không ngăn, như thế với pháp vị nhiệm mầu khó nghĩ lường !
Thần chú Nhất tự thuỷ luân
Án tông tông tông tông.
Khi tụng thần chú đây, quán tưởng nước ấy lại đặng thanh tịnh diệu vị.
Kinh Thí Ngạ quỷ chép rằng: “với cái pháp ấn và thần chú “nhất tự tâmthuỷ lauan quán chân ngôn” của đức Tỳ Lô Cha Na là: ở nơi trung tâm tay hữu (thủ ấn) như màu sữa, biến hoá ra nước có tám chất công đức, (bát công đức thuỷ), chảy ra tất cả vị cam lộ, đề hồ, liền đưa tay đến trong những món đồ đựng thức ăn uống, quán tưởng sữa và các thức ăn kia từ trong chữ “tông” chảy ra, dường như mặt nhật mặt nguyệt tất cả qủy chúng đều được no đủ không thiếu một vật chi.
Thần chú Nhủ hải chân ngôn
Nam mô Tam mãn đa một đà nẫm án tông.
Khi tụng chú đây quán tưởng nước trước lại được rộng lớn hoà suốt dường như màu sữa nhiệm mầu khó nghĩ !
Xét, Kinh Thí Ngạ quỷ, thì thần chú Nhất tự thuỷ luân cũng là nghĩa biến thành biển sữa, thần chú đây chẳng qua là lại khiến biển sữa kia thêm rộng lớn hoà suốt vậy thôi.
Căn cứ lời bổ chú của Tổ Vân Thê nói: “Từ trước đến đây đọc và quán tưởng các thần chú, biến hoá mỗi mỗi ẩm thực thắng diệu mà chưa từng quán tưởng cho hoà lẫn thành một vị e chẳng đồng đều lòng từ tế, nên phải lại niệm thêm thần chú đây để hoà lẫn các món ẩm thực kia đều thành biển sữa đặng phổ thí chúng qủy thần thân tâm no khẳm thụ dụng không thiếu”.
Hỏi: Món ăn là chỉ chuyên nuôi thân, chứ làm gì lại khiến tâm no?
Đáp: Đây là pháp thực vậy, vì với thực vị thì khá nuôi thân còn với pháp vị có tể minh tâm: nay đây, dùng cái tâm quán tưởng, tri cái pháp bí mật để biến hoá ra thức ăn thanh tịnh, tức thành nghĩa thiên duyệt pháp hỉ.
Khi tụng chú đây, nên tưởng chữ Tông giữa điểm sáng chảy ra vị cam lộ, tay hữu chấm nước dùng búng lên hư không, như mưa tưới xuống liền thành ra vị ngon Tô lạc, rộng như sông dòng dài.
Hỏi: Với chút ăn chút nước, làm sao có thể khắp pháp giới?
Đáp: một là pháp lực của thần chú, hai năng lực của qúan tưởng, và ba cảm thông đến uy lực từ quang phổ chiếu của Tam bảo, cả ba lực ấy viên dung, chẳng thể nghĩ bàn, nên mới có thể biến hoá ít ra làm nhiều được như thế đó. Vả lại như ông Loan Ba, dùng một chung rượu làm phép thuật còn có thể hoá nên một trận mưa thay, huống chi là cái thần lực “Vô sanh khó nghĩ được” của Tam bảo ư ? Ma hành giả (Thầy tụng chủ thí thực) chẳng thể chẳng dụng tâm cho đúng hành trì ! (đời nhà Hán ông Loan Ba làm chức Thượng thư lang, nhân ngày sanh của Vua, thiết lễ khánh đản, giữa bữa tiệc, nhà vua ban cho rượu, Loan Ba ngậm rượu hướng mặt về đất Ba thục mà phun ra, quan Hữu tư tâu với vua rằng: ông Loan Ba bất kính ! Loan Ba tâu rằng: Xứ Thành đô bị hoả hoạn, nên phún rượu để chữa lửa. sau nghe Thành đô tâu lên rằng: bị thất hoả, được nhờ có luồn mưa tắt cháy, trong đám mưa có hơi rượu)
Lục Tông cách nói: Có cái lực đại nguyện đại trí, và cái lực pháp tánh tự thể không vô tánh, nên với tất cả chỗ ra làm, vẫn tự nhiên xong nên.
Vả chăng, do cái tâm vọng chấp làm cuộc ngại nên không thể biến hoá cảm thông được, dẫu có đặng biến thông chăng nữa cũng chưa rộng lớn mấy. Nếu tâm không vọng chấp, thì muôn pháp dung thông, thế, chẳng lìa cái cảnh “Khất chân” mà biến hoá vô cùng!
Sách Lược giải cho rằng: Nước thí thực đây, chẳng đồng vòi cam lộ trước kia, đó là quá ư cuộc chấp ! chứ biết đâu, thần chú đây lại dung hoà với lẽ mầu nhiệm của thần chú biến thuỷ biến thực trước kia !
Tưởng chúng quy nghe danh Phật đặng lợi ích
Nam mô Đa Bảo Như lai
Nghe đến danh của đức Phật Đa Bảo thì có thể đắc trí huệ tài bửu của pháp tánh, mà thụ dụng không hết, vì là của sẵn trong tự tánh.
Nam mô Bảo Thắng Như lai
Nghe danh của đức Phật Bảo thắng hay dứt được lửa nghiệp phiền não sanh tử, liền đắc cái trí bửu pháp tánh bực vô thượng.
Nam mô Diệu sắc thân Như Lai.
Nghe danh của đức Phật Diệu sắc thân hay đặng cái thân tướng hảo đoan nghiêm bực nhứt giữa tam giới, tức kinh Pháp Hoa bảo vi diệu tịnh pháp thân cụ túc tam thập nhị thật thế.
Nam mô Quảng Bác thân Như lai
Nghe được danh của đức Phật Quảng Bác thân, thì nặng tiêu được lửa nghiệp, cuống họng mở thông, mà đặng cái thân thanh hương vô ngại.
Nam mô Ly Bố uý Như Lai
Nghe được danh đức của Phật Ly Bố uý thì xa lìa các điều sợ sệt, thường đắc mọi sự khoái lạc thanh tịnh.
Nam mô Cam lộ vương Như lai
Nghe được danh đức của Phật Cam Lộ Vương, thì năng đắc mùi vị cam lộ rót vào thâm tâm hằng được khoái lạc luôn.
Nam mô A Di Đà Như Lai.
được nghe đến danh hiệu của A Di Đà Phật thì được đắc sanh sang thế giới cực lạc và tịnh độ do liên hoa hoá sanh vào bực bất thối chuyển.
Khi tụng danh của bảy đức Như lai đây phải tưởng những tiếng tâm niệm Phật khắp nghe cả thế giới, tất cả chúng sanh đều quỳ gối chấp tay chí tâm lòng nghe tin chịu, một phen lọt vào lỗ tai, vẫn làm hột giống Phật, liền có thể xa vĩnh viễn xa lìa các khổ sanh tử của ba ác đạo, đắc vãng sanh về nước cực lạc do trong hoa sen hoá sanh.
Kinh Niết bàn nói “Nghe được hai chữ “thường trú” vẫn chẳng đoạ địa ngục”. Huống chi được nghe cả Hồng danh vạn đức của Như lai ư?
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Rất đỗi như người nghe danh của Như lai và nghe được cái pháp sở thuyết mà chẳng sanh tâm tin hiểu đó, cũng còn được tập thành hột giống Phật, thì sẽ thành Phật. nay mà nghe được danh của đức Phật đều được vô lượng công đức chẳng thể nghĩ bàn !
Xâu kết chú trên để nguyện chánh thí thực
Thần chú gia trì tịnh pháp thực (pháp thí thực, cam lộ thuỷ), khắp thí hà sa chúng Phật tử, (hữu tình, cô hồn), nguyện đều no khẳm bỏ kít tham, chóng thoát U minh về tịnh độ quy y tam bảo dấy bồ đề, ráo rốt đặng thành đạo vô thượng, công đức không ngằn tột đời sau, tất cả Phật tử (hữu tình, cô hồn), đồng pháp thức.
Thần chú: Chỉ cả các thần chú “Biến thực biến thuỷ trên kia. Câu đầu bổn xưa đọc ba lần đều chỉ xưng là “Tịnh pháp thực” mà thôi, còn các bổn ngày nay; đều phân ra là “Pháp thí thực và cam lộ thuỷ” đó cho đối với “Hữu tình, cô hồn”, hai không phải thục bổn chánh Mông Sơn ! Như thế chưa bằng cả ba lần đọc đều chỉ đọc là “Tịnh Pháp thực” thì suốt một lẽ phải hơn.
Bồ đề cựu dịch: “Đạo” tân dịch “Giác”
Ngươi thảy chúng (Phật tử, hữu tình, cô hồn) ta nay cúng thí ngươi cơm đây khắp mười phương, chung tất cả (Phật tử, hữu tình, cô hồn), xin đem công đức đây, khắp cùng với tất cả thí thực cho (Phật tử, hữu tình, cô hồn) đều cùng thành Phật đạo.
Hai bài nguyện kệ đây: Kệ trước là mở ra sự thí thực, kệ sau là nguyện cầu Phật đạo.
Khi tụng Kệ, phải tưởng: Tất cả Quỷ thần đồng thụ thực với nhau bằng một cách bình đẳng, thì liền được sanh sang Tịnh độ. bấy giờ Hành giả bưng nước và đồ ăn để lên đài xuất sanh, nếu chẳng có đài thì để chỗ đất sạch, hoặc để lên viên đá sạch, chẳng nên để chỗ có cây thạch lựu, cây đào, vì quỷ nó sợ hãi mà chẳng đặng ăn được !
Với cái đài xuất thực mà phân ra làm ba phần đó là do vì bôi phận làm ba chúng; 1. Phật tử; 2. Hữu tình; 3.Cô hồn, song, làm như thế, chưa khỏi cái bịnh thành kiến cuộc chấp do cớ sao? Số là cái diệu lực thần chú biến thuỷ, biến thuỷ rộnglớn không ngằn, chẳng khá nghĩ bàn, khiến chúng quỷ kia bình đẳng thụ thực, thế thì chẳng phần làm ba là thoả hơn, Bổn Diệm khẩu khoa nghi có phân: 1. là thì chúng thuỷ tộc, khiến đặng cái “Nhân không” 2. là thí cho chúng Mao quận, khiến đặng pháp không.; 3. Là thì cho chúng Bẩm thức, tượng hình ở tha phương, thảy đều no đủ đặng “quả vô sanh nhẫn” đó là dùng nghĩa rằng: Tuy theo căn cơ khiến đặng ba không nên ra như thế. Đúng ra, thì há thuỷ tộc riêng đắc “nhân không” mà chẳng đắc “nhân không”? Còn chúng có bẩm thức từng hình ở địa phương, lại độc đắc “vô sanh nhẫn” mà bất đắc nhất không và pháp không ru?
Tại, thời ngọ trai có xuất thực đó, là chuyên vì: đại bằng khoáng dã quỷ, và quỷ tử mẫu, thì với đài xuất thực nên phân làm ba, vì xưa, Phật đã có chỗ hứa, chứ phi về ý chỉ của ngày nay
Thần chú thí vô cha thực chân ngôn
Án mục lực lăng ta bà ha
Khi tụng thần chú đây quán tưởng: đạo tràng lẫn suốt với pháp thực kẻ oán kẻ thân, người xa người gần, đều không ngăn cản nhau, sáu đạo quỷ thần đều đặng bình đẳng.
Thần chú đây, đồng nghĩa nhau với thần chú thí thực của Diệm khẩu.
Số là từ trước đến đây, nào là làm phép: Tụng chú, kiết ấn, vận tâm quán tưởng, dù là bình đẳng khắp thí, nhưng mà hoặc kẻ quói khinh kẻ tiệm, người mạnh lướt người yếu, lớp lớn ngăn lớp nhỏ, hoặc hành giả quán tưởng chẳng đúng như pháp hoặc quỷ loại bị nghiệp nặng mà chẳng nghe đến được, đến đỗi chẳng thụ hưởng gì đặng ! thế há chẳng vượt mất qua cái ơn từ tế của Phật ư ! nên trái lại phải tuyên dương lời mật chú, để khiến cho kẻ oán người thân từ lịch kiếp nay được bình đẳng.
lại, các vị thiện hữu, thân thích, hoặc vì sự duyên chí mà chẳng thể đi đến được, khiến họ đều đem sự giúp nhau, để dấy đạo tâm, chóng đến quả bồ đề.
Rút lại mà nói: Đàn giới mỗi pháp trần lẫn khắp, việc cúng mỗi sắc tướng đều chân tột pháp giới đều là diệu viên khắp hư không đồng là pháp tánh thì đâu còn có những điều lạ lùng: oán, thân, xa gần !?
Thần chú Phổ cúng dường chân ngôn
Án nga nga nẵng tam bà phạ phạt nhật ra hộc
Khi tụng chú đây, quán tưởng từ trước lại về chỗ biến môn tịnh thực, khắp thí chúng sanh trong lục đạo mười phương, kẻ xa gần đồng một thể, bực cao thấp đều bình đẳng, người già trẻ đứng sang hèn, không phân sót, hạng mạnh yếu bón oán thân chẳng phân cách.
Kinh Tịnh Danh nói “ Hội pháp thí ấy là không hề phân cách trước sau, đồng nhứt thời cúng dường tất cả chúng sanh”.
Niệm thêm chú tâm kinh đó là muốn tỏ bày ra cái công thí thực hoà lẫn vào nơi biển Bát nhã vô tận tạng. chỉn bởi Tâm Kinh là tinh yếu của Bát nhã. Bát nhã tức là trí huệ nếu không có trí huệ thì làm gì có thể liền sạch lòng cho được ! e chúng kia chấp trước nơi công đức pháp ái làm thực sự nên dùng bát nhã tâm kinh để rửa sạch bụi lòng, hoà lẫn vào biển Như lai tạng.
lại niệm chú Vãng sanh đó là để mong nhờ Phật A Di Đà và các Thánh Chúng phóng quang tiếp dẫn mau chứng bực thánh nơi cực lạc quốc.
Khắp kết hồi hướng
Thần chú Phổ hồi hướng chân ngôn:
Án ta ma ra ta ma ra di ma nẳng táp cáp ra, ma ha thính cáp ra hồng.
từ trước lại đây, đem công đức thí thực hồi hướng cho tất cả chúng hữu tình, ngõ hầu đều phát cái tu tâm chứng lên quả vị vô thượng bồ đề để làm việc tự lợi và lợi tha đặng sớm sanh về nước cực lạc, đồng chứng bực Phật thừa.
Lại, đối với chúng hữu tình nào không có thiện căn, thì khiến trồng căn lành; chúng đã có thiện căn, thì khiến làm cho tăng trưởng căn lành. hầu chớ quyến luyến nơi luân hồi, mà đều mau thành Phật đạo.
Nguyện ngày cát tường, đêm cát tường.
Ngày đêm sáu giờ thường cát tường,
Tất cả trong giờ người cát tưởng
Xin các:
Bực Thượng Sư thương nhận cho
Ngôi Tam Bảo thường nhận cho
Vị Hộ pháp thường ủng hộ.
Bài kệ đây là nguyện dâng công đức thí thực, để mong các ngôi Tam bảo và các thần Hộ pháp thường xuống cho cái điềm lành vậy.
Sáu giờ: đã thấy ở kinh Di Đà. Thượng Sư: tức là ngôi nhất thể Tam bảo, đã thấy nơi văn sám hối. ngoài ra, còn có ngôi Biệt tướng Tam bảo, ngôi thế gian Trú trì Tam Bảo,
Hộ pháp: tức là các vị thần: Thiên long cả bát bộ và hộ giáo già lam.
Bốn sanh lên nơi đất báu
Ba hữu gá sanh ao sen
Đông nhiều Ngạ quỷ chứng tam hiền
Muôn loại hữu tình lên thập địa.
Đấy là gom kết công đức thí thực để phổ nguyện cho tất cả quần sanh, liền sanh về tịnh độ đồng chứng lên quả thánh. Bốn sanh, Ngạ quỷ, Hữu tình là thân chánh báo giữa thế gian; Tam hữu là cõi y báo của thế gian. Đất báu, ao sen là cõi y báo của nước Cực lạc, Tam hiền, Thập địa là ngôi Thánh ở nước Cực lạc, tức là thân chánh báo bên Cực lạc.
Bốn sanh: tức là noãn sanh, thai sanh, thấp sanh hoá sanh gôm cả chúng sanh ở ba giới duy chỉ tứ sanh đây mà thôi.
Ba hữu: tức là ba giới, do vì chúng sanh trong ba giới đều mến chấp lấy sanh tử thì có báo ứng về thiện ác nhân quả, nên nói ba hữu.
Ngạ quỷ: đây là cử về chúng bị nghiệp chướng thâm trọng mà nói là ngạ quỷ chứ thiệt ra thì phàm là trời đất, tất cả thần kỳ và các chúng ly muội vân vân, đâu chẳng thuộc về quỷ đây thống nhiếp.
Lục đạo: sáu ngã, chúng sanh trong sáu đường, đều có cái tình niệm, do nơi tình niệm, nên chấp trước cả sáu trần, bởi thế, chẳng dứt đặng sanh tử nên nói là hữu tình.
Nay các vị Tinh Linh đây, nương công đức thí thực, chúng siêu về Cực lạc quốc, liền lên địa vị thánh nhân.
Đất báu: là hoàng kim vi địa. Ao sen: là hữu thất bảo trì, đều đã có rõ chép ở Kinh Di Đà.
Tam Hiền bên Biệt giáo, chưa phá được vô minh hoặc, nên xưng là Hiền, còn thập địa đã phá được từ phần vô minh, chứng được Phật tánh trung đạo, nên xưng là Thánh.
Tam hiền bên Viên giáo, đều phá được từ phần vô minh, mà xưng là Hiền, còn thập địa Viên giáo đã phá được nhiều phần vô minh, tiến sâu vào pháp tánh mà xưng là Thánh.
Song, từ phá được từ phần vô minh nhẫn đi, đều là thân chứng pháp tánh, là bực thâm vị đại Bồ tát.
Nay với Cực lạc tịnh độ đâ, có thể khiến nhứt thời đối nghiệp vãng sanh, lại có thể chóng siêu lên Tam hiền, thập Thánh há dễ ru ? đây toàn là nương nơi Kinh chú pháp hiển mật, gia dĩ pháp viên quán, cảm lấy đức từ của Phật nên mới có thể mau chứng như thế đó!
Ba giới sáu đạo chỉ có bốn sanh
Bài kệ
Thiện cập ngục trung hữu;
Thị tam duy hoá sanh;
Tu la nhân tinh súc;
Các các cụ tứ sanh;
Quỷ thông thai hoá nhị
Danh tam giới tứ sanh.
Đại ý rằng: chúng sanh ở: Trời, địa ngục, và thân trung hữu, ba chỗ này chỉ là sanh nở bằng một cách hoá sanh. Chúng sanh ở A tu la, loài người và súc loại, mỗi mỗi đủ bốn cách sanh. Loài quỷ thông đồng hai cách thai sanh và hoá sanh, cả đấy là ba giới bốn sanh.
Loài mà nương nơi xác võ để sanh, thì gọi là Noãn sanh: loài mà hàm tàng trong bụng sanh ra thì gọi là thai sanh; loài mà mượn nơi chỗ ẩm ướt để sanh thì gọi là thấp sanh, còn loài do nơi không mà bỗng có sanh ra thì gọi là hoá sanh.
lại, kinh Lăng Nghiêm nói: loài thai sanh là nhân nơi tình mà có: noãn sanh là nhân nơi tưởng mà sanh: thấp sanh là do nơi hiệp mà ứng hiện; hoá sanh là do nơi lìa mà cảm thông. Ba giới sáu đạo chỉ có bốn cách sanh đó là thâu hết cả.
Tướng ban sơ của bốn sanh
bốn sanh đủ duyên mới sanh
Giữa thai sanh thân trung âm đối với
Giải bài kệ dấy khen niệm Phật
Bài kệ đây rút ra ở sách Tịnh độ tu chứng nghĩ, tác giả là ngài Trạch Anh Pháp sư, Pháp sư nguyên con nhà họ Du, ở sông đồng, huyện Đồng lô, phủ Nghiêm châu, tỉnh triết gian. Thân mẫu Ngài nằm mộng thấy hai mặt nhật dọi ngay vào bụng, sau hai năm, sanh hai con trai lớn lên đều đi xuất gia cả, người lớn tên là Tử Khâm, theo thụ nghiệp nơi chùa Tịnh trú, huyện Tiến đàng, tỉnh Triết giang, thứ nam tức là Ngài Trách Anh vậy. Vào học đạo nơi chùa Thụ Minh, phủ Hàng Châu, tỉnh Triết giang. Triều vua Thần Tông, trong niên hiệu Hy Ninh (1068-1077) nhà Tống, Ngài tham cứu lẽ thần ngộ nơi lầu thí thuỷ bửu các, ngộ sâu được đạo lý của pháp Chỉ quán.
Song cõi kia cõi đây, hai Phật lớn nhỏ sai khác nhau có như thế chăng? Chỉn bởi, cõi kia là Tịnh độ, mà chúng sanh thì thân lượng rộng lớn. Còn cõi kia là Uế độ, nên thân lượng của chúng bé nhỏ chẳng đầy một trượng. do đấy, Phật hiện Ứng thân chỉ có một trượng sáu thước.
Nếu cõi đây, bực Đại Bồ tát chỗ thấy báo thân của Phật cũng đầy khắp cả cõi hư không. Song thế cũng không nhứt định có cái thân lớn bên nước Cực lạc mà đây là rõ cái thân lượng của đức Di Đà là đặc thắng vậy thôi.
Hào quang hoá Phật không kể ức,
Hoá Bồ tát chúng cũng không ngằn.
Đây là khen số hoá thân Phật rất nhiều của Di Đà.
Trong hào quang có hoá Phật, hoá Bồ tát ấy, Quán kinh nói: “Phật kia hào quang vòng tròn rộng bằng như trăm ức đại thiên thế giới, trong ánh viên quang có trăm muôn ức na do tha hằng hà sa số hoá Phật, mỗi mỗi đức hoá Phật cũng có đông nhiều vô số hoá Bồ tát để làm thị giả.
Số là viên quang là hào quang nơi báo thân của Di đà trong hào quang đức Hoá Phật là chủ, Hoá Bồ tát là bạn. Nghĩa là một hoá Phật làm chủ thì ắt có hai hoá Bồ tát làm bạn. chủ đều là Di Đà bạn đều là Quan âm, Thế Chí.
Song, Viên quang đây khắp chiếu pháp giới, mà hoá chủ hoá bạn cũng khắp pháp giới, chủ lẫn với bạn, bạn lẫn với chủ, Báo thân Phật là chủ giữa chủ, báo thân Bồ tát là bạn giữa bạn. chủ bạn lẫn khắp, số một không ngại với số nhiều.
Tỷ như lưới ngọc xanh của Đế Thích: ánh tia chiếu lẫn với nhau trùng trùng vô tận. Người mà tu pháp quán đây, mời xem Kinh Thập Lục quán.
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm đều khiến lên ngàn kia.
Câu trên là tán dương chỗ nhân địa của Phật kia phát nguyện. Câu dưới là khen ngợi việc độ sanh trong thời chứng quả Di Đà.
Kinh Đại Di Đà chép: Trước vô lượng vô số kiếp có đức Thế Tự Tại Vương Phật ra đời hoá độ chúng sanh. Bấy giờ có vị Đại Quốc vương đến nghe thuyết pháp, bỗng liền giác ngộ, bèn buông xả ngôi vua mà xuất gia làm Tỳ kheo, hiệu là Pháp Tạng. Liền đối trước Phật pháp bốn mươi tám nguyện lớn. Thuở ấy quả đại địa rung động, trên thiên không mưa hoa báu xuống, và có tiếng khen rằng: “Quyết định thành Phật”.
Do đó từ vô lượng kiếp đã hành Bồ tát đạo, công đức tròn đủ, thành Phật hiệu là A Di Đà, cõi nước tên là Cực lạc. trong nước có ao bằng thấ bửu, nước ao có tám chất công đức đầy dẫy ở trong. Trong ao có hoa sen nhiều đến vô lượng phẩm, ở đây nói chỉ có chín phẩm đó, là cử tông số vậy. Thâu nạp hoá sanh cho chúng sanh niệm Phật ở mười phương về đó, tuỳ căn cơ mà lên nơi chín phẩm.
Ngàn kia là dụ, nghĩa là cõi Ta bà là bờ bên đây, cõi Cực lạc là bờ bên kia, phiền não giòng chính giữa. Nếu hay niệm Phật không luận là bực trí, hạng ngu, chỉ niệm mà đắc nhứt tâm bất loạn, thì qua khỏi giữa giòng phiền não, siêu khỏi cái thân sanh tử của ta bà, bước lên đài hoa sen Cực lạc chứng quả vô thượng Bồ đề nên nói “Cửu phẩm hàm linh đăng v.v…..”
Nam mô Tây Phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Từ trước đến đây, với bao công đức đã tu giờ đây phải niệm Phật Di Đà để cầu thực chứng.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Quán Thế Âm: Cũng tên là Quán tự tại: “Quán” là cái trí năng quán, năng và sở viên dung, có không gồm sướng, chiếu tột chánh tánh, xét thấu gốc ngọn, nên xưng là “quán”.
“Thế Âm” là cảnh sở quán, muôn hình tượng lưu động, cách biệt nhau chẳng đồng, tiếng của các loài kêu cứu khác giọng, đều nhờ đức hoằng từ, đồng thời phổ cứu nên nói là “Thế Âm”.
Ngài Trần Huyền Tảng nói: “Quán có chẳng trụ nơi có, quán không chẳng trụ nơi không, nghe danh chẳng lầm nơi danh, thấy tướng chẳng chấp nơi tướng, tâm chẳng lay động, cảnh chẳng hay tuỳ, động tuỳ chẳng loạn nơi chân, thế khá gọi rằng trí huệ vô ngại vậy Bồ tát cái vô ngại trí để tầm thinh cứu khổ, chẳng mất thời giờ”.
Thế nên xưa nay những kẻ được sự linh nghiệm chẳng thể mỗi mỗi riêng kể ra cho hết đặng đây chỉ sao lục lại một vài tích để khai thị ra:
Đời nhà Nguỵ, có Sư Đạo Thới nằm mộng thấy có người bảo rằng: “Ngươi năm nay 42 tuổi sẽ thọ chung”. Năm đó, ông bị bịnh nặng lắm, ông bèn niệm danh đức Quán Thế Âm luôn bốn ngày bốn đêm, lòng tinh thành chẳng thôi, bấy giờ ông ngồi trong mùng, thấy có hào quang chiếu sáng cả nhà, trong ánh sáng có đức Quán thế Âm màu vàng rỡ soi giây phút chẳng thấy nữa, ông Thới vừa bi vừa hỷ, tuôn mồ hôi, liền biết thân thể nhẹ khoẻ, lành bịnh, thêm sống lâu !
Đời nhà Tống, có ông Trương Hưng, người đất Tân Hưng người vẫn tin Phật, một hôm bị bọn cướp bắt dẫn đi, người may đặng trốn khỏi; người vợ bị quan địa phương bắt giam, bị tra tấn nhiều ngày, bữa nọ nhà huyện bị hoả hoạn, đem tù nhân ra ở bên đường, gặp một nhà Sư tên là Dung Dực đi qua, vợ Trương cầu cứu ! Nhà Sư dạy niệm đức Quán Thế Âm, vợ Trương bèn chuyên ròng niệm chừng mười ngày, ban đêm nằm mộng thấy thầy Sa Môn kêu: mau mau! Thức dậy ! Vợ Trương giựt cả mình dậy, thì thấy còng xiềng gông cùm đều bung mở ra cả, mà ngõ còn đóng, người e quân canh biết, nên mang gông trở lại năm ngủ. vẫn chiêm bao lại nữa, thấy Sa môn nói: Ngõ đã mở rồi kia. Vợ Trương thức giấc rồi chạy ra, trời còn tối, gặp chồng cùng với Sư Dung Dực giấu đi, kể được thoát khỏi.
đời nhà Tống, vua Văn Đế sai quan Ngự Thiện (người nấu ăn cho vua) mổ con gà, nghe trong đảnh có tiếng cả bày kêu tên đức Quán Thế Âm Bồ tát, mà giọng rất thảm thương ! Nhân đó vua bèn cấm không cho làm thịt gà nữa.
Đời nhà Thanh ở huyện thường thục, phủ Tô Châu tỉnh Giang Tô, có ba Sương Phụ, họ Trương, người rất cùng khổ, lòng chí thành thờ Đức Quán Thế Âm niệm Phật, lạy Phật không ngớt, sau bị bịnh hạ lợi, thường chỉ có một cái quần rách che thân, chớ chẳng có cái nào nữa để thay đổi, nên ô uế kế chết, kẻ đem liệm cái quần bỏ dưới sông, người ta chợt thấy hoa sen năm màu rực rỡ trên mặt nước, người bên xóm thấy thế lấy cái quần giặt sạch làm bức trướng. Đến niên hiệu Gia Khanh (1786-17819) vua Khân Tôn nhà Thanh bức trướng ấy hỡi còn.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát.
Kinh Tư ích chép rằng: “hễ cái chón bước đến chỗ nào đó, là rúng động ba ngàn cả ngàn thế giới và cung điện của Thiên Ma vương, nên gọi là Đại Thế Chí”.
Quán Kinh nói: “Dùng ánh trí khắp soi tất cả chúng sanh, khiến lìa tam đồ, đắc thế lực vô thượng. thế nên gọi Bồ tát đây tên là Đại thế chí,
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ tát
Do cái niệm Phật thanh tịnh cảm được hoa sen hoá sanh, nên nói rằng “Thanh tịnh”. những đấng cả ba thừa sanh lên chín phẩm các Thánh hiền này nhiều đến vô lượng gọi là “Đại hải chúng”.
Kinh Đại Bổn chép rằng: “Với các hàng Thanh văn, Bồ tát số ấy khó lường, chẳng thể cân, nói cho hết được ! Vị nào cũng là bực thần trí rỗng thông, uy lực tự tại, có thể với trong một bàn tay, mà cầm tất cả thế giới. Phật kia hội ban đầu thuyết pháp, chúng Thanh Văn rất đông, không thể cân kể, chúng Bồ tát cũng thế”.
Kinh Tiểu Bổn nói: “Đức Phật kia có đệ tử hàng Thanh văn nhiều đến vô lượng vô biên mà đều là quả vị A la hán, với số ấy, không thể tính kể mà biết được đâu”. Thế nên xưng là “Đại hải chúng”.
Hỏi: Chúng kia sao mà nhiều lắm thế?
Đáp: Chúng ở bên cõi kia đã vốn xưng là vô lượng, huống nữa các Bồ tát từ mười phương vãng sanh về nước kia lại còn nhiều như luồng mưa điểm điểm xuống. Nên kinh Đại Bổn nói: “Ở nơi nước Ta bà đây có các Bồ tát bực bất thối, nhiều đến số sáu mươi bảy ức được vãng sanh về nước kia. Mỗi mỗi Bồ tát đã từng cúng dường vô số chư Phật. Bực thứ như ông Di Lặc đó, hạng đại hạnh Bồ tát chẳng khá cân kể, đều sẽ được vãng sanh”.
Kinh ấy lại nói: “Mười phương thế giới, vô lượng Phật quốc, những kẻ vãng sanh đó, cũng lại nhiều đến vô số; còn nếu ta nói đến cả danh hiệu của chư Phật ở mười phương, và danh hiệu các Bồ tát, tỳ kheo được vãng sanh về nước kia, thì suốt ngày đêm luôn một kiếp đi nữa, nói cũng không hết”.
Văn Hồi hướng và Tam quy y để làm phổ kiết hồi hướng.
Hồi hướng: Cũng như phát nguyện vâỵ. bởi vì: hạnh mà không nguyện, thì chí hướng chẳng nhứt định, như người ra đi mà không nhứt nguyện, thì giữa đường gặp chuyện chi đó lại đi qua ngã khác. Với nguyện hải đã thâm thì hạnh đầy đạo nên hễ tu hành thì thảy đều phải hồi hướng.
Hồi hướng có bốn nghĩa:
Hồi nhân hướng quả: Nghĩa là tu các hạnh là “nhân”, đều hay thành Phật là “quả”. Nay tu nhân tịnh độ, hồi hướng về quả Cực lạc thực vậy.
Hồi tiểu hướng đại: Nghĩa là các học giả bên Tiểu thừa, và kẻ tu thập thiện về nhân thiện thừa, đều nên hồi hướng về Đại thừa. nay đây ngay nơi chỗ ra làm việc thiện, đều hồi hướng về đài sen thượng phẩm thực thế.
Hồi tự hướng tha: Nghĩa là ta nay phát tâm, chẳng vì mong cầu cho mình, nhẫn đến làm được điều thiện nhỏ nhứt bàng sợi tơ mảy lông, cũng đều hồi hướng thí cho pháp giới chúng sanh, khiến được liền khai Phật huệ, rộng độ chúng sanh thực vậy.
Hồi sự hướng lý: Nghĩa là tu các việc : lạy Phật, tụng Kinh, tham thiền, học nghĩa bố thí làm phúc, thay chúng làm việc nhẫn đến gánh nước bửa củi quét đất, lau bàn, cả các việc lành bằng mảy mún; với những điều thiện lợi trên, nếu trước tướng thì đều thuộc về sự tướng, còn như biết năng niệm năng tác, tự tánh đã không, sở niệm sở tác, tánh nó cũng không, cái “không” nó chẳng có bờ mé, toàn tức là lý, thì sự sự đều khắp pháp giới, tâm tâm tròn học thái hư, quán và niệm được như thế, thì đều thuọc về lý tánh. Chính là chỗ mà xưa kia đã bảo rằng: điều thiện về sự hữu tướng, lẫn thành điều thiện về lý vô tướng, sự lý viên dung, tức là cái cảnh tam đế; năng niệm năng tác, tức là cái tâm tâm quán, tâm cảnh nhứt như là chân tịnh độ.
Ngó nhân việc tác dụng hằng ngày nào động nào tịnh, đều phải làm quán sát như thế đó, thì chính chỗ mình đương ở đã thành ngay tự tâm Tịnh độ rồi !
Vả, người mà muốn liểu thoát đường sanh tử, thì chỉ có tu pháp Tịnh độ là rất ổn thoả rất dễ dàng hơn hết, vì pháp ấy là loại phương tiện trong đã phương tiện, lại đường tắc trong đã đường tắt vậy.
Song, ắt phải đủ ba món tư lương mới đặng thành tựu. Tỷ như cái đảnh có ba chân, nếu thiếu một thì chẳng thể đứng vững:
1. là tin, tin mình: thì chỉ nhớ Phật niệm Phật, chẳng kịp hiện nay thì sau này cũng ắt thành Phật, tức nhiều tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ sẵn sàng rõ bày. Tin kia: thì phương tây hản thực có thế giới tên là cực lạc, hẳn thực có Phật hiệu là A Di Đà, chứ chẳng phải bằng cách ngụ ngôn như của Trang Sanh kia, cũng phi có bằng cách như hoạn hoá biến hiện chẳng thực nọ đâu. Nếu người niệm Phật mà hay nhứt tâm chú niệm, đến khi mạng chung, Phật và các Thánh chúng ắt đến tiếp dẫn.
Hai hạnh, có bốn, đều so theo sự lý, để rõ sáu cạn: một trì danh niệm Phật: gìn giữ danh hiệu của Phật mà niệm, niệm một cách chuyên chú không xăn một niệm chi khác, mỗi câu mỗi câu từ trong tâm miệng chảy ra, mỗi tiếng mỗi tiếng từ tai chảy vào, được như vậy tức là đắc sự nhứt tâm. nếu khi đã nhứt tâm, không còn phân biệt năng niệm sở niệm, mà có thể mỗi câu mỗi câu rõ ràng, mỗi tâm mỗi tâm vào vắng lặng, nhẫn đến cái “Không niệm” cũng không còn, được như vậy tức đắc lý nhứt tâm. Hai quán tượng niệm Phật: khi mở mắt, chăm tinh thần quán vào tượng Di Đà, miệng xưng hiệu Phật, tâm không duyên qua cảnh nào khác, không xăn niệm chi khác, được như thế tức là sự nhứt tâm. Khi quán khi chẳng quán, tâm và tượng như một, chẳng dời chẳng động, và quán cảnh khác đều hoà lẫn cảnh Phật: được như vậy, tức là lý nhứt tâm. Ba quán tưởng niệm Phật: nương theo kinh thập lục quán, như ban đầu quán mặt nhật khi sắp lặng về tây, mở mắt quán mặt nhật, dường như cái trống treo, đã đặng rõ rồi, liền nhắm mắt quán, chăm tâm chẳng dời, lãu lãu chẳng dời xê đi đâu, như vậy là tức sự nhứt tâm. bốn thực tướng niệm Phật: với cái chẳng tướng, chăng chẳng là tướng, bèn gọi là thực tướng với trong quán cái tâm không, với ngoài quán Phật không một cái nầy không thì tất cả chi chi cũng không, cái tánh không cũng không, như thế tức gọi là thực tướng. Người mới phát tâm tu quán, thì quán trở lại rằng: niệm Phật đây là ai ? Hoặc từ nơi bốn tánh để xét nghiệm, đều chỉ nơi đương niệm tham cứu, mỗi niệm tinh mật, nhẫn đến với: động, tịnh, chẳng dời, như thế là tức sự nhứt tâm. Từ đó niệm vào nơi vô niệm, ba quán một tâm, không niệm mà niệm, một tâm ba quán, ba một chẳng hai, chẳng hai mà hai, diệu đế viên dung, tức là tự tánh Di Đà duy tâm tịnh độ. Đương thể suốt rỡ, chẳng khá nghĩ bàn, như thế là tức lý nhứt tâm. thế gọi là cái hành tướng cả sự và lý của bốn thứ niệm Phật.
Ba nguyện: chí có chỗ muốn vậy. Cái nguyện nó hay dẫn đường đi là Hành, không nguyện thì cái Hành thối lui vậy. Thế người cầu tịnh quả, phải trước phát nguyện, song với nguyện có chẳng đồng nhau, vì có kẻ nguyện một mình được siêu mà chẳng độ kẻ khác, có kẻ nguyện tự mình đắc vãng sanh rồi trở lại độ chúng; có kẻ nguyện ngay nơi đây vừa độ mình vừa độ người đồng sanh về Cực lạc; nay đây cả các thiên(Bài) đều là nguyện cho mình và nguyện cho người khắp cả đồng đắc Cực lạc tịnh quả.
Bốn thứ niệm Phật, cả sự lý hành tướng, đều thuộc về phàm vị. Nếu luận về chỗ chứng thánh: thì bên Viên giáo, bực thập tín đều thuộc về sự niệm; đến bực sơ trụ nhẫn đi, mới là lý niệm.
Đây, bài kệ phát nguyện hồi hướng của Đại từ Bồ tát:
Mười phương ba đời Phật, A Di Đà thứ nhứt, chín phẩm độ chúng sanh, uy đức không cùng tột.
Ấy là riêng tán thán đức A Di Đà vậy. Công đức của chư Phật thảy đều bình đẳng, mà đây là do đức Di Đà có đại nguyện đối với chúng sanh ở cõi nầy, nên riêng chuyển khen điều tốt đó thôi.
Lại Ngài có công đức riêng nhiều với chúng duyên đời ngũ trược mười phương. Nhẫn đến đứa đồng ấu cũng được biết đến tên Ngài, bởi thế, với cái công tu niệm Phật, cả ba căn đều đặng chỉ trong nhứt sanh xong nên nên nói là đệ nhứt. đem trí phá bày mê trong pháp giới nên uy đức không cùng.
Đem đức từ trùm chúng sanh mười phương nên đức không cực.
Con nay cả quy y, sám hối tội ba nghiệp hễ có các phúc thiện, chăm lòng dùng hồi hướng.
Hai câu trên là nói quy y và sám hối. Hai câu dưới là nói các hạnh hồi hướng. ba nghiệp: tức là thân, khẩu và ý đã tạo ra mười điều ác, nay do quy y Phật, nên đều phải sám hối.
Hễ có các phúc thiện: có riêng nhau là định thiện và tân thiện. như niệm Phật là định thiện; còn như tham thiền lạy Phật tụng kinh bố thí cúng dường, nhẫn đến vì chúng tăng mà giữ gìn, làm việc lao động, thì đều gọi là tán thiện. Định và tán hai thiện đều có thể hồi hướng về tịnh độ. tỷ như trăm sông đều dồn về nơi biển.
Nguyện đồng người niệm Phật, đều theo thời ứng hiện lâm chung cảnh phương tây rõ ràng ở trước mắt.
Hai câu trước là nói: cùng bạn đồng nghiệp niệm Phật được theo giờ cảm ứng hiệu nghiệm. Hai câu sau là nói: đến khi ta lâm chung, được Phật tuỳ cơ mà hiện tướng ra cho ta trông thấy.
Tuỳ thời hiện: là hoặc trong khi ta thiền định được thấy Phật, hoặc trong khi nằm mộng được trong thấy Phật; hoặc mở mắt, hoặc nhắm mắt, đều được trông thấy Phật như ngài Huệ viễn đã ở ba lần thấy nước cực lạc và thánh tướng của đức Di Đà vậy.
Phân minh tại mục tiền: là tâm niệm Phật được tính nhứt, thì cảnh tốt cực lạc tự nhiên đầy đủ trước mắt ta khi sắp cuối cùng.
Thấy nghe đều tinh tiến đồng sanh nước cực lạc thấy Phật hết sanh tử, như Phật độ tất cả.
Hai câu trên nói: khi ta lâm chung có Phật hiện đến tiếp dẫn, nên kẻ thấy người nghe tinh tấn lợi ích: hai câu dưới là nói: khi ta đã giải thoát rồi, đi độ sanh. số là những người niệm Phật, đến khi mạng chung đều tự thấy Phật đến đón rước đó, thì lại bội phần tinh tiến, liền được đồng sanh về nước cực lạc đặng thực thấy chân Phật (lâm chung thấy đó là hoá Phật): tự tâm liền mở trí huệ Phật rồi lại như Phật quảng độ chúng sanh.
Dứt vô biên phiền não tu vô lượng pháp môn, thệ nguyện độ chúng sanh trọn nguyện thành đạo Phật…
Đây là tâm dấy bốn thệ nguyện rộng lớn vậy.
Cõi hư không có hết, tâm nguyện con không cùng.
Đây là kết cái lời nguyện vô cùng tận vậy. Hư không nguyên là vô tận, nay đem cái hư không vô tận, để tỷ cái nguyện ta lại vô cùng vô tận !
Xin dịch luôn “văn tửu tịnh độ”.
Tác giả là Từ Vân Sám chủ Tuân Thúc Pháp Sư đời Tống.
Ngài Tuân Thúc Pháp Sư, tên tự là Tri Bạch, con nhà họ Diệp, huyện Ninh Hải phủ Thai Châu (nay là huyện Lâm hải tỉnh Triết giang) nguyên thân mẫu cầu tự khất nơi đức Quan âm nằm mộng thấy một mỹ nữ lấy viên châu đưa cho nuốt. Đã snah sư đựơc bảy tháng, thường theo xưng niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm, khi vừa lớn lên, qua núi Thiên thai đông dịch, y chỉ nơi ngài Nghĩa Toàn pháp Sư mà xuất gia. Năm lên 20 tuổi qua chùa Đông Thiền thụ giới cụ túc. Qua năm sau tập học luật nơi Ngài Thủ Sơ luật sư. kế vào chùa Quốc Thanh, đối trước tượng đức Phổ Hiền đốt một ngón tay thay vì nén hương để cúng dường, phát lời thệ nguyện truyền bá giáo đạo của Thiên Thai Tông. Rồi đến tham học Ngài Bảo Vân. Từ đây đi các chỗ hoằng Kinh chưa hề xăn nghỉ. Sau qua nước Thiên trúc soạn chép các bổn nghi thức: tịnh độ sám kim quang minh tam muội để tự tu đó, rất có linh nghiệm, Đức hạnh đồn nghe thấu đến triều đình, vua Chân Tôn niên hiệu Càn Hưng năm thứ hai (1.022) nhà vua phong hiệu là Từ Vân. Qua niên hiệu Minh Đạo năm đầu (nhân thân, vua Tống Nhân Tôn 1.032) Ngài Từ Vân thị tịch. Vua Anh Tôn niên hiệu sùng minh năm thứ hai (1.064-1.066) được nhà vua truy phong là Pháp Bảo đại Sư. Vua Cao Tôn niên hiệu Thiệu Hưng thứ hai (1.132) xuống lời chiếu phong hàm ân là sám chủ thiền huệ pháp sư.
Đây bài “Nhứt tâm quy mạng”.
Một tâm cúi lạy đức A Di Đà Phật bên thế giới Cực lạc.
Đây là nghiêng mình quy y (lạy) đức Phật kia vậy. nếu muốn cầu sanh về Cực lạc, trước phải thâu tém sáu căn với ngoại cảnh năm thức trước chẳng duyên theo, với nội tâm, ý thức không tán loạn, gọi là nhứt tâm. Nhứt kỳ quả báo, gọi là thọ mạng với cái thọ mạng thì người ta ai cũng khó xả ra được, thế mà may người tu niệm Phật chẳng cưng tiếc đến, duy nhứt tâm đem thân mạng quy y về Phật kia, để cầu chứng lên quả vô thượng bồ đề mà thôi.
Xin đem ánh tịnh soi con, thệ từ thâu con.
Đây là cầu Phật đem ánh tịnh quang và lời từ thệ sai và thâu này vậy. Tịnh Quang: Phật kia ngài có cái ánh trí căn bổn vốn tự thanh tịnh khắp soi pháp giới. Từ thệ: là bốn mươi tám lời thệ nguyện của đức Di Đà. Nhiếp ngã: thâu con, là thâu nạp mà chiếu cố đến con.
Chúng ta ai cũng do từ vô thỉ bị phiền não nó kết thành nghiệp chướng đã quá ư lâu chắc, phi cầu Phật quang Từ thệ ngầm giúp thêm cho, thì tự mình đâu có thể dẹp dứt được, nên duy nhứt phải nguyện cầu.
Con nay chính niệm xưng danh Như lai vì đạo bồ đề cầu sanh tịnh độ.
Đây là rõ cái lý do cầu Phật vậy. Niệm Phật mà tiêu được tạp niệm là chính niệm. ôi hễ là về lẽ phiền não, thì rộng với sanh tử, nên khổ báo vô cùng ! hễ là về lẹ bồ đề thong vào quả vô sanh, ắt phải do con đường đây. Sao vậy? số là công phu của các hạnh tu kia, tỷ như con kiến từ đất bằng bò lên đảnh núi cao. Còn tu pháp niệm Phật vãng sanh, tựa hồ trương buồm thuận gió lại đi giòng nước xui. Trong Kinh Di Đà đã chỉ rõ niệm Phật bảy ngày đắc nhứt tâm bất loạn, liền có thể hiện đời dùng chứng quả, dẫu đời nay chẳng đặng nhứt tâm thì đời kế đó, hoặc đời thứ ba cũng ắt sanh tịnh độ. Người mà có thể điều nhiếp được sáu căn, lấy cái tâm pháp giới, niệm Phật pháp giới, thế Phật duy tâm, mà tâm tâm cũng duy Phật, thì cảnh tịnh độ, đâu phải rời ngoài gang tấc ư?
Phật xưa đã thệ: “Nếu có chúng sanh muốn sanh nước ta chăm lòng tin ưa, nhẫn đến mười niệm, bằng chẳng vãng sanh ta không thành Phật”.
Đây là cử lên nhắc lại lời nguyện xưa của Phật để cho chúng sanh tin chắc vây.
Bổn thệ: Thuở xưa, hồi Phật còn làm quốc vương hi sanh ngôi nước, xả bỏ vinh hoa, đi tu làm vị Tỳ kheo, tên là Pháp Tạng, đối trước Phật Thế Tự Tại Vương, phát bốn mươi tám lời thệ nguyện, để rộng độ chúng sanh, đồng sanh về cực lạc. Nay dẫn lại lời thệ nguyện trên đó, tức là nguyện thứ mười tám vậy.
Chín tâm:chăm lòng là hoặc niệm Phật bằng cách niệm một đời không xăn hở: hoặc niệm bằng cách kèm theo công việc xăn tu: nhẫn đến ít nhứt là đương khi công chuyên lặn dặn mà lén tạm rảnh ra vài phút để niệm, mỗi ngày niệm lấy số mười niệm, ắt đặng vãng sanh.
Sỡ dĩ Ngài Pháp Tạng nguyện rằng: Người mà mỗi ngày chí tâm mười niệm, nếu chẳng vãng sanh, thì ta pháp Tạng nầy trọn thành nguyện dối rồi, làm gì chứng ngôi chánh giác ư?”.
Thập niệm: Mười niệm tức là mười hơn niệm Phật. nghĩa là tuỳ cái hơi hoặc vắn hay dài, cứ hết một hơi (niệm đặng mấy câu cũng được) là một niệm, như thế, niệm mười hơi gọi là mười niệm, nhưng mỗi câu tuỳ tiếng và hơi thốt ra nơi miệng nghe vào nơi tai, chăm chú nơi tâm chẳng dời là cốt yếu, vậy là đủ mười niệm tức mười hơi.
Với các hiệu: Quán Âm Thế Chí, Thanh Tịnh đại hải chúng mỗi niệm hiệu niệm một hơi.
Niệm các Thánh Hiệu rồi, kế đọc bài hồi hướng văn, hoặc đọc bốn câu: nguyện sanh tây phương tịnh độ trung v.v..cũng được.
Chánh giác: Tức là Phật vậy. Chính bởi pháp niệm Phật đây, khắp hợp cả ba căn đều là nguyện hạnh của đức pháp Tạng cảm thông nên có thể chí tâm chóng hiệu nghiệm như thế.
Do nhân duyên niệm Phật đây, đặng vào trong biển thệ nguyện lớn của Như lai. Vâng sức từ của Phật, các tội tiêu diệt, căn lành thêm lớn. Nếu đến mạng chung, tự biết giờ đến thân, không đau khổ, tâm chẳng tham tiếc ý không điên đảo như vào thiền định.
Đây là công niệm Phật đã thâm, nên cảm được hiệu nghiệm vậy.
Câu đầu là vâng ý trên, để dấy nghĩa dưới. Từ Đắc nhập….nhẫn xuống, đều nói sự cảm nghiệm. Nhân duyên. Chánh niệm là nhân Phật từ là Duyên. Biển đại thệ tức là bốn mươi tám nguyện lớn vậy.
Vì mỗi nguyện nguyện nào giáp khắp pháp giới như biển rộng không bờ mé. Chúng ta hiện còn sống đây nếu hay tinh thành chánh niệm, thì cảm được Phật từ gia hộ, tiêu diệt các tội của ta, thêm lớn có căn lành cho ta, kịp đến khi ta sắp cuối cùng, được biết giờ phút sẽ đến thân tâm thanh tịnh như vào thiên đình, đi thẳng qua cực lạc vậy.
Nếu người mà bình thời chẳng tu niệm, trọn đời, chỗ tạo các nghiệp đều mạng chung thì cứ chỗ tạo nghiệp thế nào, nó hiện ra cảnh thế nấy, hễ cảnh phức tạp thì tâm tán loạn !
Lại, hoặc người trong nhà vì ân tình mà quyến luyến, làm cho ý thức của kẻ sắp từ trần phải điên đảo ! lại phương chi từ vô thỉ đến nay, những chỗ đã làm các tội, hoặc lúc này, chúng đều hiện ra, thì bấy giờ ai có thể làm chủ cho được? Thế tất phải tuỳ theo nghiệp cảnh đoạ xuống tam đồ ! than ôi ! thương thay!
Phật và các Thánh chúng, tay cầm đài hoa. Sen vàng đến đón tiếp con với chừng một niệm sanh về Cực lạc quốc.
Đây là cảm được Phật đến tiếp dẫn vậy.
Phật : là hoá thân Phật của đức Di đà. Thánh chúng: tức là Quán Thế âm, Đại thế chí và thanh tịnh đại hải chúng.
Số là người niệm Phật mà được chánh niệm thì duyên đời đã tàn tạ, duyên tịnh liền thành thục, với khi mạng chung, tự nhiên thấy chánh tay Phật cầm Kim đài, cùng các Thánh chúng và tràng phan bay, âm nhạc của chư thiên đồng đến nghinh tiếp, chỉ trong một niệm, liền về tới Cực lạc.
Hỏi: hai cõi cách nhau có mười muôn ức thế giới làm sao chỉ có trong một niệm, vì duy nhứt niệm thì với mười vạn ức độ chỉ như một khảy móng vậy thôi.
Hoa nở thấy Phật liền nghe Phật thừa (Phật nói pháp), chóng mở Phật huệ.
Đây là hoa nở chứng được chân nhân vậy.
Hoa nở: hoa bổn tâm nở ra. Phật thừa: là nhứt Phật thừa, tức kinh Pháp Hoa, tỷ dụ xe đại bạch ngưu. Phật huệ: là quyền trí, thực trí của Phật, tức Kinh Pháp Hoa bảo khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật.
Số là với cực lạc: có thể mang nghiệp vãng sanh được; còn với các thế giới khác đâu đặng như vậy !
Song, với phẩm dị có chính bực: như bực Thượng - Thượng phẩm thì với khi mạng chung liền tự thấy tự thân nương trên hoa hoa không xếp lại thấy được cái Báo thân của Phật tám muôn bốn ngàn tướng tốt, mỗi mỗi đều thấy đủ rõ ràng, rộng nghe Phật nói pháp về lý Phật thừa, liền mở mang Phật huệ (chứng quả bồ đề, vô sanh nhẫn).
Còn tám phẩm kia thì chẳng được chóng chứng như thế. Như thượng trung phẩm, mặc dầu thấy được Báo thân của Phật, cầm hoa đến rước tự thân của mình nương nơi hoa mà hoa nó xếp lại, cách một đêm hoa mới nở, liền nghe Phật thừa, lại cách bảy ngày, mới đắc quả bồ đề. lại cách qua một tiểu kiếp, mới chứng vô sanh nhẫn. Còn bao nhiêu nữa thì như bản đồ (đã có ở Kinh A Di Đà).
Hỏi: Phẩm Trung Thượng và phẩm Trung Trung thì khi người mạng chung người cũng tự thấy được Báo thân Phật đó thì sao?
Đáp: mặc dù được thấy báo thân Phật, mà với các tướng tốt, thấy chẳng đặng đủ rõ, mãi đợi đến chừng hoa nở, sau khi nghe Phật thừa, thấy mới được rõ đủ.
Còn ba phẩm dưới, khi mạng chung dù có Hoá thân Phật cầm hoa đến đón, tự thân nương sau hoa, nhưng chẳng được thấy nghe Hoá thân Phật nói pháp mà chỉ thấy nghe các vị Bồ tát Quán âm v.v..thuyết pháp đợi mãi đến khi nghiệp được tịnh, hoa mới nở, chừng đó mới thấy tướng tốt của Phật.
Hỏi: Khi hoa sen xếp lại, thân của người vãng sanh có phiền là chật hẹp không?
Đáp: Hoa là do nơi tự tâm hoá hiện rộng lớn không ngần ngại, song nếu nghiệp của mình chưa thanh tịnh nên tợ hồ có xẹp lại, đối với diệu pháp của đức Chân Phật nói tuy đợi đến chừng hoa nở mới được thấy đức Chân Phật (Phật thừa của Báo thân Phật nói) mà trong thời gian hoa chưa nở, cũng được tuỳ cơ thường nghe Hoá Thân, của ba thánh thuyết pháp.
Hỏi: Đã là nghiệp chưa thanh tịnh thì sao có thể vãng sanh?
Đáp: Phật kia, có lời nguyện rộng lớn khó nghĩ được, và cái sức niệm của mình nó khích thiết, duyên đời đã hết, nên có thể vãng sanh.
Hỏi: Đã tới nghiệp vãng sanh, mà có khiến cho thân chẳng an không?
Đáp: Chẳng có đâu như cõi ta bà đây, kẻ mang thân trời cũng hưởng thụ được cái vui hơn hết thay, huống chi cso cái sức của Phật kia nhiếp trì, thắng hơn thân trời nhiều lắm, nào khá ví dụ ?
Rộng độ chúng sanh mãn nguyện bồ đề
Đây là nguyện bồ đề đầy đủ vậy.
Phật huệ đã mở, tức là chứng lên chân vị pháp thân của bậc Sơ trú Bồ tát, bực nầy đã có thể chia thân ra đi làm Phật cả trăm thế giới, để ứng theo căn cơ mà độ sanh.
Bực nhị trú thì phân thân ra nghìn thế giới v.v…bực tam trú thì phân thân ở muôn thế giới v.v….
Như thế cả bốn mươi mốt chân vị theo mỗi loại hiện ra mỗi thân hình ứng theo có mà nói pháp, mỗi vị gây bội lên. đến bấy giờ chiếu lại lúc sơ tâm phát nguyện rằng: ta vì đạo bồ đề cầu sanh tịnh độ đó, nay đến đây mới mãn được nguyện của ta, mừng thay khoái lắm !
Lại bài kệ nguyện sanh tây phương:
Nguyện sanh tịnh độ tây phương
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ,
Hoa nở thấy Phật tỏ vô sanh
Bồ tát bất thối làm bậu bạn.
Hoa sen làm cha mẹ: loài người ở cõi ta bà đây đều là thai sanh, nghĩa là nghiệp thức của ta họp với tinh cha huyết mẹ, ở trong bào thai mà sanh ra. Bên cực lạc chỉ có chín phẩm hoa sen, tịnh thức của ta tuỳ có gá vào thai sen mà sanh ra bằng cách biến hoá. Kêu là “Liên hoa hoá sanh” thế thơm sạch thay !
Tỏ vô sanh: tức là chứng quả vô sanh nhẫn: ngôi sơ trú bên Viên giáo, ngôi Sơ địa bên Biệt giáo, nhẫn đi đều là quả vô sanh nhẫn.
Bồ tát bực Bất thối làm bậu bạn: Đối với cõi Cực lạc nếu chẳng đặng vãng sanh thì thôi: mà hễ đã được sanh sang thì đều là động bực Bất thối Bồ tát cùng làm bạn lữ với nhau.
Bất thối có ba bực, với nghĩa nầy đã rõ ở câu A Bệ Đạc Trí nơi kinh Di Đà rồi.
Xin chép và dịch bài thán:
Thán Lễ Tây Phương
Tán lễ tây phương
Kính lạy phương tây
Cực lạc thanh lương
Cõi tịnh vui vầy:
Liên trì cửu phẩm hoa hương
Hoa sen chín phẩm thơm lây
Bửu thụ thành hàng
Vật báu hàng cây;
Thường văn thiên nhạc khanh tương
Trời thường trổi nhạc vang dầy
Di Đà Phật
Hào quang Phật….
Đại phóng hào quang
Ánh sáng lớn thay !
Hóa đạo chúng sanh vô lượng
Chúng loại không lường độ hoài
Giáng cát tường
Xuống điềm hay..
Hiện tiền chúng đặng ca dương
Bây giờ đạo chúng khen bày:
Nguyện sanh an dưỡng
Xin sang nước thầy
Hiện tiền chúng đẳng ca dương
Bây giờ đạo chúng khen bày:
Đồng sanh an dưỡng
Đồng sanh nước Thầy.
Bài kệ răn khuyên Đại chúng
Ngày nay đã qua, mạng cũng giảm theo, như cá thiếu nước đấy có vui chi?
Đây là tham cái mạng của con người là vô thường !
Kinh Xuất Diệu chép rằng: biển nam bỗng sóng vọt tràn lên rất dữ ngập dầm lên đất liền. bấy giờ có con cá lớn, trôi vào chỗ nước cạn, chúng tự bảo với nhau rằng “ Chúng ta bị cái nạn đây, thì ngay khi nước tràn lan chưa giựt rút, nên phải ngược làn sóng để trở lại nơi biển cả, nhưng lại bị những thuyền ghe trở ngại, chẳng vượt qua được” con cá thứ nhất rán hết sức nhảy vọt qua khỏi tầu; con kế đó lại nương cỏ rêu để lướt qua được; con thứ ba khí lực đã đuối sức rồi, bị kẻ cài lưới bắt đặng ! Phật thấy thế bèn nói bài kệ trên đó.
Số loài cá lấy nước làm bằng nhà cửa lầu đài mà ở, nếu nước khô phải chết cũng như loài người nương nơi sanh mạng mà sống, nếu mạng giảm thì phải vong ! thân mạng nó theo nơi sáng bóng của ngày đêm giờ phút mà giảm mòn qua, hình hài nó theo tám điều khổ mà thiên chuyển, những cơn: vô thường già, bịnh nó cho phép người hẹn đấy tỷ như cá ở chỗ nước cạn nào có vui chi !
Phật hỏi: cái mạng của con người nó ở trong mấy giờ? Một thầy Tỳ kheo đáp: nó ở chỉ một ngày. Phật bảo: ngươi chưa biết đạo ! Lại hỏi: mạng người ở trong mấy giờ? lại một thầy khác đáp: ở trong một bữa ăn cơm. Phật quở: ngươi chưa biết đạo ! Lại hỏi: mạng người ở trong mấy giờ? Có một Thầy tỳ kheo khác thưa rằng: nó ở trong hơi hô hấp. Phật khen: ngươi đã biết đạo.
Đó, chính là chỗ bảo: ngày giờ nó thúc đẩy con người mau già ! Tỷ như nước đầm dần giảm ít ! Sanh mạng ở trong hơi hô hấp, vì tám món khổ no thường áp bức làm tổn hại luôn bài kệ trên gọi vậy chăng?
Bài Kệ của Đức Phổ Hiền răn chúng:
Đại chúng ! Phải siêng tinh tiến như chữa lửa đầu ! chi nhớ vô thường, dè chớ buông lung !
Đây là gắng gỗ nơi thân tâm vậy.
Tinh: là chẳng xăn lộn. Tấn: là chẳng sụt lui. Nhiên là lửa tốt. Thận: cẩn thận. Vô thường: không bền, Như : núi sông đất liền thì có cái vô thường bằng thành trụ hoại không nhân thân thì có cái vô thường bằng sanh, lão bịnh tử; tâm, niệm thì có cái vô thường bằng vọng tưởng lưu chú; các pháp “sự vật” thì có cái vô thường sanh trú dị diệt ! thế nên người dối trong sự vận dụng hàng ngày, phải nhớ hai chữ vô thường như lửa cháy đầu, chỉ một hơi thở, mà chẳng lo cứu chữa, thì với điều thống khổ làm sao chịu nổi ?cái sanh mạng chính, ở trong con nguy hiểm nầy ! song trong thân tâm đây, mỗi niệm chóng mau, với một phút há khá buông lung giong chơi được ư ?
Buông lung trôi nổi: tức là cái tâm sở điệu cử: lau chau xao xuyến tán loạn.
Kinh Pháp Hoa nói: Ba giới không an, dường như nhà lửa là cái nhà bị hoả hoạn. Lửa: tức lửa: vô minh, tham sân si, năm trược tám khổ, và lửa bốn điên đảo. Các thứ lửa ấy cứ mỗi niệm sanh diệt mãi, đối chết hết giống bồ đề làm cho chúng sanh luốn uổng vào nơi sáu ngã, vẫn chịu khổ luân hồi ! Nếu người mà hay giác ngộ biết cái vô minh nó không có thực thể, mà đương thể của nó tức là lửa trí viên minh, tròn soi pháp giới; rõ biết năm trược là hoạn sanh, mỗi mỗi trần vật tức là thanh tịnh, hoà lẫn mười phương, ba độc: tham, sân si tức là giới, định, huệ vô ngại giải thoát; bốn điên đảo tức là bốn đức; thường, lạc, ngã, tịnh là bốn diệu quả niết bàn; thế thì tám khổ hoá làm đại niết bàn vậy.
Ba bài kệ quy y Tam bảo
Tự về nương Phật, cầu cho chúng sanh nói rõ đạo cả lấy tâm vô thượng.
Tự về nương Pháp, cầu cho chúng sanh vào sâu tạng kinh, trí huệ như biển
Tự về nương Tăng, cầu cho chúng sanh, gôm trí đại chúng, tất cả không ngại
Ba bài kệ trên đây; các câu đầu là quy y ngôi “nhất thể tam bảo” các na câu kế đó, là quy y ngôi “Biệt tướng Tam bảo” vậy v.v… như thời khoá tụng buổi mơi đã giải thích rồi.
Hoà nam – Thánh chúng
Hoà nam dịch; Lễ bái. Là nói: lạy tạ các vị Thánh chúng.
Hết thời khoá tụng chiều
Dịch xong, nhằm mùa kiết hạ an cư năm Mậu Tuất
Phật lịch 2.502 - 1958
NOAN
TÔNG (VAṂ)
PHẬT NÓI CỨU BẠT DIỆM KHẨU
NGẠ QUỈ ĐÀ LA NI KINH
Thích Thiện Phước dịch Việt ngữ
Bấy giờ
Thế Tôn, ở ngôi tăng Già Lam Câu Luật Na tại thành Ca Tỳ La cùng với các Tỳ
Kheo và Bồ Tát, vô số chúng hội vây quanh trước sau, đức Phật nói pháp cho đại
chúng nghe.
Khi ấy, Tôn giả A Nan ở một mình nơi
thanh vắng, quán niệm những pháp đã thọ. Sau canh ba đêm ấy, ngài thấy một ngạ
quỉ tên là Diệm Khẩu. Hình thù xấu xa, thân thể khô gầy, trong miệng bốc lửa,
cổ nhỏ như mũi kim, đầu tóc rối bời, nanh vuốt dài nhọn, trông thật đáng sợ, ở
trước mặt A Nan nói rằng:
Ba hôm sau,
ông mạng chung và sẽ đọa ngay vào trong loài ngạ quỉ này.
Khi Tôn giả A Nan nghe nói điều
ấy xong, trong lòng sanh ra sợ hãi hỏi ngạ quỉ rằng:
Giả như ta
sau khi ta chết thác sanh vào loài ngạ quỉ thì làm cách nào để được thoát khỏi
nỗi khổ ấy?
Bấy giờ
ngạ quỉ bạch A Nan:
Sáng ngày
mai, nếu ông bố thí được trăm ngàn na do tha hằng hà sa số loài ngạ quỉ và trăm
ngàn Bà La Môn tiên, dùng các hộc (lớn) như nước Ma Kiệt Đà, mỗi hộc đều đựng
thức ăn mà bố thí, lại vì ta mà cúng dường tam bảo, thì ông sẽ được tăng trưởng
tuổi thọ và khiến tôi cũng thoát khỏi nạn khổ của loài ngạ quỉ, được sanh về
cõi trời.
A Nan
trông thấy ngạ quỉ Diệm Khẩu nầy, thân hình ốm o tiều tụy rất xấu xa,
trong miệng bốc lửa, cổ như mũi kim, đầu tóc rối loạn, nanh vuốt dài nhọn, lại
nghe những lời nói không thuận như thế, ngài vô cùng sợ hãi, lông trên thân
dựng ngược (khắp thân đều nổi ốc), liền đứng dậy đi mau đến chỗ Phật, năm vóc
sát đất, đảnh lễ dưới chân Phật, thân thể run rẩy bạch Phật rằng:
Kinh xin
Thế tôn cứu khổ cho con, vì cớ sao? Con ở nơi thanh vắng, quán niệm những pháp
đã thọ, trông thấy ngạ quỉ Diệm Khẩu nói với con rằng: “Qua ba hôm nữa, con sẽ
mạng chung và đọa trong loài ngạ quỉ đó. Con liền hỏi: Làm thế nào để cho con
thoát khỏi được nỗi khổ nầy. Ngạ quỉ đáp: Nếu con có thể cúng thí trăm ngàn na
do tha hằng hà sa số loài ngạ quỉ và trăm ngàn bà la môn tiên, sửa soạn các món
ăn uống thì con sẽ tăng thêm tuổi thọ. Bạch đức Thế tôn: Bây giờ con phải làm
sao để sắm sửa được những loại thức ăn để cúng các loài ngạ quỉ tiên nhơn như
thế?
Bấy giờ
Thế tôn bảo:
Nầy A Nan!
chớ nên sanh lòng sầu lo sợ hãi, ta đã có cách khiến cho ngươi có thể sắm sửa
đồ ăn uống để cúng thí bao nhiêu trăm ngàn hằng hà sa số loài ngạ quỉ và Bà la
môn tiên.
Phật bảo A
Nan, có thần chú tên là Vô Lượng Oai Đức Tự Tại Quang Minh Thắng Diệu Lực, nếu
có ai trì tụng thần chú nầy thì liền được đầy đủ những đồ ăn uống thượng diệu,
cúng cho vô số na do tha trăm ngàn hằng hà sa số ngạ quỉ Bà la môn tiên. Cho
đến tất cả đều được biến thành 49 hộc đựng thức ăn, mỗi hộc lớn bằng nuớc Ma
Kiệt Đà. A Nan ta vào đời trước, lúc còn làm Bà la môn, ở trú xứ của Bồ Tát
Quán Tự Tại và đức Thế Gian Tự Tại Oai Đức Như Lai đã thọ trì thần chú nầy. Thế
nên có thể sắm sửa các món ăn uống cúng cho vô lượng loài ngạ quỉ và các tiên
nhơn, đồng thời khiến cho chúng thoát khỏi nỗi khổ thân ngạ quỉ và được sanh
lên cõi trời. A Nan! Ngươi nay nên thọ trì khiến phước đức, thọ mạng đều được
tăng trưởng.
Bấy giờ
thế tôn vì Tôn giả A Nan mà nói thần chú rằng:
– Nẳng mồ tát phạ đát tha nga đa phạ lộ chỉ
đế, án tam bạt ra tam bạt ra hồng.
Phật bảo A
Nan:
– Nếu có
người thiện nam, thiện nữ nào muốn cầu phước đức sống lâu, thêm lớn điều tốt
lành, bố thí mau được đầy đủ, thì vào mỗi buổi sáng sớm hay trong mọi lúc tất
cả đều không bị trở ngại. Người ấy nên lấy một tịnh bình đựng nước sạch để vào
chút ít thức ăn, bún và các thứ bánh v.v… rồi để bình tựa lên trên tay phải,
tụng thần chú này đủ bảy lần, sau đó xưng danh hiệu 4 đức Như Lai:
Nam mô Đa Bảo Như Lai.
– Nẳng mồ bà nga phạ đế bát ra bộ sỉ ra đát
nẳng đa tha bệ đá dạ.
Do xưng
tụng gia trì danh hiệu của Đức Đa Bảo Như Lai nên phá tan được tất cả loài qủy,
những ác nghiệp bỏn xẻn, tội chứng từ nhiều đời trước đến nay thảy đều tiêu
diệt, liền được phước đức trọn vẹn.
Nam mô Diệu Sắc Thân
Như Lai.
– Nẳng mồ bà nga phạ đế tố rô bá dã đát tha
nga sỉ dã.
Do gia trì
xướng tụng danh hiệu Đức Diệu Sắc Thâm Như Lai, nên phá tan được hết các thân
hình xấu xa liền được sắc tướng đầy đủ.
Nam mô Quảng Bác Thân
Như Lai.
– Nẳng mồ bà nga phạ đế vĩ bổ la nga đát ra dã đát tha bệ sĩ dã.
Do gia trì
danh hiệu đức Quảng Bác Thân Như Lai nên khiến cho cổ họng của các loài qủy
rộng lớn. Những món ăn đã đã cúng thí đều được đầy đủ như ý.
Nam mô Ly Bố Uý Như
Lai
– Nẳng mồ bà nga phạ đế a bà dựng ca ra đát tha bệ sỉ dã.
Do gia trì
xưng tụng danh hiệu đức Ly Bố Uý Như Lai, nên khiến tất cả sự sợ hãi của loài
qủy thảy đều tiêu diệt lìa nẻo ngạ qủy.
Phật bảo A
Nan:
Nếu dòng
họ con cái xưng tụng gia trì danh hiệu bốn đức Như Lai này, khải tay bảy lần
rồi lấy đồ đựng thức ăn nghiêng đổ ở trên đất sạch. Khi làm việc cúng thí ấy
xong, thì tất cả biến thành 49 hộc thức ăn lớn như nước Ma Kiệt Đà, ở nơi bốn
phương có trăm ngàn na do tha hằng hà sa số loài ngạ qủy, thảy đều thọ thức ăn
này một cách no đủ, đồng thời các loài ngạ quỷ đó đều xả bỏ thân quỷ sanh lên
cõi trời.
Này A Nan!
Nếu có Tỳ kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu bà Tắc, Ưu Bà Di, cúng thí cho các loài quỷ thì
liền được đầy đủ vô lượng phước đức, bằng công đức cúng dường trăm ngàn các đức
Như Lai, thật không sai khác. Thọ mạng dài lâu, thêm nhiều sắc đẹp sức
khỏe, đầy đủ căn lành, tất cả phi nhơn, dạ xoa la sát, các loài qủi thần ác,
không dám làm tổn hại, lại có thể thành tựu được vô lượng phước đức thọ mạng.
Nếu muốn cúng thí các Bà La Môn tiên… thì dùng một cái bát đựng đầy thức ăn
uống, trì tụng 21 lần chơn ngôn đã nói trên, rồi thả vào trong dòng nước sạch,
làm như thế xong, liền được các món ăn uống ngon ở cõi trời, cúng dường trăm
ngàn vô số hằng hà sa các bà La Môn tiên nhơn. Các tiên nhơn ấy, do oai đức của
thần chú được gia trì trong thức ăn nên tất cả đều thành tựu những mong cầu căn
bổn và các công đức lành, cùng một lúc phát thệ nguyện rằng: “Nguyện người thí
thức ăn, mạng sống được dài lâu, khoẻ đẹp và an lạc. Lại khiến người ấy, những
điều ở trong lòng dù thấy hay nghe đều hiểu biết chơn chánh, trong sạch đầy đủ,
thành tựu oai đức của Phạm Thiên, thực hành hạnh của trời Phạm Thiên, lại bằng
công đức cúng dường cho trăm ngàn hằng hà sa số đức Như Lai, tất cả oán thù đều
không thể làm tổn hại”. Hoặc Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, nếu muốn
cúng dường Phật Pháp Tăng nên đem hoa hương và thức ăn sạch các món ăn uống,
gia trì 21 lần thần chú đã nói trên, hiến dâng Tam bảo, thì các người nam người
nữ ấy, thành tựu được những hương vị ngon lạ ở cõi trời, hiến dâng cúng
dường Phật pháp tăng bảo đầy khắp mười phương thế giới. Họ cũng được khen ngợi
khuyến thỉnh tùy hỉ công đức, thường được chư Phật hộ niệm khen ngợi, Thiên
thần thường đến ủng hộ, thành tựu đầy đủ sự bố thí.
Nầy A Nan,
ngươi phải nghe theo lời ta bảo như pháp mà tu hành lưu thông rộng rãi, khiến
cho các chúng sanh khắp nơi thấy nghe mà được vô lượng công đức. Đó mới gọi là
Cứu Diệm Khẩu Ngạ Qủy và những nỗi khổ của chúng sanh. Do đây mà đặt tên là Đà
La Ni kinh, ngươi nên phụng trì. Tất cả đại chúng và A Nan… nghe Phật nói xong
một lòng tin nhận, vui vẻ vâng làm.
PHẬT THUYẾT CỨU BẠT DIỆM KHẨU
NGẠ QUỈ ĐÀ LA NI KINH
Đường Tam Tạng Pháp
sư Đại Quảng Trí Bất Không
phụng chiếu dịch sang chữ Hán
Nhĩ thời Thế Tôn tại Ca Tỳ La
thành, Ni Câu Luật Na tăng già lam sở, dữ chư tỳ kheo tinh chư Bồ Tát vô số
chúng hội, tiền hậu vi nhiễu, nhi vị thuyết pháp.
Nhĩ thời A
Nan độc cư tĩnh xứ, niệm sở thọ pháp, tức ư kỳ dạ tam canh dĩ hậu, kiến
nhất ngạ quỉ danh viết Diệm Khẩu. Kỳ hình xú lậu, thân thể khô sấu, khẩu trung
hỏa nhiên, yết hầu như châm phong, đầu phát bồng loạn, trảo nha trường lợi,
thậm khả bố úy, trụ A Nan tiền, bạch A Nan ngôn:
– Khước
hậu tam nhật, nhữ mệnh tương tận, tức tiện sanh thử ngạ quỉ chi trung.
Thị thời A
Nan văn thử ngữ dĩ, tâm sanh hoàng bố, vấn ngạ quỉ ngôn:
– Nhược
ngã tử hậu sanh ngạ quỉ giả, hành hà phương tiện, đắc miễn tư khổ.
Nhĩ thời
ngạ quỉ bạch A Nan viết:
– Nhữ ư
minh nhật, nhược năng bố thí, bá thiên na do tha hằng hà sa số ngạ quỉ tinh bá
thiên Bà La Môn tiên đẳng. Dĩ Ma Già Đà quốc sở dụng chi hộc, các thí nhất hộc
ẩm thực, tinh cập vị ngã cúng dường Tam Bảo. Nhữ đắc tăng thọ, linh ngã ly ư
ngạ quỉ chi khổ, đắc sanh thiên thượng.
A Nan kiến
thử Diệm Khẩu ngạ quỉ, thân hình luy sấu, khô tiêu cực xú, khẩu trung hỏa
nhiên, yết như châm phong, đầu phát bồng loạn, trảo nha trường lợi. Hựu văn như
thị bất thuận chi ngữ, thậm đại kinh bố, thân mao giai thụ, tức tùng tòa khởi,
tật chí Phật sở, ngũ thể đầu địa, đảnh lễ Phật túc, thân thể chiến lật, nhi
bạch Phật ngôn:
– Nguyện
cứu ngã khổ, sở dĩ giả hà? Ngã trụ tịnh xứ, niệm sở thọ pháp, kiến Diệm Khẩu
ngạ quỉ, nhi ngứ ngã ngôn: “Nhữ quá tam nhật, tất đương mạng tận, sanh ngạ quỉ
trung”. Ngã tức vấn ngôn: “Vân hà linh ngã đắc miễn tư khổ”. Ngã quỉ đáp ngôn:
“Nhữ kim nhược năng thí ư bá thiên na do tha hằng hà sa số ngạ quỉ, cập bá
thiên Bà La Môn tiên đẳng. Thực thực ẩm thực nhữ đắc tăng thọ”. Thế tôn, ngã
kim vân hà năng biện nhược can ngạ quỉ tiên nhơn đẳng thực.
Nhĩ thời
Thế tôn cáo A nan ngôn:
– Nhữ kim
vật bố, ngã hữu phương tiện, linh nhữ năng thí, nhược can bá thiên hằng hà sa
ngạ quỉ, cập chư bà la môn tiên đẳng, thực thực ẩm thực, vật sanh ưu não.
Phật cáo A Nan:
– Hữu Đà
La Ni danh viết: Vô lượng Oai Đức Tự Tại Minh Thắng Diệu Lực, nhược hữu tụng
thử Đà La Ni giả, tức năng sung túc câu chi, na do tha bá thiên hằng hà sa số
ngạ quỉ, cập Bà La Môn tiên đẳng, thượng diệu ẩm thực, như thị đẳng chúng, cập
chí nhất nhất giai đắc Ma Già Đà Quốc. Sở dụng chi hộc, thất thất hộc thực. A
Nan! Ngã ư tiền thế, tác Bà La Môn. Ư quán Tự Tại Bồ Tát sở, cập Thế Gian Tự
Tại Oai Đức Như Lai sở, thọ thử Đà La Ni cố, năng tán thí dữ vô lượng ngạ quỉ,
cập chư tiên đẳng, chủng chủng ẩm thực, linh chư ngạ quỉ giải thoát khổ thân
đắc sanh thiên thượng. A Nan! Nhữ kim thọ trì phước đức thọ mạng giai đắc tăng
trưởng.
Nhĩ thời Thế Tôn, tức vị
A Nan thuyết Đà La Ni viết:
- Nẵng mồ bà phạ đát tha nga đa phạ lộ chỉ
đế, án tam bạt ra, tam bạt ra hồng.
Phật cáo A
Nan, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, dục cầu trường thọ, phước đức tăng
vinh, tốc năng mãn túc đàn ba la mật. Mỗi ư thần triêu cập nhất thiết thời tất
vô chướng ngại, thủ nhất tịnh khí, thạnh dĩ tịnh thủ, trí thiểu phạn sao, cập
chư bỉnh thực đẳng, dĩ hữu thủ gia khí, tụng tiền Đà La Ni mãn thất biến, nhiên
hậu xưng tứ Như Lai danh hiệu.
Nam mô Đa Bảo Như Lai.
“Nẳng mồ bà nga phạ đế bát ra bộ sỉ ra đát
nẵng dã đát tha bệ đá dã”.
Do xưng Đa
Bảo Như Lai danh hiệu gia trì cố, năng phá nhất thiết chư quỉ, đa sanh dĩ lai
xan lận ác nghiệp, tội chướng tiêu diệt, tức đắc phước đức viên mãn.
Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai.
“Nẵng mồ bà nga ra phạ đế tố rô bát dã đát
tha nga đa dã”.
Do xưng
Diệu Sắc Thân Như Lai danh hiệu gia trì cố, năng phá chư quỉ xú lậu ố hình, tức
đắc sắc tướng cụ túc.
Nam mô Quảng Bác Thân
Như Lai.
“Nẳng mồ bà nga phạ đế vĩ bổ la nga đát ra dã đát tha bệ sỉ dã”.
Do xưng
Quảng Bác Thân Như Lai danh hiệu gia trì cố, năng linh chư quỉ yết hầu khoáng
đại, sở thí chi thực tứ ý sung bảo.
Nam Mô Ly Bố Uy Như Lai.
“Nẳng mồ bà nga phạ đế a bà dựng ca ra đát
tha bệ sỉ dã”.
Do xưng Ly
Bố Uý Như Lai danh hiệu gia trì cố, năng lệnh chư quỉ nhất thiết khủng bố
tất giai trừ diệt, ly ngạ quỉ thú.
Phật cáo A
Nan:
Nhược tộc
tánh tử đẳng, xưng tứ Như Lai danh hiệu gia trì dĩ, đàn chỉ thất biến, thủ ư
thực khí ư tịnh địa thượng, triển tý tả chi, tác thử thí dĩ, ư kỳ tứ
phương hữu bá thiên na do tha hằng hà sa số ngạ quỷ, tiền các hữu ma Già Đà
Quốc thất thất hộc thực, thọ thử thực dĩ, tất giai bảo mãn. Thị chư ngạ quỉ
đẳng tất xả quỉ thân, sanh ư thiên thượng.
A Nan!
Nhược hữu Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, thường dĩ thử chơn ngôn cập
tứ Như Lai danh hiệu, gia trì thực thí ngạ quỉ, tiện năng cụ túc vô lượng phước
đức, tắc đồng cúng dường bá thiên câu chi Như Lai công đức, đẳng vô sai biệt,
thọ mạng diên trường, tăng ích sắc lực, thiện căn cụ túc. Nhất thiết phi nhơn
Dạ Xoa La Sát, chư ác quỉ thần bất cảm xâm hại. Hựu năng thành tựu vô lượng
phước đức thọ mạng. Nhược dục thí chư Bà La Môn tiên đẳng, dĩ tịnh ẩm thực mãn
thạnh nhất khí, tức dĩ tiền chơn ngôn gia trì nhị thất biến, đầu ư tịnh lưu
thủy trung. Như thị tác dĩ, tức vi dĩ thiên chư mỹ diệu ẩm thực, cúng dường bá
thiên câu chi hằng hà sa số Bà La Môn tiên, bỉ chư thiên nhơn, đắc gia trì thực
cố. Dĩ chú oai đức các các thành tựu căn bổn sở nguyện chư thiện công đức, các
các đồng thời phát thệ nguyện ngôn: “Nguyện thí thực nhơn, thọ mạng diên
trường, sắc lực an lạc”. Hựu linh kỳ nhơn, tâm sở kiến văn chánh giải thanh
tịnh, cụ túc thành tựu Phạm Thiên oai đức, hành phạm thiên hạnh. Hựu đồng cúng
dường bá thiên hằng hà sa Như Lai công đức, nhất thiết oán thù bất năng xâm
hại, nhược tỳ kheo Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Nhược dục cúng dường Phật
Pháp tăng bảo, ứng dĩ hương hoa cập tịnh ẩm thực. Dĩ tiền chơn ngôn, gia trì
nhị thập nhất biến phụng hiến Tam Bảo. Thị thiện nam tử cập thiện nữ nhơn, tắc
thành dĩ thiên hào thiện thượng vị, phụng hiến cúng dường mãn thập phương thế
giới, Phật Pháp tăng bảo, diệc vi tán thán khuyến thỉnh tùy hỉ công đức, hằng
vi chư Phật ức niệm xưng tán, chư thiên thiện thần hằng lai ủng hộ, tức vi mãn
túc đàn ba la mật.
A Nan! Nhữ
tùy ngã ngứ, như pháp tu hành quảng tuyên lưu bố. linh chư chúng sanh, phổ đắc
kiến văn hoạch vô lượng phước. Thị danh Cứu Diệm Khẩu Ngạ Quỉ, cập khổ chúng
sanh Đà La Ni kinh. Dĩ thị danh tự, nhữ đương phụng trì, nhất thiết đại
chúng, cập A Nan đẳng, văn Phật thuyết dĩ, nhất tâm tín thọ, hoan hỷ phụng hành.
PHẬT NÓI CỨU BẠT DIỆM KHẨU
NGẠ QUỈ ĐÀ LA NI KINH
CHUNG
Kinh Phật Thuyết Đà La Ni Thần Chú
Cứu Ngạ Quỷ Diện Nhiên
Đường Thật Xoa Nan Đà dịch,
Bản Việt dịch của Quảng Minh
Một thời đức Thế tôn ở tại Tăng già lam Ni câu luật na, thành Ca
tỳ la vệ, cùng với các vị tỳ kheo và các vị bồ tát, vô số chúng sanh, bao quanh
khắp cả, vì nghe ngài thuyết pháp.
Lúc bấy giờ, tôn giả A Nan đang độc cư ở một nơi vắng vẻ, nhất
tâm buộc niệm. Ngay sau canh ba đêm ấy, tôn giả A Nan thấy một ngạ quỷ tên là
Diện Nhiên, đứng trước mặt ngài thưa bạch lời rằng: Sau ba ngày nữa mạng sống
của thầy sẽ hết, liền sinh vào thế giới ngạ quỷ. Lúc đó, tôn giả A Nan nghe lời
ấy rồi tâm thần hoảng hốt, hỏi lại ngạ quỷ: Tôi gặp tai hoạ này, vậy thì có
phương cách gì để thoát cái khổ kia không ?. Khi ấy, ngạ quỷ nói với tôn giả
rằng: Vào lúc sáng sớm, nếu thầy có thể bố thí cho trăm ngàn na do tha hằng hà
sa số ngạ quỷ cùng với trăm ngàn vị bà la môn tiên, mỗi người nhận được phần
thí là một đấu thức ăn uống, tính theo cái lượng đấu của nước Ma già đa, lại
còn vì chúng tôi mà cúng dường Tam bảo, nhờ đó chúng tôi thoát được cái khổ ngạ
quỷ, sinh về cõi trời, thì thầy mới được tăng tuổi thọ.
Tôn giả A Nan nhìn thấy ngạ quỷ Diện Nhiên đây thân hình gầy gò,
khô cháy xấu xí, trên mặt lửa cháy, cổ họng nhỏ như cây kim, đầu tóc rối bù,
lông dài móng nhọn, thân như đang vác nặng, lại còn nghe những lời chẳng thuận
như vậy, nên đâm hoảng sợ, lông thân dựng đứng. Tôn giả liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, đi mau về chỗ đức Phật ở, năm vóc sát đất, đảnh lễ dưới chân Phật, thân
tâm run sợ mà bạch với đức Phật rằng: Xin đức Thế tôn cứu con, xin đức Thiện
thệ cứu con ! Qua ba ngày nữa mạng con sẽ tận. Đêm qua con gặp một ngạ quỷ tên
là Diện Nhiên, ngạ quỷ ấy nói với con rằng, qua ba ngày nữa mạng con nhất định
phải tận, sanh làm ngạ quỷ. Con hỏi ngạ quỷ, có phương cách nào để thoát cái
khổ ấy, ngạ quỷ đáp rằng, nếu con có thể bố thí các món ẩm thực cho trăm ngàn
na do tha hằng hà sa số ngạ qủy, cùng với trăm ngàn vị bà la môn tiên thì con
mới được sống thêm. Bạch đức Thế tôn, nay con làm cách nào thoát được cái khổ
kia?.
Bấy giờ, đức Thế tôn bảo tôn giả A Nan rằng: Ông nay chớ sợ, ta
có những phương tiện khác giúp ông làm được sự bố thí vật thực như thế cho các
ngạ qủy và chúng bà la môn tiên, ông chớ sanh lòng sầu lo.
Đức Phật dạy tôn giả A Nan: Có một đà la ni gọi là Nhất Thiết
Đức Quang Vô Lượng Uy Lực, nếu ai có thể tụng đà la ni này thì lập tức thành
tựu sự bố thí cho số lượng câu chi na do tha trăm ngàn hằng hà sa số ngạ quỷ
cùng với 68 câu chi na do tha trăm ngàn vị bà la môn tiên. Mỗi vị đó sẽ nhận
được 49 đấu ẩm thực, tính theo cái lượng đấu của nước Ma già đà.
Đức Phật bảo tôn giả A Nan: Ta ở đời trước, có lúc làm thân bà
la môn, đối trước Bồ tát Quán Thế Âm và đức Như lai Thế Gian Tự Tại Đức Lực mà
tiếp nhận đà la ni này. Ta nhờ thần lực của đà la ni này mà được đầy đủ vật
thực bố thí cho vô lượng vô số ngạ quỷ, chúng bà la môn tiên. Do ta bố thí vật
thực cho chư ngạ quỷ nên họ rời bỏ được cái thân ngạ qủy, sanh về cõi trời. Này
A Nan, ông nay nên thọ trì đà la ni này để tự hộ thân. Đức Phật liền nói chú
rằng: Na ma tát phạ đát tha yết đa, phạ lộ chỉ đế, tam bạt ra, tam bạt ra, hổ
hồng.
Đức Phật bảo tôn giả A Nan: Nếu ai muốn làm pháp thí thực này
thì trước phải đem đồ ăn món uống đặt để trong đồ đựng sạch sẽ, tụng 7 biến đà
la ni này rồi chú thực. Đứng bên trong cánh cửa, đưa tay ra ngoài cửa, đặt đồ
đựng thức ăn xuống chỗ đất sạch, búng ngón tay 7 lần vào đó. Làm pháp thí thực
xong thì trong khoảng bốn phương của nơi đó có trăm ngàn câu chi na do tha hằng
hà sa số ngạ quỷ, ở trước mỗi vị ngạ quỷ có 49 đấu ẩm thực, tính theo cái lượng
đấu của nước Ma già đà. Chư ngạ quỷ như vậy khắp đều được no đủ. Chư ngạ quỷ đó
sau khi ăn uống xong thảy đều xả bỏ cái thân ngạ quỷ mà được sanh lên các cõi
trời.
Đức Phật lại dạy tôn giả A Nan: Nếu chư tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu
bà tắc, ưu bà di, ai có thể thường tụng chú đà la ni này cùng hiến cúng đồ ăn
thức uống thì thành tựu trọn vẹn công đức vô lượng, như công đức của sự cúng
dường cho trăm ngàn câu chi đức Như lai vậy, thọ mạng thêm lâu. Người ấy có
nhan sắc tươi đẹp, uy đức cường trí. Tất cả phi nhân, loài quỷ bộ đa [1], dạ
xoa, la sát cùng chư ngạ quỷ đều sợ người ấy, lòng chẳng dám nhìn. Người ấy
cũng được thành tựu đầy đủ sức tinh tấn lớn.
Đức Phật lại bảo tôn giả A Nan: Nếu ai muốn bố thí vật thực cho
các vị bà la môn tiên thì phải lấy đồ ăn thức uống đựng đầy trong bát, đọc tụng
7 biến chú đà la ni này cùng chú thực, đổ hết vào trong dòng nước chảy, liền
biến ra những món ăn cõi trời, đầy đủ phụng hiến cho vô lượng câu chi trăm ngàn
hằng hà sa số vị bà la môn tiên. Chư vị bà la môn tiên ăn uống vật thực này rồi
thì các căn đầy đủ, viên mãn kiết tường. Mỗi vị đều tự phát nguyện khen ngợi
người bố thí. Vì vậy người thí thực kia, tâm được thanh tịnh, mau chóng chứng
được oai đức của bậc Phạm thiên [2], thường tu tịnh hạnh, thành tựu trọn vẹn
công đức cúng dường trăm ngàn câu chi hằng hà sa số chư vị Như lai, đối với các
oán địch [3] thường được vượt thắng.
Nếu chư tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, ai muốn cúng
dường hết thảy Tam bảo [4], nên phải bày biện đầy đủ hương, hoa, đồ ăn thức
uống, rồi tụng đọc 21 biến thần chú đà la ni này, chú nguyện vào vật thực hiến
cúng cũng như hương hoa v.v… để cúng dường Tam bảo. Chư thiện nam tử, thiện nữ
nhân kia thành tựu đầy đủ sự cúng dường vi diệu của chư thiên; và sự cúng dường
vô thượng này đáng được hết thảy Như lai tôn trọng, ngợi khen, chư Phật Tam bảo
trong các quốc độ cũng nhớ tưởng, xưng dương tán thán, được chư thiên ủng hộ.
Đức Phật dạy phương pháp bố thí này là để cho tôn giả A Nan tự
hộ thân, đồng thời rộng vì các chúng sanh mà nói, khiến cho các chúng sanh
thành tựu đầy đủ công đức vô lượng, đời đời thường gặp trăm ngàn câu chi chư vị
Phật đà.
Chú thích:
[1] Bộ đa (bhùta): Sinh ra có
tình gọi là bộ đa. Câu Xá Luận, quyển 10 ghi: “Lại như khế kinh nói, thức ăn có
bốn loại khiến cho bộ đa (có tình) được yên ổn … bộ đa có nghĩa là dĩ sinh (đã
sinh ra), mọi thú sinh ra rồi đều gọi là dĩ sinh”. Ở đây là tên một loài quỷ.
Sách Tuệ Uyển Âm Nghĩa, quyển hạ chép: “Bộ đa có nghĩa là tự sinh. Loại quỷ do
cha mẹ sinh ra thì gọi là dạ xoa, do hoá sinh thì gọi là bộ đa”.
[2] Phạm thiên là chỉ vị Đại
phạm thiên vương tên là Thi Khí. Ngài rất tin Phật pháp. Mỗi lần gặp Phật ra
đời là ngài đến sớm nhất thỉnh Phật chuyển pháp luân.
[3] Oán địch, chỉ cho các phiền não khởi lên từ nội tâm hay từ ngoại cảnh tác động đến.
Kinh
Phật Thuyết Thí Ngạ Quỷ
Cam
Lộ Vị Đại Đà La Ni
Đường
Bạt Đà Mộc A dịch,
Bản
Việt dịch của Quảng Minh
Như vầy, một thời đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai trú ở hải hội thuyết
pháp là đạo tràng Ba la, tịnh xá Lô Kê nơi đỉnh Kim Cang Luân, núi Cô Đà, cùng
với bất khả thuyết A tăng kỳ bốn chúng vây quanh. Ngồi trên những tòa Kim Cang
tám góc có sư tử là chư vị Bồ tát nói pháp Phương quảng, trọn thời buông dục.
Bấy giờ, đức Thế Tôn thương xót các loại chúng sanh trong nẻo ác
mà muốn diễn nói Thân na Tất lợi đa Ma đà la Ban giá Đà la ni [1], là thần chú
đại bi tối thắng, vì là pháp môn thiện xảo bí mật. Từ nơi tim của Như lai mật
phóng ánh sáng mặt trăng màu ngọc Ma ni, gọi là Nguyệt ái từ quang, trên chiếu
đến cõi trời Hữu đảnh, dưới soi tới địa ngục A tỳ, cho đến mười phương thảy đều
soi khắp; trong ánh sáng ấy mọi thứ đều sáng suốt, như kính pha lê soi thấy ảnh
tượng.
Đức Phật bảo các đại chúng: Thiện nam tử, các ông phải quán sát
sự thọ thân trong sáu nẻo đều là khổ não. Đại chúng ở đây nương uy thần của Phật
quán thấy việc đó rồi, cùng mở lời thưa rằng: Chúng con đã thấy rõ ràng. Đức Phật
dạy: Tám khổ thế gian, kể không thể xiết; tai ương sáu nẻo, rất đáng sợ hãi. Cớ
sao vậy? Người trong thế gian không tin tội phước, báng bổ cho là không có nhân
quả, (do) điên đảo không biết, (thêm) tham lam ganh ghét, nên sau khi mạng
chung, đọa vào ngục Vô gián, chịu đủ các khổ, không thể nghĩ bàn. Ra khỏi địa
ngục lại rơi vào đường ngạ qủy, đủ các ác nghiệp, thọ báo khác nhau. Do ác nghiệp
mà thọ ba mươi sáu loại thân ngạ qủy, đó là: qủy Bệ lệ đa, qủy Xa da, qủy Kiện
đà, qủy Bố sắc ba, qủy Kệ bà da, qủy A thâu giá, qủy Bà đa, qủy Ô đà ha la, qủy
Đà la chất đa, qủy Chất đa, qủy Bà lỗ da, qủy Thị vĩ đa, qủy Khởi sa kê đà, qủy
Xà để, qủy Yết tra bố đơn na, qủy Cưu bàn trà, qủy Tất xá giá [2], như vậy cho
đến (ác nghiệp) nặng nhẹ kẻ hở. Do ác nghiệp sâu nặng mà cảm ra quả báo đói
khát bừng lửa, ganh ghét hừng hực, thường tham uống ăn, chỉ nghĩ nước uống,
ngoài ra không biết, khổ đau thảm thiết, không nói nên lời. Cảm báo ra cái thân
như đống lửa lớn, thân lượng dù nhỏ dù lớn [3] đều là gầy gò tiều tụy, tay chân
yếu ớt, chân như cái chậu nứt vỡ, da thịt khô khan, mạch máu cằn cỗi, giống như
trái cây khô héo, bụng phình lớn như cái trống, cuống họng như mũi kim, hơi thở
không thông, thường có lửa dữ đốt cháy bên trong, đầu lâu ngang dọc năm núi Di
Lâu [4], lửa dữ hừng cháy chưa từng tạm nghỉ. Khi thân di động, lửa cháy toàn
thân, làm cho đói khát, lửa lớn thiêu đốt bức bách thân tâm, đông tây chạy đuổi,
hú hí kêu gọi tìm kiếm thức ăn. Giả thử thấy đồ ăn ngon, muốn chạy đến lấy,
nhưng do nghiệp lực tham giận khiến cho vị ngon tuyệt diệu biến thành máu mủ
hôi thối chảy tràn. Tuy thấy sông lớn hay nước suối mát ngọt, muốn qua lấy uống,
thì bị các thủy thần dùng gậy sắt đánh đuổi. Giả như không có ai coi giữ, nước
lạnh mát ngọt biến thành lửa cháy, lại bị loài chim có mỏ sắt như diều hâu,
chim ưng, chim cắt mổ vào mắt qủy. Lại bị thú dữ độc ác như cọp đói, sói đói,
mãng xà, chó rừng, vồ túm cào xé, khổ không nói được. Trên thân thể, những chỗ
bị lông tóc phủ kín đều bị mười tám ngàn sâu trùng nhỏ độc ác sống bám nơi lông
cắn rúc. Do sự đói khát thúc bách mà các ngạ qủy càng thêm giận dữ, sẵn sàng
tàn hại nhau, phá bộ não, lấy tủy sống cùng nhau ăn nuốt. Trong năm trăm kiếp
còn không nghe được cái tên nước uống, huống chi được thấy. Những khổ não như
thế, thí dụ không thể diễn tả, toán số không thể tính được, tổng quát có thể
nói là, trăm ngàn ức kiếp thọ báo đầy đủ các thân ác nghiệp xấu kém. Sau khi
thoát khỏi cái thân ngạ qủy thì làm đủ loại thân thú vật bị nhốt trong chuồng
hay làm thân con trùng trong nhà xí, hoặc núp trong phần dưới của thân con thú,
các chỗ hôi thúi, dơ dáy.
Các thiện nam tử, làm thân ngạ qủy là do đời trước ngu si điên đảo
ngăn che, lưới tâm phiền não tham chấp giăng khắp và chắc, chỉ ưa thích cái
thói bóc lột người khác không biết chán đủ: cha mẹ vợ con đều không chu cấp, sư
trưởng dạy bảo coi như phân dơ, chẳng bao giờ giúp cho bà con, bạn bè, tôi tớ.
Người bủn xỉn như vậy chẳng lo vô thường, tiếc giữ tài vật, nói làm đó là cho
trăm năm, lại thường dạy người tham cầu gom chứa, chẳng biết vô thường lão bịnh
cùng thân theo nhau. Đến lúc bịnh nặng, tự biết không còn sống lâu, vẫn thường
nghĩ thầm: Ta lúc sanh thời, cần khổ cầu tài, nếu sau khi chết, thì các người
ác ăn nuốt tài vật của ta như ăn nuốt lửa dữ, ở nhà cửa của ta như ở nhà tối
tăm. Khi khởi nghĩ như vậy, do ác nghiệp mà la sát, ngục tốt biến làm người giận
dữ, gom lấy của cải một đời của người ấy, đem đến chỗ tội nhân, lấy lửa đốt hết,
tội nhân (thấy đó) sanh tâm hoan hỷ. Do nhân duyên như vậy, trong đường ác nghiệp,
thân trung ấm hiện ra, phong đại bắt đầu khởi động làm cho mất đi hình thái hơi
ấm, và khi đó các ngọn gió mang theo cái lạnh màu vàng cũng phát động. Do gió
ác phát động khiến gân mạch co rút, trong miệng khô khan, mặt mắt trở nên vàng
khè, răng biến dạng thành răng cáo, thân thể suy nhược, bụng trương phình to, mạch
máu xanh vàng hiện, ăn uống không tiêu, thân thể gầy yếu, miệng đắng, nước tiểu
vàng, mắt nổ đom đóm chỉ thấy lửa sáng, cổ họng sưng tấy, hơi thở nghịch gấp, đầu
tim ghê thúi, ách chặn ngay cổ, tắt tiếng ngắn hơi, toàn thân ghẻ lở, máu mủ thối
rữa, chịu khổ sở lớn. Khi sanh mạng sắp chấm dứt, lại khởi nghĩ như sau: Phải
chi ta được một viên sắt nóng chảy trong cổ họng, được một khối lửa lớn vào nằm
trong thân, lại được một chỗ tối tăm để tránh ánh lửa và trừ bịnh lạnh thì
khoái biết mấy. Bấy giờ ngục tốt hóa làm vị lương y, đưa viên sắt mà biến thành
viên thuốc lớn, đặt vào trong miệng, bảo ngậm miệng nhanh. Lại hóa xe lớn kết bởi
hoa sen bằng vàng, trên xe có đồng tử cầm phất cổ vũ, bịnh nhân thấy vậy tâm
sanh yêu thích, nghĩ viên thuốc nóng ấm này chắc trừ được bịnh lạnh, liền muốn
đi về phía trước xe, hơi đứt chết liền, sanh vào ngục thất Viên sắt của địa ngục
Vô gián. Trong đường đi của ngạ qủy, địa ngục này là nơi cực kỳ khổ não. Ngục ấy
có một núi sắt, ngang dọc bằng nhau hai mươi lăm do tuần, hướng đông của núi có
một lỗ nhỏ bằng cái đấu của nước Ma già đà [5], thoát ra khói đen, đã vào trong
đó thì bị trùng dao trùng kiếm rỉa ăn thân thể, khói mù mịt làm cho không thấy
lửa cháy, khắp nơi chướng ngại đuổi chạy, đầu đụng núi sắt, não vỡ tủy văng như
làm bể bình mứt. Viên sắt xuyên vào từ trên đầu đâm ra ở dưới chân. Có thể nói
tóm là, một niệm chết đi, một niệm sống lại. Đền tội xong lại sanh làm loài qủy
ăn mũi dãi, loài qủy ăn máu mủ, từ đây lần lượt chuyển sanh cho đến làm loài thần
trong nhà xí, mong chờ lấy thứ bất tịnh mà ăn nuốt. Hết quả báo này rồi thì
sanh trong súc sanh, chịu đủ các loại thân như chó, v.v… Thọ báo này xong thì
sanh làm người nghèo nàn, hèn hạ, lẻ loi nằm sương, ung thư, phung lác, run rẫy,
tiêu chảy, tự trang sức đời mình bằng mọi thứ suy tổn. Người này với bao ác kiến,
lạnh đói mà chết.
Tướng trạng quả báo tốt xấu trong loài ngạ qủy chỉ nghe nói đến
thôi thì lông thân dựng đứng, huống là đích mắt nhìn thấy. Do đó các ông phải
khởi tâm đại bi mà cứu khổ nạn kia. Vì sao phát tâm cứu khổ? Các loài ngạ qủy đều
là cha mẹ, anh em trai, chị em gái của các ông trong quá khứ, do điên đảo ngu
si, không chịu cầu cái vui thoát tục, ưa đắm ba cõi, tạo đủ các tội, nghiệp lực
cảm báo sanh làm ngạ qủy, khổ não nung cháy không biết khi nào thoát ra, mất hẳn
thân người. Mất thân người nên lìa xa thiện tri thức; lìa xa thiện tri thức nên
che thêm lưới nghi, vĩnh viễn không được Vô thượng bồ đề. Vì vậy nên biết, thật
đáng thương xót, các ông phải cứu khổ ách cho họ được giải thoát.
Bấy giờ trong chúng hội có một vị bồ tát tên là Nguyệt Ái, đã từng
huân tập hạnh đại bi như biển, nghe thấy việc này, thân thể lay động, gân mạch
co thắt, bi cảm đau buồn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt làm lễ, hai mắt ngấn lệ,
bạch với Phật rằng: Than ôi, đức Bà già bà, xin dạy cho chúng con phương pháp cứu
hộ làm an ổn cho số đông.
Bấy giờ đức Thế tôn bảo bồ tát Nguyệt Ái: Tốt lắm, đại sĩ chính
là đại bi, là người tu tập đại bi, vì thương xót tất cả mà hỏi Như lai việc
này, ông phải khéo nghe. Thiện nam tử, Như lai có pháp đại bi tối thắng thuộc
đà la ni môn, tên gọi là Thân na tất lợi đa đại đạo tràng hội cam lộ vị pháp,
không thể nghĩ bàn, đủ đại từ bi, có uy thế lớn, có thể phá tan núi nghiệp rộng
lớn của chúng sanh trong đường địa ngục, súc sanh, ngạ qủy; có năng lực làm cho
vị bồ tát mau đắc các địa đi đến Như lai địa; lại được thành tựu một trăm mười
chủng loại tâm đại từ bi, khiến cho người thọ trì hiện thân chứng được Đại bi
luân đảnh vương đà la ni, là pháp môn tam muội của đại bi lưu xuất từ Như lai tạng
không thể phá hoại.
Thiện nam tử, đại thần chú này có thể dập tắt lửa cháy dữ dội từ
sự đói khát trong loài ngạ qủy, thí cho vị ngon cam lộ mát trong, nhất định mau
chóng trọn thành quả vị Vô thượng bồ đề. Thí như ánh trăng ban đêm trừ được sự
um tùm, đà la ni này cũng lại như vậy, Như lai sẽ nói, các ông phải buộc niệm,
một lòng lắng nghe, đừng cho quên mất.
Thiện nam tử, nếu có tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, đồng
nam, đồng nữ, và các chúng người trời, có ý muốn thọ trì giáo pháp phương tiện
này, thì cần phải mời thỉnh cùng tận mười phương giới, tất cả ngạ qủy, thần
chúng trong sáu nẻo, phải khởi niệm rằng:
Nam mô Phật đà da, nam mô Đạt ma da, nam mô Tăng già da, nam mô
bổn tôn Thích Ca Mâu Ni Như lai, nam mô An trụ đại địa chúng bồ tát, nam mô tất
cả Long thiên thiện thần, nguyện đem uy thần, thương thêm hộ trợ. Con nay mời
thỉnh mười phương quốc độ, cùng tận hư không giới, tất cả chúng hữu tình và ngạ
qủy trong sáu nẻo, nương uy thần lực của Tam bảo, đều đến chỗ con.
Nói lời này xong, mặt hướng phương đông, liền tụng bảy biến thần
chú Triệu thỉnh. Bấy giờ, đức Thế tôn vì bồ tát Nguyệt Ái mà tuyên nói thần chú
Triệu thỉnh đà la ni, ngài liền nói chú ấy:
Na mô bồ đế rị, đát tha già đa da.
Đức Phật dạy bồ tát Nguyệt Ái: Mời thỉnh xong rồi, bấy giờ mười
phương tất cả ngạ qủy, qủy thần trong sáu nẻo đều đến tụ tập, chiêm ngưỡng hành
giả. Hành giả khi ấy cần phải khởi đại bi tâm mà nói lời rằng:
Các vị phải khéo nghe, nay tôi dùng đà la ni này để mở cổ họng
cho các vị, cho các vị sự khoái lạc mềm mại, mát trong.
Bấy giờ, đức Thế tôn nói thần chú Khai yết hầu đà la ni, chú rằng:
Án, bồ đế rị, ca đát rị, đát đa già đa.
Tụng thần chú đà la ni này đủ bảy biến rồi, do năng lực của thần
chú mà cổ họng của các loài qủy được thông suốt, lửa dữ liền tắt, không còn thống
khổ, thân tâm yên ổn.
Bấy giờ hành giả trước nên bố thí nước uống. Muốn bố thí nước
thì vào lúc sáng sớm hay thời gian trong ngày, cầm một chén nước sạch, mặt hướng
phương đông, tụng thần chú bảy biến, hướng về phương đông mà vun rảy nước vào
không trung. Do năng lực của đà la ni này mà mỗi một giọt nước rơi xuống đất đều
biến thành mười hộc nước cam lộ cõi trời. Các loại qủy thần hưởng dụng no đủ,
hoan hỷ vô lượng. Bấy giờ, đức Thế tôn vì bồ tát Nguyệt Ái mà nói liền thần chú
Thủy đà la ni, chú rằng:
Na mô tô lô bà duệ, đát già tha đa da, đát thiết tha, tô rô tô
rô, ba ra tô lỗ sa bà ha.
Đức Phật dạy bồ tát Nguyệt Ái: Thiện nam tử, đây gọi là đà la ni
thần chú Thí nước cam lộ. Lại nữa, nếu chư thiên và loài người muốn bố thí thực
phẩm của mình thì mỗi ngày nên trước giờ thọ trai, dùng cái bát hay đồ dung chứa
tốt đẹp quí báu, như bát bằng vàng bạc, bát bằng đồng, bằng sắt, bạch lạp [6],
đá qúi, hoặc bát bằng lưu ly, pha lê, các loại ngọc thạch; không có những thứ
trên, thì dùng bát bằng gỗ, đá, gốm nhưng phải thật sạch sẽ; không có nữa thì
dùng quả bầu khô cũng được, để đựng đầy sữa. Nếu không có sữa thì dùng nước sạch
cũng được. Hoặc lấy đồ ăn thức uống có sẵn như cơm sữa, cơm nấu bằng nếp gạo, đại
mạch, bánh, men rượu, cháo v.v…, để vào trong bát, chớ để rau cà. Ở dưới cây
râm mát, trước tụng chú Triệu thỉnh, kế tụng chú Khai yết hầu, như trên đã nói.
Chú thực vào bát bảy biến xong, đổ vãi dưới gốc cây, khi đó mười phương tất cả
ngạ qủy nhờ uy đức lực của đà la ni mà ăn uống được cả. Thức ăn không còn biến
hóa thành máu mủ nữa, cũng không bị sự ngăn cản, ăn uống thoải mái, đầy đủ no
nê, hết lửa đói khát bốc cháy, thân thể an lạc, không có thống khổ. Lại có gió
nhẹ, mềm mại, mát mẻ lướt qua trên thân, tham cấu tiêu trừ, thân hết nóng khổ,
an nhiên khoái lạc. Các con trùng độc rúc rỉa trên thân dưới lớp lông dài cũng
tự rơi rớt, cũng không có những cầm thú hung ác đến giành giựt cắn xé. Tâm ý
dũng mãnh an vui, do nhân duyên này, hết tội thoát được cái thân ngạ qủy, sanh
trong nhân loại chư thiên, hưởng được cái vui vi diệu, tự tại thù thắng. Nên biết
rằng người bố thí thực phẩm được chư Phật hết lòng ca ngợi. Bấy giờ, đức Thế
tôn liền tuyên nói thần chú Thí cam lộ thực đà la ni, chú rằng:
Na mô ta bà đát tha già đa, nam phược yết đế, tam muội la tam muội
la.
Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói thần chú đà la ni tên là Đại
bi tôn thắng xong, khi đó trời đất chấn động sáu cách, ánh sáng tràn đầy nơi thế
giới tam thiên đại thiên này, trời mưa rất nhiều hoa báu cõi trời, và hương
báu, chuỗi anh lạc, kỹ nhạc cõi trời cũng rắc xuống như mưa. Ngay lúc đó, những
khí cụ trị tội của các ngục Vô gián trong sáu nẻo bỗng va chạm nhau, phát ra âm
thanh diễn đạt lý vô thường, khổ, không, giải thoát; vạc sôi lò lửa tự nhiên
gãy đổ tan nát; tất cả tội nhân tự biết đời kiếp trước của mình, ai cũng hưởng
được một sự vui vẻ y như cái vui cõi thiền thứ ba. Ở trong đại hội, khi nghe đến
đây, có người chứng được sơ quả cho đến có người chứng quả A la hán, vô lượng
trời người phát tâm Vô thượng bồ đề.
Bấy giờ, đức Thế tôn dạy bồ tát Nguyệt Ái và các đại chúng: Đà
la ni này rất khó có cơ hội được nghe, huống chi được thấy (văn tự). Câu chi đức
Như lai trong quá khứ và vị lai đều cùng tuyên nói đà la ni này. Như nay đây,
Như lai là Thích Ca Mâu Ni cũng vì các vị mà khai thị tuyên nói đà la ni này.
Thiện nam tử, nếu chư thiên và nhân loại thọ trì như pháp, nhưng chỉ với mục
đích bố thí cho qủy thần bị đói khát thúc bách, chẳng nghĩ đến chia cho người
chết ngang trái [7], thì không được gọi là thần chú đà la ni Đại bi tôn thắng.
Vì sao vậy? Đà la ni này giống như ngọc báu Ma ni có thể thỏa mãn tất cả ý nguyện,
cũng như trăng sáng làm cho hoa Ưu đàm bát hé nở tươi đẹp. Thiện nam tử, nếu có
vị bồ tát chẳng đắm nơi cái vui của mình, muốn cứu độ người, huân tu tâm đại bi
vì lợi ích an vui cho tất cả, thực thi bố thí như pháp, thì vị ấy đích thật là
bồ tát tu đại bi, vị ấy đã và đang thực hành hạnh Quán Âm, được tất cả chư Phật
nắm tay xoa đảnh, chư tôn bồ tát hết lòng ái hộ, tất cả hiền thánh coi như con
đẻ, chư thiên long thần theo hầu bảo vệ. Bồ tát Nguyệt Ái nên biết, công đức của
vị ấy cùng bồ tát Di Lặc đồng đẳng. Vì sao như vậy? Vị thiện nam tử ấy nếu có
thể phát khởi cái con người trượng phu, hằng ngày tu hành: một ngày thí thực
khiến cho ngạ qủy trong một thiên hạ đều được ăn uống; nhiều ngày thí thực khiến
cho hết thảy ngạ qủy trong sáu nẻo mười phương được no đủ cả. Vị bồ tát này có
được cái đống phước đức không thể nghĩ bàn, chẳng thể so lường, ngoài tầm hiểu
biết, tự nhiên chứng được Vô thượng bồ đề. Thiện nam tử, nếu có người ngợi
khen, đọc tụng, biên chép đà la ni này thì người ấy vượt thoát sáu mươi ức kiếp
vi tế sanh tử thế gian, huống chi tu hành như pháp, không có lúc gián đoạn. Thiện
nam tử, Như lai nay nói rõ ràng cho các ông, người trì chú sẽ đối trước đức Phật
Di Lặc mà chẳng quyết định được thọ ký Vô thượng bồ đề rằng ở trong Hiền kiếp
này thứ tự thành Phật, thì Như lai mắc phải lỗi hư dối với chúng sanh. Từ khi
thành đạo cho đến nay, Như lai giảng kinh thuyết pháp không bao giờ có lỗi lầm
như vậy. Do đó bồ tát Nguyệt Ái nên biết, các người ở thời kỳ mạt pháp sau này
nghe được thần chú này mà thâm tâm tin hiểu, thì các người đó khi chuyển thân sẽ
được địa vị Chuyển luân vương, trăm ngàn vạn kiếp thường nhận phước báu của bậc
Phạn thiên, gặp Phật xuất thế làm sự cúng dường vô lượng, tu các Phạn hạnh mà về
lâu xa đạt được bờ mé của tất cả thần thông, bằng phải thọ sanh thì được thân
thể cứng chắc như Na la diên, thọ mạng dài lâu, mang thân kim sắc, tự trang
nghiêm bằng ba mươi hai tướng đại trượng phu, được tiếng Phạn âm, có uy đức tự
tại trong cả thế gian. Thiện nam tử, ai là người có trí, thấy lợi ích như vậy
nhưng chẳng thọ trì, nên biết người này tự đánh mất lợi ích lớn.
Bấy giờ, bồ tát Nguyệt Ái nghe lời Phật dạy rồi, hoan hỷ vô lượng,
thưa với Phật rằng: Lành thay, đức Thế tôn đã cho chúng con sự lắng nghe an
tĩnh, con xin hỏi về đà la ni đại bi bí tạng, xin đức Thế tôn dạy cho chúng con
phương cách thế nào, thọ trì ra sao. Bấy giờ, đức Thế tôn mặt vui mỉm cười,
quan sát đại chúng, khen ngợi bồ tát Nguyệt Ái: Tốt lắm, đại sĩ có thể hỏi Như
lai việc này, hãy một lòng nghe nhận, Như lai sẽ vì ông mà nói.
Đức Phật dạy bồ tát Nguyệt Ái: Nếu có người trời ưa vui tiếp nhận,
thực hành pháp môn đại bi, thì người ấy nên vào tháng trăng sáng, ngày mùng tám
hay ngày rằm, tắm gội nước thơm, xoa các hương thơm, mặc y trắng sạch, ăn ba bữa
cơm trắng [8], khởi tâm bi thương, thệ nguyện đem sự an lạc cho các chúng sanh.
Khi mặt trời mọc ở phương đông, hay ban đêm lúc trăng tròn đầy, ở chỗ thanh tịnh,
hay đất có trăng soi, nên làm mạn đồ la nước thơm [9] bề dài ba khuỷu tay, dùng
bùn thơm bôi trên đất để trừ khử cát độc. Đàn tràng mở ra bốn cửa [10], nơi bốn
góc đàn để một bát sữa, lại phải đặt bốn bình nước thơm đầy tràn ở bốn cửa đàn,
trên miệng bình tùy lúc cột những hoa, thảo mộc năm màu. Phải có năm lư hương:
bốn ở bốn góc và một ở trung tâm. Nơi tòa ngồi chính giữa đặt một cái đèn đốt bằng
dầu tô, và có thêm bốn bát đựng đầy hoa, nước, gạo và cơm. Ở chính giữa đàn làm
một tòa ngồi hình hoa sen, dùng vải vóc tạp sắc bao phủ trên đài, an trí hình
Phật hay tượng Quán Thế Âm. Cửa này thì đặt tượng Diêm la, v.v…, cửa phía đông
thì bày tượng Chúa trời. Nói tóm, dùng các thứ tràng phan, bảo cái tương phản để
nghiêm sức, lại đốt hương thơm A ca lỗ [11]. Như pháp kết đàn tràng rồi, hành
giả đứng ở cửa tây, mặt hướng cửa nam. Ở trước tòa ngồi đặt một lò lửa đốt bằng
than cứng chắc, lấy sữa tươi hòa với mật ong để vào trong bát. Hành giả thỉnh
mười phương Phật và Trú Đại Địa bồ tát, Kim Cang, trời rồng, qủy thần xong, buộc
tâm không loạn, tưởng các thứ khổ não của chúng sanh trong sáu nẻo, vẫn hướng về
phía nam, tưởng thấy cảnh khổ rồi, bi cảm tột cùng, mong muốn cứu giúp. Lại tưởng
thân mình cởi đài hoa báu bay đến chỗ khổ, sửa thân xoa bóp (cho chúng sanh),
rơi lệ như mưa, muốn diệt lửa cháy, càng thêm thương xót, đau thấu xương tủy
[12]. Quán chiếu như vậy mười bốn biến xong, liền vào trong thiền định, được địa
vị người con thương nhất của Như lai. Tưởng rồi xuất quán, mặt đối phương đông,
triệu thỉnh mười phương tất cả ngạ qủy. Tụng chú Triệu thỉnh mười bốn biến
xong, lại tưởng các loài qủy biến đầy cõi Diêm phù, kế đó tụng chú Khai yết hầu
để được giải thoát, rồi chú nguyện đàn tràng: nước thơm, sữa, cơm, hương, hoa
v.v…, chú nguyện xong đặt lại chỗ cũ. Hành giả khi đó cầm một chén nhỏ sữa
tươi, tụng chú Thí thực ba biến rồi vãi vào trong lửa. Như vậy tụng đủ một ngàn
biến, khi đó chỗ đàn tràng có vô lượng trăm ngàn na do tha mười phương ngạ qủy,
tất cả tụ tập không chừa chỗ trống, hoan hỷ ăn uống. Tất cả hiện thân theo lời
pháp ngữ của hành giả. Nương theo tâm ý của hành giả, thí thực không có trái
nghịch. Hành giả liền vì ngạ qủy mà chỉ dạy lợi mừng [13] khiến được giải
thoát. Bấy giờ, từ xa chư Phật hiện tại trong các quốc độ mười phương ngợi khen
hành giả và còn xa trao thọ ký bồ đề. Tất cả bồ tát hoan hỷ thương nhớ; tất cả
trời rồng, mỗi vị cầm hương, hoa, chuỗi anh lạc, các thứ kỹ nhạc, từ xa hiến
cúng hành giả. Hành giả do sức tu hành và sức uy thần, chẳng rời tòa ngồi, liền
đắc trăm ngàn na do tha đà la ni môn, trăm ngàn câu chi tam muội môn. Thiện nam
tử, tóm yếu mà nói, người này, thân hiện tại lửa không đốt cháy, nước không nhận
chìm, độc không xâm hại, dao không tổn thương, chuyển tọa thọ thân liền đắc địa
vị Thập trụ, thành Như lai địa.
Đức Phật dạy bồ tát Nguyệt Ái: Đây gọi là Thí cam lộ vị đại đàn
tràng pháp. Nếu muốn mau chóng thể nhập các địa, tam muội môn, đà la ni môn,
v.v… và Vô thượng bồ đề, cần phải nhập đại mạn đồ la. Sự việc sẽ không thành tựu
nếu có điều tệ hại. Y pháp thực hành, như trên đã nói, chứng nghiệm tất cả vậy.
Bấy giờ, đức Thế tôn vì đại bồ tát Nguyệt Ái mà nói kệ rằng:
Đà la ni môn này
Chư Phật trước đã nói
Như lai cũng diễn nói
Vì lợi ích trời người.
Nếu có người tin ưa
Nghe trì chú như vầy
Ông nghe công đức ấy
Ta nay sẽ lược nói.
Nếu ở ngàn ức kiếp
Rộng tạo nghiệp bất thiện
Do tụng trì chú này
Bảy ngày được trong sạch.
Bồ tát ở ức kiếp
Gom chứa các phước đức
Do tụng trì chú này
Bảy ngày được thù thắng.
Nên biết các pháp Phật
Phương tiện không nghĩ bàn
Người đắc mới thể biết
Lời Phật không có hai.
Bấy giờ, đưc Thế tôn lại bảo bồ tát Nguyệt Ái: Thiện nam tử, nên
biết công đức của người trì chú, nói không cùng tận, ông nên nhớ nghĩ, như pháp
thọ trì. Vì sao vậy ? Mỗi một chỗ Như lai nói kinh, cho dù nói pháp thế gian
hay xuất thế gian, bi điền vẫn là bậc nhất. Lại nữa Nguyệt Ái, Như lai vào một
thời, vì các Tỳ kheo nói: Có một người dùng tâm thâm kính muốn hiến cúng cho
Như lai món ăn thức uống, nhưng chưa kịp hiến cúng, lại có duyên sự đem thức ăn
đó bố thí cho con chó, Như lai tán thán người ấy được phước vô lượng. Cho nên
Nguyệt Ái, hiến cơm cho một vị A la hán hay Bích chi Phật, hiện tại nhận được phước
báu có hạn lượng, chỉ được quả báo nhân thiên trong năm trăm kiếp. Khéo thí cho
ngạ qủy một nắm thức ăn, người ấy được phước đức của bồ đề phần: bồ đề thì
không có hạn lượng, nên phước thọ cũng không hạn lượng.
Ông nay lắng nghe, Như lai sẽ vì ông mà nói công năng và hiệu quả
của đà la ni này. Có người bị tội nặng, nghiệp chướng xấu ác trói buộc khó thể
đoạn trừ, nếu mỗi ngày người ấy chú nguyện trong cháo sữa để thí cho ngạ qủy,
làm đủ bảy ngày, thì tất cả tội chướng đều được tiêu diệt không sót. Lại còn một
cách, nếu có người bị bịnh rất nặng và những bịnh qủy ám, nên làm ba chén cháo
bột, chú nguyện bảy biến, ở nơi đồng rộng thí cho các ngạ qủy, làm như vậy
trong mười bốn ngày thì những bịnh thống khổ liền được lành hẳn. Lại nữa, nếu
trong quốc độ mà có ác nghiệp, độc chất lưu hành, dân chúng bịnh dịch, cầm thú
chết ngang trái, chết non, thì nên làm lò lửa, lấy hột Tát lợi sát ba (bạch giới
tử) hòa trộn với váng sữa, mật ong v.v… , kêu tên các loài qủy như Hoa lợi đa,
v.v…, sau đó lấy một nắm hỗn hợp, chú nguyện, ném vào lò lửa. Mỗi ngày còn phải
tụng một trăm lẻ tám biến đà la ni, làm như vậy trong bảy ngày rồi thì ác qủy
hoan hỷ, độc chất được thu nhiếp, bịnh dịch được trừ diệt. Lại nữa, nếu có người
gặp cảnh ngang trái, điều tiếng miệng lưỡi, thì nên lấy nước mật ong, chú nguyện
bảy biến, rảy rưới bốn phương, tất cả điều tiếng miệng lưỡi tự nhiên dứt sạch.
Lại nữa, nếu biết kẻ oan gia với tâm báo thù, muốn mưu hại mình, nên vào buổi
sáng sớm vì các loài qủy mà dọn các món ẩm thực ngon, xưng tên kẻ oan gia, thì
các ngạ qủy bèn khiến kẻ ấy trước đó gặp phải suy yếu, tai họa. Lại còn một
cách, khi gặp những năm đói kém, nên chú nguyện trong ngũ cốc, sữa tươi, v.v… một
trăm lẻ tám biến, ném để vào trong ao hồ, thì tức khắc đất nước được mùa, dân
chúng yên vui. Lại còn một cách, nếu muốn có vị Tất để lợi ma da [14] (để sai
khiến), thì lấy váng sữa, sữa tươi, v.v…, mặt hướng phương đông, chú tụng một
ngàn biến, thí thực cho các ngạ qủy, kêu tên qủy Xá đề đà, qủy Lam bà, v.v… thì
các vị qủy kia sẽ đến ngay tức khắc, và khi muốn họ lui đi thì cũng hô tên thì
họ liền lui đi. Lại còn một cách, nếu có người muốn có được các thứ tài bảo,
nên dọn bày đồ ăn như trên, chú nguyện đủ mười ngàn biến, kêu tên các loài qủy
và nói lời cầu xin, thì vàng bạc, bảy báu rơi xuống thí cho hành giả. Lại còn một
cách, lấy sài hồ [15], gạo nếp, váng sữa, mật ong, v.v…, bốc một nắm hỗn hợp,
chú nguyện vào đó một biến, rồi ném vào lò lửa, làm đủ một ngàn lẻ tám mươi biến,
nhất định được tài vật lớn, tất cả mong cầu đều được như ý. Lại còn một cách, nếu
muốn đầy đủ hạnh bố thí, hành giả mỗi ngày thí cho ngạ qủy ẩm thực, làm đủ một
trăm ngày, liền được đầy đủ hạnh bố thí. Lại có một cách, nếu người cầu thọ mạng
kéo dài, tác pháp như trên, đủ một trăm ngày, liền được sống lâu. Lại có một cách,
nếu người muốn hiện tại hình sắc đẹp ra, sức khỏe dồi dào, người khác có cái
nhìn mỹ cảm, hoan hỷ với mình, thì nên thí cho ngạ qủy mãn đủ một trăm ngày, ắt
được như ý.
Như vậy lược nói, hết thảy sự cầu, các thứ suy hoạn, đối trị mống
ý, đều được tất cả. Những gì Như lai lược nói ra đây chỉ là chút ít. Bấy giờ, đức
Thế tôn lại bảo đại bồ tát Nguyệt Ái rằng: Đà la ni kinh này không thể nghĩ
bàn, hoặc một kiếp tăng, hoặc một kiếp giảm, nói cũng không cùng công đức chú ấy.
Ở đời tương lai có người trì tụng đà la ni kinh, nên biết người ấy bèn đã gom
góp hai mươi thứ loại phước đức lớn lao: Một là hiện tại không bị đói khát, tật
bịnh, nghèo khốn, suy họa phiền nhiễu thân tâm; hai là những gì ăn uống, không
ngon cũng thành thượng vị; ba là nếu có đi vào đồng trống, trùng độc hòa chung
dược thảo, trọn chẳng bị thương; bốn là qủy thần, la sát, tinh mị, vọng lượng
coi xem người ấy như là đức Phật; năm là chư Phật, bồ tát, thiên tiên, long thần
hộ vệ người ấy như giữ gìn tròng mắt; sáu là nếu có bịnh dịch, do nghiệp hay
không rõ ràng nguyên do, thì bịnh dịch ấy không lây vào thân; bảy là thọ mạng
tăng trưởng, nằm ngủ yên ổn, gặp việc cát tường; tám là đi đường hiểm trở, đồng
hoang, thiếu thốn cỏ nước, tự nhiên hợp ý; chín là tướng mạo vui vẻ, da dẻ tươi
sáng, không có sắc xấu; mười là người ấy thường gặp bạn lành, cho đến bồ tát
hóa hiện làm bạn lữ; mười một là ở đời vị lai thường sanh vào nhà giai cấp Sát
đế lợi và vua chúa; mười hai là đầy đủ sắc đẹp, sức khỏe, thọ mạng, an vui, biện
tài; mười ba là thường được hóa sanh trước chư Phật, bồ tát; mười bốn là chỗ ở
người ấy đang sống, kho tàng ẩn náu tự hiện; mười lăm là người ấy luôn được người
khác cung kính tiếp đãi; mười sáu là tài bảo của người ấy không ai có thể đoạt
mất; mười bảy là mong cầu sở nguyện của người ấy đều được toại lòng; mười tám
là người ấy không sanh vào thời kiếp nạn đói kém; mười chín là thường sanh cõi
trời, hưởng vui tôn thắng; hai mươi là thường dùng pháp hỷ thiền duyệt, không
có đói khát. Đó là hai mươi thứ phước đức lớn lao.
Thiện nam tử, đà la ni này có uy đức tự tại: Nếu thấy người đang
đói khát, mặt hướng về người đó mà tụng đà la ni này thì người đó liền được no
đủ. Chú nguyện vào cây khô còn được xanh tươi, huống là loài hữu tình sao không
được phước. Vì sự tối thắng của đà la ni này nên Như lai ân cần ba phen giảng
nói, nay giao phó cho ông, ông phải nhớ giữ, vì chúng sanh giảng nói, chớ cho
quên mất. Bấy giờ, bồ tát Nguyệt Ái từ Phật được nghe pháp phương tiện này,
hoan hỷ hào hứng, liền lấy ngọc ma ni Tỳ lăng già, chuỗi anh lạc và các hương
hoa mà rải lên đức Phật, ở trước Phật dùng kệ tán thán:
Đại bi quán thế âm
Ca lăng tần già âm
Dùng các lời nói hay
Khai thị pháp cam lộ.
Vì muốn phá phục hết
Những núi nghiệp rộng lớn
Bằng cửa phương tiện này
Ân cần giao phó con.
Con theo lời Phật dạy
Cố gắng rộng lưu bố
Chỉ xin sanh trong pháp
Mau thể hội pháp thân. [16]
Đức Phật nói kinh này xong, tất cả hàng đại bồ tát, Kim cang lực
sĩ, Thích đề hoàn nhân, Phạn vương, Tứ thiên vương, các chúng trời rồng, qủy thần,
nghe đức Phật tán thán, giảng thuyết Đà la ni pháp thân na tất lợi đa cam lộ vị
này, thảy đều hoan hỷ, vâng theo lời dạy để tu hành.
Kinh Thí Ngạ Quỷ Cam Lộ Vị Đà La Ni Thần Chú
Nam mô bộ bổ lợi, đát tha yết đa da, án tát bà tích rị đa yết la
da, a già xoa, sa ha.
Đây là khế ấn của đà la ni: Đứng thẳng, hai bàn chân làm thành
chữ thập [17], trước dùng tay trái ngữa ra, rũ xuống đầu gối, làm tướng thí vô
úy, kế đến bàn tay phải, ngón cái gập vào lòng bàn tay, bốn ngón nắm lại, đưa đụng
vòng ngọc đeo nơi tai phải [18], dùng phần không có đầu ngón để đong đưa qua lại,liền
tụng diệu ngôn ba biến. Lúc đó, hành giả quán tưởng tất cả ngạ qủy, ba mươi sáu
bộ qủy thần đều vân tập, chắp tay chiêm ngưỡng hành giả. (Công đức của) diệu
ngôn đà la ni này là: Nếu có thiện nam tử, nữ nhân, đồng nam, đồng nữ thọ trì,
tán tụng đà la ni này thì hiện đời được mười thứ phước đức. Những gì là mười ?
Một là thuốc độc không thể trúng; hai là rắn độc không dám cắn; ba là dao gậy
không thể hại; bốn là vua quan không dám sân; năm là mọi người đều yêu kính;
sáu là trời rồng thường ủng hộ; bảy là y thực đều sung túc; tám là dung mạo
đoan chánh; chin là rời xa những sợ hãi; mười là không thọ thân ba đường.
Án bộ bổ rị, già đát rị, đát tha yết đa da.
Đây là khế ấn của đà la ni: Căn cứ theo ấn tướng mời gọi cùng
cách đứng như trên, rồi chắp tay mười ngón, đầu ngón chạm nhau, khoảng giữa các
ngón xa ra một tấc, phần cổ tay mở ra đặt ngang trái tim. Đây gọi là Đại bi tâm
luân đà la ni pháp. Khi kết khế ấn này, tụng niệm diệu ngôn bảy biến. Lúc đó,
quán tưởng trên khế ấn có một viên bảo châu ma ni bằng thủy tinh, phóng ánh
sáng thủy tinh, chiếu chạm các loài qủy, tất cả lửa dữ thảy đều tiêu mất. Ánh
sáng thủy tinh này vào trong miệng qủy thì cổ họng của chư qủy đều được thông
suốt, lìa các khổ não.
Nam mô tố lỗ ba duệ, đát tha yết đa da, đát điệt tha, tô lỗ, tô
lỗ, ba la tô lỗ, sa bà ha.
Đây là khế ấn của đà la ni: Ngồi bán già như cách ngồi của Chuyển
luân vương, trước dùng bàn tay phải làm dáng như nâng cần cổ (em bé), cách cần
cổ chừng một tấc, cùi trỏ đặt trên đùi phải, kế đến ngữa nghiêng bàn tay trái
[19] duỗi năm ngón rũ trên đùi phải, làm dáng cho bú sữa. Khi làm thủ ấn này, tụng
niệm diệu ngôn bảy biến, quán tưởng tay trái năm ngón chảy ra dòng sữa màu trắng,
màu như bạch ngân, chảy mãi không dứt. Các loài qủy há miệng hứng sữa, đều được
no đủ. Thiện nam tử, người làm khế ấn này, hiện đời được mười sáu thứ công đức.
Những gì là mười sáu ? Một là thọ mạng dài lâu; hai là nhan sắc đẹp đẻ; ba là
khí lực sung mãn; bốn là tâm thường hoan lạc; năm là biện tài không ngưng; sáu
là luôn không tưởng đói; bảy là trong miệng thơm tho; tám là người đều kính ngưỡng;
chín là thiên thần thị vệ; mười là qủy Tỳ xá na hiện hình cung cấp; mười một là
thân không bịnh hoạn; mười hai là oai đức như vua; mười ba là ác nhân, ác qủy
thấy đều hoan hỷ; mười bốn là được phước thiên luân vương; mười lăm là mộng thấy
chư bồ tát, la hán; mười sáu là nơi chốn sanh ra, thế giới chấn động.
Chú
thích:
[1]
Đời Đường gọi là Thí ngạ qủy cam lộ vị đại đạo tràng hội đà la ni. Thân na = bố
thí. Tất lợi đa = ngạ qủy. Ma đà la = cam lộ vị. Ban giá (vu sắt) hội = vô giá
hội: pháp hội thực hành tài thí và pháp thí một cách bình đẳng, không phân biệt
hiền thánh, tăng tục, sang hèn, trên dưới.
[2]
Qủy Bệ lệ đa = qủy đói, qủy Xa da = qủy hình ảnh, qủy Kiện đà = qủy ăn hương, qủy
Bố sắc ba = qủy đói ăn hoa, qủy Kệ bà da = qủy ăn bào thai, qủy A thâu giá = qủy
ăn bất tịnh, qủy Bà đa = qủy ăn gió, qủy Ô đà ha la = qủy ăn tinh khí, qủy Đà
la chất đa = qủy tâm sân, qủy Chất đa = qủy tâm ác, qủy Bà lỗ da = qủy ăn đồ tế
tự, qủy Thị vĩ đa = qủy ăn thọ mạng của người, qủy Khởi sa kê đà = qủy ăn thịt
mỡ, qủy Xà để = qủy ăn trẻ sơ sinh, qủy Yết tra bố đơn na = qủy thân có mùi hôi
xương cháy, qủy Cưu bàn trà = qủy giữ cung điện, qủy Tất xá giá = qủy thần giữ
nhà xí, ăn đồ bất tịnh.
[3]
Chỉ cho thân lượng cực dài lớn là một do tuần, cỡ nhỏ nhất bằng đứa bé biết
nói.
[4]
Ý nói cái đầu có thể lớn như ngọn núi. Thế giới này lấy núi Tu di (sumeru) làm
trung tâm, chung quanh núi Tu di có 7 vòng núi vàng, vòng ngoài cùng là núi Di
lâu.
[5]
Ma già đà (Magadha) tân dịch là Ma kiệt đà, cựu dịch là Ma già đà, là tên một
nước ở miền trung Ấn Độ.
[6]
Bạch lạp: hợp kim chì và thiếc.
[7]
Chết ngang trái: hoạnh tử. Kinh Dược Sư kể ra có 9 thứ hoạnh tử.
[8]
Tam bạch thực: Ba bữa trắng, là ăn thức ăn làm bằng sữa, gạo, lúa mạch.
[9]
Hương thủy mạn đồ la: Còn gọi là Đàn địa.
[10]
Ban ngày thì dựng đàn bốn hướng, ban đêm thì dựng đàn hình trăng tròn.
[11]
A ca lỗ hương: Trầm thủy hương.
[12]
Hành giả nếu tâm chưa tương ưng thì quán tưởng các ngạ qủy như cha mẹ, vợ con,
những người mà mình thương yêu.
[13]
Chỉ dạy lợi mừng: Chánh văn là thị giáo lợi hỷ. Đây là lối thuyết pháp của Phật
và bồ tát, theo đó thị là trình bày cho người nghe rõ thiện ác, tốt xấu; giáo
là thuyết phục người nghe bỏ ác làm lành, rời xấu theo tốt; lợi là chỉ ra sự lợi
ích của việc thực hành ấy; hỷ là tán thưởng sự thực hành ấy cho người nghe vui
mừng.
[14]
Tất để lợi ma da: Tất để lợi = tất điệt rị: con gái, đàn bà. Ma da = ma la
(Màra): ác qủy cướp đoạt nhân mạng, gây nhiễu loạn, phá hoại thiện sự của loài
người. Đây là tên nữ qủy hộ trì cho người trì chú.
[15]
Sài hồ: Thảo dược sống lâu năm, mùa hạ nở hoa nhỏ màu vàng.
[16]
Chánh văn là Thảo phục dĩ vi Lô, nghĩa là Cỏ rồi sẽ làm Lô. Tạm hiểu, cỏ chỉ
cho chúng sanh căn tánh nhỏ bé, Lô là Tỳ lô giá na, chỉ cho pháp thân Phật.
[17]
Hai bàn chân thẳng góc với nhau.
[18]
Tay phải cong đụng dái tai phải.
[19]
Chánh văn là bàn tay phải, đùi phải, ngờ rằng là bàn tay trái, đùi phải, vì tay
phải đã làm dáng nâng cần cổ. Đây là Thí nhũ mẫu thủ ấn.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt
Ngộ, hiệu Nạp Đường
|
Nhứt cú Di Ðà Nhứt Ðại Tạng Kinh Tung hoành giao thái Tuyệt đãi u linh.
|
Một câu A Di Ðà Là một Ðại Tạng Kinh Dọc, ngang giao chói sáng Tuyệt đối, thể u linh.
|
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm
bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
MA HA TẤT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
ĐÀ RA NI CHÚ
ĐÁC ĐIỆC THA.
ÁN, A NA LỆ, TỲ XÁ ĐỀ, BỆ RA, BẠT XÀ-RA, ĐÀ RỊ, BÀN ĐÀ BÀN ĐÀ NỂ, BẠT XÀ-RA BÁN NI PHẤN. HỔ HỒNG ĐÔ LÔ UNG PHẤN, TA BÀ-HA.
PHẬT ĐẢNH
QUANG TỤ
MA HA TẤT
ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG
NGHIÊM THẦN CHÚ
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ là trên ĐẢNH PHẬT phóng ra 10 đạo hòa QUANG bách bảo và TỤ lại trên ĐẢNH CHÚNG SANH trong Pháp Giới, khi tụng Thần Chú Thủ-Lăng Nghiêm.
Đây là Hóa Thân Phật dùng THẦN CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM để “ẤN TÂM” cho Qúy-vị sẽ thành Phật trong vị lai.
ĐẠI (Lớn) là “THỂ” của Chú Lăng Nghiêm, không đối đãi phân biệt, biến khắp tận cùng hư không pháp giới, nên gọi là MA HA.
BẠCH (Trắng) là “TƯỚNG” của Chú Lăng-Nghiêm, thanh tịnh không ô nhiễm, nên gọi là TẤT ĐÁT ĐA.
TÁN CÁI (Tàng Lọng) là “DỤNG” của Chú Lăng Nghiêm, có khả năng che chở, bảo hộ, TRUỞNG DƯỠNG THIỆN CĂN, TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG TRONG VÔ LƯỢNG KIẾP, KHÔNG TRẢI QUA 3 A TĂNG KỲ, MÀ QÚY VỊ CŨNG CHỨNG ĐƯỢC PHÁP THÂN, nên gọi là BÁT ĐÁT RA.
CỨU CÁNH KIÊN CỐ là THỦ LĂNG NGHIÊM ĐẠI ĐỊNH, định này là VUA trong các định.
THẦN là thần diệu linh thông, khó mà suy lường được.
CHÚ là khi qúy vị TỤNG , thì có công năng PHÁ TÀ LẬP CHÁNH, tiêu trừ nghiệp ác, phát sanh phước đức căn lành.
TRÊN ĐẢNH CỦA PHẬT TỲ LÔ GIÁ NA (PHẬT PHÁP THÂN) LƯU LỘ RA NGŨ TRÍ. CHO NÊN, GỌI LÀ “NGŨ TRÍ” ĐẢNH CỦA TỲ LÔ GIÁ NA.
NGŨ TRÍ
NGŨ TRÍ là năm loại trí được trình bày theo Mật giáo. Năm trí này miêu tả tất cả những khía cạnh của Tuyệt đối, của Chân như mà con người có thể thực hiện được khi đã chuyển hoá thân tâm. Thân tâm gọi cụ thể ở đây là Ngũ uẩn, năm nhóm với năm cấu uế, phiền não phụ thuộc là tham dục, sân, Si, hoặc vô minh, mạn và ganh ghét. Năm trí bao gồm:
1) PHÁP GIỚI TRÍ
2) ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ
3) BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ
4) DIỆU QUÁN SÁT TRÍ
5) THÀNH SỞ TÁC TRÍ
1. PHÁP GIỚI TRÍ là trí siêu việt của Pháp giới, trí tột cùng. Căn cơ của trí này là Sắc uẩn cùng với Vô minh, và thuộc về Thân trong ba động cơ tạo nghiệp là Thân, khẩu, ý. Trong Mạn-đà-la thì Pháp giới trí thuộc về Đại Nhật Phật, nằm ở trung tâm.
多他伽跢俱囉耶
TATHĀGATA KULĀYA
Đức Phật Tỳ Lô Giá Na
2. ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ là trí như một tấm gương lớn, trí giúp người nhìn vạn vật với một tâm thức Vô ngã, không muốn chiếm đoạt, phân biệt đúng sai, chấp nhận vạn vật với mỗi sắc thể riêng của nó. Trí này được ví như một tấm gương vì một hạt bụi nó cũng không bỏ qua nhưng nếu hạt bụi này bay đi, gương không lưu lại dấu vết gì. Nguồn gốc của trí này là Thức uẩn cùng với tâm trạng sân hận, thuộc về ý trong ba cửa tạo nghiệp. Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc về Phật Bất Động, nằm ở phương Đông.
南無跋闍囉俱囉耶
NAMO VAJRA KULĀYA
Đức Phật Dược Sư
3. BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ là trí giúp con người thấy rõ sự bình đẳng giữa mình và chúng sinh. Tinh thần Từ bi của đạo Phật cũng xuất phát từ trí này chứ không phải xuất phát từ ý nghĩ "tội nghiệp, đáng thương" – cách nhìn của một người "trên cơ" nhìn xuống. Người Phật tử phát triển Bồ-đề tâm, phát triển lòng từ bi vì đã nhận ra chính mình trong tất cả hoàn cảnh, tất cả chúng sinh. Nguồn gốc của trí này là Thụ uẩn cùng với tâm trạng Kiêu mạn. Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc về Phật Bảo Sanh, vị trí ở phương Nam.
南無摩尼俱囉耶
NAMO MANI KULĀYA
Đức Phật Bảo Sanh
4. DIỆU QUÁN SÁT TRÍ là trí giúp người ta biến chuyển khả năng phân biệt, thị phi bằng trí thức bình thường thành trí huệ Bát-nhã, tuỳ cơ ứng biến, làm việc đúng thời điểm và địa điểm, không cần "dụng công." Nguồn gốc của trí này là Tưởng uẩn cùng với tâm trạng Tham dục. Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc về Phật A-di-đà, giáo chủ phương Tây.
51. NAM-MÔ BÁT ĐẦU MA CU NA DA
南無般頭摩俱囉耶
NAMO PADMA KULĀYA
5. THÀNH SỞ TÁC TRÍ là trí giúp người hoàn thành tất cả mọi việc mà không tạo Nghiệp, đó là hành động Vô vi, xuất phát từ một tâm đã chứng ngộ được Vô ngã của chính bản thân và các Pháp Hữu vi. Nguồn gốc của trí này là Hành uẩn cùng với tâm trạng ganh ghét. Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc về Phật Bất Không Thành Tựu, giáo chủ phương Bắc.
373. TẦN ĐÀ RA TẦN ĐÀ RA
頻陀囉頻陀囉
VIDARA VIDARA
Đức Phật Bất Không Thành Tựu
Cách trình bày như trên thuộc về truyền thống của Kim cương thừa Tây Tạng.
Comments
Post a Comment